Thánh Thơ Của Thượng Sanh
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Tứ thập tam niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Hiệp Thiên Đài
Văn Phòng
Thượng Sanh
-----
Số: 138/TS
Thượng Sanh
Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
Kính gởi Hiền Huynh Đầu Sư
Kính Hiền Huynh,
Tôi xin giao qua Hiền Huynh bản "Tổ Chức Tư
Pháp Lập Quyền Nội Trị Trong Đạo" do Ngài Hiến Pháp soạn thảo để Hiền
Huynh ra lịnh cho in và phổ biến trong hàng Chức Sắc theo sự chấp thuận của Hội
Thánh Lưỡng Đài trong phiên nhóm ngày 16 tháng 5 Mậu Thân (11-6-1968), Vi Bằng
số 13/VB.
Nay kính,
Tòa Thánh, ngày 24 tháng 5
Mậu Thân.
(dl. 19-6-1968 )
Thượng Sanh
(Ấn ký)
Thánh Thơ Của Hiến Pháp
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Tứ thập tam niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Hiệp Thiên Đài
Văn Phòng
Bộ Pháp Chánh
-----
Số: 20-PC / TS
Tòa Thánh, ngày 16 tháng 2
Mậu Thân
(14-3-1968)
Hiến Pháp
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
Kính gởi: Đức Thượng Sanh
Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
Trích
yếu: V/v Lập quyền Tư Pháp và Nội Trị trong Đạo.
Tham chiếu: Quí Thánh Thơ số 46/TS ngày 3 -12 Đinh
Mùi (2-1-68).
Kính Đức Ngài,
Thay vì mấy chữ "Luật lệ xử đoán" do Ngài
Tiếp Pháp soạn, tôi xin đề nghị danh từ "Lập Quyền Tư Pháp và Nội Trị
Đạo" cho có ý nghĩa hơn, và xin gởi theo đây cho Đức Ngài 5 bản đánh máy,
để nhờ Đức Ngài cứu xét và đưa ra Đại Hội để hợp pháp hóa.
Nay kính,
Hiến Pháp
(Ấn ký)
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Tứ thập nhứt niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
TỔ CHỨC TƯ PHÁP
LẬP QUYỀN NỘI TRỊ ÐẠO
Nghĩ vì Đạo có Pháp Chánh Truyền và Tân Luật làm
qui chuẩn cho việc hành giáo, và đó cũng là Luật Điều để chư Tín Đồ noi theo
mới vững an Quyền Nội Trị trong Đạo.
Quyền hành về Tư pháp của Đạo thuộc Hiệp Thiên Đài
nắm giữ để bảo thủ Chơn truyền Chánh giáo.
Nghĩ vì từ năm Bính Tý (1936) Đức Hộ Pháp đã lập
thành Bộ Pháp Chánh, do Chi Pháp Hiệp Thiên Đài đảm nhiệm, tức là cơ quan nắm
giữ quyền hành Tư pháp trong Đạo, dưới quyền của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Muốn bảo toàn Thánh Thể được thanh cao và trong
sạch, tức phải có phép sửa trị về mặt hữu hình, tức là cơ phàm trị để giúp cho
các Chơn linh hữu tội được giảm hình phạt của Thiên Điều, nên Hội Thánh Hiệp
Thiên Đài quyết định lập Quyền Nội Trị trong Đạo thành Tổ chức Tư pháp phân
nhiệm như sau đây:
CHƯƠNG
NHỨT: Hội Công Đồng.
Nghĩ vì Tân Luật đã ấn định thành phần Hội Công
Đồng có tánh cách đơn giản, nhứt là Chức Sắc Hiệp Thiên Đài là cơ quan gìn giữ
luật pháp mà không có điều khoản nào qui định trách nhiệm trong việc áp dụng
hay xét xử.
Chiếu theo đề nghị của:
Hội Thánh Cửu Trùng Đài, số 133/ĐSTT ngày 6 tháng
10 năm Đinh Mùi (dl. 7-11-67) và Vi Bằng số 2, phiên nhóm Hội Thánh Hiệp Thiên
Đài, ngày 20-11 năm Đinh Mùi (21-12-1967), Đức Thượng Sanh Chưởng Quản Hiệp
Thiên Đài lập Thánh Lịnh số 01/TL ngày 28 tháng 11 năm Đinh Mùi (dl.
29-12-1967) ấn định và bổ túc thành phần Hội Công Đồng phân làm 4 trường hợp
như sau đây:
Điều
Thứ Nhứt:
a) - Nếu bị can là Lễ Sanh nam phái thì:
Chủ Tọa: 1 vị Phối Sư (đồng phái với bị can).
Nghị Án: 2 vị Giáo Sư (hai phái khác).
Biện Hộ: 1 vị Giáo Sư đồng phái.
Buộc Tội: 1 vị Chức Sắc Bộ Pháp Chánh.
Chép Án: 1 vị Giáo Hữu hay Lễ Sanh.
b) - Nếu bị can là Lễ Sanh nữ phái:
Chủ Tọa: 1 vị Phối Sư nam phái (bất luận Thái,
Thượng, Ngọc).
Nghị Án: 2 vị Giáo Sư nữ phái.
Biện Hộ: 1 vị Giáo Sư nữ phái.
Buộc Tội: 1 vị Chức Sắc Bộ Pháp Chánh.
Chép Án: 1 vị Lễ Sanh nam phái.
c) - Nếu bị can là Chức Việc, hoặc Đạo Hữu nam hay nữ:
Chủ Tọa: 1 vị Phối Sư Phái Ngọc.
Nghị Án: 2 vị Giáo Hữu (nam hay nữ tùy phái của
bị can).
Biện Hộ: 1 vị Giáo Hữu (tùy phái của bị can).
Buộc Tội: 1 vị Chức Sắc Bộ Pháp Chánh.
Chép Án: 1 vị Lễ Sanh nam phái.
d) - Trong trường hợp sự kiện tụng mà tiên và bị cáo có nam lẫn nữ:
Chủ Tọa: 1 vị Phối Sư nam phái (bất luận Thái,
Thượng, Ngọc).
Nghị Án: 2 vị Giáo Sư hay Giáo Hữu (một nam một
nữ tùy theo Lễ Sanh hay Đạo Hữu như đã qui định trên đây).
Biện Hộ: 1 vị Giáo Sư hay Giáo Hữu nam phái.
Buộc Tội: 1 vị Chức Sắc Bộ Pháp Chánh.
Chép Án: 1 vị Lễ Sanh nam phái.
Điều
Thứ Nhì:
Việc triệu tập thành phần Hội Công Đồng để xét xử
do Sắc Lịnh của vị Đầu Sư, chiếu theo sự chọn cử Chức Sắc của vị Ngọc Chánh Phối
Sư, hay vị Nữ Chánh Phối Sư Chưởng Quản Nữ Phái Cửu Trùng Đài tùy theo trường
hợp.
Vị Chức Sắc buộc tội do Bộ Pháp Chánh đề cử.
Điều
Thứ Ba:
Khi Hội Công Đồng được triệu tập, có nhận đủ hồ sơ
để xét xử, thì phải nhóm xử trong thời hạn tối đa là 3 tháng (90 ngày tròn) kể
từ ngày nhận hồ sơ.
Điều
Thứ Tư:
Bản án do Hội Công Đồng phán quyết phải có sự duyệt
y của vị Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh mới được phép ban hành, và bị án không được
quyền thượng tố, vì bản án đã có sự duyệt y là tuyệt đối và chung thẩm.
Điều
Thứ Năm:
Trong trường hợp vị Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh không
đồng ý bản án do Hội Công Đồng phán quyết (xử nặng quá hay nhẹ quá) thì vị nầy
sẽ giao trả hồ sơ lại cho vị Đầu Sư để triệu tập thành phần Hội Công Đồng khác
xử lại.
CHƯƠNG
HAI: Tòa Hiệp Thiên Đài.
Nghĩ vì Cửu Trùng Đài
không đủ Chức Sắc cao cấp để lập thành Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Đài đặng xét xử
Chức Sắc phạm luật pháp từ phẩm Giáo Hữu sắp lên.
Chiếu Vi Bằng số 6/VB
phiên nhóm ngày 19 tháng 3 năm Bính Ngọ (9-4-1966), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
quyết định tạm thời thành lập Tòa Hiệp Thiên Đài để phân xử Chức Sắc phạm luật
Đạo bên Cửu Trùng Đài từ phẩm Giáo Hữu sắp lên, bên Phước Thiện từ Chí Thiện sắp
lên, nên Đức Thượng Sanh Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ban hành Thánh Lịnh số
60/TL ngày 24 tháng 3 Bính Ngọ (11-4-66) thành lập "Tòa Hiệp
Thiên Đài" để xét xử Chức Sắc từ phẩm Giáo Hữu và Chí Thiện sắp lên, thành
phần được ấn định như sau:
Điều Thứ Sáu:
Thành phần Tòa Hiệp Thiên Đài:
Chủ Tọa: 1
vị Thời Quân.
Nghị Án: 2
vị Giám Đạo.
Biện Hộ: 1
vị Cải Trạng và
1 vị Chức Sắc C.T.Đ. hay Phước Thiện đồng phẩm với can
nhân.
Buộc Án: 1
vị Truyền Trạng.
Chép Án: 1
vị Truyền Trạng hay 1 vị Sĩ Tải.
Điều Thứ Bảy:
Tòa Hiệp Thiên Đài được
quyền xét xử những Chức Sắc phạm luật pháp, từ phẩm Giáo Hữu hay Chí Thiện nam
nữ sắp lên, hồ sơ nội vụ do Bộ Pháp Chánh điều tra đủ lẽ đệ qua.
Điều
Thứ Tám:
Tòa Hiệp Thiên Đài sẽ chiếu các luật lệ sau đây để
xử trị tội phạm:
Pháp Chánh Truyền.
Tân Luật.
Bát Đạo Nghị Định.
Thập Hình Đức Lý Giáo Tông.
Đạo Luật năm Mậu Dần.
Các án lệ từ trước đến giờ.
Điều
Thứ Chín:
Án phán quyết Tòa Hiệp Thiên Đài là chung thẩm,
nhưng phải có sự duyệt y của Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Điều
Thứ Mười:
Quyền phá án và quyền ân xá thuộc sự quyết định tối
cao của Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, mà đương kiêm là quyền của Đức Thượng Sanh.
Có việc phá án là khi nào phiên xử gồm có một vị
nào không thi hành đúng theo trách nhiệm, hoặc khép tội thiếu yếu tố xác thực,
hoặc bất hợp lệ, thì Đức Thượng Sanh hoặc hội ý với chư vị Thời Quân hoặc tự
quyền quyết định phá án, giao cho phiên Tòa Hiệp Thiên Đài với thành phần khác
xử lại.
Về phần ân xá là quyền đặc biệt của Đức Thượng
Sanh, khỏi cần hỏi ý kiến Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
CHƯƠNG BA: Ban Kỷ Luật.
Nghĩ vì Đạo Luật năm
Mậu Dần (1938) lập thành cơ quan Phước Thiện, có Thập nhị đẳng cấp, đối phẩm
Chức Sắc Cửu Trùng Đài, phân ra từ hàng Chí Thiện trở lên là hàng Thánh Thể, còn từ Giáo
Thiện sắp xuống là hàng nhơn sanh. Nhưng từ trước cơ quan Phước Thiện hoàn toàn
chịu dưới quyền của Đức Hộ Pháp, về thăng thưởng cũng như về răn phạt. Hôm nay,
Đức Hộ Pháp đã về Thiêng Liêng vị, nên những việc tranh tụng hay vi phạm luật
pháp của Đạo từ phẩm Giáo Thiện sắp xuống Đạo Sở, không có Hội Công Đồng xét xử
y như bên Cửu Trùng Đài.
Chiếu Vi Bằng số 6/VB phiên nhóm ngày 19 tháng 3
Bính Ngọ (9-4-1966), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài quyết định thành lập Ban Kỷ Luật
cho cơ quan Phước Thiện để xét xử từ phẩm Giáo Thiện sắp xuống, nên Đức Thượng
Sanh ban hành Thánh Lịnh số: 61/TL ngày 24 tháng 3 Bính Ngọ (14-4-1966), thành
lập Ban Kỷ Luật cho cơ quan Phước Thiện.
Điều
Thứ Mười Một:
Thành phần Ban Kỷ Luật nầy gồm có:
Chủ Tọa: 1
vị Chơn Nhơn.
Nghị Án: 2
vị Đạo Nhơn.
Biện Hộ: 1
vị Chí Thiện.
Buộc Án 1
vị Chí Thiện.
Chép Án: 1
vị Giáo Thiện.
Điều
Thứ Mười Hai:
Ban Kỷ Luật nầy được quyền xét xử những vụ tranh
tụng hay phạm luật pháp, từ phẩm Giáo Thiện sắp xuống Đạo Sở nam nữ Phước
Thiện.
Hồ sơ do Bộ Pháp Chánh điều tra chuyển qua.
Điều
Thứ Mười Ba:
Ban Kỷ Luật sẽ chiếu theo các luật lệ đã qui định ở
điều thứ tám để xét xử, và định hình phạt bị can.
Điều
Thứ Mười Bốn:
Ban Kỷ Luật nầy xử chung thẩm và có quyền xử đến
trục xuất y như Hội Công Đồng Cửu Trùng Đài, nhưng bản án phải có sự duyệt y
của Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh.
Điều
Thứ Mười Lăm:
Phá án thuộc quyền quyết định của vị Thời Quân
Thống Quản Cơ quan Phước Thiện nam nữ.
Việc phá án phải nêu rõ lý do xác thực, và phải có
sự đồng ý của vị Thời Quân Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, rồi mới giao phó cho một
Ban Kỷ Luật với thành phần khác xét xử lại.
Điều
Thứ Mười Sáu:
Quyền ân xá thuộc quyền tối cao của Đức Thượng Sanh
Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
CHƯƠNG
BỐN: Tòa Hiệp Thiên Đài và Ban Kỷ Luật Hiệp Thiên Đài.
Chiếu Vi Bằng số 8/VB phiên nhóm ngày 2 tháng 4 năm
Bính Ngọ (21-5-66), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài quyết định thành lập Tòa Hiệp
Thiên Đài xét xử Chức Sắc Hiệp Thiên Đài xét xử Chức Sắc từ phẩm Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn sắp xuống phẩm Sĩ Tải nếu phạm tội nặng, còn phạm tội nhẹ thì đưa ra Ban
Kỷ Luật Hiệp Thiên Đài xét xử.
Riêng phẩm Luật Sự, chưa vào hàng Chức Sắc, nên bất
luận phạm tội nặng hay nhẹ đều do Ban Kỷ Luật phân xử.
Điều
Thứ Mười Bảy:
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài từ phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
xuống phẩm Sĩ Tải có vi phạm luật pháp của Đạo, nếu trọng tội thì sẽ đưa ra Tòa
Hiệp Thiên Đài phân xử do thành phần và các điều khoản đã ấn định trong Thánh
Lịnh số 60/TL ngày 24 tháng 3 Bính Ngọ (21-5-1966) và ghi rõ ở điều thứ 6 kể
trên.
Là Chức Sắc dầu ở cơ quan nào, Hiệp Thiên, Cửu
Trùng hay Phước Thiện cũng đồng chịu dưới quyền phán đoán của Tòa Hiệp Thiên
Đài, dĩ hà nhứt thể.
Điều
Thứ Mười Tám:
Trong trường hợp vị Chức Sắc bị phạm tội, mà trước
đã được đề cử vào thành phần Tòa Hiệp Thiên Đài, thì Hội Thánh sẽ đề cử vị Chức
Sắc khác thay thế trước khi đưa đương sự ra xét xử.
Điều
Thứ Mười Chín:
Về phẩm Luật Sự, bất luận phạm tội nặng hay nhẹ,
cũng đều đưa ra Ban Kỷ Luật phân xử. Ban Kỷ Luật nầy có quyền hạn y như Hội
Công Đồng Cửu Trùng Đài.
Điều Thứ Hai Mươi:
Ban Kỷ Luật Hiệp Thiên Đài không có tánh cách
thường trực, chỉ thành lập mỗi khi hữu cần và tùy theo đẳng cấp của kẻ phạm tội
mà chọn cử thành phần có đủ thẩm quyền do lịnh của Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Điều
Thứ Hai Mươi Mốt:
Tội trạng của Chức Sắc bị can sẽ được liệt vào tội
nặng hay nhẹ do quyền của Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh phân tách tội trạng trọng
khinh, chiếu theo thập hình của Đức Lý Giáo Tông, đã qui định rõ ràng trong Đạo
Luật năm Mậu Dần (1938), và các luật lệ hiện hành.
CHƯƠNG
NĂM: Hòa Viện Cửu Trùng Đài và Pháp
Chánh địa phương. (*)
Nghĩ vì Hòa Viện Cửu Trùng Đài là thành phần tư
pháp trong việc hành chánh của Hội Thánh Cửu Trùng Đài, có quyền xét nét giữ
gìn công bình giữa các Chức Sắc, Chức Việc, và Đạo Hữu, nên chỉ có quyền hòa
giải về khinh tội hoặc về tranh tụng cá nhân, không phạm đến Đạo Pháp mà thôi.
Ngoài ra, những vị phạm trọng tội, thì phải đệ lên Bộ Pháp Chánh quyết định.
Điều
Thứ Hai Mươi Hai:
Hòa Viện Cửu Trùng Đài và các Chức Sắc Pháp Chánh
địa phương, là những Chi Bộ Tư Pháp có quyền hòa giải, và chấp nhận sự bãi nại,
hay tự thuận về các tội lệ thường thức thuộc khinh tội, còn ngoài ra đều phải
dâng lên Bộ Pháp Chánh quyết định.
Điều
Thứ Hai Mươi Ba:
Ban Tổ Chức Tư Pháp Nội Trị trong Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ nầy sẽ được bổ sung hay tu chỉnh tùy trào lưu, và đà tiến triển của Đạo.
Tòa Thánh, ngày 6 tháng 2
năm Mậu Thân.
(dl. 4-3-1968)
Hiến Pháp
(Ấn ký)
(*) Ghi chú: Chương năm, Hòa Viện Cửu Trùng Đài và Pháp Chánh địa phương,
chúng tôi thêm vào cho có đề mục của mỗi chương. Trong bản chánh không có đề
mục ( Hòa Viện...) nầy.
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét