HIỆP THIÊN ĐÀI
V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính Gởi : Hiền Huynh HIẾN
PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Tham chiếu : Quý Thánh Thơ
số 15/ DS ngày 12-6-1970
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo
tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn
để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14
tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
LỜI TỰA.
Những bài
Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH
chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy.
Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành
cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các
nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc giả đến xem.
Đức HỘ-PHÁP là một trong
các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ
thuyết Tam-Lập : “Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn”.
Về lập đức: thì Đức Ngài
là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho
toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC-CHÍ-TÔN (NGỌC-- HOÀNG –THƯỢNG-
ĐẾ ).
Về lập công: thì Đức Ngài
vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt
gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là
một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!
Về lập ngôn: thì Đức Ngài
lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng
thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn
Đạo nên lưu ý .
Nhơn danh Hiến-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý
độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính
chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT.
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần
thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử: những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch
đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua
các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện
chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân
thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu này.
Chúng tôi nghĩ rằng: “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung
tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến
cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn
trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng
thay Trời dạy Đạo.
Nếu một may thay thời cuộc
lại biến thiên, có thể các cuộc phần
thư lại tái diễn, thì thiết tưởng trong
số tài liệu này vẫn còn có nhiều người
nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn
Đây không phải là việc làm
của một cá nhân hay một đoàn thể, nhưng
là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình
để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển
tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công
việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.
Việc làm của chúng tôi
không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo
trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU
ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng
trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt
sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức
HỘ PHÁP.
Từ đây bản quyền sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để
cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu
ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta
trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ
LỜI CHÚ CỦA NGƯỜI SOẠN.
Kính thưa: Chư Huynh, Tỷ,
Muội cùng các bạn đồng môn.
ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
lúc còn sanh tiền Ngài đã để lại nhiều lời vàng tiếng ngọc dạy dỗ chúng sanh
qua các buổi thuyết Đạo.
Nay kẻ hậu sinh được may
duyên học Đạo với Đấng Thiên Tôn qua các bài Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI
( từ năm 1946 đến năm 1955 do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây
Ninh ấn hành ), trong những bài giảng nầy, Đức Ngài đã giáo hóa rất nhiều chủ
đề về Đấng Thượng Đế, Tôn Giáo, Nhân Loại ... theo dòng thời gian của từng thời
kỳ lịch sử.
Với lòng tôn kính Đức Tôn
Sư, con xin được sắp xếp các bài giảng theo từng chủ đề để con và các bạn đồng
môn dễ dàng sưu khảo trên đường tu học.
Thành kính cầu nguyện Đức
Tôn Sư luôn luôn dẫn dắt chúng con trên đường phụng sự.
Kỉnh bút
* * *
1. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Tại tháp của Ðức
Quyền Giáo Tông
Hồi 8 giờ, ngày 13 tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947).
CÔNG ĐỨC CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT.
Ngày nay là ngày kỷ niệm
Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, ấy là ngày Bần Ðạo quả quyết rất trọng
hệ và quí hóa cho Cửu Trùng Ðài.
Bần Ðạo quả quyết nói với
bằng chứng hiển nhiên là bạn đồng thuyền, Bần Ðạo biết rõ giá trị của Thượng
Trung Nhựt là dường nào.
Tuy vân, ngôi vị Giáo Tông
Ðạo Cao Ðài do Ðức Lý cầm quyền gìn giữ Thánh chất dung hòa nửa Thánh nửa phàm
còn tạo ngôi vị tại thế là Thượng Trung Nhựt đó. Ấy vậy Thượng Trung Nhựt tạo
ngôi vị Giáo Tông cho Ðạo Cao Ðài như ông Thánh Saint Pierre tạo ngôi Thánh
Hoàng cho Pha-Pha tại Rome vậy.
Ôi! Buổi Chí Tôn đến một
cách đột ngột tình cờ, đến trong thế kỷ 20 nầy mà nhơn loại đang sống thảm khổ
từ thể chất đến tinh thần, Ngài xưng tên làm cho cả thảy ngạc nhiên, nhứt là
chúng tôi buổi nọ đang đi trong con đường thế tối tăm ngày ấy người niên kỷ cao
hơn hết là Thượng Trung Nhựt, chúng tôi có hỏi Người: Est ce possible? (Có thể
có không?) vì còn đang mờ hồ, chúng tôi chẳng khác chi ở trong địa huyệt đang
tiềm tàng con đường sáng, chúng tôi còn tăm tối, may thay! Người có duyên tiền
định đến dìu dắt chúng tôi ra khỏi chốn địa huyệt âm u, nhờ hai con mắt sáng
của người làm dẫn đạo.
Khi chúng tôi hỏi: Est ce possible? (Có thể như
vậy chăng?). Người trả lời: C'est bien possible (Có thể có như vậy lắm). Bởi
thiên hạ đang khổ thảm nên Ðấng ấy đến không phải là lạ. Ta thấy trong gia đình
đau khổ, mà ông cha chưa phải chết thì sự thương yêu đối với con cái nồng nàn sẽ được ông cha ấy hiện diện. Người quả
quyết rằng: "Ðấng ấy đến buổi nầy
thật là Chí Tôn đó vậy". Nếu không phải Chí Tôn không ai chịu nổi đau
thảm kia được.
Vì thành tâm, nguyện vọng
của Người cảm xúc tới cõi Hư Linh làm cho Chí Tôn và cả chư Thần, Thánh, Tiên,
Phật đều động lòng. May thay! Chí Tôn đến lập nền Quốc Ðạo cho chúng ta tại
nước Việt Nam thì không có gì vinh diệu cho giống nòi chúng ta hơn nữa.
Thảng sau nầy, Tôn Giáo
Cao Ðài sẽ làm môi giới chuẩn thằng cho một nền văn minh tối đại thì tôi quả
quyết rằng nền văn minh ấy sản xuất ra do tâm lý của Thượng Trung Nhựt mà chớ.
Ôi! Bao nhiêu công nghiệp, chúng ta nghĩ lại đều nhớ buổi ban sơ đương lúc tâm
lý hoang mang tranh đấu sự sống còn, nhứt là tâm lý nòi giống Việt Nam đương
mưu đồ giải thoát ách nô lệ, ai còn tin khi ta nói ra những điều mà ai cũng cho
là mơ hồ, bởi cả tâm lý còn hoang mang. Ðến các bạn đồng thuyền, đồng chung tâm
lý với Người có đủ trí thức hiểu biết chí hướng cao thượng của Người mới theo
Người, mà trong cảnh hoang mang còn phản phúc thay, huống chi quốc dân Việt
Nam. Ngài đã để đức tin quyết tạo nên hình thể Quốc Ðạo cho quốc dân Việt Nam,
thì chính quốc dân trở lại nghịch thù, làm cho trọn một kiếp sanh của Người
phải đau thảm đổ lụy bao phen trước khi chết.
Bần Ðạo quả quyết rằng:
Trót một đời người, tìm chưa ra một mặt biết thương nòi giống với một tâm lý
nồng nàn như Thượng Trung Nhựt, Bần Ðạo chưa thấy được hai người như vậy, nếu
chẳng vì tình yêu ái vô hạn thì người chẳng hề hủy thân danh tạo nên hình thể
Ðạo để lại cho quốc dân, cái đại nghiệp tinh thần nầy sâu xa chừng nào quốc dân
hưởng lâu chừng nấy, sâu xa chừng nào lại càng quí hóa thêm nữa càng ngày càng
tăng giá trị và thiên hạ sẽ biết tấm lòng yêu ái của Thượng Trung Nhựt biến ra
một quốc hồn kiên cố.
Cả thảy ai là quốc dân
Việt Nam đều phải cúi đầu và vâng theo ý chí cao thượng ấy, không có một lưỡi
gươm nào tiêu diệt được nghiệp của Người để lại cho nòi giống Việt Nam đó vậy.
* * *
- Đức Hộ
Pháp Thuyết Đạo - Tại Tháp Ðức Quyền Giáo Tông.
8 giờ sáng ngày 13 tháng 10 năm Mậu Tý (1948)
LỄ KỶ NIỆM ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Ngày hôm nay chúng ta làm
lễ kỷ niệm Ðức Quyền Giáo Tông. Chơn linh của Ngài cả toàn con cái của Ðức Chí
Tôn nam, nữ đều biết là chơn linh Ðức Lý Ngưng Vương. Mười bốn (14) năm qua
chúng ta chịu tâm tang nơi lòng, vì mất một vị mà Ðức Chí Tôn chọn lựa, một vị
Ðại Tiên đến mở cơ quan cứu thế cho đời. Chúng ta tưởng niệm lại trong buổi
sanh tiền của Ngài, Ngài đào tạo cho thành nền Chơn giáo Cao Ðài; Ngài đã chịu
bao khổ hạnh. Giữa thế kỷ 20 nầy, tâm lý nhơn sanh thất đạo, đem một cái hòa bình
nêu cao lên làm trung tâm điểm cho tinh thần đạo đức nơi cõi Á Ðông, đã mỏi tay
gióng trống Lôi Âm, reo chuông Bạch Ngọc, mà nhơn loại giả vờ điếc đui không
biết cơ quan cứu thế là gì hết. Ðem cái khối sanh quang phục sống cho họ trong
chốn tử địa sắp tới đây, mà họ chưa tỉnh ngộ đặng lo bảo trọng sanh mạng, biểu
sao kẻ đại diện của Ðức Chí Tôn thuở sanh tiền không bị thiên hạ khinh rẻ. Vì
tâm lý chia rẽ đó, ngày nay có nạn tàn sát tiêu diệt nhau. Ta nhớ lại, 14 năm
Ngài đã khuất dạng, tạo dựng được cho khối tinh thần thống nhất cả lương tri
của toàn con cái Ðức Chí Tôn. Còn cả thảy hình ảnh nền Chơn giáo Ðức Chí Tôn
chưa có hiện diện gì hết. Cũng vì chịu thâm tình ấy, Bần Ðạo ra gánh vác trách
nhiệm nặng nề trong buổi nền Chơn giáo Ðức Chí Tôn phải chiến đấu đặng đem sự
chơn thật, đặng đem công lý gieo vào tinh thần loài người. Biết bao nhiêu lực
lượng đối phương đã thống nhứt lại với nhau đặng toan diệt Ðạo. Trong 14 năm
khuất bóng Ngài, Bần Ðạo chịu khổ hạnh 6 năm đồ lưu, còn trụ lực lượng đặng tạo
hình thể nền Chơn giáo chỉ có 8 năm mà thôi. Bao giờ cũng vậy, năng lực tinh
thần chẳng có lực lượng hữu hình nào tiêu diệt nó đặng. Nhờ âm điệu điều hòa
trong khuôn luật mà ngày nay Ðạo Cao Ðài đã nên hình tướng, đã đứng giữa hoàn
vũ nầy một cách vinh quang. Nhờ lẽ chơn thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào
trị tinh thần đặng, thì không có lực lượng nào đè nén đặng. Nó phải thắng đời
để cứu đời. Một nền Chơn giáo cao thâm tinh thần dường nầy sẽ bất tiêu, bất
diệt. Nhờ ơn đầu tiên của Ngài khai mở, chúng ta hãy cúi đầu cầu nguyện và cảm
tạ ơn Ngài.
* * *
- Đức Hộ
Pháp Thuyết Đạo - Tại Tòa Thánh
ngày rằm tháng 10 năm Canh Dần (1950)
VÍA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT
Hôm nay là
ngày kỷ niệm của Quyền Giáo Tông, toàn thể anh em chúng ta nên để tâm tưởng
niệm một người anh cả lớn nhứt, vĩ đại nhứt của chúng ta. Một người anh yêu ái
của toàn thể chúng ta đó vậy.
Hai mươi bốn
năm trước, nếu chúng ta tưởng tượng lại nền Đạo của Đức Chí Tôn thì không được
như ngày nay, Bần Đạo tưởng chắc cái khổ hạnh của người Anh cả Cửu Trùng Đài chưa đến nỗi phải đổ
lụy nhiều phen vì Đạo. Một nền chơn giáo gặp trong thời buổi trí thức
tinh thần của con người đã bị tài năng hóa học đào độn không còn cái quyền vi
chủ tâm lý của mình.
Thời buổi
thuyết duy vật đương đánh đổ thuyết duy tâm cái quyền năng đạo đức phải thối bộ
trước cái cường lực của trí thức tinh thần, tài tình nhơn loại thấy tưởng chắc
rằng trí thức tinh thần của họ được vi chủ cả tương lai, rồi chê bỏ phụ rải cả
triết lý tinh thần đạo đức.
Trong buổi
ấy Đức Chí Tôn lại đến, Ngài đến với một nền Tôn Giáo mà từ thử đến giờ nhơn
loại chưa buổi nào có, biểu sao không trăm ngàn lần khó khăn đã chồng chất.
Chúng ta hồi tưởng lại, suy gẫm cái khó khăn, cái phản động lực ấy nó làm trở ngại đến
mức nào? Thánh thể Đức Chí Tôn, tức nhiên cả toàn Hội Thánh phải chịu một cường
lực đè ép về tâm hồn hình thể, do nơi tay người Pháp. Chúng ta cũng nên tìm cho
thấu đáo trong ngày kỷ niệm của Anh cả mình "quang tiền vũ hậu" chẳng
phải một điều vô ích đó vậy.
Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn
thượng cây Phướn cứu khổ đặng cứu thế giữa mặt địa cầu nầy, nên chúng ta được
biết tâm hồn của nhơn loại chia ra làm ba:
1) Hạng nguyên
nhân.
2) Hạng hóa nhân.
3) Hạng quỉ nhân.
Đã là cơ quan tận độ, thì
không có kỵ ai bao giờ. Vì cớ cho nên đương thời buổi truyền bá chơn giáo của
Đức Chí Tôn một cách cường thạnh tuyên bố một cách phi thường, cái hoạt động
toàn Thánh thể của Ngài buổi nọ, chúng ta không thế gì tưởng tượng được.
Hại thay! Đã trót trên 10
năm trụ cả đức tin vừa mới vững chắc. Mở đạo nơi Chùa Gò Kén Đại Từ Phụ vẫn để
cho quỉ tàn phá giữa đại đàn, Ngài mở rộng cho ba phần chơn hồn ấy. Biểu sao
quỉ không trọn quyền dự thí để phá hoại làm cho cả đức tin thiên hạ gây thêm
một trường chống báng chê bai khinh rẻ, chẳng khác nào như vừa cất lên một cái
đài vinh dự, Ngài cho kẻ nghịch thù của Ngài tàn phá tiêu hủy, rồi phải lo tu
tạo lại như buổi ban sơ, phải mất cả hai năm truyền bá gầy tạo tinh thần của
con người lại, vì lẽ ấy cho nên tâm lý của nhơn sanh phải mờ hồ.
Bần Đạo làm chứng rằng cho
đến con cái chí hiếu của Đức Chí Tôn, tức nhiên cả Chức Sắc Thiên Phong, nam,
nữ mấy vị có trách nhiệm lãnh Thiên mạng của Đức Chí Tôn làm Thánh thể cho Ngài
cũng thế, họ cũng mờ hồ, đức tin của họ cũng chẳng có gì hết. Bởi vì thiếu đức
tin ấy làm cho Hội Thánh phải nghịch lẫn nhau tranh quyền lấn thế cùng nhau.
Trong cơ khảo đảo tranh quyền lấn thế ấy mới xuất hiện ra đảng phái Tả Đạo Bàn
Môn.
Bây giờ về phần đời của
Ngài là Thượng Nghị Viện tại Nam bộ này, tức nhiên là người Anh đứng đầu trong
thiên hạ buổi nọ vậy, nắm quyền trong tay, tuy vẫn còn dưới quyền thuộc địa của
người Pháp.
Về phương diện đứng đầu
trong xã hội nhơn quần, chẳng phải nói đứng đầu trong Quốc dân Việt Nam này mà
Anh cả chúng ta còn có phần đặc biệt ít ai dám khi rẻ, từ Nam chí Bắc danh của
Anh cả không người nào không biết. Thói thường tình của con người, hồi còn lúc
đương quyền họ nương bỏng, họ bợ đỡ, họ kiếm phương thế lại gần đặng núp sau
lưng Anh cả của chúng ta để lợi dụng quyền thế kiếm phương bán cả danh giá của
Ngài đặng thâu đoạt lợi quyền.
Hai mươi bốn giờ, Đức Chí
Tôn biểu bỏ hết gia nghiệp cho tới sự ăn chơi cũng thế, Đức Chí Tôn kỳ có 24
giờ mà thôi, hai mươi bốn giờ Anh cả chúng ta phải trường chay, 24 giờ Anh cả
phải dưng cả sự nghiệp cho thiên hạ, trong 24 giờ Anh cả chúng ta phải từ bỏ
chức Thượng Nghị Viên, dưng mảnh thân phàm cho Đức Chí Tôn làm ngọn cờ cứu khổ.
Cảnh tượng ấy, thiên hạ
thấy cái sang cái trọng kia, thấy cái quyền hành kia trả lại từ trên tới dưới,
đứng địa vị tối cao xuống địa vị tối thấp, vì cớ nên xúm nhau khi rẻ, vì không
còn hưởng được lợi quyền nào và không còn mơ ước bợ đỡ lợi dụng được thì phản
trắc.
Một trường bịa đặt ngôn
luận đủ mọi điều, không cái gì mà thiên hạ không nói, buổi nọ tình thế ấy, từ
giá trị đến đời sống của Ngài đều bị thiên hạ chê bai một cách vô lý không thế
gì tả được cái ích kỷ của đời.
Về quyền hành của Đạo,
không biết vì cớ gì Đức Chí Tôn đã định cho Ngô Văn Chiêu làm Giáo Tông của
Đạo, Đức Chí Tôn biểu may Thiên Phục Giáo Tông và may rồi trong 10 ngày lại
thôi, Ngô Văn Chiêu bị biếm vậy. Hại thay! Tước vị ấy để treo lên đó mà thôi,
dùng để cho ai hưởng, trái ngược lại Anh cả của chúng ta phải chịu mạng lịnh
cầm quyền ấy, làm cho tâm lý giữa Đạo và đời phải điên đảo phân phân bất nhứt,
gây thù kết oán với nhau, sanh ra các đảng phái đánh đổ Hội Thánh.
Hại thay! Ngài phải chịu
một trường hợp khó khăn đã chịu một điều oan khúc tình cờ không thế gì tự bào
chữa lấy mình cho đặng, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ, cả Chức Sắc Thiên
Phong nam, nữ cả tín đồ đều phân phân bất nhứt, đàng sau Anh cả chúng ta buổi
nọ không có cái hậu thuẩn chi hết, cả thảy đều bo bo chết anh, anh chịu, chết
em, em chịu, không biết binh vực lẫn nhau, không có một hậu thuẩn biểu sao
cường quyền không áp chế bắt cầm tù đặng thị nhục.
Nhớ lại, nếu Anh cả không
đủ tinh thần đạo đức, không đủ trí thức tài tình, một trường chiến đấu buổi nọ,
không phải dễ gì mà thắng. Họ nhốt trong khám mấy bữa vì nạn không có tiền đóng
thuế thân cho bổn đạo, chúng bắt bỏ tù luôn Ngũ Đẳng Bội Tinh trong mình Ngài nữa,
chừng ra rồi Ngài gỡ trả Ngũ Đẳng Bội Tinh lại, vì nó không có giá trị gì hết,
nếu có giá trị thì không thị nhục dường ấy. Trả mà người ta chưa dám lấy, năn
nỉ đưa lại cho Ngài. Tình trạng Anh cả chúng ta như vậy.
Ngộ nghĩnh thay! Thế gian
này từ thử đến giờ chưa thấy ai có đức tin lạ lùng như Ngài vậy.
Nền chơn giáo của Đức Chí
Tôn mà triết lý không ai biết đặng, con người ta phải có trí thức để suy gẫm,
lấy trí thức tinh thần để đoán xét cả sự tin tưởng nơi thế gian này chúng ta
thấy trí thức tinh thần tiềm tàng cho thấu đáo, cái đức tin của Ngài.
Bần Đạo giờ phút này, đứng
tại đây để dấu hỏi đâu mà có? Tức nhiên ở trên Trời vâng mạng lịnh đến mà thôi.
Người vâng mạng lịnh Trời tức nhiên do theo tiếng Trời kêu mới biết rõ; nếu nói
rằng: Đức tin thấu đáo đặng thì Bần Đạo chưa có trí thức tinh thần nào tưởng
tượng cho thấu đáo.
Bần Đạo đứng giữa đây, Cửu
Trùng Đài nam, nữ nhứt là nam phái, Bần Đạo ngó thấy người cầm đầu nam phái có
tinh thần vững chắc lắm. Còn đức tin nữ phái buổi nọ không bằng của nam phái.
Phái nam được hưởng một
đặc ân của Đức Chí Tôn, ngày nay lập quyền Cửu Trùng Đài nam phái là nhờ đức
tin lạ lùng của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt buổi nọ lưu lại họ hưởng
đó vậy.
Bần Đạo lấy công bình nói
quả quyết, ngày giờ nào Chức Sắc Đại Thiên Phong hưởng đặng vinh hạnh sang
trọng nơi mặt địa cầu này, là Cửu Trùng Đài không có quyền quên ơn Người thứ
nhứt của mình đã tạo nên khối đức tin để lại đó vậy. Đức Quyền Giáo Tông là ơn
đệ nhứt của Thánh thể Đức Chí Tôn Cửu Trùng Đài mà thôi.
Bần Đạo đứng tại đây làm
chứng cho toàn thể hậu tấn đều nghe tiếng của Bần Đạo nói: Bần Đạo lập lại
giùm, mỗi khi có tiếng nhắc lại cho họ nghe thấy là phương pháp của toàn thể
trong Đạo đền ơn cho Ngài đó.
* * *
- Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Đền Thánh đêm 12-10 năm
Tân Mão (1951)
KỂ ĐẠI CÔNG NGHIỆP CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Ngày mai này là ngày Vía
Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Bần Đạo xin để lời yêu cầu cả toàn thể
con cái Đức Chí Tôn phải có mặt đông đủ đặng tỏ cái nghĩa của chúng ta đối với
Người, một vị Đại Tiên đã giáng phàm, phận sự yếu trọng là đến đặng lập nền
chơn giáo nơi thế gian này. Cái tiểu sử của Ngài, ngày mai này Bần Đạo sẽ minh
tả. Chúng ta chỉ tìm hiểu thử coi cái hành tàng trong kiếp sống của Ngài để lại
cho chúng ta một cái gương quí báu, Bần Đạo muốn nói ra đây đặng toàn thể con
cái Đức Chí Tôn đối với Đạo hiểu cái phận của mình đặng định phận Đạo của chúng
ta, đối lại với Đức Chí Tôn và đàn anh của chúng ta thế nào, cái kiếp sanh của
chúng ta nơi thế gian này có hai sự nghiệp, sự nghiệp về linh hồn của chúng ta,
nói rõ ra là cái sự nghiệp do nơi năng lực của tâm hồn ta gây tạo và cái sự
nghiệp phần đời của chúng ta, nẽo đời nơi cõi thế này duy có mấy điều trọng
yếu: Công danh, quyền lợi. Chúng ta nên xét đoán tìm thử coi công danh thể nào
bền vững chắc chắn, công danh thể nào là tiêu hủy, mơ hồ bóng dáng.
Đức Quyền Giáo Tông buổi
nọ lúc sanh tiền của Ngài, nếu nói rằng có một người Việt Nam đã được phẩm vị
cao trọng, có thể phẩm vị ấy tạo công danh phú quí của Ngài toàn mãn đặng. Bần
Đạo vốn là bạn thiết của Ngài nên biết rằng: Dầu cho cả chủng tộc buổi nọ, một
vị Thượng Nghị Viên sang giàu mà Bần Đạo nói rằng chẳng hề buổi nào hưởng đặng
cái hạnh phúc. Chính Ngài đã tỏ với Bần Đạo cái tình chí thiết nói rằng: Có
nhiều chỗ của Ngài không muốn sống, Ngài muốn tự diệt Ngài đi mà chớ. Vì lẽ bất
công, bất công cả thảy trong xã hội, nhứt là xã hội đồng bào của Ngài. Ngài bỏ
cái công danh phú quí ấy, buổi nọ ai cũng chê Ngài khờ khạo, dại dột, Ngài đã
bỏ, ta thử nghĩ Ngài bỏ đặng chi? Ngài bỏ cái công danh phú quí bóng dáng đó
đặng Ngài tìm cái gì mà chớ? Có phải chăng Ngài đem công danh phú quí đổi lại
một công danh phú quí trường tồn hay chăng?
Hôm nay chúng ta đến đây
ai cũng có một cái tình cảm xúc, tại sao? Tại vì anh cả của chúng ta đã chịu
khổ hạnh bảo tồn nền chơn giáo, ai cũng ngậm ngùi tình luyến ái.
Chúng ta xét cổ kim, chúng
ta đã ngó thấy thiên hạ sống trong vinh hiển đã nhiều, đời sang giàu ai cho
bằng Thạnh Sùng, Vương Khải, ai mà giàu sang quyền thế đạt một ngôi vị Đế
Vương, giàu có bốn biển, thống nhứt cả nước Trung Hoa buổi nọ, Kiệt, Trụ, Sở Bá
Vương, Tần, mà chúng ta thử xem lại coi cái công danh phú quí sang trọng ấy giờ
phút này còn tồn tại chi chăng? Có tồn tại một món là Tần Thủy Hoàng tạo đặng
Vạn Lý Trường Thành, thiên hạ nhìn nhận một vật phi thường số 8 mà giờ phút này
chúng ta ngó thấy thiên hạ sửa soạn đập phá nó, để lấy cái nguyên liệu ấy đặng
xây dựng đền đài, tiêu hủy tên tuổi Tần Thủy Hoàng để lại. Cái sống trong vinh
hiển của đời này nó phải tùng theo khuôn luật, hình chất của con người còn công
danh phú quí ấy vẫn còn, mà mất thì công danh phú quí ấy vẫn mất.
Hại thay! Còn mất ấy nó ở
trong đời tạm con người một trăm năm là quá cao rồi. Chúng ta đã ngó thấy một
người ăn mày với một bình bát đi xin đặng độ nhựt, đặng sống vì Đạo, cái bình
bát ấy nó đựng cả Càn Khôn Vũ Trụ, cái bình bát ấy nó "đựng" cả tinh
thần tâm hồn toàn thể nhơn loại là Đức Phật Thích Ca.
Một kẻ bị xử án, tội nhơn
chết trên cây Thánh Giá không có một manh áo, chỉ trơ mình tấm thân trần (lỗ),
kẻ ấy hôm nay làm Chúa của toàn thiên hạ trên thế gian này. Hai công danh tôi
tưởng không cần gì để lên mặt cân mà lường, cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã
ngó thấy Quyền Giáo Tông của chúng ta biết lựa con đường ấy biết cái trọng, cái
khinh, Ngài khôn ngoan hơn hết, bỏ cái khinh giữ cái trọng.
Chúng ta thử nghĩ, chúng
ta vì gia đình là cho Tông đường ta và ông cha ta, tưởng ra nó còn lại với một
cái tình yêu ái của toàn thể thiên hạ, cái nào hơn, cái nào thua, cái nào
trọng, cái nào khinh, chúng ta không nói cũng có thể hiểu được.
Ước mong đoàn em của Ngài
biết cái lập trường quí báu của mình đứng trong lập trường ấy thế nào đặng vững
tinh thần, giữ danh thể, giữ cái oai võ của mình cho toàn vẹn giá trị mình.
* * *
- Đức Hộ
Pháp Thuyết Đạo - Tại Tháp Đức Quyền GIÁO TÔNG
ngày 13-10 năm Tân Mão (1951)
LỄ KỶ NIỆM NGÀY QUI TIÊN CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Thưa Chư Chức Sắc Thiên
Phong lưỡng phái, Quân đội cùng các anh em nam nữ, con yêu dấu của Đức Chí Tôn.
Ngày hôm nay là ngày vía
của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, một ngày kỷ niệm nồng nàn. Khi Qua
bước lên giảng đài này thì dường như Qua sống lại hai mươi mấy năm về trước,
cái thời gian hai mươi mấy năm ấy, giờ phút này Qua tưởng tượng như giấc ngủ,
giấc chiêm bao, chẳng có chi để lại cho ta hơn là một cái tình cảm nồng nàn.
Đức Quyền Giáo Tông đã
vâng mạng lịnh và đã lãnh một trách nhiệm Thiêng Liêng đến tạo nền chơn giáo
nơi đất Việt Nam nhỏ bé, bạc nhược, nếu Qua không nói là hèn hạ buổi nọ. Lãnh
một cái sứ mạng ấy là cái sứ mạng đem cả công lý cả yêu ái đặng để nơi mặt thế
gian này. Thật ra nhơn loại không buổi nào đặng hạnh phúc vì cái tình ái tuất
thương sanh Đức Chí Tôn đã đem để vào tâm não của mỗi đứa, đã tiêu hủy.
Thật ra hồi ban sơ chỉ có
ba người, Bần Đạo nói không có gì, Đức Chí Tôn đã đến một cách tình cờ, một
cách không ai tưởng tượng được, khi Ngài đến thì chỉ có Đức Cao Thượng Phẩm và
Bần Đạo mà thôi, về sau Bần Đạo và Đức Cao Thượng Phẩm mới đến nhà Đức Quyền
Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãn cùng người. Bần Đạo nói
thật, Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên một người đã đứng đầu trong một trường chánh
trị đã chịu một ảnh hưởng của tình thế trích điểm cũng có, tôn sùng cũng có,
khen cũng có, chê cũng có, buổi ấy bị họ ghen ghét nên chê nhiều hơn khen,
chính mình Bần Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí Tôn biểu Thượng Phẩm và Bần Đạo
đến nơi đó? Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi thường, giờ
phút này Bần Đạo nói đến lấy làm lạ, một là từ thử đến giờ Bần Đạo chưa ngó
thấy. Đến chuyện vãn cùng Ngài, Đức Chí Tôn nói cái chi, chỉ có hai người biết
với nhau mà thôi, Bần Đạo và Thượng Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết
gì hết mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi. Trong 24 giờ một người
đã là Thượng Nghị Viên, một cái gia nghiệp đủ vinh hiển đủ cao trọng đủ đương
đầu với thiên hạ. Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Một cái là hơn hết là
đương hút á phiện, người phong lưu như ai kia vậy, bỏ một cái một, rồi trường
trai đó vậy. Một người của Bần Đạo ban sơ thấy Thượng Phẩm là có một, rồi sau
lại có người này nữa. Ngồi nghĩ thầm cái đức tin gì mà lạ lùng như thế? Giờ
phút này Bần Đạo mới hiểu hai vị Đại Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề
Đức Chí Tôn đã giao phó một sứ mạng nặng nề khó khăn, để đảm nhiệm trách vụ tạo
dựng gánh vác nền chơn giáo của Ngài nơi mặt thế này. Nói thật ra, thưa cùng
Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài nam nữ cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái
ngôi Giáo Tông Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ
để nơi đất Việt Nam này một cái báu vật quí giá vô cùng từ thử đến giờ chưa hề
có.
Bần Đạo ngó qua bên
Vatican, cái ngai của Đức Giáo Hoàng Saint Pièrre thế nào thì Bần Đạo có lẽ nói
và có thể mơ ước rằng: Cái ngôi của Thượng Trung Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ
trở nên thế ấy. Anh em nam nữ lưỡng phái, giờ phút Thiêng Liêng này Đức Quyền
Giáo Tông Thượng Trung Nhựt ngự nơi đây để cho Bần Đạo nói với Ngài một đôi
lời.
Anh Thượng Trung Nhựt, cái
khổ nhục của anh, cái nghèo khổ của anh, ngày hôm nay nó đã được tượng hình,
tượng hình vĩnh viễn nầy. Cái khổ nhục của anh đó, các em đã dùng nó đặng tạo
nghiệp Thiêng liêng cho thế gian này, cái khổ nhục của anh nó làm ngọn huệ kiếm
đặng bảo trợ đoàn em của anh, đem cái công lý, cái bác ái làm chúa của mặt địa
cầu đặng chuyển lại cơ tận diệt trở nên một cái cơ tận độ. Anh ngó lại cái
tương lai của Việt Nam và cái tương lai của Đạo. Em có một lời yếu thiết là
đoàn môn đệ, đoàn con Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã phú thác cho những tay
cầm vận mạng tương lai của Đạo. Anh đã chán biết mỗi một sanh mạng của nó trong
quân sĩ, nó phải cỗi áo cà sa mặc chiến bào đặng chuyển thế, gieo bảo sanh nhơn
nghĩa đại đồng cho toàn nhơn loại, mà anh đã biết cái tương lai của Đạo, em đã
để nơi chúng nó một tình thương nồng nàn. Mỗi một sanh mạng của nó là một giọt
huyết lệ của em. Em giao cái vận mạng của nó trong tay anh, anh đã có làm anh,
có thể bảo thủ nên hư thời vận tương lai sẽ tới, em để trọn vẹn và em đã phú
thác trọn trong tay của anh đó vậy.
* * *
- Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Tại Tháp Đức Quyền Giáo
Tông
ngày 13 tháng 10 năm Tân Mão (1951)
LỄ KỶ NIỆM DI LIÊN ĐÀI CỦA NGÀI QUA THÁP MỚI
Hôm nay là ngày kỷ niệm
qui tiên của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Bần Đạo chỉ cần nhắc tiểu
sử của Ngài, bởi vì toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ, đều biết rõ kiếp
sanh của người anh cả chúng ta thể nào rồi, Bần Đạo có thuyết ra đi nữa cũng
thừa. Có một điều về tâm lý cao thượng của tinh thần, Bần Đạo trạng tả ra đây
là khi Bần Đạo đặng hạnh phúc làm tròn cái phận làm em.
Anh cả chúng ta thiên hạ
tưởng là chết, nhưng vẫn sống... Chết gì còn nói được, chết gì mà để khối tinh
thần trong đầu óc anh em còn hiện diện tại đây?
Chúng ta đương hành lễ,
anh cả của chúng ta về để lời cám ơn, trong lời cám ơn ấy có điều yếu trọng hơn
hết, Bần Đạo giải nghĩa điều yếu trọng ra đây cho toàn con cái Đức Chí Tôn đều
biết, tưởng nếu lời trọng yếu ấy mà anh cả của chúng ta không có nói thì chưa
ai tưởng tượng lời cảm ơn ấy được. Tuy vẫn biết xác thịt người là xác chết, xác
phàm này là con vật không có gì hết, mà mấy em nam nữ tôn sùng quí trọng, là
cốt mấy em sùng bái Thánh Thể Đức Chí Tôn mà thôi, nói nội bấy nhiêu đó cũng đủ
làm bài học quí báu cho toàn thể Chức Sắc nam nữ. Hội Thánh là thánh thể Đức
Chí Tôn vậy.
Xác chết đã hết giá trị
rồi, mà chúng ta còn muốn tôn sùng cái giá trị ấy cao thượng hơn, giờ phút này
lời anh cả chúng ta đã nói, so sánh lại xác chết của anh cả chúng ta và cái
kiếp của Thánh Thể Đức Chí Tôn, hai cái địa vị như thế nào, chúng ta đã có can
đảm tôn sùng xác chết của Đức Quyền Giáo Tông như thế này, thì đối với giá trị
tôn sùng xác sống của Đức Chí Tôn, tức nhiên là Hội Thánh, thì nó còn giá trị
quí báu hơn nữa chớ! Sự thật nó vẫn vậy, chúng ta tự hỏi: Nếu chúng ta muốn đạt
cho đặng cái giá trị cao thượng ấy, chúng ta phải làm thế nào? Và làm thể nào
cho đáng giá? Ấy là câu hỏi nên để mãi trong đầu óc hay hơn lời của Đức Chí Tôn
để trong lòng chúng ta nữa. Những lời hay của anh cả chúng ta, một người vì đức
tin nơi Đức Chí Tôn, dám hy sinh cùng Ngài, làm cho chúng ta phải học.
Thảng như chúng ta suy gẫm
đến điều này thì thấy trước kia anh cả chúng ta sống trong trường quan lại, là
một vị Thượng Nghị Viên tức nhiên là một tước phẩm tối cao của xã hội Việt Nam
buổi nọ, Ngài đã biết cái giá trị thọ lãnh nơi Đức Chí Tôn và cái giá trị thọ
lãnh cùng đời và có can đảm quyết đoán cái khinh, cái trọng, mới có can đảm bỏ
cái hình đương thời có giá trị hiển nhiên, mà lấy cái bóng không có giá trị gì
hết, buổi nọ họ mạt sát khi rẻ, mà Ngài có can đảm hay chăng chúng ta đã ngó
thấy, người cầm con cờ nơi tay và chỉ có nước ăn, nước thua, mà Ngài biết cầm
con cờ đi nước thắng. Ngài dám gởi tâm hồn hình thể của Ngài nơi tay của Đức
Chí Tôn giá trị buổi nọ coi rẻ thế nào? Mà ngày giờ này, cái giá trị ấy nó có
uy quyền thế nào, Bần Đạo để cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn ngó thấy.
Nơi mặt địa cầu này, dầu
cho giá trị nào, hay hàng phẩm nào, dầu cho bực vương đế đi nữa, mà không có
tinh thần của Đức Chí Tôn để trong đó là đồ bỏ không có giá trị gì hết, mà cũng
không khi nào vĩnh cửu, trường tồn được. Chúng ta đã ngó thấy đài Tần, đỉnh Hớn
kia như thế nào mà dám chắc tương lai của nó không bằng cái tháp này. Cái tháp
này sẽ trường cửu, đài Tần, đỉnh Hớn kia sẽ bị tiêu tan.
Bần Đạo nói ra đây cho
toàn thể con cái của Đức Chí Tôn hiểu
biết cái sứ mạng tối yếu, tối trọng của chúng ta là thể nào đó vậy.
* * *
- Đức Hộ
Pháp Thuyết Đạo
Đền Thánh đêm 12 /10 năm Nhâm Thìn (1952)
NGÀY MAI NÀY LÀ NGÀY VÍA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Ngày mai này là ngày Lễ
vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, tưởng khi cả anh em chúng ta nam, nữ
lưỡng phái đều tưởng nhớ Ngài lắm vậy. Ấy là người Anh Cả đầu tiên của chúng
ta. Đức Chí Tôn đã ban hồng ân Thiêng Liêng vô đối ở dưới thế gian này, có một
vị Giáo Tông đầu tiên của nền Đạo.
Nhân dịp ngày Lễ Đức Quyền
Giáo Tông, chúng ta nên để tâm suy đoán nhớ lại thử coi cái gương của Ngài để
lại cho chúng ta là cái gì, Bần Đạo xin nói rõ giúp cho toàn thể con cái của
Đức Chí Tôn có phương thế suy đoán.
Hỏi lúc nòi giống Việt Nam
và Quốc gia Việt Nam ở vào thời kỳ Pháp thuộc một người như Đức Quyền Giáo
Tông, Bần Đạo nói rõ là một người bần hàn xuất thân, cha chết sớm duy có bà mẹ
nuôi cho đến khi lớn, chỉ ở vậy thôi, không tái giá, chớ phải chi nhà giàu có "Môn đăng hộ đối" chẳng nói
gì, nhà nghèo mà hẩm hút làm lụng nuôi con ăn học đến nên người.
Bần Đạo còn nhớ lại Đức
Quyền Giáo Tông có nói với Bần Đạo một chuyện rất ngộ nghĩnh, Bần Đạo minh tả
ra đây cho tất cả bên phái nữ để ý cho lắm, để làm một bài học hay, khi Bà thân
của Người đã qua đời, thì cả trong làng thương yêu một cách không thể nói được,
Chức Sắc làm bàn đưa linh mà trong bài châm ấy để mấy chữ như vầy: "Tích
Mạnh Mẫu" tức nhiên toàn thể nhận tang cả, chẳng khác gì Mạnh Mẫu cho lắm,
chỉ biết mình là hạng bần hàn nên con mắt của người không bao giờ ngó đến kẻ
nghèo khổ, lam lụ như Ngài thuở ấu xuân vậy. Vì cớ cho nên Ngài đem tâm chí làm
sao ích lợi cho dân, tức nhiên cho đồng bào trong nước. Vì thế cho nên Ngài
phản đối một cách không thể tưởng tượng trong buổi lệ thuộc ấy, can đảm chúng
ta không bao giờ dám đề xướng như vậy đặng. Trong nước chúng ta buổi nọ, nhứt
là trong Nam Kỳ (Bần Đạo dùng tiếng xưa) buổi nọ nếu có một người An Nam nào
đứng đầu quần chúng, thì duy có Ngài mà thôi. Bởi chính mình Ngài vào Thượng
Nghị Viện Chính Phủ Pháp buổi nọ duy có một mình Ngài trong Nam Kỳ.
Ấy vậy, nếu như buổi nọ
Ngài muốn giong ruổi trên con đường danh lợi, thì cái công danh phú quý của
Ngài vẫn ở trong tay, không xin ai, không hạ mình mà bợ đỡ hay nịnh hót ai đặng
danh lợi ấy.
Danh lợi sở hữu vì tài đức
của Ngài, Bần Đạo có thể nói Ngài là một người sống trong trưởng giả đó vậy,
nhưng mà dòm trước mắt thấy cả đồng bào thống khổ, cái lẽ bất công nó cứ chàng
ràng trước mắt của Ngài hoài, cho nên thật sự ra, dầu ngồi trên địa vị cao kỳ
sang trọng bao nhiêu đi nữa Ngài không buổi nào thỏa thích được, đến nỗi Ngài
tranh đấu, tranh đấu thấy mình bất lực muốn chết đi cho rồi, muốn tự vận nên
hút á phiện đặng chết cho sớm, cho khuất con mắt, tránh cái thống khổ của dân
đã chịu. Nhưng cái người mà Đức Chí Tôn đã dành để đó, dễ gì chết một cách dễ
dàng như thế. Nên Ngài sống, Ngài sống cho đến khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo. Một
lời Đức Chí Tôn phán thì cả cái sang trọng phú quý của Ngài, Ngài coi như bọt
nước, nội một ngày cả sự nghiệp đều để cho thiên hạ. Ngài bán cả của cải ấy,
Ngài ra với một mình không. Buổi nọ hút một ngày năm mười đồng bạc, mà bỏ hút
rồi có một ngày ăn trường trai kể từ ngày Đức Chí Tôn đến, chính mình Bần Đạo
làm chứng cho vậy.
Cái đức tin phi thường đã
thấy trong cửa Đạo Cao Đài nầy có hai người: Một Đức Quyền Giáo Tông, hai Đức
Cao Thượng Phẩm mà thôi. Phải chăng do nơi khối đức tin vô đối ấy đã làm cho
Đạo Cao Đài nên hình như ngày hôm nay.
Một cái sứ mạng khó khăn
nhứt là buổi nọ Đức Chí Tôn đến, Bần Đạo nhớ lại thiên hạ trở thành vô Đạo, cả
toàn thể quốc dân giong ruổi theo duy vật, văn minh đương thời bây giờ, quên
hẳn cả lễ nghi phong hóa nước nhà, làm cho sống lại chẳng phải là một điều dễ,
phải chiều chuộng, bợ đỡ, nâng niu, chẳng khác nào bà mẹ coi từ vú sữa, mớm cơm
cho con thơ dại, mới tượng hình của Đạo ngày hôm nay. Cái khó khăn hơn hết Bần
Đạo nói có bằng chứng, chính mình Đức Chí Tôn đến mở Đạo Ngài than khó lắm.
Chính mình Ngài là Đức Chí Tôn quyền năng vô đối mà còn than về cái khó đó. Bần
Đạo để bằng cớ hiển nhiên cho con cái Đức Chí Tôn ngó thấy, Đại Từ Phụ đã làm
hai bài thi than buổi nọ như vầy:
"Cao Đài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng.
Chiều lụy đòi phen, xem quá tục,
Nghĩ không đổ lụy phải cường khan".
"Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy".
Bằng cớ hiển nhiên đó
chính mình Đức Chí Tôn còn than, chúng ta nhớ lại, buổi nọ cái sứ mạng thiêng
liêng của Đức Quyền Giáo Tông và của Đức Cao Thượng Phẩm nó khó khăn dường nào.
Thật sự phải chìu luỵ về tâm hồn con người buổi nọ một cách không thể tưởng
tượng được. Bần Đạo thú thật, buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm
và Bần Đạo cũng vậy, chỉ có ba anh em ôm sứ mạng thiêng liêng ấy nơi mình. Lãnh
sứ mạng khó khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài cũng như Đạo Phật hay Minh Sư, Minh
Đường, đáo để, cạo đầu vô chùa làm thầy Chùa tu là cùng, tưởng dễ dàng lắm,
kiếp sanh nơi thời bấy giờ đã khổ não tâm hồn và xác thịt lệ thuộc như thế, Ổng
biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời gian ngắn ngủi không bao lâu thấy cả con cái
của Ngài, đến cùng Ngài, cả muôn, cả triệu, chừng đó mới biết sợ sệt. Chính
mình buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông ra hậu điện, Người hỏi Bần Đạo: Đại Từ Phụ làm
cái gì vậy? Thấy thiên hạ vào cửa Đạo quá chừng Đại Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy?
Chính mình Bần Đạo cũng không biết, biết đâu Ông làm gì, Ông đến Ông thâu Tín
đồ nhiều quá ảnh than rằng: Tới đâu hay tới đó chớ biết sao!
Kể từ đó bị khảo miết Đức
Cao Thượng Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng nằm trên giường
bệnh cho tới hơi thở cuối cùng, không buổi nào không bị khảo, không buổi nào
không bị nhục nhã. Cái luật thiên nhiên không có điều gì xin xỏ điều gì cũng
phải mua chuộc.
Bần Đạo đã quyết rồi xin
để Bần Đạo kết luận bởi mua chuộc với cái khảo đảo nhục nhã của đời, để bảo
trọng danh giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang trọng vô đối.
Chúng ta thấy gương rõ
ràng Đức Phật Tổ là Chúa cả linh hồn của nhơn loại bên cõi Á Đông nầy. Đức Chúa
Jésus Nazareth hay Christ Chúa của các linh hồn bên cõi Âu Châu. Hai người ấy
một người thì đi ăn xin, cầm Bình Bát đi ăn xin, không phải ăn xin cho Ngài, ăn
xin cho kẻ đói khó nghèo nàn đem về cấp Cô Độc Viện, đặng nuôi dưỡng họ, một
đời không có cái áo lành. Ngài đi mót máy đồ rách rưới, rồi chầm khiếu, gặp
người nào lạnh cởi ra đưa cho bận, ở trần mãi thôi. Đức Chúa Jésus Nazareth
(Christ) không có được hai cái áo, không có chỗ nương thân Ông than một câu,
than nghe thảm thiết làm sao: Con chim nó có cái ổ, con chồn nó có cái hang, mà
con người này không biết chỗ nào gối đầu của mình!
Hai người ấy mà cái nghiệp
họ đã đào tạo nơi thế gian này, một người hai ngàn năm, một người hai ngàn năm
trăm năm vẫn còn tồn tại mãi thôi. Biết bao nhiêu cơ nghiệp Đế Vương, biết bao
nhiêu người giàu sang ở dưới mặt thế gian này, nào là đài Tần, đảnh Hớn cả thảy
đều tiêu tan, chúng ta không còn ngó thấy một dấu tích gì lưu lại. Mà hai người
nghèo ấy, hai người bần hàn ấy, một người hai ngàn năm, một người hai ngàn năm
trăm năm, đại nghiệp họ vẫn còn tồn tại.
Một điều Bần Đạo buồn cười
hơn hết, ở ngoài đời dùng cường lực nào là bom nguyên tử, nào là gươm đao, súng
đồng mọi thứ để tàn sát thiên hạ đặng làm bá chủ, đặng giành bá chủ không phải
dễ làm. Bởi vì họ muốn làm bá chủ của thiên hạ nhưng không được đâu, thiên hạ
phản đối luôn, chống lại cường lực mãi thôi, chẳng buổi nào ngừng.
Mới đây con cái Đức Chí
Tôn đã ngó thấy Xá Lợi Phật, tức nhiên xương của Đức Thích Ca buổi nọ thiêu còn
sót lại miếng nhỏ nhỏ để lại phân phát các Chùa ở bên Ấn Độ qua tới bên Ấn Độ
Dương một miếng có một chút, đem Xá Lợi Phật bằng đầu mũi kim chớ có lớn đâu,
thiên hạ hoan nghinh cả Xá Lợi Phật, không có súng, không ai ràng buộc, không
đem súng mà họ theo, cả thảy đều cúi đầu không phải cầm súng mà người ta coi
mạnh phi thường không thể gì tưởng tượng được. Cái Ông mà nghèo nàn đệ nhất hơn
hết, bây giờ thiên hạ thấy hình trái tim của ông cháy lửa ra, hễ ngó thấy hình
trái tim thì cúi đầu hết thảy, mà cả toàn thể các liệt cường sắc dân Âu Châu
cho tới Á Đông 600 triệu Tín đồ ngó trái tim đời đời không khi nào mỏi.
Đức Quyền Giáo Tông đã
khéo lựa, Ngài bỏ cái ngôi vị Thượng Nghị Viện của Ngài, chỉ theo Đức Chí Tôn,
nên người ta gọi Ông già tu Tiên (gọi theo lối kiêu ngạo) mà ngày hôm nay địa
vị nầy Bần Đạo nói thật nó còn đời đời kiếp kiếp, cái danh giá của Ngài không
bao giờ tiêu hủy. Cao Đài còn, danh giá của Ngài vẫn còn, công nghiệp của Ngài
đối với nhân loại vẫn còn. Ngộ nghĩnh thay! Cả thiên hạ hạng nhứt là quốc dân
Việt Nam đã nô lệ về phần xác, Đức Chí Tôn cho một người Tướng Soái đến đặng
giải thoát họ, quí trọng hơn hết trong kiếp sống của họ là giải thoát về phần
hồn. Nắm về phần hồn làm chúa thiên hạ, ngộ nghĩnh thay! Tượng hình làm chúa
trong đó tay Đức Quyền Giáo Tông là tay thứ nhứt hơn hết. Sao, giờ phút này,
Bần Đạo ngó lại phải để câu hỏi: Nền Đạo Cao Đài ngày kia sẽ tạo nền văn minh
như thế nào? Thật vậy nền văn minh sẽ ra sao?
Bần Đạo nói hai vị Giáo
Chủ kia đã mang thi phàm xác tục, mà họ còn để lại hai gương đẹp đẽ vô biên ấy,
họ tạo Tân dân, họ đã đến đây phương kế hiệp thành chữ "Khí" của Đức
Chí Tôn đến giữa Thánh đức của Ngài, rồi giờ phút nầy Đức Chí Tôn đến để nơi
mặt thế gian này nền Tôn Giáo Cao Đài, thì nền văn minh ấy thế nào con cái của
Đức Chí Tôn đoán biết.
- Đức Hộ
Pháp Thuyết Đạo - tại Tháp Đức Quyền Giáo Tông
ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954)
GƯƠNG ANH CẢ ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Thưa cùng Chư Chức Sắc
Thiên Phong Nam, Nữ; Thánh Thể của Đức Chí Tôn, các cơ quan Hành Chánh Đạo, các
em Nam, Nữ, mấy con Nam, Nữ.
Hôm nay là ngày Vía Đức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, mỗi năm ngày kỷ niệm của Ngài Bần Đạo đã
thuyết nêu không có điều chi lạ, cả con cái Đức Chí Tôn có đặng mới mẽ điều chi
chăng?
Trường hợp đã hiển nhiên
trong thế sự, giờ phút này là giờ phút quyết định, vận mạng tương lai của Tổ
Quốc Việt Nam và vận mạng tương lai của chủng tộc nòi giống, tình trạng thay
đổi một điều mới mẽ chúng ta nên để ý suy gẫm, ngộ nghỉnh thay, là chỉ có ba
mươi năm xuất hiện mà Đạo Cao Đài, có một năng lực đào tạo thay đổi thế sự nước
Việt Nam một cách đáng kể, nhứt là ảnh hưởng đương nhiên nó đã làm cho cả tâm
lý của nhơn loại, vạn quốc đều phải để mắt đến nó, hỏi cái quyền hành tối cao
tối trọng ấy, chúng ta ngó thấy có phải chúng ta làm nên đặng chăng? Không:
Không phải, nếu kẻ thiếu đức tin, hay các nhà triết học thấy cả cái mạng vận
đương nhiên của nó rồi quan sát, cả tình thế dĩ vãng của nó thì người ta sẽ nói
Đạo Cao Đài có một năng lực, họ tưởng đâu cái năng lực theo thế thường của
thiên hạ, lấy cái mạnh, cái oai quyền, lấy năng lực tranh đấu, theo thường tình
của nó là thành đặng, không Bần Đạo làm chứng rằng, không phải vậy, quả quyết
không phải như vậy, bởi vì chúng ta nên quan sát cả tình thế nước nhà, cái tình
thế đương nhiên của nòi giống ta, không phải năng lực chúng ra gầy nên uy tín
cao trọng của nó đương nhiên được, quyền năng ấy là quyền năng vô hình trong
tay của Đấng Tối Cao tối trọng, quyền năng vô biên kia của Đức Chí Tôn của Đại
Từ Phụ đó vậy.
Bần Đạo đã quan sát và suy
gẫm khi đã đem thân ra quốc tế, làm con hạc Đạo, đem cái tiếng thanh tao của
tâm lý đạo đức tinh thần an ủi cả tâm hồn khổ não đương nhiên của họ Bần Đạo
biết rằng, không phải quyền năng của mình mà quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn
đó vậy.
Trước khi Đạo chưa ra khỏi
nước, mà quyền của Đạo toàn cả thiên hạ đều biết cái chơn tướng của Đạo, thiên
hạ đã tầm thấy trước, ấy vậy Bần Đạo nói cái giọt Cam Lồ cứu khổ của Chí Tôn,
không phải rãi nội trong nước Việt Nam này mà thôi, mà cả toàn con cái Ngài và
toàn nhơn loại chúng ta suy đoán như thế rồi chúng ta ngó lụng lại cái dĩ vãng
của Đức Quyền Giáo Tông hồi mở Đạo, Đạo mới phôi thai, như trẻ sơ sanh kia vậy,
mặc tình cho thiên hạ muốn để sống thì sống, muốn giết chết thì giết, họ đã mưu
toan diệt tiêu nó bởi vậy ngày sản xuất nó ra với một huyền linh phi thường,
thiên hạ kinh khủng sợ sệt, trước họ gần họ muốn cho nó trở nên một tu sĩ, mà
tiếng tục người ta nói, Cụ Thầy Chùa kia mà thôi, và người ta mơ vọng cho nó
trở nên như thế, người ta đã áp bức nó, người ta đã sỉ nhục, cái sỉ nhục ấy,
người có thể làm chứng chắc chắn là Đức Quyền Giáo Tông và Đức Cao Thượng Phẩm.
Ngộ nghỉnh thay! Cả cái sự
sỉ nhục buổi nọ, hôm nay nó đã biến thành một vinh quang vô đối, Bần Đạo tưởng,
nếu cả tâm hồn chúng ta đem cái giá trị của hai Đấng mà so sánh, không ai tạo
dựng nó, nếu không phải quyền năng Thiêng Liêng vô hình, quyền năng vô đối của
Đức Chí Tôn mà làm nó đặng, trước người ta sỉ nhục tới một vị ngồi trên Ngai
Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, người ta vẫn mạt sát chà đạp, hôm nay con cái của
Người, đám em út của Người đó có thể có một quyền năng sửa đời cải thế đặng,
tạo Đời một cách mới mẻ vậy, cái năng lực chúng tôi tạo dựng riêng biệt không
bắt chước ai không xin ai, chính mình chúng tôi tạo thành đó vậy.
Xét lụng lại cái dĩ vãng,
ngó cái đương nhiên bây giờ của chúng ta, nếu cả thảy con cái của Đức Chí Tôn
thấy thế nó làm chứng quả quyết cho người Anh Cả buổi ban sơ chịu khổ nhục
dường nào hôm nay chúng ta hưởng được cái vinh quang phú quí, vinh hiển giờ
này, đối với người buổi đó vậy, thật ra Đức Chí Tôn rất công bình và rất mạnh
mẽ đó vậy.
Đêm hôm Bần Đạo có làm một
bài thi để ghẹo Đức Quyền Giáo Tông:
THI
Nguyện vọng như anh đã thỏa rồi,
Cố tâm kế chí có thằng tôi.
Bầu linh gậy sắt Ông an thế,
Chày Giáng Xử Ma tớ giúp đời.
Vững tiếng xa thơ già gắng đẩy,
Xuôi chèo Bát Nhã trẻ đua bơi.
Khuôn hồng trước thấy trời quang đảng,
Kế nghiệp mai sau vẫn có người.
* * *
2. - Đức
Hộ Pháp Thuyết Đạo - tại Đền Thánh đêm 4 tháng 5 năm Quí Tỵ
Đức Hộ Pháp nói về Sinh Nhật của Ngài.
Bần Đạo xin
để lời cám ơn toàn thể, Thánh Thể Đức Chí Tôn, các nhà cầm quyền và các cơ quan Chánh trị
Đạo, mấy em nam nữ lưỡng phái, mấy con Đồng Nhi nam, nữ.
Hôm nay cả thảy con cái
Đức Chí Tôn đến tại Đền Thánh cầu thọ cho Bần Đạo, tưởng cái phúc hạnh Đức Chí
Tôn đã ban cho Bần Đạo hưởng tại thế đã nhiều lắm, đã quí báu lắm rồi, Bần Đạo
tưởng dầu cho một ngày kia về nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống ơn nghĩa này cũng
chẳng quên đặng nhau.
Bần Đạo xin thuật lại một
chuyện. Ngày mai này lối 9 giờ gần tan chợ. Bà Mẹ của Bần Đạo nói: Không biết
mấy giờ ngày mồng 5 tức nhiên là ngày sanh của Bần Đạo, và ngày mai đây Bần Đạo
đã đúng 64 tuổi chẵn, không dư một ngày không thiếu một ngày.
64 năm qua, thật ra Bần
Đạo tưởng tượng chẳng khác gì một giấc chiêm bao. Đã 64 năm Bần Đạo chẳng hề
buổi nào hưởng đặng hạnh phúc vui vẻ, vì tánh đa sầu đa cảm nên chỉ biết nhiều
sầu nhiều tư lự, hơn vui hứng, bởi quả số cho nên tấm thân phải chịu đau khổ.
Bần Đạo xin nói sơ lược
Tiểu Sử của Bần Đạo, Bần Đạo sanh ra trong một gia đình đông con, Bần Đạo là
con dòng thứ hai, gia đình hiệp lại với nhau để sống, Bần Đạo là con thứ tám, gốc
gát Ông thân của Bần Đạo ở An Hòa (Trảng Bàng) tùng theo Khổng Giáo, gia đình
nhà khá giả, nhưng Ông thân của Bần Đạo là con thứ sáu của Ông Nội Bần Đạo, Ông
thân của Bần Đạo bị tai họa liên can một vụ ở Cần Đước nên Pháp kiếm bắt, vì
cảnh tượng nghèo của gia đình buổi nọ, nên Ông thân của Bần Đạo phải buộc mình
ra đầu quân cho Pháp để cứu vãn tình thế, vì cái lẽ đó Bần Đạo tưởng lại người
đã chịu một tấn tuồng khỗ não về tinh thần lắm. Người muốn chết cho rồi, nhưng
dòm lại đám con nên Ông tự an ủi đặng sống. Khi Ông đã lên tới chức Đội của
Quân Đội Pháp, Ông đi chiêu an nên bị binh cựu bắt ông đem về đánh hơn 10 roi,
trong 10 roi đau thảm Ông ân hận cho đến chết không quên được, sau ngày ra đầu
thú thì mấy anh của Bần Đạo đều theo cha làm sĩ quan hết, duy còn Bần Đạo và
người anh thứ bảy không biết một tiếng Pháp, mà bây giờ cũng vẫn còn đó.
Hồi còn thơ ấu, Bần Đạo
nói thiệt, đường liêm khiết cả một đời làm việc chưa biết hà lạm ăn của ai một
đồng xu nhỏ, dầu cho nghèo cũng vậy.
Nhắc lại khi Bần Đạo lúc
còn thiếu sinh đi học tại Trường Tây Ninh, buổi đi về đang ngồi ăn cơm Bà Mẹ
mới hỏi Ông thân của Bần Đạo, Ông cho cả con cái theo bên võ, không cho đứa nào
theo bên văn sao? Ông thân trả lời: Võ nó không biết kiếm thế hà lạm, bên văn
nó hay hà lạm tôi không chịu, Bà già chỉ Bần Đạo và nói, còn thằng nhỏ này yếu
ớt bạc nhược, thôi cho nó theo văn đi, Ông thân của Bần Đạo nói: Được nếu nó
theo bên văn mà tham quan ô lại thì tôi vặn họng nó. Vì lời nói đó mà cả một
đời nghèo khổ thật, nhưng Bần Đạo chưa biết hà lạm chưa dám ăn đồng xu nhỏ nào
cho tới ngày phế quan về hành Đạo, lạ một điều, mấy anh mấy chị của Bần Đạo nói
lại, hồi nhỏ Bần Đạo khó nuôi lắm, hể mỗi khi nóng lạnh là chết, chết miết vậy
thôi, tới 10 tuổi mà còn chết, chết sống không biết mấy lần, hể mỗi khi nóng
lạnh thì cả nhà phải thức ngồi một bên đó vậy mãi, chỉ vì sợ Bần Đạo chết mà
thôi.
Ông già, Bà già là người
có Đạo, mà buộc mình phải vào Đạo đặng đem Bần Đạo đi rửa tội theo Thiên Chúa
Giáo, tình trạng lúc đó trong nhà sợ sệt biết bao nhiêu, cho tới năm 7 tuổi Bần
Đạo còn chết một lần nữa, chừng sống lại được rồi thân thể không còn gì hết, vì
lúc chết người ta gỏ đầu, gỏ cổ, căn tay, căn chơn không còn hết, chịu đau đớn
biết mấy.
Cái chướng ngại của Bần
Đạo chết hoài, chết sống đến đổi trong nhà cha mẹ anh em của Bần Đạo toàn thể
trong nhà phải vào Thiên Chúa Giáo, đặng cầu cho Bần Đạo sống, vì cớ mới có Đạo
Thiên Chúa.
Cái đa sầu đa cảm của Bần
Đạo hồi 17 tuổi nếu không may phải giết Bà Mẹ một cách gián tiếp. Bà Mẹ cứng
quá đổi nên khiến trắc trở không xuất dương du học được, chớ phải chi quyền
Thiêng Liêng quyết định thì Bần Đạo đã lưu vong nơi hải ngoại rồi, dám chắc Bần
Đạo đi khỏi thì Bà Mẹ sẽ chết. Lúc đó nhờ Ông Lưu Khắc Ninh đốt hết giấy tờ,
thành thử đi du học không được, tới khi ra làm quan với nhà nước chỉ ngồi đó
đặng xem cái đau khổ của gia đình, cho đến ngày Ông già hồi lưu một gia đình
Ông nghèo khổ không có đủ chỗ sống, mấy anh em phải tạm nhờ trong gia đình nầy
Bần Đạo nhận thấy sự thương đau ngoài trường thế kia đồng bào đang đau khổ lệ
thuộc, vì cớ không có buổi nào an vui được.
Kể từ 17 tuổi dĩ chí buổi
nầy, không buổi nào không tranh đấu, không buổi nào an nghĩ được chờ tới cái
năm chót của Bần Đạo bị đồ lưu hải ngoại, khi trở về được may duyên cho Bần
Đạo, hạnh phúc là còn xác thịt nầy được làm tôi cho con cái Đức Chí Tôn, còn
xác thịt này thì còn mong mỏi tạo hạnh phúc cho Đạo đặng, dầu bền vững hay
không, Bần Đạo cũng vẫn lui cui làm mãi, vì thấy trước mắt con cái Đức Chí Tôn
đau khổ thì không buổi nào an vui được, không buổi nào ngồi nghĩ được. Ngó lụng
lại đám hậu tấn sau kia họ dầu có biết lệ thuộc buổi nọ thế nào, đau khổ tâm
hồn thế nào, xác thịt thế nào, Bần Đạo muốn làm phương nào để giải thoát lệ
thuộc đám hậu sinh đó cho đặng là hạnh phúc trong kiếp sống của Bần Đạo đó vậy.
Giờ phút này tuy nó khó
nhọc thật, nhưng Bần Đạo được hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn ban cho, và đã làm
tôi cho Ngài và làm tôi cho con cái của Ngài.
* * *
2a. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - 05-05-Quý Tỵ
ĐỨC HỘ PHÁP
Đáp Từ Sau
Khi Các Cơ Quan Chánh Trị Đạo Chúc Thọ.
Thưa Chư
Chức Sắc Thiên Phong Nam , Nữ Lưỡng Phái, cùng
Chư Vị cầm quyền các Cơ Quan Chánh Trị Đạo, mấy em nam, nữ, mấy con Thiếu Sinh
nam, nữ.
Bần Đạo để lời cám ơn mấy
em một cách nồng nàn, và lời cám ơn ấy nó chẳng phải ở ngoài môi, mà nó ở trong
tâm não của Bần Đạo đem ra đó vậy.
Thưa cùng toàn thể Đạo, và
các nhơn sĩ, chư vị đồng chí đã có lịch trình tranh đấu cho quốc dân cho Tổ
Quốc. Bần Đạo thú thật, cái kiếp sanh hữu dụng này, nếu không có nhờ oai quyền
và ân Thiêng Liêng đặc biệt của Đức Chí Tôn đã ban cho thì kiếp sống này cũng
như các kiếp sống khác kia vậy. Có, không, không, có, luật tạo đoan đã tạo ra
các sanh vật ở thế gian nầy thế nào mạng sanh ta cũng thế ấy có chi đặc biệt.
Nếu luận cho chánh lý mình có đầu óc, tay chơn, thì cả toàn thể ai kia cũng
vậy, chẳng có hơn ai, cũng chẳng kém ai, chỉ là một phần tử trong vạn linh đó
vậy mà thôi, nếu không có ân Thiêng Liêng dành để đặc biệt thì Bần Đạo bất quá
cũng như một người đó vậy thôi, nó có khác chăng là cái tình ái nồng nàn. Tình
ái ấy làm cho Đức Chí Tôn biết đặng, hiểu đặng, mà Ngài tuyển chọn làm một phần
tử trọng yếu của Ngài mà thôi.
Thưa cùng các bạn, chư
Chức Sắc Thiên Phong Hiệp Thiên Đài, Tiếp Đạo khi nảy nói rằng: Chúng ta chỉ
chủ hướng có tinh thần đạo đức mà thôi, thật quả vậy, nếu như lấy tâm phàm mà
luận bao giờ thấy trước mắt một trường tranh đấu, quyền lợi công danh của
thường tình thế sự là một điều thiên hạ đã ham chuộng mê luyến mà Bần Đạo tránh
khỏi ra vòng ấy, danh không ham, lợi không mê, là vì biết khối tinh thần vô đối
của một nòi giống Việt Nam nay đã 4.000 năm lập nghiệp, nó có một tinh thần
mạnh mẽ, uy quyền cao thượng thế nào, đã hiểu rằng: Nó có năng lực, cái năng
lực ấy nó có thể đổi mãi, đổi biến đặng, vì có đức tin ấy. Bần Đạo chỉ lấy nó
làm môi giới, làm phương pháp đặng cứu vãn cái tình trạng nguy nan của nước,
của chủng tộc Việt Nam. Bất quá cũng như một anh bán ngọc kia, mua đặng về bán
lại mà thôi, chớ không có cái giá trị về tinh thần khác, chỉ đặc biệt biết
ngọc, mua ngọc, lời về ngọc, không có chi khác hết. Nếu có định được tương lai
hạnh phúc của nòi giống thì bất quá khác cái tinh thần anh dũng của quốc dân vô
đối đặng họ định vận mạng lấy họ mà thôi, chớ Bần Đạo không có công cán chi
trong đó hết. Vì cớ cho nên Bần Đạo chỉ quyết đánh về mặt tinh thần mà thôi,
ngoài ra nữa Bần Đạo không muốn ngó đến, có phải chăng mạnh của Đạo Cao Đài vì
lẽ đó, ta cũng nên tưởng tượng suy nghĩ.
Thưa cùng chư Chức Sắc Cửu
Trung Đài, các Ngài đã vân mạng lịnh của Đức Chí Tôn cả nam nữ lưỡng phái, thay
hình ảnh cho Ngài, ở cùng con cái khổ não của Ngài, một thời giáo hóa, hai là
an ủi, ba là nuôi nâng, cái trách vụ trọng yếu đó giờ phút nào Bần Đạo cũng
tưởng trong óc, nếu một ngày kia hình trạng Thiêng Liêng ấy nó kết liễu được,
thiệt hiện được, cái danh dự dành để cho phận sự tối cao trọng của quí Ngài, nó
sẽ quí quá thế nào? Không, thưa không phải kiếp sanh này mà đủ, còn sau lưng
các em ta sẽ nối chí, ngày giờ nào có thể tượng trưng rằng Thánh Thể của Đức
Chí Tôn chẳng hề chết thì cả Cửu Trùng Đài không thể diệt, sự quả nhiên nó vậy.
Các em Phước Thiện, Qua
chỉ có một thân, một đầu, một óc, một hình ảnh cũng như mấy em thôi, nghĩ lụng
lại khổ não của chúng sanh các em đã hiểu, Đức Chí Tôn đến Ngài có mục đích
chia khổ và cứu khổ cho con cái của Ngài. Qua đã giao cho mấy em một sứ mạng
đặc biệt là hai chữ "Phước Thiện" Qua cầu mong cho có một điều chúng
ta ngó thấy trước mắt một khổ não của Đời, mấy em giăng tay ra nâng đỡ an ủi,
binh vực được, ấy là sở vọng của Qua để nơi mấy em. Mỗi phen Qua tưởng đến công
nghiệp và phận sự Thiêng Liêng của mấy em nó, khó khăn nặng nề chừng nào thì
Qua xúc động chừng nấy. Vì cớ cho nên Qua ở chung cùng mấy em hai mươi mấy năm
trường thầy trò chung sống, chung khổ cùng nhau là cũng vì lẽ ấy.
Qua để lời cám ơn mấy em.
Mấy con, các chiến sĩ anh
dũng Cao Đài, mỗi lần mà Thầy thấy các con dưới mắt Thầy, thì nó có tinh thần
làm cho Thầy an ủi được thế nào, Thầy thường nói với mấy con Thầy có Ông Cha,
Ông Cha ấy giao cho Thầy hai món: Một là cái Thuyền Bát Nhả, hai là cái Xa Thơ
của Tổ Quốc. Cái Thuyền Bát Nhả Thầy có thể cậy Thánh Thể Đức Chí Tôn dìu đỡ
được, còn cái Xa Thơ của Tổ Quốc đi trên đường nguy hiểm khó khăn nó tiến được
bước nào là nhờ năng lực của mấy con đẩy tới bước nấy. Cái mục đích của Thầy
các con đã giúp được hai phần, còn một phần nữa Thầy cậy các con đưa nó tới
chút nữa. Thầy chỉ nói: Có một bọn người ngồi trên Xa Thơ ấy các con xúm nhau
đẩy mà bọn ấy ngồi làm cho nặng thêm nữa, các con phải làm sao mời họ, thỉnh
cầu họ, lạy lục họ xuống, đặng cho bớt nặng đẩy cho tiến tới.
Phục Quốc Hội định vận
mạng tương lai chánh sách an dân một cái chánh thể tương lai ở trong đấy, có
thể Thầy mong ước rằng: Cả đầu óc Phục Quốc Hội giúp cho nên hình tướng chương
trình của chúng ta có thể kết thúc thật hiện được, thì cái tương lai của nước
Việt Nam mới sẽ mỹ mãn đẹp đẽ. Bần Đạo chưa gì đã mừng trước và đã khoái lạc
trước. Cả toàn thể Phục Quốc Hội cho Bần Đạo hưởng khoái lạc ấy, thiệt hiện ra
đừng để thất chí Bần Đạo tội nghiệp, Bần Đạo để hết tín nhiệm trong đấy, biết
rằng một bước tiến tới là một bước thay đổi cho Tổ Quốc giang san phải cố gắng.
Trước khi dứt lời Bần Đạo
để lời cám ơn toàn thể Đời và Đạo.
* * *
3. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo
8 giờ ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Dần (1950).
(Tại Tháp)
NHIỆT TÂM CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
Mỗi năm đến ngày nay là
ngày của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã thương tiếc nhứt là Qua đây, một người
bạn còn mấy em là một người anh. Nếu Đức Cao Thượng Phẩm còn sống đến ngày nay
thấy một cái hạnh phúc của giống dòng Việt Nam, thấy mối Đạo ngày nay đã đến
địa điểm nó cam lãnh một trách nhiệm trọng yếu Thiêng Liêng, đặng định vận mạng
tương lai cho toàn thiên hạ, nếu mấy em biết được giá trị của Người đã khuất
thì mấy em thương tiếc quá lẽ!
Đức Cao Thượng Phẩm không
những cố tâm ái quốc nồng nàn với nước Việt Nam, không những lo giải thoát ách
nô lệ toàn thể giống nòi mà Ngài còn vì lòng thương cả toàn thể nhơn loại bị
giam hãm trong lẽ bất công của Xã hội nhơn quần, Ngài vì công lý, vì ái tuất
thương sanh nên hy sinh trong một kiếp sống đặng thọ lãnh cây Phướn cứu khổ của
Đức Chí Tôn. Qua nói thiệt, buổi gần mãn công quả của Ngài tức nhiên buổi Ngài
gần qui hồi cựu vị Ngài chỉ có tiếc một điều, tiếc không đồng khổ không còn
ngày giờ đặng gánh vác cái khổ của mấy em đặng tạo dựng cho nên hình tướng nền
chơn giáo, để giải thoát cho toàn thể nhơn loại trong lẽ bất công của Xã hội
nhơn quần, Ngài tiếc có một điều đó mà thôi. Trong bài thơ của Người cốt ý nói
về nước Việt Nam yêu ái nồng nàn, Ngài biết rằng:
1) Thế nào nước Việt Nam
cũng phải làm ngọn đuốc thiêng liêng đặng soi cho toàn thể nhơn loại biết cái
sống của mình ở nơi nào.
2) Nước Việt Nam sẽ làm
biểu hiệu ngọn cờ cứu khổ ấy.
3) Sẽ làm đài vinh diệu
cho toàn thánh thể của Ngài dựng trên đấy, đưa tay điều độ thiên hạ cho ra bảo
sanh của Ngài.
Mấy em phải biết cái khổ
hạnh của Ngài, cố tạo dựng nên cho nước Việt Nam này trước đã, nhơn loại mới có
bóng đuốc sau, tiếc thay cơ quan thành tựu đương nhiên bây giờ chớ phải chi
Ngài còn sanh tiền với óc não cao thượng, chí khí cương quyết, ái tuất thương
sanh nồng nàn của Ngài không biết chừng giúp cho chúng ta đạt đặng nhiều thắng
lợi mạnh mẽ, nhiều giá trị và may mắn hơn nữa.
Tiếc thay! Chúng ta đã mất
một tinh thần, năng lực giúp ích cho chúng ta thi hành phận sự trong sứ mạng thiêng
liêng đó vậy, tiếc chăng là tiếc giờ phút thiêng liêng này đương buổi này, anh
linh Ngài vẫn đeo đuổi theo mấy em mà nhứt là bên Quân Đội đặng bảo sanh nhơn
nghĩa cầm cờ thiệt hiện ra.
Ngày giờ này, Qua tưởng
mấy em sẽ thắng đặng đem hạnh phúc cho nhơn loại mới đặng, nếu mấy em phải bại
thì tương lai của nhơn loại để dấu hỏi mơ hồ nguy hiểm.
Mấy em phải cương quyết
lên, anh linh của Ngài giờ phút này vẫn ở bên mấy em đó vậy.
* * *
3a. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo
Tại Ðền Thánh
đêm 1 tháng 3 năm Kỷ Sửu (1949)
Lòng Ái Quốc
Đức Cao
Thượng Phẩm mà lại có dịp hội ngộ dị thường là ngày mai nầy, Bần Đạo phải xuống Saigon một phen nữa đặng
giải quyết vấn đề liên hệ đến vận mạng tương lai nước Việt Nam .
Bần Đạo nói cái hội ngộ lạ
lùng vì Cao Thượng Phẩm là người ái quốc thiệt thà, cả một kiếp sanh đã có tình
yêu ái nòi giống nồng nàn hơn hết.
Đức Cao Thượng Phẩm là bạn
thiết với Bần Đạo từ hồi còn ở ngoài Đạo đến khi cùng vào cửa Đạo. Bần Đạo đã
nói, bao nhiêu phen Ngài đổ lụy vì nòi giống, cho đến giờ phút qui hồi Ngài
không có chi ân hận, duy có một điều là Ngài rất đau lòng chưa thấy cảnh khải
hoàn của đất nước.
Trong bài thơ từ giã, Ngài có hai câu thúc
kết như thế nầy :
“ Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
Để mắt xanh coi nước khải hoàn.”
Chỉ rõ mối ân hận của Ngài
bao nhiêu đó khi qui hồi cựu vị. Còn vấn đề mà tự bần Đạo đeo đuổi, từ ngày bị
đồ lưu hải ngoại trở về cố quốc, chẳng cần lặp lại thêm nữa làm gì, trước mắt
cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều thấy.
Khi để chơn về nước, Bần
Đạo chỉ thấy một trường thảm đạm không ngôn ngữ nào tả cho hết đặng ! Đàng thì
chịu thống khổ vì nạn tương tàn tương sát, nước thì may không chút nữa đã bị lệ
thuộc trở lại còn hơn trăm lần khi trước nữa. Điều ấy cả thảy đều làm chứng
rằng không phải Bần Đạo nói quá lời.
Những tay đứng ra lãnh đạo
đặng cứu vãn tình thế của nước nhà, chẳng có tâm hồn lo tài bồi lại hạnh phúc
cho toàn dân, chỉ nói khoác ngoài miệng làm hại thêm cho nòi giống, làm hại
thêm cho non sông tổ quốc.
Bần Đạo trông thấy cảnh
thống khổ không lẽ ngồi xem tình thế, Bần Đạo thường giảng giải cho cả con cái
Đức Chí Tôn phải minh mẫn sáng suốt, tiềm tàng huyền diệu triết lý tinh thần
đặng minh đoán lẽ thiệt hư cho ra chánh lý, suy tiểu định đại, lấy nhỏ mà so
sánh với lớn.
Ngày nay tinh thần của nòi
giống Việt Nam minh mẫn, còn sơ sót dữ lắm, cho nên không đủ đầu óc đặng đối
phó chiến thắng được đối phương, bởi tâm thần hoang mang không chủ định. Điều
ấy không lạ gì, muốn đòi nợ một kẻ nào, ít nữa phải có giấy, có tờ mà đòi cho
đắc lực mới phải là chủ nợ; còn sai đầy tớ tới đòi, chúng không trả có khi còn
tìm phương pháp đuổi tống kẻ đầy tớ ra khỏi nhà nó nữa.
Có lạ gì đâu, một bằng
chứng nước Việt Nam nầy, Pháp đoạt lấy nơi tay nhà vua, tức nhiên đoạt của nhà
vua, muốn đòi phải làm thế nào ? Chứ không phải ăn cướp cạn mà đi đòi được,
tình trạng ngày nay là vậy đó, chúng xét đoán lấy nhỏ định lớn thì thấy rõ.
Hại thay ! Cuộc cờ kẻ bất
tài đi gây đoàn, thấy thất bại kiếm người về đặng mà gở cái thua, mà chúng không
biết hổ nhục, đã không biết ơn mà trở lại còn đứng ngoài chưởi bới.
Tấn tuồng ngày nay tái
diễn, tấn tuồng đã trên 2.000 năm trước, tưởng Ngô Việt.
- Ngày trước Việt Vương
Câu Tiển phải phục hạ nhà Ngô đặng cứu nước.
- Ngày trước có Phạm Lãi
đi tìm Tây Thi về đặng nạp cho vua Ngô Phù Sai.
Ngày nay Phạm Công Tắc
thay vì mỹ nữ kế, đem Đạo Cao Đài đặng nạp cho Pháp, đặng cứu vãn tình thế, tấn
tuồng 2.000 năm trước ngày nay tái diễn, và Bần Đạo quả quyết lần nầy cũng
thắng nữa ./.
* * *
3b. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Tại Tháp Đức Cao
Thượng Phẩm,
ngày 01/03 năm Nhâm Thìn (1952) (1949)
KHỔ NHỌC VÀ CÔNG LAO VĨ ĐẠI CỦA NGÀI CAO THƯỢNG PHẨM ĐỂ LẠI
Mỗi năm đến ngày kỷ niệm
của Đức Cao Thượng Phẩm, chắc cả thảy những em út, anh chị người nào cũng đã
biết Ngài, tưởng cũng có một cái tình cảm nồng nàn, nhứt là Bần Đạo là bạn đồng
khổ của Ngài, bạn thiếu niên, bạn đường đời, bạn cửa Đạo, một kiếp người đối
với kiếp sống của Bần Đạo có tình cảm mật thiết không thể tả được, đứng trước
bàn vong linh của Ngài, dám chắc cả thảy mấy em đều khác, còn Bần Đạo vẫn khác.
Ôi! Biết bao nhiêu những di tích của Ngài để lụng lại tràn trề không thể tả cho
hết, cái tình tri âm, tri kỷ với nhau trọn một đời biết tâm đức, biết tình cảm,
biết tài năng với nhau trọn một kiếp, nếu có người bạn nào mà Ngài đã gọi cái
tâm tình trọn vẹn hết, Bần Đạo tưởng có lẽ Bần Đạo là một người trong đấy.
Một người tài tử, cái lần
yêu nước vô cùng của Ngài thì đã chán biết, bởi cái tình cảm như thế, cái tâm
ái quốc phải là hơn ai mới được, cái đặc sắc hơn hết là Ngài có tình cảm đối
với nước nhà, đối nòi giống của Ngài, cũng như Bần Đạo biết một đặc tính với
một tinh thần của một người tài tử.
Một người yêu nước là
riêng, về con người của Ngài, có cái cảm kích đối với nòi giống Việt Nam là một
việc khác, chẳng khác nào như ta đã ngó thấy, một kẻ tài nhân kia nhất thời mà
mình yêu ái kính phục, chẳng khác nào như ta đã ngó thấy trước mắt những người
đạt đặng hạnh phúc danh vị bị suy sụp, chúng ta thương vì tội nghiệp cái tình
cảm của Ngài đối lụng lại với quốc dân Việt Nam, đối lại với nước nhà của Ngài
buổi nọ vậy.
Ôi! Biết bao nhiêu trong
thời buổi lệ thuộc, Ngài ngó trước mắt Ngài, đồng bào của Ngài, nước nhà của
Ngài dám chắc rằng riêng biệt ra, đừng ai ngó thấy trong cảnh tối tăm, tịch
mịch, thì bao nhiêu giọt lệ của Ngài đã đổ.
Vì cớ cho nên buổi khai
Đạo rồi Đấng quyền năng tối linh ấy đã đến, Ngài đem cả tâm tình ấy, Ngài gởi
cho Đấng đó, cũng như Bần Đạo đã gởi chỉ cầu nguyện một điều là xin quyền năng
vô đối ấy, đem cái cân công bình thiêng liêng để nơi mặt thế, cho có mực thước
một chút, nhứt là ái truất đến những kẻ khổ não về tinh thần, kẻ chịu được là
vô luận, những người chịu không nỗi xin có một thế là an ủi.
Nếu toàn thể quốc dân Việt Nam biết rằng,
tinh thần chịu lệ thuộc không nỗi, chỉ cầu nguyện một điều là một phương an ủi
của Đấng ấy.
* * *
3c. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
trong ngày Vía ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM (1-3 Quí Tỵ)
1954
Vía Đức Cao Thượng Phẩm
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên
Phong Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, các Cơ Quan Chánh Trị Đạo, Phước
Thiện và Quân Đội cùng toàn thể con cái Chí Tôn Nam, Nữ.
Hôm nay là một ngày kỷ
niệm Vía của Đức Cao Thượng Phẩm mỗi năm Bần Đạo đã nói, đã thuyết, đã tâm tình
của Bần Đạo đối với ngày này rồi, nếu lập lại một phen nữa cũng không ích. Vậy
yếu điểm hôm nay Bần Đạo lên đứng đây chỉ nhắc Đức Cao Thượng Phẩm một điều mà
thôi, lúc Ngài mới qui liễu, Ngài cũng vậy mà Đức Quyền Giáo Tông cũng vậy. Hồi
Đạo mới phôi thai thiên hạ khinh khi chế nhạo hết sức, nên Bần Đạo nói rằng: Họ
đã dùng cường quyền họ làm cho hai người ấy phải chịu thống khổ một cách không
thể tả.
Đôi phen mỗi ngày Vía như
vậy, nó khêu gợi một cảm tình của toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Bần Đạo,
nhưng Bần Đạo đè nén nó lại.
Đã hai mươi mấy năm Bần
Đạo còn nhớ cái ngày di Liên Đài của Đức Cao Thượng Phẩm ra Tháp, Bần Đạo còn
hứa với Ngài một điều rất trọng hệ; Bần Đạo nói Bần Đạo sẽ báo thù cho Ngài báo
thù ắt tưởng lại cả thiên hạ cho rằng cái tình thế thường tình kia như gươm,
đao, mưu kế tàn ác cái gì cũng không làm được. Trái lại Bần Đạo lấy cả tinh
thần hai khối của hai Ngài, đặng Bần Đạo tạo ra một khối thương yêu vô đối để
làm chuẩn thằng tâm lý cho quốc dân Việt Nam, và làm một khối năng lực tranh
đấu, cái khối ấy đã thành ra bửu bối đặng Bần Đạo trả thù, mà hôm nay đã giải
đặng ách nô lệ cho dân tộc nữa. Những lúc đó môn đệ của Đức Chí Tôn tức nhiên
các bạn của chúng ta có một thiểu số, trong thiểu số ấy tánh tình họ hèn tiện,
biểu sao thiên hạ không khi rẻ.
Nói về võ thì năng lực
không có một miếng sắt trong tay, còn về văn thì chưa có cầm được cả vận mạng
tương lai nòi giống của Tổ Quốc mưu sĩ chưa có ai đảm nhiệm và quyết định cái
hưng vong của Tổ Quốc, biểu sao thiên hạ không chia rẻ.
Bần Đạo dám quả quyết và
đại ngôn nói rằng: Bần Đạo sẽ trả thù vì hôm nay ngó thấy Bần Đạo không phải
yếu ớt, bạc nhược, cô quả, hèn tiện như buổi nọ đâu.
Mỗi năm không có cái gì
làm cho thiên hạ ngó thấy cái năng lực tinh thần, tức nhiên năng lực quốc hồn
của nòi giống. Bần Đạo dám quả quyết rằng: những điều Bần Đạo làm không đặng,
con cháu của Bần Đạo sẽ làm, Môn đệ của Bần Đạo sẽ làm, hôm nay hiện tượng ra
quả quyết, lời đoán trước của Bần Đạo nó đã thiệt hiện, nó đã thành hình, còn
gì vui sướng hơn, còn gì hạnh phúc hơn.
Nếu Đức Cao Thượng Phẩm
giờ phút này Chơn Linh của Ngài còn ngự nơi đây. Bần Đạo sẽ nói chưa ngó thấy
một lời nói nào của Bần Đạo đoán trước trật một điều gì.
Phải chăng lời tiên tri ấy
rất nên hiệu quả, vì tinh thần của Bần Đạo đoán thế nào nó cũng thế ấy. Rồi một
ngày kia về nơi cõi Thiêng Liêng vừa gặp mặt nhau thì sẽ có một trận cười của
Ngài cùng Bần Đạo. Trận cười ấy chắc chắn ở thế gian này chưa có ai hưởng được.
* * *
3d. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
ngày 1 tháng 3 năm Giáp Ngọ , 1955
ĐỨC HỘ PHÁP Nhắc Tiểu Sử ngày Vía Đức Cao Thượng
Phẩm
Mỗi một năm
ngày Vía của Đức Cao Thượng Phẩm Bần Đạo lấy làm vui thấy cả con cái của Đức
Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt là cái mừng của Bần
Đạo hơn hết là ngày Vía của Ngài cả con cái Đức Chí Tôn còn gìn giữ sự thương yêu ấy như
buổi sanh tiền vậy.
Sự thật từ cổ chí kim Bần
Đạo tưởng không có một nền Tôn Giáo nào mà được hưởng một đặc ân Thiêng Liêng
của Đức Chí Tôn như nền Đạo Cao Đài. Bần Đạo nhắc lại những sứ mạng Thiêng
Liêng của Ngài, hầu chia đau sớt khổ, những đặc sứ sai đến thế này đặng thay
thế hình ảnh của Ngài, hầu chia đau sớt khổ cùng con cái khổ nảo của Ngài thế
nào? Chúng ta có thể nói: Các Đấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân,
nhứt là Huỳnh Tộc của chúng ta, tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết danh
giá của Bát Tiên là thế nào?
Ngộ nghỉnh thay Đức Chí
Tôn làm thế nào mà chư vị Đại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng, đến
đặng tạo dựng cái nền Tôn Giáo của Ngài nhứt là Hớn Chung Ly tức nhiên Nguơn
Linh của Cao Thượng Phẩm đó vậy.
Nên giờ phút này nhớ đến
có mảy may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm trong tay tạo Đạo, thành thử hôm
nay không có cây Cơ thứ nhì nữa, nói thật ra cây Cơ Phong Thánh, Cơ Lập Pháp,
Cơ truyền Giáo, đã đem theo Ngài nên ngày giờ thoản có Cơ Phong Thánh thì Ngài
cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng Loan có Ngài trợ lực, còn cây Cơ Phong Thánh hiển
nhiên giờ phút này không còn tồn tại, cái tiếc của Bần Đạo hay chăng là điều
đó.
Các Chiến Sĩ Cao Đài nếu
trong sự ân hận sự tiếc ấy thật quả các con đã tiếc cây Cơ ấy chớ phải chi nó
còn tồn tại thì nó giữ cho các con chiến sĩ nhiều lắm rồi.
Người thiếu đức tin như
Bần Đạo nhờ cây Cơ linh hiển ấy đem đức tin lại cho Bần Đạo và Bần Đạo có thể
nói nhờ cây Cơ đó độ rỗi Bần Đạo cho đến hàng phẩm cao trọng này. Các con chiến
sĩ ôi! Chớ chi Đức Cao Thượng Phẩm còn thì rất may mắn cho các con lắm vậy, các
con đọc mấy câu thi của Ngài nhứt là câu thúc và câu kết nếu các con chú ý cho
lắm thì hiểu cái nghĩa lý thâm thuý của nó là dường nào? Lấy đó mà làm gương
cho các con đó vậy.
"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,"
"Để mắt xanh coi nước khải hoàn."
Khao khát có bao nhiêu đó
mà thôi. Giờ phút nào các con thượng cây cờ Nhân Nghĩa lên, các con phục quốc
đặng, Thầy có thể nói: Trước khi các con ca bài khải hoàn, các con đọc hai câu
thi đó; ấy là các con đền ơn cao trọng cho Đức Cao Thượng Phẩm đó vậy.
Thật, Đức Cao Thượng Phẩm
hồi qui Tiên, chỉ tiếc có bấy nhiêu mà thôi.
"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,"
"Để mắt xanh coi nước khải hoàn."
Ngài khao khát giải ách lệ
thuộc cho giống nòi của các con đó vậy. Đâu các con cố gắng coi đặng cho giờ
phút này Thầy còn sanh tiền đây, đặng thấy thiệt hiện công nghiệp của các con,
làm cho Thầy ngó thấy chán chường "Để mắt xanh coi nước khải hoàn".
Các con làm ơn cho Thầy ngó thấy hiển nhiên
khải hoàn giải ách nô lệ cho nòi giống Tổ Quốc các con. Thầy trông các con làm
tròn sứ mạng và Đức Cao Thượng Phẩm cũng mơ ước có bao nhiêu đó mà thôi.
* * *
4.- Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 7 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1949)
LỄ VÍA ĐỨC PHẬT TỔ THÍCH CA MÂU NI
VÀ BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH
Đêm nay là
Vía Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni mà cũng là ngày vía Chị Cả của chúng ta là Bà
Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, chẳng biết ngẫu nhiên hay là tiền định mà Bà Nữ Đầu
Sư qui liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích Ca. Theo Bần Đạo hiểu biết tưởng những
người ái mộ Đạo Phật nồng nàn hơn hết. Chúng ta có thể nói rằng: Bà Đầu Sư cũng là
người đứng trong đầu sổ của thiên hạ vậy. Trước ngày Đức Chí Tôn chưa mở Đạo,
Bà Đầu Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng của Người thuật lại với Bần
Đạo. Từ bé Người đã để tâm ham mộ Đạo Phật không biết có quyền năng lạ lùng của
Đức Chí Tôn tiền định hay chăng, mỗi khi niệm câu chú của Phật để tồn tại, thì
Đức Chí Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giái, Đức
Chí Tôn là Phật vị nên Bà đã thương lắm, thương một cách nồng nàn. Khi Đức Chí
Tôn mở Đạo Cao Đài tức nhiên Phật Giáo chấn hưng đó vậy.
Ngày nay là lễ của Đức
Phật Thích Ca và của Chị chúng ta, chúng ta nên để tâm cầu nguyện chơn linh của
Ngài và của Bà tức nhiên là Long Nữ, cả thảy chúng ta đều biết cái bí mật ấy.
Bà Nữ Đầu Sư, Chơn Linh
Long Nữ, Long Nữ là ai? Thật ra là người đòi của Phật Quan Âm Bồ Tát đó vậy.
Bần Đạo hiểu về cái thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách nhiệm trọng
yếu vâng lịnh của Đức Di Lặc Vương Phật Chưởng Quản điều khiển Bát Nhã Thuyền,
vì cớ cho nên Đức Quan Âm Bồ Tát không có thể giáng trần được, chính mình Long
Nữ là người hầu của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn Linh, các
cung các điện và Hộ Pháp đặng mở nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn, hầu tận độ Vạn
Linh tạo cơ giải thoát.
Hôm nay là ngày Vía Phật
Thích Ca, chúng ta cũng nên hiểu triết lý cao siêu của Đức Phật Thích Ca, Ngài
đã đạt đặng và đã truyền giáo, theo nền Tôn Giáo của nhà Phật là nền Tôn Giáo
tối cổ, Bần Đạo thường thuyết, loài người vừa đến mặt thế nầy thì đã có Phật
nơi mình rồi. Chính Đức Phật Thích Ca đã chịu ảnh hưởng Phật Giáo ấy và chính
chơn linh của Ngài có sứ mạng đến đặng độ bá ức Nguyên nhân qui hồi cựu vị.
Ngài vì sứ mạng ấy mà Ngài phải tìm cho hiểu biết cơ quan giải thoát ấy phải
định phương nào cho đạt được. Tại sao các nguyên nhân không qui hồi cựu vị? Vì
lẽ gì có sứ mạng đem cơ giải thoát đưa nơi tay bá ức nguyên nhân cho họ đạt vị?
Ngài tìm thế nào triết lý cho nhơn sanh khỏi bị đọa lạc. Ngài hiểu rằng: Tứ
Diệu Đề làm cho các nguyên nhân phải đọa lạc không giải thoát đặng, Ngài để cơ
quan giải khổ tức nhiên thoát "Tứ Diệu Đề" vì cớ cho nên triết lý cao
siêu của Ngài tính sau này tìm cái phương pháp bá ức nguyên nhân đạt pháp đặng
qui hồi cựu vị mà thôi, theo Bần Đạo đã biết, đã hiểu Ngài định hạ trần đầu
kiếp cho vật loại tạo cái tam thập lục phẩm Liên Hoa của Ngài.
Tôi tưởng các vị Phật nơi
Niết Bàn đã tạo nơi Kim Tự Tháp, dầu có bực cao siêu hơn Ngài là Đấng Di Đà đi
nữa cũng chưa bằng bằng từng Liên Hoa chót của Ngài, nó vinh diệu làm sao đâu.
Tôi dám chắc chưa có vị Phật nào có can đảm tạo được nhứt phẩm Liên Hoa tốt đẹp
như từng chót hết của Ngài. Bần Đạo dám chắc còn lâu lắm Ngài mới đến viếng mặt
thế gian này vì Ngài đã sợ sệt, đã gớm ghiết hơn ai hết. Ngài tạo phẩm Liên Hoa
chót của Ngài rồi thôi. Vinh diệu là biết bao nhiêu, vì khổ ấy mới đoạt được
vinh diệu.
Hại thay! Những người
không có đoạt được cái huyền vi bí mật tạo đoan, đạt Đạo họ tưởng dễ lắm, dễ
dàng lắm, họ tưởng một cái ăn, cái ở mà họ đạt được. Cái oái oăm đó bởi tinh
thần người se sua mơ mộng lầm tưởng nội cái ăn cái ở, lại làm màu mè bao nhiêu
đó đủ đạt Đạo.
Coi lụng lại kiếp sống của
Phật Thích Ca, năm đạt đạo có 32 tuổi mà thôi, Ngài đạt coi dễ dàng chớ không
phải như thuyết mơ mộng của nhơn loại, ta thường thấy Ngài không cần gì, Ngài
đã dày sành đạp sỏi trong kiếp sanh đã chịu khổ hạnh cho tới 82 tuổi. Cái năm
chót của Ngài 82 tuổi mà Ngài còn truyền giáo, buổi qui vị của Ngài mà còn truyền
giáo Ngài không có ở cảnh Chùa nào hay mảnh đất nào mà thiên hạ đã hiến cho
Ngài. Ngài chết giữa hai cội Bồ Đề buổi Ngài 82 tuổi mà Ngài không có nghỉ, mỗi
ngày ôm bình Bát Du đi xin cơm nuôi trẻ khó tật nguyền khổ não. Đức Phật Thích
Ca đã chịu bao nhiêu khổ hạnh, phản phúc đủ điều, các môn đệ của Ngài khổ hạnh
là đi xin ăn mà sống. Bần Đạo không tả nhiều, ai cũng biết cái cảnh ôm bình Bát
Du đi xin ăn có đủ no không? Các môn đệ của Ngài đã chịu khổ hạnh quá, khi tới
bên xứ Bénarès dân đó ăn cá, chỉ có cá với cơm, có vị môn đệ yêu ái nhứt của
Ngài là Vadatha ăn trường chay, cái thuyết của Ngài là cái thuyết ăn chay cao
siêu Vadatha ăn trường chay, nghĩ một điều là trên sáu ngàn môn đệ đi đến đâu
đều ăn xin của thiên hạ, ai cho ăn cái gì thì ăn cái nấy.
Đến xứ Bénarès thiên hạ
cho ăn cá, người môn đệ Vadatha nói nếu ăn cá thì không phải là Phật, nếu phải
dùng theo luật buộc cả thảy đều ăn là được, Đức Phật Thích Ca cho ăn thì người
môn đệ Vadatha xúi giục môn đồ của Ngài chia ra dắt đi một mớ, lập phe phân
phái làm phản lại với Phật Thích Ca, như nạn Cao Đài đã bị tấn tuồng không có
gì hết mà sanh ra phản Đạo, lập ra chi phái giết Đạo.
Một buổi trưa Ngài đang
tham thiền nhập định tại chơn núi, chính Vadatha lăn đá xuống để cho Ngài chết,
một vị Phật chẳng lẽ chết "bất đắc kỳ tử" như thế được, nên khiến một
cây cản lại có miểng văng rớt xuống trúng chơn trái của Ngài đổ máu, Ngài giựt
mình ngước mặt lên thấy Vadatha ở trên núi. Đức Phật Thích ca nói: Sao dám làm
đổ máu nhà Phật; có lời nói làm cho nhà Phật đổ máu mà Vadatha phải chết, nòi
giống của Vadatha phải tiêu tàn, vì Vadatha giết Phật chẳng kể gì sự sống của
Phật.
Ngộ nghĩnh thay! Bên xứ
Jérusalem là dân bất động "Juif" tức nhiên dân Do Thái giết Đức Chúa
Jésus Christ đã phân định tội tình, nước người phái chịu điêu tàn, nòi giống
người phải chịu lưu xứ. Quốc Thể các người không còn. Ngày giờ nào các người
lập lại Tổ Quốc các người là ngày tận thế. Tiếng tận thế của Thiên Chúa Giáo,
ngộ nghĩnh thay sự tình cờ mà chúng ta nên để ý. Ngày nay Đức Chí Tôn mở Đạo
Cao Đài thì dân Do Thái phục quốc lại, dân bất động đặng huờn nguyên ấy là ngày
ân xá của Đức Chí Tôn cho đám tội nhơn đứng đầu của nhơn loại là dân Do Thái là
dân bất động. Chúng ta suy nghĩ bao nhiêu đó, chúng ta thấy Đức Chí Tôn lập nền
Tôn Giáo của Ngài đặng độ tận chúng sanh, quả nhiên có hiển hiện trước mắt
chúng ta đã thấy đó.
Bần Đạo nói tiên tri rằng:
Làm như thế dân Do Thái lập quốc, mình cũng như dân "Intouchable" nó
sẽ qui nguyên của nó lại, vì nó đã đặng ân xá của Đức Chí Tôn, cả hình phạt ấy
do Đức Phật Thích Ca định nó cũng như dân Do Thái bị Đức Chúa Jésus Christ định
án nó mà nó đã được ân xá, coi lời nói của Ngài hứa, đã thi hành đó, nếu ai còn
mơ hồ nữa chết không còn hồn vậy.
Vì cơ quan tận độ chúng
sanh Đức Chí Tôn đến lập thành quả nhiên cơ quan ấy hiện hữu hiển nhiên, nếu
chúng ta không tưởng tới, ngày kia về Bạch Ngọc Kinh không còn hồn, chừng đó
người ta vạch ra không thế mình gian lận được.
Hạnh phúc
thay cho nhơn loại! Hạnh phúc thay cho các đẳng chơn hồn có duyên phần mộ đạo,
gặp buổi Đức Chí Tôn đến ở chung cùng mình, nếu không giải thoát được, Bần Đạo
chưa dám chắc trái Địa Cầu nầy phải chuyển kiếp lần thứ ba nữa cho thoát khỏi
nghiệp chướng đặng qui hồi cựu vị.
* * *
4a. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 07/4 năm Nhâm Thìn (1952)
NGÀY VÍA ĐỨC PHẬT THÍCH CA
và BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH
Đêm nay là đêm cầu nguyện về ngày vía
của Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư, vía Bà Nữ Đầu Sư trùng với Đức Phật
Thích Ca.
Nếu như
chúng ta tin về đạo đức, chúng ta nói rằng có thể tin về mê tín, thì Bần Đạo
nói rằng: Không có ai thương yêu Đức Phật Thích Ca trong kiếp sống của mình hơn là Bà Nữ Đầu
Sư, trong một đời của Bà, Bần Đạo tưởng thiệt là một người giữ Đạo, Bà chỉ giữ
Đạo của Đức Phật Thích Ca mà thôi. Khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo, Bà theo chân của
Đức Chí Tôn đã đành, không ai dại khờ gì khi người đã có tâm Đạo mà còn mơ hồ e
lệ sự chọn lựa của mình, nhưng Đức Chí Tôn là khác, mà kính trọng thờ phượng
Đức Thích Ca đối với Bà Nữ Đầu Sư là khác, huống chi trọn cái gia đình từ mẹ dĩ
chí Bà đều thờ phượng một cách rất tôn nghiêm, dám chắc phần nhiều không có ai
thờ phượng được như cả gia tộc của Bà đã thờ phượng Đức Thích Ca.
Luận tới đây tôi nghĩ ngày
này đáng lẽ nếu nói rằng nước Việt Nam chủng tộc ta có thể thờ Đức Phật Thích
Ca nhiều hơn hết, nhưng đến Đại Lễ này nếu không tưởng niệm đến Đức Thích Ca đi
nữa là cũng còn đoái đến tình của Bà Nữ Đầu Sư mà dòm lại Phái Nữ trong Đại Lễ
thấy lơ thơ, có phải vô tình chăng? Hay là Đạo của Phật Thích Ca và công nghiệp
của Bà Nữ Đầu Sư bị có cơn mưa rồi lạnh ngắt, đã lạnh trước rồi bị trận mưa nữa
nó lạnh luôn.
Bần Đạo xin nói thật, Đức
Phật Thích Ca, dầu sự trị thế của Ngài đã hết, chúng ta chỉ nói là hết thôi.
Hai ngàn năm trăm năm (2.500) lập Đạo trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Môn
đệ của Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng Ông già ăn mày ấy không đủ quyền
năng, mà các người khi dễ. Nội cái Bình Bát Vu của Ông đựng cả chơn hồn trong
Càn Khôn Vũ Trụ, Ông ăn mày tại thế này vậy mà ngôi vị Cực Lạc Thế Giới của Ông
các người xin một phẩm Liên Hoa, Ông có thể cho, là một người không nên khi dễ,
không nên nguội lạnh với người đó, bởi vì Môn đệ của Ngài trên cõi Thiêng Liêng
Hằng Sống nhiều lắm.
Bà Nữ Đầu Sư hồi còn tại
thế này cũng vậy, hay về cõi Thiêng Liêng cũng vậy thương em lắm, thương phái
nữ lắm, Bà binh vực bảo trọng từ khi mới mở Đạo, biết bao phen Đức Lý Giáo Tông
đã phẫn nộ, chính mình Bần Đạo cũng không thế binh vực được mà còn có thể ghét
nữa mà chớ. Duy có một mình chị binh vực bảo trọng phái nữ còn tồn tại đến ngày
nay, bằng không thì bị phế rồi, bị Đức Lý phế rồi đó.
Bần Đạo nói thật mấy chị,
Ôi! Không phải kiếp sanh dễ gì ngộ Đạo, Bần Đạo đã chán biết khó khăn kiếp sống
của mình tại thế bao giờ cũng vậy, nó làm cho mình nặng nề khổ não về tinh thần,
nhưng chúng ta đem lên mặt cân thiêng liêng, chúng ta lấy trí khôn ngoan để suy
đoán cho cùng, chúng ta phải lấy trí khôn ngoan công chánh mà phán đoán, phần
nào xác là xác, phần nào hồn là hồn, cái xác thịt nó không phải ở đây cho đến
lúc tận thế đa nghe. Kiếp sống tại thế gian này của mấy người không mấy lát,
cao trọng cần yếu hay chăng là phần hồn, đừng sa xuống Địa Ngục đừng xuống đó
là hơn hết. Xuống cửa đó rồi khó giải thoát lắm, khó giải thoát lắm đa nghe.
Còn phần xác thì xác, hồn là hồn, mình lấy cái trí não của mình, lấy cái trung
dung của mình làm sao cho Đạo có công chánh, hòa bình, xác cũng vậy, hồn cũng
vậy. Chỉnh cầm cân giữ mực thước làm sao cho xác thế nào, thì phần hồn kia cũng
vậy, đừng trọng bên này, phụ bên kia, là khôn ngoan hơn hết.
Còn một cái trọng yếu hơn
nữa là phải nhớ luôn luôn phụng sự Đức Chí Tôn, công nghiệp ấy không bao giờ
mất, bởi Ông già đó chẵng chịu thiếu nợ ai hết, trái lại nếu chúng ta có phương
thế lập vị chúng ta rồi mà chúng ta còn dư thừa công nghiệp đối với Ngài. Nhớ
lại trong Cửu Huyền Thất Tổ của ta chưa chắc họ đều siêu thoát đặng, để chút
của cải ấy đặng độ họ, tội nghiệp biết đâu trong Cửu Huyền Thất Tổ của mỗi đứa
ta lại không có người ở dưới Phong Đô, rán tiện tặng chút đỉnh cho có của cải
Thiêng Liêng cho họ hưởng mới khỏi uổng kiếp sanh của mình. Đức Chí Tôn có nói:
"Đài Vân Quan Võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân,
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần".
Đấng đó không biết thiếu
nợ ai hết và đã nói chẳng hề khi nào sai lời. Đã ngộ Đạo, đã biết Đạo, đã theo
chân Đức Chí Tôn mà không biết tự mình tìm phương giải thoát, dầu chúng ta
không mong mỏi cứu độ Cửu Huyền Thất Tổ đi nữa, cũng mong mỏi tự giải thoát cho
mình là trọng yếu hơn hết, biết Đạo mà nguội lạnh tốt hơn hết đừng có ở trong
cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong cửa Đạo, ngồi nữa thêm tội không ích gì. Thử
chúng ta để dấu hỏi chúng ta tu đây trông mong cái gì? Đừng như kẻ mờ hồ kia mà
Đức Chí Tôn đã để :
"Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.
Co cẳng muốn vào rồi lại thụt,
Biểu thương sao đặng buộc người thương?"
Thử xét lộn lại một ngày
kia, mấy người về cõi Thiêng Liêng mà ngó thấy tôi đứng giữa không trung đó,
mấy người kêu tôi biểu Ông cứu độ tôi, vì hồi đó tôi có gặp Ông tại thế, thì
bây giờ Ông cứu độ tôi với - tình trạng đó tôi biết trả lời với mấy người làm
sao chớ? Có thể một ngày kia tôi sẽ dâng sớ cho Đức Lý lập một hình phạt, hình
phạt của tôi ngộ nghỉnh lắm: Không cho phái nữ đi vô Đền Thánh một thời gian,
hành lễ ngoài sân một thời gian, bằng xin không được nữa, thì không khi nào lên
Chức Sắc Thiên Phong được với tôi mà chớ.
* * *
4b. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Tháp Bà Nữ Đầu Sư
Lâm Hương Thanh
ngày 08 /4 năm Nhâm Thìn (1952)
KỶ NIỆM NGÀY QUI LIỄU
CỦA BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH
NHẮC LẠI CÔNG LAO VÀ TÀI SẢN CỦA BÀ
Hôm nay toàn thể mấy em
Nam, Nữ đến kỷ niệm ngày qui liễu của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.
Nhắc lại hai mươi mấy năm
trước, hai mươi sáu năm chúng ta hội hiệp với nhau thế nào, ngày hôm nay kẻ còn
người mất, dầu ai có gan sắt đá cũng phải não nề. Luật thiên nhiên định vậy,
duy có một điều hạnh phúc cho kiếp sống của chúng ta chỉ về thiêng liêng thấy
cả toàn thể em út đã nối chí đặng giữ nghiệp Đạo, nếu có hưởng đặng mảy may
hạnh phúc chăng chỉ có bao nhiêu đấy mà thôi. Ôi! Biết bao nhiêu khổ não, truân
chuyên thương em, mà điều chẵng qua liễu Đạo của chị cái chết của chị trong đầu
óc em biết sao mà nói, tưởng tượng quả quyết rằng vì chị bị cường quyền khảo
quá thế, một người đa tình đa cảm như chị chúng đã khảo dượt với một phương
pháp ấy không thế nào sống đặng. Đương khi bịnh chúng dắt đi hầu Tòa, dẫn ra
dẫn vô đến nỗi khi trong Tòa ra rồi chị nói rằng: Không có chết giấc tại đó mà
thôi, về tới nhà bịnh làm cho tới chết, mà chết phải chăng cái việc nghi ngờ
của em không phải là mờ hồ, thì em dám lộng ngôn nói rằng chị đã tử vì Đạo là
không quá lời. Em đã làm Hộ Pháp chỉ ân hận một điều: Chị giàu sang tưởng nơi
mặt thế này, người nào có thể nói với thiên hạ rằng: Trong kiếp sanh tôi giàu
sang, nào ruộng đất, lầu đài ngọc ngà châu báu, không có món gì mà chị không
có, chỉ tiếc một điều là của cải ấy không để nơi nào nó phải để. Nếu giờ phút
này Bần Đạo nói: Người chị của ta có ân hận chăng là chỉ có bao nhiêu đó mà
thôi.
Bần Đạo nhớ lại khi khởi
cất Đền Thánh thì đã ba phen thâu của tín đồ thâu của nhơn sanh, đặng cất Tòa
Thánh cất không nỗi. Tới ngày khởi cất, ngày Bần Đạo nhất định cất, có 13 ngàn
đồng buổi đó không phải dễ, mở trong tủ ra chỉ còn: 1$46. Cất Toà Thánh trong
lúc thời thế nguy ngập, người ta bất tín nhiệm chạy tiền không ra, không biết
làm thế nào khởi đương ra cho mạnh mẽ đặng thâu tín nhiệm thiên hạ lại. Túng
tiền, Bần Đạo phải đến tại Vũng Liêm, tưởng đâu chị có dư giả mới đến, con
người như thế này không đến nước túng thiếu quá lẽ. Xuống tới dưới, tới chừng
khi hỏi chị đặng mượn số tiền về khởi công cất Tòa Thánh, chị dắt đi xuống chỉ
mấy kho lúa đầy nhóc hết, mà lúa 0$20 một giạ, hồi đời đương khuẩn bách từ Á
tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu có thể với giá bây giờ dầu 10 triệu trả
cũng được. Một giạ có 0$20 tiền chị đó em. Ôi! Lúa có 0$20 có chết được không,
Qua nói thiệt với em trong mình Qua không còn gì hết. Ngồi suy nghĩ một hồi, vô
mở tủ sắt lấy ra một hòm sắt lớn đầy vàng hết, từ Bà Cụ dĩ chí gia đình đều để
đồ kỷ niệm trong ấy, hột xoàn nhiều hơn hết, đem hòm ấy đưa cho em đi cầm, thời
buổi khuẩn bách này ngoài 90 ngàn tới 100 ngàn đặng khởi công cất Tòa Thánh thì
được rồi, nhưng một ngày kia tới chừng trả rồi mới làm sao; lấy cầm thì được
tới chừng chuộc thì tiền đâu, biết chuộc đặng hay không? Nói như vậy rồi cười
với nhau mà thôi. Chị nói trên có huyền linh của Đức Chí Tôn dưới có cả đức tin
con cái của Ngài, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, đâu em về cất bướng coi, không cần
lấy đồ này, cứ tin Đức Chí Tôn, em làm lúng cái coi được hay không. Bần Đạo về
với hai bàn tay trắng làm đến thành.
Cái đức tin mạnh mẽ như
thế đó, nếu giờ phút này chị còn, chị ngó thấy thời cuộc này, không thế gì chị
tưởng tượng có cái cảnh này được.
Bên Phái Nữ hạng nhứt mấy
người còn sống tại thế, mấy người còn sống thấy cái đại nghiệp Thiêng Liêng của
Đức Chí Tôn đã tạo cho mấy người, mấy người đã được hưởng, hễ khi trong tâm của
mình không đủ đức tin, tin nơi mình định vận mạng mình, cho Đạo, cho nòi giống,
nếu nói là tôi vô phước không thế gì vô phước hơn người đó, bởi gì người đó
không thấy được như tôi, dầu chị giờ phút này ôm Bình Bát Vu đi xin như Đức
Thích Ca độ Đời, dám chắc chị không từ cầm Bình Bát Vu hành khất đặng hành Đạo
như Đức Phật Tổ, không khi nào chối từ và lấy làm hạnh phúc đặng làm điều ấy.
Thử nghĩ như thế đó, cả toàn thể phái
nữ, mấy chị phái nữ, mấy chị lớn kia: Kẻ qua đời, người già yếu, nối chí đặng
hay chăng là đàn em. Bao giờ họ thấy Thiêng Liêng Vị họ cũng làm, làm mà dòm
lộn lại coi đàn em nó có kế chí mình hay không? Nối chí đặng gìn giữ đại nghiệp
Thiêng Liêng này hay chăng? Mặc dầu có mất chút ít mà có kế nghiệp đặng khỏi
tuyệt tự, thì Bần Đạo dám chắc họ không hưởng được hạnh phúc nào bằng.
* * *
5. - ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT MINH
CÔNG TRẠNG CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ
trong khi làm lễ thiêu xác ngày 15 tháng 1 Ất Mùi
Công trạng các Thánh Tông Đồ Đạo Cao Đài
Thưa cùng Chư Chức Sắc
Thiên Phong Nam Nữ Lưỡng Phái, các em toàn cả con cái Đức Chí Tôn Nam Nữ, thanh
niên của Đạo.
Chắc có lẽ cả thảy con cái
của Đức Chí Tôn đều để dấu hỏi? Cái nghĩa lý của cuộc Lễ Khánh Thánh Tòa Thánh
và Lễ Thiêu Xác của các Thánh Tông Đồ.
Có lạ chi, không cần kiếm
đâu sâu xa hơn nữa ở nơi mặt thế nầy dầu cho Đạo nào họ cũng thường để một cái
mơ vọng là kiếp sanh của mình làm thế nào cho ngộ Đạo.
Một cái câu Sấm Truyền từ
xưa để lại có nói rằng:
"Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,
Muôn đời còn tử phủ nêu danh"
Ngộ nghỉnh cho chúng ta
nên để ý là cái khéo lựa chọn và biết tìm đường và ngộ Đạo ấy.
Cả toàn thể quốc dân của
chúng ta hạng Đại Đức cũng nhiều, hạng học thức cũng nhiều, nam cũng thế, nữ
cũng thế. Vì sao họ không giành chỗ của ông Lê Văn Trung, ông Cao Quỳnh Cư, bà
Lâm Hương Thanh, ông Lê Bá Trang, không lẽ trong thế gian nầy có người đó, mà
còn nữa.
Ôi! Tưởng cả công nghiệp
của cả kiếp sanh dành để như họ, nếu có kẻ thiệt biết tìm cái đại nghiệp Thiêng
Liêng của mình, biết bao nhiêu sự thèm thuồng của thiên hạ, danh giá họ đặng
như thế, Đạo của ta và phận sự của ta dầu chi ta cũng là hiện thân của họ, phải
chăng chúng ta đã làm giá trị Thiêng Liêng của họ thêm quí báu thêm tối trọng,
thêm cao thượng hơn nữa.
Cả con cái của Đức Chí Tôn
đều hiểu nơi Bát Quái Đài là hồn của Đạo tức nhiên là Tòa Ngự của Đại Từ Phụ và
là nơi Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng ngự. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật họ
đã tìm họ đã đoạt đặng một chỗ nơi đó đặng họ ngự. Không phải dễ gì trong kiếp
sanh hữu duyên đặng đọat được như thế.
Đám thanh niên Nam Nữ
lưỡng phái suy nghĩ coi, tìm một công nghiệp tương lai, cái trọng, cái khinh,
cái bền, cái bở, cái giá trị, cái vô giá, tưởng khi cả tinh thần toàn thể con
cái Đức Chí Tôn đều đã quyết định rồi mà chớ.
Ngọn lửa sẽ thiêu các các
Thánh ấy, nó sẽ biến thành ngọn lửa thiêng nó sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài đặng
kêu gọi cả tinh thần nhơn loại tìm một con đường giải thoát của họ, con đường
cứu khổ của họ mà nó cũng sẽ là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con
cái Đức Chí Tôn luôn cả Thánh Thể của Ngài nữa.
Cái danh giá của họ Bần
Đạo không luận tới công nghiệp của họ cũng thế, Bần Đạo cũng không muốn nói
tới. Chỉ thấy một điều là tiếng gọi thiêng liêng của Đại Từ Phụ buổi ban xưa
trong thời nòi giống Việt Nam ta còn đương bị trong ách lệ thuộc. Danh giá của
họ, sự nghiệp của họ, có thể bị quyền lực áp bức làm cho nó tiêu hủy họ có thể
khổ não cả sanh mạng của họ khổ não luôn về tương lai danh phận của họ mà họ
vẫn coi cái đó là thường. Duy có tiếng gọi thiêng liêng của Đức Chí Tôn là
trọng hệ. Nhứt là phế Đời hành Đạo. Cả con cái Đức Chí Tôn sẽ để dấu hỏi. Ông
nầy thế nầy, ông kia thế khác và sẽ để dấu hỏi (? ) Ủa ... làm sao Hộ Pháp để
trọn vẹn công nghiệp có hơn tất có định hạng sao Hộ Pháp để cho họ đồng phẩm
với nhau như thế?
Bần Đạo chỉ nói dứt một
điều là về Pháp Luật, Bần Đạo làm Hộ Pháp dầu cho buổi nọ họ loạn bao nhiêu chỉ
dùng cả quyền lực đặng bảo thủ nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn mà thôi. Ngoài ra
họ là bạn, họ là đoàn anh, tình đó cao trọng hơn hết. Thứ nhì nữa là cả tội
tình cái kẻ nghịch Đạo trước mắt Bần Đạo vô giá trị. Giá trị thiệt hay không là
ngọn lửa thiêng ấy làm cho bùng dậy Quốc hồn nước Việt Nam, tinh thần tối cổ và
văn minh tối cổ của nòi giống, cái đó là trọng hệ hơn hết.
Cả con cái của Đức Chí Tôn
nên nhớ điều đó.
* * *
6. - Đức Hộ
Pháp Thuyết Đạo Tại Tại Báo Ân Từ.
Ngày 19 tháng 6 năm Canh Dần (1950)
TRONG CUỘC LỄ AN TÁNG
ÔNG PHỐI SƯ THƯỢNG SÁCH THANH (Đỗ Văn Sách)
Thưa cùng Chư Thánh, chư
Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài.
Hôm nay, chúng ta nam cũng
vậy, nữ cũng vậy, phải chịu một cái tang chung của người bạn đồng khổ với chúng
ta là Phối Sư Thượng Sách Thanh, đã qui liễu. Cái trạng huống đời bao giờ cũng
vậy, mảnh xác thịt này của chúng ta chung sống với nhau trong một thời gian
thôi, dầu cho ngắn ngủi bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng lưu lại một thâm tình
thương mến nồng nàn; nếu không có luật thiên nhiên ấy, chắc cả kiếp sống ta vô
vị không có chi hết, theo chơn pháp của Đức Chí Tôn ngày chúng ta vui, vì đã
biết bạn trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu,
ngày giờ này bạn đã hưởng một đặc ân riêng của Đức Chí Tôn đã dành để.
Thương thay!
Cả công nghiệp của ông bạn
đồng khổ với chúng ta đây là ông Phối Sư Thượng Sách Thanh. Kể từ khi phế đời
hành đạo, dầu cho gia đình nghèo khổ khó khăn bao nhiêu nhưng ông chỉ biết Đạo,
không biết đời, biết Hội Thánh không biết gia đình.
Thảm cho một điều là bao
phen nền Đạo chinh nghiêng, bị khảo đảo như thế mà người vẫn lo vẫn làm, vì đầu
óc người biết tư tưởng về hành tàng của mình, biết thi thố đầu óc sở định chớ
không muốn nói, mà tánh người cũng ít hay nói nữa. Cả thảy Quân Đội, kể từ lúc
đảo chánh, đều có ý thấy tại sao một người bịnh hoạn, ốm yếu mà hoạt bát không
buổi nào ngừng hành Đạo, không buổi nào nghỉ, mảnh thân yếu ớt bạc nhược mà lo
hơn ai hết, lo cho nghiệp Đạo, nghiệp Đời, không nói mà làm là tại sao? Tại cái
lòng ái quốc, ái chủng nồng nàn của ông. Một nỗi nữa, cái phần của Đạo quyết
đem mảnh thân làm sao cho nên, lấy cái năng lực của mình, đem mặt công lý cho
toàn thể thiên hạ thấy rõ cái quyền năng vô tận của Đạo thế nào, sở hành của
ông không nói chỉ làm mà thôi, có tư tưởng không ngôn ngữ. Công nghiệp của ông
kể sơ từ trước đến giờ:
- Mùng 4 tháng 10 năm Bính Tuất, ông khai công
nghiệp.
- 11 tháng 10 năm Bính Tuất, Thánh Lịnh thuyên
bổ trách nhậm Khâm Trấn Đạo (Biên Hòa).
- 12 tháng 8 năm Đinh Hợi, bổ làm Thượng Thống
Lại Viện.
- 17 tháng 4 năm Mậu Tý thăng thưởng lên Phối
Sư.
- 11 tháng 3 năm Canh Dần xin phép nghỉ dưỡng
bịnh, chính mình Bần Đạo thấy yếu ớt, bịnh hoạn, nên biểu nghỉ, nếu không thì
người nhứt định không nghỉ, nhứt định làm Đạo cho đến chết mà thôi. Bần Đạo
biết nên để cho nghỉ, mà trong lúc nghỉ không có nghỉ gì hết, nghỉ gì được,
người đầu óc như thế mà nghỉ, lo mãi thôi, phải biết cái tuổi già hồi hưu chỉ
lấy an nhàn làm căn bản nhưng không, vẫn giúp đỡ đạo, vẫn tìm phương thế làm
cho đạo, đời chung hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn chan rưới.
Ấy vậy, cái công nghiệp
của người bạn đồng khổ với chúng ta ngày giờ này chúng ta đã giao và chính tay
Bần Đạo đã giao chơn linh của người đến nơi tay của Đức Chí Tôn cho người lập
vị; còn mấy em, mấy con trong tang quyến cả thảy nên nhớ lời Bần Đạo nói đến,
nếu cửa thiêng liêng vẫn mở, thì có thể ông cha của mấy em đặng hưởng tình yêu
vô tận trên cảnh thiêng liêng hằng sống, cảnh đó mới là cảnh hạnh phúc, còn
cảnh này đây là cảnh khổ mà thôi. Hy sinh mạng sống tạo nghiệp, mà không phải
tạo nghiệp đời cho mấy em, bởi nghiệp đời vinh hiển bao nhiêu đi nữa cũng không
giá trị gì hết, bao nhiêu xã tắc, sơn hà, vương đế từ trước đến giờ đã tạo dựng
mà ngày nay còn tồn tại cái chi không? Trái lại ông cha của mấy em, đã tìm một
con đường vinh hiển cho mấy em là "đạo nghiệp" nghiệp đạo còn thì
giọt mồ hôi, giọt máu của ông cha mấy em còn, mấy em biết giữ nó cho tồn tại là
cái hiếu của mấy em đó. Biết bao nhiêu ông cha đã thương con, lo cho con, nhưng
thương là nhiều cách khác nhau, cha mấy em đã tạo dựng cơ nghiệp cho mấy em
đây, mấy em không còn trách cứ được nữa, cha mấy em đã làm xứng đáng một ông
cha. Bần Đạo xin làm chứng cho mấy em đã được người cha xứng đáng.
* * *
7.- Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh ngày 12-8
Ất Mùi (1955)
Lễ Đại Tường ông Khai Pháp Chơn Quân
Lễ Đại Tường Ngài Khai Pháp Chơn Quân
Thưa cùng Chư Quan Viên và
Chức Sắc cùng mấy em Nam, Nữ.
Hôm nay là ngày Lễ Đại
Tường Đức Khai Pháp Chơn Quân, Bần Đạo không cần minh tỏa, tưởng lại toàn thể
con cái Đức Chí Tôn cũng hiểu Đức Ngài là một vị Chơn Quân nơi Hiệp Thiên Đài
là một Chơn Linh nguyên nhân Đức Chí Tôn đã định.
Nhắc lại công nghiệp của
Ngài Bần Đạo lấy làm ngậm ngùi cảm xúc vô cùng, sự cảm xúc của Bần Đạo đối với
Đức Ngài không giờ phút nào Bần Đạo quên cái công cực khổ đáo để của Ngài đối
với Đạo. Bần Đạo chắc chắn rằng, trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, Bần Đạo chỉ nhờ
Đức Ngài Khai Pháp nhiều hơn hết, đó là bằng chứng hiển nhiên ngày nay Đức Ngài
đã qui Tiên, thì Bần Đạo đã bớt một cánh tay gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng vĩ
đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế nầy.
Bần Đạo đã thấy cái sống ở
đời của Đức Ngài Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú
vị gì cả, vì sự nghiệp giàu sang vinh hiển của Ngài mà Ngài cũng không màng,
chỉ nguyện đem cái xác thân nầy hiến trọn vẹn với cửa Đạo.
Đức Chí Tôn đã định sẵn
đâu hồi nào mà chính mình Đức Chí Tôn lựa thật là xứng đáng. Trong buổi lập
Hiệp Thiên Đài Đức Chí Tôn dạy con muốn ra gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng lập
nên nền Đạo. Trước hết con phải lập Pháp cho xong thì Đạo mới vững bền được.
Buổi nọ Bần Đạo nguyện để
trọn vẹn Đức Chí Tôn lựa, chớ không phải phàm lựa, khi được lịnh Cơ Bút dạy đi
tìm Pháp thì chỉ dạy Bần Đạo đến Tỉnh Gò Công mà tìm tên Trần Duy Nghĩa. Đức
Chí Tôn chỉ cho biết nơi Tỉnh Gò Công mà thôi. Khi tìm đến biết đâu có phải hay
chăng? Bởi vì nơi Tỉnh Gò Công Bần Đạo chưa từng đến và không có làm bạn với
một người nào nhưng mà cũng vâng lịnh, để đi tìm. Khi vừa đến Tỉnh Thành Gò
Công, ngừng xe lại tìm hỏi thăm thì đã trúng ngay nhà ông Trần Duy Nghĩa và gặp
người đứng trước thềm nhà, người nói tôi là Trần Duy Nghĩa đây, bèn mời Bần Đạo
vào nhà. Bần Đạo không ngần ngại để trọn đức tin nơi quyền năng Thiêng Liêng,
bèn tỏ hết công việc Đạo thì Đức Ngài hứa và nguyện cố một đời là hủy cái đời
giàu sang vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo, Bần Đạo không tin còn hồ nghi
bị gạt, khi Ngài về đến Sài Gòn chỉ xách theo một gói đồ trên tay và không trở
lại gia đình lần nào.
Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo
Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần
Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với
mình gánh vác nổi sự nghiệp của Chí Tôn đã giao phó.
Ngài nói rằng: Tôi tưởng
dòng dõi của dân tộc Việt Nam trên 4 ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí
Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt Nam sẽ sống lại được
mà là cứu chữa Tổ quốc và giống nòi dân tộc Việt Nam sẽ cỗi ách lệ thuộc giữa
thời Pháp thuộc đang bạo hành.
Kể từ đó thì Ngài vẫn
cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để không bao giờ phút nào mà
Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.
Không nhắc đến thì thôi,
mà nhắc đến làm cho giọt lệ Bần Đạo đã chảy không ngừng, chẳng phải riêng Bần
Đạo, mất một người ân trọng nghĩa thâm, mà là toàn cả Đạo Nam, Nữ thấy đều mất
một người bạn yêu mến Thiêng Liêng đó vậy.
Lúc Chánh quyền Pháp đày
ra Hải đảo Madagascar. Trong đó nhiều vị Chức Sắc Đại Thiên Phong cũng chung
chịu ảnh hưởng.
Bần Đạo chỉ thấy một Đức
Ngài và em Thánh Hiền hết lòng phụng sự giúp đỡ Bần Đạo, còn bao nhiêu vì quyền
lợi mà xua đuổi hành phạt Bần Đạo đáo để. Anh Trọng già rồi chẳng nói chi, nhứt
là Ông Thái Phấn và Gấm, dựa quyền lợi theo thuyết Cộng Sản Nga Xô, dùng sức
mạnh trở lại hành phạt khổ khắc Bần Đạo mà chưa vừa lòng, họ còn xúi giục Chánh
quyền đày Bần Đạo lên chỗ nguồn cao nước độc đặng giết một cách gián tiếp cho
vừa lòng, nếu chẳng phải quyền năng Thiêng Liêng giúp sức thì không thế trở về
Tổ Đình, Thánh Địa đất nước Việt Nam với ngày nay.
Tội nghiệp thay! Em Thánh
Hiền với Đức Ngài Khai Pháp thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đánh đuổi mà
tìm kế đi theo nuôi dưỡng Bần Đạo cho được, Thánh Hiền vì đi theo Bần Đạo bị
uống nước độc, mà bỏ mình nơi rừng sâu nước thẳm, chỉ còn Bần Đạo và Đức Ngài
ôm lấy Bần Đạo mà khóc chỉ van vái có một điều là cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật
Mẫu đem xác về gởi đất Thánh Địa lúc cởi xác mà thôi, thật quả nhiên lời nguyện
không sai.
Khi trở về Thánh Địa Bần
Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không bao
giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung.
Bần Đạo đã thấy toàn thể
con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn
dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây
oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết,
lại thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh Địa
Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi
da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì Quân Đội
Cao Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ
máu giết chốc lẫn nhau làm đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam ta nữa
mà chớ.
Sau ngày Trung Tá Trấn
(Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) bị quân đội Thành ám sát Đức Ngài thường đến Trí
Huệ Cung mà ôm Bần Đạo vào lòng mà than rằng: Thầy ôi! Cái sợ của tôi ngày nay
đã đến rồi, tôi hằng than thở với Thầy từ nơi Hải đảo là chốn đày khổ thân của
Thầy trò mình, tưởng là về đất Thánh Địa được yên vui; nào dè có Quân Đội cho
nên ra nỗi nầy. Than rồi khóc lại càng định nếu Bần Đạo mà nói Thầy ơi vì lời
khuyên xưa kia Thầy trò mình mới về để dìu dẫn con cái Chí Tôn mà họ đâu thấu
đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết đi rồi thì tôi thấy càng gây nhiều hiểm họa dẫy
đầy, từ từ gây phản bội mà làm ly tán bầy con dại của Chí Tôn rồi đây họ phải
sống nơi nào cho an phận. Thưa Thầy, nếu mà tôi biết hậu quả và tình trạng ngày
nay như thế nầy, thà là Thầy trò mình ở lại nơi chốn tù đày hải đảo là nơi rừng
xanh nước độc còn thú vị hơn về đây thấy cảnh đổ máu không lịch sử, giòng dõi chủng
tộc Việt Nam sẽ ly tán, tiền đồ Tổ quốc không dựng lại mà hầu hết nhơn loại
chịu trong cảnh sắp điêu tàn, nền Đạo chinh nghiêng bởi cảnh đó.
Nghe qua những tiếng than
thảm thiết làm cho giọt lệ Bần Đạo phải chảy theo không ngừng, nhưng Bần Đạo cố
gượng cho khuây khỏa, hồi nghĩ lại Bần Đạo làm vui mượn cớ an ủi cho Ngài bớt
buồn rầu đau thảm.
Không anh à, mấy em vì nó
có óc thanh niên không phải như mấy anh lão thành vậy đâu, vì máu nóng phải
vậy, còn đua tài chất lợi quyền trọng tham danh chớ buộc cả thảy như chí của
anh vậy sao được. Bần Đạo thấy Ngài buồn kiếm chước cho vui đở, và lần lượt
kiến tạo Trí Giác Cung được khuyên Ngài vào ở cho an tịnh cho bớt cảnh thảm họa
trên diễn mãi trước mắt hằng ngày.
Bần Đạo gẫm lại, đã lãnh
cái sứ mạng dầu khổ tâm Bần Đạo cũng cố gắng dằn lòng để thi hành trách nhậm là
phận sự của Đại nghiệp Thiêng Liêng đó thôi, để gầy dựng tương lai hạnh phúc
cho toàn cả nhơn loại chung hưởng hạnh phúc hòa bình đại đồng thế giái.
Trước kia Bần Đạo cũng
chạy theo quyền lợi chắc lót từ đồng lương cũng có thể an thú lạc hoan với gia
đình, cả cuộc mộng ảo của trường đời là chỉ biết có quyền lợi đó thôi.
Chớ họ đâu có biết được
cái nghiệp sống Thiêng Liêng vĩnh cửu vô bờ bến kia mà!
Ngày nay mấy em nương lấy
quân đội đã chạy theo quyền lợi quá mức bạo hành mà quên hẳn sự nghiệp của Đại
gia đình là tấm đất Thánh Địa, là chỗ miên viễn và tồn tại.
Hầu hết họ đã nhờ bóng từ
bi của nhà lãnh đạo Đại gia đình nầy mà dựng nên sự nghiệp cá nhân, có quyền
thế vinh hiển với người ta, mà trái ngược lại còn đang tâm hủy hoại nó, họ
không biết giá trị cao trọng đó phải nương nhờ nơi đây do Đại nghiệp Đại gia
đình nầy mà có.
Bần Đạo nói thật, họ không nhờ Đại gia
đình nầy, ngoài ra thì đã bị người khinh rẻ mà phải bị tiêu diệt ngày gần đây
mà chớ.
* * *
7a. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo trong cuộc Lễ Di Liên
Đài của Ngài Khai Pháp Chơn Quân
(Ngày 28 tháng Giêng năm Giáp Ngọ)
Đức
Hộ Pháp thuyết Đạo trong cuộc Lễ Di Liên Đài của Ngài Khai Pháp Chơn Quân
Bần Đạo tưởng ngày giờ này
toàn con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ đang chung chịu cùng Bần Đạo một cái tang, tuy
vân; không nói cả thảy đều muốn nghe Bần Đạo nói: Muốn nghe Bần Đạo nói đặng
chi? Đặng hiểu rõ tâm tình của người bạn tri âm, tri kỷ đồng chung khổ cùng Đức
Khai Pháp Chơn Quân thế nào?
Thật vậy, ở đời những sự
vinh sang phú quí bất quá họ cũng hưởng hạnh phúc thế tình của họ qua một thời
gian ngắn ngủi, cả thảy những hạnh phúc bóng dáng ấy đều tiêu tan như giọt
sương đầu cỏ, cái tâm tình chia sớt khổ não sanh tử với nhau, tình ấy nó mới
bền vững và cứng rắn. Đứng nơi đây Bần Đạo chỉ sợ có một điều là giọt huyết lệ
của Bần Đạo nó sẽ làm cho Bần Đạo, không ngăn được đặng đem cả tâm tình của Bần
Đạo trải qua trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn để dành làm khuôn vàng
thước ngọc, cho cả Thánh Thể Đức Chí Tôn nhứt là những lời nói của Bần Đạo. Hôm
nay Bần Đạo mong mỏi một điều Thanh Niên Nam, Nữ lưỡng phái của Đạo, tương lai
các con còn dài xin để ý đặng ghi nhớ cho lắm.
Đức Khai Pháp Chơn Quân cả
toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu là ai? Trong 12 vị Chơn Quân của
12 con giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào có lẻ cả tinh thần của
toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu thấu.
Bần Đạo lại thêm một điều
trọng hệ hơn hết, người không phải xa lạ nhơn loại nơi mặt Địa Cầu 68 này,
người đã cùng làm bạn với nhơn loại và chịu khổ cùng nhơn loại, Ngài là một bậc
yếu nhân đã giúp Đức Chí Tôn tạo dựng một nền Văn Minh hiện tại. Bần Đạo nói
quả quyết rằng: Ngài là một vị yếu nhân đã cầm quyền về tinh thần của nền văn
minh. Ngài tái kiếp sứ mạng của Ngài là không chi khác hơn làm thế nào cho nền
văn minh ấy chung hiệp các nền văn minh tối cổ trên mặt địa cầu này, làm cho
thiên hạ thống nhứt về tâm hồn, thống nhứt về đạo đức.
Đức Khai Pháp Chơn Quân
hiện nay đi đến cái cảnh đại đồng của nhơn loại Ngài đến cốt yếu để làm chứng
điều ấy và đến đặng để cái tinh thần của Ngài thiệt hiện cho tròn vẹn cái sứ
mạng Thiêng Liêng. Còn về phần hình chất Ngài cũng sanh trưởng như ai.
Từ nãy giờ các cơ quan đã
tả cho cả con cái Đức Chí Tôn đều hiểu Bần Đạo không cần lập lại, cái mảnh xác
thịt này như con kỵ vật, tốt cũng thế, xấu cũng thế, sang cũng thế, hèn cũng
thế, không có giá trị chi đối với nền văn minh tối cao tối trọng chẳng có chi
khác đối với Ngài Khai Pháp Chơn Quân cả.
Phải, những công nghiệp vĩ
đại của Ngài, Bần Đạo mơ ước một điều ngày kia toàn thể con cái Đức Chí Tôn
Nam, Nữ và đời đời noi theo cái chí hướng gương mẫu ấy, đặng làm cho Thánh Thể
Đức Chí Tôn càng ngày càng mạnh càng huyền năng, hễ Thánh Thể của Ngài càng
mạnh càng huyền năng chừng nào thì Đức Chí Tôn mới có thể phục sự cho con cái
của Ngài nơi cảnh khổ này.
Bần Đạo nhấn mạnh một điều
này, Đạo Cao Đài vốn là một nền Tôn Giáo để cứu khổ cho nhơn loại, Đạo Cao Đài
cốt yếu không phải làm chủ thiên hạ, mà cốt yếu làm tôi đòi tạo hạnh phúc cho
thiên hạ, tạo cái hạnh phúc chơn thật, hôm nay Ngài Khai Pháp hưởng đặng nơi
cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà Ngài đã hiểu thấu chơn lý ấy là thật sự, nên Bần
Đạo cùng Ngài, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã
có công lao chung chịu khổ hạnh cùng nhau nhứt tâm, nhứt đức quyết gồng gánh
một nền Tôn Giáo của Đức Chí Tôn và bảo vệ nâng đỡ thiện hiện hình tướng cho cơ
quan giải khổ. Hôm nay một chơn lý bí yếu hơn hết là: Chúng ta chỉ mơ ước một
điều là làm thế nào cho cả sự bất công của nhơn quần xã hội giờ phút này phải
thay đổi hết. Nói cho cùng, nếu chúng ta không phương thế sửa cải cả sự bất
công ấy được thì chúng ta còn một điều hèn hơn, tiện hơn chúng ta lấy mảnh thân
đạo đức vô biên của chúng ta đặng làm phương an ủi cho nhơn loại bớt thống khổ,
bớt đau đớn, để nêu lên một tâm đức yêu đời đặng làm gương mẫu tương lai cho
con cái Đức Chí Tôn đó vậy.
Chúng ta chỉ sợ một điều,
cả con cái Đức Chí Tôn rán ghi nhớ là buổi chung qui của chúng ta, hễ chúng ta
thất Đạo tức nhiên chúng ta không đáng làm con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật
Mẫu không đáng làm bạn Thiêng Liêng của Thần, Thánh, Tiên, Phật, chúng ta sợ
chết, thiên hạ gọi chết là mất, Bần Đạo thuyết minh cái cảnh chết là cảnh sống,
cái cảnh sống là cảnh chết, họ có biết giá trị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống
thế nào đâu? Họ chỉ biết tìm mãi cái hạnh phúc trong cảnh khổ hải này họ gọi là
cảnh sống, mà thật quả nó là cảnh chết, hễ giờ phút nào chúng ta đã thất phận,
thất Đạo, chúng ta sợ buổi chung qui của chúng ta lìa cõi trần này. Ngày nào
chúng ta biết trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Phật
Mẫu, trọn tín với các Đấng Thiêng Liêng thì cái hạnh phúc của chúng ta khi lìa
trần là cái vinh diệu chúng ta đó vậy.
Thật sự hôm nay Đức Khai
Pháp Chơn Quân đã hưởng được hạnh phúc mà Bần Đạo đã tả ra khi nãy đó, cái hạnh
phúc chơn thật của Ngài hôm nay Ngài hưởng được, trái lụng lại chúng ta buồn
thảm chia ly về phần xác, mà Bần Đạo lấy làm hân hạnh phúc hậu vui hứng thấy
Ngài đã đoạt Đạo, Đức Khai Pháp Chơn Quân đã đoạt Đạo tại thế đó vậy.
Bần Đạo làm chứng cho toàn
thể con cái Đức Chí Tôn điều ấy.
* * *
8. - ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo sau khi Hành Lễ Độ
Thăng Ngài Đạo Nhơn PHẠM CÔNG ĐẰNG .
tại Đền Thánh ngày 10 tháng 2 Giáp Ngọ (1954)
Đức Hộ Pháp hành Lễ Độ Thăng Đạo Nhơn Phạm Công
Đằng
Phạm Công Đằng là một vị
Môn Đệ trong Phạm Môn hồi ban sơ.
Bần Đạo còn nhớ lại, khi
Bần Đạo đến Kiêm Biên mở Hội Thánh Ngoại Giáo, khi trở về Đức Cao Thượng Phẩm ở
nhà dạy đặng một đoàn Môn Đệ. Trong số ấy có Ông thân của Phạm Công Đằng, buổi
nọ Ông Đằng chỉ theo cha hành Đạo, có một điều là gia đình của người rất hạnh
phúc hơn hết, cả toàn con cái Tông Đường đều mộ Đạo.
Sanh nơi thế kỷ 20 này
dưới quyền Pháp thuộc gia tộc của Phạm Công Đằng chỉ thủ cựu, cả phong hóa cổ tục
của Tổ Phụ để lại, tức nhiên là gìn giữ Đạo Nho, nhứt là Ông thân của Phạm Công
Đằng.
Khi Bần Đạo về cả cha con
phế Đời hành Đạo, dầu rằng buổi nọ gia đình ở tại Thanh Phước nhưng cả con cái
Nam, Nữ toàn thể đều theo Đạo. Phạm Công Đằng tiếp tục đến khi nền Đạo chinh
nghiêng trong bị quyền Đạo khảo đảo, ngoài bị Pháp buổi nọ áp bức làm cho mấy
Anh lớn cầm quyền của Đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau với thiên hạ giục cho nghịch,
giục cho loạn.
Đức Cao Thượng Phẩm về
Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình trạng nguy ngập không thể
tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt buộc bất cứ ai trong Đền Thánh buổi
nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng bắt và đem giam cầm. Pháp định diệt Đạo hồi buổi
sơ sanh mới phôi thai. Họ bắt buộc cho đến đổi không có cơm ăn đủ, có sao đặng,
miệng ăn đông, việc làm không có gì hết, ba bốn phen đi xin tiền về để tạo Đền
Thánh, ba bốn phen đều ăn hết, làm cho thiên hạ thối chí ngã lòng, trong cũng
thế, ngoài cũng thế.
Bên ngoài chúng mướn tay
sai của Pháp buổi nọ bắt buộc, giam cầm, bị nhục một cách không thể tưởng
tượng.
Bên trong chia phe phân
phái, một đoàn theo Đức Quyền Giáo Tông, một đoàn theo Ông Tương, một đoàn theo
Đức Cao Thượng Phẩm (ba bốn phe).
Họ nghịch nhau cho đến
nước, Thầy trò Phạm Môn không có gì hết, để lại bao nhiêu người Môn Đệ thiên hạ
lại gọi rằng Tả Đạo Bàn Môn, lập phe lập phái đi đầu cáo Pháp. Pháp bắt Phạm
Môn đem ra tòa xử nào phạt vạ nào tù tội, làm cho Đạo buổi nọ phải chết cho đến
những kẻ chứa Đức Cao Thượng Phẩm cũng không đặng và những người trọn hiến thân
hy sinh vì Đạo cũng bị thiên hạ xô đuổi.
Buổi nọ Phạm Môn cũng bị
đuổi ra khỏi Đền Thánh Thầy trò dắt nhau mua miếng đất tạo nên Phạm Nghiệp làm
cho Đạo sống trở lại.
May thay! "Hoàng
Thiên bất phụ hảo tâm nhơn" nhất là Đức Chí Tôn ở bên mình nên những mâu
thuẩn phá hoại không thành tựu gì hết.
Trong số 72 Môn Đệ của Bần
Đạo, thật sự hành Đạo chỉ có 26 đứa mà nghiệp Đạo hôm nay được thành tướng
dường này. Nếu không có Phạm Môn thì Đền Thánh không thành tựu, nếu không có
Phạm Môn thì nền Đạo Cao Đài đã chết rồi.
Trong công nghiệp gầy
dựng, cứu sống Đạo, Phạm Công Đằng đã có chung chịu trong đó.
* * *
9. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
ngày 09/7 năm Nhâm thìn (1952)
HÀNH PHÉP XÁC CHO ÔNG THỪA SỬ PHẠM NGỌC TRẤN
Hôm nay là ngày qui liễu của vị Thừa Sử
Phạm Ngọc Trấn, Bần Đạo để lời phân ưu cùng Hiệp Thiên Đài và Quân Đội, vì các
người
đã mất một người bạn đồng khổ.
Từ khi mở Đạo cái kiếp
sanh của Thừa Sử Trấn không biết thú vị mùi Đời là gì, trọn hiến thân cho Đạo,
hai mươi mấy năm gian lao khổ nhọc, không có một điều chi chúng ta đã chịu, mà
Thừa Sử Trấn không chịu. Gánh nặng của Đạo cũng đã chia sớt, gánh nặng của Đời
cũng dám hy sinh, vì nước, vì nhà, vì chủng tộc; hiến thân cho Đạo trọn đời đó
vậy. Hỏi? Từ thử đến giờ Thừa Sử Trấn có đặng vui hưởng hay chăng? Bần Đạo nói
không, không có gì hết.
Tuy vẫn biết con người có
mặt tại thế gian này thì phải sống, hễ có sống tức nhiên có chết, bởi không ra
ngoài tứ khổ, dù chết thế nào cũng chết; nhỏ cũng chết, lớn cũng chết, luật
thiên nhiên ấy không từ bỏ ai. Đã mang mãnh thi hài này, dầu chết thế nào cũng
là chết.
Duy có một điều may mắn
cho Thừa Sử Trấn hơn hết là biết mình đã mang mãnh thi hài xác tục sống ở mặt
thế gian này, mà không có vui sống; nếu có cái sứ mạng thiêng liêng hiệp công
tạo Đạo, thì Thừa Sử Trấn là người đã chờ Đức Chí Tôn đến, hiệp cùng Đức Chí
Tôn để tạo nền chơn giáo của Ngài.
Nay có kẻ đã giết Trấn,
thảng như Trấn còn oan nghiệt quả căn tiền kiếp, thì kẻ đã giết Trấn tức nhiên
kẻ đó sẽ giải nợ cho Trấn và chịu quả kiếp của Trấn, từ khi có linh hồn tới
giờ, bởi nó đến nó trả mà kẻ ấy không cho nó trả, tức nhiên lãnh cho nó.
Tội nghiệp thay!... Đi năm
non bảy biển, vào sanh ra tử mà không chết, về ở trong nhà máu thịt mà chết,
thảm thiết có bao nhiêu đó mà thôi.
Dưới bóng cờ cứu khổ, dưới
bóng cờ nhơn nghĩa, hai bóng ấy tưởng đâu gởi mảnh thân phàm, có thể bảo vệ
được! Nhưng ngày nay đã ra nông nỗi, chúng ta buồn duy có bao nhiêu đó mà thôi.
Kẻ giết rồi tưởng đâu kiếp
sống bền bỉ có hạnh phúc mà hưởng cho tới tận thế, hưởng cho đặng sống nơi mặt
địa cầu này hoài, chớ không tưởng có cái chết, nhưng sự thật thì chết cũng
chết. Thử hỏi trong lương tâm của họ vui hưởng được cái gì? Nếu kẻ thù địch
giết Trấn thì không nói làm chi. Nếu trong cửa Đạo này, có kẻ phản Đạo, phản
Thầy, phản bạn, đưa mũi súng bắn Trấn , họ không nghĩ rằng: "Họ bắn chết
Đạo của họ" họ không nghĩ rằng họ đã bắn chết thân danh của họ, duy tiếc
có bao nhiêu đó mà thôi. Còn ngoài ra thì con cái Đức Chí Tôn nên mừng giùm cho
Trấn, ấy là lời của Bần Đạo nói quả quyết như thế.
* * *
10. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
8 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 10 năm Mậu Tý
(1948)
LỄ CẦU SIÊU CHIẾN SĨ TRẬN VONG
Ngày nay là
ngày cầu nguyện cho các Thánh Tử Ðạo tức nhiên là ngày lễ các Thánh.
Nguyên căn
ngày nay là khi Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh có tiên tri rằng Chúa Cứu Thế
sẽ ra đời làm chủ tinh thần thiên hạ, các vị Vua Chúa ác sợ mất quyền tìm cách
giết Chúa. Nhưng vì đã lánh khỏi, chúng biết ngày sanh, vì oán hờn, mà đeo đuổi bắt con nít
đẻ trùng ngày với Ðức Chúa mà giết. Kẻ bị giết ngày ấy đều đặng hiển Thánh vì
Chúa mà chết thay thế cho Chúa, nên Thiên Chúa Giáo lấy ngày ấy làm ngày kỷ
niệm các Thánh bỏ mình vì Chúa. Ngày nay là ngày kỷ niệm các chiến sĩ trận
vong, các chiến sĩ ấy hy sinh cho quốc gia, vì nước nhà, vì nòi giống,
vì nhơn loại họ không tiếc mạng sống, đứng lên để mưu hạnh phúc cho toàn cầu gầy
dựng lại Quốc gia.
Ấy là các Thánh vô tội đã
hy sinh tạo hạnh phúc cho toàn thiên hạ cho kẻ khác hưởng, bởi thế ngày nay
chúng ta nên hội hiệp nhau lại làm lễ cho long trọng mà cầu siêu cho các chiến
sĩ đã hy sinh bảo vệ sanh mạng tồn tại của thiên hạ. Ngày nay là ngày trọng
yếu, mà lại là ngày lễ của Chính Phủ chọn lựa. Chúng ta nên để tâm cầu nguyện
đặng tỏ rằng người sống không bao giờ quên kẻ chết, và kẻ chết cùng người sống
vẫn có một quan niệm chung thờ một chủ nghĩa, duy có khác là cái chết và cái
sống, ngoài ra không ai phân biệt được, mà nếu không phân biệt được thì nhơn
loại có một mà thôi. Tinh thần vẫn một, sự phân biệt đó là tại tâm lý phàm phân
chia, chớ tinh thần không phân màu sắc dân tộc nào hết, chỉ có một quê hương
chung là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, có một Ðấng Chúa Tể là Trời.
Cả thảy chúng ta ngày nay
chung hiệp lại để cầu nguyện cho các bạn ta hay người ân của ta để cho các Ðấng
linh hồn đặng siêu thăng. Và chúng ta cũng hiến trọn cả thi hài nầy cho Chí
Tôn, thì bất kỳ cầu chuyện chi, ta làm sự gì tức là dâng cho Ngài cả. Xin Chư
Chức Sắc Thiên Phong và Chư Chức Việc Ðạo Hữu phải thành tâm hiến lễ cho Chí Tôn
như chúng ta dâng mảnh thân mình cho Ngài vậy.
* * *
11. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Tại Đại Đồng Xã
ngày 25 tháng chạp năm Kỷ Sửu (1949)
TINH THẦN THƯỢNG VÕ CỦA CHƯ LIỆT THÁNH
Trước Bần Đạo để lời cám
ơn Chư Chức Sắc Thiên Phong Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hội Thánh Phước Thiện,
Quân Đội và toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, nam nữ có mặt tại đây để làm lễ
truy diệu các vong linh của chiến sĩ anh dũng ngày hôm nay.
Bần Đạo là một vị Giáo Chủ
tưởng chẳng cần minh bạch nói thẳng thắng ra cho toàn thể điều biết cái khối
thương tâm của Bần Đạo thế nào, mỗi người đã cân lường nó.
Trót hai mươi bảy năm
trường, nói rõ ra là từ khi mới mở Đạo, đi theo cái bóng vô hình của Đức Chí
Tôn, lãnh một sứ mạng thiêng liêng đem nền chơn giáo của Ngài đến nơi mặt thế này,
đặng cứu độ chúng sanh. Ngài đã giao cho một đặc điểm khó khăn hơn hết là tìm
thế giải ách nô lệ cho nước Việt Nam hầu đem lại hai mối cảm tình của hai nước
Pháp Việt làm khuôn khổ đặng để nơi mặt thế này một kiểu vở hòa bình tâm lý.
Muốn cho đôi đàng hòa, hòa với nhau một cách hợp pháp, hòa với nhau một cách
xứng đáng thì ít nữa phương diện danh giá đôi đàng phải ngang nhau, đồng thể
với nhau mới đặng. Vì cớ cho nên Bần Đạo lập giá trị nước Việt Nam này làm thế
nào cho ngang hàng phẩm giá trị của Vạn Quốc, nên dùng nòi giống Việt Nam làm
Thánh Thể Đức Chí Tôn, hầu gieo truyền nền Chơn Giáo của Ngài toàn trong thiên
hạ.
Ôi! Biết bao nhiêu hy
sinh, nhứt là buổi sau này, khi đã bị đồ lưu hải ngoại qui hồi cố quốc thì một
trường chiến tranh đã nổi dậy, con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn đã hy sinh biết
bao xương máu để làm cho xong cái sứ mạng thiêng liêng của mình.
Thật Bần Đạo ngày nay đứng
nói đây, Bần Đạo thú thật rằng: trường hợp như thế Bần Đạo chưa hề tưởng tưởng
đặng, càng nghĩ càng nhớ cái bí mật vô biên của Đức Chí Tôn đã tiên định trong
bài thi của Ngài, năm Bính Dần là năm mới khai Đạo Ngài đề bài thi này.
"Phong Thần đừng tưởng việc mơ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô,
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ".
Thật ra Bần Đạo không ngờ
mà Ngài đã tiên định rằng: Cái thời cuộc đương nhiên hôm nay là tấn tuồng của
Phong Thần diễn lại đó vậy.
Trước Linh Vị của các Anh
Linh Chiến Sĩ Bần Đạo tưởng tượng chẳng khác nào Côn Lôn Sơn của Đức Lão Tử
chịu tâm khổ lập bản Phong Thần, Ngài đã chịu đau thảm về tinh thần thế nào,
thì ngày nay Bần Đạo cũng chịu y như thế ấy.
Bao nhiêu xương máu con cái yêu dấu
của Đức Chí Tôn tức nhiên bao nhiêu sanh mạng anh hùng Liệt Sĩ Cao Đài. Mỗi một
giọt máu là một giọt huyết lệ chan hòa trong ấy.
Muốn tương lai nước Việt
Nam sau có ngước mắt dòm cả toàn thiên hạ không thẹn thì ít nữa trong Quốc Dân,
trong con cái của nước Việt Nam phải đủ can đảm, đủ tinh thần, đủ tâm đức trung
liệt ái quốc nồng nàn mới đem lại cái hạnh phúc chơn thật cho nòi giống nước
nhà được. Những kẻ ấy chúng ta muốn tìm đặng duy có.... Bần Đạo xin lỗi duy cửa
Đạo Cao Đài này mới có mà thôi.
Mỗi sanh mạng ấy chúng ta
đã thấy hiển nhiên trước mắt, ngày nay người dám hy sinh là người đã tỏ rằng
mình là con cái xứng đáng của nước nhà chủng tộc đó vậy. Các vị anh hùng đó là
con cái xứng đáng của nước Việt Nam, là nòi giống trung thành của nước Việt
Nam, các Đấng ấy đã dám hy sinh cho Tổ Quốc họ. Hỏi chúng ta mất kẻ ấy chúng ta
có tìm lại đặng hay chăng? Câu hỏi ấy Bần Đạo để dấu hỏi mơ hồ.... Nếu có hay
chăng tương lai sẽ chỉ rõ, Bần Đạo mơ uớc một điều là những gương hy sinh đó
được để trong tâm não các chiến sĩ Cao Đài và Bần Đạo mơ ước phải nhớ mãi ấy là
danh giá cao thượng của Đạo đó vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét