TÒA THÁNH TÂY NINH
TÂN LUẬT
HỘI THÁNH GIỮ BẢN QUYỀN
Ấn Bản Năm Nhâm Tý (1972)
Nhà in, Trung Tâm Giáo Hóa
Thiếu Nhi Thủ Ðức.
TIỂU TỰ
Phàm con người phải biết có
chi trên đầu. Cái không trung trên đầu ta đó là Trời. Ðấng cầm quyền trên ấy là
Ðấng Tạo Hóa, là Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Chúa Tể cả Càn Khôn Thế Giái.
Nay Ðấng Tạo Hóa lấy danh lập Ðạo là Cao Ðài Tiên
Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát, dùng huyền diệu Tiên Gia đến dựng nơi nước Nam ta,
một nền chơn Ðạo rất cao thượng mà độ rỗi nhơn sanh khỏi luân hồi, gọi là Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Ðức Thựơng Ðế vì thương yêu nhơn loại đến độ rỗi
chúng ta, lại gọi mình là Thầy, kêu chúng ta là Môn Ðệ.
Vậy nên chúng ta phải hết lòng kính mến và sùng bái
Ðấng Tạo Hóa và hết dạ tín ngưỡng cái Ðạo rất huyền vi mầu nhiệm của Ðấng Chí
Tôn.
Cái tông chỉ của Ðại Ðạo là gồm cả ba Ðạo chánh là:
Nho, Thích, Ðạo chuyển cả ba Ðạo ấy mà hiệp lại làm một. Nên chi chúng ta tu
Ðại Ðạo thì phải noi theo tông chỉ của Tam Giáo, mà tập rèn tâm tánh, là phải
nắm trọn Tam Cang, Ngũ Thường, vẹn giữ Tam Qui, Ngũ Giái và cần luyện Tam Bửu,
Ngũ Hành.
Người mà gồm được hết cả ba thì là gần Thần, Thánh,
Tiên, Phật vậy.
ÐẠO
PHÁP
CHƯƠNG I: VỀ CHỨC SẮC CAI TRỊ
TRONG ÐẠO
Ðiều Thứ Nhứt: Phẩm GIÁO TÔNG
và quyền hạn.
Ðiều Thứ Nhì: Phẩm CHƯỞNG PHÁP
và quyền hạn.
Ðiều Thứ Ba: Phẩm ÐẦU SƯ và
quyền hạn.
Ðiều Thứ Tư: Phẩm PHỐI SƯ và
quyền hạn.
Ðiều Thứ Năm: Phẩm GIÁO SƯ và
quyền hạn.
Ðiều Thứ Sáu: Phẩm GIÁO HỮU và
quyền hạn.
Ðiều Thứ Bảy: Phẩm LỄ SANH và
quyền hạn.
Ðiều Thứ Tám: Luật công cử.
CHƯƠNG
II: VỀ NGƯỜI GIỮ ÐẠO
Ðiều Thứ Chín: Ðiều lệ nhập
môn.
Ðiều Thứ Mười: Ðiều kiện cho
người mới vào Ðạo.
Ðiều Thứ Mười Một: Lễ cúng
khai đàn cho ngưòi mới vào Ðạo.
Ðiều Thứ Mười Hai: Thứ bực của
hàng Tín Ðồ.
Ðiều Thứ Mười Ba: Ðiều kiện
được thọ truyền Bửu Pháp.
Ðiều Thứ Mười Bốn: Ðiều kiện
để trở thành Chức Sắc.
Ðiều Thứ Mười Lăm: Qui định
của Tín Ðồ bực thượng thừa.
CHƯƠNG
III: VỀ VIỆC LẬP HỌ
Ðiều Thứ Mười Sáu: Lập Họ và
Thánh Thất.
Ðiều Thứ Mười Bảy: Thẩm quyền
cho phép lập Họ.
Ðiều Thứ Mười Tám: Bổn phận
của Tín Ðồ trong họ Ðạo.
Ðiều Thứ Mười Chín: Bổn phận
của Tín Ðồ trong những ngày Sóc Vọng.
Ðiều Thứ Hai Mươi: Cúng Tứ
Thời tại Thánh Thất.
CHƯƠNG
IV: VỀ NGŨ GIỚI CẤM
Ðiều Thứ Hai Mươi Mốt:
Nhứt Bất Sát Sanh
Nhì Bất Du Ðạo
Tam Bất Tà Dâm
Tứ Bất Tửu Nhục
Ngũ Bất Vọng Ngữ
CHƯƠNG
V: VỀ TỨ ÐẠI ÐIỀU QUI
Ðiều Thứ Hai Mươi Hai:
Phải tuân lời dạy của bề trên,
chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ
Chớ khoe tài, đừng cao ngạo,
quên mình mà làm nên cho người
Bạc tiền xuất nhập phân minh,
đừng mượn vay không trả
Trước mặt sau lưng, cũng đồng
một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau
CHƯƠNG VI: VỀ GIÁO HUẤN
Ðiều Thứ Hai Mươi Ba: Lập Học
Ðường.
Ðiều Thứ Hai Mươi Bốn: Nội qui
chương trình giảng dạy.
Ðiều Thứ Hai Mươi Lăm: Sở dụng
của giấy tốt nghiệp.
CHƯƠNG VII: VỀ HÌNH PHẠT
Ðiều Thứ Hai Mươi Sáu: Phân xử
Tín Ðồ phạm tội nhẹ.
Ðiều Thứ Hai Mươi Bảy: Phân xử
Tín Ðồ phạm tội trọng hay tái phạm. Tổ chức và quyền hạn của Hội Công Ðồng.
Ðiều Thứ Hai Mươi Tám: Phân
giải Tín Ðồ trong họ Ðạo.
Ðiều Thứ Hai Mươi Chín: Phân
xử Chức Sắc phạm pháp.
Ðiều Thứ Ba Mươi: Tổ chức của
Tòa Tam Giáo.
Ðiều Thứ Ba Mươi Mốt: Quyền
hạn của Tòa Tam Giáo.
CHƯƠNG VIII: VỀ VIỆC BAN HÀNH
LUẬT PHÁP
Ðiều Thứ Ba Mươi Hai: Ban hành
và triển hạn áp dụng Tân Luật.
Ðể tiện việc tham khảo chúng
tôi thêm vào phần trên đây. Nguyên bản của Hội Thánh không có.
ÐẠO
PHÁP
CHƯƠNG
I:
VỀ
CHỨC SẮC CAI TRỊ TRONG ĐẠO
Ðiều Thứ Nhứt:
Trên hết có một phẩm GIÁO TÔNG
là anh cả có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt cả tín đồ trong đường Ðạo và
đường Ðời. Ðức Giáo Tông có quyền về phần xác, chớ không có quyền về phần hồn.
Ðức Giáo Tông đặng phép thông
công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giái mà cầu rỗi cho cả tín
đồ.
Chư tín đồ phải tuân mạng lịnh
phẩm ấy.
Ðiều Thứ Nhì:
Kế đó có ba vị CHƯỞNG PHÁP của
ba phái là Nho, Thích, Ðạo.
Ba vị ấy có quyền xem xét luật
lệ trước buổi thi hành, hoặc của Giáo Tông truyền xuống, hoặc của Ðầu Sư dâng
lên. Như hai đàng chẳng thuận thì phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài
cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại.
Ba vị ấy có quyền xem xét Kinh
Ðiển trước khi phổ thông; như có Kinh Luật chi làm cho bại phong hóa thì ba vị
ấy phải truất bỏ chẳng cho xuất bản.
Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng.
Ba ấn phải có đủ trên mỗi Luật mới đặng thi hành.
Chưởng Pháp phải can gián sửa
lỗi của Giáo Tông; nếu cả ba thấy lẽ vô đạo của Giáo Tông, có quyền đem đơn
kiện nơi Tòa Thánh.
Ðiều Thứ Ba:
Ba vị ÐẦU SƯ của ba phái có
quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của tín đồ.
Ba vị ấy đặng quyền lập luật,
song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn. Ba vị ấy phải tuân mạng lịnh Giáo
Tông truyền dạy. Như khoản Luật Lệ nào nghịch với sự sinh hoạt của nhơn sanh
thì ba vị ấy được nài xin hủy bỏ.
Như Luật Lệ nào Giáo Tông đã
truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng thì Luật Lệ ấy phải trả lại cho
Giáo Tông; Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại.
Ba vị có ấn riêng nhau; mỗi tờ
giấy chi chi phải có đủ ba ấn mới thi hành.
Ðiều Thứ Tư:
Ba mươi sáu vị PHỐI SƯ, chia
ra mỗi phái là 12 vị. Trong ấy có ba vị CHÁNH PHỐI SƯ.
Ba vị ấy đặng thế quyền cho
Ðầu Sư mà hành sự song chẳng quyền cầu phá luật lệ.
Ðiều Thứ Năm:
GIÁO SƯ có 72 người, trong mỗi
phái có 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư tín đồ trong đường Ðạo và
đường Ðời.
Buộc Giáo Sư lo lắng cho chư
tín đồ như anh ruột lo cho em.
Giáo Sư cầm sổ bộ của cả tín
đồ, phải chăm nom về sự tang hôn của mỗi người.
Như tại châu thành lớn, Giáo
Sư được quyền cai quản và cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và Phối Sư.
Giáo Sư đặng quyền dâng sớ cầu
nài về Luật Lệ làm hại nhơn sanh hay là cầu chế giảm Luật Lệ ấy.
Giáo Sư phải thân cận với tín
đồ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ.
Ðiều Thứ Sáu:
GIÁO HỮU là người để phổ thông
chơn đạo của Thầy, đặng quyền xin chế giảm Luật Lệ đạo, đặng phép hành lễ khi
làm chủ mấy cái chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Có 3.000 Giáo Hữu, mỗi phái 1.000, chẳng
nên tăng thêm hay là giảm bớt.
Ðiều Thứ Bảy:
LỄ SANH là người có hạnh, lựa
chọn trong chư tín đồ mà hành lễ.
Lễ Sanh đặng quyền đi khai đàn
cho mỗi tín đồ.
Phải vào hàng Lễ Sanh rồi mới
mong bước qua hàng Chức Sắc.
Luật lệ lập Hội Thánh này vì
chiếu theo Thánh Ngôn mà đem ra.
Ðiều Thứ Tám:
Ðầu Sư muốn lên Chưởng Pháp
thì nhờ ba vị công cử nhau.
Phối Sư muốn lên Ðầu Sư thì
nhờ 36 vị công cử lên.
Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì
nhờ 72 vị công cử nhau.
Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì
nhờ 3.000 vị xúm nhau công cử.
Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu thì
nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
Ngôi Giáo Tông thì hai phẩm
Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu toàn tín đồ công cử mới đặng.
Kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng
mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Luật lệ lập Hội Thánh này vì
chiếu theo Thánh Ngôn mà đem ra.
CHƯƠNG
II:
VỀ
NGƯỜI GIỮ ĐẠO
Ðiều Thứ Chín:
Muốn xin nhập môn phải có hai
người đạo đức tiến dẫn đến người làm đầu trong Họ. Hai người tiến dẫn phải lo
lắng chỉ biểu và dìu dắt người mới cho hiểu biết đạo lý.
Ðiều Thứ Mười:
Mỗi Thánh Thất từ đây phải lập
minh thệ. Còn ai mới vô Ðạo, nội ngày đem tên vào sổ phải ra đứng giữa đại điện
thề liền.
Buộc phải thuộc Kinh và thông
hiểu Luật Pháp của Ðại Ðạo truyền ra.
Ðiều Thứ Mười Một:
Người làm đầu trong Họ hay là
Chức Sắc thay mặt cho mình phải đến làm lễ cúng khai đàn trấn thần an vị cho
người mới vào Ðạo.
Ðiều Thứ Mười Hai:
Nhập môn rồi gọi là tín đồ.
Trong hàng tín đồ có hai bực:
Một bực còn ở thế, có vợ chồng
làm ăn như người thường, song buộc phải giữ trai kỳ họăc 6 họăc 10 ngày trong
tháng, phải giữ Ngũ Giái Cấm và phải tuân theo Thế Luật của Ðại Ðạo truyền bá.
Bực này gọi là người giữ Ðạo mà thôi; vào phẩm hạ thừa.
Một bực đã giữ trường trai,
giái sát và tứ đại điều qui, gọi là vào phẩm thượng thừa.
Ðiều Thứ Mười Ba:
Trong hàng hạ thừa, ai giữ
trai kỳ từ mười ngày sắp lên, được thọ truyền bửu pháp, vào tịnh thất có người
chỉ luyện Ðạo.
Ðiều Thứ Mười Bốn:
Chức Sắc cai trị trong đạo từ
bực Giáo Hữu sắp lên, phải chọn trong bực người thượng thừa mà thôi.
Ðiều Thứ Mười Lăm:
Bực thượng thừa theo Ðại Ðạo
buộc phải để râu, tóc. Ăn mặc thường. Phải dùng toàn đồ vải trắng, hoặc màu
theo phái mình, song phải tùy tiện chẳng nên xa xí.
CHƯƠNG
III:
VỀ
VIỆC LẬP HỌ
Ðiều Thứ Mười Sáu:
Nơi nào có đông tín đồ được
chừng 500 người sấp lên, thì được lập riêng một Họ đặt riêng một Thánh Thất, có
một Chức Sắc làm đầu cai trị.
Ðiều Thứ Mười Bảy:
Sự lập Họ phải có phép Ðức
Giáo Tông và phải do nơi quyền người.
Ðiều Thứ Mười Tám:
Bổn đạo trong Họ phải tuân
mạng lịnh của Chức Sắc làm đầu trong Họ, nhứt nhứt phải do nơi người, chẳng
đặng tự chuyên mà trái Ðạo.
Ðiều Thứ Mười Chín:
Một tháng hai ngày Sóc Vọng,
bổn đạo phải tựu lại Thánh Thất sở tại mà làm lễ và nghe dạy. Trừ ra ai có việc
được chế.
Ðiều Thứ Hai Mươi:
Chức Sắc giữ Thánh Thất mỗi
ngày phải làm tiểu lễ bốn lần theo Tứ Thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Mỗi Thời phải
cúng đúng 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ tối và 12 giờ khuya.
Ðổ một hồi chuông trước khi
hành lễ. Trong mấy Thời này, bổn đạo muốn đến tụng kinh tùy ý.
CHƯƠNG
IV:
VỀ
NGŨ GIỚI CẤM
Ðiều Thứ Hai Mươi Mốt:
Hễ nhập môn rồi phải trau giồi
giữ tánh hạnh, cần giữ Ngũ Giới Cấm là:
Nhứt Bất Sát Sanh, là chẳng
nên sát hại sanh vật.
Nhì Bất Du Ðạo, là cấm trộm
cướp; lấy ngang, lường gạt của người, hoặc mượn vay không trả, hoặc chứa đồ
gian, hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy để ý hại cho người,
mà lợi cho mình, cờ bạc gian lận.
Tam Bất Tà Dâm, là cấm lấy vợ
người, thả theo đàn điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc thấy sắc
dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt (vợ chồng không gọi tà dâm).
Tứ Bất Tửu Nhục, là cấm say mê
rượu thịt, ăn uống quá độ, rối loạn tâm thần, làm cho náo động xóm làng, hoặc
miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị.
Ngũ Bất Vọng Ngữ, là cấm xảo
trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải,
chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục
người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng, thô tục, chưởi rủa người,
hủy báng Tôn Giáo, nói ra không giữ lời hứa.
CHƯƠNG
V:
VỀ TỨ
ĐẠI ĐIỀU QUI
Ðiều Thứ Hai Mươi Hai:
Buộc phải trau giồi đức hạnh
giữ theo tứ đại điều qui là:
Phải tuân lời dạy của bề trên,
chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn
năn chịu thiệt.
Chớ khoe tài, đừng cao ngạo,
quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Ðạo. Ðừng nhớ cừu riêng, chớ che
lấp người hiền.
Bạc tiền xuất nhập phân minh,
đừng mượn vay không trả. Ðối với trên, dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ,
dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
Trước mặt sau lưng, cũng đồng
một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau.
Ðừng thấy đồng đạo tranh đua
ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng đừng vụ riêng mà bỏ
việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Ðừng cậy
quyền mà yểm tài người.
CHƯƠNG
VI:
VỀ
GIÁO HUẤN
Ðiều Thứ Hai Mươi Ba:
Trong Ðạo sẽ lập trường để dạy
chữ và dạy Ðạo.
Ðiều Thứ Hai Mươi Bốn:
Cách dạy và các việc sắp đặt
trong trường sẽ có lập thể lệ riêng.
Ðiều Thứ Hai Mươi Lăm:
Sau những người có giấy Tốt
Nghiệp của nhà trường cho mới được dự cử vào hàng Chức Sắc trong Ðạo.
CHƯƠNG
VII:
VỀ
HÌNH PHẠT
Ðiều Thứ Hai Mươi Sáu:
Trong bổn đạo ai có phạm luật
pháp về mấy điều khoản nhẹ, thì về quyền người làm đầu trong Họ phân xử và đặng
răn phạt quì hương tụng Kinh Sám Hối.
Ðiều Thứ Hai Mươi Bảy:
Như phạm tội trọng hay là tái
phạm, thì phải đệ lên cho Hội Công Ðồng phán đoán.
Hội ấy một vị Ðầu Sư hay là
Phối Sư phái mình làm đầu và có hai vị Chức Sắc hai phái kia nghị án. Hội nầy
được quyền trục xuất.
Ðiều Thứ Hai Mươi Tám:
Về đường đời bổn đạo có xích
mích nhau, cũng phải đến cho người làm đầu trong Họ phân giải.
Ðiều Thứ Hai Mươi Chín:
Chư Chưc Sắc, ai có phạm luật
pháp trong đạo, thì đem trước Tòa Tam Giáo phân xử.
Ðiều Thứ Ba Mươi:
Tòa Tam Giáo có Ðức Giáo Tông
làm đầu. Ba vị Chưởng Pháp nghị án. Vị Ðầu Sư phái mình về phần dâng biểu buộc
tội. Một chức sắc Hiệp Thiên Ðài làm trạng sư.
Ðiều Thứ Ba Mươi Mốt:
Tòa này có quyền xử giáng cấp
hay là trục xuất.
CHƯƠNG
VIII:
VỀ
VIỆC BAN HÀNH LUẬT PHÁP
Ðiều Thứ Ba Mươi Hai:
Trong hạn 6 tháng, kể từ ngày
ban hành luật pháp nầy chư tín đồ phải tuân y các điều lệ.
Ngoại trừ:
Những người làm nghề nghiệp
phạm nhằm luật cấm thì được kỳ hạn một năm phải giải nghệ.
Những Chức Sắc chưa trường
trai được kỳ hạn hai năm phải tập theo cho kịp.
Kỳ dư luật lệ Thầy canh cải
phải tuân theo, còn bao nhiêu phải tùy cựu luật.
THẾ
LUẬT
Ðiều Thứ Nhứt: Quan hệ giữa
các Tín Ðồ - Thương yêu.
Ðiều Thứ Hai: Quan hệ giữa các
Tín Ðồ - Nhẫn nhịn và hòa thuận.
Ðiều Thứ Ba: Giữ gìn Nhơn Ðạo -
Tam Cang Ngũ Thường & Tam Tùng Tứ Ðức.
Ðiều Thứ Tư: Quan hệ giữa Tín
Ðồ và người ngoài Ðời.
Ðiều Thứ Năm: Quan hệ giữa các
Tín Ðồ - Giữ tình thân ái, tương tế.
Ðiều Thứ Sáu: Việc hôn nhơn -
Chọn người hôn phối.
Ðiều Thứ Bảy: Việc hôn nhơn -
Bố cáo đính hôn.
Ðiều Thứ Tám: Việc hôn nhơn -
Lễ chứng hôn.
Ðiều Thứ Chín: Việc hôn nhơn -
Cưới hầu thiếp.
Ðiều Thứ Mười: Việc hôn nhơn -
Ly hôn.
Ðiều Thứ Mười Một: Về ấu nhi -
Cha mẹ đỡ đầu.
Ðiều Thứ Mười Hai: Về ấu nhi -
Lễ Tắm Thánh.
Ðiều Thứ Mười Ba: Về ấu nhi -
Giáo dục.
Ðiều Thứ Mười Bốn: Việc tang
chế - Tương tế giữa các Tín Ðồ.
Ðiều Thứ Mười Lăm: Việc tang
chế - Lễ Cầu Siêu.
Ðiều Thứ Mười Sáu: Việc tang
chế - Tổ chức tang lễ.
Ðiều Thứ Mười Bảy: Việc tang
chế - Cúng tế.
Ðiều Thứ Mười Tám: Việc cầu
siêu trong tuần cửu Cửu, Tiểu tường và Ðại tường.
Ðiều Thứ Mười Chín: Quan hệ
giữa các Tín Ðồ - Tương trợ khi hoạn nạn.
Ðiều Thứ Hai Mươi: Qui định
nghề nghiệp, sinh kế của các Tín Ðồ.
Ðiều Thứ Hai Mươi Mốt: Sinh
hoạt của nguời Tín Ðồ - Ăn mặc cần kiệm.
Ðiều Thứ Hai Mươi Hai: Quan hệ
giữa các Tín Ðồ - Khuyên giải và khuyến dạy người phạm Thế Luật của Ðạo.
Ðiều Thứ Hai Mươi Ba: Quan hệ
giữa các Tín Ðồ - Nhiều lần tái phạm Thế Luật của Ðạo.
Ðiều Thứ Hai Mươi Bốn: Hội
Công Ðồng phán xét những Tín Ðồ nhiều lần phạm Luật.
Ðể tiện việc tham khảo chúng
tôi thêm vào phần trên đây. Nguyên bản của Hội Thánh không có.
THẾ
LUẬT
Người được nhập môn hành đạo
phải tuân y Thế Luật như sau nầy:
Ðiều Thứ Nhứt:
Hễ thọ giáo với một Thầy thì
tỉ như con một cha, phải thương yêu nhau; liên lạc nhau, giúp đỡ nhau lấy lòng
thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường Ðạo và đường Ðời.
Ðiều Thứ Hai:
Nhập đạo rồi thì phải quên
những việc oán thù nhau khi trước; phải tránh việc ganh ghét tranh đua và kiện
cáo; phải nhẫn nhịn và hòa thuận với nhau. Rủi có điều chi xích mích, phải vui
nghe người làm đầu trong Họ phân giải.
Ðiều Thứ Ba:
Phải giữ Tam Cang Ngũ Thường
là nguồn cội của Nhơn Ðạo; nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, nữ
thì tùng phụ, tùng phu, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh.
Ðiều Thứ Tư:
Ra giao thiệp với đời thì phải
tập và giữ tánh ôn, lương, cung, khiêm, nhượng.
Ðiều Thứ Năm:
Ðối với hàng đạo hữu phải nuôi
nấng cái tình thù tạc với nhau, cho khắn khít cái dây liên lạc. Trong hàng tín
đồ còn ở thế phải nhớ 2 dịp là tang và hôn.
Ðiều Thứ Sáu:
Việc hôn là việc rất trọng đời
người. Phải chọn hôn trong người đồng đạo; trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận
nhập môn thì mới được kết làm giai ngẫu.
Ðiều Thứ Bảy:
Tám ngày trước lễ Sính, chủ
hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho trong bổn đạo hay, sau khỏi
điều trắc trở.
Ðiều Thứ Tám:
Làm lễ Sính rồi hai đàn trai
và gái phải đến Thánh Thất mà cầu lễ "Chứng Hôn".
Ðiều Thứ Chín:
Cấm người trong Ðạo, từ ngày
ban hành luật này về sau, không được cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ giữa đường
thì được chấp nối.
Thảng như phụ nữ kia không con
nối hậu thì Thầy cũng rộng cho đặng phép cưới thiếp song chính mình chánh thê
đứng cưới mới đặng.
Ðiều Thứ Mười:
Trừ ra có ngoại tình hay là
thất hiếu với công cô, vợ chồng người đạo không được để bỏ nhau.
Ðiều Thứ Mười Một:
Con nít mới sanh phải chọn cha
và mẹ đỡ đầu cho nó, phòng sau bảo hộ nó lúc rủi phải thân côi.
Ðiều Thứ Mười Hai:
Ðứa con nít khi được một tháng
sắp lên phải đem đến Thánh Thất sở tại mà xin làm lễ "Tắm Thánh" và
ghi vào bộ sanh của bổn đạo.
Ðiều Thứ Mười Ba:
Buộc cha mẹ con nít từ 6 tuổi,
chí 12 tuổi phải cho con vào trường học chữ hay là học đạo.
Ðiều Thứ Mười Bốn:
Trong bổn đạo xảy có người mãn
phần qui vị thì chư tín đồ trong họ phải chung cùng đến giúp và chia buồn với
tang chủ.
Mỗi Họ cũng nên lập một Nghĩa
Ðịa riêng.
Ðiều Thứ Mười Lăm:
Người làm đầu trong Họ, khi
tang chủ mời, phải đến hiệp với chư tín đồ trong Họ, làm lễ Cầu Siêu cho vong
linh theo Tân Luật và đưa xác đến mộ phần.
Ðiều Thứ Mười Sáu:
Trong việc tống chung, không
nên xa xí, không nên để lâu ngày, không nên dùng đồ âm công có màu sắc lòe
loẹt, chỉ dùng toàn đồ trắng, không nên đãi đằng rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh
và mất dấu ai bi.
Ðiều Thứ Mười Bảy:
Trong việc cúng tế vong linh
không nên dùng hi sanh, dùng toàn đồ chay thì được phước hơn; không cấm lễ
nhạc, song phải dùng lễ nhạc theo Tân Luật. Tang phục thì y như xưa.
Ðiều Thứ Mười Tám:
Việc cầu siêu cho vong linh
trong tuần cửu Cửu và đến lúc Tiểu, Ðại tường, thì do nơi Thánh Thất sở tại mà
cầu lễ. Bổn đạo trong Họ, nếu có mời, phải đến mà cầu nguyện.
Ðiều Thứ Mười Chín:
Một người trong đạo gặp tai
nạn thình lình, thì bổn đạo trong Họ hãy tùy hỉ chung nhau, tư trợ cho qua lúc
ngặt nghèo.
Ðiều Thứ Hai Mươi:
Kễ từ ngày ban hành luật này,
người bổn đạo chẳng nên chuyên nghề gì làm cho sát sanh, hại vật; chẳng được
làm nghề gì mà tồi phong bại tục; chẳng được soạn hay là ấn hành những truyện
phong tình, huê nguyệt, không đặng buôn bán các thứ rượu mạnh và á phiện là vật
độc làm cho giảm chất con người.
Người nào đã lầm lỡ rồi, hãy
kiếm thế mà giải nghệ.
Ðiều Thứ Hai Mươi Mốt:
Người bổn đạo ăn mặc phải cần
kiệm, tùy phận tùy dươn, cũng nên dùng đồ vải bô và giảm bớt hàng lụa.
Ðiều Thứ Hai Mươi Hai:
Người nào trong đạo phạm một
hay nhiều điều răn cấm trên đây, thì mấy người khác trong bổn đạo hay biết phải
khuyên giải. Nếu chẳng nghe, phải đến tỏ cho người làm đầu trong Họ hay, cho
người để lời khuyến dạy.
Ðiều Thứ Hai Mươi Ba:
Nếu tái phạm hoặc không bỏ nết
hư và nghiệp quấy thì phải trục xuất. Trong bổn đạo không ai đặng nhận nhìn là
đạo hữu nữa.
Ðiều Thứ Hai Mươi Bốn:
Hội Công Ðồng có Ðầu Sư một
phái làm đầu và hai chức sắc hai phái kia nghị sự phán đoán về hình trục xuất
theo lời của người làm đầu trong Họ xin.
Lịnh này sẽ dán nơi Thánh Thất
sở tại cho chư tín đồ rõ biết.
TỊNH THẤT
Ðiều Thứ Nhứ: Ðiều kiện để
được vào Tịnh Thất - Nhơn Ðạo, trai giới.
Ðiều Thứ Hai: Ðiều kiện để
được vào Tịnh Thất - Người tiến dẫn.
Ðiều Thứ Ba: Nội qui Tịnh Thất - Cấm thư tín vãng lai.
Ðiều Thứ Tư: Nội qui Tịnh Thất
- Cấm thăm viếng.
Ðiều Thứ Năm: Nội qui Tịnh
Thất - Cấm chuyện vãn.
Ðiều Thứ Sáu: Nội qui Tịnh
Thất - Cấm hút thuốc ăn trầu.
Ðiều Thứ Bảy: Nội qui Tịnh
Thất - Giữ chơn thần an tịnh.
Ðiều Thứ Tám: Nội qui Tịnh
Thất - Tùng mạng lịnh Tịnh Chủ.
Ðể tiện việc tham khảo chúng
tôi thêm vào phần trên đây. Nguyên bản của Hội Thánh không có.
TỊNH
THẤT
"Tịnh
Thất" là nhà thanh tịnh để cho các tín đồ vào mà tu luyện.
Muốn vào nhà Tịnh Thất phải
tuân y những điều lệ như sau nầy:
Ðiều Thứ Nhứt:
Trong hàng tín đồ, ai đã xử
tròn nhơn đạo và giữ trai giái từ sáu tháng sắp lên thì được xin vào Tịnh Thất
mà nhập định.
Ðiều Thứ Hai:
Phải có một người đạo đức hơn
mình tiến dẫn và một người đạo hữu bảo hộ.
Ðiều Thứ Ba:
Cấm không đặng thơ tín vãng
lai với người ngoài, trừ ra thân nhân, song phải có người "Tịnh Chủ"
xem trước.
Ðiều Thứ Tư:
Cấm người ngoài không được vào
nhà Tịnh, chẳng luận là viên quan chức sắc cùng thân tộc tín đồ.
Ðiều Thứ Năm:
Cấm không được chuyện vãn với
người ngoài, trừ ra cha mẹ và con cháu đến thăm song cũng phải có phép người
"Tịnh Chủ" cho.
Ðiều Thứ Sáu:
Nhập Tịnh Thất rồi phải tuyệt
trầu thuốc và không được ăn vật chi ngoài mấy bữa cơm.
Ðiều Thứ Bảy:
Phải giữ cho chơn thần an
tịnh, đừng xao xuyến lương tâm. Phải thuận hòa không được tiếng lớn, phải siêng
năng giúp ích cho nhau và dìu dắt nhau trong đường đạo.
Ðiều Thứ Tám:
Phải tuân mạng lịnh của một "Tịnh Chủ" phải
y theo giờ khắc sẽ định mà hành công tu luyện.
CHUNG
MỤC LỤC
TIỂU TỰ
ÐẠO PHÁP
CHƯƠNG I: Về Chức Sắc Cai Trị Trong
Ðạo
CHƯƠNG II: Về Người Giữ Ðạo
CHƯƠNG III: Về Việc Lập Họ
CHƯƠNG IV: Về Ngũ Giới Cấm
CHƯƠNG V: Về Tứ Ðại Ðiều Qui
CHƯƠNG VI: Về Giáo Huấn
CHƯƠNG VII: Về Hình Phạt
CHƯƠNG VIII: Về Việc Ban Hành
Luật Pháp
THẾ LUẬT
Tân Luật
Ấn bản năm Nhâm Tý (1972).
Nhà in Trung Tâm Giáo Hóa Thiếu Nhi Thủ Ðức.
Hội Thánh Giữ Bản Quyền.
Ấn bản năm Nhâm Tý (1972).
Nhà in Trung Tâm Giáo Hóa Thiếu Nhi Thủ Ðức.
Hội Thánh Giữ Bản Quyền.
Tài liệu kính
biếu.
Viện Sử Cao Đài (Ban Thế Đạo Hải Ngoại) thực hiện.
Thư từ đóng góp ý kiến. Xin liên lạc E-mail: caodaismeinternational@gmail.com
Viện Sử Cao Đài (Ban Thế Đạo Hải Ngoại) thực hiện.
Thư từ đóng góp ý kiến. Xin liên lạc E-mail: caodaismeinternational@gmail.com
Hoan nghênh mọi hỗ trợ vật chất, tinh thần, xin liên lạc và
gửi về Ban Thế Đạo.
E-mail: banthedao@comcast.net Tàng Kinh Các
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét