
LỜI NÓI ÐẦU
Chúng ta ở vào thế kỷ văn
minh vật chất, thêm gặp buổi khó khăn, con người mảng chật vật về kiếp sống
còn, lo cho hiện tại chưa kham, ít ai được tâm trí rảnh rang nghĩ tới những
việc cao xa, sâu kín.
Cái trạng huống ấy còn kéo
dài, nhiều người rồi đây không khỏi bị lôi cuốn theo làn sóng duy vật mà bỏ hẳn
tinh thần đạo đức bỏ cả quan niệm thiện ác.
Vốn không phải một công
trình sáng tác, mà là một công trình sưu tập, sưu tập những giáo lý và học
thuyết của các đấng tiền nhân, sưu tập những chuyện xưa tích nay về "KIẾP
LUÂN HỒI" và "LUẬT NHƠN QUẢ" có thể gây ảnh hưởng sâu xa cho
nhơn tâm thế đạo giữa sức cạnh tranh của hai thuyết Duy Tâm và Duy Vật.
Thừa biết có nhiều khuyết
điểm không thể tránh, chúng tôi cầu xin các bực cao minh đại đức vui lòng điểm xuyết,
cho quyển sách nhỏ nầy được đầy đủ hơn trong kỳ tái bản.
Mùa Xuân năm Bính
Thân
NGUYỄN TRUNG HẬU
và PHẠM TẤN ÐÃI
CHƯƠNG NHỨT
1 - Linh hồn bất diệt.
Linh hồn là điểm linh
quang bất diệt. Từ ngàn xưa, nhơn loại vẫn tin như thế. Sự tin tưởng ấy chính
là một tín điều, làm căn bản cho các tôn giáo.
Qua nhiều thế hệ, tôn giáo
vì bị diên cách mà thất kỳ truyền, cho tới ngày nay, tôn giáo kém lần uy tín
tinh thần, khiến cho lòng người hoang mang thắc mắc, rồi đâm ra ngờ vực cái tín
điều cố hữu ấy. Gia dĩ vào thế kỷ 20 nầy, khoa học vật chất phát triển rất mau,
những tìm tòi và phát minh khoa học đã biến cải điều kiện sanh tồn theo quan
niệm mới và đã hoàn thiện đời sống vật chất của nhơn loại.
Tuy nhiên, nếu khoa học
thắng lợi về phương diện vật chất, nó lại làm càng lu mờ cái tín ngưỡng về linh
hồn, thành thử ít người chịu quan tâm đến phần linh diệu của mình, không cần
tìm hiểu sau khi lìa khỏi xác phàm, linh hồn sẽ ra sao. Họ bận lo cho kiếp hiện
tại, cho những cận lợi nhãn tiền, mặc cho kiếp tương lai mà họ không tin là có.
Thêm vào đó, những phát
kiến gần đây của thiên văn học, địa chất học, nhơn loại học đã đánh đổ những
bịa đặt quá đáng của một vài tôn giáo, gây thành mối tương phản giữa đức tin và
lý trí.
Tóm lại, một phần vì sức
bành trướng của khoa học, một phần vì lập thuyết mập mờ của vài tôn giáo, nhơn
sanh quá chú trọng về vật chất, bỏ quên hẳn về tinh thần. Dầu các nhà tín
ngưỡng chơn chánh có đem tài hùng biện tranh luận với các nhà khoa học trên địa
hạt triết lý cách nào đi nữa tưởng cũng không thể đem thắng lợi về mình. Phải
tìm một phương pháp khác: QUAN SÁT và THỰC NGHIỆM. Phải tìm đủ bằng cớ minh
chứng linh hồn là một điểm linh quang hiện hữu và có thể linh hoạt ngoài cơ
thể.
May thay! Những bằng chứng
ấy đã có và không khó để xác nhận, nếu người ta chịu khảo sát một cách vô tư
những hiện tượng như huệ nhãn (clairvoyance), huệ nhĩ (clairaudionce), thần
giao cách cảm (télépathie), linh cảm (prémonition), xuất thần (dédoublement)
vân vân…
2 -
Bằng chứng.
Ngay từ năm 1882, Hội Anh
quốc Nghiên cứu Tâm linh (Société Anglaise des Recherches Psychiques) đã dày
công khảo sát và nghiên cứu hàng ngàn hiện tượng siêu hình. Việc làm tiêm tất
ấy khiến giới trí thức phải quan tâm rồi quen lần với những hiện tượng xảy ra
chứng tỏ linh hồn có thật. Nên nói rằng Hội Nghiên cứu nầy gồm nhiều danh nhơn
trong giới khoa học và thần học của nước Anh vào thế kỷ 19.
Tháng ba năm 1922, giáo sứ
Charles Richet (người Pháp) đem trình tại văn phòng Khoa học Hàn lâm viện
(Académie des Sciences) một tác phẩm của ông, nhan đề "SIÊU LINH HỌC KHÁI LUẬN" (Traité de métaphysique), trong
đó ông chứng thực những hiện tượng nói trên.
Các nhà thông thái như
Grookes, Alfred Russel Wallace, Myer Sir Oliver Lodge, Lombroso đều công nhận
thuyết Thần linh là đứng đắn, có thể giải quyết các vấn đề siêu việt về những
hiện tượng siêu linh.
3 -
Xuất thần.
Năm 1884, ông Cố đạo Huc,
sau khi du lịch bên xứ huyền bí Tây Tạng, về Ba Lê (Paris) có thuật lại cho một
người bạn nghe một chuyện ly kỳ mà ông đã thấy tạn mặt hồi ông ngụ tại chùa Koumboum.
Ông nói: "Một hôm đương ngồi đàm đạo với một nhà sư, bỗng tôi thấy vùng
nín thinh, dường như lắng nghe điều gì, đoạn nói: "Tôi phải đi mới được". Ngạc nhiên, tôi hỏi: "Ông đi đâu? Và vừa nói chuyện với
ai?" Ông đáp: "Ði lại chùa
X, ông Thầy Cả chùa ấy cần nói chuyện với tôi, nên mới gọi tôi".
Từ Koumboum đến chùa X rất
xa, đi bộ phải mất vài ngày, nhưng nhà sư đi bằng cách xuất thần. Ông vào tịnh
phòng, tôi vô theo. Ông bảo một sãi khác đóng cửa lại. Vài phút sau, ông sãi
cho tôi biết rằng nhà sư đã đi rồi. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Cửa phòng đóng chặt, đi
làm sao được?
- Ông xuất thần đi như
chớp nhoáng, đâu phải đi bằng xác phàm.
Ba ngày sau, vì chưa thấy
động tịnh, tôi hỏi tin tức thì nghe nói chiều hôm ấy nhà sư về. Thật vậy, mặt
trời vừa lặn, tôi nghe từ trên mây có tiếng bảo mở cửa. Tôi dòm lên thấy nhà sư
bay xuống rồi vô phòng.
Vài hôm sau, người ta đưa
ông Cố đạo Gabet và tôi ra khỏi biên giới Koumboum vì chúng tôi tò mò quá.
* * *
Cũng về hiện tượng xuất
thần, cách đây lối 25 năm, chúng tôi được nghe một chuyện cũng kỳ bí như chuyện
trên do một nhà giáo già thuật lại. Lúc ấy ông làm hiệu trưởng một trường công
tại ngoại ô Saigon, một người đáng kính và đáng tin cậy.
Ông thuật chuyện dưới đây:
"Hồi tôi còn trẻ lối hai mươi mấy tuổi, tôi cùng
vài bạn lên viếng núi Ðiện Bà (Tây Ninh). Vừa đến chân núi, chúng tôi gặp ông
sãi tu tại động Linh Sơn, đương đi dạo dưới núi. Không ai biết tên ông, chỉ
biết ông là người Chàm (Chiêm Thành), nên gọi ông Chàm thôi.
Khi chúng tôi lên tới
động, ông Chàm đã chực sẵn tiếp rước chúng tôi. Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng thầm
nghĩ có lẽ ông biết đường đi tắt nên lên động trước hơn.
Hầu chuyện được một lúc,
ông lại bảo chúng tôi: "Xin mấy ông
ngồi chơi giây lát tôi có việc phải đi".
Nói đoạn, ông lặng thinh
cúi mặt xuống bàn như ngủ. Chúng tôi ngơ ngẩn không hiểu đâu vào đâu cả. Tuy
nhiên, chúng tôi vẫn ngồi yên lặng đợi chờ, không dám làm kinh động giấc nhấp
của ông. Một lát lâu, ông ngước mặt lên, thì kỳ dị thay! Trên bàn chất đầy nào
là nhang, đèn, trà tàu và bánh in mà ông bảo mới đi Cholon mua về.
Thuật dứt câu chuyện huyền
bí ấy, nhà giáo cười nói: "Ðó là
chuyện thật tôi thấy tận mặt. Thấy sự mầu nhiệm ấy, tôi muốn tu quá, ngặt vì
tuổi còn thơ, gia đình còn ràng buộc chưa thể thi hành theo ý nguyện".
Về sau nhà giáo tu thật. Ông nhập môn Ðại Ðạo
Tam Kỳ Phổ Ðộ và hành đạo một cách sốt sắng.
Còn ông Chàm, sau khi đắc quả, có giáng cơ với
danh hiệu Huệ Mạng Trường Phan và cho bài thi tứ tuyệt dưới đây:
"
Tây Ninh tu luyện động
Linh Sơn,
Chẳng quản mùi đời thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu, vương bá có chi hơn?"
* * *
Nhờ cơ bút, người phàm có
thể thông công với những linh hồn giải thể đương linh hoạt ở cõi hư không mà
người đời quan niệm về đẳng cấp, gọi là Thần, Thánh, Quỉ, Ma…
Ở nước Pháp, các nhà Thần
linh học còn dùng phương pháp thiết thực hơn để chứng nhận một cách đích xác sự
hiển hiện của linh hồn bằng cách chụp ảnh và lấy dấu tay của những người chết
hiện hồn về. Cuộc thí nghiệm nầy được tổ chức rất châu đáo để phòng ngừa những
sự gian lận hoặc ảo ảnh.
Và sau những cuộc thí
nghiệm, nhiều nhà bác học còn điều tra lại nhiều lần rồi mới chịu tin chắc, mặc
dầu những nhà duy vật cố tâm xuyên tạc.
4 - Thần giao cách cảm.
Tờ báo International
Psychic Gazette có tường thuật hiện tượng dưới đây:
Bà Maria Szabo ở tại một
làng của nước Hung gia lợi (Hongrie), gần Ezegedin.
Bà có một người con trai
sang lập nghiệp ở Mỹ quốc đã 20 năm mà vẫn bặt tin tức, cho nên ai cũng tưởng
nó đã bỏ thây nơi đất khách.
Một đêm vào đầu tháng tám
dương lịch, bà mẹ đương ngủ vùng thức dậy la lên: "Chính nó, chính con tôi trở về!".
Con gái bà nghe la lật đật
chạy đến phòng bà, thì bà bảo vừa nằm mộng thấy con trai bà chống tay dựa lan
can một chiếc tàu, bà còn nói thêm rằng gò má bên trái của nó có một cái thẹo.
Cả nhà đều cho bà nói mê, không quan tâm đến. Qua chiều ngày sau, quả thiệt con
trai bà từ Mỹ quốc trở về. Nó cho biết trong lúc tàu tiến gần duyên hải Âu
Châu, nó chống tay dựa lan can mà trí tưởng đến mẹ già. Lúc bấy giờ ai nấy đều
nhận thấy trên gò má bên trái của nó có một cái thẹo dài, hỏi nó thì nó bảo
trong thời gian lưu ngụ tại Hiệp Chủng Quốc (Etas Unis) nó bị thương trong một
cuộc ấu đả.
Theo truyện trên đây,
chúng ta nhận định rằng trong khi người con trai đem hết tinh thần ý chí tưởng tới
mẹ già, thần của y xuất về thăm mẹ, và bà ấy vốn có linh cảm mới thấy được con
trong giấc mộng.
5 - Một ông giáo sĩ hiện
hồn về.
Tờ Thần Linh Tạp Chí
(Revue spirite) xuất bản vào tháng Giêng năm 1932, cho biết tờ The Tivo Words
có thuật một hiện tượng kỳ quái đã xảy ra tại Manchester (Anh quốc), nơi tịnh
viện mà 38 năm về trước ông giáo sĩ Sharrock đã lìa trần. Những người ở nơi
tịnh viện đêm nào cũng thấy ông ấy hiện hồn về, thét rồi họ phải báo cáo cho
Mục sư J. Drescher hay biết. Mục sư liền ban phép lành và rải nước thánh cho
tịnh viện ấy. Rồi người ta tụng kinh cầu siêu cho linh hồn giáo sĩ Sharrock tại
nhà thờ mà trước kia giáo sĩ đã hành sự.
Mục sư Drescher lại tuyên
bố: "Tôi không cho rằng những hiện
tượng như thế có tánh cách xấu. Giáo hội Công giáo nhìn nhận sự hiện hồn sở dĩ
có là: hoặc người chết còn để lại nơi thế gian một công trình đương bỏ dở, hoặc
để nhắc nhở người rằng một thế giới khác đương chờ chúng ta bên kia màn bí
mật".
6 - Ðứa
bé mắt thần.
Báo Wahres Leben, xuất bản
tại thành phố Leipzig (nước Ðức) vào tháng 2 năm 1929, dưới ngòi bút của ông
Willi Dobberkan, có thuật chuyện một đứa bé có thần nhãn. Hiện tượng nầy đã
đuợc nhà khoa học huyền bí là bác sĩ Petro Niel tại thành Madrid (Tây Ban Nha)
khảo cứu kỹ càng. Dưới đây là những điều được quan sát mà ông đã trình bày
trước mặt các thính giả chuyên môn:
"Ðó là một đứa bé bảy tuổi, ngó xuyên qua các
vật, dường như cặp mắt nó phát ra những quang tuyến Roentgen.
Ðứa bé ấy tên Benito Paz, con một nhà giáo người Tây
Ban Nha, hồi lên năm, bỗng nhiên nó đọc được những trang chữ trong một quyển
sách gấp lại và để trước mặt nó. Lúc đầu, cha nó nghi nó đã học thuộc lòng
trước. Rồi ông thử nó nhiều cách: nhơn ông đã đánh mất một nút áo, bảo nó kiếm
thì nó nói nó thấy ở trong hộp đựng thuốc lá của ông. Ðúng như vậy. Ðoạn ông
lấy những điếu thuốc đem giấu nhiều chỗ, nó vẫn chỉ đúng chỗ giấu. Lúc bấy giờ,
nhà giáo mới chịu tin và dẫn nó đến Bác sĩ Petro Niel ở thành Madrid, cho ông
ấy quan sát và thí nghiệm. Bác sĩ bèn giấu nhiều vật trong những cái trấp bằng
kim khí, rồi bảo nó mô tả từng vật một, đoạn ông bắt nó đọc những bức thơ đựng
trong ba bốn phong bì để chồng cái nầy lên cái kia, ông còn bắt nó mô tả những
vật đựng trong mấy túi áo ông. Có điều lạ là đứa bé có thể thấy và đọc xuyên
qua giấy, giấy bồi, hàng vải và kim khí, nhưng vật nào để trong hộp hay rương
bằng cây thì nó không thấy được."
7 - Trục
phách người sống.
Trong lúc người Á Ðông, vì
thiếu phương pháp hoặc thiếu tánh háo kỳ, nên thờ ơ với những hiện tượng siêu
hình, thì người Mỹ hay người Âu lại dùng cách thí nghiệm để chứng chắc rằng
trong bản thân con người vốn có linh hồn và thể phách.
Năm 1893, đại tá Rochas,
tác giả quyển sách "Những kiếp sống
liên tục" (Les vies successives) có dùng một cô đồng để để trục phách
cô ấy.
Sau khi ở vào trạng thái
thôi miên, cô ấy không biết mình là ai nữa, không còn nhớ gì cả, nhưng pháp đàn
hay biết điều chi thì cô cũng hay biết y theo. Bỗng phía bên mặt cô hiện ra một
luồng thanh khí vận tròn, đồng thời, phía bên trái cũng xuất hiện một luồng
hồng khí, đoạn hai luồng ấy hòa lẫn nhau qua phía bên trái biến thành một tướng
tinh giống in hệt cô ấy. Ðó là phách của cô được trục khỏi bản thân. Ai nhẹ
bóng vía (voyant) có thể thấy đặng.
Nếu đưa một miếng đường
vào miệng cái phách ấy, thì cô biết ngọt, còn đưa tùng hương (nhựa thông) cô ấy
lại dùn mình. Nói tắt là cô và phách của cô vẫn đồng một cảm giác.
Người ta có thể chụp hình
cái phách, nhưng việc nầy chưa đủ bảo đảm cho mọi người tin là vì không biết
tại sao khi thì chụp được, khi lại không ăn ảnh.
Gần đây ông H. Durville,
Tổng Thư ký Viện Từ Khí học cũng có nghiên cứu về thần phách và được kết quả cụ
thể. Ông dùng thôi miên làm cho một người kia ngủ, rồi trục phách người ấy ra
khỏi xác phàm, đoạn ông điều khiển cái phách ấy sang qua phòng khác. Bấy giờ
ông mới bắt đầu thí nghiệm về giác quan của người ngủ. Ông đem một tờ báo sang
phòng cho phách xem, thì nơi phòng bên cạnh, người ngủ lại đọc được. Những vật
gì đem để gần phách, thì cái xác nằm trơ trơ bên phòng kia vẫn mô tả hình trạng
đúng y.
Cái phách lại nghe được
tiếng đồng hồ tíc tắc, lời nói thầm thì bên mình, biết được mùi Ammoniaque, dầu
thơm và các mùi khác, nó nếm dầu xổ, đường sulfate de guinsire, nước bông cam,
rồi truyền các sự cảm xúc ấy cho xác thân không sai một mảy.
CHƯƠNG HAI
Thuyết Luân Hồi qua các Tôn giáo và học thuyết cổ
kim.
Từ cổ chí kim, từ Âu sang
Á, hầu hết các dân tộc, dưới hình thức nầy, hoặc hình thức khác, với một trình
độ trí thức thấp kém hay cao siêu, vốn có một tin tưởng tương tợ nhau về sự
linh hồn bất diệt. Sự tin tưởng ấy, lúc đầu còn mập mờ vì kém quan sát và thiếu
phương tiện khảo cứu, lần lần phải trải qua nhiều thế hệ, cái đức tín ấy mới
được minh xác. Cho đến ngày nay, linh hồn bất diệt được cho là một sự thật hiển
nhiên. Ngoại trừ phái duy vật, hầu hết các dân tộc nhìn nhận rằng: "Chết
không phải là hết", như nhà Nho bảo: "Sanh ký tử qui" (sống gởi
thác về). Chết là xác thịt rã tan, nhưng con người vẫn còn một cái gì thiêng
liêng và luôn luôn tồn tại, ta gọi linh hồn đó.
Ðể minh chứng điều nói
trên, chúng tôi xin mời quí vị cùng chúng tôi lược khảo các Tôn giáo và học
thuyết cổ kim về quan niệm luân hồi.
I . Ở nước Ấn Ðộ.
Ấn Ðộ có thể nói là nước
phát triển trước nhất về trình độ tinh thần trí thức, là nơi sản xuất nhiều Tôn
giáo.
Ấn Ðộ Giáo (Hindouïsme) do
Bà La Môn Giáo (Brahmanisme) mà ra và được phổ biến ở Ấn Ðộ tân thời. Ấn Ðộ
Giáo có hai phái: một phái thiên về triết lý, lấy kinh Vedas và kinh Upanishad
làm căn bản cho giáo lý mình, một phái thì chuyên chú về lễ bái nhiều hơn. Phái
sau nầy, ngoài hai thứ kinh kể trên, còn dùng thêm nhiều thứ kinh khác, như
Pourânas viết bằng chữ Phạn và theo lối vận văn, trong đó có giảng giải về Càn
Khôn Võ Trụ, nguồn cội, tông tích các vị thần và các triều vua chúa. Phái nầy
chủ trương rằng tất cả thần linh đều do một Tôn thần độc nhất hóa thân ra và
chịu dưới quyền chi phối của ba Hiện thể (Trimourti) của Tôn thần ấy là: Thần
Sáng Tạo (Brahma), Thần Phá Hoại (Shiva) và Thần Bảo Tồn (Vishnou).
Trong kinh Pourânas có
kinh Bhagavad-gita, trong đó ghi chép những lời giải thích của Ðức Krishna đáp
lại những nghi vấn của môn đệ Ngài là vua Arjuna, cũng như Luận Ngữ của Ðạo Nho
vậy.
Dưới đây, xin dịch một
đoạn trong kinh ấy giải thích về linh hồn và kiếp luân hồi.
"Linh hồn vốn bất sanh bất tử, nó không phải sanh
ra lúc trước, nó không thể tái sanh, bất sanh bất diệt, vĩnh kiếp trường tồn và
vốn có sẵn từ xưa, nó chẳng hề tiêu diệt khi người ta tiêu diệt thể xác.
Vậy, có lẽ nào một người đã biết nó bất sanh, bất tử,
vĩnh kiếp trường tồn, lại giết hoặc mướn giết kẻ khác?
Linh hồn bỏ những xác thân hư hoại để nhập vào những
xác thân mới, cũng như người ta bỏ y phục hư rách để mặc vào những y phục mới
vậy.
Nầy Arjuna ta đã sanh ra nhiều lần, ngươi cũng thế. Ta
thì biết rõ tiền thân của ta duy ngươi chưa biết đó thôi."
Lời dạy trên đây, chúng tỏ đạo lý Ấn Ðộ thời xưa nhìn
nhận linh hồn bất diệt và sự tấn hóa của nó phải trải qua nhiều kiếp chuyển
sanh cho tới khi đắc đạo trở về nguyên bổn.
Lối 560 trước Tây lịch kỷ nguyên, Thái Tử Sĩ-đạt-tha
(Siddharta) giáng sanh, Ngài là con vua Tịnh Phạn Ðầu-đà-na (Suddhodana), nước
Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu).
Lớn lên, Thái Tử thấy chúng sanh đau khổ, trong nước
chia nhiều giai cấp, còn Ðạo Bà La Môn thì lần lần sai biệt chơn truyền, không
còn phù hợp với trình độ tinh thần và trí thức của chúng sanh nên Ngài lìa bỏ
giàu sang, quyết tu thành đạo mà giải thoát cho nhơn loại.
Sau khi đắc đạo với danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật,
Ngài lập ra Phật Giáo, đánh đổ giai cấp và đề xướng chủ nghĩa Từ Bi.
Ngài nhập Niết Bàn rồi thì Phật Giáo chia làm hai
tông: Bắc Tông hay Ðại Thừa (Mahayana) xu hướng về duy tâm và được quảng đại
quần chúng về theo. Nam Tông hay Tiểu Thừa (Ninayana) hơi thiên về duy vật và
lập thuyết theo khoa học và lý trí. Tông nầy lại được hàng trí thức trong nước
hoan nghinh.
Về sau, Phật Giáo Bắc Tông truyền bá qua nước Trung
Hoa, Nhật Bổn, Việt Nam cho đến ngày nay.
Ðức Thích Ca có dạy chư môn đệ như vầy: "Bực chơn
tu công viên quả mãn, đều biết được kiếp trước của mình".
Ngài lại đơn cử một thí dụ
cho dễ hiểu:
Có một người kia bỏ làng
mình sang ở một làng khác, rồi lại đến ngụ một làng khác nữa. Khi trở về làng
cũ là chỗ chôn nhau cắt rún, người ấy nói: "Tôi đã di cư làng nầy đến làng
kia, ở đâu tôi cũng có cách ngồi đứng riêng: ngày nay tôi trở về cố hương".
Theo thí dụ trên đây, Phật
ngụ ý bảo rằng bực chơn tu đắc đạo nhớ được những tiền kiếp của mình đã trải
qua cũng như kẻ phiêu lưu khi trở về làng cũ, còn nhớ rõ những nơi mà trước kia
mình đã cư ngụ.
Trong kinh Tục Tạng (quyển
Lục Ðộ Tạp Kinh) có nói rõ sự tích về tiền thân của Ðức Thích Ca lúc chưa thành
Phật. Khi hóa sanh làm con vật, khi làm người, mà kiếp nào Ngài cũng đem của
cải hoặc hy sinh cả tánh mạng bố thí cho các loài hữu hình.
Nhưng Ðạo Phật không gọi
điểm Linh quang là Hồn mà gọi là A-lại-da, người Tàu dịch là Trạng thức hay
Nghiệp thức. Theo nhà Phật, con người có Bát thức mà A-lại-da là thức thứ tám.
A-lại-da là cái tâm thức, vì lúc ban sơ không giữ được tự tánh, cứ tùy theo
duyên kiếp hàm tàng các hột giống tốt xấu, lành dữ, thanh trược, và chứa đủ các
món ác kiến, tà kiến, ngã chấp, pháp chấp, vì thế mà tạo nhơn thọ quả rồi phải
đọa luân hồi. Khi con người chết, A-lại-da thức đi đầu thai đem theo các hạt
giống ấy, tức là những dục vọng và những tư tưởng tốt hay xấu của kiếp trước,
gọi là Thức thần.
II . Ở
nước Ai Cập.
Nước Ai Cập ở vào miền
Ðông Bắc Phi Châu, có một nền văn minh rất cổ, mà Tôn giáo lại vô cùng bí mật.
Thử để chơn vào bãi sa mạc ấy, ta sẽ ngạc nhiên thấy nào là đền thờ, chùa miễu,
nào là đồng trụ, kim tự tháp có khắc cổ tự (hiéroglyphes) với con quái vật đầu
người mình sư tử (Sphinx) ngồi xổm lên như đang nghĩ ngợi điều gì. Thêm những
mồ mả đúc vào đá đưa những bực lỡ ra tận bờ sông êm đềm lặng lẽ. Ai Cập thật là
một pho sách quí mà các nhà khảo cổ dựa vào đó cố sức vén màn bí mật của nền
Tôn giáo tối cổ nước ấy.
Cổ Ai Cập tôn thờ một vị
Tố Linh Thần có ba thể phù hạp với khoa triết học của Ấn Ðộ: Hỏa Thần Osiris,
biểu hiệu Thái Dương, xem xét và bảo hộ linh hồn người chết, Nữ Thần Isis, biểu
hiệu Thái Âm, chưởng quản cơ mầu nhiệm tạo hóa, trên hai vị thần ấy là đứng
cường kiện, cao minh, tối linh, tối diệu, người Ai Cập không dám bàn luận đến
cũng không dám gọi danh là gì.
Dân cổ Ai Cập tin có linh
hồn bất diệt và sau khi thoát xác cần có nơi nương dựa. Vì tin tưởng thế, họ
bày ra phương pháp ướp xác chết (momie) và xây những kim tự tháp là nơi trú ngụ
của linh hồn các bực đế vương, vì họ tin rằng nhờ phép huyền bí, linh hồn người
chết sẽ sống lại một cuộc đời mới. (*1)
Theo lễ giáo Ai Cập, người
mới nhập môn cầu đạo, trước nhất phải học tự tri. Sau khi làm lễ nhập đạo, tân
Tín đồ được một Mục sư đứng giảng rằng:
"Hỡi người có linh hồn mờ tối! Người nên dự bị
lấy bó đuốc soi sáng lẽ huyền vi, thì trong đêm khuya tăm tối ở cõi trần gian,
người có thể tìm thấy cái Nhị xác thân sáng rỡ và cái Linh hồn thiêng liêng của
người được. Ta là kẻ thọ Thiên mạng đưa đường, chỉ nẻo cho người, còn chính
người là vị thần hộ mạng cho người đó, vì người nắm giữ các chìa khóa đời trước
và đời sau của người vậy".
Câu trên đây (đời trước và
đời sau của người) chứng tỏ Tôn giáo cổ Ai Cập tin có luân hồi chuyển kiếp.
(*1) Thông Thiên Học
(Théosophie) lại bảo rằng các Kim Tự Tháp đều do các vị Chơn Nhơn cất ra và
chia làm nhiều phòng điểm đạo và dạy đạo cho các đệ tử.
III . Ở nước Ba Tư.
Ba Tư là một nước thuộc
Châu Á, một cổ quốc rất phồn thạnh.
Ba Tư Giáo (Mazdéïsme) do
Ðức Giáo Chủ Zoroastre lập thành, chủ trương hai vị Thần Thiện và Ác. Tôn giáo
nầy cho rằng sự cứu cánh của tất cả loài chúng sanh là sự cứu rỗi cuối cùng
(rédemption final), chúng sanh phải trải qua nhiều kiếp trả vay, nhơn hồn mới
được hưởng hạnh phúc cuối cùng.
Tôn giáo Ba Tư đánh đổ cái
quan niệm một cảnh địa ngục giam hãm linh hồn đời đời kiếp kiếp, trái hẳn đức
Từ bi của Tạo Hóa.
IV . Ở nước Hy Lạp.
Hy Lạp là một nước thuộc
Nam bộ Âu Châu, khai hóa rất sớm, tất cả văn hóa Âu Châu gốc bởi đó mà ra.
Nhà hiền triết Pythagore,
vừa là một nhà chánh trị và tôn giáo cải cách, sau khi học đạo qua mấy nước Ai
Cập, Ba Tư, Ấn Ðộ, trở về Hy Lạp xướng lên thuyết Luân Hồi. Thuyết nầy gồm có
hai phần: phần tâm truyền riêng dành cho các cao đồ trí thức lãnh hội về khoa
huyền bí, phần công truyền để dạy hạng thường nhơn trí thức còn kém cỏi. Chính
phần công truyền nầy đẻ ra cái thuyết "Luân
hồi thối hóa".
Theo thuyết nầy, ông Timée
de Locres, một môn đồ của Ðức Giáo Chủ Pythagore bảo rằng: "Linh hồn kẻ hèn nhát chuyển kiếp làm đàn bà để chịu khinh bỉ nhục
nhã, linh hồn kẻ sát nhơn chuyển kiếp làm ác thú để đền tội, linh hồn kẻ tồi
bại vô liêm chuyển kiếp làm heo lợn, kẻ nhẹ dạ hay thay lòng đổi tánh chuyển
kiếp làm chim bay trên không khí, bọn lười biếng điên ruồng, ngu dốt chuyển
kiếp làm thủy tộc."
Ông Hérodote mà thời nhơn
suy tôn là "Ông cha của lịch
sử" (Le père de l'histoire) tin rằng những linh hồn trong sạch có thể
tấn hóa lên các vì tinh tú.
Một cao đồ khác nữa của
Ðức Giáo Chủ Pythagore là nhà hiền triết Platon, nêu ra hai luận thuyết:
- Theo luận thuyết thứ
nhứt, ông bảo trên thế gian vì sự tử kế tiếp sự sanh, người ta có thể suy ngược
lại mà bảo rằng sự sanh cũng kế tiếp sự tử vậy. Lại không có cái gì từ chỗ
không mà sanh ra được, cho nên nếu những người chết rồi mà chẳng tái sanh, thì
tất cả vạn vật sẽ nối tiếp nhau đi vào chỗ chết mà tiêu diệt.
- Theo thuyết thứ hai, ông
căn cứ vào ký ức lực mà lập luận, ông cho rằng học hỏi tức là nhớ lại. Rồi ông
suy luận, nếu linh hồn chúng ta nhờ học hỏi mà nhớ đã có sống một lần nào rồi
trước khi nhập vào xác hiện tại, tại sao chúng ta chẳng tin rằng sau khi lìa bỏ
cái xác hiện tại, linh hồn chúng ta sẽ liên tục thác sanh nhiều kiếp khác nữa.
Ông Platon còn quả quyết
linh hồn nào đã tấn hóa đến chỗ toàn thiện, thì không còn chuyển kiếp nữa.
Nhưng trước khi lên tới bực cao siêu ấy, tất cả linh hồn sau khi thoát xác phải
xuống địa ngục hàng ngàn năm, đến lúc tái sanh (đi đầu thai) vì phải uống nước
sông Léthé nên quên cả tiền kiếp của mình.
Tân học phái Platon.
Về sau các môn đồ ông
Platon dựa theo học thuyết của thầy mà lập ra một học phái mới, gọi là Tân học
phái Platon (Ecole néo Platonienne). Tông đồ học phái mới nầy, nhứt là ông
Plotin càng làm cho thuyết luân hồi được rõ rệt thêm lên. Nguyên ông có biên
tập 64 bộ sách, mỗi bộ gồm 9 quyển gọi Ennéades. Trong những kinh điển ấy, ông
thường lập đi lập lại cái thuyết luân hồi. Ông bảo đó là một tín điều đã được
công nhận từ đời thượng cổ và truyền bá khắp hoàn cầu, linh hồn nào phạm tội
phải chịu hình phạt nơi địa ngục, mãn hạn sẽ được chuyển sanh vào một xác mới
để chịu nhiều cuộc thử thách.
Trong quyển thứ chín của
bộ hai, ông bảo: "Thiên mạng của các
Ðấng Thần Linh qui định cho mỗi người trong chúng ta một kiếp số tương đối với
những hành vi của chúng ta trong mỗi kiếp trước."
Một môn đệ của ông Plotin
là Porphyre cũng bác thuyết "Luân
hồi thối hóa". Theo Porphyre, linh hồn con người dù có nhiều tội lỗi
đi nữa vẫn chuyển kiếp làm người thôi.
Tóm lại, theo chỗ tin
tưởng của các môn đồ ông Pythagore và Platon, thì không có hình phạt vĩnh viễn.
Tất cả linh hồn đều tấn hóa thêm lên và nhờ sự cố gắng của mình sẽ tiến lần đến
sự cứu chuộc cuối cùng.
V . Ở
nước Ả Rập.
Nước Ả Rập là một đại bán
đảo ở về miền Tây của Nam Á Ðông. Thành La Mecque Thánh địa của nước nầy, là
nơi giáo chủ Mahomet giáng sinh. Ngài phải mất 15 năm công phu suy gẫm để tìm
phương pháp cải cách tôn giáo và xã hội cho dân Á Rập. Nhơn đó Ngài lập ra Hồi
Giáo (Islamisme) năm 622 sau Tây lịch kỷ nguyên. Lúc sơ khai, Hồi Giáo được
nhiều người hoan nghinh nhập môn cầu đạo, mà cũng bị lắm kẻ đứng lên kích bác
và đánh đổ kịch liệt. Sau khi Ðức Mahomet qui vị, các môn đồ tiếp tục truyền bá
mối Ðạo và được thạnh hành nhứt ở Trung Á, Tây Á, Bắc Phi, Thổ Nhỉ Kỳ và miền
Tây Bắc Trung Hoa.
Giáo lý của Hồi Giáo được
giảng trong Thánh kinh Coran gồm có 114 chương bằng chữ Á Rập. Hồi Giáo tin có
số mạng, tiền định (prédestination) cho nên nếu một tai nạn nào xảy đến cho
người Á Rập, họ tự nhủ: "Việc nầy đã
tiền định rồi".
Thuyết Luân Hồi được chỉ
rõ trong Thánh kinh Coran, chương XXX:
"Ðức Thượng Ðế hóa sanh vạn vật cho luân hồi
chuyển kiếp nhiều lần tới khi chúng trở về với Ngài".
XI . Ở
xứ Judée.
Do Thái Giáo (Judaisme),
tôn giáo của người Do Thái (Juifs), là nguồn gốc của Cơ Ðốc Giáo
(Christianisme). Thánh Kinh (Bible) vốn có hai phần: phần thứ nhứt nói về Ðạo
Do Thái, gọi Sấm truyền cũ hay Cựu ước (Ancientestament), phần thứ nhì nói về
Ðạo Cơ Ðốc gọi Sấm truyền mới hay Tân ước (Nouveau Testament).
Dân Do Thái cho rằng cả
thế gian đều tin có luân hồi chuyển kiếp.
Sự tin tưởng ấy thấy nói
một cách bóng dáng trong Thánh kinh nhưng được giải rõ hơn trong những kinh
Phúc âm (Evangiles).
Thử xem những đoạn sau
đây:
"Nguyên dân Do Thái tin tưởng rằng theo Cựu ước,
ông Elie sẽ trở lại thế gian trước khi Ðấng Cứu Thế (Messie) ra đời. Cho nên,
khi môn đồ của Chúa Giê-su hỏi Ngài Elie đã đến chưa, Ngài đáp: Elie đã đến
rồi, mà người ta không nhận biết, song họ lại xử với Người theo ý muốn của
mình. Con người phải chịu khốn khổ với họ cũng vì vậy."
Chừng đó các môn đồ mới
hiểu rằng Ngài ám chỉ ông Jean Baptiste.
(Phúc âm Saint Mathieu, đoạn thứ 17)
Vậy, theo đoạn Phúc âm trên đây, ta thấy rõ
Chúa Jê-su ám chỉ rằng Elie đã đầu thai làm Jean Baptiste đó vậy.
Một lần khác, các môn đồ thấy một người ăn xin
đui từ trong bụng mẹ, liền hỏi Ngài: "Bạch Thầy, người nầy trước kia đã gây tội lỗi hay vì tội lỗi của cha mẹ làm ra
mà người nầy vừa sanh ra đã mang
tật đui mù?"
Câu hỏi trên đây chứng tỏ các môn đồ vốn tin có
luân hồi quả báo.
Nếu câu hỏi ấy trái hẳn chơn lý, chư môn đồ
không khỏi bị Chúa Jê-su quở trách. Nhưng Ngài chỉ đáp: "Không phải tại người ấy trước kia đã gây
tội lỗi, cũng không phải tại cha mẹ nó gây ra, mà vốn là việc làm của Ðức Chúa
Trời được tỏ ra trong người".
(Phúc âm Saint Jean, đoạn thứ 9)
Ðoạn Phúc âm sau đây càng biểu lộ rõ rệt sự tin
tưởng
về kiếp luân hồi:
Ông Nicodème, trong dòng
người Pharisiens hỏi Chúa Giê-su về kiếp tái sanh, Ngài đáp: "Thật vậy! Thật vậy! Ta nói cùng Ngươi,
không ai thấy được cõi Trời, nếu chẳng tái sanh".
Nicodème thưa rằng: "Một người đã già tái sanh thế nào
được? Người đó làm sao trở vào bụng mẹ rồi sanh ra một lần nữa?"
Chúa Jê-su lại đáp: "Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng ngươi,
nếu người ta không nhờ nước và Thánh linh mà tái sanh thì không vào được cõi
Trời, đừng ngạc nhiên về lời Ta bảo rằng các ngươi phải sanh lại nữa. Gió muốn
thổi đâu thì thổi, các ngươi nghe tiếng động, nhưng không biết nó từ đâu đến và
đến rồi đi đâu".
Nhận thấy Nicodème ngơ ngác
không hiểu được, Chúa lại phán: "Tại
sao ngươi là giáo sĩ dân Israël mà không lãnh hội được điều ấy?".
(Phúc âm Saint Jean, đoạn thứ 3)
Lời trách ấy chứng tỏ rằng Chúa Jê-su lấy làm
lạ sao một nhà giáo sĩ Israël lại không
hiểu sự luân hồi, vì trong thời kỳ ấy, cái giáo lý đó vốn được khẩu truyền cho
các môn đồ trí thức. Những mật lý tâm truyền lúc bấy giờ đều ghi chép trong
những kinh điển gọi là Kabbale đã có trước Cơ Ðốc Giáo.
Về sau ông Simon Ben Jochai chỉnh đốn Kabbale
dọn thành kinh Zohar nghĩa là kinh Ánh sáng.
Trong Zohar, có biên chép những khoa nội giáo
tâm truyền dành riêng cho các bực tu hành, được điểm đạo. Trong kinh ấy có nói:
"Tất
cả linh hồn khổ hạnh tiến hóa từ kiếp nầy sang kiếp khác, nhưng con người không
biết được kiếp tiền định của mình ra sao. Linh hồn không biết được phải luân
hồi bao nhiêu kiếp và biết bao nhiêu linh hồn tại thế còn phải đọa trần chưa
được phản hồi Thánh vức.
Tất cả
linh hồn sau cùng đều trở về nguyên bổn là cõi thiêng liêng, nhưng phải trong sạch như lúc giáng thế, bằng chẳng vậy
còn phải đọa trần nữa. Một kiếp không rồi thì hai, hai kiếp không rồi thì
ba, cứ luân luân chuyển chuyển như thế mãi đến
khi được hoàn toàn trong sạch mới thoát trần mà về với Thượng Ðế".
VII . Ở nước
Trung Hoa.
Nước Trung Hoa từ thời Tam
Ðại đã có một nền văn minh rực rỡ.
Người Trung Hoa rất sùng tín sự cúng tế Thiên, Ðịa, Nhựt, Nguyệt, Sơn, Xuyên. Nhà vua
lập đàn Nam Giao để tế Thượng Ðế, lập nhà Xã tắc để tế Thổ Thần và Hậu tắc. Qua
đời nhà Châu, học thuyết Trung Hoa đã đến cực thạnh, Lão giáo và Khổng giáo
khởi đầu từ đấy. Lại thêm Phật giáo từ Ấn Ðộ do Sơ Tổ Ðạt Ma truyền sang rồi
Tam Giáo cùng được truyền bá khắp nơi trong nước, gieo cho nhơn dân một tín
ngưỡng sâu xa.
Lão Tử đề xướng thuyết Võ
Trụ Quan một cách cao siêu tế nhị. Ðạo của Ngài rất huyền bí, chỉ có các bọn
cao đồ hiểu thấu thôi, người khác dầu trí thức đến đâu cũng khó lòng mà lãnh
hội. Ngài không gọi Ðấng sáng lập Càn Khôn Võ Trụ là Thượng Ðế, mà gọi là Ðạo.
Trong kinh Ðạo Ðức của Ngài trứ tác, về phần thứ nhứt luận về Ðạo, ở chương XXV
Ngài viết:
"Trước khi có Trời Ðất, vốn có một Ðấng vô hình. Ôi!
Thật là yên lặng! Riêng đứng một mình không thay đổi, châu hành chẳng dứt, có
thể làm mẹ của Trời Ðất. Ta vốn không biết tên gì nên gọi là Ðạo".
(Hữu nhứt vật hổn thành, tiên Thiên Ðịa sanh.
Tịch hề giao hề! Ðộc lập bất cải, châu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi Thiên Ðịa
chi mẫu, Ngô bất tri kỳ danh, tự chi vị Ðạo).
Lập thuyết của Ðức Lão Tử là trước khi có Trời Ðất, chỉ có Ðạo. Ðạo là tinh thần của Trời Ðất
và vạn vật, mà Trời Ðất và vạn vật là bản thể của Ðạo. Ðạo đã vào trong lòng người rồi thì gọi là Ðức. Vậy muốn sửa mình và trị nước, phải cư xử
thế nào cho trên hợp với lẽ Trời, dưới hợp cùng luân lý.
Về sau, Ðạo của Ngài gọi là Ðạo giáo. Cuối đời
Ðông Hán, Ðạo giáo càng thạnh hành, Ðức Lão Tử được suy tôn là Thái Thượng Lão Quân.
Ngài không đề cập đến luân hồi mà lại nói rõ về
quả báo, tức là mặc nhận có luân hồi vì hai điều ấy phải nối tiếp nhau, có quả
báo tức phải có luân hồi mà trả quả.
Trong kinh Cảm Ứng, Thái Thượng nói rằng:
"Sự họa phước không có cửa (không định trước),
chỉ người vời nó đến thôi. Ðiều lành và điều dữ đều có trả như bóng theo
hình".
(Thái Thượng viết: "Họa phước vô môn, duy nhơn tự triệu.
Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình").
Ngoài cơ báo ứng, Ðức Lão
Tử hay Thái Thượng Lão Quân vẫn đề cập đến Quỉ Thần, như ở chương "Minh Nghĩa Ðệ Nhứt", Ngài
dạy:
"Cho nên Trời Ðất có đặt mấy vị Thần, tùy theo
tội lỗi của người nặng hay nhẹ mà bớt lộc. Lộc bớt tất chịu nghèo, thường gặp
sự buồn rầu tai nạn"
(Thị dĩ Thiên Ðịa hữu tư
quá chi Thần, y nhơn sở phạm khinh trọng dĩ đoạt nhơn toán. Toán giảm tất bần
hao đa phùng ưu hoạn).
Ðức Khổng Tử sanh vào đời
Ngũ Bá tranh hùng, nhơn dân khổ sở, phong tục suy đồi nên chủ trương của Ngài
thiên về thực tế rất nhiều. Ngài định đem luân thường đạo đức dạy người đời đối
xử với nhau thế nào cho hợp lẽ phải, chớ không truyền bá những lẽ huyền vi u
ẩn, những điều nầy Ngài chỉ truyền cho bậc cao đồ thôi. Ngài lập ra Lễ, Nhạc
tiêu biểu cho phép trật tự và luật điều hòa của Trời Ðất.
(Nhạc giả, thiên địa chi
hòa dã, Lễ giả, thiên địa chi tự dã - Sách Lễ ký).
Ðức Khổng Tử tin có Trời,
có Quỉ Thần, có họa phước, tức là lẽ báo ứng (nhơn quả).
Theo Ngài, Trời là một
Ðấng vô hình mà Ngài gọi là Lý. Lý ấy rất linh động, rất cường kiện, cao minh,
Chúa Tể cả võ trụ. Lấy nghĩa cùng tột mà nói, thì gọi là Thái Cực, lấy nghĩa
bao quát khắp thế gian, thì gọi là Thiên, lấy nghĩa làm Chúa Tể vạn vật thì gọi
là Ðế. Ấy vậy, Trời theo quan niệm của Ðức Khổng Tử, là Ðấng Thái Cực hay Thượng
Ðế.
Ðức Khổng Tử đã nhận
Thượng Ðế là Chúa Tể vạn vật, tất nhiên nhận có cái ý chí rất mạnh để điều
khiển sự biến hóa trong thế gian cho hợp với luật điều hòa, mà một khí ý chí ấy
đã định sự biến động ra thế nào, thì không ai cưỡng lại được. Ấy là Thiên mạng
hay Ðế mạng. Ðức Khổng Tử rất trọng Thiên mạng, nên Ngài bảo: "Không biết Thiên mạng thì không lấy gì làm
quân tử" (Bất tri Thiên mạng vô dĩ vi quân tử giả - Luận ngữ).
Ðức Khổng Tử rất chú trọng
sự cúng tế và trong lúc cúng tế phải hết lòng thành kính xem như có Thần tại
đó. (Tế Thần như Thần tại - Luận ngữ).
Quỉ, Thần, theo Ngài quan
niệm là khí thiêng liêng ở trong Trời Ðất, mắt người không thấy nhưng vẫn thể
được muôn vật không sai vật nào, đâu đâu hình như Quỉ Thần ở trên đầu ta, ở bên
tả, bên hữu ta (Dương dương hồ như tại kỳ thượng, tại kỳ tả hữu - Trung Dung).
Ngài tin con người có xác
và hồn. Khi con người chết, thịt xương chôn dưới đất mục nát và tiêu tan, còn
khí thiêng (tức hồn) bay lên trên không rực rỡ (Tử tất qui thổ, cốt nhục tệ ư hạ,
âm vi giả thổ, kỳ khí phát dương ư thượng vi chiêu minh - Kinh Lễ).
Về nhơn quả, Ngài bảo: "Người quân tử sợ mạng Trời, ai làm
điều quấy, trái lẽ đạo phải tội với Trời, thì còn cầu nguyện vào đâu được"
(Quân tử húy Thiên mạng hoạch tội ư Thiên vô sở đảo giả - Luận ngữ).
Ngài còn bảo: "Người làm lành, Trời lấy phước mà ban
cho, còn kẻ làm chẳng lành Trời lấy họa mà trả cho". (Vi thiện giả,
Thiên báo chi dĩ phước, vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa - Minh Tâm).
VIII . Ở
nước Nhựt Bổn
Quốc đạo của Nhựt Bổn là
một tôn giáo phát khởi tại nước họ trải mấy mươi đời chớ không phải từ ngoài
nước truyền sang. Quốc đạo ấy gọi là Thần giáo (Shintoïsme), trước hết thờ Thái
Dương Thần Nữ (Amatérosu) biểu hiệu ngôi Thái Dương (Mặt trời), kế đó thờ chư
Thần, sau nữa là thờ ông bà cha mẹ.
Người Nhựt tin có linh hồn
và sau khi con người chết, linh hồn vẫn tồn tại.
Qua thế kỷ thứ 3, vì chịu
ảnh hưởng văn hóa nước Tàu và mượn Hán tự chế ra văn tự của mình, người Nhựt
tuy hấp thụ ít nhiều giáo điều của Khổng giáo và Phật giáo truyền sang, nhưng
quốc đạo của họ vẫn không kém phần thạnh hành.
Sau cuộc Tôn giáo cải cách
1868, ngôi Thái Dương Thần Nữ được thay thế bằng ngôi Thượng Ðế. Thờ cúng,
người Nhựt thì chỉ dùng hương trà hoa quả thôi.
IX . Ở nước Việt Nam.
Nước Việt Nam thuở xưa
trên 1.000 năm lệ thuộc nước Tàu, tất nhiên phải chịu ảnh hưởng văn hóa nước
nầy. Phàm phong tục và tín ngưỡng đều do học thuật và tôn giáo mà ra. Mà người
Việt khi xưa đã theo học thuật và tôn giáo nước Tàu là Nho, Thích, Ðạo rồi vào
thế kỷ 19 Thiên Chúa giáo lại truyền sang. Vậy nước Việt Nam từ xưa vốn theo Tứ
giáo, lẽ tất nhiên đã hấp thụ tín ngưỡng của bốn giáo ấy.
Gần đây, cách đâu lối ba
mươi mấy năm, ở Việt Nam lại nổi lên phong trào Tân Tôn giáo do các Ðấng Thiêng
liêng lại dùng thần cơ diệu bút giảng dạy và chủ trương. Trước nhứt Ðức Ðạo Tổ
tức Thái Thượng Lão Quân giáng lập đạo Minh Lý, có đền thờ Tam Tông Giáo Chủ là
Thích Ca, Lão Tử, và Khổng Tử, cho nên đền thờ ấy gọi là "Tam Tông
Miếu".
Kế đó, Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ
Ðộ (người ngoài gọi Ðạo CAO ÐÀI) xuất thế, rồi tới Ðạo Minh Thiện, Minh Tân,
vân vân…
Những đạo nầy chủ trương
thuyết linh hồn bất diệt và Luân hồi, Quả báo.
Ðạo Minh Lý có kinh "Sám hối", cũng gọi là kinh "Nhơn quả", là một cuốn kinh
chỉ rõ lẽ báo ứng của luật Trời và khuyến khích người đời hồi đầu hướng thiện.
Về lẽ báo ứng, tức nhơn
quả, xin trích trong kinh "Sám
hối" một đoạn dưới đây:
. . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
Ðiều họa phước không hay tìm tới,
Tại người dời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.
Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sau bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên
kia chưa dứt còn
đang thưởng đền.
Nếu
vội trách người trên thì đọa,
Cũng
có khi tai họa trả liền.
Ðó là
báo ứng nhãn tiền,
Mau
thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Về
kiếp Luân hồi, xin xem đoạn dưới đây:
Xuống
địa ngục đọa đày hành mãi,
Ðúng
số rồi còn phải luân hồi.
Hóa
Công xem xét đền bồi,
Lành
siêu, dữ đọa thêm nhồi tội căn.
* * *
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nghĩa là Ðại Ðạo phổ độ
kỳ ba, là kỳ mạt pháp nầy (Troisième Amnistie de Dieu). Ðại Ðạo do Ðức Thượng Ðế dùng huyền diệu cơ bút lập thành, tôn chỉ
là "Qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi". Vì tôn chỉ ấy, nên Ðại Ðạo ngoài
Thiên lý mật truyền, còn thâu nạp lý thuyết căn bản của Tam Giáo và Ngũ Chi,
đồng thời Ðại Ðạo có trách nhiệm thuyết minh những lý thuyết đã bị người đời,
hoặc vì thời gian, hoặc vì hiểu lầm mà sai biệt. Ðại Ðạo thờ Ðức Thượng Ðế bằng
Thánh Tượng "THIÊN NHÃN".
Dưới đây là Thánh huấn của
Ðức Thượng Ðế tá danh Cao Ðài giáng cơ ngày 26 tháng 5 năm 1926 cho biết ý
nghĩa sự thờ phượng ấy:
"Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ
"Con Mắt" mà thờ Thầy3, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
"
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể.
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả Ngã dã."
"Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm siêu phàm
nhập Thánh từ ngày Ðạo bị bế. Lập "Tam Kỳ Phổ Ðộ" Thầy cho Thần hiệp
với Tinh Khí đặng đủ Tam Bửu."
"Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật từ ngày bế
Ðạo,thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen
đánh tản Thần, không cho hiệp cùng Tinh, Khí.
Thầy đến đặng hườn nguyên Chơn Thần cho các con đắc
Ðạo. Các con hiểu "Thần cư tại Nhãn", bố trí cho chư Ðạo hữu các con
biết với. Nguồn cội Tiên Phật, yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên các con mỗi khi
nói Ðạo, hằng nhớ đến danh Thầy".
Khi Ðại Ðạo vừa sáng lập,
Ðức Quan Âm Bồ Tát giáng cơ tại đàn Minh Lý, dạy dâng kinh "Sám hối" qua cho Ðại Ðạo. Lễ tiếp kinh cử hành tại Thánh
Thất Cầu Kho, cho nên Ðại Ðạo và Minh Lý Ðạo cùng tụng một thứ kinh ấy.
Về kiếp Luân hồi, Ðức
Thượng Ðế có giáng cơ dạy như thế nầy:
"Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy,
chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy, Thầy hỏi: Các con chết
rồi, các con ra thế nào? Các con đi đâu? Chẳng một đứa hiểu đặng cơ mầu nhiệm
ấy. Thầy dạy:
"Cả kiếp Luân hồi thay đổi từ trong vật chất mà
ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn
ngàn muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại chia ra
phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bực Ðế Vương nơi trái địa cầu nầy chưa đáng vào bực chót
của địa cầu 67. Trên địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái
quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài cho tới "Ðệ nhứt cầu",
"Tam Thiên Thế Giái", qua khỏi "Tam Thiên Thế Giái" thì mới
đến "Tứ Ðại Bộ Châu", qua khỏi "Tứ Ðại Bộ Châu" mới vào
đặng "Tam Thập Lục Thiên", vào "Tam Thập Lục Thiên" rồi
phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến "Bạch Ngọc Kinh" là nơi
Ðạo Phật gọi "Niết Bàn" đó vậy…".
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển
Về Nhơn quả, có bài Thánh
huấn dưới đây, cũng trích ở Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
"Chư môn đệ và chư nhu nghe: Chim lìa cội, nước
tách nguồn, từ xưa con người giữa thế chẳng qua là khách đi đường, phận sự muốn
cho hoàn toàn, cần phải bền chí và khổ tâm, có bền chí mới đoạt được phẩm vị
thanh cao, có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh, lăng xăng xạo xự mùi chung
đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng. Mỗi bực
phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm quyền thế giái ban cho, dầu thanh cao,
dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhiệm, hầu buổi chung cuộc, hồn
lìa cõi trần đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán, ai giữ trọn bực phẩm đặng
Tòa Nghiệt Cảnh tương công chiết tội để vào địa vị cao hơn chốn địa cầu 68 nầy,
ai chẳng vẹn trách nhiệm nhơn sanh phải bị đọa vào nơi U Minh Ðịa để trả xong tội
tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng
chẳng biết sửa mình thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn
muôn đời đời mà đền tội ác. Bậc nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm
đắm vào sổ luân hồi vay trả, trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng".
Những bằng chứng về Luân hồi.
Tham khảo những kinh điển
Ðông Tây và cổ kim, chúng ta thấy có rất nhiều bằng chứng về kiếp Luân hồi.
Muốn kể hết ra ắt phải choán nhiều trương, mất nhiều ngày giờ. Chúng tôi xin
lược thuật một vài sự tích rút trong kinh điển xưa và sách vở cùng báo chí đời
nay, tưởng cũng đủ gây thành một đức tin vững chắc về cơ mầu nhiệm kiếp Luân
hồi vậy.
Những tiền thân của Ðức Ðịa Tạng.
I
Theo kinh Ðịa Tạng, Ðức
Ðịa Tạng trước khi đắc quả Bồ Tát, đã phân thân nhiều kiếp độ rỗi chúng sanh.
Có kiếp Ngài sanh làm thiếu nữ, có kiếp làm nam nhơn và cũng có kiếp làm vua.
Dưới đây là sự tích Ngài chuyển sanh làm một thiếu nữ dòng Bà La Môn.
Hồi thời kỳ thượng pháp,
một người thuộc dòng Bà La Môn, sanh được một đứa con gái rất đoan trang phúc
hậu, ai cũng đem lòng kính trọng. Nhưng mẹ nàng mê theo ngoại đạo, không bao
lâu mẹ nàng mang bịnh lìa trần. Vì lúc sanh tiền đã tạo nhiều ác nghiệp, nên
Thần hồn phải theo nghiệp quả đọa lạc vào Vô gián Ðịa ngục.
Còn nàng, phần thương mẹ,
phần sợ người nặng nghiệp trầm luân, nên bán tất cả ruộng vườn, rồi sắm sanh lễ
vật đến chùa trước cúng dưng, sau cầu nguyện Ðức Phật từ bi cứu độ mẹ nàng.
Lễ bái xong, nàng nhìn
sửng tượng Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà khóc, không chịu ra về.
Bổng từ không trung có tiếng bảo: "Thánh
nữ đừng buồn rầu khóc lóc, để Ta chỉ chỗ thác sanh của mẹ nàng cho nàng
biết".
Thiếu nữ vừa mừng vừa sợ,
liền chắp tay ngửa mặt lên mà bạch rằng: "Xin
Ngài từ bi cho biết Ngài là Ðức Thánh Thần nào mà có lòng đoái thương đến kẻ
phàm nầy vậy?".
- Ta đây là Giác Hoa Ðịnh
Tự Tại Vương Như Lai mà Thánh nữ mới vừa lễ bái. Vì thấy nàng chí hiếu nên mách
bảo cho. Vậy nàng hãy trở về ngồi yên lặng mà tưởng niệm danh hiệu ta tự khắc
sẽ biết chổ thác sanh của mẹ.
Nàng vâng lời về nhà làm y
theo lời Phật dạy, ngồi tịnh niệm trong một ngày một đêm. Bỗng nàng cảm thấy
hồn mình đi tới một bờ biển cuồn cuộn ba đào, lại có vô số ác thú chạy tung
tăng trên mặt nước, đồng thời hàng ngàn người đờn ông lẫn đờn bà lặn hụp dưới
nước, mỗi khi trồi lên lại bị bọn ác thú ấy giành nhau cắn xé. Thêm vào đó, một
bọn quỉ dạ xoa hình dung kỳ quái xúm lùa tội nhơn cho ác thú kia ăn.
Trước cảnh tượng thương
tâm khủng khiếp ấy, hồn nàng lấy làm kinh sợ, song nhờ niệm Phật mà trấn tỉnh
được.
Bổng có Vô Ðộc Quỉ Vương
thấy hồn nàng oai nghi rực rỡ, biết chẳng phải bực phàm, bèn cúi đầu thưa:
- Bạch Ðức Bồ Tát, chẳng
hay vì chuyện chi Bồ Tát thân đến chốn nầy?
Hồn nàng đáp:
- Ta nghe nói giữa núi
Thiết Vi có cảnh Ðịa Ngục, có đúng như vậy chăng?
- Bạch Bồ Tát quả đúng như
vậy.
- Ðịa Ngục là nơi giam cầm
phạm nhơn, vậy Ta có tội gì mà phải đến đây?
- Bạch Bồ Tát, đi tới đây
vốn có hai lẽ, một là các Ðấng có oai đức thần thông đến cứu độ phạm vong, hoặc
là viếng cảnh. Hai là hồn những người tội ác đến thọ khổ hình theo cái nhơn đã
tạo. Hồn nhốt nơi đây quá 49 ngày mà thân nhơn trên cõi Diêm-phù-đề không lo
làm việc công đức chuộc tội giùm cho, thì hồn ấy phải thọ khổ hình như đã định.
Bạch Bồ Tát, ở bên phía Ðông còn có một cái biển khác, nơi ấy sự hành phạt còn
khổ hơn đây bội phần. Lại bên phía Ðông biển ấy cũng có một cái biển nữa, sự
trừng phạt nơi đó không biết sao mà tưởng tượng. Tất cả ba biển ấy gọi là "Biển nghiệp".
Hồn thiếu nữ lại hỏi:
- Sao nơi đây chỉ toàn là "Biển nghiệp", còn địa ngục ở
đâu?
- Bạch Bồ Tát, địa ngục
vốn ở giữa ba cái biển ấy. Kể riêng ra thì mỗi nơi mỗi khác.
- Mẹ ta mới thác chưa bao
lâu không biết thần hồn đã giam vào ngục nào?
- Chẳng biết thân mẫu Bồ
Tát quí danh là chi?
- Cha ta tên Thi La Thiện
Hiện, mẹ ta là Duyệt Ðề Li, cả hai đều dòng dõi Bà La Môn.
Quỉ Vô Ðộc nghe nói lật
đật chắp tay bạch:
- Xin Thánh giá trở về bổn
xứ khỏi phải lo buồn vì bà Duyệt Ðề Li đã rời khỏi Ðịa ngục mà lên cõi Trời
cách đây ba ngày rồi. Ấy cũng là nhờ lòng hiếu thảo của con cầu nguyện nơi tháp
tự của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai nên cảm đến Phật Thánh mà được
sanh về cõi Trời như vậy.
Dứt lời, Quỉ Vương chắp
tay làm lễ xin lui. Còn thiếu nữ khi tỉnh lại nhớ rõ các việc mới biết đã nhờ
Phật giúp cho hồn mình đến chỗ thác sanh của mẹ. Nàng vội vàng đến quì trước
tượng Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà phát niệm: Nay tôi nguyện cho
đến kiếp vị lai nếu có chúng sanh nào tạo tội mà thọ khổ nơi Ðịa ngục, bất luận
là kẻ thân thuộc hay người cừu oán, tôi sẽ lập nhiều pháp môn cứu độ cho được
giải thoát.
Người thiếu nữ trên đây,
tức là tiền thân của Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát.
II
Trong đời quá khứ bất khả
thuyết kiếp có hai vị quốc vương kết nghĩa lân bang với nhau rất hậu. Cả hai
đều phát tâm hành thiện lo giáo hóa nhơn dân cải dữ theo lành.
Song vì nhơn dân ở các lân
bang phần nhiều hay làm ác, không biết kính Phật trọng Tăng, lại mê theo Tà
giáo. Hai vị quốc vương ấy thấy động lòng thương xót bèn cùng nhau tìm phương
hóa độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi nghiệp báo. Một vị thì phát nguyện xuất
gia tu thành chánh quả để rồi hóa độ chúng sanh. Còn một vị thì nguyện tu hạnh
Bồ Tát và nếu không độ được chúng sanh chứng quả Bồ Ðề, thì quyết không chịu
thành Phật.
Vì thứ nhứt vốn là tiền
thân của Ðức Phật Nhứt Thuyết Thí Thành Tựu.
Vì thứ nhì tức là tiền
thân của Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát lúc chưa thành đạo.
Vì lời nguyện ấy mà trải
vô số kiếp, Ðức Ðịa Tạng chưa chịu thành Phật, cứ ở quả vị Bồ Tát, hóa thân
giáng thế phổ độ chúng sanh.
Ðức từ bi bác ái và lòng
độ sanh của Ngài thật bao la vô lượng vô biên.
III
Vô lượng kiếp trước, lúc
Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai ra đời có một ông đại trưởng giả
thuộc hàng hào tộc và đức độ.
Một hôm, trưởng giả gặp
Phật trang nghiêm rực rỡ với cái kim thân cực đẹp, lòng ông lấy làm hân hạnh
nên ông đến đảnh lễ Phật và bạch: - Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử lấy làm kính phục
cái dung quang nghiêm trang và cực đẹp của Ngài, chẳng rõ kiếp trước Ngài làm
những hạnh nguyện gì mà kiếp nầy Ngài được cái kim thân như vậy?
Phật liền đáp: - Nếu
trưởng giả chịu phát nguyện tu hành theo đạo Bồ Tát một lòng tinh tấn, trải vô
lượng kiếp lo hóa độ chúng sanh thoát khỏi đọa, đến ngày sau cũng được thân
tướng tốt đẹp như ta vậy.
Trưởng giả nghe nói liền
quì xuống, phát nguyện rằng: "Tôi
ngưyện từ đây cho đến muôn kiếp sau, nếu chúng sanh còn thọ khổ trong lục đạo
luân hồi, tôi sẽ dùng đủ phương tiện dẫn độ đến chỗ hoàn toàn giải thoát. Ðược
vậy, tôi mới chứng quả Phật".
Vị trưởng giả đây cũng là
tiền thân của Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát.
Nhớ bài hát kiếp trước
Năm 1912, tờ Thông Thiên
Học tạp chí "Ubtra" (Revue
Théosophique), dưới ngòi bút của Ðại Úy Florendo Battista, người nước Ý, có
thuật chuyện lạ dưới đây:
Tháng 8 năm 1905, lời của
Ðại Úy, tiện nội có mang vừa được ba tháng. Trong khi nằm trên giường còn thức,
bỗng thấy đứa con gái chúng tôi chết hơn 3 năm rồi, hiện hình về nói với mẹ nó:
"Nầy má, con sẽ trở lại với má đa".
Nói xong nó liền biến mất. Tiện nội đem chuyện lạ ấy thuật lại tôi nghe và nói
nếu thiệt sanh con gái, thì nên đặt tên là Blanche, tức là tên đứa gái đã qua
đời. Tôi cho là chuyện mộng mị và mặc dầu không tin, tôi vẫn hứa cho tiện nội
vui lòng. Phải biết, thuở giờ, tôi không chịu tin cái thuyết đầu thai nhiều
kiếp.
Sáu tháng sau, tiện nội
quả sanh được một đứa gái giống hệt con Blanche, vợ tôi hết sức vui mừng. Sự
giống nhau đó, đối với tôi, không có chi là lạ, vì tôi tự nghĩ hễ có mang mà mơ
tưởng đến ai, khi sanh con, nó giống người ấy, thế thôi.
Lúc con bé được sáu tuổi,
nó càng giống thêm chị nó, cho tới lời ăn tiếng nói và nết na cũng vậy. Tuy
nhiên tôi không thế nào tin đuợc con Blanche chuyển kiếp. Kịp đến khi xảy ra
chuyện lạ dưới đây, tôi mới chịu đổi ý kiến.
Nguyên hồi trước chúng tôi
giao con Blanche cho một chị vú chăm nom tên Marie, người nước Thụy Sĩ nói rành
tiếng Pháp, mỗi lần ru em ngủ, Marie thường hát bài "Cantilène" bằng tiếng Pháp.
Sau khi con bé tôi bất
hạnh, chị vú không còn phận sự nên xin về xứ. Từ đó, trong nhà tôi, không còn
nghe bài hát ấy nữa, vả lại, có ai biết hát đâu?
Chín năm lặng lẽ trôi qua,
một hôm vợ chồng tôi đang loay hoay làm lụng khít bên phòng con Blanche em,
bỗng nghe có tiếng ai hát bài "Cantilène"
trong phòng ấy.
Ngạc nhiên đến cực độ,
chúng tôi không ai bảo ai, bước vội vào phòng, thấy con Blanche em, mắt mở trao
tráo, miệng hát bài ru em ấy theo giọng Pháp một cách đường hoàng đứng đắn thật
là lạ.
Tiện nội hỏi nó hát bài
gì, nó đáp hát bài hát tiếng Pháp (mà có ai dạy nó tiếng Pháp đâu?)
Mẹ nó lại hỏi ai dạy nó
hát, thì nó nói: "Không ai dạy hết
tự một mình nó biết mà thôi".
Từ đây tôi mới chịu tin có
kiếp Luân hồi.
Cho mẹ biết trước mình sẽ tái sanh.
Tờ Thần Linh Học tạp chí
(Revue Spirite) xuất bản tháng 6 năm 1938, dưới ngòi bút của bác sĩ Carmelo
Samona, thuật chuyện dưới đây:
"Ngày 15 tháng 3 năm
1910, lời bác sĩ, con gái tôi tên Alexandrine, mang bịnh lìa trần khi mới lên
năm, làm cho vợ chồng tôi hết sức buồn lòng. Sau khi chôn xong ba ngày, vợ tôi
nằm mộng thấy con bé về nói: "Má đừng
buồn khóc nữa, vì con không xa má đâu. Rồi đây con sẽ trở về với má".
Ba ngày sau vợ tôi cũng
chiêm bao thấy y như vậy, lấy làm chuyện lạ, tiện nội liền thuật lại cho một
người chị bà con nghe, thì người ấy trao cho xem một quyển sách luận về kiếp
luân hồi của tác giả Leon Denis, có ý làm cho tiện nội tin rằng con bé ấy sẽ
đầu thai lại trong gia đình nầy.
Tuy nhiên, tiện nội không
thế nào tin được, vì mới bị mổ trong lúc tiểu sản, thì làm sao chửa nghén được
nữa, nên vẫn buồn nhớ đến con mãi.
Một buổi sớm mai, gia
quyến tôi đương cùng nhau đàm đạo, bỗng nghe gõ cửa ba tiếng. Con trai tôi chạy
ra mở cửa không thấy ai hết, làm cho cả nhà hết sức ngạc nhiên. Những chuyện lạ
kỳ ấy khiến vợ chồng tôi nảy ra cái ý muốn thông công với người khuất mặt bằng
cách tiếp điển chỉ chữ trên một tấm bảng có viết mẫu tự.
Ngay trong đêm đầu, có hai
hồn giáng điển, một xưng là con Alexandrine, một xưng là Jeanne, em gái tôi
chết hồi 15 tuổi, nó nói về giúp cho hồn con tôi giáng điển. Hồn con
Alexandrine lại báo tin trước rằng trước lễ Chúa Giáng Sinh (Noël), nó sẽ trở
lại với gia đình.
Từ đây, đêm nào cũng có "cầu cơ", hồn con tôi bảo rằng
nó chỉ về được ba tháng thôi, sau thời gian ấy không về được nữa, vì nó phải
đầu thai.
Ngày 10 tháng 4 năm 1910,
tiện nội cảm thấy trong người dường như có mang.
Qua ngày 4 tháng 5, hồn
con tôi về cho hay nó sẽ trở lại dương gian với một hồn nữa đầu thai một lượt.
Mặc dầu những tin báo
trước như vậy, vợ tôi vốn chẳng nguôi ngoai, vì nghĩ rằng nếu thật hồn con
Alexandrine có đầu thai đi lại đi nữa, hình dung nó cũng không thể in hệt như
xưa. Hồn con Jeanne vẫn hiểu thấu chỗ thắc mắc ấy, nên bảo: "Adille (tên vợ tôi) đừng lo ngại, con
nhỏ sau nầy chẳng những giống hệt Alexandrine khi xưa, mà còn đẹp đẽ hơn nữa
kia.
Qua tháng 8, bác sĩ coi nói vợ tôi thật có thai mà lại
song thai nữa.
Quả thật ngày 22 tháng 01 năm 1911, vợ tôi sanh một
lượt hai đứa gái khác hẳn nhau từ nước da tới mặt mũi, nhưng một đứa lại giống
hệt con Alexandrine".
Chuyện luân hồi ở Việt Nam.
"Cao Ðài Tạp Chí" (Revue Caodaïste) xuất
bản bằng Pháp văn, số ra tháng Giêng năm 1931 dưới ngòi bút ông Hiến Pháp, có
thuật lại chuyện một đứa bé Việt Nam 7 tuổi nhớ được tiền kiếp của nó. Dưới đây
là bản dịch bài báo ấy:
Trong số xuất bản vào
tháng 8 vừa rồi, chúng tôi có thuật sơ chuyện một đứa bé Việt Nam nhớ được
những kiếp trước của nó, và chúng tôi có hứa sẽ trở lại chuyện nầy với chi tiết
đầy đủ và rõ ràng hơn.
Nên nói rõ rằng chúng tôi
đã hai lần đến viếng đứa bé kỳ lạ ấy nơi nhà nó ở làng Ðức Lập (quận Ðức Hòa,
hạt Chợ Lớn). Lần đầu tiên, chúng tôi tiếp chuyện với nó trước mặt cha mẹ nó,
nhưng không hỏi được điều gì đáng kể, là vì đứa bé sợ cuộc điều tra của chúng
tôi nên đối với những câu hỏi của chúng tôi, nó chỉ đáp mập mờ và vắn tắt.
Ðứng trước một trường hợp
hiếm có và rất đáng khảo cứu kỹ càng, chúng tôi nhận thấy cần phải điều tra một
lần nữa với đứa bé ấy và với một người bạn thân làm giáo học ở tại Tân Phú
Thượng vì người nầy trước kia đã đem nó về ở nhà mình nhiều ngày đặng đủ thì
giờ quan sát.
Dưới đây là kết quả cuộc
điều tra thứ hai:
Ðứa bé ấy 7 tuổi, Phạm Văn
Non. Cha mẹ nó nghèo hiện ở tại Ðức Lập, một làng cách đường quản hạt số 15 lối
sáu cây số ngàn.
Một hôm, đứa bé ấy đang
chơi ở vệ đường thấy ông chú nó dắt trâu đi qua, nó liền hỏi:
- Ông chú đi đâu vậy?
Ông lão đáp:
- Tao đi đốn cây cất nhà.
- Ông nên bỏ ý định ấy đi,
vì trong 10 bữa nữa đây, ông sẽ chết kia mà.
Ông lão làm thinh bỏ đi vì
ông cho đứa bé nói đùa. Tuy nhiên, về đến nhà, ông không quên thuật chuyện ấy
lại cho cha mẹ nó cùng ít người hàng xóm được nghe.
Thế mà ông lão chết đúng y
lời tiên tri của đứa bé. Tin ấy tràn lan ra khắp cả làng, nhiều kẻ háo kỳ đổ xô
đến nhà tên Non và cật vấn nó nhiều điều. Với những người có ít nhiều học thức,
nó vui lòng đối đáp. Trái lại, đối với bọn vô luân, nó chỉ trả lời miễn cưỡng
và vắn tắt. Trong những điều phát giác của nó đáng chú ý nhứt là câu chuyện
tiền thân của nó như dưới đây:
"Trước kia, vốn lời của đứa bé, tôi đầu thai làm
đàn bà, mẹ của một vị hương chức tên C… ở Sông Tra (Ðức Hòa). Hiện giờ, trước
ngôi nhà cũ của tôi có một hàng cây. Tôi nhớ rõ có đóng lút một cây đinh trong
thân một cây cau, ngày nay vẫn còn. Trong ngày giờ nầy, người ta đương làm đám
giỗ tôi. Rất tiếc là tôi không đến dự được."
Lời tiết lộ lạ lùng và đột
ngột ấy đã khêu gợi tánh háo kỳ của một vài người, nên họ đích thân đến Sông
Tra điều tra coi có đúng như vậy chăng. Và họ hết sức ngạc nhiên mà xác nhận
điều ấy.
Ðứa bé còn quả quyết rằng
nó đầu thai một lượt với một đứa gái tên Tang, con của một cô đào hát ở gần đó.
Nghe vậy người ta dẫn nó tới rạp hát, nó chỉ ngay đứa gái ấy giữa một đám đông
con gái khác đương ngồi coi hát. Người ta hỏi thăm ngày sanh tháng đẻ của Tang
thì cũng y như ngày sanh tháng đẻ của Non.
Hiện giờ Phạm Văn Non vẫn
còn sống, lối 31 tuổi, chuyên nghề ruộng nương. Và theo lời người ta thuật lại,
càng lớn Non càng quên lần những việc về kiếp trước của mình. Phải chăng vì
không muốn bị người ta theo làm rộn mãi mà Non bảo thế?
Một hiện tượng ly kỳ về
Thần linh: Một đứa bé 4 tuổi, trong những trường hợp kỳ dị nhìn nhận là cha mẹ
nó hai người mà thuở nay nó không biết
Ðó là tiêu đề và phụ đề
một bài báo đăng trong Ðuốc Nhà Nam ngày 6 tháng 9 năm 1932 dưới ngòi bút ông
Phan Thế Ngọc. Dưới đây là nội dung bài báo ấy:
"Thầy Ðội Lang làm sở Thương Chánh ở tại Khánh
Hội, trong vùng ngoại ô thành phố Saigon. Tuổi ngoài tứ tuần, thầy lấy làm sung
sướng có được một đứa con gái tên Phiên, 19 tuổi mà sắc kiều diễm sánh bằng vẻ
đẹp một đóa hoa tươi nở mùa xuân. Rủi thay! Sau một cơn bịnh dày xéo lối vài
ngày, thiếu nữ ấy mạng chung, để thương nhớ cho cha mẹ".
Sự chết của thiếu nữ, cũng
như của nhiều người khác, không có điều gì đáng chú ý, nó sắp đi vào chỗ lãng
quên. Bỗng một hôm lại xảy ra cái hiện tượng ly kỳ dưới đây:
"Số là ngày 31 tháng 8 vừa qua, thầy Ðội Lang
thấy một đứa bé trai lối 4 tuổi đương ngồi trước nhà thầy. Ðầu tiên thầy không
chú ý tới, vì tưởng đâu là một đứa nhỏ ở lối xóm đến chơi. Nhưng, sau khi ăn
cơm rồi trở ra, thầy vẫn thấy nó còn ngồi tại đó. Thầy vờ giận đuổi đi."
Ðứa bé liền nói:
- Nhà tôi ở đây, sau lại
đuổi tôi?
Tất nhiên lời nói ấy không
khỏi làm cho thầy, vợ thầy và vài người chứng kiến lấy làm ngạc nhiên. Có người
làm lanh bảo rằng đứa bé ấy vốn là con nhà ai đi lạc và trong lúc thất thần,
ngộ nhận thầy là cha ruột nó. Nhưng thím Ðội Lang vốn giàu lòng từ thiện, dùng
lời dịu ngọt hỏi thăm cha mẹ nó tên gì và ở đâu. Ðứa bé lấy tay chỉ hai vợ
chồng thầy Ðội và nói: "Thì cha mẹ
tôi đây, nhà tôi đây, còn gì hỏi nữa?"
Thím Ðội lại hỏi nó tên
gì, mấy tuổi. Nó đáp: "Con tên Mọi,
4 tuổi".
Không muốn để ý tới mấy
lời vô lý ấy, thầy Ðội dẫn nó đi từng nhà trong xóm kiếm cha mẹ nó mà giao lại.
Ði lối 500 thước, thầy tìm được bà nội nó. Giao đứa bé cho bà lão xong, thầy
quày gót trở về, nó chạy theo khóc lóc và níu kêu: "Tía ơi! Tía ơi!". Thầy Ðội xô nó ra rồi bỏ đi. Nó liền
ngã lăn xuống đất khóc ngất lên. Thầy không thế cầm lòng, liền quay trở lại.
Thấy nó chịu nín, thầy bỏ đi nữa, nó càng chạy mau theo thầy. Bà nó thấy vậy,
không biết tính sao, bèn năn nỉ thầy đội tạm dẫn nó về nhà, đợi cha mẹ nó chiều
đi làm về sẽ lãnh nó lại.
Ở đây, nên nói rằng gia
quyến của Mọi trước kia ở Chợ Ðũi, mới về cư ngụ tại Khánh Hội lối hai tuần
nhựt và không hề giao thiệp với gia quyến thầy Ðội Lang. Vả lại, bà nội đứa bé
không bao giờ để cho cháu bà rong chơi ở hàng xóm. Bà không khỏi ngạc nhiên khi
thấy cháu bà bỗng nhiên nhìn nhận vợ chồng thầy Ðội, mà thuở nay nó không quen
biết, là cha mẹ ruột của nó.
Chiều đến, khi cha mẹ nó
tới lãnh về, nó lại không chịu theo, cưỡng bách thế nào cũng không được. Túng
thế, cha mẹ nó đành tạm để nó ở lại rồi buồn bực ra về.
Tin nầy bắn ra khắp vùng
làm cho nhà thầy Lang bữa nào cũng chật nứt khách háo kỳ. Có người cắc cớ vờ
lấy món gì của thầy Ðội, nó chạy a tới giựt cho kỳ được.
Lại có điều lạ nầy nữa là
đứa bé ấy biết rõ từng ngăn nắp trong nhà: phòng ăn, buồng ngủ, chỗ nào nó cũng
quen thuộc dường như đã ở trong nhà nầy lâu lắm rồi. Tên họ và ngôi thứ mấy
người bà con của thầy Lang đến thăm, nó đều biết cả.
"Trước cái hiện tượng lạ lùng không thể giải
thích được ấy, người ta suy cứu mà tin rằng linh hồn của con Phiên, vì cảm thấy
cha mẹ vô cùng đau khổ về câu tử biệt, nên đầu thai vào xác tên Mọi, cốt để làm
dịu bớt phần nào sự đau thương của hai người vậy".
"Tường thuật cái hiện tượng nầy, mục đích của tôi
là trình bày nó cho các nhà Linh hồn học để tâm suy cứu, và mong ở họ một sự
giải thích rõ ràng."
Chuyện Luân hồi ở Ấn Ðộ.
Báo Pháp văn "Le Populaire", xuất bản ngày
20-8-36 tại Saigon, cho biết tại Delhi, thuộc xứ Ấn Ðộ, mới đề cử một Ủy ban
gồm nhiều vị lương y và bác học để quan sát một hiện tượng Luân hồi rất lạ.
Nguyên tại Delhi có một
đứa bé gái 9 tuổi, tên Shanti Devi, mà từ 6 năm rồi cứ nói việc kiếp trước của
nó cho cha mẹ nghe mãi. Vốn sanh trưởng tại Delhi, nàng chưa bao giờ đi đâu cả,
thế mà nàng thường ngỏ ý muốn đến thành Muttra để thăm, theo lời nàng nói,
chồng nàng là một chủ tiệm may nơi đó.
Nàng cứ nài nỉ như vậy
mãi, thét rồi cha mẹ nàng cũng phải dọ hỏi tin tức, thấy quả nhiên y như lời
nàng nói.
Vài thân nhân của chủ tiệm
may mà nàng nhận là chồng, nghe vậy bèn đến Delhi xem sao, thì nàng nhìn biết
ngay. Người chủ tiệm cũng có đến và khi bước chơn vào nhà nàng, nàng chạy lại
ôm cổ vừa reo lên: "Chồng tôi đến
đem tôi về đấy".
Nhơn chủ tiệm có dẫn theo
đứa con trai 11 tuổi, nàng chỉ và bảo là con nàng. Nàng còn cho biết nhiều chi
tiết khác về kiếp trước của nàng, và tất cả chi tiết ấy được xác nhận là đúng,
như nàng nói kiếp trước nàng sanh vào năm 1902, tên Ludgi và chết ngày 24 tháng
10 năm 1925 tại thành Agra, còn con nàng cũng sanh năm 1925.
Những lời tiết lộ ấy làm
cho những người ở Delhi vô cùng ngạc nhiên. Thế rồi, họ mở ra một cuộc thí
nghiệm. Ðược dẫn đến thành Muttra, nàng nhận biết ngay những người bà con của
chồng nàng đương đứng tại bến xe lửa.
Người ta lại đặt nàng trên
một cổ xe và lấy vải bịt mắt nàng lại, thế mà nàng chỉ đúng đường cho xe chạy,
đi ngang qua nhà ai nàng cũng chỉ mà nói đúng cả, sau rốt nàng bảo xe ngừng rồi
nói: "Nhà tôi đây".
Lúc ấy có một ông lão
trong nhà ấy bước ra, nàng gỡ tấm vải bịt mắt rồi nói: "Cha chồng tôi đây".
Diện mạo của Shanti Devi
vốn không giống Ludgi, trái lại từ giọng nói đến tánh tình và cử chỉ, thảy đều
y như của Ludgi vậy. Cho nên chủ tiệm may cho rằng Shanti Devi tức là Ludgi,
rồi muốn cầm nàng ở lại. Thế thì người mẹ mới 9 tuổi mà con lại 11. Tuy còn
phải đợi Uûy ban điều tra quyết định ra sao, nhưng chàng vẫn đinh ninh tin chắc
rằng hồn vợ chàng đã nhập vào xác con bé Shanti Devi đó vậy.
Chuyện thay hồn đổi xác.
1
Chuyện thay hồn đổi xác
cũng là một bằng chứng hiển nhiên về kiếp luân hồi. Trên 40 năm về trước, tại
quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu (Nam Việt), có xảy ra chuyện lấy làm xôn xao dư
luận và báo giới một dạo. Ông phán Nguyễn Thành Cương có đem chuyện ấy diễn
thành kịch, rồi in phát cho dân chúng xem mà chiêm nghiệm cơ mầu nhiệm của Ðạo
Trời.
Nguyên hồi năm 1914, tại
tỉnh Bạc Liêu làng Vĩnh Mỹ, có cô Trần Thị Phuông, tuổi độ 20, con của hương
hào Trần Văn Thừa. Cô tánh tình hiền hậu, nhưng lại có cơn ngây, thường nói lầm
thầm một mình, có khi lại chết giả.
Một hôm cô chết, rồi tỉnh
lại, nhưng lại nói theo giọng người Bắc Việt, và hát điệu nhà trò, vài ngày thì
hết. Lần khác cô cũng chết đi sống lại rồi nói tiếng Trung Hoa xưng là Lý
Thắng, 13 tuổi, ở tại Hồ Quảng, vài ngày rồi cũng hết.
Lại một lần nữa, cô cũng
chết đi sống lại nhưng lần nầy cô không nhìn vợ chồng hương hào là cha mẹ. Cô
xưng tên là Trương Thị Cưu, con gái hương cả Hiếu ở Cà Mau và đòi về đó với cha
mẹ.
Vợ chồng hương hào bèn cho
người đến Cà Mau hỏi thăm hư thiệt, thì hẳn nơi đây có tên Trương Thị Cưu, con
gái hương cả Hiếu, bị bịnh thiên thời chết 15 năm về trước. Nghe chuyện lạ,
hương cả Hiếu sai con trai mình là Gấm lên Vĩnh Mỹ thử xem cho biết. Vừa thấy
Gấm, cô Phuông kêu trúng tên và hỏi thăm cha mẹ. Gấm về thuật chuyện lạ ấy lại
cho vợ chồng hương cả Hiếu nghe, thì bà cả đích thân đến nhà hương hào Thừa,
hỏi Phuông nhiều việc riêng, thì Phuông nói đâu trúng đấy. Bà lại nói: "Nếu thiệt hồn con nhập xác Phuông, thì
xuống ghe mẹ lựa coi có vật nào là dấu tích của con để lại hãy đem lên đây cho
xem thì mẹ mới tin".
Phuông bèn xuống ghe đem
lên một chiếc mùng và bảo rằng mùng đó chính của cô (hồn Thị Cưu) đã may trước
khi từ trần. Lúc bấy giờ, bà cả mới tin thiệt là hồn con bà. Rắc rối là xác Thị
Phuông, mà hồn là hồn Thị Cưu, bà không biết đối xử thế nào. Việc đem ra tới
quận Vĩnh Mỹ yêu cầu ông chủ quận H. Ng. B phân xử giùm. Ông nầy chẳng biết
sao, phải xử phân hai, dạy Thị Phuông phải lui tới cả hai nhà.
Khi Phuông trở về Cà Mau
với cha mẹ (về phần hồn), cô nhìn biết đủ mọi người trong gia thuộc, và biết
dệt chiếu bông là kỹ nghệ đặc biệt của Cà Mau.
Về cái hiện tượng kỳ dị
nầy, hồn Thị Cưu (trong xác Thị Phuông) nói rằng khi cô đau thiên thời mà chết,
nhưng không phải chết thiệt, song cha mẹ vội đem chôn, cho nên lúc tỉnh lại
không lên được phải chịu chết luôn dưới mả. Oan hồn của cô vì chưa tới số, phải
kiếm nơi nương dựa cho tới khi gặp được xác Phuông phù hợp với cô, nên mượn mà
sống lại.
2
Báo "Religo Philosophical", xuất bản tại
thành Chicago (Hiệp Chủng Quốc), dưới ngòi bút của giáo sư Hogdson, có đang
chuyện sau đây, nhan đề là "Chuyện
lạ tại Watseka".
"Năm 1777, tại Watseka (Hiệp Chủng Quốc), cô Mary
Roff, 18 tuổi, mang bịnh lâm chung. Hai tháng sau khi cô từ trần, lại có gia
quyến tên Vannum về ở tại Watseka với một đứa bé gái mới một tuổi rưỡi, tên
Lurancy. Nguyên Vannum trước kia cũng có ở nơi đây, sau lại sang làm ăn ở nơi
khác, lần nầy về ở cũng chẳng lâu, rồi lại đi nữa. Lurancy chưa bao giờ biết
mặt Mary Roff. Sáu năm sau, gia quyến Vannum trở lại cất nhà cửa ở luôn tại
Watseka."
Mẹ Mary Roff tình cờ có
gặp mẹ Lurancy một lần, về sau không gặp nhau nữa, vì hai đàng ở cách xa nhau.
Kịp khi Lurancy được 18
tuổi, nàng lại đau y một chứng bịnh với Mary Roff. Thêm sự ngẫu nhiên là bác sĩ
đương săn sóc nàng trước kia cũng đã săn sóc cho Mary nữa. Lurancy, trong khi
ngọa bịnh, kể tên nhiều hồn ma nàng ngó thấy, nhứt là tên cô Mary mà thuở nay
nàng có biết là ai đâu.
Một hôm bỗng hồn Mary nhập
vào xác Lurancy, đòi đi tìm cha mẹ, bà con, chớ không chịu ở nhà Lurancy.
Thấy chuyện kỳ dị, bác sĩ
Stevens liền báo tin cho gia quyến cô Mary hay. Họ lật đật đến nhà Lurancy.
Thuở giờ Lurancy chưa hề biết gia quyến cô Mary, nhưng khi thấy họ đến nàng lại
vui mừng nhảy nhót và reo lên: "Kìa,
mẹ tôi và chị Nervie tôi đây nữa".
Bấy giờ Lurancy theo về với gia quyến Mary.
Những người quen thuộc của Mary khi trước, nàng vẫn biết cả. Thấy mặt chị
Darker và con gái chị là Nelly, là hai người
trước kia nàng thích giao thiệp, nàng liền gọi trúng tên họ. Khi trông thấy cái
mũ nhung mà Mary thường đội trước khi chết lối một năm, nàng chỉ và nói:
"Ðây là cái mũ tôi đội lúc tóc còn ngắn đó". Nàng còn lại nói lúc
trước nàng chơi dao bị đứt tay và có nuôi một con chó rất khôn mà nay đã chết
rồi. Việc gì trước kia mà Mary đã làm, bây giờ Lurancy thuật lại đều đúng y cả.
Lạ một điều là từ ngày về với gia quyến Mary, nàng Lurancy không còn biết cha
mẹ ruột và bà con của nàng nữa. Khi nào có cha mẹ ruột nàng đến thăm, phải có
người chỉ nàng mới biết, và mỗi lần muốn cho nàng về thăm cha mẹ ruột, phải có
mẹ Mary dẫn, nàng mới chịu đi. Sự thay hồn đổi xác ấy kéo dài được 4 tháng,
bỗng hồn Mary xuất khỏi xác để nhường cho hồn Lurancy nhập lại, cứ xuất đi nhập
lại như vậy trong 15 ngày, rồi hồn Lurancy chiếm lại thiệt thọ cái xác của
mình. Bây giờ Lurancy không chịu ở nhà Mary nữa, nên trở về với cha mẹ ruột của
nàng. Từ đây, những chuyện cũ của Mary, nàng đều quên cả."
Tại sao người ta nhớ được kiếp trước?
Không khỏi có người lấy
làm lạ hỏi tại sao có kiếp luân hồi, mà chỉ có một ít người nhớ được kiếp trước
của mình thôi? Và tại sao những kẻ khác lại không nhớ được?
Muốn giải đáp được nghi
vấn nầy, cần phải nói dài dòng.
Theo nội khoa bí truyền
con người có 4 thể là:
Vật thể, tức là xác thịt
(Corps physique = Rupâ).
Khí thể hay Phách, gọi nôm
na là Vía, thuật Âm phù gọi Tướng tinh (Double éthérique = Linga - Sharira).
Thần thể hay Chơn thần
(Corps astral = Kama).
Thánh thể Phật giáo gọi là
Mạt na thức hay Truyền tống thức. Tâm lý học gọi là trí thức (Corps mental inférieur = Manas inférieur).
Nên biết, những việc của ta đã làm, tuy đã qua
rồi, dầu lâu hay mau cái ấn tượng của nó vẫn còn, nhờ vậy mới nhớ được. Cái trụ sở của ký ức (trí nhớ) vốn không phải tại
khối óc như nhiều người lầm tưởng, mà ở tại mấy thể khác (Khí thể, Thần thể,
Thánh thể). Sự thí nghiệm cho biết nếu dùng phép thôi miên trục thần một người nào, thì người ấy, trong khi ở vào trạng thái thôi miên, nhớ
lại được những việc họ đã làm
trong kiếp trước. Ðó là bằng chứng ký ức ở trong Chơn thần, tức Thần thể.
Mỗi lần chuyển kiếp, bốn
thể đều thay đổi, bốn thể cũ đã tan thì con người nhờ đâu mà nhớ được kiếp
trước chớ? Ông Platon bảo linh hồn trước khi đi đầu thai, vì uống nước sông
Léthé nên quên hết kiếp trước, cũng như người mình nói tại ăn "Cháo lú", đó chỉ là mượn lời
nói bóng mà thôi.
Có khi linh hồn mới vừa bỏ
xác thịt và phách lại được đi đầu thai liền, nên còn giữ Chơn thần và Thánh thể
cũ nhờ vậy mà lúc tái sanh, nhớ được kiếp trước, như mấy chuyện đã thuật ở mấy
trương trước.
Như trên đã nói, mỗi lần
chuyển kiếp, 4 thể cũ đã tan, để thay vào 4 thể mới, thế mà ký ức không mất, nó
chỉ rút vào nhơn hồn như những hạt giống luân hồi (atomes permanents) rút vào
đó vậy. Nhơn hồn nào trình độ tấn hóa còn thấp thỏi, khi tái kiếp không thể nhớ
được những việc đã làm cùng những điều học hỏi và kinh nghiệm ở kiếp trước, lần
lần tấn hóa thêm lên, thì nhớ được mang máng vậy thôi. Những bực thần đồng ở
vào trường hợp nầy. Lại có khi chúng ta bỗng nhiên hiểu được nhiều vấn đề đạo
lý cao siêu, không cần lý trí và học cứu. Ðó là nhờ cảm giác những điều học hỏi
và kinh nghiệm trong kiếp trước vậy. Sự cảm giác ấy gọi là trực giác
(intuition).
Cũng vì lẽ ấy mà Ðạo Nho
nói: "Bực Thánh nhơn sanh ra tự
nhiên hiểu biết, không cần học cứu" (Thánh nhơn sanh nhi tri chi).
Thần đồng.
Thử xem hai đứa học sanh:
đứa nầy học được nhiều năm, đứa kia mới cắp sách đến trường. Ðứa học lâu tất
nhiên học giỏi hơn đứa mới nhập học.
Và cùng học một lớp, cùng
được một thầy ân cần dạy dỗ, tại sao đứa thông minh đứa u ám?
Lại cũng trên quả địa cầu
nầy, tại sao có dân tộc văn minh và dân tộc dã man lạc hậu?
Sự sai biệt ấy, ai cũng
biết là do trình độ tấn hóa khác nhau. Ðứa học sanh u ám, một dân tộc kém văn
minh là tại ít tấn hóa. Nói tấn hóa đây, tức là nói luân hồi chuyển kiếp. Phàm
một kiếp luân hồi là một nấc thang tấn hóa. Dân tộc dã man là dân tộc còn mới
trên đường tấn hóa, tức mới trải qua ít kiếp luân hồi, nên ít kinh nghiệm, ít
học hỏi. Trái lại, dân tộc văn minh là dân tộc đã lâu đời trên đường tấn hóa,
tức đã trải qua nhiều kiếp luân hồi, nên thâu thập được nhiều kinh nghiệm,
nhiều học thức.
Ðành rằng kiếp luân hồi là
kiếp chung cho Vạn linh, nhưng trình độ tấn hóa của một kiếp riêng con người
lại do thời gian của điểm Chơn linh dùng để tấn hóa, kể từ khi bắt đầu thác
sanh xuống thế. Cái trình độ tấn hóa thấp hay cao là do điểm Chơn linh đã trải
qua ít hay nhiều kiếp luân hồi vậy.
Các vị thần đồng là người
đã được nhiều kiếp luân hồi và trong nhiều kiếp ấy, kiếp nào cũng chuyên học
một khoa hay một nghệ thuật nào, nên học lực về các môn ấy được trổi hơn bực
thường nhơn. Vậy có nhiều hạng thần đồng, có hạng giỏi văn chương nghệ thuật,
có hạng giỏi toán pháp, âm nhạc hay hội họa,v.v…
Có thần đồng tức là có
bằng chứng về kiếp luân hồi. Ai không chịu tin có kiếp luân hồi tất không thể
dựa vào đâu mà giải thích được nguyên do cái siêu năng kỳ diệu của mấy vị thần
đồng ấy.
Thần đồng xưa và nay.
Từ Âu sang Á, từ cổ cập
kim, nước nào và thời đợi nào cũng có bực thần đồng.
Bên Trung Hoa, Cam La mới
12 tuổi đã được Tần Thỉ Hoàng phong chức Thượng Khanh. Thuở ấy vua nước Yên sai
Thái Tử Ðan qua nước Tần mượn Ðại Tướng nước Tần là Trương Ðường giúp Yên đánh
Triệu. Lữ Bất Vi, tức cha ruột Tần Thỉ Hoàng, đương làm Tể Tướng cũng nói giúp
vào, nhưng Trương Ðường sợ đánh không thắng Triệu, nên quyết chẳng chịu sang
giúp Yên. Bất Vi thấy vậy lấy làm buồn bực. Cam La đương ở làm hạ khách cho họ
Lữ hay được liền nói: "Tưởng việc gì khó, chớ việc thuyết phục Trương
Ðường, tôi thấy dễ như lấy đồ trong túi". Bất Vi giận nói: "Ta làm tới bực Tể Tướng, một tay điều
khiển muôn binh, chỉ thua vua một bực, vậy mà Trương Ðường không chịu tuân
thay, huống chi ngươi là một đứa bé, tài gì nói cho hắn nghe theo?".
Cam La cười đáp: "Vậy ngài không nhớ
thuở xưa Hạng Thác mới 7 tuổi mà thuyết phục được Khổng Tử đó sao? Nay tôi 12
tuổi, hơn Hạng Thác tới 5, tất nhiên phải hiểu biết nhiều hơn Hạng Thác".
Nghe lời nói khẳng khái
ấy, Bất Vi vui lòng để Cam La đi. Trương Ðường tiếp rước Cam La rồi hỏi đến có
việc chi, Cam La đáp: "Tôi đi qua
điếu tướng quân". Trương Ðường lấy làm lạ hỏi:
- Tôi còn sống sờ sờ đây mà ngài nói vậy nghĩa là làm
sao?
- Tướng quân sống cũng như chết rồi kia.
- Xin ngài cắt nghĩa.
- Tướng quân tài không bằng Bạch Khởi, quyền hành thì
Phạm Thơ không bằng Lữ Bất Vi. Mà hồi trước Bạch Khởi vì không tuân lịnh Phạm
Thơ sai chàng đánh Triệu, nên thọ tử hình. Huống chi họ Lữ bây giờ có đủ quyền
thế mà tướng quân lại cãi lịnh, vậy có phải tướng quân là người chết chưa chôn
đó không?"
Trương Ðường nghe lời hữu
lý, giựt mình, cậy Cam La về thưa lại với Bất Vi, ông bằng lòng sang đánh
Triệu.
Cam La lại được Tần Thỉ
Hoàng sai đi sứ qua thuyết phục vua Triệu. Triệu Vương thấy Cam La còn nhỏ,
cười hỏi mỉa mai: "Bên nước Tần hết
người lớn rồi thì phải?"
- Tâu bệ hạ, người lớn thì không thiếu gì, nhưng mỗi
người phải tùy việc lớn nhỏ mà làm, lớn thì lãnh việc lớn, còn đi sứ bên nước
Triệu đây vốn la việc nhỏ, nên hạ thần tuổi nhỏ phải đi".
Vua Triệu nghe nói, lấy
làm thán phục Cam La. Nhơn cơ hội ấy Cam La mới thuyết phục được Triệu Vương
chịu dâng thành cho Tần mà xin giao hảo.
* * *
Ở nước Việt Nam, vào đời
Trần Thái Tôn, Nguyễn Hiền mới 12 tuổi được nổi tiếng thần đồng. Lúc Nguyễn
Hiền còn là một thiếu sanh, có một ông huyện nhơn nghe danh họ Nguyễn, bèn ra
cho ông câu đối sau nầy cốt để thử sức và trêu đùa:
- "Học trò là học trò con, quần áo lon xon là con
học trò".
Nguyễn Hiền chẳng cần suy
nghĩ, đối lại:
- "Ông huyện là ông huyện thằng, ăn nói lằng xằng
là thằng ông huyện".
Nghe câu đối ấy, ông huyện
chẳng những không giận mà còn thán phục thiên tài và chí khí của vị thần đồng.
* * *
Ở nước Pháp, ông Pascal
vốn là một bực thiên tài của thế kỷ 17: ông giỏi về hình học, vật lý học, triết
học, luôn cả về văn chương. Lúc mới 12 tuổi, ông đã nổi tiếng thần đồng. Với
từng ấy tuổi, ông không học hỏi sách nào thế mà đã tìm hiểu được những định lý
đầu tiên về hình học của Euclide (Premières propositions de géométrie
d'Euclide). Qua 16 tuổi, ông viết quyển "Khái
luận về thiết diện hình nón" (Traité des sections coniques), làm cho
nhà triết lý vừa toán học nước Pháp lúc bấy giờ là Descartes phải ngạc nhiên
thán phục.
Nhà thiên văn học và toán
học người Ðức là ông Gauss, lúc mới lên ba, đã giải được những bài toán đố về
số học.
Ông William Hamilton, một
triết gia xứ Ecosse, hồi 3 tuổi, đã học được tiếng Hy bá lai (Hébreu), đến 7
tuổi, học lực của ông đã trỗi hơn phần đông cử tử thi bằng thạc sĩ. Lên 13
tuổi, ông biết được 12 thứ tiếng.
Ông Michel Ange, người
nước Ý, lúc lên 8, học nghề hội họa giỏi đến đỗi thầy dạy ông là Ghirlandajo,
bảo ông không còn gì phải học nữa.
Ông Mozart, người nước Áo,
mới 4 tuổi đã biết đánh dương cầm, đến 11 tuổi, ông đặt 2 bản hát đem diễn tại
hí viện: bản Finta Simpliste và bản Bastien et Bastienne.
Thần đồng nếu kể ra còn
nhiều lắm. Chúng tôi xin nói sơ lược vài vị thôi, và lập lại rằng nếu không có
kiếp luân hồi, tất không thể dựa vào đâu mà giải thích được nguyên do cái siêu
năng kỳ diệu của những bực phi thường ấy.
CHƯƠNG BA
Nhơn quả.
Có luân hồi tất có nhơn
quả, hai việc ấy vốn liên tục nhau.
Ðiểm linh quang (hồn) thác
sanh xuống cõi phàm, mục đích để học hỏi kinh nghiệm mà tấn hóa. Chuyển sanh
xuống cõi sắc giới, tất phải mượn sắc thân mà hành động. Càng hành động, càng
tạo nhơn. Tạo nhơn, linh hồn tái sanh phải trả quả, theo phép công bình Thiên
đạo.
Từ xưa đến nay, dầu trình
độ trí thức thấp hay cao, nhơn loại phần nhiều đã tin có cơ báo ứng, tức là cơ
nhơn quả.
Ðạo Phật dạy: "Cha làm điều chẳng lành, con không
chịu thế được, con làm điều chẳng lành, cha không chịu thế được. Làm lành tự
được phước, làm dữ tự mang họa" (Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ, tử
tác bất thiện, phụ bất đại thọ. Thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương).
Ðạo Lão dạy Cảm Ứng có
câu: "Ðiều lành, điều dữ đều có trả,
như bóng với hình" (Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình).
Ðạo Nho dạy: "Trồng
đậu được đậu, trồng dưa được dưa" (Chưởng đậu đắc đậu, chưởng qua đắc
qua).
Lại có câu: "Ðiều lành dữ cuối cùng đều có trả,
khác nhau chỉ đến chóng hay chầy thôi" (Thiện ác đáo đầu chung hữu
báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì).
Chúa Giêsu dạy: "Ai sử dụng đao kiếm sẽ chết về đao
kiếm" (Qui manie l'épée périra par l'épée).
Tục ngữ Pháp có câu: "Ai gieo gió thì gặt bão" (Qui sème le vent, récolte la
tempête).
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Ðời xưa quả báo thì
chầy, đời nay quả báo một giây nhãn tiền".
* * *
Những câu trên đây đều biểu lộ rõ rệt cái quan
niệm Nhơn quả vậy.
Ðấng Tạo Hóa chí công,
không vì thương mà thưởng, cũng không gì ghét mà phạt. Ngài chỉ lập ra Luật
nhơn quả, cũng gọi là Luật báo ứng, là cái qui tắc định rằng hễ nguyên nhơn như
thế nào, thì kết quả như thế ấy.
Ta thử nhìn vào một tấm
gương, mặt ta sạch (Nhơn), gương rọi ra sạch (Quả), trái lại, mặt ta dơ, gương
rọi ra dơ.
Và ta thử ném vào vách
tường một quả banh cao su, ném nhẹ (Nhơn), tức banh dội lại nhẹ (Quả), trái
lại, ném mạnh thì banh dội mạnh, Nhơn quả đại khái là thế.
Vậy, ai tạo nhơn lành
(duyên lành), sẽ hưởng quả lành (nghiệp lành). Ai tạo nhơn dữ, tất rước quả dữ,
chẳng sai.
Cái quả hay nghiệp vốn là
kết quả cái nhơn hay duyên của chúng ta tạo ra trong kiếp trước hoặc kiếp nầy.
Rồi cái quả ấy lại làm nhơn cho cái quả khác sẽ báo ứng về sau. Nhơn và Quả cứ
tiếp tục tương ứng như vậy mãi như bóng tùy hình mà buộc trói con người trong
vòng oan nghiệp, mới có cuộc trả vay, vay trả của kiếp luân hồi.
Vậy muốn biết nhơn quả
kiếp trước của ai, cứ xem cái địa vị sang hèn của người ấy ở kiếp đương sanh.
Muốn biết nhơn quả đời sau của họ thế nào, cứ xem tâm tánh và hành động của họ
ở ngay kiếp nầy vậy.
* * *
Nhơn quả hay nghiệp báo
vốn có hai thứ: Biệt nghiệp (Karma individuel) và Cộng nghiệp (Karma
collectif).
1/. Biệt nghiệp là quả báo
riêng từng người, ai tạo nhơn là nấy thọ quả. Biệt nghiệp lại ứng quả có hai
cách: Ðịnh nghiệp và Bất định nghiệp.
a) Ðịnh nghiệp là quả báo
định trước. Nhơn hồn nào tấn hóa khá rồi, khi được hoàn tỉnh sau cái trạng thái
hỗn độn gây ra trong lúc thoát xác phàm, lần hồi thấy rõ tội lỗi đã làm (*1)
rồi biết ăn năn đau khổ, tự quyết khi chuyển kiếp sẽ trả quả bằng cách nào,
trong lúc nào, hoặc trong một thời gian nào nhứt định. Nhơn hồn được tự do lựa
chỗ thác sanh. Nếu phải chuyển kiếp để thọ khổ mà đền tội trước, nhơn hồn thường
lựa gia đình nào bần hàn hoặc hung độc mà đầu thai cốt để có dịp cho mình trả
quả.
b) Bất định nghiệp là quả
báo không nhứt định trước. Những nhơn hồn thấp thỏi, hôn mê ám muội đã tạo ác
duyên mà không tỉnh ngộ, cho nên quả ứng lúc nào hay lúc nấy, không biết tự
mình quyết định.
2/. Cộng nghiệp là quả báo
chung cho nhiều người phải chịu. Như nhiều kẻ đồng phạm một ác nhân, khi đền
tội, phải chịu chung một ác quả.
Cũng có nhiều kẻ, tuy tạo
nhơn khác nhau, song tội đồng nhứt thể, đến khi trả quả vẫn chung chịu với nhau
một lượt.
Lại có khi một người làm
ác mà nhiều người chung hưởng lợi, tất cũng phải thọ quả đồng thể.
Tất cả nạn nhơn một tai
họa lớn như động đất, bão lụt, chìm tàu, hỏa hoạn, dịch khí, chiến tranh,v.v…
đều là những kẻ chịu một quả báo chung vì họ đã đồng tạo một ác nhơn.
Mặc dầu xa lạ nhau, mặc
dầu kẻ Nam người Bắc, Thiên cơ xui khiến thế nào cho họ hiệp nhau một chỗ đặng
đền tội chung một lượt.
(*1) Ở cõi phàm, con người
hành động thế nào, sự hành động ấy dầu hiền hay dữ, dầu thấp hèn hay cao
thượng, cái ấn tượng của nó in gắn vào tinh chất (matière astrale) của cõi Thần
(Plan astral). Ðến khi hồn lên cõi Thần, cái ấn tượng ấy hiện ra có thứ lớp rõ
ràng, hồn người trông thấy chẳng khác nào mục kích một phim chớp bóng. Nhà Phật
gọi là "Nghiệt cảnh đài"
(psyché astrale).
Thời gian báo ứng.
Phàm bất câu một nguyên
nhơn nào cũng có cái tánh cách đem lại kết quả cấp kỳ. Nhưng lại thường có một
nguyên nhơn khác xen vào phản ứng (Cause contradictoire), khiến cho cái kết quả
ấy phải hoãn lại một thời gian.
Tỉ như chúng ta để ngón
tay vào lửa (nguyên nhơn), chúng ta bị phổng liền (kết quả cấp kỳ). Nhưng nếu
chúng ta dè dặt, bao ngón tay bằng một chất thuốc gì có công hiệu che chở, ngón
tay ắt không bị phổng liền. Lửa cần phải đốt hết chất ấy rồi mới bắt qua ngón
tay.
Lớp thuốc ấy là nguyên
nhơn phản ứng.
Lại ở các nước miền ôn đới
như Việt Nam chẳng hạn, phàm giống lúa hễ gieo xuống là nứt mộng lên mau. Nhưng
ở các xứ lạnh, lúa lại chậm lên là tại tuyết giá cản ngăn. Tuyết giá vốn là
nguyên nhơn phản ứng đó vậy.
Một đứa bé chơi nghịch bị
cha nó bắt nằm xuống phạt răn. Trong lúc người cha đưa roi lên sắp đánh, lại có
một người khách đến thăm. Ông cha phải buông roi hoãn sự răn trừng để tiếp
khách. Sự khách đến thăm ấy cũng là nguyên nhơn phản ứng.
Cũng vì "Luật phản
ứng" mà cái quả của một thiện nhơn hay một ác nhơn có khi không báo ứng
ngay trong kiếp tạo nhơn. Nên chúng ta thấy nhiều kẻ bạo tàn ác đức mà được
giàu sang sung sướng nghinh ngang hống hách với đời. Ấy bởi họ đương hưởng cái
quả của thiện nhơn họ đã tạo ra trong kiếp trước. Nhưng một khi đã tận hưởng
quả lành thì ngay trong kiếp đương sanh hoặc trong kiếp tái sanh, họ sẽ chịu
khổ quả của cái ác nhơn mà họ đương tạo.
Chúng ta cũng thấy có
người hiền lương đạo đức mà lận đận lao đao, ấy là họ đương trả quả của cái ác
nhơn họ đã tạo ra trong tiền kiếp. Trả quả xong, họ sẽ được hưởng ngay trong
kiếp nầy hay trong kiếp sau, cái quả của thiện nhơn mà họ đương tạo.
Vậy, đối với thời gian, sự
báo ứng có ba cách:
1/. Báo ứng ngay trong kiếp
tạo nhơn, gọi đương kiếp nhơn quả.
2/. Báo ứng theo cái nhơn
kiếp trước, gọi tiền kiếp nhơn quả.
3/. Báo ứng ở kiếp sau do
cái nhơn hiện tại, gọi hậu kiếp nhơn quả.
Chuyện Nhơn Quả
Kéo cày trả nợ
Chuyện nầy trích ở "Chuyện cổ nước Nam". Dầu
rằng, người ta có thể bảo chuyện cổ là chuyện bịa đặt, nhưng thấy tác giả tin
tưởng Luật Nhơn Quả và có dụng ý khuyến thiện, chúng tôi mượn chép ra đây:
Xưa có một người tên Châu
Văn Ðịch, làm ăn vất vả, cửa nhà đói kém, nhưng tánh khí hiền lành, ăn ở thật
thà có nhơn, có đức.
Trong hạt có một nhà giàu
thường cho người ấy vay nợ, năm nào cũng vậy, vay vay, trả trả đã nhiều.
Gặp năm mất mùa, người ấy
không trả được nợ, mà ông nhà giàu cũng không hỏi đến. Mấy năm sau, người ấy
chết đi, nợ vẫn còn lại. Nên lúc hấp hối còn trối với con rằng:
"Nợ nần chưa trả cho ai,
Hồn nầy thác xuống tuyền đài chưa yên".
Một đêm, ông nhà giàu kia
nằm mơ, nghe có tiếng người nói ở bên tai rằng:
"Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai".
Sáng ra ông thấy con trâu
đẻ ra được con nghé trên lưng có hai chữ "Văn
Ðịch".
Con nghé mỗi ngày một lớn,
khôn ngoan dễ bảo, cày bừa rất khỏe. Người biết chuyện, ai cũng bảo rằng:
"Người ăn thì còn,
Con ăn thì hết.
Ðã đến lúc chết,
Hãy còn nhớ ơn".
Cách ít năm, hai đứa con
Văn Ðịch khôn lớn lên, làm ăn nhờ Trời cũng khá. Một hôm đang cày ngoài đồng,
nghe thấy ở thửa ruộng gần đấy có người bảo con trâu rằng:
- Văn Ðịch! Văn Ðịch!
Nhanh chơn, mau bước, kẻo đã trưa rồi.
Hai đứa con nghe kêu tên
cha, ngạc nhiên chạy sang bên ruộng hỏi thì người kia nói rằng:
- Con trâu nầy từ lúc sanh
ra, trên lưng có hai chữ "Văn
Ðịch", mà có gọi đúng tên nó như thế, thì nó mới chịu làm.
Lúc về hai đứa con vội
vàng sang nhà ông nhà giàu hỏi chuyện tỏ ý muốn mua con trâu, thì ông ấy bảo
rằng:
- Trước tên "Châu
Văn Ðịch" có vay nợ ta,
không trả được ta cũng không đòi? Có lẽ gì vậy, mà phải hóa kiếp làm con trâu
nầy trả nghĩa cho ta. Ðã mấy năm nay nó làm ăn chịu khó, trong nhà ta đây cũng
được thạnh vượng. Nó trả như thế, ta cho cũng là đủ rồi. Vậy hai người có phải
là con, muốn mua chuộc về thì ta để lại cho. Ta lại trả cả văn khế cũ đem về mà
hóa kiếp cho yên hồn cha.
Khi hai đứa con chuộc được con trâu về, vừa đem
tờ văn khế ra đốt, thì nó lăn ra chết. Thế là nó đã trả sạch được nợ kiếp trước
rồi.
Thấy chuyện nầy, người ta mới đặt câu "Kéo cày trả nợ" thành câu tục
ngữ.
Tiền
kiếp Nhơn quả
Chuyện nầy trích ở quyển
sách "Vấn đề con người và số
phận" của Léon Denis, trang 289 "Le
problème de l'être et de la destinée".
Năm 1862, ông hoàng
Galitzin cùng với Hầu tước B… và Bá Tước R… đi nghỉ hè tại bờ suối nóng ở thành
Hambourg. Một buổi chiều, ăn uống xong, có hơi trễ, ba người cùng đi dạo trong
vườn một hí viện. Bỗng ba người bắt gặp một mụ bần hàn ngủ trên một chiếc
"băng". Ba người liền đánh thức mụ và sau khi hỏi thăm tình cảnh cơ
hàn lại dẫn mụ về khách sạn cho ăn uống no nê. Nguyên ông hoàng Galitzin vốn là
một nhà biết thuật "thâu thần"
nên nảy ra ý định thôi miên mụ ấy. Lạ một điều là bình thường mụ ấy chỉ bập bẹ
một thứ thổ ngữ nước Ðức, thế mà lúc ngủ mê trong giấc thôi miên mụ lại nói
tiếng Pháp đúng đắn và rành rẽ. Mụ bảo kiếp trước vào thế kỷ 18, mụ là một
thiếu nữ giàu sang ở một biệt thự tại xứ Bretagne. Vì tư tình với kẻ khác, mụ
nhẫn tâm xô chồng từ một tảng đá xuống biển chết tươi. Cho nên kiếp nầy mụ phải
chịu bần cùng khốn khổ để đền tội kiếp trước. Mụ còn cho biết rành mạch nơi đã
xãy ra án mạng ấy.
Về sau, ông hoàng Galitzin
cùng Hầu tước B… dò theo lời mụ chỉ, đến xứ Bretagne tìm được nơi ấy, rồi hai
người chia ra hai ngả để điều tra riêng nhau cho chắc ý. Lúc đầu hỏi không ai
biết, sau gặp nhiều ông lão hỏi thăm thì mấy ông ấy bảo rằng có nghe cha mẹ
thuật lại chuyện một thiếu nữ kiều diễm và giàu sang ở một biệt thự nọ, vì
ngoại tình, đành nhẫn tâm xô chồng xuống biển. Thế là lời mụ kia thú tội trong
giấc ngủ thôi miên đã được xác nhận.
Khi ông hoàng về ngang qua
Hambourg, ông ghé hỏi thăm viên cảnh sát trưởng nơi đây về lai lịch của mụ ấy,
thì được biết mụ chỉ biết bập bẹ được ba tiếng Ðức và sống bằng nghề đưa rước
quân nhơn.
* * *
Chuyện Nhơn quả dưới đây
viết theo tài liệu rút trong bản phúc trình của Hội Khảo Cứu Thần Linh Học
thành Huesce, nước Tây Ban Nha (Espagne) mà tờ Tạp chí Khoa học và Luân lý Thần
Linh Học năm 1912 có đăng tải (Revue scientifique et morale du spiritisme).
Từ năm 1881 tới năm 1884,
người ta vẫn thấy đi lang thang trên đường thành Huesca một người điên tên
Suciac. Chàng ăn vận một cách hì hợm, cứ nói lầm thầm một mình, ai hỏi điều chi
cũng chẳng trả lời. Về sau, vì thấy hắn trở nên nguy hiểm, người ta buộc phải
xem chừng từng hành động của hắn.
Cũng tại thành nầy có một
Hội Khảo Cứu Thần Linh Học (Groupe d'Etudes spirites) của một nhóm người học
thức trung bình, mà Hội Trưởng là ông Domingo Montréal và đồng tử là Sanchez
Antonio. Ðồng tử nầy vốn không biết chữ, nhưng lại có cái đặc biệt là
"chấp bút" viết ra không hề chấm câu, nhưng cũng có khi viết được
nhiều bài dài thậm thượt và đúng theo văn phạm.
Khi Suciac chết, hồn anh
giáng bút do Antonio viết ra cho biết kiếp trước anh là vị lãnh chúa (Seigneur)
thành Sangarren, vì gây nhiều tội lỗi nên chuyển sanh phải thọ khổ mà trả quả.
Suciac còn quả quyết rằng nếu muốn tin chắc nên quan sát những tài liệu trong
văn khố còn giữ tại đền đài của anh ta ở trong kiếp trước tại Sangarren.
Nghe vậy nhóm người trong
Hội Khảo Cứu Thần Linh Học gồm có quí ông Domingo Montréal, Severo Lain, và
Marvallo Bakkestar đích thân đến cái đền cổ ấy để quan sát nhưng người nơi đó
bảo rằng đền ấy không chứa một dấu vết gì về văn khố cả.
Mấy ông ấy thất vọng trở
về bảo Antonio chấp bút hỏi lại thì hồn anh Suciac về cho biết những tài liệu
ấy giấu kín bên cạnh lò lửa trong nhà bếp.
Ðoàn quan sát bèn đến
Sangarren một lần nữa và được người ta cho phép dò xét trong nhà bếp, thì lạ
làm sao, họ tìm được một mớ tài liệu viết trên da mỏng và giấu trong một chỗ
kín vách tường.
Những tài liệu ấy được đem
về thành Huesca, nhờ giáo sư Oscariz dịch ra tiếng Tây Ban Nha thì đúng theo
lời của hồn anh Suciac đã cho biết.
Trả nợ tín thí.
Ðức Ca-na-đề-bà (Kanadeva)
Tổ sư thứ 15 của Phật giáo bên Ấn Ðộ, có lần sang truyền đạo tại nước Tila.
Thuở ấy, vườn ông trưởng giả Phạm Ma Tín Ðức có một cây đại thọ sanh ra một thứ
nấm rất thơm, thường bữa ông cùng con thứ hai là La Hầu La Ða nhổ nấm ấy ăn rất
ngon, mà hễ nhổ sớm mai thì chiều thấy nấm khác mọc ra.
Tổ sư vốn biết rõ nguyên
nhơn việc ấy, nên đến viếng trưởng giả và giải cho ông ấy biết việc lạ ấy vốn
như vầy:
"Nguyên trong một tiền kiếp, ông và con ông thành
tâm cúng dường cho một thầy tì khưu. Nhưng thầy ấy đạo hạnh chưa hoàn toàn,
quanh năm suốt tháng cứ ngửa tay thọ lãnh của hai người mà ăn tiêu, nhưng chẳng
lập được một đạo nghiệp nào đáng kể. Cho nên kiếp nầy tỳ khưu ấy phải đọa sanh
làm nấm đặng trả món nợ tín thí ở kiếp trước đó vậy".
Nghe thuật rõ có báo ứng,
ông trưởng giả liền thưa:
- Bạch Tôn sư, tôi vô
phước không sớm được gặp Ngài, nay tôi đã già nua, sức yếu tiếc không thể theo
hầu hạ Ngài, nay tôi tình nguyện cho con tôi đây là La Hầu La Ða theo thọ giáo,
xin Ngài từ bi thâu nạp.
Tổ sư vui vẻ đáp:
- Kiếp trước con ông đã có
duyên lành được Ðức Như Lai Thế Tôn thọ ký, sau nầy sẽ là một vị Giáo chủ trong
Phật đạo. Vậy, sự hội ngộ hôm nay không phải ngẫu nhiên, mà là do duyên từ
trước vậy.
(Viết theo tài liệu rút
trong "Sự tích 33 vị Tổ sư "
của Phật giáo).
Ðức Cưu-ma-la-đa giảng cơ báo ứng
Chuyện nầy viết theo tài
liệu rút trong "Sự tích 33 vị Tổ
sư" do Phật học Tạp chí "Từ
bi âm" xuất bản.
Ðức Cưu-ma-la-đa
(Kumarata) là Tổ sư thứ 19 của Ðạo Phật bên Ấn Ðộ. Sau khi đắc đạo, Ngài sang
thuyết pháp bên miền Trung Ấn Ðộ. Thuở ấy có đại sĩ Xá-dạ-đa hỏi Ngài:
- Bạch Ngài, song thân tôi
vốn hiền lương, rất tin sùng Phật giáo, song thường bị đau ốm và bất câu làm
việc gì cũng thất bại; còn người bên cạnh, chuyên nghề hàng thịt sát hại chẳng
biết bao sanh mạng. Ấy vậy mà hắn vẫn khỏe mạnh và làm ăn ngày thêm phát đạt.
Thật tôi không rõ thế nào là cơ báo ứng, cúi xin Ngài từ bi chỉ giáo.
Tổ sư giảng giải:
- Cơ báo ứng vốn có ba
thời kỳ, không nên lấy lẽ thạnh suy, bĩ thới hiện tại mà đoán được căn phần
hiện tại. Phải biết cái lý nhơn quả không bao giờ sai chạy. Nhơn với quả cũng
như bóng với hình, hình thẳng tức bóng ngay, hình chinh tức bóng lịch. Người
đời không rõ cái lý ấy mới dám ngờ vực khi thấy bực hiền lương mà hoạn nạn, kẻ
bạo tàn lại được vinh quang, chớ họ biết đâu rằng sở dĩ kẻ tích ác mà đặng giàu
sang là nhờ hưởng cái duyên kiếp trước, cũng như kẻ hiền từ mà chịu nghèo khổ
là tại cái oan nghiệt tự mình đã tạo ra kiếp xưa, nên kiếp nầy phải trả. Ðến
như cái nhơn hiện tại là mầm móng cái quả tương lai đó vậy.
Ðành rằng có ba nghiệp,
nhưng mỗi nghiệp cũng do vọng mà sanh, vọng hoặc lại do thức tình mà dấy, thức
tình sở dĩ có vì tánh bất giác, mà tánh bất giác lại ở nơi tâm. Nhưng bổn thể
của tâm vốn là thanh tịnh, không sanh, không diệt, không tạo tác mà cũng không
báo ứng. Con người thấu được chỗ diệu lý ấy, thì đối với họ, tất cả những pháp
hữu vi và vô vi đều là mộng ảnh, không cần phải quan tâm đến.
Người như vậy tức đồng bực
với Phật đó.
IV .
Làm phước gặp phước
Thuở xưa có hai vợ chồng
Kế-la-di, tuy nghèo nhưng mà biết an thân thủ phận, vui sống cuộc đời thanh
bạch, tâm tánh từ hòa và hay nhịn nhục. Một hôm, vợ chồng thức dậy sớm, chia
nhau một người một ngả đi làm mướn kiếm tiền đặng độ nhựt.
Dọc đường, Kế-la-di gặp
nhiều ông trưởng giả ăn mặc chỉnh tề hội nhau trong một ngôi chùa để tổ chức
một cuộc bố thí. Thấy vậy, chàng thầm trách mình nghèo khổ chẳng có phương tiện
bố thí như người ta, nên lòng càng buồn bực.
Tối lại, chàng về nhà
không ngủ được, cứ nằm lăn qua trở lại thở dài. Chàng thầm nghĩ vì kiếp trước
không làm điều thiện, nên kiếp nầy phải chịu bần cùng khổ sở, còn mấy ông
trưởng giả kiếp trước có tu nhơn tích đức, nên kiếp nầy được giàu có hơn người.
Chàng lại nghĩ nếu kiếp nầy không sớm lo lập âm đức, kiếp sau ắt còn khổ sở hơn
nữa.
Người vợ thấy chàng buồn bực
liền hỏi duyên do, thì chàng đáp:
- Nầy hiền thê! Anh sở dĩ
ưu phiền là vì kiếp trước không vun cội phước nên ngày nay phải chịu cực khổ cơ
hàn, muốn làm âm chất ngặt nỗi không tiền.
- Anh chẳng nên buồn bực,
mà than dài thở vắn cũng chẳng ích chi. Tốt hơn là đem bán em cho nhà giàu lấy
tiền bố thí có phải ích lợi xác thực hơn không?
Kế-la-di nghe vợ nói hết
sức thương tình, rồi đáp:
- Chúng ta vốn cùng chung
một số phận, cùng chia nồng sớt lạnh, lẽ nào anh làm được điều vô nhơn đạo ấy?
- Thôi thì chúng ta đồng
bán thân lấy tiền làm công đức, anh nghĩ sao?
Kế-la-di vui chịu, rồi
sáng ra cùng nhau đến nhà một ông phú hộ và thưa:
- Thưa ông, vợ chồng chúng
tôi đến xin ông cho chúng tôi bán thân lấy ít đồng vàng đem về cúng Phật và làm
phước.
Ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:
- Hai vợ chồng muốn bao
nhiêu?
- Thưa, lối 10 đồng vàng
thôi.
- Thôi, ta cho hai ngươi
mượn 10 đồng vàng, với điều kiện là trong bảy ngày phải lo huờn lại. Nếu quá kỳ
hạn mà không trả, chừng đó hai người phải ở làm công cho ta mà trừ nợ.
Hai vợ chồng mừng rỡ, liền
làm giấy nợ rồi lãnh tiền đi đến một ngôi chùa ra mắt chủ tăng, xin nạp 10 đồng
vàng, nhờ chủ tăng qua ngày thứ 6 làm chạy bố thí giùm, rồi ngày thứ 7 sẽ huờn
kinh cúng ngọ.
Chủ tăng vui lòng chấp
thuận, lúc ấy hai vợ chồng ở tại chùa, vợ lo giã gạo xây bột, chồng bửa củi,
gánh nước, bao hàm tất cả công việc cực nhọc về việc làm chay.
Lúc ấy lại có một vị quốc
vương đến chùa cậy chủ tăng lập đàn cầu siêu cho tiên vong và bố thí kẻ nghèo,
nhưng trớ trêu làm sao, quốc vương cũng định ngày cầu siêu cùng một lúc với vợ
chồng Kế-la-di.
Chủ tăng liền tâu ông đã
định lo bữa ấy làm chay cho vợ chồng Kế-la-di rồi, xin nhà vua dời qua ngày
khác.
Quốc vương bất bình và
phán:
- Trẩm đây là bực quân
vương, còn kẻ kia là hạng thần dân, lẽ nào không nhường ngày ấy cho trẩm sao?
Nói đoạn, quốc vương sai
người đến bảo La-di nhường ngày ấy cho Ngài làm chay trước.
Vua sai người đi điều đình
như vậy đến ba lần, nhưng La-di vẫn khăng khăng không chịu nhường.
Quốc vương lấy làm lạ liền
cho đòi La-di đến giáp mặt hỏi nguyên do, thì chàng tâu rằng:
- Tâu Thánh thượng, kẻ mạt
dân nầy chỉ được tự do trong hai ngày ấy thôi, chớ qua ngày sau thân nầy phải
làm nô lệ cho người khác, không còn tự do cúng Phật trai Tăng được nữa. Vì lẽ
ấy, mạt dân không thể làm vừa lòng Thánh thượng.
Quốc vương gạn hỏi đuôi
đầu, biết rõ ngọn ngành, lấy làm khen ngợi La-di, nên vui lòng nhường cho vợ
chồng khai pháp hội trước mình. Ngài truyền lịnh xuất bạc vàng châu báu ban
thưởng hai người, lại xuống chiếu dạy quan địa phương cắt đất cho hai vợ chồng
chung hưởng huê lợi suốt đời.
Nhờ vậy, Kế-la-di có tiền
đem trả ông phú hộ để chuộc lại tự do.
(Tóm tắt theo tài liệu "Tục tạng kinh" )
KẾT LUẬN.
"LUÂN HỒI" là cơ mầu nhiệm cũng như "QUẢ BÁO" là luật thưởng phạt công bình của Thiên Ðạo.
Là cơ mầu nhiệm, sự "Luân hồi" không thể đem phô
diễn hằng ngày trước mắt muôn người. Tuy nhiên, vì đức từ bi, nên thỉnh thoảng
Tạo Hóa cũng hé màn bí mật cho người đời chiêm nghiệm, cũng để nhắc chừng cho
biết "Chết không phải là hết"
và linh hồn, điểm linh quang bất diệt ấy, phải trải qua muôn muôn ngàn ngàn
kiếp tái sanh đặng học hỏi, kinh nghiệm mà tấn hóa.
Những chuyện "Luân hồi" và "Quả báo" chúng tôi đã trình
bày cũng đủ chứng minh điều ấy. Chúng tôi không bịa đặt, chỉ ra công sưu tập tài
liệu trích trong kinh điển và báo chí mà đăng ra, có xuất xứ rõ ràng, có bằng
chứng hiển nhiên.
Có "Luân hồi" tức có tạo nhơn, tạo nhơn, linh hồn chuyển
kìếp, phải trả quả là lẽ đương nhiên. Không cần nói đến "Luật thiêng liêng", ngay "Luật đời" cũng không bao giờ để yên cho người tạo ác.
Song "Luật đời" phạm nhơn
còn phương trốn, chí ư "Luật thiêng
liêng" thì một mảy không qua, dữ lành đều báo ứng. Trong mấy năm qua,
chúng ta đau lòng mục kích chẳng biết bao nhiêu tang tóc, bao nhiêu tàn phá,
giàu sang trở nên nghèo khổ, nghèo khổ hóa thành giàu sang, hầu hết những kẻ
lưu manh tàn ác phải đền tội bằng cách nầy hoặc cách khác. Rõ ràng là "Cơ báo ứng nhãn tiền" của
công bình Thiên Ðạo.
Họa phúc do con người tự
tạo, bằng chứng rõ ràng, chúng ta có quyền lựa chọn giữa hai con đường SIÊU và
ÐỌA.
Phải chăng Hội Long Hoa,
tức Hội Ðại Ðồng Phán Ðoán (Grand Jugement Général) đã bắt đầu khai diễn vào
thời kỳ mạt pháp nầy, để rồi mở ra một Ngươn mới, Ngươn Thánh Ðức, cho những
tâm hồn trong sạch chung sống cảnh HÒA BÌNH và HẠNH PHÚC của một đời mới?
HẾT

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét