HIỆP THIÊN ĐÀI
V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính Gởi: Hiền Huynh HIẾN
PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Tham chiếu : Quý Thánh Thơ
số 15/ DS ngày 12-6-1970
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo
tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn
để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14
tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
Phụ bản.
LỜI TỰA
Những bài
Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH
chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy.
Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành
cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các
nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc giả đến xem.
Đức HỘ-PHÁP là một trong
các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ
thuyết Tam-Lập: “Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn”.
Về lập đức: thì Đức Ngài
là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho
toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC-CHÍ-TÔN (NGỌC- HOÀNG - THƯỢNG-
ĐẾ ).
Về lập công: thì Đức Ngài
vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt
gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là
một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!
Về lập ngôn: thì Đức Ngài
lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng
thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn
Đạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý
độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính
chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần
thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử : những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch
đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua
các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện
chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau
thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập
những tài liệu này.
Chúng tôi nghĩ rằng : “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung
tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến
cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn
trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng
thay Trời dạy Đạo.
Nếu một may thay thời cuộc
lại biến thiên, có thể các cuộc phần
thư lại tái diễn, thì thiết tưởng trong
số tài liệu này vẫn còn có nhiều người
nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn
Đây không phải là việc làm
của một cá nhân hay một đoàn thể, nhưng
là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình
để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển
tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công
việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.
Việc làm của chúng tôi
không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo
trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU
ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành. Chúng tôi
xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi
chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng
tiếng ngọc của Đức HỘ PHÁP.
Từ đây bản quyền sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để
cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu
ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta
trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ
LỜI CHÚ CỦA NGƯỜI
SOẠN
Kính thưa: Chư Huynh, Tỷ,
Muội cùng các bạn đồng môn.
ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
lúc còn sanh tiền Ngài đã để lại nhiều lời vàng tiếng ngọc dạy dỗ chúng sanh
qua các buổi thuyết Đạo.
Nay kẻ hậu sinh được may
duyên học Đạo với Đấng Thiên Tôn qua các bài Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI
(từ năm 1946 đến năm 1955 do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh
ấn hành), trong những bài giảng nầy, Đức Ngài đã giáo hóa rất nhiều chủ đề về
Đấng Thượng Đế, Tôn Giáo, Nhân Loại ... theo dòng thời gian của từng thời kỳ
lịch sử.
Với lòng tôn kính Đức Tôn
Sư, con xin được sắp xếp các bài giảng theo từng chủ đề để con và các bạn đồng
môn dễ dàng sưu khảo trên đường tu học.
Thành kính cầu nguyện Đức
Tôn Sư luôn luôn dẫn dắt chúng con trên đường phụng sự.
Kỉnh bút
1. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm
30 tháng 5 năm Nhâm Thìn ( 1952 )
Luật
Nhân Quả
Ðêm nay Bần Ðạo giảng về Luật Nhơn Quả.
Hai chữ Nhân Quả là danh
từ mà Tiên Nho đã đề; Chữ Nhân Quả: Nhân theo nghĩa chánh của nó là chỉnh lại
hay dò lại, nói luôn theo chữ Quả thì chữ Nhân ấy đồng khuôn chữ đại. Quả là
chắc chắn mạnh mẽ, chúng ta thường hay dùng tiếng quả quyết lắm, dùng chữ quả
quyết hay là mạnh mẽ chẳng hạn.
Chữ Nhân Quả dịch ra tiếng
Phạn là tiếng Karma, thiệt tiếng Phạn có nghĩa là: Làm cái chi phải trả cái
nấy, phải bồi thường, ta có thể hiểu nó là khuôn luật "vay trả" đó vậy.
Khuôn luật ấy huyền bí vô
cùng, tại liên hệ với chữ Dharma. Quyền Chí Tôn tiếng Phạn đề " Boudha, Shama, Saya." Tức
nhiên câu niệm của chúng ta: Phật, Pháp, Tăng. Tiếng Karma liên hệ với Pháp như
thế ấy, có định luật Thiêng Liêng của nó, vì không thể lấy trí khôn ngoan của
chúng ta mà suy đoán luận biện cho đặng. Chúng ta thấy cũng như cả toàn thể từ
xưa đến giờ dầu cho bực Thánh Nhân Hiền Triết ta để con mắt quan sát tiềm tàng
thấy khuôn luật ấy nó vô hình mà nó quả quyết làm sao, chắc chắn làm sao. Người
ta tìm khuôn luật ấy thì thấy rằng:
Có một quyền năng vô đối
là quyền năng của Ðức Chí Tôn, tức nhiên Ðấng tự hữu kia để trong tay Ðấng đó
mới có thể cầm quyền về khuôn luật đó mà thôi.
Bởi sự quan sát ta thấy
Luật Nhơn Quả ấy về cá nhân cũng thế, gia đình cũng thế, xã hội cũng thế, mà
nói chung toàn thể nhơn quần trên mặt địa cầu nầy cũng thế. Nhân Quả ấy, người
ta đã tìm hiểu thấu đáo, hễ càng tìm tòi càng thấy kinh khủng làm sao.
Tỉ như một gia đình, trong
một cơ quan tạo dựng gia đình ấy, nó do nơi ác hành tạo dựng thì gia đình ấy
chẳng hề tồn tại. Một xã hội nào, một quốc dân nào do nơi ác hành mà tạo
nghiệp, thì xã hội đó quốc dân đó không bao giờ bền vững. Nếu chúng ta không
nói quả quyết rằng nó sẽ bị tiêu diệt mà chớ. Nhơn quần và cả nhơn loại giờ
phút nầy chúng ta thấy quả quyết làm sao không thể gì luận được.
Luận về nhơn quả cá nhân
ta hay một đại nghiệp ta nói: Tỉ như Tần Thủy Hoàng, muốn đem văn hiến của Ân
thay thế văn hiến Nho dám đang tay khi Nho, đốt sách chôn học trò, tưởng thi
hành thủ đoạn ấy tiêu diệt nhà Nho được, chúng ta thấy nhà Nho vẫn còn, còn cơ
nghiệp của Tần đã bị tiêu diệt, Bần Ðạo không nói cả cơ nghiệp của Tần mà thôi,
mà cả cá nhân của Tần Thủy Hoàng cũng vậy. Ngài Sở Bá Vương vô lấy Ly Sơn rồi
biết Tần Thủy Hoàng chôn nhiều vật báu, khi đào lên thì của báu ấy đã tiêu hủy.
Chúng ta tưởng coi có một
đại cơ nghiệp của nhà Hớn, Hớn Bái Công đã lấy tánh đức lập nghiệp, lấy nhơn
nghĩa làm căn bản tới 800 năm, khi đến nạn diệt tận rồi cũng còn Hớn Hiến Ðế
nối nghiệp, qua Hớn Chiêu Liệt tức nhiên Lưu Bị biết khí số nhà Hớn đã mãn,
muốn kiếm phương kéo dài mảy mún, tức nhiên để lại cho Hậu Chúa một đôi giáp
quí vô cùng, Ngài nói với Hậu Chúa tức nhiên Á Ðẩu rằng:
- Vật dĩ ác tiểu nhi vi
chi,
- Vật dĩ thiện tiểu nhi
bất vi.
Nghĩa là đừng vì ác nhỏ mà
làm và cũng đừng vì thiện nhỏ mà không làm. Về cá nhân hay xã hội đều đứng
trong khuôn luật ấy cả.
Bây giờ nói về tôn giáo
thì Ðức Phật Thích Ca cầm Bình Bát Vu đi ăn xin đặng nuôi kẻ nghèo nàn đói khó
nơi "Cấp cô độc viên" mà
cái Ðạo của Ngài tới 2.500 năm vẫn còn bền vững, nó vẫn giàu có, cả văn minh
Phật Giáo đã truyền bá toàn cõi Á Ðông nầy, nếu chúng ta thấy của cải vô biên
vô tận của nó, chúng ta thấy không thể gì tính toán được ( vô toán ).
Thêm nữa Ðấng chịu khổ
nhục đi ăn xin từ bữa, chịu hèn hạ ấy lại còn bị chúng bắt đóng đinh trên cây
Thập Tự Giá. Bị lên án là kẻ côn đồ, kẻ hung bạo, kẻ cướp bóc. Ðấng ấy đã tạo
Ðạo của Ngài. Giờ phút nầy nếu cả toàn mặt địa cầu nầy cũng chưa có ai sang cả
cho bằng.
Nhơn Quả của một người tạo
nghiệp hay Nhơn Quả của vị tạo Ðạo; hai cái đó trọng yếu vô cùng không thể gì
luận được.
Nãy giờ nói của người ta,
bây giờ mình phải nói tới của mình. Ðức Chí Tôn nói với môn đệ của Ngài: Ngài
lấy kẻ nghèo khó, hạng nhứt là Ngài đến với một quốc dân hèn hạ, quốc dân còn
bị lệ thuộc của người, làm tôi đòi thiên hạ, Ngài lấy phần tử ấy làm Thánh Thể
của Ngài mà tạo nền chơn giáo, Ngài lấy quốc dân nô lệ trong giờ phút tạo
nghiệp của Ðạo.
Cả con cái của Ngài tạo
dựng nên hình tướng của nó, không cướp bóc của ai không cầu lụy ai cho mình mà
làm cái nhân ấy quí báu làm sao, lại nữa người tượng trưng lấy nó, cơ thể hữu
hình là người chủ quyền lo tạo dựng nó, thân phải hèn hạ truân chuyên, bị thiên
hạ áp bức đè nén hiếp đến nỗi thân của họ bị đồ lưu, tù tội, cái nhục nhã hèn
hạ của họ, ngày nay đem vô Luật Nhân Quả thế nào ? Thì toàn thể con cái của Ðức
Chí Tôn luận lại thì hiểu . (Thuyết Ðạo QV / tr 49)
2. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Ðêm mùng 8 tháng 4
năm Ất Mùi ( 1955 )
Luật Nhân Quả (tt)
Ðêm nay là ngày vía Ðức
Phật Thích Ca luôn ngày vía bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh, có phải
chăng là môt việc tình cờ hay là quyền Thiêng Liêng Ðức Chí Tôn đã định,
chị Nữ Ðầu Sư vẫn thương yêu Ðức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân, Ðức Chí Tôn đến kêu người phải về cùng
Thầy, mà sự thật ra tâm đạo của chị từ bé tới lớn chỉ theo chơn Ðức Phật
Thích Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Ðạo thì sự ấy không chi là lạ.
Nguơn Linh của Long
Nữ đã theo hầu Ðức Quan Âm Bồ Tát mấy kiếp đã đến trần thì căn Phật của Người
vẫn thế, Bần Ðạo xin thuyết triết lý Ðạo Phật của Ðức Phật Thích Ca, Ngài đã
đoạt Ðạo đặng rồi tức nhiên Chị hiểu cái huyền vi bí mật của kiếp sanh con người, Ngài tầm ra
căn nguyên bí yếu hơn hết là Luật Nhơn Quả Pháp định ( Loi Karmique ), cái Luật
Nhơn Quả của Ngài nó trúng trong chơn lý lạ thường, thử ta chối
con người không có quả kiếp chi hết cũng như thuyết Duy Vật đã nói, con
người
đã sinh ra ở mặt thế nầy là tình cờ mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái
thuyết ấy quả nhiên là chơn lý thì ta thử hỏi vậy chớ duyên cớ nào kẻ sanh ra
vừa khỏi lòng mẹ đã nằm trên đống vàng hay là ngự trên ngai vàng, còn những kẻ
sanh ra đã bị tật nguyền, đui mù, ngu dại. Nếu không có định luật thiên nhiên
công bình vô đối của Ðại Từ Phụ tức nhiên của Ðức Chí Tôn thì lẽ bất công ấy
chúng ta phải giải nghĩa ra thế nào mà chớ ? Cái triết lý bí yếu ấy, Ðức Thích
Ca đã tìm đặng tức là Nhơn Quả của ta.
Nhơn nghĩa là ta đã làm
điều chi thì Quả của nó trả trở lại. Cái Luật Nhơn Quả ấy, nó là căn kiếp sống
của ta. Có nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn vợ con đông đúc, cả mọi điều gì
muốn thi thố ra đều thất bại mà cái thất bại ấy chẳng phải dở, cái miệng những
kẻ ấy thường trong cơn đau khổ nói số kiếp của tôi nó như thế nào, tội tình gì
mà làm cho tôi như thế đó, là kẻ bên Ðạo Phật. Các tôn giáo khác không cần
luận, ta thấy họ đã quyết định cái quả kiếp là gì, Phật đã nói :
"Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định số phận
của ta đương kiếp sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước, bây
giờ cái triết lý ấy biểu ta muốn cho nên kiếp tới, kiếp nầy ta chẳng nên gây
Nhân Quả nhiều hay nặng nề. Vì cớ cho nên những bổn đạo cùng những người tín
ngưỡng theo triết lý của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng cớ
không may, hoặc về tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về nghèo
giàu, bất kỳ quả kiếp của con người ta thường nương lấy đó mà sống, làm cho cái
khổ của con người đã sanh ra chịu khổ rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng thêm khổ
nữa."
Bây giờ quá sức chịu của
trí não con người phải làm sao, hễ khi nào bị khổ não quá chừng thì tìm phương
pháp an ủi, bởi cớ cho nên nhà Phật là nhà an ủi tâm hồn của những kẻ đau khổ
hơn hết đặng tự giác lấy mình, hiểu cái quả kiếp mà mình đã đào tạo, vì tại
mình vi chủ tạo thành nó ra, bây giờ tìm phương giải nó đi tức nhiên tránh kiếp
tới, nếu ta đã biết kiếp nầy không may để ta trả nó mà thôi, ta đừng gây thêm
quả kiếp nữa.
Bởi cớ cho nên nam cũng
vậy, nữ cũng vậy, cạo đầu phế cả cái sống của mình gọi là Qui Y thọ Pháp vô
chùa gởi thân trong cửa Phạm của Ðức Phật Thích Ca đặng tìm phương an ủi hay là
hay hơn nữa đủ trí thức, đủ tự giác để đào tạo cái quả kiếp tương lai của mình,
thật ra chơn lý ấy của nhà Phật an ủi một cách mạnh mẽ các tâm hồn bị đau khổ.
Chính Phật cũng nhờ triết lý ấy mà nhiều phen đã tự an ủi mình làm một Phật vị,
bởi chính mình Ngài muốn tạo một lớp Liên Hoa của Ngài, Ngài phải đầu kiếp làm
thảo mộc, lên thú cầm tới nhơn loại rồi đến Phật vị, thì tức nhiên trọn cái
vòng siêu thoát của Ngài.
Ngài đã biết nhơn loại,
biết kiếp sống của con người đau khổ như thế nào, thật có sống với đời mới biết
cái khổ của đời. Những tay thầy thuốc giỏi hay biết được bịnh con người một
cách đúng đắn mực thước thì chính mình ông phải có bịnh đó, ông tự thí nghiệm
bào chữa chứng bịnh của ông, rồi ông mới đoạt được lịch thi của ông không thế
tưởng tượng.
Ðức Phật Thích ca cũng
thế, Ngài cũng sống, Ngài đã chịu trong cái Luật Quả Kiếp ấy luân chuyển từ vật
hình dĩ chí cho tới Phật vị, cái quả kiếp của Ngài nó phải chơn thật không thể
tưởng tượng được, không thể bỏ nó ra, không có cái triết lý nào giải nghĩa kiếp
sanh con người cho nó mực thước hết.
Bây giờ xin luận về thuyết
Duy Vật nói loài người là một giống khỉ tiến hóa lên chớ không phải Trời sanh
ra, Bần Ðạo nhìn trở lại sắc dân của Ấn Ðộ, chính mình Phật Thích Ca là dân của
Ấn Ðộ, dân da đen gọi là Hắc Chủng, Ngài sanh ra ở đó, da thay vì đen nó hơi
hồng hồng, rồi người đời tặng Ngài màu hồng, họ gọi Ngài là Kim Thân, vì cớ cho
nên các tượng hình của Ngài đều phết vàng, bởi tại hai chữ Kim Thân ấy, chính
Ngài là sắc dân da đen mà sắc dân da đen là một chủng tộc đến mặt địa cầu nầy
sớm hơn hết.
Chúng ta thử xét đoán nếu
quả nhiên là loài khỉ tấn hóa lên cho tới sắc dân hắc chủng ấy có đâu đầu óc
của họ có quá chừng quá đỗi, tâm thần quáng thế như thế đó, nhứt là đặc biệt
hơn hết các triết lý cao siêu về mặt vô hình, dân Ấn Ðộ đứng đầu hơn hết các
chủng tộc. Nó trái ngược lại những tộc chủng đã noi theo luật tiến hóa, nhứt là
chót hết bây giờ là Bạch Chủng. Tôi thấy họ đã tiến hóa nhiều từ Hắc Chủng lên
Thanh Chủng tới Xích Chủng đến Huỳnh Chủng rồi tới Bạch Chủng. Ðường tiến hóa
của nhơn loại nhiều quá, sâu xa lắm, tới chừng dòm lại sắc dân Bạch Chủng kia
cũng không phải hơn gì sắc dân Hắc Chủng vì Hắc Chủng người đã đến mặt địa cầu
nầy hồi ban sơ hết, hay nói là Mẹ của các giống người hết thảy nơi thế gian nầy
mà người ta cao siêu như thế đó thì chính mình Bần Ðạo không tin loài khỉ tiến
hóa lên được, cái lý thuyết ấy vô lối, nếu không nói là quái dị, hay đặt cho nó
cái tiếng là quái gở.
Cái triết lý của nhà Phật
từ thử tới giờ chưa có một vị giáo chủ nào đã đoạt Pháp mà biết cái bí ẩn
Thiêng Liêng của luật thiên nhiên kia một cách chánh đáng như thế, chơn thật
như thế, có một điều chính mình trong sự luân hồi quả kiếp ấy Ðại Từ Phụ đã làm
chứng trong bài thơ của Ngài:
Ðài Vân Quan Võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn phước ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
Nói như thế đó, chính mình
Ðại Từ Phụ đã nói rằng : Quả Kiếp Nhơn Quả của con người, luật ấy hiển nhiên
vẫn có thiệt đó vậy . (Thuyết Ðạo QVI / tr 280.)
3. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 30 tháng 11 năm Mậu Tý ( 1948 )
Ðại hùng đại lực đại từ bi
Ðêm nay Bần
Ðạo giảng câu triết lý Ðại Từ, Ðại Bi. Câu triết lý ấy nguyên bổn của nó do nơi Minh Ðường, Minh Sư đã thuyết
giáo, chúng ta chẳng biết Minh Ðường Minh Sư họ có phương pháp chi mà luyện hay lắm,
sự triết lý đã để truyền giáo một cách vững chắc, chúng ta cũng nhìn nhận có nhiều chơn lý đặc sắc,
tưởng tượng ra câu thường ngữ khi thuyết pháp họ thuyết pháp nơi câu đại hùng,
đại lực, đại từ bi.
Thật vậy các
người tu, nếu không có đức tin dường đó thì không có thể gì thành đạo đặng.
Triết lý nhà Phật từ tạo Thiên lập Ðịa đến giờ đã tạo ra biết bao nhiêu Ðấng đã
thừa hành mạng lịnh Phật giáo đang hành hóa chúng sanh nơi mặt thế gian nầy, nếu
không có tánh đức ấy chẳng hề khi nào lập giáo đặng.
Ðại lực, câu ấy có lẽ để
một phương ngôn luận, công lý của một mối Ðạo mình tu, phải có một đức tin hùng
dũng mới đặng. Bần Ðạo nói, nếu không có tánh đức hùng dũng chẳng hề khi nào
thăng khảo đảo đặng.
Cả thảy con cái của Ðức
Chí Tôn đều biết từ ngày mở Ðạo đến giờ, một trường khảo đảo kịch liệt, từ ngày
Ðạo mới phôi thay đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng của con cái Ðức Chí
Tôn cương quyết lập Ðạo cho thành, "Cương
quyết phải thắng" vì tổng số cả tinh thần hùng dũng của con cái Ðức
Chí Tôn, nên ngày nay nền Ðạo mới ra thiệt tướng như vậy.
Bần Ðạo ngồi quan sát lại,
quan sát từ buổi thô sơ triết lý do những điều Ðức Chí Tôn tìm Chánh Lý, Ngài
đến cầm cây viết Thiêng Liêng lựa chọn đem vô Thánh Thể của Ngài, những kẻ ấy
thất Ðạo vì nguyên do buổi trước, Bần Ðạo thấy quả quyết và dám chắc như thế,
nếu Bần Ðạo vạch ra thì toàn cả con cái của Ðức Chí Tôn cũng ngó thấy như Bần
Ðạo mà những kẻ thất Ðạo không theo dõi bước Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn là do
nhút nhát sợ sệt, bạc nhược, sợ cường quyền, sợ luật đối phương mãnh liệt, họ
chưa có chí hùng dũng quyết tranh đấu quyết thắng nên họ thất Ðạo, cái thất Ðạo
của họ là thiếu chí hùng dũng, là tại nơi họ nhút nhát, bạc nhược. Tinh thần
hùng dũng chẳng phải nơi cửa Ðạo mà thôi, ngoài đời cũng vậy, bậc vĩ nhân đã
tạo thời cải thế từ thượng cổ đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng thì
phải bị làn sóng đời lôi cuốn như một dề bèo trôi giữa dòng sông kia vậy.
Ðức Chí Tôn có một quyền
năng đặc sắc để nơi địa vị của họ, nhưng họ thiếu chí hùng dũng và cương quyết.
Bần Ðạo chỉ bằng cớ hiển nhiên là khi Ðức Phật Thích Ca còn là Thái Tử, có kẻ
nghe Ngài có bổn tánh là một vị Thánh, nên đến xin con mắt của Ngài, Ngài dám
móc con mắt cho kẻ ấy, nếu không có chí hùng dũng cương quyết, tưởng chưa có
người nào nơi mặt thế gian nầy làm đặng như Ngài. Khi Ngài đạt đến địa vị Thiên
Phẩm, tức nhiên Ngài ngồi luyện Ðạo, đang tịnh luyện dưới gốc bồ đề, có một vị
Vương Hầu đi săn, rượt theo con nai, con nai chạy ngang gần chỗ Ngài nó tách
qua nơi khác, Vị Vương Hầu ấy rượt đến không thấy con nai, chỉ thấy Ngài ngồi
dưới gốc bồ đề mà thôi, vị Vương Hầu ấy mới hỏi Ngài có thấy con nai chạy ngang
qua đây không ? Ngài suy nghĩ, nếu ta chỉ chỗ thì vị hung thần nầy giết nó thì
ta có liên quan tới sát sanh, nếu ta nói không thấy thì ta nói dối, tốt hơn là
ta làm thinh nên Ngài nhứt định làm thinh.
Vị hung thần ấy nổi giận
nhiếc mắng Ngài, dầu cho ông Thầy tu đi nữa, nhưng ông là một người dân của
tôi, ở trong nước của tôi tức nhiên ông là tôi tớ của tôi. Nếu tôi hỏi tiếng
nữa mà ông không trả lời tôi sẽ chặt cánh tay mặt của ông.
- Tôi hỏi ông có thấy con
nai chạy ngang qua đây không ?
Ngài làm thinh không trả
lời. Vị hung thần ấy liền chặt rớt cánh tay mặt của Ngài, xong rồi nói : Tôi
hỏi tiếng nữa mà ông làm thinh thì tôi chặt cánh tay trái của ông.
- Ông có thấy con nai chạy
ngang qua đây không?
Ngài làm thinh, vị hung
thần ấy liền chặt cánh tay trái của Ngài, vị hung thần ấy nói: Nếu tôi hỏi lần
nữa mà ông không nói, tôi sẽ chặt đầu ông. Ngài vẫn suy nghĩ, ta đã chịu chặt
hai tay rồi có lẽ đâu ta sợ chết mà phải nói, nên Ngài cương quyết làm thinh
luôn. Vị hung thần ấy liền chặt đầu Ngài.
Ngài xuất chơn hồn của
Ngài ra ngoài thể phách, kế có một bánh xe lửa chụp lên đầu Ngài đốt Ngài, vì
quyền Ngọc Hư Cung định án Ngài tự sát. Ðã bị chặt hai cánh tay rồi, còn cái
đầu mà không chịu nói thấy, tức nhiên mình tự vận, và bánh xe lửa ấy nóng nảy
làm sao, không thể nói được khổ não của Ngài ! Cái khổ não ấy, Ngài mới suy
nghĩ, nếu bánh xe nầy rớt trên đầu ai cũng chịu không nỗi, Ngài suy nghĩ, ta đã
chịu chặt tay chặt đầu, bị đốt mà chịu nỗi, nên Ngài cầu nguyện để cho Ngài
chịu tất cả hình phạt ấy. Ngài vừa cầu nguyện, vừa tưởng tượng thì bánh xe lửa
nầy bay đi, nếu Ngài không có tinh thần hùng dũng thì không thể gì làm được.
Ðức Thích Ca đã làm được,
khi Ngài đạt vị tại thành ' Kabikanla' tức là xứ sở quê hương của Ngài. Quốc
Vương trị an thiên hạ nơi ấy là cha của Ngài bắt tội Ngài bỏ nhà đi tu là bất
hiếu, nếu làm con như kẻ thường tình trở về nói đi tìm Ðạo chắc Ngài không nở
bắt tội, mà ông cha cốt yếu muốn thấy Phật nên mới làm như vậy mà thôi. Ngài
truyền cho thiên hạ biết, nếu gặp Ðức Phật Thích Ca thì bắt đem về cho Ngài lên
án tử hình.
Chừng Ngài nghe nói lên án
tử hình ấy, Ðức Thích Ca liền ra chịu án tử hình. Ngài nói : án tử hình ấy để
một mình con xin chịu mà thôi, còn tín đồ của con xin cha tha thứ để cho nó tu.
Nếu không có tinh thần hùng dũng chưa ai làm được như Phật Thích Ca vậy.
Nói một chí khí hùng dũng
về tinh thần của Ðức Lão Tử, từ hồi ở nơi Thơ Viện nhà Châu bị đuổi, lên xe
trâu mà về Côn Lôn Sơn, đi thì có một manh áo, một con trâu ra khỏi dinh nhà
Châu. Nếu không có chí hùng dũng chưa dễ gì đang làm một vị đại quan Triều Nhà
Châu mà từ nơi dinh nhà Châu ra đi chỉ có một manh áo với một con trâu mà về
Côn Lôn Sơn đặng.
Ðức Khổng Phu Tử đã châu
lưu lục quốc bất kỳ nơi nào cũng bị thiên hạ biếm nhẽ, chê bai, bắt dọa cho đến
lúc trở về nước Lỗ, khi về Ngài còn cần cù dạy học trò. Ngài làm quan đến bực
Tể Tướng và làm quan đến chức Gián Nghị Ðại Phu mà vẫn còn cần cù dạy học. Nếu
Ngài không có chí hùng dũng thì không thể gì làm như vậy đặng.
Như Ðức Chúa Jésus Christ
khi Ngài đã chết trên cây Thánh Giá, chúng đóng đinh trên cây Thánh Giá mà quân
vô đạo đứng dưới cây Thánh Giá kêu Ngài nhiếc mắng Ngài, nói Ngài là con Ðức
Chúa Trời quyền năng vô biên cứu cả thiên hạ đặng, đâu người cứu thử người
trước coi, người làm sao xuống đặng bốn cây đinh đóng hai tay hai chân của
người đó coi. Ngài chỉ ngó lên Trời cầu nguyện : Thưa Cha, xin Cha tha tội tình
cho chúng nó, vì chúng nó chưa biết lỗi lầm của chúng nó. Nếu Chúa không có chí
hùng dũng thì chưa có tinh thần ấy.
Mohamed lập ra Ðạo Hồi Hồi
bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám trốn chui, trốn nhủi mà không buổi nào thất chí.
Giờ phút nầy chúng ta chỉ
biết một người làm cho thiên hạ đảo lộn biến thành một trường ngôn luận cả toàn
thể hoàn cầu là Galania Davis dám đến giữa hội Vạn Quốc nói rằng: - Hòa bình
thế giới, các Ngài dám bảo đảm không ? Tôi cốt yếu là một công dân đệ nhứt của
quốc tế đến hỏi các ngài dám bảo đảm hòa bình thế giới không ? Nếu không có chí
hùng dũng thì anh Galania Davis chưa hề làm được.
Còn nhiều phương nữa nếu
không có chí hùng dũng, có đại lực thì chưa làm được. Hùng dũng được, tức nhiên
theo lẽ phải, có hùng có lực phải từ bi. Nếu muốn vào hàng Thánh Ðức phải đi
ngang qua cửa từ bi. Hễ Ðạo có hành tàng thì lấy từ bi làm căn bản, còn hung
tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời.
Ðức Chúa Jésus Christ cứu
đời có nhiều đại từ, đại bi, đại lực.
Các nhà đạo giáo đi đến
cửa mà vô không đặng thì trở qua tả đạo bàn môn, còn đi thuận chiều thì là đại
từ bi, qua được tức nhiên theo chiều của Ðức Chí Tôn mà đôi khi còn đi qua
thiên lý, thiên số và thiên tánh tức nhiên là chơn tánh, tức là chơn đạo. Nếu
chơn đạo không biết giữ thì đại hùng đại lực sẽ biến thành đại ác tả đạo bàn
môn.
Kết luận, cả con cái Chí
Tôn thấy một trường hợp nào bất chánh thì quan sát cái trạng thái của nền chánh
giáo Ðức Chí Tôn đã cho hay trước, nó có đại hùng đại lực rồi nó phải đi trong
con đường đại từ bi, coi chừng có đường nào đi qua đại ác của nó, cả thảy đều
đứng lên làm một bức tường thiên nhiên gây thành một bức tường huyền diệu của
Ðức Chí Tôn đặng cản ngăn che cho Ngài, cái nền tôn giáo của Ngài đừng cho đi
vào đường đại ác.
Tương lai thay đổi, phải
mở con mắt Thiêng Liêng, lấy tinh thần toàn thể, dầu chức sắc Thiên Phong hay
tín đồ cũng vậy, con mắt phải mở. Con mắt ấy là Huệ Nhãn phải mở cho rõ ràng
minh mẫn đặng coi chừng thay đổi nền chánh giáo của Ðức Chí Tôn vĩnh cửu trường
tồn, đừng để ngày sau đổ sụp mà ân hận . (Thuyết Ðạo QII / tr163)
* * *
4. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Báo Ân Từ .
Ngày rằm tháng 10 năm Bính Tuất ( 1946 )
Lòng từ bi bác ái
Từ xưa đến nay các nhà
tôn giáo đem chữ từ bi bác ái phổ hóa nhơn sanh, cốt yếu là để bảo tồn sanh
mạng của quần chúng, gầy lại sự hạnh phúc cho đời chung hưởng. Chữ từ bi bác ái
chẳng lạ gì.
Bần Ðạo nói ra thì chư
chức sắc nam nữ, chức việc đạo hữu cũng đều hiểu rõ.
Cái nghĩa lý của bốn chữ
từ bi bác ái cũng không phải là sâu xa mắc mỏ gì, từ lớn chí nhỏ làm được tất
cả mà tiếc thay cho nhơn sanh không chịu thực hành.
Từ bi là gì ? Bác ái là gì ?
Bần Ðạo xin được giải Chữ từ bi: ai ai cũng có
sẵn trong tâm, trẻ con lên năm bảy tuổi thì nó đã biết sự thương yêu cha mẹ,
thương yêu anh em là người thân tộc gần gũi của nó, khi nó đã trưởng thành có vợ con, bậu bạn thì nó lại thương yêu rộng ra hơn nữa,
một khi đã thấy sự đau khổ hoạn
nạn, tai ương của quần chúng thì nó cảm hóa xúc động để tâm thương yêu lan tràn
ra không biết đâu là giới hạn, ấy là tánh từ bi đó.
Còn Bác ái là thể theo lòng Trời Phật thương yêu toàn cả
chúng sanh không biết đâu là bờ bến, thấy chúng sanh làm được việc gì có đạo đức nhơn nghĩa thì Trời Phật vui mừng
thương
yêu chẳng xiết, ấy là Bác Ái.
Hiện nay nhơn loại thiếu
sự từ bi bác ái cho nên tạo ra trường tranh đấu, quyết chiến với nhau, sát hại
đồng bào tương tàn cốt nhục, Ðức Chí Tôn giáng trần hoằng khai Ðại Ðạo Tam Kỳ
Phổ Ðộ là cốt yếu đem chủ nghĩa từ bi bác ái làm tôn chỉ để cho nhơn sanh theo
đó mà làm một cơ quan bảo tồn tánh mạng và bảo an quốc thể được hòa bình.
Ngày nào cả toàn quần
chúng, đồng bào biết giác ngộ tu tỉnh hiệp nhứt tâm thật hành chủ nghĩa từ bi
bác ái cho ra chơn tướng thì nhơn loại sẽ đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc,
chẳng luận quốc gia nào, xã hội nào mà toàn cầu thế giới cũng được thọ hưởng
cái hạnh phúc ấy. (Thuyết Ðạo QI / tr 16)
* * *
5. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 15 tháng 5 năm Quí Tỵ ( 1953 )
Xá lợi Ðức Phật Thích Ca
Bần Ðạo xin cho toàn thể con cái Ðức
Chí Tôn hay, ngày mai nầy là ngày chúng ta sẽ làm Lễ Rước Ngọc Xá Lợi của Ðức Phật
Thích Ca. Rất may duyên cho Tòa Thánh là được cái báu ấy vì vật báu đó từ trước
đến giờ chỉ có trong hàng Phật Tử của nước Ấn Ðộ được hưởng mà thôi.
Sau khi Ðức
Thích Ca tịch diệt thì mấy vị Ðại Ðức theo Ðạo của Ngài, họ mới đem thi hài của
Ngài tức nhiên là cái cốt của Ngài mà hỏa táng, xong còn sót lại chút ít xương môn đệ của
Ngài lấy cái đó làm báu vật đặng thờ Ngài tức nhiên là thờ Bổn Sư của họ.
Tòa Thánh đây cũng là nơi
của Ngài ngự, lại hữu hạnh được vị Ðại Ðức trong hàng Phật Tử nước Ấn Ðộ đem
dâng cho Tòa Thánh một cái Ngọc Xá Lợi.
Bần Ðạo xin con cái Ðức
Chí Tôn nam nữ ngày mai nầy nghinh tiếp cho đông đảo, tưởng khi đạo hạnh của
chúng ta đổi trở lại với Ðức Phật Thích Ca sẽ làm cho đẹp lòng Ðức Chí Tôn đó
vậy.
Ðêm nay Bần Ðạo thuyết cái
luật thương yêu và quyền công chánh của Ðức Chí Tôn nó không định giới, định
hướng nơi nào tất cả. Thật ra Ðức Chí Tôn đến lập Thánh Thể của Ngài, tức nhiên
lập Hội Thánh thay thế hình ảnh của Ngài nơi mặt thế gian, tức nhiên ở địa cầu
68 nầy, cốt yếu Ngài tỏ cho nhơn loại đều ngó thấy rằng : Ngài đến đặng Ngài
chia khổ não với con cái của Ngài, Ngài lấy xác phàm của các phần tử tức nhiên
các lương sanh nơi mặt thế gian nầy đặng Ngài tuyển chọn lập Hội Thánh, tức
nhiên là Thánh Thể của Ngài và Ngài đem cái luật ấy giao cho Hội Thánh mà luật
ấy không có nhiều, chỉ có một mà thôi, cái luật của Ngài là Luật Thương Yêu tức
nhiên là Luật Từ Bi, còn phép của Ngài cũng có một mà thôi đó là phép Công
Chánh, Công Bình.
Ở trước Ðền Thờ của chúng
ta có ' Tam Thánh' đã ký kết Hòa Ước cùng Ðức Chí Tôn lãnh cái luật Từ Bi, tức
nhiên là Luật Thương Yêu đặng độ rỗi con cái của Ngài trở về cựu vị, còn quyền
Ðức Chí Tôn chỉ lấy quyền Công Chánh mà thôi.
Luật và Quyền ấy chúng ta
để thử trí phàm tìm hiểu lấy trí não suy tính và suy nghĩ coi Ngài lấy hai món
ấy giao cho ta và biểu ta thay thế cho Ngài mà thiệt hiện ra căn nguyên ấy là
phải do nơi nào. Bần Ðạo thường thuyết nơi giảng đài nầy, Bần Ðạo nói : Chúng
ta nên lấy cái nhỏ mà luận cái nhỏ ấy chúng ta mới có thể tìm cái lớn được, lấy
cái tối thiểu mà tìm ra cái tối đại, nguyên căn đó vậy không có lạ gì hết.
Vả chăng chúng ta sanh
đứng làm người trên cõi tạm nầy có hai mối nợ :
1./ Mối nợ thân sinh của ta, tức nhiên là Cha
Mẹ của ta.
2./ Mối nợ Tạo Hóa, tức nhiên là Ðức Chí Tôn.
Hai mối nợ ấy chúng ta có thể nói là hai ông
Trời, ông Trời trên và ông Trời dưới. Tánh đức của họ giống nhau như thế nào chúng
ta dư hiểu.
Có phải Cha và Mẹ chúng ta
tức nhiên thân sinh ta, khi sanh ta ra chỉ cần có một điều là chúng ta phải
biết thương yêu mà thôi. Vì sự thương yêu ấy mà Cha Mẹ ta gìn giữ sự sống còn
của ta, nuôi dưỡng ta cho nên người nên phận. Phải chăng luật thương yêu ấy nó
đứng đầu hết các đạo làm Cha Mẹ hay chăng ? Chúng ta chẳng cần hỏi và cũng đã
hiểu rồi.
Bây giờ hỏi thử khi tạo
một gia đình có con cái, có dâu cháu, cả Tông Ðường họ hiệp lại tinh thần của
họ và họ muốn gì chớ ? Phải chăng họ cầu nguyện có một điều là toàn cả gia tộc,
toàn cả cháu chắt của họ biết thương yêu nhau mà thôi. Mong mỗi có bấy nhiêu
đó, phải chăng luật đó là luật thiên nhiên của cha mẹ chúng ta mà Ðấng Tạo Hóa
đã định sẵn. Chúng ta không chối cãi và quả quyết như vậy.
Trong gia nghiêm của chúng
ta bao giờ cũng gìn giữ cho con cái thuận hòa hay là chung sống với nhau trong
lòng yêu ái. Chúng ta đã biết 'Sanh con há dễ sanh lòng' một đứa một tánh đức,
một đứa một tinh thần, một đứa một sở hàm, mỗi đứa nó đi mỗi đường, không có
đứa nào giống nhau. Nếu như gia đình nào có anh em giống nhau thì gia đình ấy
hạnh phúc lắm.
Chúng ta ngó thấy con cái
trong nhà bao giờ cũng có nặng nhẹ nhau, bất đồng tánh đức tình ý với nhau. Nếu
muốn ở trong nhà con cái được thuận hòa, biết yêu ái với nhau thì trong gia
nghiêm phải giữ cho có mực thước, mà muốn cho có mực thước tức nhiên đạo làm
cha mẹ phải lấy quyền công chánh công bình của mình mà xử con, lý do đó chúng
ta thấy Ðấng sanh thành dưỡng dục ta, cái khuôn khổ ấy thế nào thì Ðấng tạo
khuôn khổ cũng thế ấy mà thôi.
Luật thiên nhiên Ðức Chí
Tôn muốn gì ? Phải chăng Ngài muốn cho cả nhơn loại biết nhìn nhau là cốt nhục,
biết nhìn nhau là con cái của Ngài đã tạo đoan ra. Nếu bây giờ toàn thể con cái
Ðức Chí Tôn biết rằng : Con người sanh trong mặt thế gian nầy, sanh trong cảnh
khổ nầy biết thương yêu nhau, biết giúp đỡ nhau đặng chia cảnh khổ ấy thì Ðức
Chí Tôn chẳng đến lập nền Tôn Giáo, nhưng Ngài đến buổi nầy đặng chi ? Có phải
Ngài đến đặng Ngài gieo hột giống Thương Yêu ấy, gieo cái Tình Thương trong tâm
não con cái của Ngài hay chăng ? Chúng ta thấy hiển nhiên là thế đó. Cái Luật
Thương Yêu đó đối với thiên vị là Thánh Thể của Ngài nơi mặt thế gian nầy vì
chúng ta lãnh sứ mạng nơi Ngài, tức nhiên một phần tử của Hội Thánh đó vậy.
Ngộ nghĩnh thay ! Chúng ta
tùng một luật thương yêu ấy rồi chúng ta nắm một quyền hành trong tay, ấy là
quyền hành công chánh. Phải vậy, trong hết thảy chúng ta không thể chối được.
Trái lại nếu trong cửa Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn, không có lòng thương yêu
vô tận ấy, quyền năng công bình vô đối ấy thì không phải là con cái của Ngài,
cái lẽ tự nhiên đó vậy.
Bần Ðạo đã nói cái luật
thương yêu nó không định giới, định hướng đặng và chúng ta có thể nói trong một
gia đình đương nhiên bây giờ ta có con trai phải cưới dâu trong Tông Ðường
khác, ta có con gái phải gả cho Tông Ðường khác thì nó mới sống trở lại trong
gia đình của chúng ta, sự thương yêu nó không định giới, định hướng là vậy.
Huống chi là lòng thương yêu vô tận của Ðức Chí Tôn.
Bần Ðạo chỉ nhắc một điều
trọng yếu cho con cái của Ngài nam nữ cũng vậy, nghe và nhớ để ý cho lắm : Con
người tuổi thơ sanh không có gì, nhưng những người có niên kỷ rồi nào là ông
bà, cha mẹ, cô bác, thân tộc họ đã qua đời, tức nhiên họ đã qui liễu. Chúng ta
ngó thấy giọt nước mắt của chúng ta trong kiếp sanh đã đổ biết bao nhiêu là
giọt nước mắt đau thảm. Lòng thương yêu cốt nhục ấy, nó đã làm cho ta hiểu cái
giá trị của nó thế nào rồi. Coi chừng nghe ! Mình đau đớn, mình khổ não, mình
thương nhớ rồi mình cúng quảy lễ tế, đạo làm con hiếu hạnh phải vậy. Nhưng phải
coi chừng, họ tái sanh, họ đứng ngay trước mặt mình với đứa con nít kia mà mình
không biết không hay, mình lãnh đạm, ghét dơ. Ðến khi về nơi cõi Thiêng Liêng
mình nhìn thấy mặt họ rồi mình tự hổ nhục vì cái hổ nhục đó làm cho ta phải tái
kiếp luân hồi trở lại.
Dám chắc không có cái đau
đớn, cái hổ nhục nào bằng khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà gặp cảnh
tượng ấy . (Thuyết Ðạo QV / 143)
* * *
6. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 18 tháng 5 năm Quí Tỵ ( 1953 )
Lễ Ðăng Ðiện Xá lợi Phật.
Hôm nay chúng ta thiết lễ Tiểu Ðàn
An Vị Xá Lợi Phật của Ðức Phật Thích Ca.
Bần Ðạo đã
để Xá Lợi Phật tại Nghinh Phong Ðài 3 ngày 3 đêm cho con cái Ðức Chí Tôn chiêm
ngưỡng
Ðức Phật Thích Ca. Hôm nay đã đủ 3 ngày, Bần Ðạo hành lễ an vị cho Ngài.
Chúng ta hân hạnh được Ðức Chí Tôn ban cho đặc ân nơi Tòa Thánh, tức nhiên Ðức
Chí Tôn đem Ðức Thích Ca về ở cùng chúng ta. Cái hạnh phúc ấy giá trị thế nào
Bần Ðạo không cần minh tả.
Ngộ nghĩnh
là những điều Ðức Chí Tôn làm bao giờ cũng dành để cho chúng ta một sự ngạc
nhiên và Xá Lợi Ðức Phật Thích Ca là gì ? Bần Ðạo giải nghĩa cho toàn thể con
cái Ðức Chí Tôn hiểu :
- Khi Ðức
Phật Thích Ca qui vị thì Ngài để Di Chúc cho cả môn đệ của Ngài Hỏa Táng , tức
nhiên thiêu cái thi hài đó. Thi hài của Ngài đã đốt nhưng chẳng hề khi nào tiêu
hết, vẫn còn lại mấy miếng xương của Ngài dư thừa lại không cháy gọi là Xá Lợi.
Buổi sau nầy nước Anh tức
nhiên Anh Quốc hiệp lại với nước Ấn Ðộ mới đào lên gặp một cái hộp bọc pha lê,
trên nóc có để chữ rằng ' DI HÀI XÁ LỢI ÐỨC PHẬT THÍCH CA' lúc đó nước Anh mới
lấy cả hộp Xá Lợi ấy. Sau nầy nước Ấn Ðộ được độc lập mới đòi nước Anh phải trả
Xá Lợi Phật cho Ấn Ðộ, nhưng Ấn Ðộ buổi đó cuộc cách mạng tranh chủ quyền độc
lập vẫn còn ở trong Liên Hiệp Anh. Mãi đến sau nầy nước Ấn Ðộ mới hoàn toàn độc
lập, nhưng trong tín ngưỡng về Phật Giáo tức nhiên Ðức Phật Thích Ca đã giảm
suy nhiều vì cái lẽ loạn lạc của đất nước nên chánh phủ nghĩ rằng : Ðể trong
nước e Xá Lợi có thể bị mất nên dành để có một ít, chia cho Tích Lan một ít,
Ðức Narada Théra đem hiến cho Toà Thánh Ngọc Xá Lợi là người Tích Lan đó vậy.
Trước kia Tích Lan dâng xá
Lợi Phật ấy cho Nhật có đi ngang qua Ðông Dương ( Saigon ) cuộc tiếp rước ấy
rất nên long trọng. Tín ngưỡng về Phật Giáo của sắc dân Việt Nam rất nồng nàn
thế nào thì các vị Ðại Ðức đã ngó thấy trước mắt. May thay, ông Bửu Chơn là
người Việt Nam, nhưng ngài là môn đệ của Ðức Narada Théra, Phó Giáo Tông Phật
Giáo Tích Lan. Ngài Bửu Chơn muốn xin Ngọc Xá Lợi ấy để trong nước Việt Nam nên
Ðại Ðức Narada Théra đem cho nước Việt Nam ba hột Ngọc Xá Lợi Phật, một cho Ðại
Thừa, một cho Tiểu Thừa còn lại một hột để cho Tiểu Thừa Phật Giáo tại Kiêm
Biên, tức nhiên là Miên Quốc.
Trong cái tình trạng của
các môn đệ của Ðức Phật Thích Ca nơi nước Việt Nam, phái Tiểu Thừa có hạnh phúc
thống nhứt trở lại, Ðại Thừa thì còn phân vân, thành thử hột Ngọc giao cho Tiểu
Thừa đã thọ lãnh, còn Ðại Thừa họ đang rắc rối không có định đoạt, họ tính để
Ngọc Xá Lợi ấy lại đó rồi họ chung hợp với nhau cất một cái Tháp đặc biệt để
thờ. Thành thử Ngọc Xá Lợi dành để cho Ðại Thừa giờ phút nầy Ðức Narada Théra
giao cho Ðức Hoàng Thái Hậu Từ Cung do ý Ngài muốn cho nơi nào tùy ý để quyền
cho Ðức Hoàng Thái Hậu Từ Cung Ðịnh liệu.
Ba cây Bồ Ðề cho Tiểu thừa
một cây, cho Tiểu Thừa Miên quốc một cây còn một cây của Ðại thừa đem về Tòa
Thánh. Hột Ngọc Xá Lợi đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Ðại đức Narada
Théra, Phó Giáo Tông của Ðạo Giáo Tích Lan, lấy của tư của Ngài hiến cho Toà
Thánh.
Chúng ta thấy cả hành tàng
cà sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ đại của
Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Ðài là ông Lê Văn Hoạch, ông đã chịu nhọc nhằn cả
thảy con cái Ðức Chí Tôn đều ngó thấy. Ngài hạ mình xin cho đặng Ngọc Xá Lợi ấy
thế nào ? Nên hôm Ngài trở về Saigon, Bần Ðạo nhân danh toàn thể con cái Ðức Chí
Tôn và Hội Thánh nam nữ lưỡng phái để lời cám ơn ông Bảo Sanh Quân rồi và Bần
Ðạo sẽ cho các ơn quan Chánh Trị Ðạo làm một tờ chúc thơ cảm tạ công nghiệp của
Ngài.
Ðức Phật Tổ tức nhiên Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni ( Boudda Cakyâmouni ) cả thảy con cái Ðức Chí Tôn đã nghe
Ðức Narada Théra thuyết Ðạo rồi. Ngài nói Ðức Phật Thích Ca là người cũng như
chúng ta, có xác thân như ta, sống chết như ta chớ không phải là người ở trong
thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của
Ngài đã lên tới Phật Vị. Ngài tái kiếp làm người với mảnh thân phàm của Ngài
cũng như ai kia vậy.
Cái quí trọng của Ðức Phật
Thích Ca họ đã nhìn nhận cái cao siêu về linh hồn của Ngài trước khi chưa đầu
kiếp. Các tôn giáo bao giờ cũng vậy, họ muốn tôn tặng Giáo Chủ của họ lên một
địa vị phi phàm, tức nhiên họ đặt ra nhiều lẽ dường như ảnh hưởng của thần
thoại. Tinh thần con người bao giờ cũng vậy, sợ chết muốn sống, mà cái sống ấy
muốn thế nào cho trường cửu với họ mới được.
Hại thay ! Cảnh Hằng Sống
không phải ở thế gian nầy với thi phàm xác tục của ta, mà cảnh Hằng Sống ấy nó
ở nơi cảnh Thiêng Liêng vô hình kia. Cảnh ở thế gian nầy là cảnh đau khổ, họ
muốn cho các vị giáo chủ của họ phi phàm, họ bày ra nhiếu cái thuyết thần
thoại, giờ phút nầy làm cho khoa học phải trợn trạo đánh đổ về cái lý lẽ ấy,
đánh đổ rất khoa học không thế gì chối cãi được.
Nào là họ nói Ðức Chúa
Jésus Christ do một người đồng trinh đẻ ra, chính trong Ðạo Sử của Ðức Chúa
Jésus, Cha của Ngài là Ông Thánh Josept, Mẹ của Ngài là Bà Marie. Họ lại nói
Ðức Phật Thích Ca khi xuất thế ở trong nách của bà Maya mà ra, Ðức Lão Tử cũng
thế, họ làm cho giờ phút nầy cả tín đồ các tôn giáo khó giải quyết, họ đem cái
lý do thần thoại nêu ra làm một chơn thật.
Hại thay ! Nếu mọi sự chơn
thật nó có thể làm cho cả đức tin con người phải điên đảo. Chúng ta ngó thấy cơ
thể tạo đoan có âm dương tương hóa mới sản xuất hình ảnh tức nhiên cả kiếp sanh
và sanh mạng cả toàn thể vạn linh nơi mặt địa cầu nầy. Ðừng nói chi nhiều nội
điện lực, nếu không âm điện và dương điện thì chúng ta không có ngọn đèn sáng
như thế nầy được.
Lại nói đến hơi thở của ta
không có âm khí ( Nitrogen ) dương khí ( oxygen ), nếu chúng ta không có hơi
thở đó chưa chắc gì chúng ta sống đặng, đừng nói chi nhiều cả cơ thể tạo đoan
không có hàn nhiệt ôn lương thì vạn linh nơi mặt địa cầu nầy chưa chắc họ sống
còn và tồn tại được.
Huống chi luật tạo đoan
phải có cha mẹ, có âm dương của cha mẹ mới sản xuất cái nhơn hình của chúng ta,
thành thử Ðức Phật Thích Ca cũng sanh như ai kia vậy, nhưng tiền căn của Ngài
cao siêu hàng phẩm của Ngài tới Phật Vị, cho nên sự sáng suốt khôn ngoan của
Ngài phi phàm hơn hết nên cả nước Tích Lan ( Ceylan ) đều gọi Ngài là Mâu Ni
tức nhiên một vị hiền triết vô đối của họ. Họ tôn tặng chức tước, tôn tặng Ðức
Thích Ca xứng đáng quá chừng cũng như Ðức Chúa Jésus Christ nhờ thiên căn sáng
suốt thành thử người ta gọi Ngài là 'Le Saint des Saints' ( Một vị Thánh trên
các Thánh ), Ðức Lão Tử, Ðức Khổng Phu Tử cũng thế, các vị ấy đều do nơi tiền
kiếp phi phàm mà thôi, chớ các vị ấy xác tục cũng như ta, người cũng như ta,
sống chết cũng như ta, đầu óc trí não cũng như ta, sống trong cảnh khổ não cũng
như ta.
Bần Ðạo ước mong các con
cái Ðức Chí Tôn hiểu đặng các điều chơn thật ấy đặng Tu, cố gắng làm sao cho
phi phàm, làm sao dòm tánh đức của Ðức Chí Tôn thế nào ? Học đòi cho đặng Huệ
Quang của ngài ban cho thì trí não ta mới thông suốt như Ngài đặng.
Trước kia Ðức Phật Thích
Ca đã thành Phật đặng thì chúng ta cũng thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng
chứng lẽ ấy. Bần Ðạo mong mỏi cả con cái Ðức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài
đặng thành Phật như Ngài vậy. (Thuyết Ðạo QV / tr 153)
* * *
7. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Thời tý 15 tháng 2 năm Canh Dần (1950 )
Ảnh hưởng triết lý Ðạo giáo của Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ
Hôm nay là
ngày vía Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ, mỗi năm đến ngày vía của Ngài, Bần Ðạo
và chư vị Ðại Thiên Phong đã có thuyết minh Ðạo Sử của Người, nếu có thuyết lại
cũng không bổ ích vì cả thảy đều biết, Bần Ðạo ngày hôm nay chỉ thuyết
ảnh hưởng triết lý Ðạo giáo của Ngài đã để lại thế nào.
Thời buổi
hổn loạn, nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, Bần Ðạo nói họ đang dung ruổi trên con đường quyền
lợi, triết lý cao siêu của Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ để lại giờ phút nầy nhơn loại chịu ảnh
hưởng triết lý ấy thế nào Bần Ðạo xin luận thử cho cả con cái Ðức Chí Tôn tìm
hiểu hơn nữa.
Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ lấy
căn bản tinh thần vi chủ của Ngài trong mỗi kiếp sanh con người có thể tiến
triển mãi thôi, tiến triển về trí thức tinh thần, thật ra nhơn loại đã hưởng
được cao siêu của triết lý ấy, nhứt là các nhà học thức đã tìm đã đạt huyền vi
bí mật và năng lực của cơ thể tạo đoan mà đào luyện kiếp sanh hôm nay, có lẽ
chúng ta tưởng đã đi đến một đặc điểm khá cao. Bần Ðạo nói thời kỳ nguyên tử
nhơn loại đã đạt đặng do sự xu hướng đặc biệt huyền vi bí mật dòm bên kia huyền
năng tạo đoan cũng khá nhiều.
Nhưng chỉ có một điều là
đạt được cái năng lực của cơ thể tạo đoan ấy thay vì để phục vụ nhơn loại với
đạo đức nhơn nghĩa, trái ngược lại cả tài tình của họ đào luyện thâu hoạch
quyền lực, cơ tạo đoan của nhơn loại nắm trong tay là để làm một cái lợi khí
tiêu diệt nhơn loại.
Thật nguyên tử lực của các
nhà học thức bác sĩ, bác vật đã đạt đặng, Ðức Thái Thượng Nguơn Thủy đã biết nó
trước, duy có một điều vi chủ hướng của Ngài bảo tồn sanh mạng con người chớ
Ngài không tiêu diệt người như ngày nay. Bí truyền của Ngài để nơi tinh thần
luyện khí cốt yếu là đạt đặng nguyên tử lực vào con người vậy, bí mật của sự
luyện khí là do đó , điều Ngài biết đã chính mình Ngài thâu hoạch được trước
2.500 năm, Ngài tưởng năng lực ấy để bảo vệ nguyên linh ta thắng được phản lực
của hình thể ta, tinh thần ta vi chủ kiếp sống của chúng ta.
Hại thay ! những nhà
truyền giáo tưởng đã đủ năng lực bảo vệ sanh mạng loài người bằng triết lý cao
siêu ấy. Trái ngược lại, ta thấy những nhà hành đạo truyền giáo họ thúc giục
tương tranh, tương đấu nhau vào đường chiến trận mà thôi, ta thấy lịch sử lưu
lại triết lý Tiên Gia chỉ giục loạn chớ không trị bình đặng. Ngày giờ nào nhơn
loại biết chỗ chơn thật của triết lý ấy thấu triệt đặng phụng sự nhơn loại với
cái trí hóa khôn ngoan trong năng lực của Ngài thì ngày giờ ấy nhơn loại mới
hưởng được đặc ân của Ngài đã để nơi mặt thế nầy. (Thuyết Ðạo QIII / tr 76)
* * *
8. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949 )
Quyền năng Tiên Giáo
Hôm nay là
ngày 15 tháng 2 ( Nhị ngoạt thập ngũ ) là ngày Ðức Thái Thượng Lão Quân
giáng trần lập nền Tôn Giáo, cái kiếp sanh của Ngài thế nào thì trót 24 năm đã
giảng rõ, nhứt là năm rồi. Bần Ðạo đã giảng cái huyền sanh của Ngài, tưởng cả thảy đều
thấu hiểu chẳng cần lập lại chi nữa, Bần Ðạo lấy cái tinh ba của
Tiên Giáo nhứt là do nơi tay của Ðức Thái Thượng Giáo Chủ tạo thành bí
mật ; quyền ấy thế nào ? Bần Ðạo thuyết minh ngày nay mà thôi.
Có bốn Nguyên Linh yếu
trọng đã giúp Ðức Chí Tôn khi Ngài đã đoạt định thành hình, mỗi Chơn Linh giúp
Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu tạo ra càn khôn vũ trụ hữu hình nầy :
Ðứng đầu hơn hết là khối
Thái Cực, nó dùng tiếng đầu tiên là Ðức Thái Thượng Lão Quân đó vậy, khi Thái
Thượng đã nguội, vật đã xuất hiện.
Ðấng thứ nhì là nước tức
nhiên là Ðức Thái Thượng Nguơn Thủy đó vậy.
Khi tượng hình đã có khí
Sanh Quang bao trùm càn khôn vũ trụ đặng biến sanh vạn vật là Hộ Pháp đó vậy.
Khi đất nguội thì trái địa
cầu nảy sanh ra, đất là Thông Thiên Giáo Chủ đó vậy.
Bốn Chơn Linh đã giúp cho
Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu tạo cơ quan hữu hình của càn khôn vũ trụ nó có tinh ba
của nó đặc sắc.
Ðức Thái Thượng, Nguyên
Linh của Ngài tối yếu tối trọng là cái huyền vi bí mật tạo đoan vô đoán của
loài vật, muôn vật ở càn khôn vũ trụ nầy tức nhiên là nguyên căn sản xuất vạn
linh đó vậy.
Còn Ðức Thông Thiên Giáo
Chủ, nguyên căn sản xuất hình thù của vạn linh đó vậy, một là Nguyên Linh hay
là vật. Ðức Thái Thượng vốn là Nguyên Linh tức nhiên là thần, nếu chúng ta nói
rõ hơn nữa Ðức Thái Thượng vốn là Thiên Lương, tức nhiên tâm của đời đã đặt
tên.
Ðức Thông Thiên Giáo Chủ
là vật, cái thuyết mà chúng ta đã ngó thấy cái đương nhiên.
Bây giờ các nền tôn giáo
cũng thế, cơ quan hữu hình tại mặt địa cầu nầy cũng thế ; có hai quyền năng
tương đương nhau : một là tâm, hai là vật; một là Trời, hai là thú. Tương đương
với nhau cái thuyết duy tâm và duy vật chẳng phải buổi nầy mà thôi.
Cơ quan Tạo Ðoan Thiêng
Liêng thế nào mới nảy sanh càn khôn vũ trụ đã có trong Phong Thần ; là một áng
văn về Ðạo Giáo đã minh tả Ðức Thái Thượng, Ðức Nguơn Thủy và Ðức Thông Thiên
Giáo Chủ trước đã được một đặc ân thọ giáo ngay với Ðức Hồng Quân lão Tổ tức là
Ðức Chí Tôn đó vậy.
Nếu chúng ta minh đoán ra
Ðức Chí Tôn có môn đệ đầu tiên hơn hết, những môn đệ đầu tiên là ba vị mà chúng
ta đã ngó thấy trong Ðạo Pháp ở Phong Thần ; đã nói có một chỗ bí mật nầy chúng
ta nên suy đoán, nhứt là nền Ðạo Cao Ðài nầy ; là khi đã nhập vào trận Vạn Tiên,
Ðức Thái Thượng thì giận Ðức Thông Thiên Giáo Chủ, Ngài biến ra Tam Bành tức
nhiên là hình ảnh của Ðức Chí Tôn lập giáo ngày nay trên mặt địa cầu nầy. Thái,
Thượng, Ngọc tức nhiên Tam Thanh Ứng Hóa là ba tinh thần duy chủ của nền Tôn
Giáo ; Thái, Thượng, Ngọc đương nhiên là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn đó vậy.
Tại sao Ðức Chí Tôn lấy
nguyên căn Tam Bành trong buổi nộ khí của Ðức Thái Thượng Nguơn Thủy lập Ðạo
Giáo ? Là Ðức Chí Tôn quyết định lấy cơ quan tối đại của duy tâm đánh tiêu tan
duy vật, tức nhiên lấy tinh thần đạo giáo diệt tiêu Tả Ðạo Bàn Môn.
Vạn pháp qui tồn sanh
chúng sản xuất ấy là cơ quan chuyển thế đó vậy. Quyết định đem vào khuôn khổ cơ
quan Tạo Ðoan Chí Linh, Ðức Chí Tôn bảo thủ nguyên căn vạn linh còn tồn tại,
nhứt là bảo thủ các nhơn loại toàn thể trong càn khôn vũ trụ nầy.
Ngày hôm nay toàn thể Ðạo
Cao Ðài biến theo trọng yếu của nó, chúng ta tưởng tượng rằng hôm nay là ngày
Ðức Chí Tôn đã tuyên chiến cùng Tả Ðạo Bàn Môn đó vậy. Tượng ảnh Ðức Thái
Thượng đã quyết thắng thuyết duy vật thế ấy. (Thuyết Ðạo QIII tái bản / tr13)
* * *
9. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 27 tháng 8 năm Nhâm Thìn ( 1952 )
Triết lý Ðạo Khổng
Ðêm nay là
ngày vía của Ðức Khổng Thánh, mỗi năm Bần Ðạo có dịp giảng giải kiếp sanh của
Ngài và triết lý Ðạo của Ngài, chúng ta chỉ để ý có một điều trọng hệ nầy là
Ðức Chí Tôn đến lấy chơn tướng Nho Tông đặng chuyển thế. Vì cớ cho nên triết lý
của Ðạo Cao Ðài là Nho Tông chuyển thế.
Bần Ðạo đã
có dịp giảng về kiếp sanh của Ngài rồi, tưởng cũng không cần lập đi lập lại nhưng chúng ta
tự tìm hiểu nghĩa, một câu cao siêu của Ðức Chí Tôn đến lập giáo lấy Nho Tông
làm căn bản mà đó là triết lý của Ngài ấy là tại căn duyên nào.
Chúng ta đã
ngó thấy Ðức Khổng Phu Tử giáng sanh buổi Ðông Châu Liệt Quốc, chúng ta dư hiểu từ thử đến
giờ chưa có một quốc gia nào hổn loạn hơn là Ðông Châu Liệt Quốc
buổi nọ. Dầu cho tới ngày hôm nay cũng còn là nước Tàu buổi trước, phân
ra là 6 nước tranh quyền lợi với nhau. Một tấn tuồng tương tàn tương sát của
Trung Hoa là nòi giống vinh quang của họ, dầu cho họ tầm phương để sống, sống
trong một cõi đại đồng tức nhiên họ chưa tạo dựng một cái gì để làm cho ta kinh
khủng, họ có cách thí nghiệm sơ sài ngay buổi ấy và khi Ðức Khổng Phu Tử, Ngài
đã đến.
Nếu chúng ta lấy theo Nho
thì chúng ta có thể nói : Bao giờ cái quyền Thiêng Liêng có tại mặt thế nầy.
Tinh thần của con người tổng số lại làm một xã hội hay cả thiên hạ và hễ khi
nào có loạn tức nhiên cả thảy thiên hạ tìm kiếm phương pháp đặng làm chủ lấy
mình.
Ðức Khổng Phu Tử đã sanh
ra trong cái thời kỳ hổn loạn ấy, vì cớ nên Ngài mới tìm một phương pháp để cứu
nước, cứu toàn sanh mạng của giống dân Trung Hoa của Ngài cho còn tồn tại, chớ
không thì tấn tuồng tương tàn tương sát ấy không thế nào dứt được.
Vì cớ cho nên Ðức Chí Tôn
đã nói : Hễ chúng ta sống một ngày thì hay một ngày, chớ chẳng hề khi nào chúng
ta cãi đặng khuôn luật thiên nhiên của Tạo Hóa được, ví như muốn cứu vãn, muốn
thức tỉnh các nước như Ðông Châu Liêt Quốc buổi nọ, Bần Ðạo xin nói: Phải giữ
gìn phương pháp đạo đức thì mới có thể làm dứt được cái nạn nồi da xáo thịt của
nước Trung Hoa buổi nọ. Vì vậy nên đức Khổng Phu Tử mới đem Ðạo Nhơn Luân của
con người ra làm căn bản. Bởi cớ cho nên Ngài chỉ tìm một phương pháp là Nhơn
Ðạo để cứu vãn tình thế dân Trung Quốc, nhưng Trung Hoa buổi nọ cũng vẫn còn
các bậc siêu hình khôn quá, ai cũng cho là giả thuyết.
Ðức Khổng Phu Tử đến nước
Châu hỏi Lễ, Ðức Lão Tử nói cùng Ðức Khổng Phu Tử : 'Người quân tử đức thạnh
dung mạo như kẻ ngu' chúng ta biết rằng cái thuyết Ðạo Giáo của chúng ta là cái
thuyết siêu hình, một lời nói ngộ nghĩnh là khi gặp Ðức Lão Tử, rồi các môn đệ
của Ngài hỏi Ngài, Ngài trả lời rằng : 'Rồng biết nương mây nương gió'
Ngài trả lời một câu hay
làm sao, can chi họ lại kiếm Ngài mà hỏi nữa :
"Con cá nó lội dưới nước, dưới bàu bằng vi, con
thú nó chạy trên đồng bằng chân và đã biết căn bản của mỗi con rồi duy có con
rồng bay trên mây kia ta không thấy được hình, ta đoán không được mà thôi. Ðức
Lão Tử là Rồng đó vậy."
Cả thảy đều hiểu lời nói
đó khéo léo làm sao, mà Ngài không quyết định đặng, chính mình Ngài cũng không
tìm hiểu được lẽ sống chết của môn đệ của Ngài. Ngài nói cái sống đương nhiên
mà chúng ta đã sống chừng nào chết chúng ta sẽ hay, Ngài nói đơn giản cái
thuyết chen lấn của xã hội như thế.
Ấy vậy, cái thuyết bảo vệ
Nhơn Luân Chi Ðạo của Ngài đó, chúng ta đã hiểu như thế. Ðức Chí Tôn đến đặng
đem Thượng Nguơn Tứ Chuyển và tinh thần đạo đức mà tìm chúng ta để làm căn bản,
nhưng hiện giờ đạo đức tinh thần của nhơn loại không còn như thời Thượng Cổ nữa.
Chúng ta có thể nói theo Tiên nho rằng: "
Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh Ðức, kiến nhơn biếu tợ nhơn, thú tâm an
khả trắc"
Tất cả nhơn quần xã hội
trong thời văn minh nầy họ hay hỏi lắm, họ làm tinh thần trí não của chúng ta
thêm rối, ta tiếc có một điều Thánh Ðức của họ không có.
Hại thay ! Họ không cần
Thánh Ðức thì tức nhiên cái sống của họ không phương nào bảo vệ được Ðạo Nhơn
Luân của họ, nếu bảo vệ không được Ðạo Nhơn Luân, tức nhiên họ xu hướng theo
vật hình thú tánh mà thôi. Họ sống theo vật hình, theo thú tánh thì ngoài ra
không biết gì hết, như thế Thánh Ðức không còn giá trị gì nữa.
Vì cớ cho nên nhơn loại đã
ly loạn, Ðạo Nhơn Luân nó đi đảo ngược con đường Thánh Ðức. Bởi cớ cho nên Ðức
Chí Tôn đến lấy Nho Tông trước kia làm căn bản, Ðức Khổng Phu Tử đã cứu vãn
tình thế nước Trung Hoa thế nào thì ngày nay Ðức Chí Tôn đến cứu vãn nhơn loại
với phương pháp ấy. (Thuyết Ðạo QV / tr 77)
* * *
10. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm mùng 1 tháng 3 năm Canh Dần ( 1950 )
Nho Tông chuyển thế
Ðêm nay là
ngày vía Ðức Cao Thượng Phẩm, Bần Ðạo sẽ thay thế tiếng của Ngài đặng thuyết một bài.
Buổi nọ Ðức Chí Tôn mới đến đây thuyết đạo, duy có hai người mà thôi, hễ Bần
Ðạo thuyết thì Ðức Cao Thượng Phẩm làm thính giả, cốt yếu Ðức Chí Tôn đến
dạy phương pháp thuyết đạo.
Khi ấy, Cao
Thượng Phẩm chú ý đến tình trạng đương nhiên của nước Trung Hoa. Chúng ta đã
ngó thấy một tấn tuồng thống khổ náo nhiệt tương tàn, tương sát ghê gớm trước
mắt ; dám chắc từ khi lập quốc nước Trung Hoa đến giờ chưa có buổi nào như thế,
ấy là một nguồn cội gốc rễ của Nho Tông, một nền tôn giáo bí yếu, nên Chí Tôn
đã đào tạo một nền văn minh tối cổ cũng rán lưu truyền nơi cõi Á Ðông nầy trên
2.500 năm, nhứt là nước Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền Tôn Giáo ấy, nền văn
minh nước Việt Nam cũng do nền Tôn Giáo ấy xuất hiện.
Ðiều trọng yếu hơn hết là
chúng ta phải nhìn rằng Ðạo Cao Ðài nầy lấy căn bản ấy mà ra, dầu cho ai cũng
phải để ý đến tương lai của nền Tôn Giáo tối cổ của Ðức Chí Tôn tạo dựng làm
nền tảng cho tinh thần loài người đó.
Ðức Cao Thượng Phẩm buổi
ấy Ngài cũng nghĩ đến điều đó, làm cho Ngài phải thắc mắc là trong buổi nọ nước
Trung Hoa thống trị một đại cường quốc chỉ lấy tinh thần làm căn bản vĩ đại trị
vì thiên hạ thái bình, giờ phút nầy đeo đuổi theo nền văn minh tối tân mà chúng
ta gọi là nền văn minh hóa học, chỉ biết tương tranh mà sống, lấy mạnh làm căn
bản, tức nhiên lấy gươm đao làm phương trị thế. Hai cái phương pháp, hai cái
hành tàng ấy để trước mắt nhơn loại đều thấy rõ phương nào hay, phương nào dở,
nên hay hư, một nền văn minh vĩ đại vi trị tức nhiên thiên hạ và thiên thượng
đồng trị. Cái làm cho chúng ta cảm kích hơn hết, tấn tuồng đã diễn ra đây chưa
có định quyết ngày giờ nào chấm dứt, tội nghiệp thay cho Trung Hoa làm chủ một
nền văn minh dường ấy, nắm trong tay một mãnh lực phi thường mà hôm nay phải
chịu nạn tương tàn tương sát dường ấy.
Hôm rồi Bần Ðạo đến Kiêm
Biên có gặp một vị võ quan tức nhiên là quan sáu Des Basaords, Ngài hỏi một
điều lạ thường là Ðức Khổng Phu Tử sanh trước Ðức Chúa Jésus Christ 500 năm,
Mohamed sanh sau Ðức Chúa Jesus-Christ 500 năm, Ngài vừa nói đến đây Bần Ðạo
liền chú ý đến ba người ấy tương lai cũng như một, bởi thuyết Trời Người đồng
trị của họ đó vậy.
Bần Ðạo liền nói : Ba
người ấy cách biệt nhau 500 năm mà ba người vẫn như một. Ông lại cười, ông hiểu
Bần Ðạo đã quan sát tấn tuồng triết lý của ba nền Tôn Giáo ấy. Trời Người đồng
trị phải chớ ! Nếu không vậy sự sống chết còn mất của nhơn loại phải làm sao,
hành tàng của họ tồn tại hay chăng ? trường cửu hay chăng ? Hay nạn tiêu diệt
hầu đến, ấy là vấn đề trị nước đến giờ vẫn để trong óc các nhà đại tư tưởng của
nhơn loại, chúng ta đã ngó thấy có trường tranh sống để quên cái chết, lại có
cái trường tưởng cái chết quên cái sống, hai lẽ bất đồng.
Hại thay cho nhơn loại,
nếu toàn thể nhơn loại đều hưởng cái triết lý vô đối trung dung đạo đức của
Khổng Phu Tử để lại thì mạng căn kiếp số của nhơn loại chưa đến mức nguy hiểm,
chưa đến mức hại tương lai họ, không biết chừng đưa đẩy họ không đến nạn diệt
vong mà chớ ! Ðương nhiên bây giờ có hai triết lý oái oăm:
1. / Một đàng nói tôi chủ
về phần xác đây, tôi biết sống chớ không biết chết, duy có cái tranh sống hay
ăn thịt, hay giết người để thay thân.
2 ./ Một đàng nói tôi bỏ
phế kiếp sống thân hình nầy không đáng kể, chỉ trọng linh hồn mà thôi.
Hai đàng đều quá khích,
biểu sao không có trường tranh đấu náo nhiệt về tinh thần và hình thể nơi mặt
địa cầu nầy, vì sự tranh đấu ấy mà nhơn loại xáo trộn không biết theo bóng nào
để nương thân cho tồn tại.
Ðức Cao Thượng Phẩm luận
rồi, bây giờ tới triết lý của Bần Ðạo luận thuyết của Ðức Cao Thượng Phẩm là
thuyết Trời Người đồng hợp, triết lý thắc mắc ấy đang làm cho nhơn loại để dấu
hỏi ? Từ trước đến giờ chưa có ai giải quyết, có giải quyết đặng hay chăng chơn
lý ấy mà tinh thần nhơn loại vẫn còn mờ mịt, chưa có biết chơn chánh hay chơn
lý ấy đã thực hiện rồi.
Ngài nói thảng như ta sống
theo đạo chánh, họ cũng có tam cang ngũ thường cũng đủ sống theo triết lý đạo
chánh, họ quyết lấy sanh mạng nó mà bảo trọng các sanh mạng nô lệ kia mà thôi,
các người không có năng lực nào bảo trọng các người thì các người sống cũng như
con vật, chính các người dòm cả vạn vật đương nhiên sẽ cho các người biết triết
lý thâm diệu và cao thượng. Bí mật các người không có tức nhiên các người không
tồn tại nghe !
Dầu các người mạnh thì các
người sống với phương pháp mạnh, yếu sống với phương pháp yếu mà cái sống ấy
các người chưa có làm chủ được, cái sống tạm nầy chưa có cái sống thiệt. Cái
sống thiệt là sống có nguồn cội, cái sống chủ quyền, cái sống đó là cái sống
trong tay Ðấng Tạo Ðoan mà ra, cái sống nầy mới là thiệt, cái sống các người
không có bảo trọng được không có vi chủ tức nhiên phải nhìn Ông Trời có quyền
trị về phần xác thịt và linh hồn của chúng ta nữa.
Thảng như không có quyền
hành ấy ta nói mặt thế gian nầy không ai biết sợ ai, không ai biết kiêng nể ai
thì sống như vật vậy. Ta phải tranh đấu, giựt giành cái sống của cả thảy đặng
làm cái sống của mình, khi ta chết nó sẽ ra con vật mà thôi không có nghĩa lý
gì, nếu ta nói vậy thì ta không có tin ai, nếu ta tin có số hay chăng là sợ
Ðấng nầy, Ðấng có thể tiêu diệt cả hình thể và linh hồn sa đọa nơi địa ngục mới
sợ, nếu biết sợ mới giữ được, không thì trường tranh sống mãi tiếp diễn.
Ngài dòm lại nạn tương
tàn, tương sát nước Trung Hoa, Ngài nói mình đã hưởng một đặc ân, một chủ quyền
Trời Người đồng trị dường ấy mà ngày giờ nầy người chạy theo con đường tranh
sống. Vì tranh sống, tiêu diệt với nhau mà chết . (Thuyết Ðạo QIII / trang 79)
* * *
11. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Ðêm 29 tháng 1 năm
quí Tỵ ( 1953 )
Nho Tông chuyển thế (tt)
Hôm nay tình
trạng biến thiên các thanh niên của Ðạo đã bị trào lưu loạn lạc, lôi cuốn tâm
đức của họ điên đảo, Bần Ðạo có thể nói tinh thần của họ hoang mang mà chớ, nên
hôm nay Bần đạo thuyết về Thể Pháp của Ðạo nghĩa là: Khuôn luật của Ðạo Cao Ðài
chúng ta đó vậy, Bần Ðạo đã thuyết minh về Thế Ðạo của Ðạo Cao Ðài là Nho Tông
chuyển thế, mà Nho Tông tức nhiên Ðạo của Tổ Phụ chúng ta từ ngàn xưa để lại.
Ấy vậy những yếu lý của
Nho Tông mới có thể làm mực thước mà định chuẩn thằng trong khuôn khổ cái sống
đương nhiên của mình đặng, chúng ta đã thấy Nho Tông của chúng ta là một nền
tôn giáo xã hội, cái đặc điểm của nó là Ðức Chí Tôn đến lập trường nho Tông trị
thế.
Ấy vậy tinh ba của Nho
Tông là gì ? Phải chăng cái chiến thuật của nó là "Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ" tức nhiên cái tôn
chỉ cao thượng của Ðức Mạnh Tử là 'Ðại học chi Ðạo tại minh minh đức, tại Tân
Dân, tại chỉ ư chí thiện.'
Bây giờ xin cả toàn thể
con cái Ðức Chí Tôn từ từ nghe Bần Ðạo thuyết chữ 'Tu Thân' trước : Từ Thượng
Cổ tới giờ Ðức Thánh Nhơn lấy hai chữ Tu Thân làm căn bản, hai chữ tu thân đã
có từ lâu, nếu chúng ta xem lịch sử của Nho Tông thấy nó đã xuất hiện từ Ðức
Huỳnh Ðế có trên không biết mấy ngàn thế kỷ, trước Chúa giáng sanh.
Ấy vậy nó là tối cổ, cái
phương pháp tu thân dầu thời đại nào cũng có, cái chí hướng của các tôn giáo là
phải tu thân lấy mình, dầu cá nhân dầu xã hội hay toàn thể nhơn loại cũng vậy,
cái tâm đức của con người bao giờ cũng có mâu thuẩn hễ họ nghe thấy điều nào
hay điều nào thiện đặng họ biết nhìn một cách chơn thật nhưng mà họ không có
làm, còn biết chê cái dở cái ác mà họ lại làm, hai cái đó nghịch cảnh với cái
tâm, không có một vị Thánh nào ở thế gian nầy tìm nguyên lý nó cho đặng..
Bởi vậy cái tâm lý của con
người họ hay xu ác mà xa thiện, vì cớ cho nên các vị giáo chủ lập nền tôn giáo
dạy phải làm thế nào gọi là tu thân, dầu cá nhân hay toàn thể nhơn loại cũng
phải lấy hai chữ tu thân làm gốc, Bần Ðạo đã nói, nó khởi đường lập đức là tại
minh minh đức.
Hại thay ! Nơi thế gian họ
đã hiểu như thế mà họ không kể đức, họ không lập đức, hỏi vậy thành Ðạo làm sao
được ? Cái đức ấy thiên hạ chỉ ngó mịt mịt mờ mờ nhưng họ đâu có biết rằng nó
vô hình, vô ảnh mà huyền năng của nó không ai đảm đương được. Ðã tạo lập cái
đức ấy phải trọn tâm làm một mới có thể thiên hạ kính trọng, nhờ tâm đức ấy
chúng ta mới có thể coi cả huyền vi của họ được, họ tạo đức ra là chỉ đặt cái
sở hành đê hèn mà thôi, họ muốn thế cho nên họ chỉ kiếm cái người không biết
lập đức mà họ làm màu cho ra vẽ người có đức, bởi không có đức thì không hề lập
nên thân danh đặng.
Bây giờ chúng ta đã ngó
thấy từ thượng cổ đến giờ dầu cho từ hàng lê thứ dĩ chí đến bực đế vương muốn
lập vị mình cũng phải nương theo cái đức ấy, nếu chúng ta thấy họ còn dùng cái
đức ở chỗ hèn hạ bao nhiêu thì không bao giờ giữ cái đức ấy còn tồn tại đặng
rồi đến cái ngày bỏ đức của họ, trở lại dùng bạo tàn như Sở Bá Vương, như Tần
Thủy Hoàng thì dầu cho cơ nghiệp họ có bền chắc bao nhiêu cũng phải xiêu đổ.
Còn kẻ không màng thân
danh, Bần Ðạo chỉ cái bằng cớ hiển nhiên như Hứa Do là một vị hiền tài mà thôi,
chỉ có biết đức mà Vua Nghiêu đi tìm Ngài để rước về đặng truyền ngôi cho Ngài
nhưng Ngài chỉ coi công danh như phù hoa, như mây gió nên Ngài có kể gì đâu.
Cái giá trị của Vua Nghiêu đối với Hứa Do không có gì hết, mới có câu "Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi,
yến thử âm hà bất quá mãn phúc" nghĩa là con chim tiêu liêu làm ổ trên
rừng chẳng qua một nhánh, con chuột uống nước sông chẳng qua đầy bụng; vì thần
đã quen cái thú thanh nhàn của thần rồi, dầu bệ hạ có truyền ngôi cho thần đi
nữa thần cũng không làm, thần chỉ biết lập đức mà thôi dầu cho cả công danh phú
quí ở mặt thế gian nầy đối với cái đức không có giá trị gì hết.
Bởi cái thuyết lập đức người
ta đã ham làm mà làm không được, nên cái giá trị của Hứa Do đối với Ðức Nhan
Hồi cũng tương đương với nhau, khi Ðức Nhan Hồi đai cơm bầu nước đi giáo Ðạo
đến nước Tề, Tề Vương biểu ở lại thì bực công khanh của Ngài không mất, nhưng
Ngài trả lời rằng: Thần đã quen cái thú an nhàn của thần rồi. Thú an nhàn không
có thể gì mà đem đổi cái giá trị công danh quyền tước đặng, nếu Bệ Hạ muốn đổi
đặng nên biết cái giá trị lập đức nó trọng hệ là thể nào.
Hại thay ! Ở giữa thế gian
nầy không biết mấy vị hiền nhân chí sĩ đã hiểu được cái giá trị lập đức chưa
đến nên mới ra sự tôi mọi hạ tiện làm hư danh thể của mình, nếu để cái giá trị
ấy lại thì không đáng giá gì hết mà phải hạ mình làm chi ? Hai ngôi vị ấy đối
chọi với nhau như một trời một vực.
Ở nơi cửa Ðạo, Bần Ðạo đã
đem con cái Ðức Chí Tôn và thanh niên của Ðạo đặng làm Thánh Thể tương lai của
Ngài, nếu cả thảy đều biết nỗi khổ để làm phương tu thân lập đức thì cái giá
trị của thiên hạ làm dễ như ăn ớt chớ không có chi khó.
Vậy toàn thể con cái Ðức
Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài phải đem cái Ðức Thiêng Liêng ấy rải khắp thiên
hạ thì chúng ta mới có thể cứu khổ được . (Thuyết Ðạo QV / tr 115)
* * *
12. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Báo Ân Từ.
Ðêm 30 tháng 9 năm Bính Tuất ( 1946 ).
Thuyết Nhân Nghĩa
- Nhắc lại
thầy Mạnh Tử khi qua yết kiến Vua nước Lương, ông Huệ Vương hỏi Ðức Mạnh Tử:
- Lão già
chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước quả nhân, có chỉ giáo điều chi hữu lợi
chăng ?
Thầy Mạnh Tử
đáp rằng :
- Tôi chỉ
biết nói đến nhơn nghĩa mà thôi chớ không nói về lợi, nếu trong nước mà dục vọng về
sở lợi thì đình thần có trăm hộc lại muốn có thêm ngàn hộc, thượng hạ đại phu có ngàn
hộc lại muốn có muôn hộc, còn vì Thiên Tử đã có dư muôn hộc lại muốn có
thêm triệu hộc. Nếu trong nước mà cầu lợi như thế thì bá tánh phải chịu lao
lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được ? Còn như trong nước
biết chú trọng đạo nhơn nghĩa thì toàn thể quốc dân đặng chung hưởng mọi điều
hạnh phúc, lạc nghiệp âu ca.
Thầy Mạnh Tử thuyết minh
đủ mọi điều lợi hại rồi thì Vua Huệ Vương chịu nạp dụng. Hiện nay là buổi kim
tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, con người trên
mặt thế đều bôn xu theo quyền lợi chẳng kể gì nhơn nghĩa đạo đức, tinh thần nên
mới có nạn chiến tranh tương tàn, đồng chủng giết hại lẫn nhau, hằng ngày diễn
ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai,
khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng
được.
Chức Sắc trong Ðạo đem hột
giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi mà nhơn sanh không ưng nạp, bởi họ không
biết cái năng lực của họ mạnh mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng
dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng ?
Nhắc lại lời Thánh Giáo
của Ðức Chí Tôn có dạy về chữ Nhơn :
Nhơn là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan.
Dân trí có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan.
Ngày nào toàn thể quốc dân
mà biết thực hành hai chữ nhơn nghĩa cho ra chơn tướng thì chẳng luận là xã hội
nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến tranh sẽ trở nên thái bình an
cư lạc nghiệp. (Thuyết Ðạo QI / tr 15)
* * *
13. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðêm 14 tháng 3 năm
Giáp Ngọ ( 1954 )
Văn Minh Khổng Giáo
Ðêm nay Bần Ðạo thuyết về
tâm hồn của dân tộc Việt Nam trong giờ buổi nầy, cả thảy con cái Ðức Chí Tôn nam nữ
cũng như Bần Ðạo, chúng ta đã thọ hưởng đặc ân của tổ phụ lưu truyền một nền văn minh tối
cổ là Nho Ðạo. Cả phong hóa văn hiến đều thuộc về Khổng Giáo, từ khi lập quốc thì dân
do căn bản tối cổ của nền văn minh Khổng Giáo mà đào tạo nên hình tướng của quốc thể
chúng ta. Có lẽ hồi tổ phụ ông bà lập quốc tưởng cho cái nền văn hiến cổ truyền
ấy nó phải còn tồn tại mãi mãi.
Do nơi đó mà đào tạo cả
tâm hồn của nòi giống, chắc các Ðấng ấy chưa biết sự thay đổi trong giờ phút
nầy mà các con cái của họ, máu mủ của họ đã chịu ảnh hưởng, nếu nói phong hóa
cổ truyền của tổ phụ chúng ta để lại thì con người của chúng ta về tâm hồn vẫn
chơn chất hiền lương đạo đức, nếu nói cái tâm hồn chơn thật của họ thì vẫn là
hình tướng Ðạo Giáo tạo cho họ đó vậy.
Sau 80 năm dưới quyền đô
hộ của Pháp, Pháp đã đem cho ta một nền văn hiến mới nữa là : Văn Hiến của Ðạo
Thiên Chúa mà ta gọi là Gia Tô Giáo từ trước. Ấy vậy ta thử lấy tí xét đoán coi
cái nền văn minh của ta, văn minh tối cổ ấy đương nhiên cùng với một nền văn
minh tối tân kia, thử hỏi tâm lý Nho Tông đào tạo phong hóa của ta như thế nào
? Phong hóa của Thiên Chúa Giáo đào tạo nền văn minh giờ phút nầy chúng ta chịu
ảnh hưởng gì ?
Một đàng thì chỉ lấy Ðạo
Tam Cang Ngũ Thường làm căn bản, chỉ biết lấy tinh thần tâm lý làm mực thước mà
đào tạo tâm hồn của mình. Còn một đàng thì lấy khoa học, lấy quan sát thiệt
tướng của sự sống làm căn bản, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mắt rằng :
Hai cái hình ảnh ấy chẳng khác nào như hai người đàn bà, một thì chơn chất thật
thà chỉ lấy tâm lý làm căn bản, cư xử thế tình lấy tâm làm mực thước, một hành
vi chi chẳng hề khi nào dám đi qua của tiếng gọi tâm hồn. Một đàng lấy cả phong
thể nghiêm trang hình ảnh đẹp đẽ sang giàu, hết thảy cả bóng dáng mỹ thuật ở
trong mình đào tạo ra thì chúng ta ngó thấy một đàng lấy sắc làm căn bản, một
đàng lấy tâm làm căn bản.
Bần Ðạo dám chắc, thử
chúng ta để dấu hỏi ? Nếu như có một người mỹ nhân như thế và một người thô
nhơn như thế. Ta để câu hỏi có một vị tình lang đang chọn lựa như vậy, Bần Ðạo
dám chắc sự chọn lựa ấy không cần nói cả thảy con cái Ðức Chí Tôn đã để trong
cái trí của mình rồi 'Hữu nhan sắc hữu ác đức' lời cổ nhơn đã để lại quả không
sai đó vậy.
Bây giờ chúng ta nghĩ lại,
nếu như một người lịch sự kia, chúng ta để trong óc não của họ, dạy dỗ họ cho
có tâm hồn nhơn đức đạo nghĩa, biết giữ khuôn khổ của một người đàn bà, thì
đáng giá là người của thiên hạ, đó là vì họ lấy Tam Tùng Tứ Ðức làm căn bản.
Người lịch sự ấy làm y theo lời mình đã dạy thì quí hóa thế nào, tôi tưởng cả
thảy trên mặt địa cầu nầy, nếu một người đàn ông nào để ý lập đời thì mơ mộng
có một điều là : Ðược người vợ nhân từ đạo nghĩa mà lại đẹp thì còn hạnh phúc
nào hơn nữa. Nếu có tay nào đào tạo được như thế thì dám chắc cả thiên hạ khen
tay đó lắm vậy. Ấy vậy tâm hồn của thiên hạ như thế đó, ta thử hỏi có thể nào
đào tạo nhơn loại đẹp đẽ như sự mơ ước của chúng ta đó hay chăng ? Bần Ðạo trả
lời: Ðạo Cao Ðài sẽ đào tạo họ . (Thuyết Ðạo QVI / tr 205)
* * *
14. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Ngày mùng 3 tháng 5
năm Ất Mùi ( 1955 )
Phong tục cổ truyền Nho Tông
Thưa cùng Hội Thánh nam nữ
lưỡng phái, Hiệp Thiên và Cửu Trùng, Bần Ðạo xin kiếu lỗi cùng
các Ngài, Bần Ðạo để lời cùng Ty Giáo Huấn và học sinh nam nữ.
Hôm nay các
em, các con trong Ty Giáo Huấn, hơn ai hết Thầy đã biết rõ cái chí hy
sinh của mấy con nam nữ, các giáo viên. Thầy hiểu rõ hơn ai hết, các con đã thiếu thốn
mọi điều đối cùng sự cực nhọc của các con thì không giá nào mà so sánh đặng.
Trọng yếu của tương lai Ðạo là tức nhiên tạo tâm hồn của sắp nhỏ mà chính mình
các con là tay thợ đào tạo tương lai của chúng đó vậy.
Các con học sinh nam nữ,
các con sẽ lớn, đời tương lai nòi giống và vận mạng tổ quốc của mấy con, hàng
niên kỷ như Thầy, như Hội Thánh đều để cả sở vọng của mình trong trí não tâm
hồn các con đó vậy. Lẽ dĩ nhiên bất kỳ một xã hội nhơn quần chủng tộc nào cũng
thế , mỗi sắc dân đều có văn hóa phong tục khác nhau cả thảy. Ta có thể so sánh
phong hóa của một nước nào đó có thể cao thượng hơn của ta mà ta không có thể
gì nhìn nó rằng giống hệt của ta. Bởi mỗi tinh thần của một chủng tộc nào, sắc
dân nào nó cũng có cái đặc điểm của nó hết, nhứt là chủng tộc Việt Nam đã thọ
ảnh hưởng tối cổ của Nho Tông chúng ta, cả thuần phong mỹ tục làm cái ảnh tượng
tâm hồn nòi giống Việt Nam đều là khuôn khổ của nền văn minh tối cổ Nho Tông
của ta đó vậy.
Lẽ dĩ nhiên là mỗi tôn
giáo đều đào tạo một nền văn minh khác nhau, ta có thể so sánh cả phong hóa văn
hiến của mỗi chủng tộc, hay mỗi nền văn minh ta có thể chia ra hai đặc điểm, có
nền văn minh xuất hiện ra một tôn giáo, có nền văn minh xu hướng theo xã hội
hơn là xu hướng theo đạo đức tinh thần. Nòi giống và xã hội của cả mấy con có
phải lạc hậu chăng ? Chưa chắc, nếu quan sát cho tận tường thì ta ngó thấy cái
khuôn khổ xã hội của Nho Tông chúng ta, nó có thể làm một nền tảng cho tương
lai cả xã hội nhơn quần kia nữa mà chớ. Chỉ ta có chịu thiệt thòi một điều là
nền văn minh cao thượng ấy ta chưa biết đem nó ra đặng cho cả thiên hạ đều biết
cái giá trị của nó, chỗ khuyết điểm là do nơi đó mà thôi ? Ðương nhiên hôm nay
ở trước mắt các con giờ nầy có hai cái ảnh hưởng Thiêng Liêng về hai nền văn
minh Âu Á.
1. / Âu là nền văn minh
của Công Giáo.
2. / Á là nền văn minh sở
hữu của mấy con là Nho.
Buổi giao thời cả phương pháp
giáo huấn nó chưa thiệt hiện tướng diện nó ra cho thiệt chắc đặng làm con
đường, con đường tinh thần thiên nhiên phù hạp với cả trí não tâm hồn của nòi
giống chủng tộc các con. Bần Ðạo ngó thấy rằng, cái pha lộn phương pháp giáo
huấn của Pháp còn tồn tại, Bần Ðạo cũng nhìn nó ăn sâu vào tâm hồn của nòi
giống ta. Sau 80 năm đã chung sống cùng Pháp, nhưng nó chưa hề chắc rằng, nó đã
làm cho tâm hồn của ta phải xu hướng trọn vẹn theo nó, bởi vì cả phong hóa văn
hiến đều khác hẳn với ngôn ngữ với trí thức của chúng ta.
Ấy vậy phương pháp hay hơn
hết là nơi các con làm thế nào dung hòa hai nền văn minh ấy tức nhiên hai cái
phương học thức ấy. Bần Ðạo đã đi quan sát ở Ðài Loan, Nhựt và Triều Tiên rồi
mới cân coi phương pháp họ đã cải tổ cả nền văn minh của họ thế nào và họ đã
dìu đường cho hạng thanh niên của họ về phương học thức thế nào. Bần Ðạo thấy
một cái hay của họ hơn hết là những điều chi ngoài họ chỉ để ngoài lại với cái
hàng rào kín đáo, cái chi ở trong họ giữ một cách đáo để kỷ lưỡng ở trong.
Cả cái duy tân của họ bề
ngoài nếu bất kỳ nước nào để bước chân tới xứ sở của họ thì ngó thấy hoàn toàn
là duy tân, từ cách ăn mặc, tánh tình cho tới cử chỉ đều là duy tân hết. Duy có
một điều quí hóa hơn hết mà Bần Ðạo lấy làm sung sướng thấy đặng là cả phong
hóa văn hiến cổ truyền của họ, họ vẫn giữ, họ bảo thủ nó còn tồn tại hiển nhiên
không cho cái ngoài kia xâm phạm.
Ấy vậy cái học thức của
nòi giống các con đã 2.500 năm văn hiến, phong tục cổ truyền Nho Tông, cái đẹp
đẽ của nó nếu các con khéo giữ cũng như các nước đã chịu ảnh hưởng văn minh Nho
Tông của chúng ta, cái chi ngoài kia thì để nó ngoài, cái chi mà của ở trong
của mình nó quí hóa đó của sở hữu mấy con thì mấy con giữ.
Cái học thức của tổ phụ
các con để lại, nhứt là do nơi Tiên Nho, họ chỉ mong có một điều các con học
đặng hành chớ không phải học rồi làm ông thầy nho đó vậy, hay học đặng làm các
nhà triết học vậy thôi. Tổ phụ các con buộc các con học đặng phải hành, học lấy
cái thuyết ấy đặng cho các con thực hiện.
Bởi cớ cho nên, những
phương pháp giáo huấn của tổ phụ các con để lại họ chỉ mơ ước có một điều là
các con học đặng hành mà các con thiệt hiện được cái hành đó hay, hay dở là do
sự phục vụ tổ quốc nòi giống các con. Nếu nói rằng : Phục vụ cả thiên hạ là quá
đáng, phục vụ nội gia đình và chủng tộc của mấy con là khuôn khổ học thức cổ
truyền tổ phụ của các con để lại đó vậy.
Thầy rút ra trong Tam Tự
Kinh, Thầy chỉ rõ rằng : Không phải học thức đặng để làm nhà triết học, mà cốt
yếu học thức đặng phục vụ cho tổ quốc và giống nòi. "Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật, nhơn bất
học bất như vật."
Lấy theo một khuôn khổ mà
nói, con chó giữ nhà, con gà nó canh giờ, con tằm nó kéo tơ, con ong nó cho
mật, rồi còn kết luận nhơn bất học bất như vật, nghĩa là người không học không
bằng vật. Nếu đem ra bốn cái thí dụ ấy là chỉ nghĩa bốn thí dụ phục vụ mà thôi,
dĩ cái sở hành di thượng, lấy cái sở hành ấy làm đầu hết, các con đã hấp thụ
được cái sự giáo hóa của các thầy cô các con về đạo đức tinh thần, Bần Ðạo chỉ
mong các con học, học đặng lấy cái thuyết rồi cố gắng thật hành cái lý thuyết
ấy mới đáng cái học của mình . (Thuyết Ðạo QVI / tr 291)
* * *
15. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 27 tháng 8 năm Kỷ Sửu ( 1949 ).
Triết lý Trời người đồng trị
Hôm nay ngày
lễ của Ðức Khổng Phu Tử, tức là Ðức Ðại Thần Chư Thánh Văn Tuyên Vương
chuyển giáo Ðạo Nho. Ðạo sử của Ngài Bần Ðạo đã thường thuyết lập đi lập lại
không ít vì đêm nay là ngày lễ của Ngài, Bần Ðạo thuyết về triết lý Trời Người đồng trị.
Chúng ta đã thấy Ngài là
tiền bối của Ðức Chúa Jésus Christ mà Ngài ít đặng hạnh phúc hơn Jésus Christ;
Năm trăm ( 500 ) năm về trước cái thuyết của Ngài, tâm lý nhơn loại buổi ấy
chưa có nạp dụng đặng, lại nữa Ngài đến với cái danh từ một nhà triết lý mà
thôi. Ngài không có hân hạnh, không có can đảm đến với danh từ con cái Ðức Chí
Tôn cũng như Jésus Christ, vì cớ lý thuyết vẫn có một nhưng giáo đạo của Ngài
không có hạnh phúc hơn Jésus Christ đó vậy.
Ngài chỉ có làm chứng rằng
có một Ðấng thống trị cả càn khôn thế giái, Ðấng ấy Ngài để danh hiệu là 'Nhứt
Ðại' mà thôi, tức nhiên là 'Thiên' mà Ngài không nói ra như Jésus Christ. Ngài
chỉ làm chứng rằng có một Ðấng tối cao mà thôi, thất bại của Ngài là vì lẽ đó.
Ðắc thế của Jésus Christ nói quả quyết nhơn loại có Ông Cha mà Ông Cha ấy là
chúa tể càn khôn vũ trụ, đắc thế của Jésus Christ là vậy.
Nếu chúng ta biết lấy theo
triết học thì chúng ta nên lấy cái gương của một nhà đại gia tư tưởng, nhà đại
gia triết lý học là Descartes, người nói: "
Je pense done je suis" ( Tôi tưởng là tôi có vậy ) Con người là một
động vật ở nơi mặt địa cầu nầy, chúng ta thấy nó hiện hữu phải vận hành phải
xao động, bởi nó là động vật, nó phải hoạt động, nếu không hoạt động thì chết.
Trong cơn đang hoạt động có hai phần đặc biệt:
1 ./ Hoạt động về thi hài
xác thịt, tức nhiên như thân thể chúng ta giờ phút nầy vậy, mỗi ngày chúng ta
hoạt động mới có sống, bằng không hoạt động thì chết, luật tạo đoan quả nhiên
vậy.
2 ./ Còn cái hoạt động
nữa, hoạt động vô hình chúng ta không thể thấy được mà chúng ta nhìn quả quyết
có hoạt động về tinh thần trí thức. Vì cớ hai cái hoạt động của con người chia
ra hai phần:
a./ Hoạt động về
phần Ðời.
b./ Hoạt động về
phần Ðạo.
Là vì cái thi hài phàm tục
nầy nó là con vật, nó phải hoạt động theo con vật, hoạt động theo giác thể của
nó, nó chưa có biết hoạt động theo chơn linh. Vì cớ cho nên Ðức Chí Tôn tạo nên
hình tướng nó, để tạo nơi mình nó Ngài còn sắp đặt một kỷ cương để cho tinh
thần nó vi chủ hình hài của nó, còn để cho thân thể nó vi chủ tâm hồn của nó,
nó sẽ ngây cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự diệt nó mà thôi.
Bởi vậy chúng ta ngó thấy
hai phần Ðạo đặt biệt ấy, chúng ta buộc phải nhìn về phần đời chúng ta, chúng
ta phải chung sống cùng xã hội nhơn quần tức nhiên sống theo khuôn khổ quốc gia
dân tộc ấy nên luật khuôn khổ quyết định hơn hết. Nếu trên cái sống ấy, sống
theo kia chúng ta thấy, chúng ta phải nhìn có một Ðấng cầm quyền trị về phần
tâm hồn, trí não chúng ta. Ðấng ấy đến giờ phút nầy đến ở cùng chúng ta, nhìn
chúng ta là con cái của Ngài, Ngài đến với một danh từ là Thầy của chúng ta, mà
chẳng phải làm Thầy mà thôi còn làm cha nữa.
Chúng ta tưởng tượng trở
lại, để tinh thần bình tĩnh suy xét từ thử đến giờ coi các sắc dân nào trên mặt
địa cầu nầy đặng hạnh phúc dường ấy chăng ?
Hai ngàn năm về trước Ðức
Khổng Phu Tử đến tạo Ðạo không đạt được thuyết quí báu cao trọng ấy, cũng do
nơi duyên cớ, chúng ta tưởng Ngài đến tình cờ, không có gì là tình cờ trên mặt
địa cầu nầy hết, không phải tình cờ mà Ngài đến.
Ngài đến trong đời Chiến
Quốc tức nhiên trong buổi ly loạn ( không có buổi nào trên mặt địa cầu nầy chịu
ly loạn bằng nước trung Hoa buổi nọ ) thiên hạ đang chiến đấu với nhau, giành
phương sống của mình, lấn quyền thế trong lục quốc phân tranh không ai nhường
ai, tranh sống với nhau một cách kịch liệt Ngài mới đến. Ấy vậy Ngài đến không
phải tình cờ, nếu chúng ta tưởng tình cờ thì Ðấng cầm cân Thiêng Liêng nơi cõi
hư linh hằng sống chẳng có hay sao ?
Bằng cớ hiển nhiên là Chúa
Jésus Christ cũng đến lập Ðạo của Ðức Chí Tôn như Ngài trong buổi loạn ly, buổi
mà La Mã làm bá chủ, các sắc dân bị chinh phục quật cường chiến đấu để giải ách
nô lệ của mình, buổi ấy cũng là chiến quốc vậy.
Hai người đến không phải
là tình cờ mà đến đâu, cũng một thuyết với nhau đem đạo lý cứu vãn nhơn loại
mỗi phen nhơn loại chịu thống khổ về tâm não dường nào thì có Ðấng Từ Bi độ tận
đưa tay ra cứu vớt họ luôn luôn, đặng mà cứu khổ, nhơn loại mãi mãi không bao
giờ sơ sót hết, chúng ta quan sát tận tường buổi nào các vị giáo chủ đến giáo
đạo đều có lý do hết.
Nếu như không có Ðấng cầm
quyền năng trị tâm lý tinh thần nhơn loại thì chưa chắc có ai làm nỗi. Cái thi
hài của nhơn loại tức nhiên thân thể còn tồn tại được để quyết định tương lai
của nhơn loại đương nhiên, hai cái thuyết duy tâm và duy vật, ngày giờ nào hai
thuyết ấy tương hòa đặng thì chúng ta thấy cơ quan giải thoát đặng. Ngày giờ
nào Trời Người hiệp một cùng nhau đồng trị với nhau tức nhiên Người trị thế,
Trời trị hồn.
Hai Ðấng cầm quyền thế
gian nầy cõi hư linh hằng sống hiệp với nhơn loại mới được hạnh phúc, tương lai
mới được vững chắc và tồn tại. Bằng chẳng vậy con đường chiến đấu đặng sống của
họ sẽ xô đẩy họ đến con đường tự diệt . (Thuyết Ðạo QIII / tr 48)
* * *
16. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ngày 15 tháng 12 năm Nhâm Thìn (1952 )
Lược giải Ngũ Chi
PHẬT ÐẠO, TIÊN ÐẠO, THÁNH
ÐẠO, THẦN ÐẠO, NHƠN ÐẠO
Ðức Shidarta
( gọi là Cakya Mouni ) nghĩa là người miền xứ Cakya, lấy lòng nhân bao trùm thiên
hạ, tầm thêm đặng chơn lý Sanh Khổ mà lập thành Phật Giáo, nên dùng đoạn trái
oan trừ nghiệt chướng đặng làm phương giải thoát luân hồi.
Ấy là giữa chốn khổ não
đau thương, Ngài lại đem tánh từ bi tự tại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh
chúng tương thân tương ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trượt nhớp nhơ mà
Ngài đến rải mùi thơm ngào ngạt.
Ngài nhờ Sanh, Lão, Bịnh,
Tử là tứ khổ, giác minh bổn thiện mới đạt phương cứu khổ loài người.
Ðức Lý Lão Ðam ( Lão Tử )
là Thái Thượng Lão Quân vì lòng nhân phổ độ thế gian, nên tìm đặng chơn lý tinh
thần vi chủ, trừ khử phương dĩ vật lụy hình, định tự chủ ký tâm là diệu pháp,
lại lấy phép an nhàn làm cơ thoát tục. Ấy đời là cảnh sầu thảm khó khăn mà Ngài
đến bày phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào người đương ngậm đắng trêu
cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt. Ngài nhờ quyền vật dục trong trường công danh
phú quí của lục quốc phân tranh, tạo ác đã vô ngằn, nó thức minh 'Bổn thiện'
của Ngài, nên Ngài ái dân sanh mới truyền phương thoát khổ.
Ðức Chúa Jésus De Nazareth
( gọi là Christ ) bởi lòng nhân cứu thế lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn
bác ái nhân sanh đặng thay mặt Chí Tôn khai hóa, xem phổ tế chúng sanh rằng
trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật
mạng sanh hành thiện đạo, diệt dị đoan trừ mê tín, dụng chân lý để răn đời,
nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, ấy trí huệ vẽ tươi thiên cảnh.
Ngài hằng dạy rằng : cái
khổ của thế gian là sự nghiệp của con người, phải thọ khổ mới rõ cơ thoát tục.
Ấy là đời đang giả dối mà
Ngài đem chân thật ra khử trừ chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ dằn mà Ngài
đờn tiếng thanh tao hòa nhã.
Ngài nhờ Ðạo Luật của
Moise, thế kỷ ấy quyền hành biến đổi nên sanh nhiều chi tả đạo bàn môn, lại thế
lực của Caiphe về bên mặt phần hồn rất nên mạnh mẽ buộc dân Do Thái ( Juifs )
nhiều lẽ nên tà. Cả mê tín của dân Giu Ðê buổi ấy luận không cùng.
Quyền luật đời nước La Mã
( Rome ) của César nghiêm khắc khốc hại sinh linh đồ thán.
Những nguyên ủy khai minh
'Bổn Thiện' của Ngài làm cho Ngài phải cam tâm gánh vác cả sự đau đớn của loài
người, cũng bởi ái truất thương sanh chịu tử tội đặng truyền gương thọ khổ.
Khương Thái Công gọi là
Thái Công Vọng hay là Khương Tử Nha vâng lịnh Ðức Nguơn Thỉ Thiên Tôn ở Côn Lôn
Sơn lấy Phong Thần bảng đến giúp nghiệp Châu, cũng vì nhơn sanh mà khai minh
chơn lý của quyền hành thưởng phạt Thiêng Liêng giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn,
tôn sùng trung liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan
ác nghiệt của xác thân ấy là dụng phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt
thế. Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng nạn ác đã đào tạo
kiếp sống của con người, chẳng trốn khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt Thiêng
Liêng có đủ quyền năng cả xác cùng hồn. Thế thì có trí tuệ của loài người, còn
Ðạo lại có thần minh giám sát. Triết lý Thần linh nghĩa là : Quyền phép của
lương tâm do đó mà lập thành căn bản và năng lực vận hành hiện tượng của tư
tưởng cùng bổn nguyên thần pháp đặng nảy sanh.
Ôi ! cũng vì cớ quả nhiên
thật sự bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.
Tuy vân chẳng phải chính
mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài biết tùng lịnh
thật hành những tư tưởng cao thượng của Ðức Nguơn Thỉ Thiên Tôn thì công ấy
cũng đủ làm đầu Thần Giáo.
Ðời khi ấy dường như bị
phát bởi ung thư, chịu đau đớn sầu than chẳng xiết mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc
linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.
Ngài nhờ thấy bạo tàn
Thương Trụ và thương đạo nghĩa của nhà Châu: Vua Văn Vương và Võ Vương giục
khai "Bổn Thiện" nên tuổi
dầu cao, tác dầu lớn mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực giúp đạo đức, khử bạo tàn
thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa, tuy đôi bên Thương Châu
khác giá mà đối với lực trung can trí dũng, vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô
tư trong Thần vị, chỉ ngó mặt công phong tước phẩm.
Ðức Khổng Phu Tử tự là
Trọng Ni cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo của đời nên lo trù hoạch phương châm
giảm ác mới đạt đặng triết lý chí thiện là cơ quan bảo thế. Ngài đắc thông nên
tự nhiên biết rằng cơ tạo, nghĩa là trời đất và vạn vật hữu hình, phải tấn hóa
lần lần cho tận con đường chí thiện.
Người thì tận thiện, vật
thì tận mỹ gọi là Ðạo, Ngài chỉnh chiếu theo sự tự nhiên hành động theo tâm lý
của người đời đặng làm mục đích chuẩn thằng đoán xét, ngoài phép an tâm luyện
tánh Ngài không nhìn phương pháp nào tự giác đặng "Bổn Thiện" và kềm chế lấy điểm lương tâm nên không chịu
tin theo thuyết mỹ thuật huyền vi mà trí khôn ngoan của người không thấu đáo.
Ngài đã thấy phép trị thế,
dầu cho dân sanh phản kháng thế nào cũng tùy theo một chủ quyền chính thể hoặc
là do nơi đông tay xúm nhau đào tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm
Chúa đời, cầm luật pháp trị bá tánh. Ngài cho chánh trị hành tàng của xác thịt
thế nào thì chánh trị tinh thần cũng vậy, nên nhìn nhận rằng các chủ quyền trị
thế, có quyền vô vi của Ðấng Chí Tôn, Ngài gọi là Nhứt Ðại nên viết Thiên, nắm
trong tay phép Thiêng Liêng thưởng phạt. Ðấng Chí Tôn ấy chẳng phải có quyền
năng về phần hồn mà thôi lại cũng đặng oai linh phần xác, lý thuyết Trời và
Người đồng trị nảy sanh ra trí đó.
Cơ nghiệp Văn Vương qua
đến Ðông Châu là cùng vận mà Ngài cố quyết duy trì, mong lòng hiệp quốc đem
luật đặng trị bình, lấy nghĩa nhân ra đặng khử bạo.
Ngài hiểu rõ ràng quyền
hành chánh trị chia ra hai phần :
1. / Sanh hoạt của
thi hài.
2. / Biến hóa về
tâm lý.
Nên Ngài cho luật pháp là
cơ quan độc thiện để trị an thiên hạ, còn đạo nhơn nghĩa đủ thế kềm thúc tánh
đức người đời, nên Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở vọng chấn hưng.
Thương thay một Ðấng Chí
Thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề thất vọng, bởi gặp buổi đời quá bạo tàn nên
cây quạt và mảnh mền là Ðạo Nhơn nghĩa của Ngài không đủ thế quạt nồng đắp
lạnh, Ngài phải thối bước về quê cam phận thiệt thòi ngồi dạy học.
Bài tự thán "Chi lan" của Ngài ai đọc đến
cũng phải rơi châu đổ ngọc. May thay ! Qua đến đời Khổng Cấp ( Tử Tư ) là đích
tôn của Ngài dạy đặng một trang môn đệ là Mạnh Tử rất nên Ðấng hiền triết nối
chí của Thánh Nhơn cố mở mang đại học.
Triết lý của Mạnh Tử là
tại Minh Ðức tại Tân Dân tại chỉ ư Chí Thiện. Người đi châu lưu nước nầy qua
nước nọ, lấy nhơn nghĩa đặng khuyến khích nhơn tâm cảm hóa các chư hầu, chỉnh
đốn chế chuyên Vương Ðạo. Thật ra các xã hội Á Ðông nầy đã nhờ ảnh hưởng công
nghiệp của Người lắm lắm.
Ðời Ðông Châu sôi nổi,
giặc giã chiến tranh cả ác hành, sử chép không cùng mà qua đến đời của Người
thì trở lại như xưa, tin dùng 'Bổn Thiện' thật tài chính trị của Ngài rất nên
siêu việt.
Ðức Khổng Phu Tử cũng nhờ
ác hành Ðông Châu Liệt Quốc trong trường chiến đấu đua tranh giành quyền lợi mà
giáo minh 'Bổn Thiện' của Ngài mới đắc pháp cao thâm chí thiện.
Những triết lý Thánh Hiền
dầu cổ kim cũng thế cốt để dìu dắt nhơn sanh đi thong thả trên con đường lành
cho cùng tận, đặng phục nguyên bổn thiện của mình, các tôn giáo gọi tên là Ðạo.
Ngày nào 'Bổn Thiện' đã phát minh thì cảm hóa chúng sanh rộng thế.
a./ Hèn thì làm cho một
gia đình thiện hành gia pháp.
b./ Trọng thì giúp quốc
gia xã hội thiện hành quốc chánh.
c./ Còn tối đại thì làm
cho toàn thiên hạ đặng thiện giao hiệp chủng đại đồng. (Thuyết Ðạo QV / tr 99).
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét