
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt)
Tứ Thời
Nhực Tụng Dẫn Giải
NXB Minh Tâm và Phát Hành 1964
Lời nhà xuất bản.
Ðể đáp lại sự ủng hộ nồng nhiệt của quý độc giả bốn phương, nên chúng tôi
luôn luôn
sưu tầm những tài liệu quí báu của những Bậc Tiền Bối, mà từ lâu dường như bị bỏ quên, hoặc thất lạc hầu cống hiến quý vị.
sưu tầm những tài liệu quí báu của những Bậc Tiền Bối, mà từ lâu dường như bị bỏ quên, hoặc thất lạc hầu cống hiến quý vị.
Nhận thấy Kinh Sách trong nền Ðại Ðạo và nhất là Kinh Tứ Thời Nhựt Tụng
dùng toàn Hán Văn, nên chúng tôi không ngại khổ nhọc sưu tầm tài liệu để làm
thành quyển sách nhỏ này, mong sẽ được giúp ích phần nào ý nghĩa từng câu kinh, đối với những vị muốn
tìm hiểu.
Bởi thế, quyển sách này chúng tôi không giữ bản quyền mà chỉ mong sau này,
hiến nguyên tài liệu vào tủ sách Hội Thánh và chắc chắn đến khi đó sẽ được chấn
chỉnh hoàn mỹ hơn.
Chúng tôi thành thật tri ân những vị đã giúp chúng
tôi tài liệu, và mong sẽ được chỉ bảo thêm những gì còn khuyết điểm.
Kính
đề,
Nhà
xuất bản MINH TÂM
TỨ THỜI
NHỰT TỤNG
DẪN GIẢI
***
NGỌC H0ÀNG THƯỢNG ÐẾ
1) Ðại La Thiên Ðế, Thái Cực Thánh Hoàng:
NGHĨA: Vua Trời trên cõi Ðại la,
Vốn ngôi Thái cực ngự tòa Tiên Thiên.
GIẢI: Vì Thượng Ðế đức cao rộng lớn minh
mông như giềng lưới lớn, bao trùm cả võ trụ, là một đấng Thánh Hoàng trước ngôi Thái Cực
trong khi Trời Ðất chưa chia đến khi
Trời Ðất an ngôi rồi có nhơn loại, thì vị Thiên Ðế hóa nuôi những kẻ chúng sanh,
Ngài lại phú cho mỗi người đều có tánh hư linh bất muội là: Nhơn, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín.
2) Hóa dục quần sanh, Thống ngự vạn vật:
NGHĨA: Sanh thành người vật vô biên,
Thống trị muôn loài mọi việc cầm tay.
GIẢI: Tóm trị cả muôn vật, hóa nuôi những kẻ chúng
sanh.
3) Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết, Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh:
NGHĨA: Cửa Huỳnh Kim chạm vàng lộng lẫy,
Thành Bạch Ngọc cẩn ngọc nguy nga.
GIẢI: Trên ngôi Thiên Cung có cửa Huỳnh Kim Khuyết
sơn phết những vàng rồng, cao lớn mù mù diệu vợi. Thành Thánh Hoàng cẩn những
ngọc trắng trong, vòi vọi cao lớn. Hai chỗ ấy là nơi Vì Thiên Ðế thường ngự.
4) Nhược thiệt, nhược hư, Bất ngôn nhi mặc (*1) tuyên đại hóa:
NGHĨA: Có đầy như thể trống không,
Mặc dầu không động nhưng mà đức cao.
GIẢI: Hình Trời xem như dày đặc thì lại như trống
không, lặng lẽ không tiếng nói chi hết mà hóa ra rộng lớn. [1]
[1] Sách Luận ngữ có câu: "Thiên hà ngôn tai, tứ thì hành diên, vạn vật sanh diên".
Trời đâu có nói mà bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Ðông vẫn xây xuống cùng, muôn vật
đều sanh hóa.
[*1] Trong Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo của Hội Thánh
ấn hành năm Ất Mão 1975 thì là Bất ngôn nhi mạc tuyên đại hóa.
5) Thị không, thị sắc, Vô vi nhi dịch sử quần linh:
NGHĨA: Không như có, có như không,
Không thấy bày làm nhưng khiến Thần linh.
GIẢI: Hình Trời xem thiệt trống không mà trong
không lại hóa sắc, sắc lại hóa không. Không làm mà sai các vị Thần linh phải
đến tuân mạng, ấy là vô vi, trong sách Luận Ngữ có câu Vô vi nhi trị.
6) Thời thừa lục long, Du hành bất tức:
NGHĨA: Vua Trời ngự cỡi sáu rồng,
Huyền huyền diệu diệu ngao du không ngừng.
GIẢI: Hằng cỡi sáu rồng đi giáp vòng Trời không hề
nghỉ. [2]
[2] Chữ Lục Long ấy trong kinh có câu "Thừa Lục Long dĩ ngự Thiên".
Sáu Rồng ấy quẻ Càn, sáu Rồng đều thuộc Dương, như là: Hào sơ Cửu là Tiềm Long,
Hào cửu Nhị là Hiện Long, Hào cửu Tam là Tịch dương Long, Hào cửu Tứ là Huyền
Long, Hào cửu Ngũ là Phi Long, Hào thượng Cửu là Càng Long. Ðạo Trời biến hóa
huyền diệu vận đi giáp vòng trời chẳng ngừng.
1). Hào sơ Cửu: Rồng còn lặng chưa hành động việc
gì.
2.) Hào cửu Nhị: Rồng ở ruộng hợp với vì Ðại Nhơn.
3.) Hào cửu Tam: Mặc dầu ở ruộng rồng mong vẫy
vùng.
4.) Hào cửu Tứ: Rồng nhảy lên khỏi vực.
5.) Hào cửu Ngũ: Rồng bay lên trời.
6.) Hào thượng Cửu: Rồng mạnh mẻ cứng cát bay xa
tít.
7) Khí phân Tứ Tượng, Hoát truyền [*2] vô biên:
NGHĨA: Ngôi Vô Cực phân chia Tứ Tượng,
Lại vận hành nhựt nguyệt vô biên.
GIẢI: Một khí Thái Cực sanh Lưỡng Nghi (Âm Dương),
Lưỡng Nghi sanh ra Thiếu Âm, Thiếu Dương; Ðông, Tây, Nam, Bắc rộng truyền xây
vần khôn cùng.
[*2] Trong Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo của Hội Thánh
ấn hành năm Ất Mão 1975 thì là Hoát triền vô biên.
8) Càn kiện cao minh, Vạn loại thiện ác tất kiến:
NGHĨA: Ngôi Càn cứng mạnh sáng cao,
Muôn loài lành dữ sáng soi tỏ tường.
GIẢI: Ngôi Càn cứng mạnh, sáng soi tội muôn loài
lành dữ đều thấy rõ.
9) Huyền phạm quảng đại, Nhứt toán họa phước lập phân:
NGHĨA: Phạm vi diệu diệu huyền huyền,
Lành dữ định tội phước ban từ tằng.
GIẢI: Một phép huyền diệu rộng lớn, dữ lành họa
phước một toán chia trừ, tăng giảm rành rẻ không sai mảy tóc.
10) Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, Tam Thiên Thế Giới
[*3]:
NGHĨA: Trên soi ba sáu (36) cung Trời,
Ba ngàn thế giới cũng cầm trong tay.
GIẢI: Trên thì chưởng quản ba mươi sáu vì Thiên
Cang và ba ngàn Thế Giới: Ðại Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, Tiểu Thiên
Thế Giới. Ba mươi sáu Thiên Cang là ba mươi sáu cõi Thiên Tào ấy là căn bản
thiên nhiên, mỗi cõi có một vị Tinh Quân chưởng quản. Ba ngàn Thế Giới là cõi
Thiên Tiên một ngàn, cõi Ðịa Tiên một ngàn, cõi Nhơn Tiên một ngàn.(3)
[3] Còn nói về chi tiết thì xin xem bộ Kinh Thiên
Cung du ký thì rõ.
[*3] Trong Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo của Hội Thánh
ấn hành năm Ất Mão 1975 thì là Tam Thiên Thế Giái.
11) Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa, Tứ Ðại Bộ Châu:
NGHĨA: Dưới cai quản bảy hai (72) từng đất,
Lại xem luôn bốn hướng lớn lao.
GIẢI: Ðấng Tạo Hóa, dưới thế Ngài tóm nắm bảy mươi
hai ngôi Ðịa Sác và bốn Bộ Châu lớn trong cõi trần hoàn thế giới. Bảy mươi hai
ngôi Ðịa Sác ấy mỗi ngôi có một vị Tinh Quân chưởng quản.
Bảy mươi hai ngôi Ðịa Sác cũng tùng mạng lịnh nơi
Bắc Ðẩu mà thi hành theo bổn phận trong Càn Khôn Võ Trụ. Và bốn Bộ Châu lớn kể
sau đây: Ðông, Tây, Nam, Bắc: Ðông là Ðông Thắng Thần Châu, Tây là Tây Ngưu Hạ
Châu, Nam là Nam Thiệm Bộ Châu, Bắc là Bắc Cù Lưu Châu, ấy là Tứ Ðại Bộ Châu.
12) Tiên Thiên Hậu Thiên, Tịnh dục Ðại Từ Phụ:
NGHĨA: Chủ Trời trước, chủ Trời sau,
Do luật động tịnh mang ơn cha lành.
GIẢI: Ngôi Tiên Thiên là trước đời Hồng Hoang, ngôi
Hậu Thiên khi Trời Ðất đã định rồi. Vì Thiên Ðế là cha cả trong Càn Khôn Thế
Giới hay thương muôn vật. [4]
[4] Chữ Tịnh dục trong sách Trung Dung có câu
"Vạn vật tịnh dục, nhi bất tương hại", muôn vật đều sanh nuôi mà
không giết hại.
13) Kim ngưỡng cổ ngưỡng, Phổ Tế Tổng Pháp Tông:
NGHĨA: Xưa nay một dạ tín thành,
Qui hồi các pháp nhơn sanh về lành.
GIẢI: Ðời nay tín ngưỡng, đời xưa tín ngưỡng tin
tưởng chắc có vì Thượng Ðế tóm thâu hết cả pháp tông, là rộng đức háo sanh mà
tế độ cả chúng sanh.
14) Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh. Thần chi quân:
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.
NGHĨA: Cha Trời sanh Tam Quang Tam Bửu,
Hiệp ngũ chi thống nhứt Ðạo mầu.
GIẢI: Vì Thiên Ðế là chúa của mặt Nhựt, mặt Nguyệt,
Sao, Tinh thần và là Chủ tể các vì Thánh, Thần, Tiên, Phật vậy.
15) Trạm tịch chơn Ðạo, Khôi mịch tôn nghiêm:
NGHĨA: Ðạo Trời mịt mịt cao sâu,
Ngôi Thầy, Cha dạy con về nẻo chơn.
GIẢI: Mở nền Chơn Ðạo rộng lớn minh mông là vì Ðấng
Tôn Nghiêm là Cha cả. [5]
[5] Trong sách Lễ có nói: Hễ mình gọi cha mình thì
xưng là Nghiêm Quân còn xưng cha của người thì gọi là Tôn Nghiêm.
16) Biến hóa vô cùng, Lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế:
NGHĨA: Chơn thần Thầy hóa muôn muôn,
Lại truyền kinh báu quí hơn ngọc ngà.
GIẢI: Ðạo Trời biến hóa vô cùng hằng dùng pháp tá
phàm và giáng linh cơ truyền bá Kinh Cáo để thức tỉnh người đời giấc mê muội.
17) Linh oai mạc trắc, Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh:
NGHĨA: Chuông giác ngộ giọng kêu huyền diệu,
Giáo dẫn đời hữu ích quần sanh.
GIẢI: Vì Thiên Ðế oai linh chẳng lường, thường ra
lời Thánh Ngôn, làm thi văn, Thánh giáo giúp lợi cho chúng sanh.
18) Hồng oai Hồng từ, Vô cực vô thượng:
NGHĨA: Oai linh từ thiện ơn Trời,
Bao la cao rộng không ranh không bờ.
GIẢI: Oai linh lớn, từ bi lớn, không cùng không tột
không bực nào trên vì Thiên Ðế nữa vậy.
19) Ðại Thánh Ðại Nguyện, Ðại Tạo Ðại Bi:
NGHĨA: Ðức Thánh rộng thệ nguyền ơn lớn,
Ân tạo Trời bí ẩn bí quan.
GIẢI: Thánh đức lớn, lời nguyện lớn. Ðức Tạo Hóa
lớn, Ðức Từ Bi lớn.
20) Huyền Khung Cao Thượng Ðế,
Ngọc Hoàng tích phước, hựu tội Ðại Thiên
Tôn:
NGHĨA: Thượng Thiên trên
cái khung đen,
Ngọc Hoàng xá tội ban ơn cầm quyền.
GIẢI: Ðức Ngọc Hoàng ban phước tha tội, bao trùm cả
Thế giới còn cao lớn không cùng không tột, không chi trên hết nữa cho nên gọi
là Cao Thượng Ðế Ðại Thiên Tôn. [6]
[6] Chữ Huyền là sắc đen, màu huyền; chữ Khung là
cao. Chữ Huyền Khung trong sách Ấu học có câu "Huyền Khung bỉ thương tắc
xưng Thượng Ðế". Vị Huyền Khung thửa sanh đều xưng là Thượng Ðế.
***
THÍCH GIÁO
1) Hỗn Ðộn Tôn Sư, Càn Khôn Chủ Tể:
NGHĨA: Ngôi Tôn Sư sanh từ vô thỉ,
Chủ Càn Khôn nhiếp lý âm dương.
GIẢI: Khí mù mù mịt mịt, minh minh mông mông là khí
hư vô (vô vi). Ðức Nhiên Ðăng là một vị tôn sư sanh đời hỗn độn, vâng lịnh Trời
làm chủ tể một cảnh Càn Khôn, Ngài đem bản thể Ðạo Hư Vô (vô vi) vạch để đời
biết rõ Ðạo ở trong khí Hỗn Ngươn (vô cực).
Ngài là một đấng THẦY trong đời hỗn độn. Ðến khi
Trời Ðất phân ngôi rồi, có Âm có Dương thì có Ðạo ở trong Âm Dương, cũng là một
khí hư vô, biến hóa vô cùng. Nên Ngài nhóm ba ngàn Thế Giới qui về một mối cùng
khí hư vô là đủ; nên mới gọi Ngài là Càn Khôn Chủ Tể.
2) Qui Thế Giái ư nhứt khí chi trung,
Ốc trần huờn ư song thủ chi nội:
NGHĨA: Cả thế giới qui vào một Khí,
Khắp hồng trần nắm chặc trong tay.
GIẢI: Tóm thâu Thế Giới: Người, vật và cả ba ngàn
Thế Giới, về trong một khí hư vô (vô vi), nắm cõi Trần hoàn vào trong hai tay.
3) Huệ đăng bất diệt, Chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh:
NGHĨA: Ðèn trí huệ cháy hoài không tắt,
Lại sáng soi ba sáu (36) cõi Trời.
GIẢI: Huệ Ðăng (đèn Thiêng Liêng) cháy hoài chẳng
lu, chẳng tắt, chiếu rọi ba mươi sáu cõi Trời.
4) Ðạo pháp trường lưu, Khai cửu thập nhị Tào chi mê muội:
NGHĨA: Ðạo pháp như nước chảy cuộn giòng,
Khai khiếu các nguyên nhân hắc ám.
GIẢI: Ðạo pháp như giòng nước chảy hoài không dứt,
mở mang thông suốt chín mươi hai ức Thiên Tước xuống cõi thế đương cơn mê muội
chưa hề tỉnh giấc.
5) Ðạo cao vô cực, Giáo xiển hư linh:
NGHĨA: Ðạo vốn gọi thậm thâm diệu pháp,
Giáo lý truyền nhờ cái không linh.
GIẢI: Ðạo cao thâm vô cùng không tột, Ngài lập giáo
mở dạy Ðạo hư vô (trống không) mà linh nghiệm.
6) Thổ khí thành hồng, Nhi nhứt trụ xang thiên:
NGHĨA: Vận tam muội phúng nên Hồng,
Ly trung hiệp nhứt, điều Khôn nên Càn.
GIẢI: Hà hơi nên cái móng, xem như một cây cột mà
chống vững bầu Trời.
7) Hóa kiếm thành xích, Nhi tam phân thác địa:
NGHĨA: Kim khí luyện tây viên đến mực,
Dưới đơn điền chiếc Khảm nên Khôn.
GIẢI: Hóa gươm làm nên thước, mà lấy ba phân đở
vững giềng đất không rúng động, ấy là Ðạo Pháp Vô Biên.
8) Công tham Thái cực, Phá nhứt khiếu chi huyền quang:
NGHĨA: Công đức Phật sánh ngôi Thái Cực,
Phá khiếu linh đặng Một mới mầu.
GIẢI: Công sánh ngôi Thái Cực, mở thông tổ khiếu
nơi ải huyền quang. [1]
[1] Trong thân con người nơi xương sống từ dưới cái
xương cụt đến cái xương Thiên Trụ và ba cái lóng xương ở cổ cộng là hai mươi
một lóng. Cái tổ khiếu nầy từ dưới đếm lên trên cổ ở trên xương thứ bảy dưới
xương thứ tám chính giữa xương sống có một cái lổ nhỏ trong lổ ấy có cái lổ vô
vi kêu là Thần Thất là chỗ chơn linh Tổ Khiếu, còn hai bên là hai trái cật; bên
hữu gọi là Long, rằng chơn hỏa; bên tả gọi là Hổ rằng chơn thủy. Tổ khiếu là
cái nơi hô hấp của con người. Nhà tu dưỡng luyện kim đơn cũng do nơi tổ khiếu
nầy luyện nên.
9) Tánh hiệp vô vi, Thống tam tài chi bí chỉ:
NGHĨA: Tánh hòa với thể Thiêng Liêng,
Thiên, Ðịa, Nhơn gồm một mối cao siêu.
GIẢI: Ðức tánh hiệp vô vi thì tóm hết Thiên, Ðịa,
Nhơn là ý mầu nhiệm của Tam Tài, thảy đều qui về một mối.
10) Ða thi huệ trạch, Vô lượng độ nhơn:
NGHĨA: Nhơn sanh nhuần gội ân dày,
Vô số người đồng vượt khỏi bến Mê.
GIẢI: Ðức Nhiên Ðăng ra nhiều ân lành, như Trời mưa
gội nhuần tế độ người, công đức không biết bao nhiêu mà độ lường.
11) Ðại Bi Ðại Nguyện, Ðại Thánh Ðại Từ:
NGHĨA: Bi quan, bi mẫn . . . thệ nguyền,
Ðức Thánh sáng chói, đức Nhơn rộng dày.
GIẢI: Cái sự thương sự nguyện của Phật rất lớn. [2]
[2] Sách có câu: "Phật ái chúng sanh như mẫu
ái tử", Phật thương chúng sanh như mẹ thương con vậy.
12) Tiên Thiên Chánh Ðạo, Nhiên Ðăng Cổ Phật. Vô vi Xiển
giáoThiên Tôn:
NGHĨA: Nền Ðạo vốn từ nơi Nhứt Khí,
Cổ Phật Nhiên Ðăng tạo tuyệt mầu.
Dạy Ðạo ấn chứng vô vi,
Tổ sư Xiển Giáo thiệt vì Thiên Tôn.
GIẢI: Ngôi Tiên Thiên Chánh Ðạo, Phật Nhiên Ðăng từ
đời Thượng cổ mở dạy Ðạo vô vi là vị Phật tối cao hiệu là "Xiển Giáo Thiên
Tôn".
***
TIÊN GIÁO
1) Tiên thiên khí hóa, Thái Thượng Ðạo Quân:
NGHĨA: Từ vô thỉ đã sanh Thái Thượng,
Vốn thật là một khí khinh thanh.
GIẢI: Ngôi Tiên Thiên Chánh Ðạo, khí Tiên Thiên
biến hóa Ðức Thái Thượng Ðạo Quân làm Giáo Chủ Ðạo Giáo.
2) Thánh bất khả tri, Công bất khả nghị:
NGHĨA: Ðức Thánh khó gẫm khó suy,
Công cao khó tưởng, tài cao khó bì.
GIẢI: Thánh đức của Ngài, người chẳng khá dòm lường
mà biết đặng. Cái công đức cao dày cũng chẳng khá nghị luận cho đặng.
3) Vô vi cư Thái cực chi tiền, Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng:
NGHĨA: Từ vô thỉ Ðạo không hình tướng,
Ðến Hậu thiên siêu việt tuyệt mầu.
GIẢI: Ðạo Vô Vi ở trước ngôi Thái Cực là khi Trời
Ðất chưa phân, đến khi Trời Ðất mở mang rồi thì vô vi có trước, gọi là đời Hữu
Thỉ (nghĩa là có trước hết) rồi mới có Ðức Thái Thượng đứng bực trên hết các vì
Chơn Thánh Chơn Nhơn.
4) Ðạo cao nhứt khí, Diệu hóa Tam Thanh:
NGHĨA: Cao nhờ ngươn khí tinh anh,
Chơn Thần trong sạch hóa hình Tam Thanh.
GIẢI: Ðạo Giáo cao rộng
cả bầu Trời Ðất, phép huyền diệu biến hóa Tam Thanh. Tam Thanh là: Thái Thanh,
Thượng
Thanh, Ngọc Thanh.
5) Ðức hoán hư linh, Pháp siêu quần thánh:
NGHĨA: Ðức trọng bởi hư vô linh nghiệm,
Ðạo cao vời trên các Nhánh chi.
GIẢI: Ðạo đức sánh hơn các Thần linh, pháp luật cao
siêu hơn các Tiên Thánh.
6) Nhị ngoạt thập ngũ, Phân tánh giáng sanh:
NGHĨA: Tháng hai, ngày vọng, nhà Thương,
Vô cực Chơn Tánh phân thân giáng trần.
GIẢI: Ðời nhà Châu vua Mục Vương năm thứ năm mươi
hai, nhằm ngày rằm tháng hai, Ngài phân tánh giáng sanh ra Ðức Thái Thượng.
7) Nhứt thân ức vạn, Diệu huyền thần biến:
NGHĨA: Một thân biến thiên hình vạn trạng,
Một Chơn linh diệu hóa Thần Tiên.
GIẢI: Một mình mà hóa ra muôn ức, thật là phép
huyền diệu như Thần, biến hóa không cùng. [1]
[1] Sách chép: Không có đời nào mà không có Ðức
Thái Thượng giáng sanh; như đời Vua Huỳnh Ðế là Ông Quảng Thành Tử, đời Vua Văn
Ðế hiệu là Ông Nhiếp Ấp Tử làm quan Trụ hạ Sử đời Vua Khương Vương hiệu rằng
Quách Thúc Tử, đầu đời Hớn hiệu rằng Huỳnh thạch Công, thiệt là phép biến hóa
huyền diệu vô cùng.
8) Tử khí đông lai, Quảng truyền đạo đức:
NGHĨA: Tường vân bổng hiện phía Ðông,
Truyền Kinh Ðạo Ðức giốc lòng độ nhân.
GIẢI: Lằng tử khí từ hướng Ðông bay đến rộng truyền
Kinh Ðạo Ðức. [2]
[2] Sách chép: Ông Doãn Hỉ làm quan Lịnh Doãn bên
Ải Hàm Cốc biết xem mây gióng khí. Ngày kia trông thấy một vòng ngút đỏ tía từ
hướng Ðông bay đến biết rằng có vì Thánh Nhơn đến Ải, liền nghiêm chỉnh áo mão
ra cửa mà tiếp rước. Chẳng bao lâu có Ông Lão Tử cỡi Thanh Ngưu bay đến. Ông
bèn vội vàng tiếp rước vào Ải đàm luận phép huyền diệu và được rộng truyền Kinh
Ðạo Ðức năm ngàn dư lời.
9) Lưu sa tây độ, Pháp hóa tướng tông:
NGHĨA: Thoạt qua tới phía Tây miền cát,
Pháp vô vi bổng hóa Tướng Tông.
GIẢI: Phía Tây qua đất Lưu Sa dùng phép huyền diệu
hóa ra vì Tướng Tông, đến đâu Ngài cũng lấy Kinh Sám trong tâm ra mà giảng Ðạo
độ đời.
10) Sản Tất Viên Phương Sóc chi bối, Ðơn tích duy mang:
NGHĨA: Trang Châu Phương Sóc sanh ra,
Cũng đồng quan niệm với thời Lạc Quân.
GIẢI: Ông Trang Tử làm quan ở vườn Tất Viên nên kêu
là Ông Tất Viên cùng với Ông Ðông Phương Sóc cũng do Ngài hóa thân đó, cái dấu
linh đơn thiệt là huyền diệu nhiệm mầu.
11) Khai Thiên Ðịa nhơn vật chi tiên, Ðạo kinh hạo kiếp:
NGHĨA: Luyện đơn chỉ máy trường sanh,
Ðạo trước Trời Ðất nhơn sanh mới mầu.
GIẢI: Ðạo mở trước Trời Ðất, trước người và loài
vật, Ðạo trải lâu đời nhiều kiếp.
12) Càn khôn hoát vận, Nhựt nguyệt chi quang:
NGHĨA: Càn Khôn chốt máy cao sâu,
Âm Dương Nhựt Nguyệt thạnh suy tuần hườn.
GIẢI: Trời Ðất xây vần, Ðạo như mặt Nhựt, mặt
Nguyệt tỏ rõ không chỗ nào không soi xét.
13) Ðạo pháp bao la, Cửu hoàng tỉ tổ:
NGHĨA: Ðạo Pháp rộng bao gồm Cửu Tổ.
GIẢI: Ðạo như thể giềng lưới bao la giăng trùm cả
võ trụ. Ngài là Tỉ Tổ [3] của họ Cửu Hoàng.
[3] Hình người thụ thai, trước tượng lỗ mũi; nên
thỉ tổ gọi là Tỉ Tổ, mà tỉ là mũi.
14) Ðại Thiên Thế Giái, Dương tụng từ ân:
NGHĨA: Cõi Ðại Thiên ca tụng ân lành.
GIẢI: Trong cõi Ðại Thiên Thế Giới nên ca tụng ân
lành của Ðức Thái Thượng Lão Quân.
15) Vĩnh kiếp quần sanh, Ngưỡng kỳ huệ đức:
NGHĨA: Hồng trần cứu vớt độ người, chúng sanh.
GIẢI: Kẻ chúng sanh nhiều kiếp cũng ngưỡng thờ ơn
lành ở Ðức Ngài.
16) Ðại Thần Ðại Thánh, Chí cực chí tôn:
NGHĨA: Thấu then Chí Cực, Thần thành Kim Thân.
GIẢI: Thiệt bực Ðại Thần, Ðại Thánh rất tột rất
cao, rất cực phẩm rất tôn cao.
17) Tiên Thiên chánh nhứt, Thái Thượng:
Ðạo Quân Chưởng Giáo Thiên Tôn:
NGHĨA: Nền Ðạo mở từ khi Nhứt khí,
Chức Thiên Tôn chấp chưởng Thần Tiên.
GIẢI: Hiệu Ngài là Tiên Thiên Chánh Nhứt; Ðạo Giáo
gọi là Thủ nhứt, Thích Giáo gọi là Qui Nhứt; Nho Giáo gọi là Oán Nhứt. Vì vậy
cho nên Ðức Thái Thượng Lão Quân chưởng quản Ðạo Giáo là Vì Thiên Tôn. [4]
[4] Nhứt có nghĩa: Thiên đắc nhứt dĩ Thanh, Ðịa đắc
nhứt dĩ Ninh, Nhơn đắc nhứt dĩ Thành; cho nên Trời, Ðất, Người một thì ninh
tịnh.
***
NHO GIÁO
1) Quế hương nội điện, Văn Thỉ thượng cung:
NGHĨA: Ðều quế hương mùi bay thơm ngát,
Gốc vốn là trên cõi Thượng Thiên.
GIẢI: Mùi quế hương nực chốn nội điện, Ðức Văn
Xương ở căn đầu nơi chốn thượng cung. [1]
[1] Sách có câu "Lam bào nhả quế hương",
khi xưa hễ người thi đỗ Trạng thì vua ban cho cái áo Lam Bào và cho đi vu khai
ba ngày cho rõ danh thơm, thì được tiếng thiên hạ ngợi khen thơm tho nực như
mùi quế hương bay khắp vậy. Còn về văn khoa đấu tự thì có tích ông Ðậu Yên Sơn
sanh ra năm người con trai được sự ứng mộng của cha bảo tu nhơn, tích đức thì
năm đứa con ấy sau nầy sẽ nên danh. Ông vâng lời cha phát nguyện lòng lành lấy
nghĩa phương giáo tử. Nhờ đó năm con của ông học hành rất tiến, đồng thời ông
có trồng năm cây quế trước sân. Ðến khi năm người con trai ông vào trường thi
đều được danh đề Kim bảng, đời truyền là: "Ngũ
quế đường khai".
2) Cửu thập ngũ hồi, Chưởng thiện quả ư, thi thơ chi phố:
NGHĨA: Chín lăm lần xuống xuống lên lên,
Gieo trái Ðức, Văn chương, Nhơn nghĩa.
GIẢI: Ðức Văn Xương ở cõi Thượng Cung, chín mươi
lăm lần luân hồi gieo trái lành nơi vườn Thi Thơ. [2]
[2] Trong Kinh Ðiển ghi chép Ðạo Thánh dạy việc
lành là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Thành ra cho nên lấy Kinh Ðiển làm vườn lấy
việc lành làm giống trái ngon trồng tỉa, đặng lưu truyền cho đời đám ruộng gọi
rằng "Tâm Ðiền" vun bồi cội quế thơm tho, con cháu gìn giữ ruộng đất
nối đời hưởng dùng không cùng.
3) Bá thiên vạn hóa, Bồi quế thọ ư, âm chất chi điền:
NGHĨA: Trăm lần phải sanh sanh hóa hóa,
Vun quế hòe, âm đức, tâm điền.
GIẢI: Trăm ngàn lần hóa thân cũng lấy đức âm chất
gieo làm đám ruộng gọi rằng Tâm Ðiền vun bồi cội quế thơm tho, con cháu gìn giữ
ruộng đất nối đời hưởng dùng không cùng.
4) Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh:
NGHĨA: Văn tự linh hơn sấm lôi,
Linh hơn linh điểu mở thông Ðạo người.
GIẢI: Ðời Thượng cổ chưa có văn tự thì lấy gút để
nhớ việc. Ðến đời vua Phục Hi có Long Mã phụ đồ, vua Phục Hi vạch Bát Quái Ðồ
chế ra văn tự. Qua đời Huỳnh Ðế có ông Thượng Kiết trí tuệ thông minh trện thì
biết xem tượng sao, dưới thì xét soi dấu chim chế làm văn tự. Khi văn tự thành
rồi thì Trời mưa luôn ba ngày, quỷ ban đêm khóc [3]. Từ đó văn tự mở mang trong
thiên hạ, người đều tấn hóa.
[3] Quỉ khóc bởi sợ có chữ ghi chép chơn lý đạo
đức, người người đều theo chơn đạo bỏ tà thuyết thì quỉ đạo phải bị tận diệt.
Khi Ðức Khổng Tử làm kinh Xuân Thu sách Hiếu Kinh rồi thì quì lạy về ngôi Bắc
Ðẩu tỏ bày ý nghĩa của mình làm kinh sách. Trời liền mưa ròng ba ngày có móng
đỏ từ trời sa xuống hóa ra sắc vàng trên có chữ "Xuất sách cố tự".
5) Chí như ý từ, tường ư ngao trụ:
NGHĨA: Chí lành hiệp với ý lành,
Cự Ngao chở nổi núi non đức dày.
GIẢI: Chí như lời đạo đức ý tứ uyên thâm cảm động
lòng Trời, lời ý hiền lành hơn Ngao Trụ đã chống vững năm hòn núi nơi biển Bột
Hải. [4]
[4] Ngao Trụ là núi Ngao. Ở
phía Ðông biển Bột Hải có năm hòn núi: 1) Núi Ðại Dư 2) Núi Viên Kiều 3) Núi
Phương Hô 4) Núi Dinh Châu 5) Núi Bồng Lai. Năm hòn núi nầy các vì Thánh Tiên
thường ở tại đó, núi không chơn, thường trôi theo nước lớn nước ròng. Các vì
Tiên Thánh bèn tâu với Ngọc Ðế nghe. Ngài sợ núi ấy để vậy thì trôi ra tứ phía
mới sai mười lăm con Cự Ngao cất đầu đội năm hòn núi ấy vững lại chẳng cho trôi
nữa mà lại phân làm ba phiên mỗi sáu muôn năm đổi một lần. Về sau hễ ai thi đỗ
Trạng thì gọi độc chiếm Ngao Ðầu. Ðến như nay mà lòng người ý thành chắc thiệt
một dạ nhân từ thì phước đức để cho con cháu lâu dài. Thì ra chẳng qua là một
đời vinh hiển sang trọng đó thôi, sao bằng phước đức để đời đời lưu truyền con
cháu hưởng không cùng.
6) Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu:
NGHĨA: Trau tâm gốc cội con người,
Hiếu thảo cha mẹ mới nên đạo người.
GIẢI: Còn việc giáo hóa thì Ðạo Nho mở rộng lòng
người, dạy con người phải thờ cha kính mẹ, lấy chữ hiếu làm gốc.
7) Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung:
NGHĨA: Ơn nhà nợ nước trước xong,
Công ơn bảo hộ Vua lành Tôi ngay.
GIẢI: Kẻ nhơn thần tâm phải vững bền như mạch nước,
phải hết lòng trung, liều mình cùng chúa, dầu cho ngàn cay muôn đắng vào sanh
ra tử, đạp sỏi giày sành cũng chẳng nao lòng thối chí. Còn như các Ðấng đã dày
công dạy dổ ta nẻo chánh đàng ngay thì ta phải làm thế nào cho khỏi phụ các
Ngài.
8) Ứng mộng bảo sanh, Thùy từ mẫn khổ:
NGHĨA: Ðiềm lành báo mộng lợi nhơn,
Dù cho khổ cực nhưng mà chí cao.
GIẢI: Còn phận làm vua thì phải có lòng nhơn từ,
bảo hộ sanh linh thương xót những kẻ dân nghèo. Hễ có lòng thương dân nghèo khổ
thì khiến cho mình có tư tưởng hay nằm chiêm bao. [5]
[5] Sách chép: Châu Võ Vương có lòng đạo đức tư
tưởng thường, cho nên chiêm bao thấy ông Châu Công ứng mộng bảo làm lành. Võ
Vương là vì vua không ra hành chánh hiệu lịnh, chỉ lo làm việc đạo đức bảo hộ
sanh linh, để lòng nhơn từ thương người khổ nạn...
9) Ðại Nhơn, Ðại Hiếu, Ðại Thánh, Ðại Từ:
NGHĨA: Nhơn, hiếu rộng tâm lành sáng chói.
GIẢI: Nhơn lớn thì ơn lớn, thánh đức lớn từ bi cũng
thiệt là lớn.
10) Thần văn, Thánh võ, Hiếu đức trung nhơn:
NGHĨA: Văn có Thần gốc Hiếu Nghĩa Nhơn,
Võ nơi thông rõ âm dương.
Hiếu cha thảo mẹ đứng đầu Ðạo Nho,
Ðức ấy thiệt Tâm làm âm chất.
Ðạo thờ Vua một mực thẳng ngay,
Chữ Nhơn gồm bộc Ðạo Nho.
GIẢI: Một là hiếu thuận, hai là nhơn từ, ba là
trung tín, bốn là đức hạnh; nghĩa là bốn đức khiêm cung đủ vậy.
11) Vương Tân sách phụ, Nho Tông khai hóa:
NGHĨA: Ngôi vua không nước dạy rành nhơn luân,
Dựng Nho Giáo khai minh bổn thiện.
GIẢI: Ðức Khổng Thánh đi châu du, các nước đều
nghinh tiếp Ngài gọi là vì Vương Tân (khách của vua). Vì Ngài hay giúp vua làm
điều nhơn đạo, đàm luận chánh giáo, hễ nước phải đạo thì Ngài đến, nước chẳng
phải đạo thì Ngài lui, tới lui thong thả nên gọi là ngôi Vương Tân, Ngài mở
mang giáo hóa nên Ngài là Giáo chủ trong Ðạo Nho vậy.
12) Văn Tuyên Tư Lộc,
Hoằng nhơn Ðế quân:
NGHĨA: Tố Vương rày tặng Văn Tuyên,
Ðế Quân đức cả sáng rày thinh thinh.
GIẢI: Vua Văn Tuyên hay việc thi cử khoa lộc là vì
Ðế Quân nhơn đức rộng, tánh chất thiệt ngay thẳng chánh sáng, báu rạng hiền
lành.
13) Trừng chơn chánh quang, Bửu Quang từ tế Thiên Tôn:
NGHĨA: Thiên Tôn chấp chưởng cầm quyền Ðạo Nho.
GIẢI: Trong tốt, chắc thiệt, ngay thẳng, sáng láng,
lành thương tế độ là vì Bửu Quang Từ Tế Thiên Tôn.
***
II. Giải Kinh Hôn Phối
1) Cơ sanh hóa Càn Khôn đào tạo,
Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên:
GIẢI: Cả cơ hữu hình trong Càn Khôn võ trụ đều do
khí Âm Dương hòa hợp, mới sanh sanh hóa hóa; đó là Ðạo vậy.
2) Con người nắm vững chủ quyền,
Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân:
GIẢI: Ở thế, loài người đứng đầu vạn vật được đối
vào Tam Tài giả (Thiên, Ðịa, Nhơn), nên có bổn phận thay Trời tạo thế do Nam Nữ
cấu tạo, ấy là cơ sanh hóa.
3) Ở trước mắt Hồng Quân định phận,
Ðạo vợ chồng đã xứng nợ duyên:
GIẢI: Ðức Hồng Quân sách gọi Ðức Hạ Nguyệt Lão
Quân. Khi hai chơn hồn đi tá mẫu đầu phàm mà có duyên nợ do Ðức Hồng Quân định
phận rồi, dầu ở ven trời hay góc biển xa xôi, ngày thành giai ngẫu lần lần sẽ
hiệp nhau.
4) Trăm năm khá nhớ hương nguyền,
Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh:
GIẢI: Khi hiệp cẩn, lên nhang đèn phẩm vật nơi
Thiên bàn và dường linh Ông Bà cho đôi vợ chồng, dâu rễ lạy Ðức Chí Tôn và Ông
Bà thì cầu nguyện như vầy: Ngày nay vợ chồng chúng con thành hôn đây: Trai
nguyện: Con ở với vợ con trọn đời hằng giữ nghĩa; Gái nguyện: Con ở với chồng
con trọn đời hằng giữ trọn trinh; thủy chung nhi nhứt.
5) Ðã cùng gánh chung tình hòa ái:
GIẢI: Ngày thành đạo vợ chồng rồi thì sang giàu
cùng hưởng nghèo khổ đồng chia, không vì giàu mà đổi bạn, không vì sang mà bỏ
vợ.
6) Tua đút cơm, sửa dải làm duyên:
GIẢI: Câu đúc cơm do tích ông Tống Hoằng làm quan
Ðại Thần trào vua Quan Võ. Vua Quan Võ có người chị là Hồ Dương Công Chúa góa
chồng. Một hôm nhà vua hỏi chị rằng: Chị xem coi ai trong trào chị vừa ý ai em
tình (*) dùm cho chị. Hồ Dương Công Chúa trả lời: Trong trào nếu ai oai nghi lễ
độ như Tống Hoằng thì chị mới ưng.
Tống Hoằng có vợ bị bịnh phải bị mù đôi mắt, mà ông
thì hằng bữa ăn đúc cơm cho vợ, rất yêu nhau không mỏi. Ngày nọ vua Quan Võ cho
đòi Tống Hoằng đến đặng định đôi cho chị. Khi Tống Hoằng đến, Hồ Dương Công
Chúa núp sau tấm bình phong đặng nghe. Vua Quan Võ hỏi Tống Hoằng: Nầy Tống
Hoằng, khanh nghe thiên hạ thường nói giàu đổi bạn, sang đổi vợ có phải vậy ông
a (**) khanh?.
Tống Hoằng trả lời: Tâu Bệ Hạ đó là hạ ngu chưa có,
còn người Trượng phu không được như vậy; tào khang chi thê bất khả hạ đàng, bần
tiện chi giao mạc khả vong.
Nghe qua vua Quan Võ nghĩ không còn lời nào mà hỏi
nữa, đành bãi việc. [1]
(*) Câu trên có thể là: . . . em tính dùm cho chị.
(**) Câu trên có thể là: . . . có phải vậy không ái
khanh?
[1] Trong Nữ Trung Tùng
Phận có câu:
Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ
nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.
Từ
duyên Công Chúa giao thân,
Ðúc
cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.
Biết
nhơn nghĩa biết mùi ân ái,
Chia
đau thương cột dải đồng tâm.
Kìa
ai đã gọi ân thâm,
Hơn
niềm chồng vợ âm thầm giúp nhau.
* Sửa dải làm duyên:
GIẢI: Do tích vợ chồng ông Châu Công. Châu Công làm
quan Ðại thần, khi đi chầu Chúa vợ ông cột dải mão dải áo cho ông. Khi về lại
mở dải áo dải mão của ông đi cất, để nuôi nấng tình yêu cho đậm đà, lại còn gìn
bổn phận tề gia nội trợ ở nhà. Bà mãi lo canh cửi cơ hàn, không vì chồng làm
quan vợ ở nhà kiêu hảnh, cũng không vì có lương bổng ngồi hưởng, hằng lo làm
lụng mà thôi. [2]
[2] Trong Nữ Trung Tùng Phận
có câu:
Vợ
Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở
thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng
thì trào nội cao sang,
Vợ
lo canh cửi cơ hàn khổ thân.
Giúp
chồng đặng ân cần, nhiếp chánh,
Cho
nên trang chúa Thánh tôi Hiền.
Vợ
không tham nhủng bạc tiền,
Chồng
lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.
7) Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên:
GIẢI: Do tích: xưa có một vị quan sanh ra một gái
rất đẹp, khi đúng tuổi cập kê ông chọn sĩ tử cho con. Có người đến dạm hỏi ông
muốn cho con được tự do dò đon và hạch thử tài nghệ vị sĩ tử. Vào một đêm trăng
thanh gió mát ông cho phép hai người ra giữa sân trải chiếu đàm thuyết đặng rõ
ý chí và tài nghệ mà không đặng làm điều trái phép, nếu sái lời sẽ bị trọng tội
lại mất hôn thê. Nhờ giữ đúng lời mà sau nên đạo vợ chồng.
8) Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam:
GIẢI: Vào đời Tiền Ðường, có ông Ðậu Nghi làm quan
hạ sanh một con gái nhan sắc khuynh thành vừa tuổi cập kê ông chọn sĩ tử cho
con. Trong khi ông chưa biết làm thế nào, liền trực thấy trước tấm chắn có bình
bông trong bình bông có thắt hai con én hằng lung lay rất đẹp, ông bèn truyền
cho sĩ tử nếu ai bắn trúng con mắt én thì ông gã con cho. Nghe qua các sĩ tử
đến bắn đều không trúng. Ðến phiên ông Ðường Lý Nguyên bắn trúng và rồi được
vợ. Về sau vợ chồng Ðường Lý Nguyên giữ mãi bình ấy.
* Bao tóc: Ðời Ðường có ông Giả Trực Ngôn làm quan bị vua biếm ra Lãnh Nam hai mươi
năm. Giả Trực Ngôn về than với vợ rằng: Bà ơi! Tôi bị biếm ra Lãnh Nam hai mươi
năm không biết còn mất thế nào, vậy tôi giao quyền sở hữu ở bà đặng chọn chồng
khác hầu giúp nhau khi đau yếu hay khó khổ. Vợ ông nghe chồng nói khóc rống
lên, rồi xổ tóc chải xuông lấy lụa trắng vấn tóc cho vẹn lại, lấy dây đưa chồng
cột lấy cho chặc và biểu chồng để dùm năm chữ trên lụa trắng: "Phi quân thủ bất giái" rồi
chồng đi. Bởi Kinh có câu: "Thiếp
cam bao tóc thờ chồng là vậy".
9) Ðường tổ nghiệp nữ nam hương lửa,
Ðốt cho nồng từ bữa ba sanh:
GIẢI: Ðôi vợ chồng từ
khi mới họp nhau cần giữ gìn bổn phận dâu rể, ăn ở thuận hòa, vâng lời cha mẹ
bảo, vẹn gìn đạo nghĩa, đặng sanh con đẻ cháu nối hương lửa cho mình, trước sau như một.
10) Giữa đền để một tấc thành,
Ðồng sanh, đồng tịch đã đành nương nhau:
GIẢI: Vợ chồng là ân thâm nghĩa trọng, sống nương
nhau no đói có nhau, khó chung chịu sang chung hưởng. Sách có câu: Sống đồng
tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách.
Tích xưa, vào đời nhà Nguyên có vợ chồng ông Trần
Sử Chánh, vợ chồng yêu nhau nồng nàn. Khi Sử Chánh đầu quân giúp nước một hôm
ra trận bại binh chết hết. Vừa hay tin vợ Sử Chánh liền chạy ra trận mạc, xóc
các tử thi để tìm chồng, nhưng qua một lượt mà không tìm thấy. Suy nghĩ, bà mới
nhớ lại lúc ở nhà bà có may cho chồng một cái túi, gọi là cái phái để cho chồng
đeo mãi bên mình. Nhờ đó bà mới kiếm gặp liền vác xác chồng lên vai chạy về
nhà. Bà kêu thợ đóng một cái khuôn hàng rộng bề ngang. Người thợ nói rằng: Ðóng
rộng như thế có đồ đâu liệm cho đủ. Bà trả lời: Cứ đóng y như tôi định, sẽ có
đủ đồ liệm. Khi đóng khuôn hàng xong bà ôm xác chồng để vào hàng rồi cầm dao tự
tử. Nhờ hàng rộng nên được liệm chung. Do đó về sau có câu: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng
quan đồng quách"
CHUNG

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét