Tiền Nhân Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (VSCĐ)

Bảo Pháp Chơn Quân
NGUYỄN TRUNG HẬU
( 1892-1961 )
I / - PHẦN ĐỜI
Nguyễn Trung Hậu sinh ngày mùng 5 tháng 3 năm Nhâm Thìn (01/04/1892) tại xã Bình hòa, tỉnh Gia Định (nay là quận Bình Thạnh), con ông Nguyễn Phục Lễ, tức Nguyễn Văn Nhiêu, bút hiệu Tiết Văn, đông y sĩ, làm bốn khóa Hội đồng địa hạt làng An Thịt, Gia Định, và bà Lê Thị Cơ người gốc Bình Định. tốt nghiệp trường sư phạm Gia Định (Eùcole normale de Giadinh) tháng 2 năm 1911
Người được bổ làm giáo viên tại một trường ở đường Taberd mà hồi trước gọi nôm na là trường "sở cọp". Sau trường này bị bãi bỏ mới về dạy tại trường tiểu học đường Richaud, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm 1919 làm thơ ký cho ông giám đốc các trường tiểu học Sàigòn. Năm 1922,
 từ chức để giám đốc trường tư thục Internat primaire de Dakao tại đường D'Ariès, nay là đường Huỳnh Khương Ninh. Đến năm 1926, vì làm ăn sa sút, ngày 23/6/1926 (14/5/Bính Dần), Người có cầu hỏi Đức Chí Tôn, coi nên tiếp tục hay để cho sụp đổ, thì Thầy dạy :
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo nhơn nghĩa miễn vuông tròn.
Thầy đâu nỡ để môn đồ cực,
Mối đạo giữ cho ngàn thưở còn.

Đến ngày 04/08/1926 (21-7-Bính Dần), Người tự thấy không thể đứng vững được nữa với cái trường "Internat de Dakao" nên cùng với ông đốc Đoàn Văn Bản thỉnh giáo Thầy lần nữa (mỗi người thỉnh giáo việc riêng của mình), thì Thầy giáng cho mỗi người một bài thi, trong đó bài thi cho Thuần Đức như sau :
Cái khiếu thông minh con ở đâu ?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc sầu.

Theo lời dạy của Đức Chí tôn, Người giao trường lại cho ông Huỳnh Khương Ninh rồi gia nhập phong trào Tôn giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Những năm sau đó, thỉnh thoảng Người có làm giáo sư Pháp văn trường Hưng-Việt, trường Nguyễn Anh Bổn, trường Nguyễn Du …

Năm 1930-1931, Người vừa viết báo cho Đuốc-Nhà-Nam, Hoàn Cầu Tân Văn của ông Nguyễn Háo Vĩnh, vừa làm chủ bút tờ tạp chí Pháp văn La Revue Caodaiste và năm 1932 làm chủ bút nguyệt san Đại Đồng của Liên hòa Tổng Hội do ông Nguyễn Phan Long lãnh đạo.

Đến năm 1934, vì bệnh hoạn liên miên, nhờ ông Cai tổng Trương Vinh Quy và ông Phán Của giúp đỡ từ Cầu Kho (Saigon) về nương ngụ tại số 186/42 đường Ngô Tùng Châu (nay là 101/71, đường Nguyễn Văn Đậu, quận Bình Thạnh) cho tới ngày qui vị, thọ 70 tuổi.

Người và Bà Diệp Thị Nguy (thường gọi là Diệp Thị Quy con của ông Diệp Văn Chỉ và bà Dương Thị Kiển) kết hôn ngày 4/10/1919 (11/8/Kỷ Mùi) sanh được 8 người con, 5 trai, 3 gái. Các con cùng với hầu hết dâu, rễ đều noi ý cha theo nghiệp Đạo (người con thứ tư Nguyễn Trung Hiếu không có lập gia đình).

II / - PHẦN ÐẠO
Vào đầu tháng giêng năm 1926, Người nghe tin quí ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang cầu cơ Tiên giáng cho thi hay lắm. Người đến nhà ông Cư xem coi tình hình và được bài Thánh huấn đầu tiên của Đức Chí Tôn đến với tá danh "A-Ă-Â" :
THUẦN văn chất, ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Đến hồi múa bút vụt cờ Mao. (1)

Vì điểm danh đúng bút hiệu Thuần Đức, nên Người đã có niềm tin. Một hôm khác, trong một buổi xây bàn, Người bạch cùng Đấng A-Ă-Â rằng: "Tôi còn nhớ hai câu đối thuở nay chưa ai đối được, nên xin đem ra nhờ Ngài đối chơi cho vui". Đức A-Ă-Â đáp: "Bần Đạo xin hầu đối, nhưng nếu đối ra không chững, quí vị chớ cười mà niệm tình bần đạo mà chấn chỉnh lại cho".

Chú  thích: (1)Theo các tài liệu sử Đạo thì câu này là :
"Đến hồi búa việt giục cờ mao" )

Nhưng theo thủ bút của Thuần Đức thì ghi như trên.

            Câu đối của Thuần Đức ra :
"Ngồi yên ngựa đừng bò con nghé"
            Đức A-Ă-Â đối lại :
"Cỡi lưng trâu chớ khỉ thằng tê"
Thuần Đức ra : "Ngựa chạy mang lạc"
Đức A-Ă-Â đối lại : "Cò bay le bè"

Tất cả những người có mặt đều hết sức phục tài Đức A-Ă-Â. Cũng vì đó Thuần Đức nhập môn theo Đạo Cao Đài từ thuở ban đầu và đêm 14 rạng rằm tháng 3 năm Bính Dần (25 rạng 26/4/1926) thọ Thiên phong Tiên Đạo phò cơ Đạo sĩ, cùng với ông Trương Hữu Đức.

Người với ông Trương Hữu Đức lãnh lịnh đi phổ độ trong các tỉnh Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Định Tường, Bến Tre.

Ngày 13/2/1927 (12/1/Đinh Mão), Ngài thọ Thiên phong BẢO PHÁP.
Nguyên Đức Chí Tôn có cho biết tiền thân của Ngài Bảo Pháp là Xích Tinh Tử và của Ngài Hiến Pháp là Từ Hàn Đạo Nhơn, ngày 31/7/1027 (3-7-Đinh Mão) may được Quỉ Cốc đại tiên giáng đàn, hai Ngài mới xin cho mỗi người một bài thi kỷ niệm.

Bài thi của Ngài Bảo Pháp như sau :
Đỏ đỏ một vừng ấy Hỏa tinh,
Nhà Châu tên tuổi đã rành rành.
Tam Kỳ tái thế an thiên hạ,
Hậu nhựt thành công hậu hứng tình.

Theo Châu tri ngày 1/4/1933 (7-3-Quí Dậu) Ngài giữ Qu. Chưởng Pháp Cửu Trùng Đài.

Năm 1934, Ngài về dưỡng bịnh tại Gia Định (Cây Quéo).
Đầu tháng 5 năm 1957 (tháng tư Đinh Dậu) Ngài cùng với Đức Thượng Sanh và quí vị Thời Quân về Tòa Thánh tái thủ phận sự. Ngày 14/5/1957 (15-4-Đinh Dậu) Ngài được Hội Thánh cử làm Giám đốc Hạnh Đường dạy lớp bồi dưỡng Giáo Hữu và Lễ Sanh, đúng theo chơn truyền của Đạo. Cũng trong thời gian này Ngài thành lập lại ÐẠO ĐỨC VĂN BÀN mà trước đây do Ngài Cao Tiếp Đạo bút hiệu Huyền Quang, Chánh Đức đứng ra thành lập vào năm 1950 và chỉ hoạt động được 2 năm. ngài dạy về niêm luật Đường thi được nhiều người hưỡng ứng nên sau ngày cải táng Ngài về đất dành riêng cho Thập Nhị Thời Quân thì quí thi gia trong Đạo Đức Văn Đàn có xuất bản tập HOÀI NIỆM THUẦN ĐỨC TIÊN SINH (năm 1974, Giáp Dần). Tập Hoài Niệm này được Ngài Hiến pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ghi "Lời hoài cảm".

Sau đó do bịnh hoạn và vì tuổi già sức yếu (bị huyết áp cao) ngày 24 tháng 12 năm 1958 (Rằm thang11 năm Mậu Tuất) Ngài trở về Gia Định dưỡng bịnh. Trong cuộc chính biến ngày 11-11-1960, do nhóm người tổ chức đã tự ý để tên Ngài vào bản tuyên ngôn nên sau đó Ngài bị nhà cầm quyền Sàigòn cũ tạm giữ một tháng năm ngày từ ngày 18/11/1960 đến 22/12/1960. Trong thời gian bị tạm giam, Ngài có làm 12 bài thi. Trong bài cảm thuật có 2 câu:
Ai biết ta chăng ta tự biết,
Riêng hiềm có miệng cũng như câm.

Từ đó Ngài sống thanh đạm tại Gia Định với các con an hưởng tuổi già. Ngài vẫn còn làm thơ và xướng họa với các bạn Đạo và các môn sinh trong Đạo Đức Văn Bàn qua đường bưu điện. Ngài cũng thường làm thơ tự thuật, tả cảnh, tả tình gói niềm tâm sự trong các vần thơ và cũng trong thời gian này Ngài thường xướng họa thơ với các thi sĩ lão thành trong Nam Phong Thi Xã.

Sau cơn bạo bịnh kéo dài đúng một trăm ngày, Ngài thoát xác về với Thầy, Mẹ tại Gia Định vào lúc 16 giờ 50 ngày mùng 7 tháng 9 năm Tân Sửu (16/10/1961). Tang lễ được Hội Thánh cử hành theo lễ Đạo trong 5 ngày và tạm an táng tại nghĩa trang gia đình của ông Bảy Bích tại Cây Quéo.

Ngày mùng 4 đến ngày mùng 7 tháng 9 năm Giáp Dần (18 đến 21/10/1974) Hội Thánh do Ngài Hiến Pháp, chưởng quản Hiệp Thiên Đài đã đích thân ra lịnh tổ chức lễ cải táng di thể Ngài Bảo Pháp như sau :

Ngày 4-9-Giáp Dần : khai mộ do Trưởng Huynh Giáo sư Ngọc Minh Thanh (bấy giờ là Khâm Trấn Đạo Sài gòn Gia Định) và Trưởng huynh Giáo sư Thái Hồ Thanh, chưởng quản Nhà Thuyền Bát Nhã trực tiếp theo dõi đôn đốc hành sự. Thi thể Ngài còn nguyên vẹn như lúc mới thoát xác, nên việc xếp ngồi kiết già và liệm vào liên đài rất thuận lợi.

Ngày 4 và 5-9-Giáp Dần: Liên Đài quàn tại tư đường, ở Cây Quéo-Gia Định, Hội Thánh hành lễ tế điện theo nghi thức Đạo. Ngài Hiến Pháp cùng Hội Thánh lưỡng đài, Hội Thánh Phước Thiện và đồng đạo đến tận nơi niệm hương cầu nguyện.

Ngày 6-9-Giáp Dần : 6 giờ sáng, di liên đài kỵ Long Mã (bông Long Mã trên ô tô) về Thánh địa Tòa Thánh Tây Ninh, có hiền huynh Sĩ Tải Khoan, lễ sĩ và đại diện gia đình đứng hầu trên Long Mã. Vào lúc 15 giờ 30, liên đài quàn tại Báo Ân Từ. Hội Thánh tếp tục hành l64 tế điện và cầu siêu.

Ngày 7-9-Giáp Dần : 7 giờ sáng di liên đài qua Đền Thánh, Thỉnh Bửu ảnh vào kỉnh lễ Đức Chí Tôn và sau đó liên đài kỵ Long Mã thẳng ra đất Thập Nhị Thời Quân tại Ao Hồ theo nghi thức Đạo. Sau bài cảm tưởng của Ngài Hiến Pháp và các bài tưởng niệm của Quí Chức sắc Thiên Phong, thứ nam NGUYỄN TRUNG NGHĨA, quyền Trưởng nam, cùng toàn Đạo đã cử hành trọng thể lễ cải táng di hài của tiên phụ. Tiếp theo Ban tổ chức hành lễ liên đài nhập bửu tháp, đúng 13 năm sau ngày Ngài Bảo Pháp thoát xác.

III / - SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
1/ - PHẦN ÐẠO:
Ngoài việc làm chủ bút tạp chí Pháp văn "La Revue caodaiste" Ngài đã sáng tác những sách Đạo Cao Đài dưới đây :
- Luận Đạo vấn đáp (1927)
- Tiên Thiên tiểu học (1927), Hội Thánh tái bản năm 1955.
- Bài thuyết đạo
- Châu thân giải
- Ăn chay
- Đức Tin
- Chơn lý (1928)
- Đại Đạo căn nguyên (1930) Thánh Thất An Hội Kiến hòa tái bản năm 1957
- Thiên Đạo (1955) cùng viết với Ô.Phan Trường mạnh.
- Luân hồi quả báo (1956) cùng viết với Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi.

2 / - PHẦN ĐỜI :
Ngoài việc viết báo như đã trình bày ở phần trên. Ông Thuần Đức có dịch đăng báo một số ít tiểu thuyết từ Pháp văn ra Việt văn. Nhưng sự nghiệp thi phú của Người là nổi bật hơn hết.

Người bước vào làng thơ năm 19 tuổi (1911) với bài tự thuật có hai câu chuyển kết:
Cạn trần chưa biết ai là bạn,
Liều với xuân xanh bút một ngòi.

Và bài thơ cuối cùng của Người đề ngày 30/6/1961, đúng 108 ngày trước ngày Người về chầu Đức Chí Tôn, là bài "THÔN CHIỀU BUỒN", trong đó có cặp trạng báo trước tâm sự người sắp ra đi :
Khoanh tay đứng ngóng thuyền xa bến,
Đứt ruột ngồi nghe nhạn gọi đàn.

Sự nghiệp thi phú của Thuần Đức bao gồm ba thời kỳ chủ yếu :
a/ - Thời niên thiếu :
Thời kỳ xướng họa với các thi hữu trong NGƯU GIANG THỊ XÃ trong các năm 1918-1920. trong thời gian này người có sáng tác bài XUẤT GIA (1919) mà ngay cả chúng tôi là các con trong gia đình cũng ngộ nhận rằng Người sáng tác bài XUẤT GIA trong thời gian tái thủ phận sự Đạo vào năm 1957-1958. Sau này, khi thu tầm lại tài liệu, bút tích của Người để soạn quyển Thuần Đức Thi Hiệp Tuyển, tôi mới tìm được sự thật của thời gian sáng tác bài thi. Như vậy, Người đã có tư tưởng thoát tục trước khi được Đức Chí Tôn dưới tá danh A-Ă-Â điểm danh, trùng hợp với khoảng thời gian Đức Ngô Minh Chiêu nghe hồng danh Đức Cao Đài tại tỉnh Tân An khoảng tháng 12 năm Canh Thân (đầu năm 1920).

b/ - Thời kỳ đã nhập môn Đạo CAO ĐÀI :
Trong thời gian này, Người sáng tác những bài thi thuần tôn giáo, như bài DƯỚI CHÂN THẦY, ĐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ …

c/ - Thời kỳ tái thủ phận sự Đạo :
Trong thời gian này, Ngài thường xướng họa với quý vị Chức sắc Đại Thiên Phong, như Đức Thượng Sanh, Ngài Cao Tiếp Đạo, Ngài Bảo Văn Pháp Quân … và quí thi gia trong Đạo Đức Văn Đàn.

Khai Pháp Chơn Quân
TRẦN DUY NGHĨA
( 1889 - 1954 )
I / - PHẦN ĐỜI
Ngài Khai Pháp quí danh là Trần Duy Nghĩa, sanh năm 1889 tại Gò Công, trưởng thành trong một gia đình nho phong. Đức tính hòa hoãn, đạo hạnh, làm thơ ký Sở Hỏa Xa Sài gòn, được bạn đồng sự yêu mến, tư gia Ngài bên cạnh ga xe lửa, hiện nay là tiệm cơm chay TÍN NGHĨA (đường Trần Hưng Đạo, Sài gòn).

II/ - PHẦN ÐẠO
NĂM 1926 (Bính Dần), Ngài nhập môn cầu Đạo và đắc thọ Thiên Phong Khai Pháp Chơn Quân (1926) phò cơ phổ độ.
Năm 1930 Ngài nhận lãnh trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối Sư vì Hội Thánh Cửu Trùng Đài thiếu Chức sắc cao cấp để tránh sự khủng hoảng Hành Chánh Đạo.

Năm 1937 Ngài trở về Hiệp thiên Đài nhận chức Chưởng Quản Phước Thiện. Nhờ đức tánh hòa ái, Ngài được trên dưới kính mến. Có thể nói cho đến ngày nay, các tín hữu Phước Thiện vẫn còn luyến tiếc một Chơn quân mẫn cán tài năng, dìu dắt Cơ quan vững bước trên đường Đạo sự.

Năm 1941, Ngài bị Chánh phủ Pháp đày qua Mã Đảo với Đức Hộ Pháp khép vào tội chánh trị phạm cùng với Đức Hộ Pháp đó chỉ là hình thức hạn chế việc phát triển nền Tân Tôn giáo.

Năm 1945, Ngài được trả tự do, sau 5 năm tù đày khổ hạnh, nhưng khám đường chỉ là nơi nung rèn khí tiết đối với Ngài. Vì thế Ngài lại nhận nhiệm vụ mới là Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh.

Năm 1953, sau khi nhìn lại quãng đường đã đi Ngài quyết định bớt việc Văn phòng để vào Trí Giác chập định.

Năm 1954, giúp đời nâng Đạo chưa toại nguyện, tuổi già đưa Ngài về cõi Thiêng liêng hằng sống, hưởng thọ 66 tuổi (22-01-Giáp Ngọ).

Hiến Pháp Chơn Quân
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
( 1890-1976 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Hiến Pháp tên thật là Trương Hữu Đức sanh ngày mùng 2 tháng 2 năm canh Dần (1890) tại làng Hiệp Hòa, (Chợ Lớn) con của ông Trương Văn Tựu (Thiên Phong Giáo sư phái Ngọc) và bà Lê Thị Nhụy.
Ngài làm việc tại Sở Hỏa Xa Sài gòn, sau bị buộc sang làm thông dịch viên cho Sở Mật Thám Nam Kỳ. Đến năm 1952, Ngài về nghỉ hưu ở Hiệp Hòa.

II/ - PHẦN ÐẠO
Năm 1925,Ngài sang nhà ông Cao Quỳnh Cư quan sát các ông Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Cư xây bàn. Ngài hoài nghi nên về tập làm thử thì vong lunh người anh nhập bàn cho hai vị thuốc trị lành bệnh hậu của Ngài trên 20 năm qua. Ngài lại bắt chước Đức Phạm Hộ Pháp chấp bút chỉ được cho thi một lần duy nhất :
Minh Đức mừng nay đã gặp Thầy
Chẳng còn ao ước cái không hay
Mừng câu Âu, Á càng thêm mặt
Mừng cậu côn đồ đã chịu chay.

Ngài khai đạo (15-10-Bính Dần) Ngài đắc phong Hiến Pháp, hợp cùng Bảo Pháp là cặp cơ truyền Đạo. Lắm lúc phải đi suốt đem, có đêm Ngài phải lên tận chùa Gò Kén để chấp cơ cho nhơn sanh nhập môn cầu đạo.

Ngài cũng nhờ ơn trên bố hóa mà trị được các bệnh phù thủng, dịch tả, cảm … huyền diệu trị bệnh bằng nhân diện chỉ xảy ra trong giai đoạn đầu mà thôi và chấm dứt huyền diệu đó vào năm 1927 khi có lệnh ngưng cơ bút.

Khi còn làm việc ở Sở Mật Thám Nam Kỳ Ngài đã cứu Đạo ra khỏi sự hiểu lầm trầm trọng. Vốn là Đức Cao Thượng Phẩm ban hành bản "Cáo phó chúng sanh", ngoài bìa có đề : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà không có chứa chữ Hán nên Nha Tổng Giám đốc Sở Mật Thám Hà Nội dịch là "Đạo lớn cứu vớt ba kỳ". Ngài phải dịch là "Đạo lớn mở lần thứ ba".

Năm 1955, khi quốc gia hóa quân đội Cao Đài, Ngài mới trở về Tòa Thánh làm việc. Năm 1956 Ngài cùng Ngài Bảo Thế thay mặt Hội Thánh ký thỏa ước Bính thân, cam kết Đạo không làm chính trị.

Mặc dù Ngài không nhận đại diện cho phong trào Hòa Bình Chung Sống nhưng vẫn bị chánh uyền cấm trú 2 năm tại Sài gòn.

Năm 1962 Ngài về Tòa Thánh nhận chức vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Trưởng Ban Kiểm Duyệt, Ban Đạo Sử rồi Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, sau đó lên thực thụ.

Thời Trưởng Ban Đạo sử, theo Thánh giáo của Đức Hộ Pháp (1969) Ngài chỉ đạo Hiền Tài Trần Văn rạng soạn quyển Đại Đạo Sử Cương, quyển sử đầu tiên đươc in ấn trong Đạo Cao Đài.

Thời Chưởng Quản HTĐ, Ngài tiếp tục xây dựng cơ sở Đạo, phò cơ với Ngài Khai Đạo phong ba vị Bảo Quân và ba vị Phối Sư. Vì tuổi già sức yếu, Ngài quy Tiên năm 1976, hưởng thọ 86 tuổi.

Tiếp Pháp Chơn Quân
TRƯƠNG VĂN TRÀNG
( 1892 - 1965 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân thế danh là Trương Văn Tràng, sanh ngày 25-10-Quý Tỵ (1892), tại Bình Thạnh (Biên Hòa), trong một gia đình nho phong. Thuở thiếu thời theo học Hán văn với người cậu, sau theo học trường Việt Pháp. Khi ra trường, phụ mẫu Ngài định lo bề gia thất và làm việc tại Sở Hỏa Xa Đông Dương (Sài gòn) và ghi tên theo học trường Hàm Thụ ở Pháp.

II/- PHẦN ÐẠO
Vào một đêm tại tư gia Ngài Trần Khai Pháp, Ngài gặp Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm đang phò cơ liền vào quỳ lạy được Đức Chí Tôn kêu tên dạy : "Con hãy sửa soạn đi theo mấy anh con mà hành Đạo". Nhờ dó, lòng chuộng Đạo được phát triển, Đức Chí Tôn chỉ định cùng Ngài trần Khai Pháp là cặp cơ phổ độ.
Ngày 24/12/1926 Ngài được đắc phong Tiếp Pháp tại Từ Lâm Tự (Tây Ninh). tuy phải bận sinh kế, Ngài vẫn hằng lo nghiệp Đạo, nên lập tại Cây Đào (Biên Hòa) một Thánh Thất hiện nay vẫn còn.

Năm 1949, Ngài trọn phế Đời hành Đạo, được Đức Phạm Hộ Pháp, Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài giao làm bí thư. Năm 1953, Ngài Trần Khai Pháp liễu Đạo, Ngài cầm quyền Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh. Năm 1956, Đức Phạm Hộ Pháp xuất ngoại, cơ Đạo bất an, Ngài lui về nghỉ tạm. Đến tháng 4 năm 1957, trở lại cầm quyền Bộ Pháp Chánh. Ngoài việc lo hành chánh Đạo, Ngài còn gia công sáng tác nhiều sách Đạo, nhất là quyển "GIÁO LÝ ĐAÏI ÐẠO" được Đức Phạm Hộ Pháp và nhiều học giả tán thưởng.

Mùa thu năm Giáp Thìn (1964), Ngài ngọa bịnh phải điều trị tại Sài gòn, cơn bịnh gần tuyệt vọng. Ngài xin Hội Thánh lập đàn cơn, được Ngài Trần Khai Pháp dạy Hội Thánh xuống nhà thương Grall rước Ngài về Tòa Thánh. Sau 7 ngày cầu nguyện và thuốc thang, Ngài bình phục sức khỏe. Nhưng thiên thơ đã định, vào ngày 15 tháng 1 năm Aát tỵ (16-2-1965), khoảng 17 giờ Ngài thoát xác qui hồi cựu vị, hưởng thọ 73 tuổi.

Bảo Đạo Chơn Quân
CA MINH CHƯƠNG
( 1864 - 1927)
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Bảo Đạo quí danh là Ca Minh Chương, sanh năm Giáp Tý (1864) tại làng Mỹ Lộc, tổng Phước Điền Trung, quận Cần Giuộc (Chợ Lớn), nay thuộc tỉnh Gò Công.
Ngài trưởng thành trong một gia đình thuần phong nho giáo nên hấp thụ đươc tinh thần đạo đức. Bản tính Ngài ôn hòa khiêm cung, được tiếng là người con chí hiếu. Thêm vào lòng quảng đại thương đời, dân trong làng đề bạt Ngài làm hương Bộ. Với chức vụ này trong thời Pháp thuộc rất khó hành sự, nhưng Ngài chẳng quản gian nan bênh vực quyền lợi dân, chống áp chế và các sắc thuế bóp nghẹt dân sinh. Song thế lực của bọn thực dân quá lớn, bọn xu phụ quyền thế quá đông, Ngài chán chê cảnh quan trường vinh liền nhục, cáo quan về làm giáo viên tại làng Mỹ Lộc, thanh bần để đào tạo tương lai dân tộc.

Với thời gian rãnh rỗi và tự do khoáng đạt của một nhà giáo, Ngài theo Đạo Minh Sư, một trong Ngũ Chi Đại Đạo (Minh Sư, Minh Thiện, Minh Đường, Minh Tân, Minh Lý) trường trai giữ hạnh tu thân, vui cảnh nâu sòng gần như chuẩn bị cho mạng lịnh Thiên phong mai hậu.

II/ - PHẦN ÐẠO
Năm Bính Dần (1926), Đấng Chí Tôn khai nền Đại Đạo, Ngài liền nhập môn cầu Đạo và được Thiên phong chức Bảo Đạo Chơn Quân, trong Thập Nhị Thời Quân. Thọ Thánh Chỉ Đức Chí Tôn. Ngài phế đời hành Đạo, ly gia cắt ái phò cơ truyền bá Đạo. Nhờ thiên tánh ôn hòa thuần lương, dân chúng yêu mến kính nể nên theo Đạo rất đông, chẳng mấy chốc khắp miền thôn quê hẻo lánh quê Ngài đều hiểu tôn chỉ Đạo Cao Đài.
Song song với việc mở Đạo cũng nằm trong tôn chỉ của kỳ ba tam chuyển, Ngài còn mở trường Huyện Lộc và Bà Rịa (nay là Phước Tuy) cho trẻ em có nơi học hành vì thời Pháp thuộc, việc học rất hạn chế.

Vì quá miệt mài với trách nhiệm thiêng liêng, cộng vào tuổi cao sức yếu, vừa hành Đạo được 3 năm thì Ngài đăng Tiên vào ngày 19-10-Đinh Mão (1927) tại quê nhà, hưởng thọ 75 tuổi. Đám tang Ngài được cử hành theo lễ Đạo rất trọng thể, bửu tháp xây tại làng Mỹ Lộc. Sau Hội Thánh rước xác Ngài về cải táng trên phần đất dành cho Hiệp Thiên Đài, nơi ngã tư Ao Hồ.
Dù đã trở về nơi Thiêng liêng hằng sống với lòng khoan dung đại độ của bậc Chơn quân, Ngài đã giáng cơ nhường quyền hữu hình cho vị Hiền Tài Hồ Tấn Khoa với chức vị Bảo Đạo.

Tiếp Đạo Chơn Quân
CAO ĐỨC TRỌNG
( 1896 - 1958 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Tiếp Đạo quí danh Cao Đức Trọng, sanh ngày 20-4-Đinh Dậu (1896) tại làng Ích Thạnh, quận thủ Đức, tỉnh Gia Định.
Thuở thiếu thời Ngài rất thông minh, bản tính thuần lương và ngôn từ thanh tao nhã nhặn. Nhờ thế, khi làm ở Sở Chưởng Khế tại Thủ đô Nam vang (Cam Bốt) đều được bạn đồng sở mến chuộng. Vào năm 1927, khi Đức Phạm Hộ Pháp đắc lịnh Đấng Chí Tôn đi truyền giáo tại Kiêm Biên (Nam Vang) thì nơi đây chưa có đạo hữu, Đức Ngài ngụ tại tư gia Ngài Cao Đức Trọng.

II/ - PHẦN ÐẠO
Nhờ thiên thơ dĩ định đó mà trong một buổi cầu cơ Đấng Chí Tôn phong Ngài chức Tiếp Đạo Chơn Quân và thân mẫu Ngài chức Giáo Sư tức bà Giáo Sư Hương Lự. Nên nhớ đàn đêm 19/11/1926 phong phẩm vị cho chư Chức sắc Hiệp Thiên Đài còn khuyết chức Tiếp Đạo để dành cho Ngài.
Cùng năm đó, Đức Phạm Hộ Pháp lập Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kiêm biên, mãi đến năm 1938 Ngài mới lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng. Bấy giờ kinh tế khủng hoảng cùng khắp thế giới, trong Đạo cũng phải chịu ảnh hưởng, Ngài không màng thân phận, quyết tâm kiên trì chủ nghĩa thương đời, an ủi và dìu dắt toàn Đạo có phương sinh sống để an lo tu hành.

Năm 1942, giữa cuộc thế chiến thứ hai, sanh linh đồ khổ, Chánh quyền Pháp chiếm cứ Tòa Thánh và đóng cửa các Thánh Thất. Hội Thánh Ngoại Giáo (Kiêm Biên) bị chiếm đóng, quả càn khôn bị đập, các long vị Tiên Phật bị dẹp. Trước tình thế bất ổn, Ngài phải lánh nạn qua Thái Lan, cũng là dịp thi hành thiên lịnh truyền giáo ngoại quốc.

Năm 1944, Ngài trở về Việt Nam, đến năm 1946, sau khi Nhật đảo chánh Pháp, các Thánh Thất được mở cửa lại, Tòa Thánh được trùng tu, Ngài phải chủ tọa Hội Nhơn Sanh vì lúc đó chưa có Thượng Chánh Phối Sư, để tuyển chọn Chức sắc cầu thăng.

Năm 1954, Ngài lại lãnh nhiệm vụ truyền giáo ngoại quốc, kiêm nhiệm Cố Vấn Hành Chánh Đạo, giáo hóa Chức sắc thông hiểu luật pháp và chơn truyền Đại Đạo. Cũng năm này, Ngài cầm quyền Chưởng Quản Cơ Quan Phước Thiện (nay là Hội Thánh Phước Thiện), đó là cơ quan bảo tồn lo giúp đỡ công ăn, việc làm, thuốc men, cơm áo cho bổn Đạo.

Năm 1956, Ngài đại diện Hội Thánh liên lạc với Chánh Quyền để tạo hòa khí thuận tiện cho việc hành Đạo và tương liên Đạo Đời. Một Chơn Quân tận tụy với thiên chức đến hơi thở cuối cùng vào ngày 23-5-Mậu Tuất (9-7-1958), đúng với câu mà Đức Tiêu Diêu Đạo Sĩ tặng :
"CHÁNH khí tà gian khủng, ĐỨC trọng quỷ thần kinh"

Hiến Đạo Chơn Quân
PHẠM VĂN TƯƠI
( 1897 - 1976 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Phạm Văn Tươi sanh ngày 17/1/1897 (Bính Thân) tại quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.
Thuở thiếu thời Ngài theo Tây học, sau khi đậu văn bằng tiểu học Pháp ngài thi đậu vào trường Sư phạm (Eùcole Normale), tốt nghiệp được bổ về dạy học tại trường tiểu học Cần Giuộc, sau đó làm hiệu trưởng trường này. Không lâu Ngài trở về Sài gòn, dạy học tại trường Pétrus Trương Vĩnh Ký.

II/ - PHẦN ÐẠO
Ngài Phạm Văn Tươi nhập môn vào Đạo Cao Đài năm 1926 và đắc phong vào phẩm vị Hiến Đạo HTĐ ngày 12-1-Đinh Mão ( DL : 13 / 2 / 1927 ) khi Đức Chí Tôn lập pháp Hiệp Thiên Đài.
Đầu năm 1926, Đức Chí Tôn mở rộng cơ phổ độ tại Sài Gòn - Chợ Lớn Gia Định nên cho thiết lập 6 đàn lệ để nhơn sanh nhập môn cầu đạo, trong đàn Tân Kim (Cần Giuộc) tại nhà ông Cựu hội đồng địa hạt Nguyễn Văn Lai. Quan phủ Nguyễn Ngọc Tương và ông Lê Văn Lịch chứng đàn, hai Ngài Ca Minh Chương và Phạm Văn Tươi phò loan, lo việc thờ cúng có mấy ông Lê Văn Tiếp, Nguyễn Văn Nhơn, Phạm Văn Tỷ và Võ Văn Kỉnh.

Năm 1933, ngày 4/3/1933 (ngày 9-2-Quý Dậu) Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Đức Phạm Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định giao cho Ngài Thời quân Hiến Đạo Phạm Văn Tươi làm quyền Chưởng Pháp CTĐ, trong lúc CTĐ chưa có chức sắc ở phẩm vị này.

Cuối năm Bính Tuất (1946), Đức Phạm Hộ Pháp thành lập Hội Thánh Phước Thiện, bổ nhiệm ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi làm Thống Quản cơ quan Phước Thiện. Qua đầu năm 1947 vào tiết Đinh Hợi Ngài trở về quê nhà ở Cần Giuộc.

Năm Kỷ Dậu (1969) Ngài Phạm Văn Tươi được giao nhiệm vụ Phó Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện theo Thánh lịnh số 20/TL ngày 3-7-Kỷ Dậu (15/8/1969) của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang.
Hiến Đạo Phạm Văn Tươi qui vị tại Chợ Lớn năm 1976.

Khai Đạo Chơn Quân
PHẠM TẤN ĐÃI
( 1901 - 1976 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Khai Đạo quý danh là Phạm Tấn Đãi, sanh năm 1901 tại làng Mỹ Lộc, tông Phước Điền Trung, Cần Giuộc, tỉnh Gò Công (cùng làng với Ngài Ca Bảo Đạo).
Ngài trưởng thành trong gia đình nông dân nên hấp thụ được tính hiền lương chơn chất.

II/ - PHẦN ÐẠO
Năm Bính Dần (1926) Đức Chí Tôn khai đạo Cao Đài, Ngài nhập môn cầu Đạo và được Thiên phong chức Khai đạo chơn quân, trong thập nhị thời quân. Theo lệnh của Đức Chí Tôn, Ngài phế đời về hành đạo tại Tòa Thánh với các vị thời quân khác.
Ngày mồng 1 tháng 3 năm Quý Dậu (26/3/1933) Ngài được lịnh cầm quyền Thái Chánh Phối Sư cùng với các Ngài Khai pháp (Ngọc Chánh Phối Sư) và Khai Thế (Thượng Chánh Phối Sư).

Tháng 6 năm 1946 khi Đức Hộ Pháp còn pháp nạn, Ngài thống quản Tòa Thánh, sửa lại dinh thự sau khi Pháp chiếm và tổ chức lại cửu viện nhờ đó đạo hữu các nơi lần lượt trở về tụ tập quanh Tổ Đình.

Ngày 28/6/1971, Ngài đảm nhiệm Chưởng quản Bộ Pháp Chánh khi Ngài Hiến Pháp lên cầm quyền Chưởng quản HTĐ.

Năm 1972 Ngài thành lập viện Đại Học Cao Đài, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, vì trục trặc hành chánh Ngài phải kiêm luôn chức Viện trưởng và sau đó mới giao lại cho Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch.

Trong thời gian này, Ngài còn kiêm nhiệm Trưởng ban Đạo Sử. Trong lễ nhậm chức, Ngài đáp từ như sau :
"Trong hàng Thánh thể của Đức Chí Tôn, mỗi vị đều phải lo thi hành cho tròn trách nhiệm…
Đại đạo khai mở đến nay là 46 năm, Bộ Pháp chánh chỉ có chi Pháp nắm quyền chưởng quản. Đến nay chức sắc thập nhị thời quân chỉ còn năm vị … Hôm nay hiền huynh Hiến pháp lên cầm quyền Chưởng quản HTĐ nên chi pháp không còn vị nào nữa. Chi đạo còn được ba vị, nhưng tôi có lẽ vì lãnh chức Khai Đạo là khai đường mở nẻo nên quý vị mới giao bộ Pháp chánh cho tôi…"
Năm 1976 vì quá mệt mài với trách nhiệm thiêng liêng, thêm vào tuổi cao sức yếu Ngài qui Thiên và được an táng trên phần đất dành cho HTĐ.

Bảo Thế Chơn Quân
LÊ THIỆN PHƯỚC
( 1895 - 1975 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Thời quân Bảo Thế quý danh Lê Thiện Phước sanh ngày 4 tháng 6 năm 1895 tại Sài Gòn, con của cụ lê Văn Dương và bà Trần Thị Chọn (Thọ Thiên phong Giáo Hữu).
Thuở thiếu thời học trường Chasseloup - Laubat, thi đậu bằng Thành chung (1912) và luật học Đông Dương (1915) rồi thi đỗ vào ngạch thư ký thượng thơ, dinh hiệp lý Sài Gòn, sau lên tới huyện danh dự.

II/ - PHẦN ÐẠO
Thoạt đầu Ngài giao tiếp với ông Huyện thơ (tức Đầu sư Thái Thơ Thanh) lại nhà hầu đàn học Đạo. Sau đó Ngài thỉnh Đức Quyền Giáo Tông, Hộ Pháp, Thượng Phẩm đến tư gia chứng đàn cho Ngài nhập môn cầu đạo, Đức Chí Tôn giáng dạy:
Vạn thế vô vi tri tiếp sắc thiên
Khả quan chi hậu, kiếp nhi tiền
Hậu lai hữu phúc tam kỳ hội
Chí tín tâm thành đắc vị Tiên.

Năm 1946, Đức Hộ Pháp từ Madagascar về, Ngài xin phế đời hành đạo. Ngài được ban chức Thừa quyền Hộ Pháp. Năm 1950, Ngài lãnh Tổng thơ ký chánh trị đạo, thống lãnh văn phòng Hộ Pháp (1952) Tam đầu chế (1955). Đến 1956, Ngài thay mặt Hội Thánh ký thỏa ước Bính Thân tách đạo ra khỏi chính trị.

Năm 1956, Ngài lãnh nhiệm vụ thay mặt Đức Thượng Sanh, khi Đức Ngài vắng mặt tại Tòa Thánh, rồi quyền Đầu Sư (1959), Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài (1964), Thừa quyền Thượng Sanh (1965) và Chưởng quản Thế Đạo, Thống quản Đại Đạo Thanh Niên Hội.

Năm 1966, Ngài thống quản cơ quan Phước Thiện và chủ tọa Hiệp Thiên Đài. Cuối năm này Ngài bắt đấu lâm trọng bệnh.

Năm 1967 Ngài hồi phục sức khỏe tiếp tục hành đạo, chăm lo về thống nhất chi phái. Nhưng tuổi già sức yếu Ngài lại ngọa bệnh rồi liễu đạo vào lúc 6h30 sáng ngày 17 tháng 3 năm Aát Mão (28/4/1975) thọ 80 tuổi.

CÔNG TRẠNG NGÀI BẢO THẾ.
Hôm nay đưa liên đài Ông Bạn Thời Quân đến Bửu Tháp để giả biệt thiên thu. Tôi nhơn danh Hội Thánh Hiệp Thiên Đài nhắc lại vài nét chính và quá trình của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước đã thi thố trên bước đường hành đạo của Ngài, mà chúng ta phải nhìn nhận là những kỳ công sáng chói đắp bồi cơ đồ đại nghiệp đạo.
Nay Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước đăng tiên trước sự công thành viên mãn hay nói đúng hơn là đã hoàn thành sứ mạng. Chúng tôi đồng nghiệp Thời quân phải nhìn nhận rằng Ngài là một vị Thời quân giúp nhiều việc hay và dày công với Đạo.

Ngài vì sứ mạng cao trọng mà từ bỏ công danh phú quý, dấn thân hành đạo. Ngoài nghĩa vụ lập đạo buổi ban sơ Ngài liên tục hành đạo cho đến ngày giũ xong áo trần, mặc dù đến lúc tuổi già hơi mòn sức yếu. Ngài Bảo Thế khi bắt đầu phế đời hành đạo, Ngài từ chức Hội Trưởng đô thành Sài gòn về Tòa Thánh Tây Ninh được Đức Hộ Pháp giao phó trách nhiệm thừa quyền Hộ Pháp nhằm lúc vai trò của Hộ Pháp phải ứng phó nhiều liên quan về mặt thế, âu cũng là việc thiên cơ sắp bày, nào là phải đối phó với vận nước đang khúc quanh co, cơ đời thường biến chuyển một tay Bảo Thế được định nghĩa bởi chức vụ kề cận Đức Hộ Pháp đối phó với quyền đời, quyền lực đảng phái và quyền điều khiển quân đội Cao Đài của Đức Hộ Pháp kiêm Thượng Tôn Quản Thế, đông xông tây dút Hộ Pháp ra hiệu Bảo Thế huơi thương ròng rã trên đường hành đạo như trên đường chiến đấu, để cố đem an bình cho dân cho đạo trong vai tuồng được thi thố, chứng tỏ cho ta thấy phận sự của Chi Thế là mượn thế toan phương giác thê, dùng đời loạn chuyển thành đời trị.

Năm 1953 Ngài được lịnh Đức Hộ Pháp xuất ngoại dự hội nghị tôn giáo thế giới tại Nhựt Bổn cùng Ngài Thượng Sáng Thanh hiện là Đầu Sư.

Năm 1954 Ngài Bảo Thế hộ giá Đức Hộ Pháp sang Pháp quốc và Thụy Sỹ theo dõi và tìm phương pháp cho hội nghị Genève định đoạt vận mệnh dân tộc Việt Nam.

Năm 1955 tình thế nước nhà bị phân hóa trầm tọng, lực lượng quốc gia miền Nam yếu thế so sánh với miền Bắc, muốn quân bình cán cân Ngài Bảo Thế được Đức Hộ Pháp phái đến Sài gòn hội họp với các lãnh tụ đảng phái có lực lượng tìm phương cứu vãn nguy cơ cho dân tộc Nam Bắc.

Nhưng rất tiếc thay, tình trạng đất nước đang lâm vào cơn nguy ngập, chánh quyền Việt Nam chịu ảnh hưởng quá nặng của ngoại quyền chi phối, Đức Hộ Pháp buộc lòng xuất ngoại lưu ngụ tại Cam Bốt. Ngài Bảo Thế lên thay thế nắm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài cầm quyền tối cao lãnh đạo Hội Thánh.

Lúc bấy giờ mọi bề khó khăn, quyền đời lấn đạo không ưng nghe đường lối cứu thế của Đức Hộ Pháp lại tìm phương phá đạo. Ngài Bảo Thế phải đứng ra thương thuyết với chánh phủ Ngô Đình Diệm và sau đó ký kết thỏa ước Bính Thân (1956) để bảo tồn nghiệp đạo. Thỏa ước này tuy điều kiềm tỏa quyền hành Hội Thánh nhưng Đức Hộ Pháp tạm thời bằng lòng vì dụng ý của nó là ngưng được mầm phá đạo. Thỏa ước còn ngăn cấm Hội Thánh làm chánh trị trong khi Đức Hôï Pháp còn ở Quốc ngoại. Ký thỏa ước Bính Thân Ngài Bảo Thế tỏ ý nghĩ mình phải làm để bảo tồn nghiệp đạo, đốt giai đoạn chờ ngày có cơ thuận lợi hơn. Đến khi Đức Thượng Sanh về Tòa Thánh cầm giềng mối đạo thì Ngài Bảo Thế cũng được giao phó trọng trách thừa quyền Thượng Sanh làm cánh tay mặt của Đức Thượng Sanh bình trị Đạo quyền.

Nói tóm lại, Ngài Bảo Thế luôn luôn lãnh trọng trách trong guồng máy Lãnh đạo nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hết thừa quyền Hộ Pháp tới thừa quyền Thượng Sanh, hoặc quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài.

Ngài đã dày công khó nhọc giúp hay cho Hội Thánh lưỡng đài đưa Đạo đến cảnh huy hoàng ngày nay. Chúng tôi còn nhớ năm 1960 tại Giáo Tông Đường trước sự hiện diện của Đức Thượng Sanh, Đức Hộ Pháp có giáng cơ khen ngợi Ngài Bảo Thế :
BẢO trọng vạn lịnh hiệp chí linh
THẾ nguy chuyển loạn lập hòa bình
CỨU đời mở đạo kinh luân sẵn
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.
                                                                                              Khai đạo HTĐ.

Khai Thế Chơn Quân
THÁI VĂN THÂU
( 1899 - 1981 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Thái Văn Thâu sanh năm 1899 Kỷ Hợi (thẻ căn cước ghi là 1900) tại làng Qui Đức quận Cần Giuộc (Chợ Lớn).
Thân sinh là Thái Văn Vá, thân mẫu là Ngô Thị Mai. Vợ là bà Đỗ Thị Thoại (sanh năm 1906) ở Long Đức Đông.

Ngài sống cùng quê với Ngài Hiến đạo Phạm Văn Tươi, thuở nhỏ hai Ngài là bạn nhau. Ngài theo Tây học đậu bằng tiểu học Pháp và sau đậu bằng Thành chung (Diplôme). Ngài dạy học ở trường Pétrus Ký Sài Gòn sau đổi xuống dạy tại Collège Mỹ Tho (Trung học Nguyễn Đình Chiểu).

II/ - PHẦN ÐẠO
Năm 1926 (Bính Dần), một đàn cơ ở Tân Kim (Cần Giuộc) tại nhà hội đồng địa hạt Nguyễn Văn Lai, ông Đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương (quận Cần Giuộc) và Lê Văn Lịch (Vĩnh Nguyên Tự) chứng đàn do Ca Minh Chương và Phạm Văn Tươi phò loan, Ngài Thái Văn Thâu hầu đàn và được Đức Chí Tôn thâu làm môn đệ.
Đức Chí Tôn lập pháp HTĐ ngày 12-1-Đinh Mão (Ngày 13/2/1927) Ngài Thái đắc phong Khai Thế HTĐ. Từ đó ngoài các giờ dạy học Ngài cùng các vị đồng tử khác phò cơ Đức Chí Tôn phổ độ nhơn sanh.

Năm 1933, Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung hiệp cùng Đức Hộ Pháp ra một châu tri ban quyền chức Chánh Phối Sư cho 3 vị HTĐ. Một trong ba chức sắc ấy có Ngài. Ngài Thái Văn Thâu lãnh phận sự Thượng Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài.

Khi Đức Hộ Pháp cùng với năm vị chức sắc khác bị nhà cầm quyền Pháp đày đi Madagascar. Lính Pháp vào chiếm đóng Tòa Thánh, Ngài Thái Văn Thâu trở về quê nhà ở xã Quy Đức, sau bị bệnh tâm thần nên an dưỡng tại tư gia, không hành đạo được nữa.

Ngài Khai Thế Thái Văn Thâu qui liễu lúc 17h chiều ngày 2-6-Tân Dậu (ngày 3/7/1981), hưởng thọ 83 tuổi.

Hiến Thế Chơn Quân
NGUYỄN VĂN MẠNH
( 1894 - 1971 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Hiến Thế tên thật là Nguyễn Văn Mạnh, sanh năm 1894 tại Gò Công, vợ là Lê Thị Biếu, các con là Nguyễn Hữu Thình, Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Thị Bạch Mai, Nguyễn Thị Bạch Cúc.

II/ - PHẦN ÐẠO
Ngài qui y theo Đạo từ thuở ban đầu và thọ Thiên ân Hiến Thế vào ngày lập pháp HTĐ 13/2/1927 tại Gò Kén, tức Thánh Thất Từ Lâm cùng lượt với Khai Thế Thái văn Thâu.
Ngài thống quản Phước Thiện đầu năm 1966, rồi mắc bệnh. Nhưng khi Ngài qui liễu (1970) Hội Thánh vẫn xuống tận tư gia tại Sài Gòn làm đám tang theo lễ Đạo. Vì thế, bà quả phụ Nguyễn Văn Mạnh đã liên lạc với nhị vị nam nữ Khâm Châu Đạo Sài Gòn, xin phép Hội Thánh được thiết một bữa tiệc thân mật tại Nữ Đầu Sư Đường để khoản đãi đền ơn Hội Thánh và các thân hữu nhân ngày lễ Đại tường của cố Hiến Thế HTĐ nhằm ngày 10-9-Tân Hợi (28/10/1971).
Hội Thánh cho cử hành lễ tế điện Đại Tường tại Báo Ân Từ và hành pháp xả tang.

Tiếp Thế Chơn Quân
LÊ THẾ VĨNH
( 1899 - 1945 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Tiếp Thế quí danh là Lê Thế Vĩnh sanh năm 1899 tại Saigon, Ngài là bào đệ của ông Lê Thiện Phước (tức Lê Bảo Thế)
Ngài là một ký giả nổi tiếng trong khoảng thời gian 1925-1926 cho các nhật báo Sài gòn.

II/ - PHẦN ÐẠO
Trong năm 1925 nghe tin nhà ông Cao Quỳnh Cư cầu cơ thỉnh được tiên về cho thi hay lắm. Vì là nhà báo, ông muốn làm một thiên phóng sự đặc biệt về cơ bút. Một hôm, Ngài cùng ông Phạm Minh Kiên đến viếng ông Cư, đang lúc Đấng A,Ă, giáng. Ông Cư xin cho hai ông mỗi người một bài thi để kỷ niệm . Đấng A,Ă, gõ cơ đáp:
- Để Bần Đạo cho chung hai người một bài thi mà thôi.

THI
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang
Đạo đời ví biết đời là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

Bài thi chỉ có 4 câu mà gồm đủ hình trạng tâm sự của hai nhà báo. Nhờ đó mà Ngài mới chịu theo Đạo.

Khi Khai Đạo ở Gò Kén (15-10-Bính Dần) "hai ông Mai và Nguyên vì không đến hầu đàn phong Thánh tại chùa Gò Kén nên sau đó hai ông khác đến thế vào và đắc phong trong hàng Thập Nhị Thời Quân. Hai ông ấy là Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh và Tiếp Đạo Cao Đức Trọng" (theo Đạo Sử Cơ bút của Ngài Trương Hiến Pháp).

Sau đó thì Ngài nghỉ viết báo về Tây Ninh làm việc nơi Văn phòng Đức Quyền Giáo Tông. Khi xảy ra Hội Vạn linh (?) do ông Nguyễn Phan Long làm Nghị trưởng thì Ngài đại diện cho Đức Quyền Giáo Tôngvà Đức Hộ Pháp. Năm 1934 Ngài được đi hành đạo Bắc Việt.

Trong tình trạng xáo trộn của đất nước năm 1945, Ngài bị đối phương lừa gạt đưa Ngài từ Sài gòn lên Đà Lạt rồi mất tích luôn.
*
*          *

Bảo Cô Quân
DƯƠNG VĂN GIÁO
I/ - PHẦN ĐỜI
Ông Dương Văn Giáo (1900-1945), người Sài Gòn, đỗ Tiến sĩ Luật khoa và chánh trị học ở Đại học Luật khoa Paris. Ông đã từng quen biết Néhru (sau là Thủ tướng Ấn)
Ông về nước làm trạng sư cùng đồng liêu là Diệp Văn Kỳ. Năm 1928, ông sáng lập tờ "Đuốc Nhà Nam", mỗi tuần ra ba số, số 1 ra ngày 26/9/1928.

Tờ "Đuốc Nhà Nam" ngày 23/10/1928 viết rõ chủ trương "Chú trọng về giới nông dân, lao động cốt rọi các tia sáng cho anh em bước tới để ngày sau tất cả thôn quê đều làm đèn điện như ở bên Nga". Đuốc Nhà Nam lên án chế độ thực dân Pháp: "nói cho đích đáng thì chủ nghĩa thực dân là nguyên do của những cuộc chiến tranh, là cái tánh háo thắng, háo tiêu diệt các nước" (ĐNN số ra ngày 18/10/1928). Mỗi kỳ tờ báo đều có đăng danh ngôn chống đối quyết liệt chủ nghĩa tư bản và nền văn minh phương Tây như sau:

"Hỡi người Âu Tây ! Người tự kiêu vì có nhiều tàu, nhiều máy móc, nhiều đồ vật sáng tạo và có Chúa Trời. Đã lâu rồi ta đây (người Việt Nam) vẫn biết chế biến vật chất bằng ngàn cách, mà khi ta biết được "Trời" (Đức Thượng Đế) thì ta điềm nhiên.

"Hỡi người Âu Tây ! Người có hiểu ta gì đâu, bởi học thuật của ta bí mật, trí thức của ta kín đáo. Phàm những sự phải kín đáo mà sớm phô bày thì thành cái họa vậy" (chuyện Đức Khổng Tử, ĐNN ngày 25/10/1928)

II/ - PHẦN ÐẠO
Nhân hội Vạn Linh (?) ngày 11/6/1933 Trạng sư Dương Văn Giáo và Diệp Văn Kỳ về Tòa Thánh bào chữa cho Đức Quyền Giáo Tông. Đêm 19-5-Quý Dậu, ông được ân phong là Bảo Cô Quân. Vì là chức vụ Thế Đạo nên ông còn ở lẫn lộn với đời mà xảy ra điều thương tâm.
Khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, dân quân rút ra khỏi Thành phố. Trong tình hình nhốn nháo của dân chúng do thiếu lãnh đạo nên ông cùng một số thân hữu đứng ra thành lập Chánh phủ lâm thời Việt Nam dân Quốc ở Sài Gòn vào ngày 24/9/1945 tại cơ sở số 8 đường Marin Chợ Lớn mà ông là Thủ tướng. Năm ngày sau ông bị đối thủ của ông ám sát, lúc mới 45 tuổi.

Bảo Văn Pháp Quân
CAO QUỲNH DIÊU
( 1885 - 1958)
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Bảo Văn Pháp Quân thế danh là Cao Quỳnh Diêu, sanh năm 1885 tại Hiệp Ninh (Tây Ninh) trong một gia đình nho phong. Cụ thân sinh Ngài có 3 người con trai là Ngài là con cả, thứ đến là Đức Cao Thượng Phẩm.
Tư chất thông minh, xuất khẩu thành thi, tương truyền bài "Tán tụng công đức Diêu Trì Cung" Ngài soạn ra trong lúc ngồi thảnh thơi trên võng.

II/ - PHẦN ÐẠO
Đầu năm 1926, đồng thời với chư vị Thời Quân, Ngài đắc lịnh nâng loan với Cao Thượng Sanh. Ngài Đầu SưLê Văn Trung và các vị Thiên phong Cửu Trùng Đài đi phổ độ từ Sàigòn đến các tỉnh miền Tây Nam Phần.
Ngài bận thế sự vì phải giúp việc tại một hãng tư (Sài gòn) nhưng gắng sức chu toàn nhiệm vụ trong hai năm (1926 và 1927) phổ thông nền chơn đạo.

Năm 1927, Ngài thọ phong Tiếp Lễ Nhạc Quân. Năm 1929, Ngài phế đời về Tòa Thánh lo Đạo. Đầu năm Canh Ngọ (1930) được đắc phẩm vị Bảo Văn Pháp Quân, gia công chấn chỉnh Lễ Nhạc. Ngài chỉ từng thể điệu cho Ban Nhạc tại Tòa Thánh từ việc cầm dùi trống đến các bài bản. Cuối năm này, Ngài bị nạn hỏa tai thiêu hủy cả nhà cửa sự nghiệp, nên phải trở về Phú Nhuận. Về sau Ngài hợp tác cùng chư vị Thời Quân lo chú giải Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và lập các điều phụ thuộc.

Năm Canh Dần (1950) Ngài mới trở về Tòa Thánh chung lo nghiệp Đạo, nhưng vì tuổi già sức yếu, thân xác hao mòn rồi ngọa bịnh không mấy ngày, thoát về Tiên cảnh ngày mồng 4 tháng 9 năm Mậu Tuất (18/10/1958) hưởng thọ 73 tuổi.

Dưới đây là bài tự thuật của Ngài viết lúc thuở sanh tiền (4/4/1958).

TỰ THUẬT
Danh không chác, lợi không ham
Văn hóa ngàn xưa gắng mịt tầm
Phục Văn Quốc hồn nâng Đảng Việt
Thiên lòa đuốc ngọc rạng trời Nam
Bao năm dõi bước theo chơn Đạo
Muôn việc với Đời dụng chữ Tâm
Sớm tối thừa nhân nơi lãnh thất
Năm cung thường trổi giọng Hồ Cầm.

*  * *

Bảo Sanh Quân
LÊ VĂN HOẠCH
( 1896 - 1978 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Bảo Sanh Quân tên thật là Lê Văn Hoạch, sanh năm 1896 tại Phong Điền, tỉnh Cần Thơ trong một gia đình khá giả.
Nhờ thông minh đĩnh ngộ, Ngài đỗ Bác sĩ y khoa tại Pháp năm 26 tuổi.

II/ - PHẦN ÐẠO
Ngài sớm giác ngộ theo Đạo mới, thế nên đầu năm Canh Ngọ (1930) Ngài thọ phẩm Bảo Sanh Quân cùng đợt với Ngài Bảo Văn Pháp Quân (trong Pháp Chánh Truyền chỉ ghi sắc phục của hai vị này mà thôi, biểu tượng cho ngành khoa học xã hội (Văn-Pháp) và tự nhiên (Bảo sanh).
Về phong cách làm Đạo thì Ngài theo chân Đức Cao Thượng Sanh nghĩa là vẫn làm việc đời, đến những ngày lễ lớn, cả hai vị đều về Tòa Thánh đảnh lễ Đức Chí Tôn và Phật Mẫu chớ không phế đời hành Đạo.
Vào ngày 10/11/1946 Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh Thủ tưởng Nam Kỳ Quốc tự sát, thì hội đồng tư vấn bầu người lên thay. Dưới sự chủ tọa của chủ tịch Béziat, hội đồng tư vấn chọn được 34 người, rồi 34 vị này bầu ra Thủ tướng. Bác sĩ Lê Văn Hoạch được các nghị viện Pháp dồn hết phiếu cho nên đắc cử thủ tướng Nam Kỳ Quốc. Trước khi nhậm chức (15/11/1946) Đức Nhàn Aâm dạy Ngài như sau :
Lấy Thánh Đức dìu đời giác ngộ
Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang
Đức lập quyền dân đặng cho toàn
Quyền xua đức nhơn gian thống khổ

Ghi lòng lời dạy bề trên, Ngài dụng đức để trị dân, hàng tuần Ngài mua từng xe gạo chở về Tòa Thánh hiến cho Trai đường nuôi dân nghèo đói để vẹn hai chữ "Bảo Sanh".

Ngày 17/4/1973 Ngài nhậm chức Viện trưởng Viện Đại học Cao Đài. Ngài nói : "Viện Đại học Cao Đài là môi trường huấn luyện giáo đồ trở nên chức sắc thiên phong hầu thực hiện mối đạo cho đời noi theo. Thành lập Viện đại học Cao Đài đã khó, mời giáo sư hữu danh lại khó, chọn lọc sinh viên lại càng khó, tất cả cái khó ấy Hội Thánh đã vượt qua … còn một cái khó rất tế nhị là làm sao giữ được Viện Đại học Cao Đài miên trường với nền Đại Đạo".

Vì tuổi già sức yếu Ngài nhường chức Viện trưởng lại cho giáo sư Nguyễn Văn Trường rồi trở về Thị xã Cần Thơ và qui vị tại tư gia năm 1978, thọ 82 tuổi.

NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG
Hoạch hiền hữu nên nhớ việc nước là vì Đạo vì Đời, tuy việc tình cờ chớ đó là Thiên ý Đạo được rạng ngời chăng là do nơi kết quả trong bước đường của hiền hữu, cái khó là chỗ đó. Bần đạo xin có mấy lời tâm huyết :
"Gánh đời đã tự cất lên vai
Trau chuốt sao cho đủ trí tài
Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm
Thiệt hư gìn nhẹm chước phương hay
Dựng quyền hơn Đức quyền tan nát
Tạo thế kém nhân thế đọa đày
Ví biết giống nòi đương thống khổ
Trở dương cho vẹn phận làm trai"

LÀM TRAI CHO VẸN PHẬN
"Nợ non sông muốn gánh, phải lo tròn
Giữa bể khơi lắc lơ chiếc thuyền con
Cơn sóng gió liệu còn hay để mất
Khóc nước loạn rừng con quốc quốc
Máu thành sông thây chất ví non cao
Kiếp ngựa trâu Việt chủng vẫn kêu gào
Đá tinh vệ chừ bao cho lấp bễ
Vận hội đến đã xây thời thế
Bởi hung tàn chưa thoát lệ nô
Bốn ngàn năm một gánh cơ đồ
Chia rẽ mãi điểm tô không kịp bước
Đời lấn Đạo dời xa cội phước
Đạo dìu đời vận nước mới an
Đức lập quyền dân được châu toàn
Quyền xa đức nhơn gian thống khổ
Lấy chí Thánh dìu đời giác ngộ
Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang
Trị theo đời dân chúng vẫn lầm than
Đó là dìu chúng đến con đường tự diệt
Do bốn chữ Minh Cang Liêm Khiết
Đạo hay đời trăm việc cũng thành
Gắng đề phòng bã lợi đua tranh
Cầm bạc giữ đạm thanh khi sớm tối
Chậm rãi bước đường xa chớ vội
Góp ý hay mở lối cang thường
Thương đời cho trọn chữ thương."
                                               Thảo xá Hiền Cung ngày rằm tháng 11 Tân Mùi (23/12/1931)

Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung
(1876 - 1934)
I - PHẦN ĐỜI :
Đức Quyền Giáo Tông quí danh là Lê VănTrung sinh năm Bính Tý (1876) tại làng Mỹ Lâm, tổng phước Điền Trung, tỉnh Chợ Lớn. Thân sinh sớm qua đời nhờ sự nuôi dưỡng của Từ Mẫu . Gia đình sống về nghề nông theo nếp sống nho phong.

Nhờ thông minh đĩnh ngộ năm 1893 lúc vừa được 17 tuổi đã được bổ vào ngay Thư Ký Soái Phủ Sài Gòn, nhưng không bao lâu . Đức Ngài từ chức để ra ứng cử Hội Đồng Quản Hạt Quận II (1900)

Hội Đồng này, Người Việt tuy là Dân biểu nhưng chỉ là cái máy để ghi chép văn tự. Đức Ngài thoát ra ngoài công lệ đó, đứng đầu tất cả Nghị Viên phản kháng dự thảo luật "Lục hạng điền " của Thống Đốc Nam Kỳ Outrey. Song số Nghị Viên người Việt không được phân nửa, nên lúc biểu quyết bị thua thiệt. Đức ngài vận động để đồng từ chức nhất loạt, nhờ đó thế lực của Đức Ngài trở nên mạnh mẽ khiến cho việc ứng cử lần nhì được dễ dàng.

Năm 1911, Đức Ngài cổ động và đề xướng trường Nữ Học Đường . Chính phủ Pháp phải thỏa thuận và vì công chúng hoan nghinh, họ cũng không dám phủ nhận công trạng của Đức ngài nên Ban Bắc Đẩu Bội Tinh là huy chương hãn hữu trong thời đó .

Sống trong quyền cao chức trọng được đồng bào yêu kính,nhưng Đức Ngài vẫn hằng lo cho tâm phận. Thế nên khi Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp đem cơ đến tư gia của Đức Ngài để phổ hóa mối Đạo thì Đức Ngài được khải từ lâu. Đến ngày 6 -10-1925, Đức Ngài đệ đơn từ chức Nghị Viên để thừa hành thiên mạng. Vào ngày 22-01-1926, Đức Ngài trọn phế đời hành Đạo.

II - PHẦN ÐẠO
Phế đời được 3 tháng thì Đức Chí Tôn giáng cơ tại Vĩnh Nguyên Tự Phong Đức Ngài Phẩm Đầu Sư, Thiên ân Thánh danh Thượng Trung Nhựt . Đức Ngài lập hệ trước Ngũ Lôi vào ngày 12-3 Bính Dần (23-4-1925). Chỉ trong vòng 6 tháng lãnh mạng đi truyền Đạo mà đã có hàng triệu người theo đủ giai cấp.

Ngày 7-10-1926. Đức Ngài cùng bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh, Đức Hộ Pháp ,…và 247 vị chức sắc, đạo hữu đứng tên trong "Tờ Khai Đạo" với Chánh phủ Pháp .

Chính nhờ uy thế của Đức Ngài mới được chánh phủ Pháp chấp thuận mau lẹ mà không nghi kỵ.
Vào ngày 16-10 Bính Dần (20-11- 1926), Đức Chí Tôn giáng cơ gọi Đức Ngài phân ngôi vị Hội Thánh Cửu Trùng Đài. Nhờ đó mà người ta quên đi những phường tà Đạo trong ngày khai Đạo tại Từ Lâm Tự, mà theo Đạo càng đông hơn . Vào ngày 3-10 Canh Ngọ (22-11-1930), một đàn cơ do Đức Phạm Hộ Pháp cầu nơi Hiệp Thiên Đài, Đức Lý Giáo Tông giáng ban Quyền Giáo Tông hữu hình cho Đức Ngài để dìu dắt toàn thể nhơn sanh. Vì có người đố kỵ về phẩm vị tìm việc nhỏ nhặt kết án phạt hai đạo hữu đánh xe bò của Hội Thánh về tội đi xe không đốt đèn và bò thiếu sợi giây buộc ách. Sở tuần cảnh Tây Ninh đem án phạt vào Giáo Tông Đường mời Đức Ngài ra chịn tù vào ngày 7-1 Giáp Tuất (20-2-1934) trên 24 giờ (1)

Chú thích:
(1) Xin xem thêm "Đại đạo sử cương" quyển II.

Sau vía Đức Chí Tôn, Đức Ngài viết thư gởi xuống Sài Gòn trả huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh lại cho chánh phủ Pháp. Nhưng nghiệp Đạo còn dài, đời người hữu hạn, sau cơn bịnh nhẹ, Đức Ngài vĩnh du Tiên cảnh vào ngày 13-10 Giáp Tuất (19-11-1934), hưởng thọ 58 tuổi, liên Đài được xây tháp sau hậu điện Tòa Thánh.

Tính từ ngày khai Đạo (19-11-1926) tại Gò Kén đến ngày Đức Ngài qui đúng 8 năm không thừa không thiếu một ngày. Điều ấy có huyền diệu thiêng liêng gì không?

Nhân vía Đức Ngài năm Tân Hợi (47) có giáng cho toàn đạo một bài thi

THI
Cơ đạo ngày nay đã biến hình
Sửa đổi đã sẵn phép huyền linh
Bích Du ví đã gây ra loạn
Đẫu tốt phải toan đứng trị binh
Nam đỉnh đã xô do xích quỉ
Đông thiên mới lố bóng chơn tinh.
Đỡ nâng vạt cả đành tay Đạo
Búa Việt phải toan gắng giữ gìn .
Và bài thài dâng lễ Đức Ngài như sau:

THI
Càn khôn thú phước linh tiêu
Thấy khổ trần gian nghịch Thánh điều
Mượn xác phàm riu cây Phất chủ
Nương cơ Tạo, xủ phướn tiêu diêu.
Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,
Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu
Muôn dặm cửa Tiên chờ phước tục
Cõi lau trở gót ruột trăm chìu

- Xin quí vị vui lòng xem thêm: Chân Dung Quyền Giáo Tông

Đức Minh Chiêu
NGÔ VĂN CHIÊU
( 1878 - 1932 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Ngô Minh Chiêu quý danh là Ngô Văn Chiêu sanh năm 1878 tại Bình Tây (Cholon) trong một gian nhà nhỏ sau chùa Quan Thánh.
Sớm sống khỏi gia đình, năm 12 tuổi đến nhà Đốc Phủ Sủng (Mỹ Tho) để xin học nội trú tại Trung học Mỹ Tho. Sau lên trường Chasseloup Laubat thi đậu Thành Chung năm 21 tuổi và được bổ làm tại Sở Tân Đáo Sài Gòn. Ngài thành gia thất với bà Bùi Thị Thân có được 9 con, làm quan tới Đốc Phủ (1)

Năm 1903, Ngài đổi đến Dinh Thượng Thơ rồi về Tân An (1909), đầu năm 1920 thì ra Hà Tiên sau 8 tháng đổi ra Phú Quốc. Chính nơi đây Ngài đã ngộ Đạo Cao Đài và là chứng nhân đầu tiên của nền Tân Tôn giáo.

Chú thích:
(1) Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời tu. NXB Tp.HCM 1992, trang 234)

I/ - PHẦN ÐẠO
Tại đàn cơ Tết Tân Dậu (8/2/1921) tại Chùa Quan Âm (Phú Quốc) có vị Tiên Ông giáng "Chiêu tam niên trường chay". Ngài bạch : "Bạch Tiên Ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, song trường chay 3 năm lâu quá biết đệ tử có chịu nổi không ?" . Ngài đã ăn chay từ đó để thọ giáo.
Một buổi sáng đang ngồi trên võng, Ngài bỗng thấy trước mặt lộ ra một con mắt thiệt lớn, chói ngời như mặt trời.

Ngài sợ hãi nhắm mắt lại trong 30 giây, mở ra vẫn thấy và còn chói lọi hơn. Ngài bèn vái rằng "bạch Tiên Ông, đệ tử rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi. Như phải Tiên Ông dạy đệ tử thờ Thiên Nhãn thì xin cho biết tức thì" . Vái xong thì Thiên nhãn lu dần rồi mất. (1)

Sau khi tu được 3 năm, Tiên Ông giáng cơ ban đặc ân cho Ngài muốn tìm hiểu chi. Ngài bạch "Bạch Thầy nghe cảnh Bồng Lai xinh đẹp vô cùng, xin Thầy cho đệ tử thấy cảnh ấy" Vào cuối tháng gi6ng năm Giáp Tý (1924), Ngài ra biển hóng mát thì được thưởng ngoạn cảnh Bồng Lai trong 15 phút.

Năm 1924 đổi về Sài Gòn, Ngài liên lạc với Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm. Nhưng Ngài tu theo vô vi (2) nên không đi phổ độ được. Dù rằng đàn cơ đêm 14/4/1926 Đấng Chí Tôn định ban cho Ngài phẩm Giáo Tông. Ngài lập Chiếu Minh vô vi ở Cần Thơ rồi liễu đạo trên sông Cửu Long ngày 13/3/Nhâm Thân (1932) hưởng thọ 54 tuổi.

Sau đó ít lâu các đệ tử hầu đàn được Ngài cho các bài thi :
Từ ngày xa thế đến Tiên bang
Lo lắng nhơn gian bước lạc đàng
Đức rộng đạo dày là quí báu
Đặng lên Bồng cảnh chép biên hoàng
Rồi kinh rồi sám gặp chơn truyền
Chiêu giáng độ phàm rõ ý Tiên.
Lo lắng e khi quên đạo đức
Chí thành chí kỉnh rõ lòng nguyền.
Chú thích:
(2) Với chủ trương "ngô thân bất độ bất độ hà thân độ" : thân mình chưa độ được, lo độ ai.)

THỜ THIÊN NHÃN
(THEO TS.QP.NVC)

Tuy Ngài chịu làm đệ tử của Tiên Ông chớ chưa lập bàn thờ để thờ Tiên Ông, vì không biết phải thờ làm sao ? Một bữa kia Tiên Ông dạy Ngài phải tạo ra một cái dấu hiệu gì riêng để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập, Tiên Ông nói chữ Thập cũng được song đó là dấu hiệu riêng của một nền Đạo đã có rồi. Phải suy nghĩ mà tầm cho ra, có Tiên Ông giúp sức, Ngài xin hưỡn lại để có ngày giờ suy ngẫm. Mãn tuần Ngài tầm cũng chưa ra.

Một bữa sớm mai, lúc tám giờ, Ngài đương ngồi trên võng phía sau Dinh Quận, bỗng đâu Ngài thấy trước mặt cách xa độ hai thước tây, lộ ra một con mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời, Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, nửa phút đồng hồ Ngài mở mắt ra thì cũng còn thấy con mắt ấy mà lại càng chói hơn nữa.

Ngài bèn chấp tay vái rằng:
"Bạch Tiên Ông đệ tử rõ biết cái huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì". Vái xong con mắt lu lần lần rồi mất.

Như vậy mà Ngài cũng chưa thiệt tin, nên chưa tạo Thiên Nhãn mà thờ. Cách vài ngày sau Ngài cũng thấy y như lần trước nữa. Ngài cũng nguyện sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ thì con mắt tự nhiên biến mất.

Đức Cao Đài Tiên Ông xưng danh tại Quan Âm Tự.
Năm 1921, sau khi thấy Thiên Nhãn hiện 2 lần, Ngài cầu cơ hỏi cách thờ phượng thì Tiên Ông dạy vẽ con mắt theo như Ngài đã thấy mà thờ và xưng tên là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" và dạy Ngài phải kêu Tiên Ông bằng THẦY mà thôi. Từ đó Ngài chánh thức trở nên người đệ tử đầu tên của Đức Cao Đài Tiên Ông.

Chư nho hầu đàn thảy đều lấy làm lạ vì thuở nay chẳng hề thấy kinh sách nào nói đến danh Cao Đài Tiên Ông. Duy có mình Ngài xem ý tứ trong mấy bài thi của Đức Cao Đài cho thì Ngài đoán chắc rằng Thượng Đế giá lâm, Chúa tể càn khôn vũ trụ, Cha chung của nhân loại, mới dạy như thế mà thôi.

Cũng như các tôn giáo thuở xưa, trong Giáo pháp của Ngài có hai khoa :
(1) - Khoa công truyền tiệm giáo để độ đại chúng lập công bồi đức.
(2) - Khoa Tâm truyền đốn giáo để dắt dẫn người hữu căn muốn tìm đường siêu xuất.
(Nhưng vì qui giới rất gắt gao, nghiêm nhặt, nên ít được phổ biến).

NGOẠI GIÁO CÔNG TRUYỀN
Khoa Giáo pháp công truyền của Ngài có thể phân ra làm bốn phần cho dễ hiểu:

1/ - Phần LUẬN LÝ (Ethìque)
2/ - Phần CHẾ ĐỘ (Règime, statuts, Discipline)
3/ - Phần TRIẾT LÝ (Philosophie)
4/ - Phần SIÊU HÌNH hay (HUYỀN HỌC) (Métaphysique).
Như đã nói qua đoạn trên, Ngài không có biện luận bao nhiêu về các phần này, và quan tâm về thưc hành nhiều hơn : vì thế cacù tầng lớp trong xã hội, cho đến hạng nghèo nàn ít học cũng tu theo được. 1/- Về phần LUẬN LÝ :
Xưa nay bất cứ ở vào thời đại nào, thuộc về Tôn giáo nào, theo dân tộc, phép tắc định ra để khép người trong đường ngay lẽ chánh, (nhơn luân : lois morales) cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.

Phần LUẬN LÝ trong giáo pháp của Đức NGÔ MINH CHIÊU truyền bá, tựa hồ như có tánh cách chiết trung (éclectisme).

Ngài dạy:
a/ - Rèn lòng TỪ BI, BÁC ÁI làm bản tánh
b/ - Răn mình và hành động theo KINH CẢM ỨNG, là bộ giới luật duy nhứt (Code moral).
c/ - Lo tròn NHƠN ÐẠO theo tam cang ngũ thường.
Lòng TỪ BI, BÁC ÁI luôn luôn phải thực sự, cụ thể, tích cực, nhưng hành vi phải âm thầm kín đáo. Làm việc phước đức cho thường, song chẳng cho người thấy biết. Thay vì dùng lời chỉ bảo, Ngài hằng lấy gương lành mà dạy rõ : về mặt luân lý, chơn hạnh phúc gom ở trong việc tạo hạnh phúc cho người quanh mình.

Riêng ra Ngài dặn phải biết NHẪN NHỤC, HẠI MÌNH TRỌNG NGƯỜI, luôn luôn (Khuất kỷ tôn nhơn, bình tâm hạ khí).

Một đặc điểm khác là Ngài có dạy rằng : Đạo mở kỳ này là một mối Đạo chơn thường. Người hành trì phải giữ hai chữ ấy làm phương châm (guide).

CHƠN là : Lời nói CHƠN THẬT (vérité)
Việc làm CHƠN CHÁNH (Drotiture)
Ý tưởng CHƠN THÀNH (Sincérité)
THƯỜNG là : Phải hành trì THƯỜNG TRỰC không gián đoạn.
ĐỀU ĐẶN không lúc nhặt hồi thưa, phải NHỨT TÂM NHỨT TRÍ.
TỰ NHIÊN, UNG DUNG không dục tốc không giải đãi (Naturel - Régularité - Constance).

2/ - Về phần Chế Độ :
Giáo phẩm và hệ thống :
Mặc dầu lối tháng 9 DL năm 1920 (lúc còn tại Hà Tiên) Đức NGÔ MINH CHIÊU đã phụng lãnh thiên mạng mở Đạo kỳ ba độ rỗi nhân sanh, mặc dầu sau khi về Sài Gòn (năm 1924) Ngài chỉ huy giám định công việc xây dựng nền tảng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mặc dầu Ngài ban truyền một Giáo lý qui tắc phân minh, mặc dầu Ngài điều khiển cơ quan Vô vi Tâm Pháp có ấn chứng hiển nhiên, nhưng Ngài chẳng thọ nhận chức Giáo Tông, ân phong tại Tòa Thánh Tây Ninh (14 tháng 4 DL năm 1926). Chẳng những thế thôi, Ngài còn không nhận cho mấy vị học đạo trực tiếp với Ngài, gọi là "Thầy" nữa.

Ngài nói ở trần thế không người nào được làm thầy người nào hết. Ngài chỉ là người truyền giáo mà thôi. Mấy người học đạo, là học đạo với Đức THƯỢNG ĐẾ. Phép tu hành theo Ngài là phép "cư sĩ, tu tại gia". Không lập Tòa lập Thất, không tạo Chùa chiền, Đạo viện. Không tổ chức Giáo Hội, Tập Đoàn nơi Tu viện (Monachisme). Đạo của Ngài không có đặt ra Giáo phẩm (Sacerdoce). Tất cả tín đồ nhứt thể đều là người còn đương học Đạo, không phân giai cấp.

Khác nhau là cũ và mới : Tín đồ cũ có nhiệm vụ dẫn dìu người mới, chỉ kiểu tu hành cho tường tận, cho họ được hiểu biết như mình. Song tuyệt nhiên không bao giờ được dùng tiếng "DAÏY". Tín đồ mới có phận sự phải hành theo lời chỉ vẽ và xem người cũ như người thay mặt Giáo chủ trao bản đồ cho mình do theo mà hành đạo. Chính Ngài cũng không chịu ai tôn trọng biệt đãi mình.

Thái Chưởng Pháp
Hòa Thượng Như Nhãn
(1864-1939)
Hòa Thượng Như Nhãn, thế danh là Nguyễn Văn Tường, sanh năm 1864, con của ông Nguyễn Văn Bầu và bà Ðoàn Diệu Hoa, quê quán ở Ðức Hòa (Long An), đi tu từ năm 17 tuổi, qui y với Hòa Thượng Thích Trí Lượng (Minh Ðạt) trụ trì ở chùa Thiền Lâm Cổ Tự (xóm Chùa, tỉnh Tây Ninh) thọ Pháp danh là Thích Từ Phong.

Nguyên vào năm Mậu Tý (1888), tại vùng Phú Lâm Chợ Lớn, (đường Bà Kế, khu vực Chợ Gạo, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6), bà Hồ Thị Lộc có xây một ngôi chùa lớn, đặt tên là Chùa Giác Hải, bà giao cho ông Thủ Tọa Nguyễn Minh Sự coi sóc. Ông Sự mất năm 1908.

Sư Thích Từ Phong về đây kế nghiệp, trụ trì Chùa Giác Hải. Năm 1912, Ngài Thích Từ Phong giữ chức Yết Ma và năm 1924, Ngài được phong chức Hòa Thượng, nên các Phật tử tại vùng nầy thường gọi Ngài là Hòa Thượng Giác Hải. Trong lúc trụ trì ở chùa Giác Hải, Hòa Thượng Giác Hải có quyên góp tiền bạc trong bổn đạo để mua đất và lập một cảnh chùa tại vùng Gò Kén, Tây Ninh, lấy tên là Từ Lâm Tự (sau đổi lại là Thiền Lâm Tự). Chùa được xây dựng trên một khu đất gò rộng 4 mẫu, dựa quốc lộ Sài Gòn Tây Ninh, cách quốc lộ khoảng 200 mét và cách thị xã Tây Ninh chừng 5 cây số, phía trước cất chùa, phía sau làm nghĩa địa. Trong số bổn đạo đóng góp tiền mua đất và xây chùa Từ Lâm ở Gò Kén, ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đóng góp tiền bạc nhiều hơn cả. Chùa mới vừa xây dựng xong phần chánh, chưa trang trí, chưa làm đường lớn từ quốc lộ vào chùa. Lúc đó là vào năm 1925.

Vào giữa năm Bính Dần (1926), ông bà Nguyễn Ngọc Thơ được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ, nhập vào Ðạo Cao Ðài. Hai ông bà cũng muốn Ðức Chí Tôn thâu phục Hòa Thượng Như Nhãn, nên ông bà thuyết phục Hòa Thượng đến dự một đàn cơ cầu Ðức Chí Tôn tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Ðịnh. Ðức Chí Tôn giáng cơ thâu phục được Hòa Thượng Như Nhãn.

Giữa tháng 7 năm Bính Dần (1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ. Sau đó, do sự yêu cầu của ông bà Thơ, Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm (Gò Kén) cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất tổ chức Lễ Khai Ðạo.(Có lẽ trong thời gian xây dựng chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Hòa thượng Giác Hải lấy hiệu là Như Nhãn).

Ngày 29-7-Bính Dần (dl: 5-9-1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong là: Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thái.

Ngày 15-10-Bính Dần (dl: 11-11-1926), Ðại Lễ Khai Ðạo Cao Ðài được tổ chức long trọng tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh), có hằng vạn Tín đồ Cao Ðài dự lễ, số quan khách người đời đến dự rất đông.

Ðêm 14 rạng 15 tháng 10 âm-lịch, tổ chức đàn cơ trong Thánh Thất, Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trấn pháp sót một cửa, nên thừa dịp nầy, quỉ nhập vào đàn, một  quỉ nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, một quỉ khác nhập vào cô Vương Thanh Chi xưng là Lê Sơn Thánh Mẫu, nói năng lộn xộn, rồi nắm tay nhau nhảy múa, khiến cho nhiều người mới vào Ðạo Cao Ðài mất đức tin. Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin luôn. Mặc khác, số đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài bỏ Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời đi.

Ngày 19-11-Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng phạt làm cho đau nặng.

Ngày 01-12-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Chí Tôn tha thứ phái Thái và đừng truất bỏ phái Thái (phái Phật).

Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao Ðài.

Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa Thượng Như Nhãn và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung ương của Ðạo Cao Ðài.

Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl: 24-1-1939) hưởng thọ 75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước chùa Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò Kén (Tây Ninh)

Trên bia mộ có đề chữ Hán, dịch ra như sau đây: Ngài là Ðại Lão Hòa Thượng Thiền Tông Lâm Tế đời thứ 39. Ngày sanh: 15-3-Giáp Tý (1864). Ngày qui: 5-12-Mậu Dần (1939), thọ 75 tuổi. Tháp của Hòa Thượng Như Nhãn xây ở chính giữa, hai tháp hai bên là của hai vị - Hoà Thượng Minh Ðạt, thầy của Ngài Như Nhãn - Hòa Thượng Hồng Tằng, học trò của Ngài Như Nhãn.
Thầy có dạy riêng Hoà Thượng Như Nhãn
Chùa Giác Hải, Sài gòn.
Ngày 21-9-1926 (âl 15-8-Bính Dần)

THÍCH CA MÂU NI PHẬT viết
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
chuyển Phật giáo Nam phương

“Như Nhãn, con nghe Thầy: Khi giáng trần Chí Tôn Phật Tổ, Thầy duy đặng có bốn Môn đệ, chúng nó đều chối Thầy. Khi giáng lập Đạo Tiên, Thầy có một trò là Nguơn Thỉ. Khi lập Đạo Thánh thì đặng mười hai môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa. Còn nay, Thầy đã sắm sẵn Môn đệ cho con cũng đã nhiều, con đừng thối chí.

Thầy thường than rằng: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh, nên Thầy nôn nóng nhưng Thiên cơ chẳng nghịch đặng. Ma quỉ hằng phá Chánh mà giữ Tà, chư Tiên Phật trước chưa hề tránh khỏi. Còn cái địa vị cao trọng, nó làm cho nhơn tâm ganh gổ. Con phải lấy Phật tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt, luân hồi chưa dứt, thì tưởng đến Thầy mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy.

Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng Tạo hóa. Con cứ lo lập Luật, để công phổ độ cho chư Đạo hữu con hưởng chút ít.

…Như Nhãn, con nhớ lời tiên tri của Thầy, đọc Thánh Ngôn lại. Thăng.”

Thứ ba, 4-1-1927 (âl 1-12-Bính Dần).

Trung bạch về sự Giác Hải và Thánh Thất.

-“Thầy chẳng qua yêu mến đạo Thiền, quyết gom tóm

các con lại làm một nên giữ ThánhThất đến ngày nay, đặng qui tụ các em con đến cho đủ mặt. Như  Thiên Cơ phải  y  như lời xin của Phổ Hiền Bồ Tát thì chẳng ép lòng bỏ chết phái ấy. Thầy sẽ coi ngày Như Nhãn đòi Thánh Thất lại thế nào, rồi mới trả.”

Đức Lý dạy: Ngày 19-2-1927 (âl 18-1-Đinh Mão).
          “Chẳng vì Thánh Thất, Như Nhãn phản ngôn mà trễ phổ thông Thánh giáo. Cười…Đã hiểu đời còn mê muội, chẳng phân đặng chơn giả thế nào, thảm thay !

Có một điều đáng trách là một phái yêu dấu của Chí Tôn (phái Thái) dám cả gan nghịch Thiên mà phải đọa trầm luân muôn kiếp, xét đến công tu, khó ngăn  giọt  lụy. Chí Tôn đau đớn bấy nhiêu, Lão càng giận bấy nhiêu. Biết bao phen, Lão cầm viết toan bôi xóa cho rồi trọn phái oan nghiệt mà Chí Tôn nằn nằn xin Lão để cho Người gia công độ rỗi. Ngày nay, Lão nhứt định trả lại chùa nầy. Song, trước khi trả, phải cất Thánh Thất cho xong y như  lời  dạy. Chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi,  vì  là Thánh Địa,  vả  lại  phong  thổ  thuận cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo. Lão muốn nơi khác mà Chí Tôn không chịu”

Thượng Chưởng Pháp
Lão Sư Nguyễn Văn Tương
(1879-1926)
Ngài Nguyễn Văn Tương sanh năm Kỷ Mão (1879) tại làng Hữu Ðạo, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, con của ông Nguyễn Văn Tỵ và bà Cao Thị Huề.

Nhờ có học thức, Ngài được cử làm Hương Bộ trong làng, nên người ta gọi Ngài là ông Bộ Tương. Khoảng năm 30 tuổi, Ngài Nguyễn Văn Tương tu theo Ðạo Minh Sư, thọ giáo với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Ngài Nguyễn Văn Tương theo Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang về hành đạo nơi chùa Linh Quang Tự ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Gia Ðịnh. Ngài tu đến bậc Lão Sư. Ngài Nguyễn Văn Tương được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ trước Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Do đó, Ngài Tương cùng với đệ tử của Ngài là Nguyễn Văn Kinh xin với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang lập đàn cơ tại Linh Quang Tự - Gò Vấp để Ðức Chí Tôn độ Thái Lão Sư, và được kết quả tốt đẹp.

Trong Phổ Cáo Chúng Sanh có ghi một đoạn như sau "Có hai Ðạo hữu: Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị Lão thành pháp danh là Ðạo Quang nơi chùa Minh Ðường (Hạnh Thông Tây).

Nhằm ngày 21 tháng 8 năm Bính Dần, Đức Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn dịp có để lời rằng: “Tương, Kinh, hai con phải lạy Ðạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi là Anh mà thôi, còn Thầy duy có một Thầy”.

Ngày 24-7-Bính Dần (dl: 31-8-1926), Ðức Chí Tôn ân phong cho Ngài Nguyễn Văn Tương là: Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ- Chưởng Pháp phái Thượng.

Ngài Nguyễn Văn Tương có người vợ là Bà Võ Thị Tước (1880-1947) và con gái thứ hai là Nguyễn Thị Quyền (1900-1987) cũng đều tùng giáo Cao Ðài. Trong kỳ phong Thánh Nữ phái lần đầu tiên vào ngày 14-1-Ðinh

Mão (dl:15-2-1927)  Ðức Chí Tôn ân phong:
- Bà Võ Thị Tước: Lễ Sanh.
- Cô Nguyễn Thị Quyền: Giáo Hữu.
                         (Trích  Ðạo Sử Q.2 của Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, tr.218)

Ngày 5-11-Bính Dần (dl: 11-12-1926), Ngài Chưởng  Pháp Nguyễn Văn Tương thọ bệnh và đăng Tiên, chỉ hưởng được 48 tuổi tại tư gia ở làng Hữu Ðạo. Các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài đến làm lễ tang cho Ngài rất long trọng. Lúc đó, mới khai Đạo được khoảng 20 ngày, còn tạm tại Chùa Gò Kén, nên thi hài được an táng nơi quê nhà là làng Hữu Ðạo (gần Chợ Thuộc Nhiêu) quận Cai Lậy, Mỹ Tho. Sau những năm chiến tranh, ngôi mộ của Ngài hoàn toàn bị hư hại. Năm 1997, nhân dịp Thanh Minh, một vài vị Ðạo tâm tìm tòi biết được vị trí ngôi mộ của Ngài, nên kết hợp với người cháu nội của Ngài là ông Nguyễn Văn Bá, xây dựng lại trên nền mộ cũ một cái tháp nhỏ cao 3 thước 6 tấc.

 (Chúng ta lưu ý trong các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài thuở đầu tiên có 2 vị tên TƯƠNG: - một là Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương, - hai là Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương, sau được thăng phẩm Quyền Thượng Ðầu Sư, và sau đó tách khỏi Hội Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh để lập ra Ban Chỉnh Ðạo ở Bến Tre và trở thành Giáo Tông chi phái Bến Tre. Ngay sau khi Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên, ngày 7-11-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy hai Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt:
 “Thầy, các con. Trung, Lịch! Hai con phải dụng Ðại lễ mà an táng cho Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó đợi nơi Ðông Ðại Bộ Châu mà chờ Tòa Tam Giáo phát lạc. Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến. Các con nghe à!

Vậy trong hịch văn Sớ tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.

Lịch bạch Thầy về sự Ðại lễ . . . . . . .
- Không con! .Ðại lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe ! . ." (trích trong Ðạo Sử II tr. 86)

            Ngay Tết Ðinh Mão, ngày 1-1-Ðinh Mão (dl 1-2-1927), Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương giáng cơ:
Thượng Chưởng Pháp TƯƠNG
"Hỷ chư Ðạo hữu, chư Ðạo muội.
Mừng ... Mừng ... Mừng ... Vui ... Vui ... Vui ...

Ðại phước cho cả nhơn sanh, đại hạnh cho Ðịa cầu 68 nầy! Em còn phải công quả phổ độ mới vào đặng Tam thập lục Thiên, nhờ Ðại Từ Phụ cứu độ Em, khuyên nhủ cùng chư Huynh khá coi Thiên vị mình là trọng, vì là của quí báu vô giá, còn sụt sè đường Ðạo, xin nhớ lấy danh Em cự chống cùng tà ma quỉ mị cám dỗ. Tương đây, công cán chẳng chi mà còn đặng địa vị nầy, huống lựa là mấy anh độ rỗi toàn cả Cửu nhị Nguyên nhơn thì phẩm cựu sẽ đặng trổi thêm thế nào ! Xét lấy đủ vui lòng hành đạo." (TNHT. I. tr 92).

Ngọc Chưởng Pháp
Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang
(1870-1946)
Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl: 31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ. Năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, tu theo đạo Minh Sư. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. Thái Lão Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài. Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia tu hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân; rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc: Ðảnh Hàng, lấy đạo hiệu Trần Vận Quang. Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Năm nầy Ngài được 45 tuổi.

Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế ở Việt Nam..Tổ Sư của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư bên Tàu là Thái Lão Sư Trần Ðạo Khánh dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm "Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ" của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)

Trong lúc đó thì Lão Sư Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Văn Kinh đã được Ðức Chí Tôn độ theo Ðạo Cao Ðài, nên hai Ngài xin lập đàn cơ tại Linh Quang Tự để Ðức Chí Tôn độ Ngài Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang luôn thể và Ngài Trần Ðạo Quang được Ðức Chí Tôn độ nên bằng lòng qui hiệp vào Ðạo Cao Ðài.

Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl: 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của Bà NÐS Hương Hiếu Q.2 trang 172 và 192)

Phải chăng vì Ngài Thượng Chưởng Pháp Tương qui Thiên sớm, nên phải phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp để dâng Luật lên cho có đủ số chăng ? Rồi sau đó mới ân phong Ngọc Chưởng Pháp.  Khi Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị. Nhưng Ngài vẫn xuất ra lập Chi phái. Ấy là từ trong cơ Ðạo phân chia ra mới gọi là Chi phái Cao-Đài.

Năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.

Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Cho nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh Thất Trung Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.

Ngày 17-2-Bính Tuất (dl: 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang qui thiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi. Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.
*
*          *
Tiểu sử bốn vị Nam Đầu Sư đầu tiên.
Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị sau đây vào phẩm Đầu Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài, đặc biệt lấy ba chữ Tam Bửu của trời ban cho Cửu Trùng Đài. Ngoài ra thì tất cả đều lấy chữ tịch đạo là “Thanh”

* Đầu Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.
* Đầu Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau được thăng Quyền Giáo Tông.
* Đầu Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.

Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong ngày 13-10-Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), Đức Lý Giáo Tông cất chức Thái Đầu Sư của Ngài Thiện Minh.
            Cũng trong ngày nầy: 12-12-Bính Dần, Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh. Ngài Thái Nương Tinh cũng không hành đạo.

Ngọc Chưởng Pháp
Thái Lão Sư Trần Văn Thụ
( 1857-1927 )
I - PHẦN ĐỜI :
Ông Trần Văn Thụ sinh năm Bính Tý (1857) tại làng Đức Hưng, tổng Dương Hòa Hạ , tỉnh Gia Định .

Thuở nhỏ, Ngài theo Nho học, lúc lơn lên đi dạy học. Năm Đinh Mùi (1907), Ngài đến Vĩnh Nguyện Tự (Cần Giuộc) thọ giáo với Thái Lão Sư Lê Đạo Long, thế danh Lê Văn Tiểng (1843-1913) để học Đạo Minh Sư. Ông được Sư Phụ Lê Đạo Long thu nhận và ban cho pháp danh là Trần Đạo Minh. Ông là đệ tử lớn nhứt, tu lên Thái Lão Sư.

II - PHẦN ÐẠO
Đến nămBính Dần (1926), sau khi Thái Lão Sư Lý Đạo Long liễu đạo 12 năm, Thái Lão Sư giáng cơ cho biết là Ngài đã đắc quả như ý Đạo Thoàn chơn nhơn và khuyên các đệ tử tùng giáo theo Đức Cao Đài.

Ngài Trần Văn Thụ tức Đạo Minh được Đức Chí Tôn giáng cơ ấn phong Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Đạo Thiền Sư đại Đức Đại Hòa đạo sĩ, Chưởng Pháp phái Ngọc tại Vĩnh Nguyên Tự ngày 10 -9 Bính Dần.

Vào ngày lễ khai Đạo tại Gò Kén, Ngài về hành đạo tại đó cùng các vị khác soạn thảo Tân Luật.

Đến năm Đinh Mão (1927), Ngài lâm bịnh trở về nhà an dưỡng tại làng Trường Bình, quân Cần Giuộc rồi qui Tiên ngày 14 tháng 05 Đinh Mão (13-6-1927) hưởng thọ 71 tuổi.

Trong sách Đại Đạo chánh nghĩa (1936) viết là:

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Minh
Thiết quang chơn nhơn, Ngọc Chiếu.
Với câu liễn hai bên là:
CHƯỞNG khai Nho phái Tam Kỳ Đạo,
PHÁP hóa Thiền Tông Tứ giáo truyền.

Đầu Sư Thái Thơ Thanh
Nguyễn Ngọc Thơ
( 1873 - 1950 )
I - PHẦN ĐỜI
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh quí danh là Nguyễn Ngọc Thơ sanh năm 1873 tại Sài gòn.

Ngài thuộc dòng giỏi cự phú, cựu Tri Huyện Tân Định.Thuở thiếu thời học Nho văn, sau theo Tân học và ái mộ Thiền Lâm Phật Giáo .

II - PHẦN ÐẠO
Năm 1926, khi khai Đạo, Đấng Chí Tôn giáng cơ nhận Ngài làm môn đệ, về sau mới thọ Thiên phong Thái Thơ Thanh Thái Chánh Phối Sư và được vinh thăng Quyền Đầu Sư.

Ngài là người chịu tốn kém tài lực nhiều nhứt cho nền Đạo lúc phôi thai, từ việc di chuyển đến việc xây cất Thánh Thất. Khi mượn chùa Từ Lâm Tự, Ngài phải lo sửa sang sơn phết mọi mặt. Năm 1926 Hòa Thượng Như Nhãn đòi chùa Đức Chí Tôn dạy Ngài hiệp với Chư Chức Sắc mua đất tại làng Long Thành. Đó là cơ sở đầu tiên để xây dựng Tòa Thánh sau này. Ngài và bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh xuất tiền mua đất và dời Quả Càn Khôn về Chùa mới. Sau Ngài lại mua một sở rừng rồi khai phá đặt danh là Cực Lạc và đặt nhiều tên thuần túy tôn giáo như: Quan Âm Cát, Long Nữ Điện (Nghĩa Địa dùng an táng các Chức Sắc và một số Sĩ Quan)

Ngài lại cúng âm đức 10.000 tượng Ngũ chi cỡ lớn cho Bổn Đạo phụng thờ. Nhờ đó khi công viên quả mãn trở lại ngôi .

Ngài liễu Đạo ngày 21-7-Canh Dần (1950) tại Sài Gòn thọ 77 tuổi. Liên đài đã được dời về Tòa Thánh an táng bên phía Đông Lang.

Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt
LÊ VĂN LỊCH
( 1889 - 1947 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt tên thật là Lê Văn Lịch, sanh năm 1889 tại Cần Giuộc, tu đến bậc Thái Lão Sư. Cha ông là cụ Lê Văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bậc Thái lão Sư, pháp danh là Lê Đạo Long, là người sáng lập chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc.
Cụ Tiễng đắc đạo, chứng quả Như Ý Đạo Thoàn chơn Nhơn. Khi cụ viên tịch có lời di chúc rằng "Chùa Vĩnh Nghiêm Tự sau này có Thập Nhị Khai Thiên đến mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ".

I/ - PHẦN ÐẠO
Đầu năm 1926, các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc được lịnh Chí Tôn phái đến Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu cơ. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng cơ dạy ông Lịch hiệp với các ông Cư, Tắc lập đạo mới. Ông còn chưa quyết thì chủ quận Cần Giuộc lúc ấy là ông Nguyễn Ngọc Tương đã theo Đạo khuyên ông Lịch nên thuận tôn lòng.
Vào tháng 3/1926 Đức Chí Tôn giáng cơ tại Vĩnh Nguyên Tự phong ông Lịch phẩm Đầu Sư, Thiên ân Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.

Đầu Sư phái Ngọc hiệp quần Nho
Tam giáo qui nguyên dẫn ngã đồ …
Lúc đó ông Lịch còn rất trẻ nên nhiều tiếng thị phi, nên Đức Chí Tôn giải rõ là ông Lịch nhờ Đức Tiểng có ghi trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển nhứt.

Ngày 12-3-bính dần (23/4/1925), Ngài lập thệ trước Ngũ Lôi một lượt với Đầu Sư Thượng Trung Nhựt quyết tâm hành đạo. Ngài được lịnh dạy soạn các bản Kinh từ Minh Sư rút trong Tam Thánh Đại Động.

Về sau, Ngài đi mở các Tịnh thất ở Lục tỉnh, không theo Tân luật qui định nên bị Hội Thánh triệu hồi. Sau đó, Ngài trở về Vĩnh Nguyên Tự rồi hiệp tác với các phái Tiên Thiên, Liên Hòa Tổng Hội… Năm 1943, Pháp nghi ngờ hoạt động của ông nên bắt đày ra Côn đảo. Hai năm sau, Ngài được trả tự do: năm 1947, Ngài viên tịch tại Cần Giuộc và táng trước chùa Vĩnh Nguyên Tự.
*
*          *

Đầu Sư Thái Minh Tinh
NGUYỄN VĂN MINH
(1880-1937)
I/ - PHẦN ĐỜI
Đầu Sư Thái Minh Tinh tên thật là Nguyễn Văn Minh (1880-1937) người Tây Ninh, pháp danh là Thiện Minh. Ngài tu tới chức Hòa Thượng vốn là đồ đệ của Hòa Thượng Tổ Sư Như Nhãn.
Vào ngày khai đạo (13-10-Bính Dần) Đức Chí Tôn ân phong Ngài là Đầu Sư Thái Minh Tinh.

Sau khi Hòa Thượng Giác Hải đòi chùa lại thì Ngài ở lại chùa Gò Kén (quả giống trái hồng đào). Thế nên, Đức Chí Tôn mới phong cho ông Cả Nương làm Thái Đầu Sư.

I/ - PHẦN ÐẠO
Xin cáo lỗi vì lý do kỷ thuật đánh máy và trình bày, nên chúng tôi chưa nhận được phần này. Sẽ bổ túc sau.

Nữ Đầu Sư Hương Thanh
LÂM NGỌC THANH
( 1874 - 1937 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh quí danh là Lâm Ngọc Thanh sanh năm 1874 tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Bà thuộc dòng dõi điền chủ giàu có ruộng đất nhiều nhưng giàu lòng mộ Đạo, thọ giáo với Hòa Thượng Giác Hải Từ Lâm Tự, Gò Kén Tây Ninh. Vốn bẩm sinh ưa chuộng huyền bí Thần Tiên. Sau khi theo Đạo bà lập một ngôi chùa Phật tại Vũng Liêm, sau sửa sang thành Thánh Thất.

I/ - PHẦN ÐẠO
Bà nhập môn theo Đạo Cao Đài ngày 5-6-Bính Dần (15/7/1926). Cũng ngày này Đức Chí Tôn giáng cơ gọi ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà quì trước Thiên bàn làm phép hôn phối theo Đạo đầu tiên.
Vào ngày 14-10-Bính Dần (18/11/1926) do Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm phò loan, Đức Chí Tôn giáng cơ ban phẩm Giáo Sư Nữ phái đầu tiên cho bà. Đến ngày 14 tháng 1 năm Đinh Mão (15/2/1927) bà được thăng Phối Sư, và đến ngày 9/3 Kỷ Tỵ thì thăng phẩm Chánh Phối Sư thọ phong nơi Đức Lý Giáo Tông. Mãi đến ngày 25-4-Đinh Sửu (3/6/1937) bà mới được Đức Chí Tôn ban phẩm Đầu Sư và được tạo hình bên lầu chuông.

Công nghiệp của bà đối với Đạo trong lúc khai nguyên thì ít ai sánh kịp. Bà chịu khó đi khai đàn và đọc Thánh Ngôn cho các tín hữu mới nghe chẳng luận sang hèn. Bà lại mượn chùa Từ Lâm (Gò Kén) để khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, được ba tháng thì Hòa Thượng Giác Hải đòi chùa lại. Bà và ông Huyện Thơ phải xuất tiền cho Hội Thánh mượn mua đất của kiểm lâm người Pháp tại Long Thành (vùng đất Tòa Thánh hiện nay). Vì là buổi ban sơ nên Chánh quyền Pháp nghi kỵ, đóng cửa các Thánh Thất ở Hậu Giang. Bà và Ngài Thượng Đầu Sư Lê Văn Trung phải bảo lãnh với Chánh phủ Pháp cam kết Đạo Cao Đài chỉ hoạt động thuần về Tôn giáo không làm chính trị. Sau đó, bà phải trấn an chư Đạo hữu và khuyên tu hành chín chắn.

Dù vậy, Chánh phủ Pháp vẫn cho công an theo dõi làm khó dễ Đức Cao Thượng Phẩm khiến cho toàn Đạo sợ sệt không dám tụ tập đông. Chỉ có một ít người thật tâm đạo mới đến cúng kiến mà thôi. Do vậy, việc đóng góp cũng thất thường, nên tài chánh eo hẹp. Tòa Thánh tiên khởi chỉ lợp bằng tranh đốn cây rừng làm cột, cắt cây cổ rùa làm lạt, tuy vậy vẫn chịu đựng được hơn 10 năm.

Sau Đức Phạm Hộ Pháp được Đức Lý họa sẵn họa đồ kiến trúc mới của Tòa Thánh, Đức Ngài xuống Vũng Liêm (Vĩnh Long) thương lượng với bà để xây Đền Thánh bằng xi măng cốt sắt tạo vững bền về sau. Bà thọ ý và hợp sức cho đúc nền xây Tòa Thánh ngày 01-11-Bính Tý (1936) và mãi đến năm 1955 mới làm lễ Khánh thành.

Bà Nữ Đầu Sư qui vị ngày 8-4-Đinh Sửu (16/5/1937) hưởng thọ 63 tuổi, an táng tại quê nhà (Vũng Liêm). Sau Hội Thánh thỉnh cốt về xây tháp bên Tây lang, hậu điện Tòa Thánh.

Nữ Đầu Sư Hương Hiếu
NGUYỄN THỊ HIẾU
( 1886 - 1971 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu quí danh là Nguyễn Thị Hiếu sanh năm 1886 tại Đakao Sài gòn, bà còn có tên là Hương. Thân sinh là ông Nguyễn Văn Niệm và thân mẫu là bà Trần Thị Huệ.
Khi lên 7 tuổi, thân mẫu bà cho bà vào học trường Nhà Trắng (Sài Gòn). Năm 17 tuổi thì học nữ công, rồi sánh duyên với ông Cao Quỳnh Cư (tức Cao Thượng Phẩm) năm 21 tuổi. Hai năm sau bà sanh hạ 1 trai tên là Cao Quỳnh An : du học và mất tại Pháp.

I/ - PHẦN ÐẠO
Năm 1925 Đức Chí Tôn khai Đạo, buổi đầu chưa có Thánh Thất nên dùng nhà bà làm nơi thờ phượng. Khi cầu cơ bà giữ phần ghi chép Thánh giáo và Đức Cao Thượng Phẩm chấm câu (1925-1926).
Đến tháng 3 năm Bính Dần, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy bà may Thiên phục Giáo Tông cho ông Ngô Văn Chiêu, Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và quí chức sắc Hiệp Thiên Đài.

Đến 14/1/Đinh Mão (15/2/1927) bà thọ Thiên ân Giáo Sư Nữ Phái.

Khi dời Thánh Thất về làng Long Thành, bà lo việc trù phòng. Bà đã ghi lại trong "ĐẠI ÐẠO XÂY BÀN" như sau :

"Tôi nhớ lại mỗi buổi sáng, tôi đi chợ Tây Ninh, với chiếc xe ngựa đặng mua đồ ăn, đường xá vắng bóng người, hai vệ đường cây che rậm rạp, heo rừng và nai lửng thửng kiếm ăn. Một hôm, tôi đến Trảng Tròn thấy 1 con ngựa bị cọp ăn mất nửa con, nhưng vì quá lo cho Đạo mà bớt sự sợ hiểm nghèo".
Năm Canh Ngũ (1930) bà bắt thăm đi hành Đạo tỉnh Sa Đéc kiêm luôn tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đến năm 1934 bà lãnh dạy Giáo nhi, năm sau thăng phẩm Phối Sư. Năm 1941 Pháp chiếm Tòa Thánh bà về Thảo Xá Hiền Cung và năm sau xuống Sài Gòn hiệp tác với hãng tàu Nitinan để lo về mặt Đạo.

Năm 1946 nền Đạo phục hưng, bà lãnh chưởng quản Ba viện : Lại viện, Lễ viện, Hòa Viện Nữ phái ngày 21-9-Bính Tuất (15/10/1946). Đến ngày 16-11-Canh Dần (22-12-1950) bà được thăng phẩm Chánh Phối sư, rồi thăng lên Đầu sư do Thánh lệnh số 01/TL ngày 24-10-Mậu Thân (13/12/1968) và qui vị lúc 14g ngày 11-5-Tân Hợi (3-6-1971) tại Nữ Đầu Sư Đường.

Bà có lưu lại bài thi để thài dâng lễ bà :
THI
Tu hành gắng chí lập dày công
Đến buổi chung qui hưởng phước hồng
Cửa Đạo gáy go đường khổ hạnh,
Đường Tiên nhàn rỗi bước thong dong.
Lợi danh ví muốn cho đầy đủ,
Tội lỗi càng thêm nỗi chất chồng.
Cuộc thế chẳng qua trò mộng ảo,
Ngày về nhắm mắt nắm tay không.
( Xem thêm I Nữ Đầu Sư Hương Hiếu)

Nữ Đầu Sư Hương Lự
HỒ THỊ LỰ
( 1878 - 1972 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Bà Đầu Sư Hương Lự tên thật là Hồ Thị Lự, sanh ngày 26-6-Mậu Dần (1878) tại Ích Thạnh, tổng Long Vĩnh Hạ (Gia Định), chồng là Cao Hoài Ân, thẩm phán đầu tiên miền Nam. Bà có 3 con : 2 trai và 1 gái.

I/ - PHẦN ÐẠO
Bà thọ phong Giáo sư tại Kiêm Biên ngày 10-9-1927 và được thăng Phối sư ngày 10-11-1935.
Năm 1939 bà về Tòa Thánh làm việc nơi Lương Viện.
Năm 1930 Bà quản lý Sở may và tiếp tân nơi nhà khách.
Năm 1932 bà quản lý Lương Viện, Trù Phòng và thay mặt cho bà Nữ Chánh Phối Sư (lúc đó là bà Hương Thanh) tại Tòa Thánh, rồi đi hành đạo tại Long Xuyên.
Năm 1936 bà xin nghỉ dưỡng bịnh rồi trở lại phục vụ tại nhà may Linh Đức. Pháp chiếm Tòa Thánh (1940) lấy nhà may Linh Đức làm trường học, nên bà dọn nhà may về tiệm Minh Đức một thời gian rồi bị buộc phải giản tán.

Cuối năm Canh Thìn (1940) bà về dưỡng bịnh ở Sài Gòn, đến tháng 4 Ất Dậu (1945) mới trở về Tòa Thánh.

Bà có 3 người con: 2 nam, 1 nữ đều tu theo Đạo Cao Đài. Trưởng nam là Cao Đức Trọng, thọ phong Tiếp Đạo, thứ nữ là Giáo sư Hương Cường và quý tử là Cao Hoài Sang thọ phong Thượng Sanh.

Cả nhà đều nêu gương đạo hạnh làm vẻ vang tổ tiên. Bà đã từng nghiêm chỉnh phê bình ông Nguyễn Phan Long mặc đồ thường không được ngồi ghế chủ tọa Hội Thánh, buộc ông Long phải rời khỏi Đền Thánh. Trong Đạo đều kính phục tánh cương trực cố hữu của bà.

Tuổi già sức yếu, bà qui thiên vào ngày 21-11-Nhâm Tý (1972), hưởng thọ 95 tuổi, để lại niềm thương tiếc cho toàn Đạo.

Phối Thánh Màng
PHẠM VĂN MÀNG
( 1888 - 1933 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Phạm Văn Màng sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Thanh Phước, quận Gò Dầu Hạ (nay là Hiếu Thiện) tỉnh Tây Ninh.
Ngài là con trai thứ 2 của ông Phạm Văn Nhơn và bà Trần thị Tơ, thuộc gia đình nho phong.

Thuở nhỏ Ngài theo học chữ Nho trong 4 năm, sau lại theo học Quốc ngữ. Năm 18 tuổi, song thân định bề gia thất với bà Trịnh Thị Bền, người cùng làng, hạ sanh được 7 người con, nhưng chỉ còn 1 trai và 3 gái.

Nhờ hiền lương chân thật, Ngài được cử làm Phó Hương Quản xã Thanh Phước.

I/ - PHẦN ÐẠO
Ngài nhập môn cầu Đạo ngày 21-12-Bính Dần (24/1/1926) tại chùa Gò Kén (Thánh Thất nguyên thủy của Cao Đài Giáo). Từ đó Ngài từ chức đời để hành đạo.
Khi dời Thánh Tượng về làng Long Thành, Ngài được Đức Cao Thượng Phẩm giao việc công quả tìm xe bò và lâm cụ dùng trong việc phá rừng cất Tòa Thánh tạm. Sau vâng lịnh Ngài Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Ngài mộ công quả đứng ra khai phóng một con đường thuộc Sở đất 50 mẫu (gần Nghĩa địa Thái Bình).

Năm 1928, Đức Cao Thượng Phẩm bị cơn khảo dượt, Ngài hợp với Lễ Sanh Trịnh Phong Cương phò tá Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung và tu sửa nơi này. Năm 1929 Đức Cao Thượng Phẩm qui Tiên, Ngài buồn lòng trở về quê cũ nhận chức Phó Trị Sự (1929-1930).

Đầu năm Canh Ngọ (1930) Đức Phạm Hộ Pháp lập Phạm Môn, Ngài xin được từ chức Phó Trị Sự về Tòa Thánh làm công quả. Ngày 16-1-Canh Ngọ , Ngài hiến thân trọn đời vào Phạm Môn. Sau được Đức Phạm Hộ Pháp giao nhiệm vụ cai sở Trường Hòa, coi sóc khoảng 50 công quả Tần Nhơn (Khmer). Trong thời gian này, Ngài bị một số người ganh hiềm ghét ngõ đứng đơn tố cáo 36 điều lên Đức Hộ Pháp, Đức Phạm Hộ Pháp hiểu nỗi oan khiêng của Ngài nên không những không bắt tội mà còn được khuyên nhủ khích lệ.

Ngày 3-1-Nhâm Thân (1932) Đức Phạm Hộ-Pháp điểm đạo và Hồng thệ cho 72 vị Phạm môn đầu tiên lại Sở Trường Hòa. Ngài và vợ con đều được điểm Đạo trong dịp này.

Vì quá lo công quả, Ngài ngã bệnh nặng thuộc chứng ban đen đã nhập lý, nên vào ngày 25-9-Quí dậu (1933). Vị Thần Võ Văn Thoàn bạch lên Đức Hộ Pháp rằng : "Đắc lệnh Trần Văn Xương (Thần Hoàng Long Thành) chư Địa Thần lo nghinh tiếp Màng".

Đúng 24 giờ ngày 30-9-Quí Dậu (1933) Ngài thoát xác tại Sở Quản Nghệ, hưởng dương 46 tuổi.

Đức Phạm Hộ Pháp đứng chủ sự đám tang và hành pháp độ thăng cho Ngài. Đức ngài có thuyết minh cho toàn chư tín hữu dự đám tang biết rằng : "Phạm Văn Màng đã đắc vị".

13 ngày sau (13-10-Quý Dậu), một đàn cơ nơi Phạm Nghiệp do Đức Hộ Pháp và Ngài Bảo Văn Pháp Quân nâng loan. Vị Thần Võ Văn Thoàn bạch rằng "Phạm Văn Màng đã đắc Thánh và xin tái kiếp hành Đạo". Nhưng tiếc thay Đức Phạm Hộ Pháp không thuận.

Sau khi từ Mã Đảo hồi loan (1946), Đức Hộ Pháp có gọi Ngài Khai Đạo hỏi về vệc nhị vị Phạm Văn Màng và Bùi Aùi Thoại đắc vị Phối Thánh. Tuy nhiên Đức Ngài vẫn chưa tin và thiết lập một đàn cơ để hỏi rõ danh Phối Thánh của nhị vị, được thiêng liêng cho biết y như vậy.

Vào ngày 14-11-Mậu Tý (1948) Đức Hộ Pháp ký thánh lịnh cho Hội thánh cử hành lễ vía nhị vị công nghiệp từ buổi ban sơ khai Đạo được Ngọc Hư Cung nhìn nhận và quyền Chí Tôn ân tứ.

Phối Thánh Thoại
BÙI ÁI THOẠI
( 1913 - 1946 )
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Phối Thánh Bùi Aùi Thoại sanh năm 1913 tại làng Hậu Thành, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, trong một gia đình nho phong.
Cha mẹ Ngài qua đời sớm, nên phải bơ vơ trôi nổi nhiều nơi, tâm tư thường hướng về đường Đạo Đức. Năm 21 tuổi Ngài lập gia đình được một người con gái nhưng sớm qua đời theo mẹ.

I/ - PHẦN ÐẠO
Vào ngày 7-10-Đinh Mão Ngài vào làm công quả nơi Sở Lương Điền Công Nghệ thuộc tộc Đạo Cái Bè. Đến năm 1935, Ngài được lệnh về Tòa Thánh vào Sở Phước Thiện ở Bò Cạp làm công quả, năm 1936, Hội Thánh giao trách nhiệm Tá Lý Đấp Vẽ lo tạo tác Báo Ân Từ để di quả Càn Khôn vào thờ tạm và tạo dựng Đền Thánh.
Năm 1941, vì Pháp buộc đình chỉ việc kiến tạo Tòa Thánh (1939), Ngài được lịnh Đức Hộ Pháp hợp tác với ông Chí Thiện Lê Văn Gấm lập lò chén (Giang Tân).

Năm 1945, Pháp bị Nhật đảo chánh, công tác kiến thiết Tổ đình được tiếp tục, Ngài trở về lãnh nhiệm vụ Tá Lý như trước.

Nhờ thiên ân bố đức, được tinh thần minh mẫn, khối óc sáng suốt giúp bàn tay khéo léo của Ngài đấp nên hình cốt các Đấng Giáo Chủ Phật, Thánh, Tiên, Hiền ngoài cũng như trong Tòa Chánh.

Ngoài ra, Ngài còn kiến trúc hai pho tượng ông Thiện, ông Aùc, Đức Quyền Giáo Tông, Bà Nữ Đầu Sư, tượng Đức Cao Thượng Phẩm, các sự tích Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư Tiều, Cạnh, Mục quanh bao liên đài. Trên nóc Hiệp Thiên Đài có tượng Đức Di Lặc, nóc Nghinh phong đài có Long Mã đứng trên Quả Địa Cầu, nóc Bát Quái Đài có tượng ba vị Cổ Phật.

Vì lòng thệ nguyện, Ngài chí tâm gắng sức tạo dựng Tổ Đình nên sức lực ngày một suy tàn, yếu dần rồi qui hồi cựu vị ngày 29-01-Bính Tuất (1946) hưởng dương 33 tuổi. Với công viên quả mãn vào năm Đinh Hợi (1947) bà Bát Nương giáng cơ cho biết Tá Lý Bùi Ái Thoại đã đắc đạo và liệt vào hàng Phối Thánh.
CHUNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét