
LỜI TỰA
Trong số mấy mươi muôn Đạo
Hữu, tưởng có khi nhiều người cũng rõ thông đạo lý. Song người thì mối Đạo buộc
ràng, kẻ lại gia đình bận bịu, không rảnh rang soạn sách, dịch kinh, để phổ
thông đạo lý cho kẻ mới đầu cơ. Cho hay người biết Đạo thật nhiều, mà kẻ chưa
thông chẳng ít.
Mấy vị Giáo Hữu, Giáo Sư
không thế nào giảng Đạo riêng cho mỗi người được.
Vì vậy mà có cuốn sách nhỏ
nầy, cốt để thay thế cho chư vị ấy mà truyền bá sơ lược chút ít về đạo lý của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, sở dĩ để dìu dắt bước đường kẻ mới đưa chân vào nền Đạo.
Xin khá biết cho.
Sách nầy luận về châu
thân, mà do theo đạo lý, lại chia ra làm hai chương: Một chương luận về vật
chất, một chương giải về tinh thần.
Muốn luyện Đạo, trước phải
biết mình mà muốn biết mình thì quyển sách này may ra cũng là một bài học vỡ
lòng cho người chưa rõ Đạo. Nhưng không phải như tiểu thuyết mà dễ hiểu, đọc
một bài cần phải suy nghĩ một bài, có khi còn phải xem đi xét lại đôi ba phen,
nếu đọc sơ qua một bận rồi cho là khó hiểu thì chẳng ích chi, rất uổng công
người khổ tâm đặt để.
Cholon, le 25
Novembre 1927
Bảo Pháp NGUYỄN
TRUNG HẬU
CHÂU THÂN GIẢI
XÁC HỒN
Con người vẫn có hai phần,
phần hồn và phần xác.
Phần xác:
Tuy mắt phàm coi thân hình
như một, chớ kỳ trung bổn thân là một khối chất chứa vàn vàn, muôn muôn sanh
vật. Những con sanh vật ấy lại câu kết nhau mà thành khối. Chúng nó nhờ vật
thực của ta ăn vào mà lớn lần lần, mà sanh sanh hóa hóa thêm nữa. Vì vậy mà
thân thể một đứa hài nhi càng bữa càng lớn lần cho tới tuổi trưởng thành mới
thôi (Ấy là giới hạn thước tấc của hình vóc con người).
Con người càng già, thì
ngũ tạng lục phủ càng suy, tinh thần hao kém, sự ăn uống một ngày một giảm.
Những con sanh vật trong châu thân cũng nhơn đó mà gầy mòn, mà hễ chúng nó gầy
mòn, thì thân thể con người tất phải xóp ve, gầy guộc. Có khi những con sanh
vật của một phần trong châu thân, vì một duyên cớ chi mà chết đi, thì chỗ ấy
phải trở nên tê bại, hay là chai, vì đã mất sự sống rồi.
Khi chết, xác phải tiêu
diệt, rục rã ra, chơn linh của mấy con sanh vật ấy lìa khỏi xác mà trở về nơi
không khí. Ấy là: Của đất trả về cho đất, của Trời trở lại nơi Trời.
Phần hồn:
Hồn là vật thiêng liêng
(*1) do nơi khối linh quang của Tạo Hóa ban cho.
Có kẻ cừ khôi không chịu
tin có phần hồn, cứ nói rằng con người biết nghĩ suy, tính toán là tự nơi cái
óc mà ra, mà hễ thác rồi, thì vạn sự giai hưu, một kiếp thác là một kiếp mất,
cái linh hồn và cảnh Thiên đàng Địa ngục là điều vô bằng cớ.
Kẻ ấy chẳng hiểu rằng cái
óc chẳng khác nào một cái máy đánh chữ của linh hồn lợi dụng mà tỏ ra những
điều tư tưởng, những nét buồn vui, thương ghét vậy thôi. Hồn tức thị là người
đánh máy ấy. Có máy mà chẳng có người đánh thì làm sao ra chữ được? Có xác thịt
(có óc) mà không hồn, thì làm sao biết nghĩ suy tính toán? Kìa một cái chuông
treo giữa gió: Như gió thổi làm cho chuông vận động mà kêu, thì bất quá là kêu
bòn bon inh ỏi vậy thôi, có đâu ngân giọng u minh, khoan nhặt? Muốn cho tiếng
chuông u minh khoan nhặt, cần có tay người dộng vào mới được. Cái óc con người
chẳng khác nào cái chuông ấy. Nếu không có linh hồn là người dộng chuông, thì
đâu lộ ra được nhiều tư tưởng ly kỳ cao thượng.
Con người nhờ có linh hồn
mới biết nghĩ suy, tính toán, thương ghét, buồn vui. Vậy hỏi chớ khi chung cuộc
rồi (khi thác) cái điểm linh ấy đi đâu? Không lẽ mà mất đi được? Vậy chẳng là
uổng công trình của Tạo Hóa nắn đúc cho mình lắm ư? Ấy vậy, cái linh hồn ấy
phải sống đời đời kiếp kiếp (*2) rồi ra mới có Luân Hồi, Quả Báo là lẽ công
bình thiên nhiên của Tạo Hóa.
Trong châu thân, hồn xác
pha lẫn nhau. Tỉ như muốn làm xi măng ạt mê (ciment armé) phải trộn sạn và
ciment lộn nhau, đoạn phải trộn nước vào mới đánh thành khối được. Châu thân
chẳng khác chi khối xi măng ạt mê đó. Sạn ấy là xương, xi măng là thịt, nước là
hồn.
Ví dụ một cái ly không,
tuy vân mắt thường ta thấy trống không, chớ hẳn thật trong lòng ly chứa đầy
không khí. Châu thân ta ví như cái ly: Linh hồn ta như không khí. Ta không thấy
không khí trong ly như ta không thấy đặng phần hồn trong châu thân vậy.
Muốn cho nước trong đặng
tinh khiết, cái ly cần phải tinh khiết, còn muốn cho linh hồn trong sạch châu
thân cần phải trong sạch. Đó là về phần tinh khiết mà thôi. Chớ không cần phải
có một châu thân tráng kiện mới có linh hồn tráng kiện, vì ta thường thấy nhiều
người hình thù tráng kiện mà trí thức tối tăm, còn kẻ thì hình vóc ốm o mà
thông minh trí tuệ. Cái châu thân tráng kiện bất quá là cần ích cho cơ thể mà
thôi, chớ chẳng ích chi cho phần hồn. Châu thân tráng kiện tỉ như một cái máy
tốt và chắc chắn, máy chắc chắn thì lâu hư, thân thể tráng kiện thì lâu tiêu
diệt, mà có tiêu diệt thì tiêu diệt phần xác vậy thôi, chớ phần hồn chẳng hề
tiêu diệt.
Phần bổ dưỡng linh hồn
chẳng do nơi vật thực hữu hình. Hồn vẫn không hình chất, nên phải dùng vật thực
không hình chất mà bổ dưỡng. Vật thực không hình chất ấy tức là sự học hỏi và
cách tịnh luyện tinh thần trong mấy cơn nhàn, khoảng vắng.
Phải hiểu rằng xác thịt tỉ
như một cái nhà cho linh hồn ở tạm trong mỗi kiếp ngắn ngủn trên cõi trần này
vậy thôi. Xác thịt nhờ khí huyết mẹ cha tạo thành, còn linh hồn thì do nơi
Thiên tứ (Trời cho). Nếu linh hồn với xác thịt tự một gốc mà ra, thì tánh chất
thông minh hay là u ám của con cháu phải do nơi cha mẹ, ông bà, nghĩa là hễ ông
bà cha mẹ thông minh thì sanh ra con cháu thông minh, còn u ám thì sanh ra con
cháu cũng đồng một thể.
Sự thật lại không phải
vậy, vì có nhiều người u ám mà sanh ra con cháu thông minh trí tuệ. Cũng có
người thông minh trí tuệ lại sanh ra con cháu ngu ngây, dại dột, thậm chí anh
em vẫn một huyết mạch với nhau mà cũng còn có kẻ khôn người dại (*3). Cái xác
thịt do nơi khí huyết cha mẹ tạo thành, thì vẫn do nơi xác thịt cha mẹ, nghĩa
là cha mẹ yếu ớt bịnh hoạn sanh con yếu ớt bịnh hoạn (*4), cha mẹ mạnh khỏe thì
sanh con mạnh khỏe.
(*1) Thiêng liêng là không
thấy, không nghe, không rờ được.
(*2) Nhiều Đạo Thần Linh
đã dùng đồng tiền và cơ bút chứng chắc rằng linh hồn vẫn có và vẫn sống đời đời
kiếp kiếp.
(*3) Con cái dầu có giống
cha mẹ thì giống nơi vật chất mà thôi, vì vật chất do nơi khí huyết lưu truyền.
(*4) Tuy vậy chớ khi lớn
lên, hình vóc con cái cũng có khi biến đổi khác hẳn với hình vóc sơ sanh là vì
nhờ biết giữ vệ sanh và tập tành thể tháo.
CHƯƠNG THỨ NHỨT
NGŨ TẠNG
Châu thân con người tỉ như
một cái xưởng lớn, phân ra nhiều sở làm lụng, tuy phận sự khác nhau, chớ vẫn
chung về một mối là tiếp dưỡng châu thân để bảo tồn sự sống. Mấy sở làm lụng ấy
chia ra làm năm gọi ngũ tạng. Ngũ tạng là: Tâm, Can, Vị (*1), Phế, Thận.
Người có ngũ tạng như Trời
Đất có ngũ hành (*2). Nếu không có ngũ hành thì không có Càn Khôn, Thế Giái,
còn nếu không có ngũ tạng thì cũng không có nhơn loại.
Đấng chủ trương cai quản
ngũ tạng là thần hồn của ta. Khi thần hồn lìa xác, ngũ tạng vắng chủ trương
phải ngưng, mà hễ ngũ tạng ngưng tức là ta chết vậy.
VỊ (bao tử)
Trong ngũ tạng, cần nhứt
hơn hết là tạng này, vì nó chứa vật thực, rồi làm cho tiêu tán ra huyết để vận
chuyển cùng mình mà nuôi lấy châu thân.
TẠNG CAN (lá gan)
Gần tạng Tì, lại có tạng
Can nhỉ ra một thứ nước xanh xanh, vàng vàng mà đắng gọi là mật (đởm) để phụ
với tạng Tì làm cho vật thực dễ tiêu hóa, nhứt về vật mỡ dầu.
TẠNG THẬN (trái cật)
Trước khi huyết vận chuyển
khắp châu thân, thì có tạng Thận lọc đi lược lại cho trong sạch, còn cáu cặn
thì xuống bàng quang (bong bóng) mà theo đường tiểu tiện. Tạng Thận có hai
trái: trái bên hữu gọi là Thận hỏa, trái bên tả gọi là Thận thủy. Ba tạng: Tì,
Can, Thận đều ở nhằm hạ tiêu.(*3)
TẠNG TÂM (trái tim)
Khi hai tạng kể trên đó
làm cho vật thực tiêu hóa ra huyết rồi, tạng tâm lại vận chuyển huyết khắp châu
thân. Trái tim tỉ như một ống bơm vừa xịt ra, vừa hít vào được. Hễ trái tim tóp
vô, huyết trong ấy túa ra theo mạch máu mà châu lưu khắp thân thể, rồi trái tim
phùng ra huyết lại trở về. Trái tim cứ thoi thóp như vậy mãi đặng vận chuyển
huyết vô, ra. Nếu ta đặt tay trên ngực, thì nghe trái tim động, gọi là “đánh
trống ngực”.
Khi huyết trở lại rồi
nhiểm lấy vật dơ mà hóa bầm, vì đã chạy cùng thân thể, như nước mưa khi ở không
trung rớt xuống thì trong sạch, mà hứng vô lu rồi lại đục đi, vì bị bụi bậm, côn
trùng hoặc giữa không khí, hoặc trên mái nhà nhiễm vào.
TẠNG PHẾ (lá phổi)
Tạng phế có hai lá ở nhằm
trung tiêu. Trái tim thì ở giữa, mà cái đuôi lại trịch qua bên tả.
Nhờ sự hô hấp (*4) không
khí mới vô ra nơi phổi. Mỗi lần hít vô, không khí vào đến phổi, nhờ lấy khinh
khí (oxygène) trong hơi thở ấy huyết bầm mới đặng tươi nhuận lại như trước mà
luân chuyển nữa.
Mỗi lần thở ra, hơi thở
lại hóa ra trược khí, vì nó đã dùng mà tươi nhuận huyết bầm, tỉ như nước sạch
mà dùng rửa giặt rồi phải dơ vậy.
Muốn cho thân thể thường
tráng kiện, ít sanh bịnh, ta cần phải biết điều dưỡng ngũ tạng theo cách sau
đây:
VỊ: - Chớ lầm tưởng rằng
hễ ăn uống đặng nhiều thì mập mạp và mạnh dạn. Ta thường thấy nhiều người mỗi
buổi ăn sắp hai, sắp ba kẻ khác, mà ốm vẫn huờn ốm. Còn có kẻ ăn uống theo mực
thường mà lại nở nang phì mỹ. Ấy có phải tại ăn nhiều mà mập đâu. Nên nói ăn
nhiều thì bịnh hoạn, gầy ốm là phải hơn. Vì ăn quá độ, vật thực không tiêu,
tạng tì phải mệt, mà mệt tất phải đau (gọi là phạt tì). Vậy, muốn bổ tì, nên ăn
uống có độ lượng, nhứt là nên dùng rau cỏ hơn thịt cá, vì rau cỏ là vật thực
nhẹ nhàng, mau tiêu, lại nhờ thọ khí nóng của thái dương (mặt trời) khử độc
(*5) rồi nên ăn vô ít sanh bịnh hoạn.
CAN: - Ăn uống quá độ
lượng phạt Tì, rồi Can là ăn chịu với Tì hơn hết, phải can thiệp mà sanh bịnh.
Rượu là món phạt Can hơn hết, phần nhiều bợm rượu thường đau gan là bởi cớ ấy.
Sự can đởm chí khí của con
người do nơi Can mà phát ra (cho nên thường gọi kẻ nầy dạn gan, người kia nhát
gan là vậy). Sự sân si hân nộ là do nơi can đởm, chí khí mà phát lên. Cho nên
bớt sân si, hân nộ thì điều Can vậy.
TÂM: - Ăn uống quá độ
lượng cũng hại cho tạng Tâm. Kẻ đau tim hay mệt mỏi, bần thần, ăn rồi bắt buồn
ngủ, nặng đầu, làm việc gì, dầu nhẹ nhàng cho mấy cũng mệt thở hào hển. Vì hễ
trái tim bịnh, huyết mạch chạy không đều, huyết mạch không điều hòa thường sanh
các chứng bịnh ấy.
Sự lo lường, tư tưởng do
nơi tâm trí phát sanh. Nhiều lo tưởng thường lao tâm, tiêu tứ. Đoạn tư tưởng là
bổ tâm vậy.
THẬN: - Ăn uống quá độ lượng,
vật thực không tiêu tán, mà hễ vật thực không tiêu tán, thì Thận là cái bàn
lọc, phải nhọc công gạn lược nhiều lần, rồi phải hao mòn, mà hễ gạn lọc nhiều
lần thì chỉ tồn nhiều cặn cáu, cho nên nước tiểu thường hôi đục.
Tạng Thận cũng là máy làm
ra tinh (*6) (vật ăn uống bảy ngày mới hườn một điểm tinh). Dâm dục nhiều hao
tinh, phạt thận, dứt dâm dục là bổ thận vậy.
PHẾ: - Hai lá phổi là vật
mềm mại và có lỗ hang như tàng ong vậy. Nếu khí thở không đặng trong sạch
(nghĩa là chứa nhiều côn trùng bụi bậm), lỗ phổi phải vì bụi bậm mà bít nghẹt,
thêm nỗi côn trùng ấy vào phổi ăn khoét hư đi (vì phổi mềm), biểu sao không
bịnh hoạn, nhứt là không tránh khỏi cái bịnh rất hiểm nghèo là ho lao vậy. Về
vật thực chẳng nên ăn vật chi sanh lảnh (sống sít, lạnh lẽo) vì mấy vật ấy quến
đàm. Hễ đàm nhiều thì chận phổi bít nghẹt mà sanh ra hen, suyễn. Nên ở chỗ cao
ráo mát mẻ, nhà cửa cho thiệt khoảng khoát, cho có thanh khí, nên ở nơi vắng vẻ
như ruộng, đồng, rẫy bái.
Tạng phế là máy hô hấp
không khí (hơi thở). Nói nhiều mệt sức hao hơi, mà mệt sức hao hơi thì phạt
phế. Muốn bổ phế, chớ nên nhiều lời lắm tiếng.
Tóm lại, sự thọ yểu của
con người do nơi mình mà ra. Cho hay số mạng định trước, mà ta có thể cải đặng.
Cho nên có câu “Nhân định thắng thiên” là vậy đó. Tỉ như đời người là trăm
tuổi, nếu chúng ta biết bảo tồn thân thể, tịnh dưỡng tinh thần, có lẽ ta sống
quá tuổi ấy được. Còn nếu ta ăn uống quá độ lượng cho hao mòn ngũ tạng, nhiều
lo rộn tính cho tiêu tán tinh thần thì thế nào sống lâu đặng?
Kìa như một cái cầu đúc,
quan bác vật định cho là bền bỉ trăm năm. Mà nếu xe cộ chở chuyên nặng nề qua
lại thường ngày, tự nhiên cầu ấy phải mau hư, mau sụp.
Thân thể ta như một cái
máy, sanh mạng như hơi mạnh (force motrice) để làm cho cái máy chạy vậy. Nếu
vật dụng (tức là ngũ tạng) trong máy ấy hư, là tại người thợ coi máy (tức là
ta) không kỹ càng, chớ hơi mạnh (sanh mạng ta) không can dự vào. Mà hễ máy hư
không chạy, thì hơi mạnh phải dứt (tức là ta chết).
(*1) Tì là lá lách mà đến
ngày nay, khoa học vẫn chưa xác định công dụng của tạng này ra sao, cho nên
trong ngũ tạng, chúng tôi dùng vị (bao tử) thế cho tạng tì.
(*2) Ngũ hành là: Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sách thuốc gọi: Tâm thuộc hỏa, Can thuộc mộc, Tì thuộc
thổ, Phế thuộc kim, Thận thuộc thủy.
Muốn nói trúng hơn thì vật
thực tiêu hóa rồi thành ra một thứ nước trắng trắng, đồng chất với huyết rồi
hiệp với huyết làm một mà vận chuyển khắp châu thân để nuôi lấy sự sống.
(*3) Châu thân chia làm ba
tầng gọi là tam tiêu. Tầng trên (đầu) gọi là thượng tiêu, tầng giữa (ngực) gọi
là trung tiêu, tầng dưới (bụng) gọi là hạ tiêu.
(*4) Hô là thở ra, hấp là
hít vô.
(*5) Khử độc là làm cho
hết độc, côn trùng trong rau cỏ bị hơi nóng mặt trời chết bớt.
(*6) Xin xem bài giải về
Tinh, Khí, Thần.
NGŨ QUAN - LỤC CĂN - LỤC TRẦN
Ngũ tạng trong mình gọi là
ngũ nội, còn thân ngoài lại có ngũ quan. Ngũ quan nghĩa là năm chức hay biết về
việc ngoại là: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân. (*1)
Nhãn (mắt) để thấy.
Nhĩ (tai) để nghe.
Tỉ (mũi) để hửi.
Thiệt (lưỡi) để nếm mùi.
Thân (mình) để rõ biết các
vật cứng, mềm, nóng, lạnh,…
Nhờ thấy, nghe, hửi, nếm,
rờ rẫm mới biết việc kia, vật nọ, mà hễ biết việc kia, vật nọ rồi mới sanh ý. Ý
là gì? Là sự muốn tưởng, nghĩ ngợi do nơi ngũ quan mà sanh. Nếu mắt không thấy,
tai không nghe, mũi không hửi, lưỡi không nếm, thân không biết cứng mềm, nóng
lạnh, thì con người biết chi mà muốn tưởng, mà nghĩ ngợi?
Kinh Phật gọi Nhãn, Nhĩ,
Tỉ, Thiệt, Thân, Ý là lục căn (sáu cội rễ trong châu thân). Lục căn lại hiệp
với lục trần (sáu bợn nhơ) là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
SẮC là màu đẹp đẽ, hình dung tốt tươi…
THINH là lời ngon ngọt, giọng thâm trầm…
HƯƠNG là mùi mẽ thơm tho.
VỊ là mùi ngon ngọt (chỉ về vật ẩm thực).
XÚC là sự cảm động.
PHÁP là những sự vật xảy ra.
Mắt thấy sắc xinh vật đẹp
bắt ham (Sắc).
Tai nghe tiếng ngọt ngon,
giọng thâm trầm phải mến (Thinh).
Mũi hửi mùi thơm phải đẹp
(Hương).
Lưỡi nếm vật ngon phải
thích (Vị ).
Thân không tịnh phải cảm
động (Xúc).
Ý thường hay muốn mà sanh
ra sự vật (Pháp).
Lục trần là sáu bợn nhơ
thường hay rù quyến con người say mê tục thế, quên đường đạo đức, xa mối luân
thường. Nó lại bao phủ lương tâm mà làm cho phải nặng nề, nhơ bợn. Vì lục trần
mà con người phải hao mòn thân thể, mờ mệt lương tâm, xa lần cội rễ, rồi kiếp
luân hồi không phương thoát khỏi.
Nên chi muốn thoát tục mà
tìm nguồn Tiên, cõi Phật, ta phải diệt hết lục trần đi. Mà muốn diệt lục trần,
trước phải lo trừ nơi cội rễ là lục căn vậy.
Phải giữ cho được mắt
chay, tai chay, mũi chay, lưỡi chay, thân chay, ý chay (ấy là lục trai đó). Sao
gọi là mắt chay, tai chay, mũi chay, lưỡi chay, thân chay, ý chay?
1. - Mắt chay, nghĩa là
không thèm xem sắc đẹp, dầu ai xinh lịch thế nào cũng chẳng qua là thây đi,
thịt chạy, xem sắc tốt như tro bụi để làm nhơ danh giá, như gươm đao để đẻo xẻ
thân hình, như thuốc độc hại tán tinh thần.
Ta nên tự nghĩ như vầy:
Hòa gian với gái có chồng là phá gia cang người, rồi sau vợ con mình phải trả
quả.
Hòa gian với gái góa bụa,
là phá tiết người, với gái chưa chồng là phá trinh, làm cho người lỡ làng duyên
phận về sau.
Mắt chẳng nên dòm lên trên
thấy người cao sang hơn mình mà ganh ghét, chớ nên ngó xuống thấy kẻ thấp hèn
hơn mình mà khi thị.
Tóm lại, vạn ác dâm vi
thủ, nếu giữ được mắt chay, thì diệt được bợn nhơ thứ nhứt là SẮC vậy.
2. - Tai chay nghĩa là
không thèm nghe đến lời ngon ngọt, giọng thâm trầm, giữ được vậy khỏi bị ai rù
quyến vào đường tà, nẻo vạy, khỏi gây hơn thua, phải quấy (Vô lự do vô sự, vô
sự tiểu Thần Tiên). Ở đời lắm người giả dối, miệng tuy ngọt dịu, mà lòng chứa
gươm đao, giọng kèn tiếng quyển của họ có thế làm cho gái mất tiết trinh, trai
hư danh giá. Vậy nên lời phi, tiếng thị mặc ai, chẳng nên đem vào tai mà bị cám
dỗ, chẳng nên lắng nghe rồi đồ đi, nói lại cho ra việc “Ngồi lê đôi mách”, ai
cười chê nhiếc mắng ta, ta cứ ngơ tai giả điếc, thì khỏi lo cãi cọ tranh đua,
họ nói mặc họ, mình không nghe, nói thét mỏi miệng tự nhiên phải nín.
Tóm lại tai có mà như điếc
thì diệt được bợn nhơ thứ nhì là THINH vậy.
3. - Mũi chay nghĩa là mũi
giữ đừng cho biết mùi, đi ngang chỗ hôi tanh, chẳng biết hôi tanh mà gớm, đứng
gần kẻ xạ ướp, hương xông chẳng vì xạ ướp hương xông mà động. Giữ được vậy thì
diệt đặng bợn nhơ thứ ba là HƯƠNG vậy.
4. - Lưỡi chay nghĩa là
lưỡi chẳng cần nếm miếng ngon vật lạ, miếng ăn chỉ no dạ thì thôi. Ham miếng
cao lương, mỹ vị chi cho khỏi sát sanh hại vật. Mình ăn ngon miệng mà con sanh
vật phải hại mạng, thì ăn sao đành? Tuy là loài vật, chớ cũng thọ hưởng một
điểm linh quang như mình. Kiếp này nó là con sanh vật, biết đâu kiếp trước nó
chẳng phải là người? Kiếp này mình làm người, biết đâu kiếp trước mình chẳng
phải là con sanh vật? Ôi! Luân hồi chuyển kiếp, người vật, vật người, luân
chuyển lại qua cũng đồng một thể. Mình ăn thịt loài vật tức là mình ăn thịt lẫn
nhau, mà người có lương tâm há nỡ ăn thịt lẫn nhau cho đành đoạn?
Ông Mạnh Tử nói rằng:
“Thấy cầm thú bị đem giết thì Ngài bất nhẫn. Nghe nó kêu la thảm thiết khi bị
thọc huyết, Ngài không đành ăn thịt”. Lòng nhân này hiệp với đức háo sanh Tiên
Phật đó.
Người có tiền của còn mua
chim cá mà phóng sanh thay! Như mình nghèo không phóng sanh thì thôi, nỡ nào
lại sát sanh cho đành đoạn?
Lưỡi chay cũng chẳng nên
đắm say mùi rượu. Uống rượu vô loạn tâm, mà hễ loạn tâm thì sanh quấy. Người
xưa dùng rượu để cúng tế Thánh Thần, dùng rượu làm lễ mà thôi. Chớ Thánh Thần
đâu hưởng rượu của người phàm tục?
Người nay lấy nê câu “Vô tửu bất thành lễ” rồi trong việc
quan, hôn, tang, tế, mỗi mỗi thảy dùng rượu, thậm chí đến lúc bi hoan, ly hiệp
cũng dùng rượu, buồn gọi dụng tửu binh giải phá thành sầu, vui gọi dụng rượu Tô
hứng chí.
Hại thay! Rượu là giống
độc, ai cũng đều biết, mà nhiều kẻ lại ưa dùng, ấy cũng là lạ đó.
Có lời tục rằng: “Lưỡi không xương nhiều điều lắc léo”.
Muốn giữ cho lưỡi được trọn chay ta chẳng nên nhiều lời lắm tiếng. Nửa lời nói
ra chẳng phải, còn tổn đức bình sanh thay. “Bán cú phi ngôn tổn bình sanh chi
đức”, phương chi uốn ba tấc lưỡi mà việc không nói có, việc có nói không, quấy
làm ra phải, phải sửa thành quấy, thì tổn đức biết bao. Lời nói ra phải cho cẩn
thận, đáng nói thì nói, không đáng thì thôi, đừng bạ đâu nói đó mà tổn đức hao
hơi, lại còn nỗi sự sanh, sanh sự.
Tóm lại nếu giữ lưỡi đặng
trọn chay, thì chẳng những diệt tận bợn nhơ thứ tư là Vị mà lại còn giữ đặng tư
cách người tu hành đạo đức nữa.
5. - Thân chay nghĩa là
thân mình không cần trau giồi xinh đẹp, ăn mặc tốt tươi, chẳng cần dùng quần
là, áo lụa, chẳng ham nệm gấm, giường ngà. Người tu hành phải ép xác để cầu khổ
hạnh (Xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần). Áo vải, quần bô, miễn che thân, ấm cật
là đủ, đã giữ hạnh kẻ tu hành, lại vẹn câu tiết kiệm, nằm chẳng lựa giường êm
nệm ấm, nơi đâu sạch sẽ được yên giấc là xong.
Nếu thân trau giồi, chải
chuốt cho đẹp dạ mình, cho vừa mắt chúng, chi cho khỏi sanh lòng cảm động mà ra
điều tình tệ.
Giữ được thân tịnh như
vậy, thì tâm không xao động, không cảm xúc, tức là diệt được bợn nhơ thứ năm là
XÚC vậy.
6.- Ý chay là ý chẳng vọng
tưởng việc ác, không mơ ước việc cầu cao, không tính lợi cho mình mà hại cho
người, chẳng tính điều tham lam, trộm cướp.
Làm ác gặp ác chẳng sai
(Tích ác phùng ác).
Tính việc cầu cao mà không
đủ sức làm, đã không nên việc, lại hao tài, tổn sức, rồi ra người thất chí, mà
hễ thất chí thì cả đời không làm chi nên đặng. Chi bằng an phận thủ thường, tố
nào theo tố nấy.
Tính lợi cho mình mà hại
cho người là mất lẽ công bình. Làm người không giữ luật công bình đâu trọn tư
cách làm người đặng?
Tham lam, trộm cướp (*2)
của người không thế hưởng lâu đặng (Hoạnh tài bất phú). Không gặp nạn này cũng
vương lấy tai kia, khiến hao tài tốn của cho hết tiền phi nghĩa ấy đi. Dầu trốn
khỏi luật hình dương pháp, chớ lương tâm cắn rứt hằng ngày, thêm nỗi luật Âm
Cung rành rạnh, đợi buổi chung qui gia hình chẳng vị.
Tóm lại, giữ được ý chay
như vậy thì diệt được bợn nhơ thứ sáu là PHÁP vậy.
Lục căn chay rồi, lục trần
tự nhiên tiêu diệt. Đó là giặc bề ngoài, còn cõi Tâm là giặc bề trong, phải
chay mới được.
Tâm chay: - Nghĩa là tâm
mình phủi sạch mọi việc trần duyên, không hay, không biết, không lo, không
tưởng, muốn việc chi trên phàm tục này không trụ nơi tâm được, phải tan như
giá, phải rã như sương, cõi tâm trống như không, trắng như giấy, tâm có mà như
không. Ấy là sắc tức thị không. Hễ tâm trần chết, tâm đạo khởi ra. Ấy là không
tức thị sắc.
Giữ được tâm chay như vậy,
tức là gần Đạo rồi.
Tu luyện cốt lo cho phần
hồn ngày sau được tiêu diêu, tự toại nơi cõi Niết Bàn Cực Lạc, khỏi lao lự,
khỏi khổ phiền, khỏi tiêu diệt. Ta nay còn lộn theo trần tục mà nếu giữ được
tâm chay, tức là gặp Niết Bàn tại thế.
Vậy khuyên người đồng đạo
rán kiên tâm trì chí sửa tánh, răn lòng, một ngày làm lấy một mảy lành, trau
tria một nét hạnh, lần lần nhựt nhu nguyệt nhiễm cũng đặng trọn lành. Nếu thấy
khó ngã lòng, sao cho là Đạo?
Muốn lánh xa trần khổ,
trước phải chịu khổ tâm, khổ hạnh bây giờ là ngôi Cực lạc về sau vậy.
(*1) Theo sách Tây thì
quan thứ năm là da. Đây tôi đề là Thân cũng vậy vì cả châu thân đều bọc da.
(*2) Tham lam trộm cướp có
nhiều cách:
- Làm quan hà lạm của dân,
làm chủ lường công cướp việc, ấy là cách cướp giựt của người thượng phẩm.
- Bán buôn lường thăng
tráo đấu, xúi kiện thưa đặng hưởng huê hồng, gạt người lấy của, ấy là cách cướp
giựt của hàng trí thức.
- Lấy xâu ăn đầu, cờ gian,
bạc lận, làm tớ ăn lời chủ, đào hầm khoét vách, cướp giựt hành hung, ấy là thủ
đoạn của phường hạ tiện.
THẦN KINH
Thần kinh là đàn lạc chạy
theo xương thịt, có dây có sợi mà trắng, bắt từ óc và cốt chỉ trong xương sống
tua ra khắp thân hình. Nhờ nó mà châu thân chuyển động và hay biết về việc nhức
đau, nóng lạnh, vân vân…
Có ba thứ
thần kinh:
Thứ làm cho
giãn ra.
Thứ làm cho
co vô (hay thứ này gọi là vận động thần kinh).
Thứ làm cho
hay biết nóng lạnh, đau nhức… (thứ gân này gọi là tri giác thần kinh).
Ví dụ ta
muốn giơ tay ra, linh hồn ta sai khiến loại thần kinh thứ nhứt, đoạn nó giãn ra rồi
tay ta mới giơ ra hoặc giơ lên được. Khi ta muốn co tay vô, linh hồn ta sai khiến loại
thứ nhì, đoạn nó rút lại rồi tay ta mới co vô được (hai thứ này chẳng khác nào
dây trân để làm cho máy chạy vậy).
Khi ta đứt tay, loại thần
kinh thứ ba tiếp lấy sự đau đớn rồi chạy cho giác hồn hay biết (xin xem bài
giải về Tinh, Khí, Thần). Thứ này chẳng khác nào dây điển để truyền sự đau đớn,
nhức nhối, nóng lạnh cho giác hồn vậy.
Ngoài ba thứ này lại có
một bộ thần kinh khác không tùng lấy linh hồn mà cũng không ăn chịu với giác
hồn nữa. Bộ thần kinh này làm cho trái tim thoi thóp, huyết vận chuyển, phổi hô
hấp, tì vận động. Ta không thế nào muốn cho trái tim không thoi thóp, huyết
mạch không vận chuyển, phổi không hô hấp được v.v…, vì linh hồn không phải sai
khiến nó được, thậm chí khi ta ngủ, tim, phổi, tì vị, huyết mạch cũng vận động
luôn luôn, bộ thần kinh này gọi là giao cảm thần kinh (Grand sympathique). Giao
cảm thần kinh lại do theo sanh hồn, sanh hồn còn nó còn hành sự, sanh hồn dứt
(tức là thác) nó phải ngưng vậy. Tuy gọi là vô khiển mặc dầu, chớ nếu ta biết
phép luyện sanh hồn (luyện thần) ta cũng có thể điều khiển nó được vậy.
Bên xứ Ả Rập (Arabic), các
thầy tu gọi là Pha-kia (fakir) thường luyện đặng phép mầu ấy, họ muốn làm cho
trái tim không động, mạch máu không chạy, hơi thở ngưng lại dễ như chơi vậy.
Thậm chí có nhiều thầy cao đệ hay dùng phép trá tử (giả chết) trong đôi ba
tháng rồi sống lại như thường.
Tóm lại sự thần thông
quảng đại,phép tắc thiêng liêng của Tạo Hóa, ta đã sẵn trong mình (vì ta là
Tiểu Thiên Địa) tại ta không tìm kiếm đó thôi, nếu ta biết phương phép luyện tự
nhiên đoạt máy Càn Khôn.
CHƯƠNG THỨ NHÌ
TINH KHÍ THẦN
Trời có Tam Bửu (ba vật
báu) là: Nhật, Nguyệt, Tinh. Đất có Tam Bửu là: Thủy, Hỏa, Phong. Người có Tam
Bửu là: Tinh, Khí, Thần. Tinh, Khí, Thần là gì và bởi đâu mà ra?
Khi mở mang Trời Đất,
người mà Tạo Hóa sanh ra trước hết gọi là Nguyên nhân (êtres créés) (xin xem
bài giải riêng), Nguyên nhân này do khối Linh quang của Tạo Hóa nảy ra
(émanation divine). Trong khối Linh quang của Tạo Hóa có ba ngươn gọi là Tam
Hồn:
Linh hồn (Âme
intelligente)
Sanh hồn (Âme aérienne ou
vitale)
Giác hồn (Âme spermatique
ou sensitive)
Tuy là ba Ngươn hồn chớ
cũng pha lẫn nhau làm một, cho nên một mà ba, ba mà một.
Nguyên nhơn bởi thọ điểm
trong khối Linh quang của Tạo Hóa thì vẫn đủ ba hồn ấy:
Linh hồn tức là bổn nguyên
của ngươn THẦN.
Sanh hồn tức là bổn nguyên
của ngươn KHÍ.
Giác hồn tức là bổn nguyên
của ngươn TINH.
Nhờ Linh hồn mới có tính
khôn ngoan, biết nghĩ suy xem xét đủ điều.
Nhờ Sanh hồn mới có sự
sống.
Nhờ Giác hồn mới biết đau
đớn, nóng lạnh, mệt khỏe v.v…
Khi Nguyên nhân chưa mang
lấy xác phàm (*1) thì Giác hồn chưa biết đau đớn, nóng lạnh, mệt khỏe là vì
chưa có phần vật chất.
Lần lần Nguyên nhân lại
dùng vật thực huyết nhục mà xác thanh khiết phải hóa ra trọng trược, thêm nỗi
dâm tình vọng động mà biết trần lỗ. Vật ăn uống đều có chất sanh, những chất
sanh ấy ăn vào cấu kết lại thành khối mà làm xác phàm (formation des cellules),
có xác phàm rồi mới biết nóng lạnh, có trần lỗ mới biết hổ ngươi, vì vậy mới
chầm lá cây để che thân thể, sau lần lần dùng đến da thú vật, v.v…
Nguyên bổn của Tinh, Khí,
Thần là vậy đó. Đây xin giải ra từ ngươn để cho mọi người dễ hiểu hơn:
1. - Cai quản về phần trí,
trí lại tự óc (não) mà ra, nên thường gọi tiếng chung là trí não. THẦN là vật
thiêng liêng (*2) thường thường ở tại mắt, tuy vậy chớ nội châu thân chỗ nào
đến cũng được cả.
2. - KHÍ là hơi thở, trong
hơi thở đều có chất sanh để bảo tồn sự sống. Con người mới sanh ra, khóc ré
lên, châu thân vận chuyển, rồi tiếp lấy thanh khí vào mình. Ở ngoài, thanh khí
thuộc về Tiên Thiên (*3) trong sạch, khí thở vào mình rồi bị nhiễm lấy vật chất
xác phàm mà hóa ra Hậu Thiên ô trược (xin xem bài giải về tạng Phế).
3. - TINH thuộc về lưu
chất (mình nước) sết sết mà trong. Nhờ TINH mà con người mới có sức lực, nối
dòng giống và tạo Nhị xác thân. Trong phần TINH cũng có chất sanh, chia ra làm
ba, một phần trong sạch hơn hết gọi là tinh ba xông lên thành hơi (TINH hóa
KHÍ) hiệp với KHÍ, THẦN mà tạo Nhị xác thân (Périsprit) (xin xem bài giải
riêng), một phần xông lên vào theo lỗ xương sống (canal rachidien) đến tận óc
để làm khí lực (énergie) cho bộ thần kinh vận chuyển, một phần nữa là phần cặn
cáu để nảy sanh dòng giống.
Ở đời, ai ai cũng cần phải
làm lụng mới có mà ăn, phải lo lường, tính toán mới ra tiền bạc, phải giao cấu
nhau mới sanh con nối hậu. Hễ lao động nhiều phải lao lực (KHÍ), lo lường, tính
toán nhiều phải hao THẦN, dâm dục nhiều tổn TINH, thêm nỗi thất tình, lục dục
làm cho thân phàm phải mau hao mòn tiều tụy. Cho nên người càng già càng suy
nhược, vì ba báu ấy càng bữa càng hao mòn rồi rốt cuộc phải chết, tỉ như thắp
đèn càng thắp càng hao dầu, khi hết dầu đèn phải tắt. Ấy là cuộc Dinh Hư Tiêu
Trưởng vậy. Muốn sống lâu phải tránh mấy điều tổn mạng vừa kể trên đó đi.
Còn muốn siêu Phàm nhập
Thánh, ta cần phải luyện TINH, KHÍ, THẦN mới được.
(*1) Khi Nguyên nhân chưa
mang xác phàm thì còn thuộc về Thiên Tiên, vật chất ăn vào cấu kết thành xác
phàm thuộc Hậu Thiên cho nên sách gọi “Thiên sanh, Địa thành”.
(*2) Thiêng liêng là không
thấy, nghe, rờ rẫm được.
(*3) Tiên Thiên là sanh
trước Trời, không hình dạng, trong sạch như không khí, điển quang, v.v… Hậu
Thiên là sanh sau Trời, thuộc về vật chất trọng trược.
PHẢI HIỆP TINH, KHÍ, THẦN LÀM MỘT
Tinh, Khí, Thần là bổn
mạng của con người. Muốn siêu Phàm nhập Thánh mà trở về với Tạo Hóa thì phải
luyện Tinh hóa Khí, rồi luyện Khí hóa Thần cho ba vật báu ấy hiệp lại làm MỘT
điểm linh quang, mới có thể hiệp MỘT với khối linh quang của Tạo Hóa mà đắc
kiếp.
Luyện Tinh Hóa Khí
Tinh vẫn thuộc về lưu
chất, muốn luyện cho thành hơi (khí), ta phải nấu nó ra hơi, như nấu nếp đặt
rượu vậy, gọi là Hỏa Hầu (Tôn chỉ quyển sách này chỉ luận sơ lược về châu thân
mà thôi), muốn biết cách luyện Tinh, Khí, Thần thể nào xin xem lấy Đơn Kinh, song
Đơn Kinh có nhiều chỗ mắc mỏ, có xem thì hiểu chút đỉnh vậy thôi, chớ chỗ cao
sâu, huyền bí không thể nào thấu đáo, chỗ huyền bí duy có nhờ Thầy ta chỉ bảo
mà thôi. Nhiều ông do nơi Đơn Kinh luyện đạo, bị nhiều chỗ hiểu lầm, luyện đạo
không thấy ấn chứng lại còn hại cho tinh thần là khác.
Luyện Khí Hóa Thần
Tuy luyện Tinh hóa Khí
rồi, chớ khí ấy còn thuộc về Hậu Thiên, ta còn phải lọc đi lược lại theo phép
Vận Châu Thiên cho khí trở nên nhẹ nhàng trong sạch, cho Hậu Thiên Khí đổi lại
Tiên Thiên Khí mới có thể hiệp làm một với Thần được, sách gọi là Âm Dương
tương hiệp (xin xem bài giải về Âm Dương).
Luyện Thần Hườn Hư (*1)
Chừng ấy Thần ta đã đầy đủ
rồi, song chưa hiện xuất dương thần ra được. Ta cần phải luyện sao cho nó trở
nên như khí Hư Vô, mới nhẹ nhàng hơn không khí, rồi mới có thể trở lại Hư Vô
chi khí, hiệp làm một với Tạo Hóa gọi là đắc đạo.
Chơn linh của Tạo Hóa do
nơi khí Hư Vô sanh ra. Khí Hư Vô là gì? Là khí không không, tự nhiên mà có, không sanh, không tuyệt, không trước, không sau,
xem không thấy, lóng chẳng nghe, rờ không đụng. Mình không thế nào tìm ra cỗi
rễ, mà dầu muốn tìm ra cũng không có. Cho hay vật chi cũng có căn bổn. Chúng ta
lấy căn bổn Càn Khôn Thế Giái là khí Hư Vô thì đủ, nếu hỏi dần lân hoài như
vầy: “Vật chi sanh ra khí Hư Vô, rồi vật
chi lại sanh ra vật mà sanh ra khí Hư Vô đó?”. Nếu hỏi như vầy thì ngồi mà
hỏi cho đến chết cũng chưa dứt câu hỏi được.
Chơn linh của con người
cũng do nơi khí Hư Vô, luyện Thần mình trở lại Hư Vô chi khí, thì là trở về căn
bổn đó.
Như chúng ta bền tâm tu
luyện cho nhằm cách thức Thầy ta chỉ vẽ, thì chúng ta có thể hiện xuất dương
thần trong khi còn tại thế mà vân du thiên ngoại. Theo luật nặng nhẹ tự nhiên
(loi de la Pesanteur), thì vật chi nhẹ hơn không khí đều được bay lên, vật chi
nặng hơn phải rơi xuống. Ví dụ: Hút một điếu thuốc, khói thì bay lên vì nhẹ hơn
không khí, còn tàn thuốc thì nặng hơn nên phải rớt xuống. Khi hồn ta lìa xác,
nếu nhẹ hơn không khí, thì theo Nê Hườn Cung mà bay lên, nếu nó nặng hơn không
khí, thì nó phải theo cửu khiếu mà đọa xuống. Có người thác rồi, lỗ tai, con
mắt, mũi, miệng đều ra máu, là tại hồn xuất mạnh quá.
(*1) Trước khi tạo Thiên
lập Địa là lúc Hỗn độn sơ khai (chaos) nghĩa là lúc sơ khởi khí Vô Cực, thì
chưa có Trời Đất, nhơn vật chi hết. Cái không không, mờ mờ đó là Hư Vô, là bổn
căn tánh thể ta vậy. Ta do gốc đó mà sanh ra, trở về Hư Vô chi khí gọi là Hườn
Hư.
NGUYÊN NHÂN VÀ HÓA NHÂN
Trong vạn loại, từ vật
chất đến con người, thảy thảy có chất sanh (électron) (cái chất sanh ấy do nơi
khối Linh quang của Tạo Hóa ban cho). Kiếp luân hồi lại bắt từ vật chất đến
thảo mộc, từ thảo mộc lên thú cầm, từ thú cầm đến nhơn loại: Nhơn loại còn phải
luân đi chuyển lại muôn vàn kiếp nữa mới đặng hoàn toàn. Ấy là cuộc luân chuyển
theo luật tự nhiên của Càn Khôn, Thế Giái (évolution). Người mà do phép luân
chuyển ấy sanh ra, nghĩa là bắt từ vật chất phát sanh, gọi là Hóa nhân (êtres
évolués). Con người của Tạo Hóa sai xuống lúc ban sơ để lập nên nhân loại, sau
buổi tạo Thiên lập Địa thì gọi là Nguyên nhân (êtres créés). Nguyên nhân cũng
phải chuyển kiếp luân hồi như Hóa nhân vậy. Nguyên nhân thường gọi là kẻ có
tiền căn, cựu vị.
Luân hồi chuyển kiếp chẳng
khác nào sự hô hấp huyết mạch trong châu thân. Huyết trong trái tim tua ra khắp
châu thân, rồi trở lên phổi nhuận sắc lại cho trong sạch đặng trở về tim. Thái
Cực chẳng khác nào trái tim, người đắc đạo hườn nguyên hiệp nhứt với Thái Cực
(Đấng Tạo Hóa) thì cũng như huyết nhuận sắc rồi trở về hiệp làm một với trái
tim vậy. Cho nên châu thân con người gọi là Tiểu Thiên Địa thì phải lắm. Muốn
rõ cách chuyển kiếp thể nào xin xem hình sau đây
VẠN LOẠI CHUYỂN KIẾP ĐỒ
NHỊ XÁC THÂN
Nhị xác thân là gì? Là
thân thứ hai của con người (thân thứ nhứt tức là thân phàm, xác thịt). Có kẻ
gọi là tướng tinh. Khoa học Tây có chỗ gọi là Périsprit, có chỗ gọi là Double,
hoặc là Corps astral. Nhị xác thân thuộc về lưu động chất (fluide) là vật
thiêng liêng, cho nên mắt không thấy đặng, nhưng có khi nó cũng có thể hiện
hình ra cho người ta thấy, nên gọi là bán hữu hình. Cái nhị xác thân của người
nào thì lấy in theo hình ảnh của người nấy như rập vậy. Nhị xác thân chánh là
xác thiệt của phần hồn. Khi hồn còn ở xác phàm, nhị xác thân cũng ở theo xác
phàm, hễ hồn lìa khỏi xác phàm thì nhị xác thân cũng thoát ra theo bao bọc Linh
hồn.
Kẻ thác rồi mà hiện ra cho
người ta thấy (thường gọi là ma hiện hình) là hiện hình cái nhị xác thân ấy
(Metérialisation du Périsprit).
Kẻ tu đắc đạo rồi có thể
ngồi một chỗ mà xuất nhị xác thân ra khỏi xác phàm, rồi cũng đi đứng, nói năng
như thường, con mắt phàm không thế nào phân biệt nó với xác thịt được.
Nhị xác thân của Thần,
Thánh, Tiên, Phật lại huyền diệu vô cùng, trong nháy mắt dạo khắp ba ngàn thế
giái, núi non, cây cối, sắt đá chi chi cũng qua được là vì nhị xác thân thuộc
lưu động chất, mà lưu động chất của Tiên, Phật lại thuộc về Cao Thiên Khí, cho
nên không vật chi cản ngăn được hết.
Trong một cái xác phàm
tinh khiết mới có được nhị xác thân tinh khiết. Mà muốn cho xác phàm tinh khiết
thì chẳng nên dùng vật thực huyết nhục là vật chất nặng nề, ô trược. Vì vậy nên
muốn luyện đạo cần phải trường trai, vì đồ chay thuộc về thảo mộc, nhẹ nhàng
tinh khiết.
ÂM DƯƠNG LUẬN
Tôn chỉ sách này là luận
về châu thân mà thôi, muốn cho rõ nghĩa hai chữ Âm Dương là chữ tôi thường dùng
trong sách, nên xin giải sơ lược ra đây.
Dương là sáng, Âm là tối.
Theo Trời Đất thì ngày là Dương, đêm là Âm, cho nên mặt trời gọi là Thái Dương,
mặt trăng gọi là Thái Âm. Dương khí là khí nóng, trong sạch nhẹ nhàng, Âm khí
là khí lạnh (nguội), ô trược, nặng nề. Thần Tiên thuộc về Dương thần, nhẹ nhàng
mà siêu thăng, Tà Ma thuộc về Âm thần, ô trược, nặng nề, phải đọa giáng. Sách
gọi là Dương thăng, Âm giáng.
Về nhơn loại thì đàn ông
thuộc Dương, đờn bà thuộc Âm.
Phần tinh của đờn ông
thuộc về Dương, của đờn bà thuộc Âm.
Về loài vật thì Dương là
đực, Âm là cái; Dương là trống, Âm là mái. Thiên Tiên Âm Dương thuộc khí, Hậu
Thiên Âm Dương thuộc chất.
Về Tiên Thiên, thì khí
Dương khí Âm đụng nhau mới sanh Thái Cực: Thái Cực lại sanh Trời Đất. Ấy là Âm
Dương tương hiệp.
Về Hậu Thiên thì tinh cha
(Dương) tinh mẹ (Âm) tương hiệp mới sanh sanh hóa hóa (chỉ về Phàm thai).
Đèn điển ta thắp, cũng nhờ
Âm Dương tương hiệp mà sanh ánh sáng, vì có hai dây điển: Một dây nóng thuộc
Dương, một dây nguội thuộc Âm.
Theo phép Đạo, luyện Khí
(Âm) hiệp Thần (Dương) cũng gọi là Âm Dương tương hiệp (chỉ về Thánh thai). Khi
luyện được Âm Dương tương hiệp rồi thì hiện xuất hào quang như đèn điển sanh
ánh sáng vậy.
Thánh Hiền xưa cũng do Âm
Dương tương hiệp mà đặt ra chữ MINH 明 là sáng. Bên tả (*1) là chữ NHỰT 日 bên hữu là chữ NGUYỆT 月, hai chữ ráp lại là Âm
Dương tương hiệp thành ra chữ 明 là sáng.
Lạy Phật Trời, hai tay chấp lại cũng gọi là Âm Dương tương hiệp phát khởi
Càn Khôn, sanh sanh hóa hóa.
(*1) Tả thuộc Dương, hữu thuộc Âm, nên thường gọi là Nam tả, Nữ hữu.
Nếu các bạn không đọc được phần chữ Hán trên đây, các bạn cần phải cài đặt
fonts chữ Hán qua địa chỉ sau đây: http://www.twinbridge.com/
(Free Chinese TrueType fonts for Microsoft Office, eBook Reader and
Internet)
PHÀM THAI
Trước khi dựng nên Trời Đất, khí Hư Vô chia ra Âm Dương. Ấy là Đạo Âm Dương
tương hiệp mới sanh Thái Cực, Thái Cực lại sanh Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi phân Tứ
Tượng. Tứ Tượng sanh Bát Quái. Bát Quái lại biến hóa vô cùng mới có nhân loại.
(Xin xem sách TIÊN THIÊN TIỂU HỌC thì rõ hơn). Đó là cuộc dựng nên Trời Đất. Cuộc
gầy dựng nhơn loại cũng đồng một thể. Khi vợ chồng giao cấu nhau, phần tinh hai
người hiệp lại gọi là Âm Dương tương hiệp. Phần tinh của đờn bà ngậm lấy phần
tinh của đờn ông thành ra một khối nhỏ tròn như trứng (*1) vậy gọi là đậu thai,
tức là Thái Cực. Thái Cực lần lần lớn dài, đoạn sanh ra đầu, đầu và mình đó là
Lưỡng Nghi, kế mọc ra tứ chi (hai tay, hai chân) gọi là Tứ Tượng. Tứ chi của
con trai gọi là Tứ Dương, của con gái gọi là Tứ Âm. Khi lớn lên, đàng trai đàng
gái phối hiệp nhau thì Tứ Dương nằm trên Tứ Âm, thành ra Bát Quái, vì đó mà
sanh con đẻ cháu gọi là biến hóa vô cùng.
Ngũ tạng trong thân thể con người phù (hợp?) (*) với ngũ hành của Trời Đất,
cửu khiếu lại ứng đối với cửu tiêu.
Tóm lại, cuộc gầy dựng nhơn loại chẳng khác nào cuộc gầy dựng Trời Đất, cho
nên con người gọi là Tiểu Thiên Địa.
(*1) Phần tinh đờn ông ở trong, phần tinh đờn bà bao ngoài, cho nên của đờn
ông sanh xương, của đờn bà sanh thịt.
(*) Trong bản chánh không có chữ hợp, chúng tôi nghĩ có chữ hợp câu trên mới
đầy đủ ý nghĩa hơn.
THÁNH THAI
Luyện Khí (Âm) hiệp Thần (Dương) gọi là Âm Dương tương hiệp, khi ấy là đậu
Thánh thai, gọi là Thái Cực (Đạo gia gọi là Linh đơn, Thiền gia kêu là Xá Lợi Tử).
Thái Cực sanh Lưỡng Nghi rồi phân Tứ Tượng theo phàm thai vậy.
Tứ chi của xác phàm thuộc về Hậu Thiên gọi là Tứ Âm, tứ chi của Thánh thai
thuộc về Tiên Thiên gọi là Tứ Dương. Tứ Âm hiệp với Tứ Dương thành ra Bát Quái.
Khi đắc đạo rồi, nhị xác thân huyền diệu vô cùng, thoát xác phàm chừng nào cũng
đặng, vân du thiên ngoại dễ như chơi, gọi là biến hóa vô cùng.
Tóm lại Phàm thai, Thánh thai đều do theo luật Thiên Đạo, một gốc mà ra.
Langsa có câu: “Tout part de l’Unité”, nghĩa là mỗi mỗi đều do Một mà ra. Một ấy
tức là Trời vậy.
Phàm thai phải đủ mười tháng mới đủ hình, Thánh thai cũng phải mười tháng mới
toàn thân mà xuất anh nhi (tức là nhị xác thân). Song anh nhi còn nhỏ, chưa được
cứng cát, nên phải gia công luyện thêm ba năm nữa gọi là Tam niên nhũ bộ (ba
năm bú mớm). Tam niên nhũ bộ rồi, Dương thần mới được thần thông, khi ấy như muốn
ở nán lại phàm gian cứu dân độ thế, hay là thoát xác phi thăng tùy ý.
Muốn chứng quả cao hơn nữa (là bực Kim Tiên đồng vai với Phật), cần phải
tìm chốn non cao thanh tịnh, bồi bổ dương thần cho cứng cát thêm nữa. Phải tịnh
dưỡng như vậy cho đặng chín năm, gọi là “Cửu
niên diện bích”.
CHIÊM BAO
Chiêm bao có hai thứ: Ảo mộng và Thần mộng. Ảo mộng là chiêm bao thấy điều
huyển hoặc cho nên thường gọi là mộng mị hay là mộng huyển.
Thần mộng là chiêm bao linh, thấy sao có vậy.
Ảo mộng thường bởi nhiều cớ:
1. - Trong giấc ngủ, hoặc ăn uống không tiêu, hoặc nằm cấn mạch máu làm cho
máu chạy không đều. Mà hễ máu chạy không đều thì loạn trí (thần): Loạn trí mới
thấy bậy bạ, như kẻ điên bị loạn trí thấy bậy bạ mà nói xàm. Cái mớ trong giấc
ngủ chẳng khác chi cái nói xàm của kẻ điên vậy. Đờn bà đường kinh không điều
hòa (hay trồi sụt) ngủ hay chiêm bao là bởi cớ ấy.
2. - Trong giấc ngủ, nếu phách (*1) chế hồn, não (óc) ta phải vắng chủ
trương thì không chi kềm chế, nên sự suy nghĩ, lo lường của ta trọn ngày mà đã
in vào não đó, thừa dịp tuôn ra lộn xộn (như bầy chiên không người giữ tuôn bậy
vậy), hồn ta lúc đó bị phách chế, mơ màng nửa biết, nửa không cho nên khi tỉnh
giấc rồi, ta nửa quên nửa nhớ.
Thần mộng do nơi duyên cớ sau này: Trong giấc ngủ ngũ tạng, lục phủ đều êm
tịnh, như máy để êm không chạy, người coi máy (tức là hồn) được thong thả mới
xuất ngoại thân, song xuất không trọn khỏi xác (nếu xuất trọn xác thì chết rồi)
vì phải còn một phần ở lại (ấy là phần ít), khi ấy hồn mới vân du cảnh ngoại (nếu
hồn được tinh khiết, thì có thể lên tận cõi trên), khi thấy vầy, khi thấy khác,
có khi gặp hồn khác mà chuyện vãn với nhau.
Phần hồn xuất
xem thấy bao nhiêu, thì phần hồn ở lại in vào não bấy nhiêu, nên khi ta tỉnh giấc,
thì nhớ đủ đầu dây mối nhợ. Ấy là Thần mộng (ít khi có lắm).
Có người thuở nay chưa hề quen biết cái nhà kia mà chiêm bao thấy mình đến đó, nhà
cửa thế nào, cách sắp đặt làm sao đều thấy rõ hết. Khi tỉnh giấc, đến đó xem thử,
thì chẳng sai một mảy. Ấy là Thần truyền.
Đời xưa có người
trong giấc chiêm bao mà kết nghĩa kim bằng với nhau, gọi là nghĩa Thần giao.
(*1) Phách là phần
trọng trược của Thần Hồn, thuộc Âm. Khi Hồn lìa khỏi xác
(chết), phách phưởng phất theo mây gió, không bao lâu phải tan rã, chất sanh
trong phách lộn theo không khí, rồi ta lại hít vào mình. Thế thì trong Trời
Đất không vật chi sanh thêm mà cũng không vật chi tuyệt bớt (Rien ne se crée,
ni ne se perd). Cuộc tử sanh, cuộc tiêu hóa bất quá là đem đầu nọ đắp đầu kia vậy
thôi. Lafin d’une chose est le commencement d’une autre (Cái cuối cùng của vật
này là cái khởi đương của vật khác).
KHUYÊN
LÁNH XA TỬU SẮC TÀI KHÍ
Kể
từ thuở mở mang trời đất,
Nguồn
nhơn sanh tánh chất thật thà.
Vì
chưng trần tục đắm sa,
Một ngày một nhiễm một xa cội nguồn.
Người thì mảng pha tuông biển sắc,
Kẻ tìm nơi đổ bác chen vào.
Đã ham rừng thịt rượu ao,
Lại quen tánh khí bào hao lẫy lừng.
Thế mà phải tinh thần suy kém,
Uổng ngôi xưa một điểm linh quang.
Ăn năn ví chẳng sớm toan,
Mối dây oan nghiệt buộc ràng bên chân.
* * *
Rượu là giống trăm phần ác độc,
Làm cho người hình vóc héo hon.
Kể ra hại chất bằng non,
Đốt tiêu phế phủ, soi mòn tâm can.
Khi quá chén tào khang chẳng kể,
Lúc lỡ say nào nể xóm giềng.
Mẹ cha thảm, vợ con phiền,
Nhuốc nhơ danh giá, đảo điên đạo nhà.
Ví biết trọng tề gia chi bửu,
Đừng lân la quán rượu lầu cao.
Vui mê bầu ngọc chén đào,
Đã suy khí lực, lại hao tinh thần.
* * *
Chừa mấy chốn lầu Tần, quán Sở,
Thói trăng huê dầu lỡ đắm sa.
Ăn năn sớm tháo chân ra,
Khỏi vòng lục dục mới là người khôn.
Con sóng sắc dập dồn biển ái,
Mảnh hồng nhan là cái gươm đao.
Xưa nay mấy mặt anh hào,
Giang san sự nghiệp chôn vào tình si.
Trai xấu tiếng cũng vì sắc hại,
Gái mất trinh cũng tại gian dâm.
Đảo điên đức bốn, thường năm,
Phong thương tục bại, tội dâm muôn đời.
* *
*
Trường đổ bác là nơi gieo nạn,
Hại nhiều tai bại sản khuynh gia.
Chung sòng nào kể trẻ già,
Xô bồ quí tiện cũng là đồng vai.
Khi vận đỏ hiếm tay niềm nở,
Thói a dua tiếng bợ lời tưng.
Rủi thua vương lấy nợ nần,
Người xa gièm siểm, kẻ gần khinh khi.
Cơn túng ngặt kể chi tội phước,
Lòng rắp ranh tìm chước gian tham.
Việc chi hễ lợi thì làm,
Thân danh là trọng cũng đam chôn vùi.
* * *
Biết nhẫn nhịn tính xuôi muôn sự,
Mặc tình ai làm dữ nấy lo.
Lửa lòng nóng quá lửa lò,
Biết khôn dằn xuống khỏi lo tụng đình.
Giận
một lúc mà sinh hại cả,
Dầu
ăn năn cũng đã muộn rồi.
Chi
bằng giả điếc làm đui,
Thị
phi ừ hử cho xuôi mọi bề.
Nôm na một bổn
giác mê.
CHUNG

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét