HIỆP THIÊN ĐÀI
V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính Gởi: Hiền Huynh HIẾN
PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Tham chiếu : Quý Thánh Thơ
số 15/ DS ngày 12-6-1970
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo
tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn
để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14
tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
Phụ bản.
LỜI TỰA
Những bài
Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH
chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy.
Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành
cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các
nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc giả đến xem.
Đức HỘ-PHÁP là một trong
các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ
thuyết Tam-Lập: “Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn”.
Về lập đức: thì Đức Ngài
là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho
toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC-CHÍ-TÔN (NGỌC- HOÀNG - THƯỢNG-
ĐẾ ).
Về lập công: thì Đức Ngài
vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt
gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là
một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!
Về lập ngôn: thì Đức Ngài
lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng
thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn
Đạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý
độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính
chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần
thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử : những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch
đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua
các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện
chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau
thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập
những tài liệu này.
Chúng tôi nghĩ rằng : “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung
tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến
cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn
trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng
thay Trời dạy Đạo.
Nếu một may thay thời cuộc
lại biến thiên, có thể các cuộc phần
thư lại tái diễn, thì thiết tưởng trong
số tài liệu này vẫn còn có nhiều người
nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn
Đây không phải là việc làm
của một cá nhân hay một đoàn thể, nhưng
là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình
để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển
tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công
việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.
Việc làm của chúng tôi
không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo
trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU
ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành. Chúng tôi
xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi
chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng
tiếng ngọc của Đức HỘ PHÁP.
Từ đây bản quyền sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để
cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu
ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta
trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ
LỜI CHÚ CỦA NGƯỜI
SOẠN
Kính thưa: Chư Huynh, Tỷ,
Muội cùng các bạn đồng môn.
ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
lúc còn sanh tiền Ngài đã để lại nhiều lời vàng tiếng ngọc dạy dỗ chúng sanh
qua các buổi thuyết Đạo.
Nay kẻ hậu sinh được may
duyên học Đạo với Đấng Thiên Tôn qua các bài Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI
(từ năm 1946 đến năm 1955 do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh
ấn hành), trong những bài giảng nầy, Đức Ngài đã giáo hóa rất nhiều chủ đề về
Đấng Thượng Đế, Tôn Giáo, Nhân Loại ... theo dòng thời gian của từng thời kỳ
lịch sử.
Với lòng tôn kính Đức Tôn
Sư, con xin được sắp xếp các bài giảng theo từng chủ đề để con và các bạn đồng
môn dễ dàng sưu khảo trên đường tu học.
Thành kính cầu nguyện Đức
Tôn Sư luôn luôn dẫn dắt chúng con trên đường phụng sự.
Kỉnh bút
1. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Ðêm 14 tháng 12 năm
Tân Mão ( 1951 )
Thuyết minh chữ Ðạo
Ðêm nay Bần Ðạo giảng một
cái đề cũ mèm mà toàn thể đều nghe là buổi giảng về chữ Ðạo.
Chúng ta đã thấy các Tôn
Giáo xưng mình là Ðạo, chúng ta thấy họ lạm dụng Ðạo quá lẽ, nhưng chúng ta
không thể gì cãi chối được tại lý do nào ?
Bần Ðạo thuyết minh chữ
Ðạo, từ khi tạo Thiên lập Ðịa có loài người đến giờ thì vì trí khôn ngoan linh
hoạt của chúng ta thấy trạng thái của càn khôn vũ trụ vô biên vô tận, vô đoán
và thấy cái bí ẩn huyền linh đang điều động cả cơ thể tạo đoan mà chẳng có một
ngôn ngữ miệng lưỡi nào đặt ra tên cái huyền linh ấy đặng, nên để chữ Ðạo, tức
nhiên chúng ta đã giải rõ là cường danh viết Ðạo (không biết đặt tên gì nên để
chữ Ðạo) trong cái trạng thái ấy, chúng ta thấy nó có động, có tịnh, có động
tức nhiên "Dương quyền".
Dương quyền biến sanh càn khôn vũ trụ, trong sanh hoạt của nó, chúng ta thấy có
khi nó ổn định đặng nó đào luyện cái thể chất của nó tức là "Âm quyền" đó vậy.
Bần Ðạo lấy tỷ thí con vật
chúng ta dễ hiểu hơn hết là con tằm, khi nó còn là con sâu tức nhiên Dương, nó
vận động đặng sống, nó ăn, nó lớn rồi chín, nó kéo tơ làm ổ, bây giờ tới Âm,
tức nhiên đặng biến ra nhộng bất động, đặng nó định cái thể của nó.
Trong vạn vật ở mặt địa
cầu nầy có hai trạng thái luôn luôn, cái sanh của nó, phải tùng theo khuôn luật
tạo đoan, nó phải phù hạp lại với hình thể, tức nhiên cái sống phải phù hạp với
cái chết đặng biến hình, cũng như con nhộng bất động, nếu đem tay nắm lấy nó
thì nó chết. Vì như vậy là trái với khuôn luật tạo đoan, tức nhiên nghịch lại
Ðạo.
Linh hoạt vô biên vô tận
là không gian thời gian biến chuyển không ngừng, Ðạo để pháp luân thường
chuyển, nó do nơi không gian, thời gian biến ra hình trạng chớ không khi nào
trong thời gian ấy dìu dẫn cho nó biến chuyển. Vì cớ cho nên trong kinh Phật
Mẫu để 'Thập thiên can bao hàm vạn tượng, tùng địa chi hóa trưởng càn khôn'
tùng vũ trụ là do nơi đại thể của nó trong vạn vật, cái đại thể của nó thế nào
là cái tiểu thể cũng vậy, một khuôn luật ấy mà thôi, nó phải tùng theo khuôn
luật đã định, tức nhiên pháp luân ấy người xưa không biết hình trạng, không
hiểu quyền năng thế nào nên để chữ Ðạo.
Ấy vậy, Ðạo vì tinh thần,
vì thể chất của vạn vật hữu hình mặt thế gian nầy đặng nó sống, biết định cái
chết, định cái sống, hay biết định cái thể của nó, cái thể định vận mạng, cái
thể định tính, hai cái đó tương hiệp với nhau, phù hạp với nhau một khuôn luật
là Ðạo, bằng trái lại là nghịch Ðạo, mà hễ nó thuận thì nó còn, còn nghịch nó
phải tiêu diệt.
Bây giờ luận các Tôn Giáo,
họ lấy một triết lý của cơ thể tạo đoan trong pháp luân thường chuyển mà định giáo
lý của họ, nhưng có một điều trọng yếu hơn hết là toàn cả cơ thể tạo đoan tức
nhiên Ðạo, mà mỗi một điều chi cũng đều để Ðạo, chữ Ðạo họ không biết, chúng ta
không thể cãi chối, trong hình thể đó họ lợi dụng, nhưng sự thật Ðạo của họ chỉ
có một phần ngàn trong chữ Ðạo mà thôi, chớ không phải thật Ðạo.
Bây giờ Ðức Chí Tôn để
trong nền Tôn Giáo của Ngài hai chữ Ðại Ðạo, đó là Ngài để hình tượng bao trùm
toàn thể vô biên đó là Ðại Ðạo, nếu Ngài không nói thì chúng ta không làm sao
biết được, suy đoán được. Ngài luận chữ Ðạo thì nó bao trùm hết, vì cớ cho nên
có cơ quan sanh hóa, Ðức Chí Tôn đã tạo Càn Khôn Vũ Trụ trong quyền năng ấy.
Chúng ta nhìn biết có một chủ quyền đặng định khuôn luật của nó, nếu không có
chủ quyền duy nhứt thì cả vạn vật trên càn khôn vũ trụ không thể gì còn.
Trong cái hình thể tối
thiểu của nó, từ tiểu nguyên tử và đến các tinh đẩu trong thế giới nó vẫn định
ở trong đại thể của nó, chúng ta không thể gì suy đoán, nếu không có huyền linh
vô đối của Ðấng đã cầm quyền tạo đoan thì không có ai làm chủ nó được, vì cớ
cho nên chúng ta đã thấy quyền năng ấy định quyền người chủ của nó, ta mới định
quyền người chủ. Từ trước đến giờ nhứt là trong nền văn minh Á Châu, chúng ta
đã thấy, không có tên chúng ta không dám để tên, duy để nhứt đại, nghĩa là một
lớn mà thôi, do nơi nhứt đại ấy mà Ðức Chí Tôn tạo nền chơn giáo của Ngài để là
Ðại Ðạo.
Ấy vậy, Bần Ðạo nói, giáo
lý của mỗi nền tôn giáo đều khác nhau, nhưng nó có hình ảnh của một nền Tôn
Giáo, cho nên họ xưng mình là Ðạo, chúng ta không thể cãi chối, duy chúng ta
nên biết rằng pháp luân đạo pháp vô biên kia, hình ảnh kia vô biên vô tận thì
chúng ta chỉ nhìn rằng : Một tôn giáo nào đã tùng theo khuôn luật tạo đoan đúng
mực thước về danh lý của nó, biến tướng của nó theo một khuôn luật tối thiểu
thì chúng ta nhìn. Còn ngoài ra, trái lại chữ Ðạo, chúng ta có quyền giục họ
tiến hay không để họ tiến vậy thôi. Chúng ta không thể gì cãi chối được, chúng
ta không có quyền công kích hay sửa cải được.
Bần Ðạo nói trong vạn vật
từ thảo mộc đến thú cầm vật chất, thảo mộc đến thú cầm không có được hai cái
mầu nhiệm là "định thể" của
nó và huyền linh của nó. Gồm hai món đó ở trong sống chết của nó. Ta biết Ðạo,
ta hiểu rõ mối Ðạo là ta sống, nếu chúng ta trái Ðạo ấy thì chúng ta dầu có
sống tự do đi nữa, thì cũng như chúng ta đã lên án lấy cái chết của ta, tức
nhiên chính mình chúng ta đã lên án lấy mình.
Nếu nói kẻ kia vô Ðạo,
người nọ thất Ðạo hay là họ chối Ðạo. Họ làm sao chối cái sống của họ được ?
Chúng ta chối được hay chăng là chối cái hình ảnh của họ và cái thể xác của họ
mà thôi.
Trong vạn vật có quyền cãi
chối cái sống của họ chăng ? Mà gọi họ chối Ðạo ? Có người không biết chữ Ðạo
là gì xưng rằng nghịch Ðạo, cải Ðạo là mâu thuẩn, là dốt nát, chính mình họ
không biết họ thì thuận với ai chớ. Trong thể pháp tinh thần của chúng ta,
chúng ta sống trong hai cái đó, sống với hình thể, sống với tinh thần là ta đã
đặng một đặc ân của Ðức Chí Tôn ban cho. Hại thay trong cái đặc ân ấy, Ðức Chí
Tôn cốt yếu để cho chúng ta đau khổ, sống trong cảnh đau khổ đặng biến hình,
biến thể mà biến sanh hoặc chúng ta thấy kiếp sống mà đi tới, đi từ con đường
phàm dĩ chí Phật vị, là ngôi vị của Ðức Chí Tôn dành để cho mỗi đứa con. Chúng
ta có thể đi tới phẩm vị Trời nữa mà chớ.
Hễ luận theo cái khuôn
luật tạo đoan ấy đặng định tiến triển của ta thì ta thuận Ðạo, đạt Ðạo, còn
trái lại là theo con đường vật loại, là đời, tinh thần mà ta bỏ, tức nhiên
chính mình chúng ta từ chối địa vị thiêng liêng ta có, hay là chúng ta tự lên
án cho chúng ta ai đã chối Ðạo theo thường tình gọi là bỏ Ðạo, là người đó họ
chối cái phận sự làm người, tức nhiên từ chối phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật,
điều đó không có phi lý. Chúng ta đặng hạnh phúc, Ðấng cầm quyền tạo đoan hôm
nay đến chung sống cùng ta. Cái hạnh phúc của ta còn gì hơn nữa. Trong cái sống
cũng thế, chết cũng thế, sống dầu cho khổ não bao nhiêu chết mất đi nữa, chúng
ta cũng an vui với bạn đồng sanh của chúng ta nơi mặt thế gian nầy. Có một điều
đau thảm hơn hết, thay vì ngó thấy cái khổ của nhau họ lại phụ rãy nhau, tận diệt
nhau, họ không biết tôn trọng mạng sống của bạn đồng sanh đặng định phận của
mình, kẻ đã đoạt đặng cái 'Tứ' của Trời Ðất, hiểu thấu đáo huyền vi của Ðạo,
dòm thấy bạn đồng sanh, con mắt họ không buổi nào ngớt giọt nước mắt.
Mỗi ngày Bần Ðạo đang
sống, có nhiều khi ngồi trên lầu Trí Huệ Cung dòm xuống thấy em út lận đận mỗi
ngày tìm sống, kiếm sống, thì Bần Ðạo lấy làm thương xót vô cùng nhưng luật
Thiêng Liêng để nó kiếm sống mà vui sống với đau khổ của nó, nếu không vui sống
nó sẽ chết, phải để cho nó vui sống, nó sống trong đau khổ nó vẫn vui sống. Có
nhiều khi thấy em khổ não nhứt là mấy đứa em bên quân đội, trong con đường chết
sống của nó không có định ngày giờ, không có thời gian, làm giọt lệ của Bần Ðạo
phải đổ, mà chỉ có những người như Bần Ðạo đổ lệ ấy mà thôi. Nhưng quyền Thiêng
Liêng kia để cho nó vui sống, nó ham sống ấy đặng nó tìm sống, nếu nó biết được
một cái sống khổ thì nó không còn sống nữa, thay vì chúng ta nên gượng gạo vui
sống với chúng nó, để theo cái sống ấy đừng để cho có trường đau khổ cho chúng
nó.
Cả Thánh Thể Ðức Chí Tôn
cốt yếu để an ủi nâng đỡ tinh thần đàn em, cả Chức Sắc Thiên phong thay thế
hình ảnh cho Ngài để nâng đỡ cái sống của chúng nó. Bần Ðạo nói thật, chúng ta
không có quyền làm cho đau khổ kiếp sống của chúng nó, bởi nó đã sống đau khổ
nhiều rồi. (Thuyết Ðạo QIV / tr 93)
2. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại .Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 2 năm Nhâm Thìn ( 1952 ).
Lễ Vía Ðức Thái Thượng - Kỷ niệm của Ðạo Giáo
Chữ Tu
Hôm nay là
ngày lễ của Ðức Thái Thượng, tức là ngày kỷ niệm của Ðạo Giáo. Bần Ðạo nhơn dịp ngày vía
của Ngài, Bần Ðạo tiếp giảng chữ TU mà ông Truyền Trạng Trấn đã
giảng hôm trước. Ðề mục còn sơ sót song đến cái đích đề mục ấy nói lại trúng, khi nói
kết luận ông đã nói rằng : Duy có Tu mới có thể dìu dắt nhơn loại đi đến mục
đích đại đồng thế giới, đem hòa bình toàn thiên hạ, đây là trúng. Nói về chữ Tu
thuyết nó vẫn còn sơ sót rất nhiều.
Chữ Tu chúng ta đã thấy
thiên hạ phân ra hai chủ hướng về siêu hình, chủ hướng về siêu vật, tức nhiên
cái thuyết Duy Vật và Duy Tâm nó thường phản kháng cùng nhau. Ấy vậy, Bần Ðạo
thừa dịp nầy giải rõ chữ Tu và tầm chủ hướng của nhơn loại, phải để trong mục
đích nào, ấy là một cái đề chúng ta có thể nói từ thượng cổ đến giờ, tiền nhân,
chư hiền, chư Thánh, chư Tiên, chư Phật đã lập giáo và đã viết ra không biết
bao nhiêu Ðiển Luật Kinh Sách mà nói không hết, giải không cùng, huống chi đứng
trên giảng đài nầy, lấy đề mục ấy mà nói không bao giờ đủ đặng.
Bần Ðạo xin lấy cái tinh
túy của nó giải rõ ra mà thôi. Duy Tâm thế nào ? Duy Vật thế nào ? Tầm nguyên
lý coi nó do ở đâu xuất hiện hai lý thuyết ấy. Theo Kinh nhà Phật ta đã nghe rõ
rằng loài người có nơi mặt địa cầu nầy 183 triệu năm. Duy luận định nguyên lý
của nó, có trong 50 triệu năm mà thôi, bổn căn của loài người nó có tánh vật
của nó sanh trong vạn vật, cũng như con vật kia vậy, duy trong tánh vật của nó,
có Ðức Chí Tôn đến định thiên mạng của nó, nó có hai phần, hai đặc tánh. Tánh
thú và tánh Trời.
Bây giờ luận về tánh thú
của nó thì nó cũng như con thú kia vậy. Tánh của nó buộc nó đói phải cần kiếm
ăn, lạnh rách phải kiếm mặc, nó khổ nó phải kiếm phương làm cho nó hạnh phúc,
nó khó khăn nó phải làm cho nó sung sướng cái phàm nghiệp của nó, thích cái gì
phải kiếm phương thế nào làm cho nó thỏa thích, thỏa thích ấy là cái tánh thú
giục nó vậy.
Huống chi nó sanh nơi thế
gian nầy chịu trong luật định của nó là tứ khổ, thì bây giờ nó phải tìm phương
thế thoát khổ cho đặng; thoát khổ và tìm hạnh phúc với hình thể thì chẳng hề
buổi nào tìm đặng, chẳng khi nào thấy hưởng được hạnh phúc do nơi hình thể mà
nó chịu khổ, tức nhiên tánh thú của nó cốt yếu đến đặng chịu khổ, mà nó muốn
thoát khổ , ấy là nó nghịch lại tánh đức luật định Thiêng Liêng của nó.
Ấy vậy, khi nó còn tánh
thú, nó muốn làm sao thỏa mãn hễ thỏa mãn thú tánh của nó thì nhân cách của nó
bị hủy diệt, nhân cách không thể bảo thủ được cho lâu, thiên mạng nó không có
phương bảo thủ, tâm linh của nó không có phương làm chủ nó đặng, thì nó phải
trở nên con vật mà thôi. Vì cớ cho nên các Ðạo Giáo, các triết lý cốt yếu tìm phương
nào dung hòa tánh thú của nó cho phù hạp với chơn mạng của nó, tức nhiên làm
phương nào bảo trọng sống thú của nó, phù hạp với nhân cách đó vậy. Muốn cho
đặng thế ấy, phải giải quyết cái khổ của nó, nó muốn thoát khổ có một đường tồn
tâm mà thôi, tồn tâm tức nhiên một biện pháp giữ thiên mạng đó vậy.
Ấy vậy làm chủ cái tánh
thú đặng bảo trọng thiên mạng, tức nhiên phải dồi mài sửa đổi luyện cả tinh
thần và hình chất của mình thoát khỏi tánh thú đặng bảo tồn nhân cách, tức
nhiên bảo tồn Thiên Mạng của mình gọi là TU. Chữ Tu cốt yếu là để trau giồi cho
đặng thoát cái tánh thú, bảo vệ nhân cách của mình đó vậy.
Theo cách vật trí tri, bây
giờ luận về siêu hình thì chúng nó đã thấy, hễ khi nó thức, con vật nầy khi nó
thức, nó tìm sống trong vạn vật, nó cùng lẽ sống trong vạn vật. Luật của vạn
vật tự buộc nó phải đi kiếm ăn, kiếm sống đặng bảo trọng sanh mạng của nó, theo
trong Thể Pháp về cái tánh thú của nó, muốn thoát được tánh thú ấy, bởi vì nó
hung hăng, bạo ngược, mạnh mẽ, cừ khôi phản trắc vô cùng vô lối, có nhiều khi
thiên tánh, tức nhiên thiên mạng không thế gì điều khiển nó được, người ta thấy
có nhiều khi không thế gì người ta thắng nổi thú tánh của nó, nên tìm con đường
siêu hình, nó thức thì nó rất hăm hở dữ tợn hung hăng, đủ thứ hết thảy đặng bảo
vệ sanh mạng. Khi nó ngủ, tức nhiên khi nó nằm ra bình tĩnh hết dữ, nó bình
định được tất cả tánh chất nó bớt dữ, tức nhiên cũng như chúng ta khi còn thức,
lo tìm muôn phương ngàn kế đặng bảo thủ sanh mạng của chúng ta, bảo thủ hạnh
phúc của chúng ta nơi thế gian nầy, mà thật ra kiếm hạnh phúc ấy trong giấc
chiêm bao của chúng ta mà thôi. Khi chúng ta ngủ mới được an ủi, ta thức bao
giờ tinh thần cũng khổ não, vì thức ấy trong thuyết siêu hình mới xuất hiện ra
hai lý thuyết tương đương ấy. Từ thượng cổ đến giờ có thuyết nào giải rõ nó
chưa. Chúng ta đã thấy rất ít, chúng ta định trước, chúng ta đã thấy cái thuyết
' Tánh mạng song tu' rõ rệt, ta có thể nói hai cái thuyết ấy như lý thuyết
Pythagore và Ðức Chí Tôn, Pythagore lấy cách vật trí tri làm căn bản đặng đi
đến siêu hình, văn từ cách vật trí tri đến siêu hình, còn Ðức Phật Thích Ca lấy
siêu hình làm căn bản dìu dắt cách vật. Hai lý thuyết ấy đương đầu với nhau, mà
đã thấy thật sự thì Pythagore không khi nào cầm lấy nó, nó không có vật, nó
không có hình, nó cho rằng cái sống của vạn vật nơi mặt thế gian nầy do nơi vô
hình xuất hiện, tức nhiên siêu hình kia làm căn bản của cách vật trí tri, mà
nếu không có cách vật trí tri đứng chung đó, chẳng hề khi nào chúng ta thấy hai
bên tương hội cùng nhau, vì vậy Ngài để chữ Dyade, hồi trưa Bần Ðạo đã triết lý
hai chữ ấy mà hầu hết người Việt Nam dịch chưa rõ. Bần Ðạo nghe chữ Dyade tưởng
rằng chúng ta có dịp đem cái siêu hình tả ra, tức nhiên đem chữ Dyade đến cùng
Ngài, chữ đó giải không ra.
Ấy vậy, cái lời của Chí
Tôn để trên mặt thế gian nầy có hai phương pháp, siêu hình cũng trong đây, mà
siêu vật cũng trong cửa Ðạo nầy. Tại sao ?
Tại vì có một Ðạo Giáo
Ngài đến một thân Ngài mà thôi, cả con cái của Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế
gian nầy trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh Thể của
Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam Bửu là dâng xác thịt, trí não, dâng cả tâm hồn tức
nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ Khí, rồi Ngài trả chữ Khí
của càn khôn vũ trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại đi đến mục đích chữ Tu,
Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của càn
khôn vũ trụ, trong mình nó sống vậy mà làm Thánh Thể của Ngài.
Chúng ta tưởng tượng một
ngày kia, toàn cả nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh Thể của Ngài phụng sự cho
Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não tâm hồn dâng cho Ngài
hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng và thiên
hạ nhứt gia như Ðức Chí Tôn đã muốn. (Thuyết Ðạo QV / tr 07).
3. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 5 năm Nhâm Thìn (6-6-1952 ).
Chữ Tu ( tt )
Ðêm nay Bần
Ðạo xin bắt chước các bạn đã lên giảng đài từ thử đến giờ. Giảng chữ TU.
Chữ Tu tiếng
Phạn gọi là Dyana, người Miên tức nhiên người Tần Nhơn, nói trại lại chút
Xaxona. Tiếng Pháp hay tiếng Âu Châu Seperfectionner nghĩa là Rendre parfait ou
plus parfait có nghĩa là làm thế nào cho mình đặng tận thiện tận mỹ. Tiếng Tu
nó bao quát như thế, Thiên Kinh vạn điển tiếng của các tôn giáo đã để lại duy
chỉ một chữ đấy mà thôi, thành thử chẳng phải đứng trên giảng đài mà giảng chữ
Tu ấy cho cùng lý được, nhứt là Bần Ðạo có thể lấy cái tinh túy của nó để
giảng, dầu không trọn vẹn, nhưng cả toàn thể con cái Ðức Chí Tôn để ý, định trí
cho lắm nghe và hiểu.
Vả chăng khuôn luật thiên
nhiên của Tạo Hóa nó buộc cho các đấng linh hồn dầu vật loại, phải trau mình
thế nào đặng đoạt cho đến nhơn phẩm của mình, rồi khi đã đứng địa vị làm người,
mình phải giồi mài, sửa cải thế nào đặng đi từ từ đặng đoạt cho đến Phật vị.
Chúng ta sanh nơi đây rồi
chết, rồi tái sanh lại đặng mỗi kiếp sanh chúng ta Tu, Tu đặng từ từ bước lên
Thiêng Liêng vị của mình. Tu nhơn phẩm đoạt đến địa vị tối cao tối trọng là
Phật vị đó vậy.
Trong phương Tu của chúng
ta, buổi nào cũng Tu, vừa trong lòng mẹ ra khỏi thì đã Tu rồi. Tu là gì ?
Ðứa con nít nó không biết
nói, không biết gì hết, không biết làm sao đặng mẹ nó cho bú, hễ nó khát sữa nó
có phương pháp là nó khóc, nó tìm phương làm cho mẹ nó hiểu, tức nhiên nó Tu
đó. Rồi khi nó biết cha biết mẹ, biết thương cha mến mẹ, cái đó cũng cái Tu của
nó nữa. Khi nó có em biết thương em, cái Tu nó đấy. Khi trí khôn ngoan hơn chút
nó vô trường học, mỗi ngày học được mấy chữ, Thầy kể rằng học đặng thấu đạt
được cái hay cái biết là Tu đó, lớn hơn chút nữa có trí khôn ngoan , nó kiếm
phương thế làm sao cho nó hay hơn bạn nó, ham làm giỏi hơn bạn, nó biết tranh
đua tức nhiên nó Tu đấy. Khi nó biết khôn ngoan rồi, hiểu rằng tôi phải học cho
hay hơn thiên hạ trong xã hội nhơn quần, nó kiếm thế nào học hỏi cho nhiều đặng
sống cùng xã hội, Tu đấy. Khi nó có tuổi, trong tuổi trứng nước đó đến tuổi
khôn ngoan hơn nữa, nó biết lựa chọn một người bạn trăm năm là vợ của nó, ấy là
nó Tu đấy. Ðối cùng xã hội nhơn quần nó kiếm phương pháp thế nào đứng trong xã
hội cho có địa vị của nó, nó nong nã đừng cho nó quá hèn, mỗi ngày nó kiếm thế
tiến triển hay ho thêm mãi ? Tu đó.
À ! cái Tu từ khi mới thơ
sinh lọt lòng mẹ đặng làm người, nó Tu về Nhơn Ðạo, tức là Tu thân. Cái Tu thân
gọi rằng Tu thân là chi? Là nó phải biết cái Tu thân ấy mới có phương thế lập
công cùng xã hội nhơn quần. Nó lập công là làm thế nào cho toàn cả nhơn loại
trên mặt địa cầu nầy đặng hạnh phúc, nếu như nó có phương thế làm nên cái công
nghiệp vĩ đại ấy là Tu thân của nó đấy.
Bây giờ Bần Ðạo mới thuyết
cái phương tu trong chơn truyền của Ðức Chí Tôn đã để nơi cửa Ðạo nầy. Chúng ta
dùng Tam Bửu mỗi ngày, chúng ta cầu nguyện Ðức Chí Tôn đặng dâng hiến ba của
báu ấy. Bần Ðạo thuyết Tu về Tinh, Tu về Thần đặng lập Công, tức nhiên mình thờ
phượng cái Tinh của mình, báu đầu tiên của mình là thân thể mình. Bây giờ ta
chỉ nói với một kẻ ngu muội hay là khùng kia cũng vậy, mà mình biết nó khùng mà
nó cũng biết nó khùng, nhưng ta điểm mặt nó nói, mầy điên, mầy khùng thì nó
giận dữ ngay và tức mình lắm. Cái giận ấy là trong tinh thần của nó có khuôn
luật thiên nhiên bảo nó phải Tu, đừng để nó ngu, mà hễ ai nói nó ngu tức nhiên
làm nó phạm luật thiên nhiên ấy, nên nó không chịu, nó tức giận lắm dầu cho nó
đã thiệt ngu.
Huống chi con người sanh
ra nơi cõi nầy, Ðức Chí Tôn đã ban cho một cái ân đặc biệt, hễ khi nào trong
lòng mẹ đã xuất hiện ra thì trong cái tinh thần thiên nhiên của ta nó đã có cái
quyền năng đạt được cả cái hiểu biết của nhơn loại, dầu cho thượng cổ, trung cổ
nó cũng tự nhiên am hiểu cho được mới thôi. Cả cái tinh thần của nó đấy có đủ
quyền năng đạt đặng khối bao quát thiên nhiên về tinh thần trí não của loài
người.
Từ khi loài người đã có
mặt nơi thế gian nầy đều muốn thoát ly cái thú tánh của họ. Hễ thoát ly đặng
cái thú tánh ấy tức nhiên họ sẽ định tâm sáng suốt thành ra một vị Thánh tại
thế gian nầy. Chúng ta đã thấy biết bao nhiêu vị Thánh sống xuất hiện trong
loài người từ thử đến giờ, huyền bí vô biên của tạo đoan là do đó, nơi đó.
Ấy vậy, cái khuôn luật
thiên nhiên kia bảo ta phải Tu trí , nếu chúng ta ngu xuẩn, mê muội thì bao giờ
cũng phải chịu làm tôi đòi nô lệ trong kiếp sống của ta, chúng ta vẫn thấy một
đứa con nít mà nó vẫn kiếm phương thế đặng hiểu mọi điều thiên hạ đã biết, nó
không biết nó hỏi, vấn nạn cho biết, ấy cái luật thiên nhiên biểu nó Tu trí. Tu
trí đặng chi ? Ðặng đủ khôn ngoan, Tu hạnh đức hay hạnh kiểm của mình, rồi mới
Tu ngôn ngữ của mình, Tu trí đặng lập ngôi tại thế gian nầy, tức nhiên Tu về
khí đó vậy.
Bây giờ tới Tu tâm, hễ khi
nào chúng ta đầy đủ trí thức, tâm ta mới sáng suốt, khi tâm đã sáng suốt thì
biết rằng : Cảnh tượng kiếm sống của chúng ta đây cả thảy đều là mộng ảo, dầu
cho cái ý sống hay cái thân của ta đây cũng là mộng ảo, con vật thân thể đã thế
nào thì thân thể ta cũng thế ấy. Con vật chết như thế nào thì chúng ta cũng
chết tương tợ như thế đó, không khác. Ðã biết kiếp sống chúng ta là mộng ảo thì
chúng ta cần phải tìm gì mà chớ. Tìm cái chi cho bền vững chắc chắn hơn, tức
nhiên cái thiên lương của chúng ta, là căn bản là linh hồn của chúng ta. Ta đã
hiểu được cái Chơn Linh của chúng ta nó bất di bất dịch, nó tồn tại mãi mãi nơi
cõi Hằng Sống, biết được cái sống ấy là Hằng Sống thì ta phải tô điểm nó, gìn
giữ nó cho được trường tồn đẹp đẽ.
Trước các Tôn Giáo, nhứt
là nhà Phật chưa có danh từ thiên lương là gì và tiếng linh hồn mà thiên hạ đã
để lấy chữ tâm mà tượng trưng ấy thì nó vẫn là bóng dáng chớ không phải thiệt
tướng. Lấy chữ tâm là bất quá nói cái trí của chúng ta do tinh thần căn bản,
nên lấy chữ tâm thay thế cho tinh thần, chớ chưa phải thật tướng tinh thần.
Ấy vậy, khi chúng ta đã
qua khỏi Tu trí, mới tới giai đoạn Tu tâm, thì Tu tâm ấy nó buộc chúng ta phải
xem xét quan sát cả hành tàng kiếp sống của các bậc Thánh Nhơn, Hiền Triết, lời
nói và việc làm của các vị Phật hay các vị Tiên đã lưu lại tại thế nầy, chúng
ta mới lấy nó làm căn bản, đặng kiếm một khuôn khổ, một phương pháp đặc biệt
của mình để làm phương tu của mình.
Các bạn cả thảy đều biết
sự Tu Tâm nó chẳng phải để một cái tình cảm đối với vạn vật hay nhơn loại nơi
mặt địa cầu nầy, mà nó còn dắt ta đi, đi mãi con đường đi của nó vô biên, vô
tận, bởi nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm phương tu của nó. Nó lấy càn khôn vũ trụ
làm nhà, làm căn bản của nó, cho nên trí của ta đối lại tâm ta, nó lại không
vừa, vì danh của tâm nó còn cao vọng hơn nữa, nó còn vô tận vô biên hơn nữa.
Nơi cảnh vô hình thế nào thì chữ tâm cũng thế ấy, không ai biết rõ. Do chữ tâm
mà Ðức Chí Tôn để cái tình yêu ái, cái Thương với cái Công Chánh, hai cái đó là
hình trạng thay thế chữ tâm mới thiệt tướng của nó mà thôi. Còn ngoài ra nữa nó
liên hệ và liên quan với cả Phật tánh, Thiên tánh nữa kìa. Muốn đến con đường
liên hệ với Thiên tánh, Phật tánh, nó có một cái cửa là cửa tịch mịch, cái cửa
ấy ở thế gian nầy thiên hạ muốn lắm, mà phần nhiều đi chưa tới là cửa Hư Vô
Tịch Diệt trong cảnh Thiêng Liêng đó vậy.
Ðạo Cao Ðài giờ phút nầy
còn thiếu cái đó, tức là Ðạo Cao Ðài còn thiếu Tu Tâm vậy. Nếu Tu Tâm mà thật
hiện đặng là 'Ái truất thương sanh', hành vi của Thánh Thể của Ngài, phụng sự
cho Vạn Linh là Tu Tâm đó. Nhưng cái tâm mà diễn ra bao nhiêu đấy không phải
đủ, nó còn nữa, còn vô ngàn vô tận, cả kiếp sanh nầy chúng ta không có cái năng
lực để tạo nó. Ta chỉ nhờ hồng phúc mới tạo nó đặng, nên ta cần nó lắm. Nếu
chưa đặng chúng ta không thể nói rằng : Con đường của chúng ta thật hiện còn đi
xa vời hơn nữa, bởi vì phụng sự vạn linh Ðức Chí Tôn đã để là cốt yếu Ngài nói
rằng : Nếu biết phụng sự vạn linh các con mới bước vô con đường Tu tâm của các
con, mà nói các con chưa Tu tâm, bởi cả hình trạng vô biên các con chưa theo
dõi, dầu cho các con đặng chữ Từ Bi, Bác Ái và Công Chánh thì cũng chưa đủ gì
hết.
Ấy, Tu tâm ấy mới gọi là Tu tâm. Hễ có tâm mới
có phương thế lập Ðức. Ðức Chí Tôn
dạy chúng ta phụng sự vạn linh cốt yếu biểu chúng ta rán Tu tâm, Tu tâm chúng
ta mới đối lại cái quyền năng tinh thần của tâm lý đặng lập Ðức là Tam Lập đó
vậy, vì nó liên hệ với nhau như thế đấy.
Cả những lời Bần Ðạo
thuyết từ nãy giờ có thể viết ra một quyển sách mà nói lại có bao nhiêu, về rồi
suy nghĩ kiếm hiểu sẽ thấy tràn trề ý vị. (Thuyết Ðạo QV / tr38)
* * *
4. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ngày 29 tháng 4 năm Ðinh Hợi ( 1947 )
Ðại
Từ Phụ là Cha cả vạn linh
Hôm nay Bần Ðạo giảng loài người do đâu mà đến.
Trước khi ta tìm chơn lý ấy, ta nên biết trước tạo đoan là Cha cả vạn vật hữu hình
và tìm nguyên căn của Chí Tôn trước đã.
Chúng ta đã nhìn trong
kinh điển hồi trước để lại thấy cả cơ quan hữu vi nhãn tiền nầy làm cho ta biết
và nhìn đến tạo đoan ấy là Ðại Từ Phụ. Chẳng luận giống dân nào và các nhà
triết lý của các tôn giáo cũng vậy, đều nhìn Ðấng tạo đoan càn khôn thế giới
sanh hóa vạn vật và loài người, là Ðấng Cha cả chúng sanh, ấy là các tôn giáo
đã có từ thượng cổ đến giờ. Phật giáo cho ta hiểu, có một Ðấng quyền năng vô
biên vô đối không tả được, tạo ra vạn vật càn khôn vũ trụ nầy. Ðấng ấy đã có
đến ở cùng loài người, cũng thọ bao nhiêu thống khổ, đau đớn, biết luân luân
chuyển chuyển từ phẩm người đến Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ðấng ấy nắm cả quyền
năng vô đối, huyền vi mầu nhiệm trong tay, tạo nên càn khôn thế giới định phép công
bình, lành có lành trả, ác có ác trả hiển nhiên, nên loài người tôn sùng Ðấng
ấy là Ðức Thượng Ðế, cầm quyền thống ngự vạn linh ấy Hoàng Ðế tối cao thượng
của võ trụ vậy.
Các tôn giáo có nói Ðức
Thượng Ðế là Ðấng không nhìn thấy được vì không hình không ảnh, nhưng không một
việc nào mà Ngài không biết. Trong Nho Giáo có câu:
"Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu"
Nghĩa là: Trời cao lồng
lộng mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới Thiêng Liêng của Ngài,
nên xưng tụng Ngài là Thiên Tôn cầm quyền vạn linh mực thước như một ông tòa
trị thế.
Ðấng tạo ra càn khôn vũ
trụ, sanh ra nuôi nấng tạo ra bảo bọc, hằng để trong mỗi thi hài một tâm linh
mới được khôn ngoan hiểu biết rằng: Có người có ta nên ta nhìn Ðấng cho ta cái
tâm linh ấy là Ðấng tối linh, là Cha của ta. Ngoài Ðấng ấy thì không ai nữa làm
chúa tể của vạn linh đặng, tôn sùng như thế là thấy Ðấng Cha cao thượng hơn ông
Cha phàm, vì thế mới xưng tụng Ngài là Ðại Từ Phụ. Thật thế, nhà Phật cho Ngài
là Ðại Từ Phụ trúng hơn hết, vì nếu Ðấng ấy không cho một điểm linh quang thì
thế nào bảo tồn sanh mạng đặng.
Loài thú, ta thấy hiển
nhiên mới sanh ra tuy mắt còn nhắm híp mà vẫn tìm vú mẹ để sống, đến cỏ cây hễ
sanh ra thì biết trải lá hứng sương tuyết, hấp thụ cái sanh khí mà nuôi sự
sống, một vật có điểm linh quang ấy, như thế khối linh quang ấy là Cha vậy.
Ðại Từ Phụ là Cha cả vạn
linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ hưởng phần hữu hình tại thế
mà thôi. Ngài lại còn dành một phần quí trọng hơn là nhứt điểm linh quang, nhờ
đó mà từ vật chất tiến đến thú cầm nhơn loại, mới tiến đến Phật vị mà ngang
phẩm cùng Ngài. Ðức Từ Phụ là Phật, Ngài muốn cho con cái của Ngài cũng thành
Phật, đặng đạt quyền năng bí mật như Ngài, rồi lập ra một càn khôn thế giới
khác. Luật thiên nhiên của một ông Cha tạo nghiệp, thì con theo nghiệp Cha mà
tạo ra sự nghiệp khác nữa.
Tuy trong buổi Tam Kỳ Phổ
Ðộ, Bần Ðạo biết mở Ðạo Cao Ðài đặng tuyển chọn trong hàng Phật đạt kiếp từ tạo
càn khôn thế giới đến kế vị Ngài. Trong buổi Ðại Từ Phụ mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ
Ðộ có treo bảng ở Ngọc Hư Cung lập một Ông Trời kế vị Ngài, nhưng chúng ta thấy
trong hàng Phật có ba người:
1 . Phật Thích Ca.
2 . Phật Di Lặc.
3 . Ðức Chúa Christ.
Thử hỏi ba người ai sẽ làm
Trời, ta tưởng ba người sẽ có một người làm được, mà người đó chúng ta biết
chắc có, tuy không quyết đoán trước đặng, chúng ta mơ màng ngó thấy nhưng không
dám nói.
Hễ Ðấng nào đủ quyền năng
trị thế, tinh thần cho cao trọng thâu phục cả tâm lý nhơn sanh vào khuôn Ðại
Ðạo, gồm tinh thần tư tưởng loài người lại được thì Ðấng ấy sẽ kế nghiệp Ðức
Chí Tôn. (Thuyết Ðạo QI / tr47).
* * *
5. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Ðêm 14 tháng 6 năm
Ðinh Hợi (31-7-1947 )
Vấn đề đại đồng thế giới
Bần Ðạo hôm
nay thuyết về triết lý nguyên do của loài người. Triết lý ấy là một
vấn đề từ có loài người đến giờ, tìm tòi cho thấu đáo chơn lý hầu đi cho trúng
con đường tức là Ðạo vậy.
Từ thượng cổ loài người
chỉ biết mình có một, nghĩa là đồng sanh đồng tử. Muốn biết nguyên căn triết lý
các Ðạo giáo, truy tầm vấn đề trọng yếu ấy thì thử hỏi loài người do nơi nào mà
đến? Chịu phần tử sanh cùng vạn vật để làm gì ? và chết phải đi đâu?
Chẳng lạ gì, tại thế gian
nầy từ thử các Ðạo giáo đều tìm nguyên căn ấy tức là để trở lại nguyên do căn
bản gọi là Ðạo.
Cái thuyết tối trọng tối
cao ấy phải viết sách, mới mong đủ nghĩa được. Bần Ðạo có nói triết lý ấy nơi
đây thì chắc chắn chư hiền nghe cũng như không, nghĩa là không bổ ích chi cả,
bởi quá sức hiểu biết. Nên Bần Ðạo hứa ngày rằm tháng 7 đến đây sẽ viết ra cái
chơn lý ấy trong một bài diễn văn, nguyên do cả đạo đức triết lý.
Hôm nay Bần Ðạo xin thuyết
minh vấn đề đương sở dụng hiện thời là vấn đề đại đồng thế giới ( Fraternité
unlverselle ). Tại sao nước nào, dân tộc nào trong thế giới hiện chừ đương mơ
mộng tìm phương pháp đại đồng thế giới ? Nói thật ra kể từ có Thánh Giáo Gia
Tô, vấn đề ấy chấm dứt một câu hỏi nguyên vẹn và thúc nhặt hơn hết. Thuyết đại
đồng Phật Giáo đeo đuổi mãi mới lập thành giáo, rồi mới lập cả tâm lý đại đồng.
Loài người từ tạo thiên
lập địa đồng một nguyên do một tánh chất, đồng một nguyên linh, thúc kết triết
lý ấy hơn hết là từ Ðức Chúa Jésus tạo nền Thánh Giáo Gia Tô. Ngày nay Ðạo Cao
Ðài cũng đeo đuổi mục đích ấy. Trên mặt địa cầu, người ta tìm hiểu loài người
được hai ngàn bảy trăm triệu (2.700.000.000) vì nguyên căn tinh thần hình thể,
chủng tộc loài người là một nguyên do, một căn bản. Rồi đến thế nầy biến cải
sắc da đen lên xám, lên xanh, lên đỏ, lên vàng cuối cùng là da trắng. Ðương
nhiên là mãn hạ nguơn tam chuyển, lên thượng nguơn tứ chuyển, vì chuyển tiến
nên loài người phải chịu khảo đảo đặng vào trường thi hầu thoát khỏi mặt địa
cầu nầy để đến thế giới cao trọng hơn, còn rủi rớt thì ở lại địa cầu nầy mà làm
thần thông nhơn, do hai sắc da vàng và trắng hiệp lại xuất hiện.
Ấy vậy, thuyết đại đồng
thế giới trong buổi nầy Chí Tôn lập Ðạo Cao Ðài cốt yếu để làm cho loài người
biết mình do một nguyên căn linh hoạt sản xuất chung nhau, biết nhìn nhau là
anh em đồng một nguyên căn mà đến. Từ cổ chí kim các tôn giáo tìm đủ mọi phương
làm cho loài người thức tỉnh tinh thần, biết nhìn nhau là cốt nhục. Hại thay !
loài người chẳng biết nhìn chơn lý của Ðạo, những luống mờ hồ nên Chí Tôn buộc
lòng phải đến tạo nền Ðạo Cao Ðài, chủ trương cho loài người một đại nghiệp,
hiệp một hoàn cảnh, chung sống nhau một tinh thần, một căn bản, qui tựu cho
toàn sắc dân hầu bảo trọng cái sống của nhau, sớt ngọt chia bùi, bảo tồn nhau
cho qua sự khảo đảo đau đớn nơi khổ cảnh nầy từ trước.
Luận xét đến các nước ở Âu
Châu, ở Á Châu đồng tìm chánh sách vạch triết lý ấy và đương hoạt động loài
người hiệp nhau làm một. Bởi lý do đó các nhà thượng đẳng nhơn sanh chia nền
chánh trị ra mỗi quốc gia, dụng tâm lý chia đều quyền lợi, cố ý tìm cách thống
nhứt cả loài người làm một trong đường sanh hoạt mà thôi, ấy là nước Mỹ đương
thi thố hiện thời, còn nước Nga lại chia phân tài sản, dung hòa tâm lý tạo cho
loài người một phẩm giá, một quyền lực đồng nhau. Phương pháp ấy khó đạt thành
nguyện vọng, chúng ta sẽ thấy những tư tưởng rẻ rúng ấy chẳng còn hiệu lực cao
siêu trong thời gian ngắn ngủi sau đây vì cái quyền lực muốn hiệp tâm lý cần
phải yêu ái, kỉnh trọng nhau, tôn trọng mạng sanh cho nhau, chia buồn rầu khổ
não, nhìn một Ðạo với nhau, lấy tình cốt nhục đối đãi với nhau thì mới đầm ấm
cả đại gia đình xã hội, tức là toàn cầu thiên hạ vậy.
Muốn đạt cho được mục đích
ấy, duy lấy đạo đức tinh thần, muốn kỉnh nhau, hòa nhau, nhìn nhau là ruột
thịt, mình thấy nhà bạn mình có của nhiều lại ganh ghét, đứa nầy giành của đứa
kia, hỏi vậy hòa được chăng ? Nếu còn giành ăn, ở, mặc, sang giàu, cao trọng thì
không thể nào đi đến đại đồng tâm lý được.
Cái hiện tượng của chúng
ta đã thấy trước mắt, nước nào tìm phương pháp đại đồng thế giới mà chẳng biết
hiệp tâm lý làm một thì chỉ là chánh sách vô hiệu nghiệm mà thôi.
Ví cớ, Chí Tôn đến tạo một
gia đình nầy có một ý nghĩa tối cao tối trọng, là muốn thế nào dầu nam hay nữ
thương yêu mực thước hiệp tâm lý cả loài người mà tạo thành khuôn mẫu, một thế
hệ mà gây tình anh em cốt nhục, vừa thi hài vừa trí thức tinh thần mà chung
sống cùng nhau.
Thoảng ngày kia toàn Ðạo
biết thương yêu nhau như ruột thịt, toàn quốc dân việt Nam hiệp một thì hột
giống đại đồng thế giới mới mong gieo rắc khắp nơi, gầy dựng tạo thành nền móng
vĩnh cửu, bằng chẳng thì các phương pháp khác chỉ sẽ là vô ý thức mà thôi. (Thuyết
Ðạo QI / tr 50)
* * *
6. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ngày mồng 1 tháng 11 năm Ðinh Hợi ( 1947 ).
Thuyết đại đồng
Ngày nay Bần
Ðạo giảng về đại đồng. Trước khi giải thuyết ấy, Bần Ðạo xin giảng thuyết duy
tâm và duy vật. Nếu không thấu hiểu hai thuyết ấy thì không hiểu thuyết đại
đồng. Bần Ðạo đã giảng về Tam Bửu tức là ba cơ quan tạo nên con người:
1 . Là Tinh
2 . Là Khí
3 . Là Thần.
Tinh là gì ? Tinh là con người hữu hình tức là xác thịt ta.
Khí là gì ? Khí là trí não của chúng ta.
Thần là gì ? Thần là linh hồn của chúng ta, Ðức
Chí Tôn gọi là Chơn Linh.
Ba món báu ấy tương hiệp
với nhau, bởi vì mỗi Bửu có Thể Pháp riêng, mà ba xác ấy hiệp lại mới tạo thành
hình ảnh con người.
Bây giờ phân ra:
Tinh là vật, tức nhiên là
con vật là thú, như các con thú khác, nghĩa là hình xác đứng về hàng phẩm thú.
Khí là
sanh quang, trí não ta.
Thần là
chơn
linh sản xuất nơi Chí Tôn.
Ba cơ quan tương liên
nhau, có khi làm trung gian. Khí là trí não ta, nó đáo đến địa giới hiệp cùng
chơn linh cho huệ trí. Trái lại, nếu nó không tương liên với linh hồn đặng thì
nó lại tương liên với xác thịt, nghĩa là nhập vào giác tánh của con người. Giác
tánh là gì ? Giác tánh là trí não thô sơ, nó chỉ biết sống như con vật. Tỉ như
con thú kia mới sanh ra chưa biết gì mà đã tìm vú mẹ, đặng bảo trọng sanh mạng
của mình. Luật bảo sanh biểu nó phải tìm bao nhiêu đó để sống mà thôi. Ba món
báu ấy tương liên với cả càn khôn vũ trụ, Thần tương liên với Phật tức là Chí
Tôn, Khí tương liên với Pháp, còn Tinh tương liên với Tăng, tức là với vật
loại.
Ấy vậy, duy vật là xu
hướng theo Tinh, còn duy tâm tức là thuyết hữu thần, tương quan với Phật là Chí
Tôn. Bình thường các tôn giáo, đặt ra tên nầy, danh nọ đủ thứ, chí lý là tìm
Ðấng tạo sanh vạn vật, lấy hình của người mà tạo linh quang của loài người tức
là cha linh quang của chúng ta, hay là cha của vạn loại đó vậy. Bởi vậy, các
tôn giáo nhứt là Thiên Chúa Giáo nói : Con người là Thiên Thần bị hảm tù bởi
chơn linh của chúng ta với Thiên Thần đồng chất với Chí Tôn. Mang lấy xác thịt
nầy tức là ở trong cái khám vật loại. Còn Phật Giáo cho ta hiểu ba báu ấy chẳng
khác nào như người cỡi ngựa với con ngựa. Con ngựa ấy là con kỵ vật tức là
Tinh, Pháp là dây cương con ngựa, mà trọng yếu hơn hết là đồ bắt kế con ngựa là
hàm thiết, chưn đang kềm con ngựa chạy ngay con đường mình muốn tức là Tinh.
Người cỡi là chơn linh ta, nghĩa là Thần, Thần là hình ảnh của Chí Tôn tạo cho
ta, vì cớ con người có cao vọng chưa đạt được gì cao trọng, chưa đắc huệ trí mà
đã tưởng mình là ông Trời con, nên luôn luôn muốn làm Trời hơn hết. Tại sao vậy
? Có khó gì đâu mà không hiểu : Ðứa học trò ngồi trong lớp thấy ông quan vô, có
kỉnh sợ chi đâu mà tự nói thầm rằng : ông làm quan được trước, tôi cũng sẽ làm
quan được, trừ ra khi nào ném sách vở ra chăn trâu thì mới hết phương làm được.
Chơn linh biết mình muốn
tu hầu làm Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng có thể làm bằng được Chí Tôn mà chớ,
bởi vì phẩm vị Ngài đã dành để sẵn cho các con cái Ngài, nếu người nào làm được
như Ngài vậy. Bởi vậy dầu chưa làm được ra gì, đã biết mình là Trời tại thế. Có
câu chuyện tức cười, bằng cớ hiển nhiên như Ðức Trạng Trình là Nguyễn Bỉnh
Khiêm buổi nọ, hồi còn bé đi học, có Quan Huyện đến xét trường hay thăm trường
chi đó, nghe nói Ngài nổi danh Thần Ðồng khi thấy Ngài nhỏ người, thân không
cao lớn hơn ai, lại bận áo rộng xùng xình, vì bận bính của ai đó lết bết dưới
đất thấy nên ghẹo chơi. Ông Huyện ra một câu đối như vầy: Học trò là học trò
con, quần áo lon xon là con học trò. Ngài ứng thinh trả lời liền: Ông Huyện là
ông Huyện thằng, ăn nói lằng xằng là thằng ông Huyện. Ngài nói liền, thiện tu
nhứt định không chịu thua.
Ấy vậy, duy tâm thì sản
xuất thiên tâm, duy vật thì sản xuất nhơn tài. Ðể rồi sau Bần Ðạo sẽ thuyết ra
thiên tài và nhơn tài một lần đặc biệt. Nãy giờ Bần Ðạo đã mở đề cho hiểu xin
nên nhớ và nghe giảng tiếp thuyết đại đồng. Ðại đồng là hiệp một loại vật, vậy
đại đồng tiến hóa do căn bản nơi đâu mà có ? Dám chắc hỏi đại đồng là gì ?
Không ai giải nghĩa được. Ðại đồng là đồng sanh tức nhiên là chúng sanh đó vậy.
Ai đã đồng sanh với ta là bạn là
anh em của ta. Bởi các vật hữu hình thọ quyền năng vô tận vô biên của Chí Tôn,
đến thế gian với một mạng sanh, tức là đồng sanh, dầu vật loại, côn trùng, thảo
mộc, thú cầm hiệp với loài người là chúng sanh, tức nhiên là bạn đồng sanh cả
thảy. Hễ đồng sanh ta phải nhìn nhau là anh em trong lòng Chí Tôn mà sản xuất,
vì nhà Phật cấm ta không đặng sát hại sanh vật, vì là bạn đồng sanh của chúng
ta.
Vậy hai chữ đại đồng là gì ?
Thật ý nghĩa bạn đồng sanh, nhìn nhau hiệp một
trong nguyên căn gọi là Ðại Ðồng.
Hỏi thuyết đại đồng ngày nay xuất hiện là tại
sao? Chúng ta đoán dễ lắm. Cung kỉnh, tôn trọng, quí hóa mạng sanh vạn loại,
loài người đứng phẩm tối cao tối trọng, thay thế hình ảnh Chí Tôn có quyền làm chúa đại đồng. Loài người bị tàn ác, chẳng những
sát hại vạn linh mà thôi, lại chém giết tranh ăn, tranh sống, lấy cường lực đàn
áp làm căn bản, dùng bạo tàn làm chúa thiên hạ, chớ không dùng đạo đức tinh
thần, bạo tàn không dễ làm chúa thiên hạ. Cái thuyết duy vật là trong khuôn luật
vật hình nhứt định, còn thuyết duy tâm chỉ có khuôn khổ thiên nhiên, theo
thuyết duy vật nào là các cường quốc trên khắp địa cầu tìm đủ phương châm luật
pháp, làm cho thiên hạ hóa ra đại đồng ấy là điều mơ mộng vì không hề đạt vọng
được. Chưa ai hiểu đặng một người tài tình quán chúng, trí não cao sâu phải hạ
mình làm người ngu dốt. Chưa có quyền năng nào mà đem một đứa ngu dốt lên làm
ông tể tướng triều đình. Hàng phẩm căn mạng đều do Chí Tôn sở định. Ðã biết
không ai ép buộc được, không khuôn luật nào biểu một vị đại văn sĩ ăn mày ngoài
chợ được.
Hễ không có hình luật nào
làm được, sửa được thì thuyết đại đồng thiên hạ không thành tựu. Thuyết ấy kết
liễu được là khi nào lấy thuyết hữu thần duy tâm làm môi giới chung trong sự
yêu ái tôn trọng nhau, trong tình anh em đồng một căn bản, một máu thịt, một
chủng tộc. Vì cớ các Ðấng giáng cơ bên Âu Châu nói: Loài người sẽ đạt đến địa
vị tối cao tối trọng mà họ muốn đạt, là loài người sẽ có nòi giống một quốc
gia, một tôn giáo, ngày giờ nào loài người đạt được ba điều ấy thì thế giới đại
đồng kết liễu thành tướng. Chí Tôn đến với loài người, Ngự Mã Thiên Quân của
Ngài sợ Ngài xuống trần phải nguy hiểm, Ngài đến tạo cho loài người một quốc
gia, một nòi giống, một tôn giáo, nhưng Ngự Mã Quân của Ngài không muốn cho Ngài
đến nên thay Ngài đến làm cho ba điều ấy thành tựu nên hình. Nếu ba điều ấy
thành thì đại đồng thế giới thành. Nếu ba điều ấy không thành, thì đại đồng thế
giới thuyết vẫn còn trong vòng mơ mộng . (Thuyết Ðạo QI / tr103)
* * *
7. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Ngày rằm tháng 8
năm Ðinh Hợi ( 1947 )
Tánh đức nòi giống Việt Nam
Hôm nay Bần
Ðạo luận bàn cùng mấy chị, mấy em, Bần Ðạo giảng về tánh đức của nòi giống Việt
Nam, dầu nam hay nữ, dầu sùng bái Tôn Giáo nào cũng không nên quên mối Ðạo căn
bản lưu truyền của nòi giống là tin tưởng Trời tức Ðấng Chí Tôn đó vậy.
Toàn thiên
hạ trên mặt địa cầu nầy, ngày nào họ biết Ðạo của Chí Tôn, họ sẽ bỏ cả khuôn
khổ đạo đức của họ mà chớ, vì từ thử nước Việt Nam vẫn giữ được tánh đức lương thiện của
mình, nên vì lẽ công bình ấy Chí Tôn mới đến hoằng khai Ðại Ðạo, định đem
tánh đức hướng thiện của nòi giống Việt Nam gieo truyền vào tánh đức của thiên
hạ.
Tôi sinh trưởng tại Tây Ninh,
ông cha tổ phụ đều ở Tỉnh Tây Ninh thì có chi vui vẻ và hạnh phúc hơn được mở mang
mối Ðạo nơi xứ sở yêu quí nầy. Ngồi trầm ngâm suy tưởng tôi xin thú thật, phần nhiều
mấy anh, mấy chị nơi quê hương của tôi hẳn đã biết tôi từ thuở bé, anh chị thấy
tôi truyền giáo tưởng tôi mê hoặc chúng sanh. Nghĩ rằng: không ai dám đứng lên
hoạt động mà tôi hăng hái đứng lên phổ thông nền Ðạo, cho đến ngày nay được đạt
thành nguyện vọng, các bạn tôi lấy làm lạ, cho rằng ngày trước nó là bạn của
ta, nó không có gì đặc biệt mà ngày nầy bước chân đến nền Cao Ðài thì thấy có
sự thay đổi lạ lùng. Bởi vì tôi đã lấy khuôn khổ đạo đức tinh thần phù hạp với
phong hóa lễ nghi, có ảnh hưởng đắc lực với dân chúng thi thố chơn truyền của
Ðức Chí Tôn cho ra thiệt tướng, cho bạn đồng hương của tôi được thấy ân huệ
thiêng liêng ban bố cho nòi giống ta, giá trị cho Tỉnh Tây Ninh biết bao nhiêu.
Cầu nguyện ơn trên ban bố hồng ân để dìu dắt mấy chị, mấy em đến đây, đến Ðền
Thờ Chí Tôn là nơi Chí Tôn đã tạo nổi hình tướng của Ðạo.
Mấy chị đừng ái ngại, cứ
bước lên làm gương mẫu cho kẻ đi sau, Chí Tôn đến đây lập Ðại Nghiệp Thiêng
Liêng cho toàn thiên hạ, Bần Ðạo tin tưởng Người chỉ làm việc hữu ích cho đời.
Ðối lại hỏi chúng ta đã làm gì ra giá trị ? Gia Tô Giáo của kẻ nghèo nàn đói
khổ, của một vị Giáo Chủ hành khất còn nên được đại nghiệp, chúng ta làm bao
nhiêu như bọt nước bèo trôi. Một tiếng nói, một việc làm trong gia đình không
phải là đủ, có thể nói tỉ dụ như một ống truyền thanh thường trong gia đình chỉ
đủ cho gia đình đó nghe thôi. Tôi tưởng muốn tạo dựng cả tinh thần nòi giống
nước nhà cần phải tăng gia năng lực thêm nữa.
Ngày nay không phải như
trước kia, cửa nầy mấy chị mấy em có thể ra vào thong thả được, mở ra con đường
tiến hóa của nòi giống. Ngày nay mấy chị đã đến trong nền Ðạo nầy tôi xin để
lời cám ơn toàn mấy chị mấy em. (Thuyết Ðạo QI / tr71).
* * *
8. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 30 tháng 10 năm Kỷ Sửu ( 1949 ).
Ý nghĩa sự sống của con người.
Ðêm nay Bần
Ðạo đình thuyết Bí Pháp, cái nguyên do thế nào Bần Ðạo xin minh biện ra. Vả
chăng, chúng ta đang ở trong hoàn cảnh náo nhiệt vì hai thuyết duy tâm và duy
vật đương chiến đấu với nhau, chúng ta dầu chức sắc Thiên phong hay là mấy em
nam nữ cũng thế, là một phần tử trong Thánh Thể Ðức Chí Tôn. Ngài đã tạo tinh
thần chúng ta, vì sự thương yêu của Ngài nên Ngài lập Thiên Vị tại thế nầy cho
con cái thương yêu của Ngài, Ngài biểu chúng ta ký hòa ước với Ngài, để
thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ bi công chánh của Ngài đối với vạn
linh, tức nhiên chúng ta phải thay thế hình ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn Linh
hiệp với Chí Linh, tức nhiên Ngài cho ta cái sứ mạng để dung hòa Ðời với Ðạo.
Cái lý
thuyết duy vật là cái lý thuyết sống của đời, còn cái lý thuyết duy tâm phải
chăng là cái sống của Ðạo. Ðáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt duy tâm thì
mới phải, bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay thế vi chủ của duy tâm tức
nhiên chúng ta phải ngã bên mé duy tâm hơn hết vì đã có ký hòa ước với Ðấng Chí
Linh kia giữ công chánh đặng dung hòa tinh thần Ðời với Ðạo, vì mức công chánh
ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.
Chúng ta
tiềm tàng, chúng ta định trở lại là có cái lý do nầy, Ðạo Cao Ðài không cần
dùng mê tín dị đoan là cho sự tín ngưỡng đặng mạnh mẽ của nó. Chúng ta không cần trái
ngược lại, đem hết triết lý chơn thật để lại thế nầy mà thôi. Bởi vì dối trá
dầu cho Ðạo hay đời, trường dối trá ấy đã làm cho cơ thể tạo đoan nghiêng ngữa.
Chúng ta không cần xu hướng theo cái dối trá thường tình nữa, chúng ta phải
tiêu diệt cái dối trá ấy. Lại nữa trong hoàn cảnh chúng ta đang làm trung gian
giữa Ðạo và Ðời, chúng ta chẳng nên mượn thế lực mê tín dị đoan để làm khiếp
phục đặng quyết thắng tà quyền đang làm tinh thần loài người điên đảo, một
trường ngôn luận xù xì đã kiếm thế hèn tiện của thiên hạ đang tính tạo thành
một phản động lực đặng làm mất giá trị của nền chơn giáo Ðức Chí Tôn. Bần Ðạo
nói thật, muốn đánh tiêu cả sự dối trá, gian ngược ấy chẳng phải dễ, người có
thể làm cho thiên hạ mê tín dị đoan được là Bần Ðạo mà Bần Ðạo không làm. Bởi
vì Bần Ðạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô đạo đức, Bần Ðạo chỉ lấy một triết lý
chơn thật của Ðức Chí Tôn để giáo đạo cho con cái của Ngài mà thôi.
Bần Ðạo duy muốn làm bạn
với con cái Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Ðức Chí Tôn để cho Bần Ðạo mà Bần
Ðạo chưa có ngồi. Ấy vậy, mê tín dị đoan trong cửa Ðạo Cao Ðài không có và
không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại bí pháp chơn truyền, nếu thuyết
ra là lấy cái quyền năng mê tín dị đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát
nên Bần Ðạo không dùng, để khi nào dùng được Bần Ðạo sẽ dùng. Bần Ðạo hứa chắc
sẽ giáo hóa cho con cái Ðức Chí Tôn mà thôi.
Bây giờ bần Ðạo xin thuyết
'Ý vị và ý nghĩa lý sống của con người' Vả chăng, chúng ta đến với một phần xác
ở tại thế nầy, chúng ta phải biết cái sống của nó có ý vị gì ? Ðã sanh đứng làm
người sống tại mặt thế gian nầy, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị
của cái sống ấy và cái ý nghĩa của nó thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ thượng
cổ đến giờ tinh thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng
trưng các hình tướng, các nền Ðạo, các Tôn Giáo.
Chúng ta quan sát cả triết
lý của cái sống phải có lý do nào ? Sống đương nhiên của chúng ta có hai cái
sống:
1 . Sống về vật chất, mà nói rõ ra sống về phương
pháp thú chất.
2 . Sống về tinh thần, tức nhiên sống về phương pháp
hiển hách, anh linh của nó
Chúng ta thấy có hai cái
quyền năng ấy, nó tương tranh với nhau mãi mà thôi. Vì cớ cho nên mới nảy sanh
ra thuyết duy tâm và duy vật. Chúng ta thử nghĩ do lịch sử của loài người thì
chúng ta đã biết loài người như đã nói, cái thuyết kia là phải "Connais-toi, toi-même" nghĩa
là: "Người biết người hơn hết".
Mình muốn biết mình đặng chi ? Ðặng tìm hiểu cho thấu đáo cái nghĩa lý sống của
mình.
Chúng ta thấy thượng cổ,
bực cổ nhân nhứt là hạng vĩ nhân, dân Âu Châu thì có Socrate cũng trong thời
đại nhơn sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Ðấng Chí Linh trong càn khôn vũ trụ,
cái thuyết làm cho phản động lực coi Ngài như kẻ thù nghịch đến nước, cái quyền
năng buổi nọ coi mạnh mẽ thế nào ? Ðịnh tử hình Ngài, cho Ngài lấy chén thuốc
độc mà tự tử. Khi giam Ngài trong ngục, Ngài có phương thế hội đàm với các nhà
triết học. Tới giờ chúng đem chén thuốc độc đưa trong tay của Ngài biểu Ngài
uống, Ngài bưng chén thuốc độc ấy để từ giã các bạn của Ngài, mà Ngài nói như
chơi vậy, Ngài nói:
" Tôi biết rằng, ngoài cơ thể tạo đoan của đời
nầy nó còn có cơ quan vô hình tối trọng kia, tôi đã quả quyết rằng có, thì cái
chết nầy ta mong lắm chớ, giờ phút ta cầm chén thuốc độc nầy ta uống thì ta sẽ
được hội hiệp với các vị hiền triết, được làm bạn với họ thì có gì hơn."
Nói rồi, Ngài bưng chén
thuốc độc Ngài uống. Giờ chết của Ngài, giờ ngặt mình của Ngài thì môn đệ của
Ngài hỏi:
" Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi đâu ? hay sẽ làm
gì ?"
Ngài cười nói:
" Ta chưa biết, ta sẽ làm chúa cả cơ thể tạo đoan
nầy, để điều đình cả cơ quan vĩ đại của càn khôn vũ trụ hay ta sẽ làm chơn của
con châu chấu, dầu thế nào cũng có Ðấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì,
thì ta làm cái nấy."
Cái chết đối với Ngài
không có nghĩa lý gì hết.
Ðức Lão Tử khi đạt được bí
mật của Bát Quái Ðồ rồi, Ngài từ giã nhà Châu, Ngài về Côn Lôn Sơn mà an nghỉ,
môn đệ của Ngài hỏi :
" Ngài về Côn Lôn Sơn để làm gì ? Có hạnh phúc
hay không ?"
Ngài trả lời :
" Duy có cái biết của ta mà nó làm cho ta có cái
thú vị sống đặc biệt riêng, không cần nói rõ hạnh phúc ấy ra thế nào ? Nhưng ta
chỉ nói rằng, cái biết của ta nó làm cho ta hưởng được thú vị an ủi của cái
sống ấy."
Ðức Khổng Phu Tử từ giã
quan trường về giáo đạo cho các môn đệ của Ngài, thiên hạ gọi là vô phước, mà
cảnh thiệt vô phước của Ngài là lúc làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước
Tề, nước Yên và lúc châu lưu trong lục quốc.
Bây giờ Ngài về sống với
thất thập nhị hiền, tam thiên đồ đệ của Ngài là Ngài hạnh phúc hơn hết vì Ngài
biết thú vị cái sống của Ngài thế nào, cái sống của Ngài vui về Ðạo mà thôi.
Giờ trái ngược lại, sống
chúng ta thấy trước kia sống của Tần Thủy Hoàng, sống như Sở Bá Vương, hai tay
trắng lập nên nghiệp đế, đè ép cả tinh thần dân chúng buổi nọ, vị chúa của họ
sanh sát tàn ác, không có điều chi mà họ không làm, quyền hành của họ tàn sát
lắm.
Cái sống của Tần Thủy
Hoàng thế nào ? Dòm trở lại, thấy cái chết của ngài, Ngài than :
" Cái tài tình thâu cả nghiệp Ðế ta thắng được,
duy có cái chết ta thắng không được "
Vì thế mới cho người đi
kiếm thuốc trường sinh bất tử, mê tín đến nước người ta cho ăn dái ngựa mà cũng
ăn nữa, ăn đặng sống mà anh ta cũng chết.
Nã Phá Luân đã được cơ hội
làm nên nghiệp Ðế, hồi buổi đó làm cho toàn cả Âu Châu, các nước chư hầu đều
cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục He Saint- Hélène.
Ông Vua giàu có sang trọng
hơn hết là Louis XIV thiên hạ hồi thế kỷ đó cho ông là vua Trời "Le Roi Soleil" cả thiên hạ
đều tùng phục, kính trọng, kiêng nể, Âu Châu buổi nọ có thể nói Ngài là một vị
bá chủ của thiên hạ, không có cái gì mà anh ta không có " Phú hữu tứ hải." Sang trọng vô biên, có một điều là Ðền
Vua của Ngài " Palais Louis XIV
" quân lính canh từng bảy vòng, cấm cái chết vô trong Hoàng Gia của
Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong Hoàng
Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi.
Ngài than
rằng :
" Hại Thay ! Hoàng Thành của ta mấy vòng
canh nghiêm nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta."
Chức vị sang
trọng của mình sống như cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ
ra đó ngủ mà chúng cũng kiêng cũng sợ, nhưng chúng chưa biết thương, sống như cá Ông không
ai thấy, mà chiếc ghe nào chìm thì cá Ông cũng đỡ. Cái sống con cọp không có
ai thờ, còn cái sống của cá Ông có người ta thờ.
Hai cái sống đặc biệt ấy
là cái sống duy vật và duy tâm. Bần Ðạo tả ra cho con cái Ðức Chí Tôn mỗi người
lấy đó mà suy gẫm. (Thuyết Ðạo QIII / tr 54)
* * *
9. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ðêm 30 tháng 6 năm Tân Mão ( 2-8-1951 ).
Khuôn luật nào chúng ta đã sống
Kỳ đàn trước Bần Ðạo đã giảng
và đã hứa Kỳ đàn nầy Bần Ðạo giảng tiếp khuôn luật nào chúng ta đã sống nơi cõi thế gian
nầy. Kỳ trước Bần Ðạo giảng vấn đề cái sống của chúng ta nơi mặt địa cầu nầy và cái sống của
ta nơi
cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, kiếp sống ấy là kiếp chết của người đời thường
gọi.
Bần Ðạo nhớ lại khi học
Ðạo cùng các Ðấng Thiêng Liêng, chúng ta đã có luận hai chữ sống chết. Các Ðấng
Thiêng Liêng cho rằng : Dùng hai tiếng ấy không có chơn thực và không chơn lý,
cái hữu ngã tướng của chúng ta, tức nhiên chúng ta hữu ngã như bàn tay vậy,
không lẽ bàn tay nầy lật ngửa là sống, bàn tay nầy lật úp là chết bất quá xoay
qua xoay lại gọi là xoay chuyển mà thôi chớ có chết sống đâu. Sống chết không
có nghĩa lý gì, sống nơi mặt thế gian nầy và sống nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng
Sống cũng gọi là cái sống mà thôi. Ấy vậy sống chết là chuyển luân.
Hôm nay Bần Ðạo giảng
khuôn luật nào chúng ta sanh ra nơi mặt thế nầy, hay chúng ta sống nơi cửa
Thiêng Liêng Hằng Sống. Ðại Từ Phụ ta, cũng có tánh chất như ta vậy thôi. Chúng
ta nên lấy tỉ thí người cha của chúng ta nơi mặt thế gian nầy, chúng ta tìm
biết thử coi ông muốn cho chúng ta làm gì, hay là ông định cho ta làm gì, mà ta
định làm theo ý thích của ông, hay nói rõ cả toàn thể các ông cha đã muốn cho
con cái làm gì, tức nhiên toàn thể nhơn loại muốn cho ta làm gì, ấy là định
luật đó vậy.
Ðức Chí Tôn là Ðấng tự hữu
hằng hữu quyền năng vô tận vô biên, vì cớ nào Ngài dựng vạn vật và vạn linh
trong khuôn luật nào? Ðấng toàn năng toàn tri ấy muốn gì không đặng mà tạo ra
vạn vật hữu hình nầy, do khuôn luật nào, do khuôn luật nào chúng ta đã thấy đã
tìm khuôn luật nhỏ ấy rồi chúng ta có thể đoán được khuôn luật của Ngài, chúng
ta mới biết chúng ta có hai cái sống.
Sở năng chúng ta khi thức
chúng ta đã muốn làm gì, khi chúng ta ngủ hành tàng chúng ta đã làm gì ? Ðịnh
luật chúng ta đã làm gì, buổi chết chúng ta đã làm gì ?
Hai khuôn luật ấy định
chung nhau, Ðức Chí Tôn có hai phần năng lực như ta đương nhiên bây giờ, phần
vô đối, vô cực, vô thượng của Ngài là phần "
Dương năng " "Huyền vi phạm quảng đại " của Ngài vô cùng vô
tận, nơi đó tạo càn khôn vũ trụ, bát phẩm chơn hồn định số của vạn linh. Còn về
phần " Âm năng " của Ngài,
tức nhiên Ngài cũng có như ta một luật "
thất tình lục dục" rồi Ngài phân tánh ấy ra. Ngài chuyển Âm năng ra
Phật Mẫu, chúng ta đang thờ buổi nầy.
Cái Dương năng của Ngài và
Âm năng của Phật Mẫu, chính mình Phật Mẫu, Ngài biến thân ra cái Âm năng của
Ngài, chúng ta nói rằng: Phật Mẫu với Ðức Chí Tôn, Ðức Chí Tôn với Phật Mẫu là
hai quyền năng tạo dựng càn khôn vũ trụ, Ngài cầm quyền tinh thần, Ðức Phật Mẫu
cầm quyền hình thể.
Khi Kim Bàn sản xuất, bát
phẩm chơn hồn đi ra chính mình Ðức Phật Mẫu tạo dựng hình ảnh vạn linh, vì cớ
cho nên Ðức Chí Tôn quyền năng vô đối, Ngài muốn thế nào cho toàn thể bát phẩm
chơn hồn tức nhiên toàn thể vạn linh được hưởng một gia tài dành để là:
Toàn thiện, toàn năng,
toàn tri của Ngài về tinh thần về hình thể, Ngài muốn quyền năng con cái của
Ngài, tức nhiên vạn linh có đủ quyền năng vô cực vô thượng của Ngài đặng điều
đình Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái và Tứ Ðại Bộ Châu.
Ấy là Ngài dành cho con
cái của Ngài, muốn cho đặng toàn năng toàn tri, vô cực vô thượng như Ngài, Ngài
phải cho sản xuất, hồi sản xuất nơi Kim Bàn ra đơn sơ lắm, không đủ quyền năng
điều khiển càn khôn vũ trụ như Ngài, Ngài muốn cho chúng ta tạo dựng sự nghiệp,
muốn cho chúng ta có đủ trí thức tinh thần điều đình đại nghiệp ấy. (Thuyết Ðạo
QIV / tr41)
* * *
10. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 7 năm Tân Mão ( 1951 )
Ðịnh phận của con người
Kỳ Ðàn trước Bần Ðạo có hứa
kỳ nầy giảng về định phận của con người, tức nhiên định phận của chúng ta. Dầu
cá nhân, dầu xã hội nhơn quần hay là toàn thể nhơn loại cũng vậy, chúng ta đã thấy trước mắt một tấn
tuồng đau khổ mà Ðức Phật Tổ đã tìm thấy chơn lý ấy là Tứ
Diệu Ðề.
Chúng ta tự
nhiên nhận biết rằng, sống của ta nơi cõi thế nầy không phải sống đặng hưởng hạnh phúc,
trái ngược lại chúng ta đã sống nơi một cảnh khổ, Tứ Diệu Ðề tức nhiên tứ khổ đó
vậy.
Chúng ta lại
để mắt xem thấy cơ đời đã để trước mắt chúng ta nhiều lẽ bất công, chúng ta đã
thấy một tấn tuồng khôn hiếp ngu, mạnh hiếp yếu, sang hiếp hèn, hung dữ hiếp
hiền từ, tàn bạo hiếp đạo đức, lẽ bất công ấy dẫn loài người từ thử đến giờ đi tới
chỗ biết nguyên nhân của nó. Chúng ta đã thấy Ðạo Pháp định chơn lý của kiếp
sanh mình, vậy chúng ta đến tại đời nầy, hoặc đến đặng trả quả, hay đến đặng
chia đau sớt thảm cùng bạn đồng khổ của chúng ta nơi cảnh thế gian nầy, hai lẽ
ấy chúng ta nên tìm hiểu chơn lý của nó đặng định phận cho chúng ta.
Ðáng tiếc hơn hết những
người không biết chơn lý Tứ Diệu Ðề, phần nhiều họ không biết tại sao họ đau
khổ, vì thế nên họ đau khổ chừng nào thì họ oán hận kiếp sanh chừng nấy, bởi
kiếp sanh họ khổ nhiều hơn hạnh phúc, họ giận mọi lẽ bất công của xã hội. Họ
hỏi : Người tại sao sanh ra nằm trên đống vàng, giàu có sang trọng, thong dong,
còn người đẻ ra trong cảnh hàn vi, cơm không đủ bữa, còn người đẻ ra ngồi trên
ngai vàng bệ ngọc, người lại đẻ ra nơi xó bếp chuồng gà.
Sống trong cảnh bất đồng,
biểu sao họ không phẩn uất, không thù hận kiếp sanh, trong kiếp sanh ấy họ thù
hận mà không biết ai đặng trả cái thù hận ấy thành thử họ oán hận toàn thể bạn
đồng sanh của họ, tức nhiên toàn thể nhơn loại.
Chúng ta đã thấy tấn tuồng
họ đi tìm hạnh phúc, nhơn loại giờ phút nầy đang tìm hạnh phúc. Ôi ! Bần Ðạo
thấy họ muốn kết bạn với cả thiên hạ, kết bạn đặng họ nhơn danh toàn thể thiên
hạ mà đánh đổ lẽ bất công ấy cho tới ngày giờ nào nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy
hưởng đặng đồng đều của phú hữu của trái địa cầu nầy và giờ phút nào cả giai
cấp trong thiên hạ không còn nữa, đặng đồng đều với nhau, ngày ấy họ tạo hạnh
phúc cho nhơn loại đặng.
Họ lầm, vì chúng ta không
thể gì đem kẻ ngu si mà sánh với người trí, đem trẻ mới sanh sánh với ông già,
dầu cho muốn đem lại nét công bình, kẻ trí phải dạy bảo người ngu, ông già đủ
lịch lãm thế tình dạy lẫn người trẻ, dạy đó bất quá là một phương pháp giải kết
mà thôi, chớ không đủ một vấn đề định vận mạng của họ được, chúng ta thấy từ
buổi sanh ra và trong trường hợp cùng đồng thể với nhau mà tại sao kẻ quan
người dân.
Chúng ta thấy đặng người
trí họ thông minh sáng suốt họ định phận lấy họ, họ định đặng lấy mình thì mình
tự chủ được mình, còn có kẻ chỉ nương nơi người mà sống, vì thế cho nên tinh
thần ấy, đầu óc ấy là có giai cấp đặc biệt, chúng ta không thế gì làm cho cả
toàn thiên hạ đặng đồng tánh với nhau mà không đều với nhau, thì quyết định tạo
hạnh phúc cho nhơn loại của họ ; điều ấy mơ mộng, không hề khi nào thiệt hiện
ra đặng.
Thưa Chư Chức Sắc Thiên
Phong Hội Thánh nam nữ, những Ðạo Giáo đã sản xuất nơi mặt địa cầu có một đặc
phận cũng như ta, mỗi cá nhân đều có một đặc phận là đem cân công bình Thiêng
Liêng kia cân cái tình ái của chúng ta cho bằng cái sống, chúng ta biết rằng :
Bạn đồng sanh của ta tức nhiên toàn thể nhơn loại đang khao khát hạnh phúc,
chúng ta vẫn biết hạnh phúc không bao giờ thiệt hiện đặng, chúng ta chỉ tìm
phương pháp đặng an ủi tinh thần họ, nếu chúng ta có phương pháp ấy thì mới
sống gần Thánh Thể Ðức Chí Tôn. Giờ phút nào chúng ta thấy trước mắt chúng ta
một người bạn thiệt thòi ngu dốt, ít oi bị một người khôn hơn, mạnh mẽ hơn hiếp
đáp, lại có một người đứng gần bên kẻ ấy mà nói với người kia rằng: Em tôi khờ
khạo dốt nát, ông thì thông minh sáng suốt không nên hiếp nó chi, ông cứ ăn
hiếp tôi đây, tôi có thể đối thủ lại ông.
Hoặc có một người bạn thiệt
thà yếu đuối bị một kẻ mạnh mẽ oai quyền hiếp đáp thì lại có một người đứng gần
bên kẻ ấy nói : Em tôi yếu ớt bạc nhược không thể gì đương đầu với người, nếu
người muốn ra mặt anh hùng với người nầy thì đương đầu với tôi, tôi có đủ sức
đương đầu với người. Ðem cân công lý chỉnh đốn sự bất công của đời mà ai làm
đặng, tức là làm tròn phận sự đối với đời đó vậy. Các nền Tôn Giáo kia dành cầm
cân phân phát lẽ công bình ấy, chúng ta thấy Tôn Giáo nào mới sản xuất, họ có
định phận của họ rõ rệt, họ là bạn với những người khó, an ủi những người khổ
não, có nhiều khi chia từng miếng ăn, phát từ mảnh áo, tới chừng đặng quyền
trong tay rồi chính họ là người cầm cân công bình ấy không giữ địa vị, kẻ cầm
cân trở lại làm chúa cả thiên hạ, vì thế nên các nền Tôn Giáo ấy ngày nay mất
quyền.
Ðạo Cao Ðài sản xuất đem
công bình Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn để tại mặt thế gian nầy, Bần Ðạo ước ao
rằng: Cân Công Bình ấy sẽ còn tồn tại mãi mãi để chúng ta định phận chúng ta,
còn về quyền xoay chuyển do Ðức Chí Tôn quyết đoán. (Thuyết Ðạo QIV / 43)
* * *
11. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 29 tháng 7 năm Tân Mão ( 1951 ).
Lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần
Ðêm nay Bần
Ðạo thuyết cái lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần nầy, mỗi người chúng ta có một cái
thắc mắc, từ thử đến giờ con người bao giờ cũng tìm hiểu. Chúng ta thấy
ta có nơi cõi trần nầy không phải chúng ta muốn, có nhiều lý do làm cho chúng ta phải
tìm hiểu là cái định mệnh của chúng ta.
Chúng ta
không có làm chủ, dầu cho bực trí thức cao siêu thế nào chưa chắc mình làm chủ
định mệnh của mình đặng. Ôi ! Cái thắc mắc của đường đời, kiếp sống của chúng
ta, chúng ta đã thấy nhiều lý lẽ làm cho chúng ta phải uất hận, nhưng không biết
nguyên do thể nào loài người phải thọ lãnh, có nhiều kẻ uất
hận ấy không có phương thế giải quyết đặng, đến đỗi xô đẩy họ đến một phương pháp chót của họ
là họ tự sát lấy họ mà thôi.
Ðịnh mạng của chúng ta,
chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta phải sống ? Sống nơi cõi trần để làm gì ?
Khi biết được lý lẽ ấy,
chúng ta có phương thế an ủi được mà nếu chúng ta không biết lý do ấy, chúng ta
không biết sanh mạng của chúng ta hay là con người của chúng ta, giá trị sống
của nó do nơi đâu, thì không có phương thế nào an ủi được.
Có hai lẽ sống, hoặc ta
đến cõi thế gian nầy để trả nợ sống, bởi chúng ta trả nợ sống ấy mà chúng ta
mất hạnh phúc hưởng an nhàn cực lạc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, ta đến đây
trả nợ sống đặng đạt hạnh phúc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, cái lý do đầu
tiên hết. Hễ chiếu theo lý do ấy, chúng ta ở trong thế gian nầy do tại quả
kiếp. Lý do thứ nhì nữa là chúng ta đến đây đặng chia khổ cùng các bạn chúng ta
đã chịu khổ nơi cõi thế gian nầy, chúng ta đến đặng tìm bạn. Ðức Chí Tôn đã
nói:
Biết đâu trong cánh hoa
kia không phải là một vật mà là một chơn linh giáng kiếp, biết đâu trong vạn
linh, trong vật loại mà trong ấy lại không có người bạn yêu ái của ta vô cùng
vô tận nơi đó, bởi lẽ ta thiếu nợ sống chúng ta phải trả.
Ấy vậy, chúng ta phải trả,
đến đặng trả, tức nhiên ta đến đặng phụng sự cho vạn linh. Còn lý lẽ sau nữa,
nếu chúng ta đến tìm bạn thì phải xót thương họ nhưng không biết bạn ta là ai ?
Tới trong sự mơ hồ nên chúng ta không biết bạn chúng ta đã đến nơi nào ? Ở nơi
thân một đứa bé, ở nơi thân của người tôi đòi tàn tật, ở nơi người phụ nữ, ở
nơi thân của người nam kia mà đã bần hàn đói khó, hay là sống trong sang trọng
vinh hiển chúng ta không biết. Vì lẽ không biết ấy mà định lẽ sống của chúng ta
đặng phụng sự vạn linh. Văn minh Âu Châu người ta đã nói 'Chacun pour soi' tức
nhiên mỗi người mình lo cho mình duy có Trời lo cho cả thảy thiên hạ.
Mấy bạn đứng trong hàng
Thánh Thể Ðức Chí Tôn chúng ta thấy nam nữ, mấy đứa thư sinh nam nữ các em đã
đặng hạnh phúc ngồi trong lòng yêu ái vô tận vô biên của Ðức Chí Tôn, cả thảy
mấy em cùng nói: Tôi đến nơi lòng Ngài đặng tôi mong mỏi làm thế nào đặng đứng
địa vị phần tử Thánh Thể của Ngài, mà giá trị phần tử Thánh Thể của Ngài, tức
nhiên làm Trời tại thế gian nầy thay thế cho Ngài mà làm Trời, chúng ta thấy " thùy từ mẫn khổ " của Ngài
vô biên vô tận, từ thử đến giờ thùy từ mẫn khổ nó buộc ta rằng: Cái lẽ sống của
ta không phải sống trong hạnh phúc của ta, mà ta sống trong hạnh phúc của toàn
thể con cái của Ngài.
Nếu các bạn thấy mình đặng
mạnh mẽ hơn người em, người bạn của mình, tức nhiên Ðức Chí Tôn định cho cái
mạnh của ta, để đặng gánh vác sự nặng nề cho em cho bạn. Nếu chúng ta thấy
trong đầu óc của chúng ta có khôn hơn em ta, cái khôn của chúng ta ấy là Ðức
Chí Tôn ban cho để binh vực sự dại dột của nó, nếu chúng ta thấy chúng ta sống
trong vinh hiển thì chúng ta nói rằng Ðức Chí Tôn ban cho sự vinh hiển không
phải để dành riêng cho ta hưởng, mà ta có phận sự đem cái sang trọng vinh hiển
ấy chia cho cả toàn thể em, bạn của ta; lẽ sống của chúng ta là lẽ sống của
toàn thể, lẽ sống của chúng ta là để lau giọt nước mắt cho kẻ khổ não, lẽ sống
của chúng ta là nắm cho chắt Bình Cam Lồ Thủy của Ngài chan rưới cho đồng đều
đặng hưởng.
Ngày giờ nào trong phần tử
Thánh Thể của Ngài làm như thế ấy, thì tới ngày về nơi cõi Thiêng Liêng Hằng
Sống, tôi dám bảo kiết rằng: Cả thảy được gặp mặt Ðức Chí Tôn là ngày vui hứng
của mình, gặp được Ngài và cả thảy Thần, Thánh, Tiên, Phật đều mừng mà thấy
rằng Ðức Chí Tôn có hạnh phúc được bầy con chí hiếu của Ngài thay thế Ngài tại
mặt thế gian nầy, xứng đáng phận của Ngài đã định, ấy là lẽ sống của chúng ta
đó vậy.
Toàn thể con cái của Ngài
xin mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút đều để tâm thực hiện cho được 'Thùy từ mẫn khổ'
là điều mong mỏi của ông Cha vô hình chúng ta, đem tất cả sự yêu ái vô tận vô
biên và đại tạo đại từ bi của Ngài mà rưới chan nơi thế gian nầy. Giờ phút nào
trong tay của chúng ta phân phát cho đồng đều đó là lẽ sống của chúng ta hoàn
toàn đó vậy. Nếu chúng ta không biết phân phát để hao bớt đi thì cũng uổng một
kiếp sanh vô lối . (Thuyết Ðạo QIV / tr 46)
* * *
12. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ðêm 15 tháng 8 năm Tân Mão ( 1951 ).
Lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần ( tt
)
Ðêm nay Bần
Ðạo giảng tiếp lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần nầy, Bần Ðạo thuyết minh rằng: Chúng ta
có sanh tại thế, nguyên do tại sao và ta đang sống đây cả cái sống chung cùng
cái sống của vạn linh đặng làm gì ?
Bần Ðạo đã
thuyết về phương pháp, Bần Ðạo đã chỉ rõ rằng cái thi hài của chúng ta đồng sanh
với vạn vật là con kỵ vật của chúng ta đến cõi trần nầy đặng tìm bạn hay trả quả
kiếp của chúng ta, Bần Ðạo đã thuyết minh hai lần. Hôm nay thuyết hai cái lẽ
sống, vả chăng chúng ta đã đồng sanh cùng vạn vật tức nhiên chúng ta cũng có đủ
năng lực, đủ trí thức khôn ngoan để định phận bảo vệ sanh mạng của chúng ta và
ta phải nhìn rằng: Cái sống của chúng ta không khác cái sống của bạn đồng sanh
với chúng ta. Bần Ðạo nói, bạn đồng sanh của chúng ta không phải là nhơn loại mà thôi mà
cả vạn vật hết, bởi chúng ta thấy hiển nhiên trước mắt nơi cõi trần nầy,
chúng ta đã sống chung cùng họ và họ đã giúp cho ta sống, chúng ta đã thấy
trong khuôn khổ cái sống của đời tạo ra hai lẽ; Từ thượng cổ đến giờ, Bần Ðạo tưởng có loài người
tới giờ họ đã định tìm hai lẽ sống ấy, đặng họ quyết định họ sống với thái bình hay
sống với loạn lạc, hai lẽ sống ấy nơi mặt địa cầu nầy nhường sống thì thái bình,
tranh sống tức nhiên loạn lạc.
Nhường sống là gì ?
Chúng ta đã
hiểu rằng: Chúng ta đã chịu cùng một định luật chung sống với vạn vật, chính
mình ta phải tôn sùng kính trọng cái sống ấy, chúng ta phải liệu phương nào định cái
sống của chúng ta trong mực thước không phạm đến cái sống của vạn linh, tức
nhiên không phạm đến cái sống của kẻ khác, mà nói họ có phương pháp nhường sống
cho nhau.
Từ thử đến giờ các nhà
triết học, các đạo giáo tìm lý thuyết đạo đức tinh thần dầu cho Nho, Thích, Ðạo
hay là các Tôn Giáo khác chỉ có tìm mực thước bày ra phương pháp để tạo cho
nhơn loại biết kính trọng cái sống cho nhau tại mặt địa cầu nầy, làm một cái
định luật đặng họ biết cung kính, biết nhường nhịn, tức nhiên có hòa bình an
tịnh, được an ủi, được thỏa mãn, được hạnh phúc. Còn trái lại nếu như cái sống
của chúng ta đã khó khăn bởi chúng ta sống trong thuyết Tứ Diệu Ðề của nhà Phật
là sanh, lão, bịnh, tử, chúng ta đã thấy trường đời chẳng buổi nào tìm đặng
chơn hạnh phúc, cái sống ấy bảo tồn khó khăn lắm, nếu không có đạo đức làm
phương thuần tâm đặng định chí hướng của mình thì khó sống, tức nhiên cái khó
ấy giục cho người ta tranh sống, tấn tuồng đời chúng ta đã thấy, dầu cho cá
nhân, dầu cho xã hội, dầu cho toàn thể nhơn quần, họ chỉ vì cái tranh sống mà
tiêu diệt lẫn nhau, nếu chúng ta nói người biết nhường sống của người trong cái
khó khăn, mình phải có một tâm hồn cao thượng ái truất thương sanh, mới có
phương thế chúng ta chịu khổ có tâm đức nhượng sống cho kẻ khác.
Muốn cho đặng có tâm đức
ấy ít ra phải có đạo đức và lấy tinh thần làm căn bản, nếu bỏ tinh thần làm căn
bản là xu hướng về duy vật, chỉ chạy theo thuyết tranh sống với nhau mà thôi,
tranh sống thì cơ tận diệt lẫn nhau vẫn tiếp tục mãi mãi, chẳng hề buổi nào
nhơn loại trên địa cầu nầy trọn hưởng hạnh phúc hòa bình đặng.
Ấy nhượng sống cho nhau
thì tồn tại, mà tranh sống với nhau là tự diệt đó vậy. (Thuyết Ðạo QIV / tr 49)
* * *
13. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ðêm 15 tháng 1 năm Mậu Tý ( 24-2-1948 )
Thể chất và tánh đức các hạng khách trần
Hôm nay, Bần
Ðạo giảng về các hạng khách trần, thể chất và tánh đức của họ, cốt yếu để dìu
dắt cả thảy quan sát toàn thể Ðạo.
Ấy là phương hay để chúng
ta có thể quan sát được mỗi hạng khách trần, trọng hệ nhứt là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn
tức nhiên là Hội Thánh. Vả chăng, chúng sanh nhứt là nhơn loại, mỗi mỗi đều có
đẳng cấp Thiêng Liêng tùy theo sự tiến hóa của chơn linh của họ, dầu tánh chất
hay hình thể cũng tùy theo tiến hóa của chơn linh mà có riêng đặc tánh, riêng về hình thể của
họ chúng ta thấy phương pháp của cổ nhân xem tướng người đoán tánh chất, số mạng, cũng là
nương theo đó.
Các hạng khách trần, Bần
Ðạo duy nói về đẳng cấp và tấn hóa, nếu dám quả quyết, nói hẳn rằng : Mặt địa
cầu nầy có 2.700 triệu người mà buổi nầy khuyết điểm bao nhiêu không biết, số
ấy là trong thời thái bình. Trong 2.700 triệu nhơn sanh tức có 2.700 triệu tánh
đức, chúng ta không thể gì đoán xét được, nhưng chúng ta có thể chia khách trần
ra làm nhiều hạng :
Một hạng trước là hạng
trái chủ: nghĩa là hạng thiếu nợ, hạng thiếu nợ là gì ? Là những người gây ra
nhơn quả đã nhiều, luật nhơn quả để họ vô hàng cùng khổ của các chơn linh.
Hạng thứ nhì là hạng tác
trái: nghĩa là người đã cho vay.
Hạng thứ ba là hạng du học:
là các chơn linh đến mặt địa cầu tìm phương pháp đặng học hỏi, vì họ thiếu
thốn, đến đặng thâu hoạch cái phần thiếu kia cho hay biết nhiều thêm đặng tấn
hóa về chơn linh.
Hạng thứ tư là hạng ta bà:
du hí, du thực đến chơi rồi về mà cái hạng ấy ít lắm, nếu có đi nữa thì phần
nhiều chết yểu hết.
Còn một hạng nữa là hạng
Thiên Mạng: hạng Thiên mạng là hạng chơn linh cao cấp tức nhiên đã đạt phẩm vị
cao trọng, vâng mạng đến thi hành lịnh của Ngọc Hư Cung hay của Lôi Âm Tự.
Bây giờ Bần Ðạo mới chỉ rõ
hạng trái chủ là hạng thiếu nợ, Bần Ðạo quả quyết rằng nếu thấy họ ta đoán được
ngay. Cái thói nghèo hèn cùng khổ dầu đến đâu cũng ra nghèo hèn, rán làm sang
bao nhiêu cũng lộ cái nghèo hèn ấy, vì tánh đức họ hiện ra hình trạng xấu xa
cho đến cách ăn mặc cũng vậy; họ sợ thiếu nợ nhưng hại thay họ đã lo đêm lo
ngày, chạy tảo chạy tần lo sống đủ mọi phương diện, nhưng chẳng phút nào họ
được an hưởng tinh thần và tưởng tượng rằng mình có hạnh phúc. Có khi người
trái chủ ấy đầu kiếp một lượt thì họ có phương thế làm đặng trả là may duyên
cho họ lắm; nếu rủi người chủ trái không đến thì họ phải đầu kiếp mãi tìm cho
đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ, ấy là một phương pháp mà
các chơn linh hãi hùng sợ sệt hơn hết.
Tánh đức của họ là thường
lo cho mình được lợi mà thôi, nhưng không biết chừng nào đủ, đến đỗi trong ý
muốn làm có của cho lung, cho nhiều để dành ngừa đó cho có phương thế trả nợ,
sợ một điều là buổi muốn trả mà không trả nỗi. Tâm linh họ giục thúc như vậy,
họ hà tiện lắm, nhiều khi gặp được tình liên hữu với chơn linh nào mà họ gọi là
chủ trái đến, lạ lùng thay, đối với cả toàn thiên hạ không thương yêu ai, mà
nếu họ gặp người chủ trái ấy giục họ thương yêu, kính mến, chiều chuộng, bao
nhiêu của cũng đem dưng hết cho người ấy. Có nhiều khi không có của họ đem cả
thân sanh họ đặng đền trả nữa. Hạng thiếu nợ đặc biệt có tánh đức nhỏ nhen,
chắt mót, không tưởng đến ai khác hơn mình duy người chủ trái đến thì toàn cả
cơ nghiệp đều để lại cho người đó, dầu muốn dầu không, hay là không hay biết
cũng do tay người đó phá hoại hết sự nghiệp. Họ phát hiện ra có tánh chất buồn
bực quạu quọ, không yên tâm, cứ lo lắng bậy bạ nhứt là hình ảnh của họ cùng
khổ, bịnh hoạn luôn và thường chịu phận đê hèn. Ðó là hạng có quả kiếp.
Còn hạng chủ nợ có tánh
cách đặc biệt không biết lo gì hết, lơ lơ lửng lửng, ngày chí tối không biết
đợi ai trả nợ mà chắc mình có món nợ chúng sẽ trả, không lo gì cho họ cả, thả
lình bình du hí du thực, không biết gì ráo cứ ngơ ngơ ngửng ngửng, không động
tới ai mà cũng không làm nên gì cho ai; mà khi nào chúng ta thuyết đạo với họ
thì họ biết xu hướng, chịu nghe tưởng cái huyền linh nầy sẽ giúp mình đắc lợi
gì. Họ đi chùa, đi miễu cốt cầu danh, nghe nơi nào linh hiển, đem nhang đèn tới
cầu tài cầu lợi cho mình.
Hình ảnh của họ, gương mặt
bơ bơ mà lúc nào cũng tự tôn tự đại, mình là chủ nợ dầu nợ nhiều hay nợ ít cũng
là nhà giàu rồi và đặc sắc điều nầy là không sợ hao tài. Tánh chất sợ tội , sợ
quả báo mà không biết trọng mình, thoạt nghe đó, tin tưởng đó nhưng không phải
tin tưởng đạo đức mà chỉ tin nơi huyền linh đặng cầu khẩn mà thôi, lại có tánh
chất ngớ ngẩn, trong mình không có tiền thì thôi, nếu có tiền mà ai nói vừa
bụng thì móc ra đưa hết, có khi đưa rồi lại mắng người ta, đưa chẳng phải vì
thiệt tâm mà đưa. Tánh chất của người chủ trái là vậy đó.
Bây giờ nói đến hạng du
học, hạng du học bình thường cái gì cũng muốn biết, ham đọc sách vở kinh luật
nhưng chỉ đọc qua loa rồi bỏ, ưa kiếm hiểu, ưa tọc mạch hơn ai hết, cái gì cũng
muốn hiểu, cái gì cũng muốn biết, có khi nào họ mơ màng thì họ cũng muốn bỏ.
Hạng du học thì nhiều mà lạ lùng thay, phần nhiều không tín ngưỡng, học cao đến
đâu nếu đem đạo đức tinh thần mà nói, họ không biết gì hết, cứ cái chơn lý họ
tìm mãi mà thôi, chính mình họ, họ cũng chẳng biết họ là ai nhưng cũng là hạng
tự tôn tự đại lắm, họ quyết đoán trong óc họ rằng không ai hơn họ được, cho là
mình khôn hơn thiên hạ nên làm cao cách hơn ai. Gương mặt lúc nào đi cũng ngước
lên người ta gọi là mấy cậu ' trịch bồ lương' mà thứ đó lại nhiều hơn hết.
Hạng ta bà, nếu có thì
chúng ta thấy liền, không động tới ai, không nói tới ai, cái sống cái chết của
họ cũng không cần biết, họ thường ở theo các chùa hoặc lên núi, một cõi một
mình chịu thanh tịnh mà thôi, còn đi chơi tìm lên non núi. Ta thấy trong các
chùa chiền, họ bơ vơ dộng chuông, gõ mõ rồi nam mô lên nam mô xuống. Hạng ta bà
du hí nầy sống trên cõi trần nếu không vừa bụng thì thối lui về tức là chết.
Bây giờ các bạn muốn nghe
hơn hết là hạng Thiên mạng, hạng thiên mạng là hạng người không biết tầm lấy
cho mình, chỉ lấy của mình lo cho thiên hạ, không biết tôn trọng hình hài của
mình, chỉ tôn trọng thiên hạ bởi vì hạng thiên mạng cốt yếu tìm cả năng lực chỉ
đạo cho thiên hạ làm môi giới tinh thần, ấy là một phương pháp giải cứu cho đời
và bảo trọng nuôi nấng thiên hạ đó. Tánh chất như Lục Tổ bất động, bất trần,
bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều khi họ đến mà chưa có phận sự thì họ ngơ ngơ ngửng
ngửng như khùng như điên. Ấy là khi chưa đắc thế, thiên hạ kêu là ba trợn ba
nháng đó; một khi mà họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên hạ thay thế cho Thiêng
Liêng, vâng mạng lịnh Ðức Chí Tôn đến làm bạn với người đặng truyền Ðạo, thâu
con cái của Chí Tôn về một mối. Phần đó ta có thể xem xét được trong Thánh Thể
của Ðức Chí Tôn.
Mấy em nếu có gặp người
khùng khùng điên điên phải quyết đoán là họ còn đợi thời và họ chưa tới thời đó
mà thôi. (Thuyết Ðạo QII / tr 32)
* * *
14. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 8 tháng 1 năm Kỷ Sửu ( 1949 ).
Nhơn loại phải tìm phương thuốc trường sanh
Ngày nay là ngày lễ vía
Ðức Từ Phụ tức nhiên là Ðức Chí Tôn đó vậy. Ta thử xét 24 năm Ðạo Cao Ðài đã
khai mở, khai mở do nơi tay ai? Do chính tay của Ðại Từ Phụ đến mở đó vậy. Nếu
chúng ta nói rằng : Trót 24 năm Ðức Cha Lành của chúng ta đã chung sống với
chúng ta, tôi tưởng nếu chúng ta tưởng tượng việc ấy cũng không quá đáng.
Thử nghĩ cái hạnh phúc mà
chúng ta đã hưởng đặc ân của Ðức Cha Lành ấy, chúng ta xét lại coi Ngài đến
chung lộn với chúng ta để làm gì ? Bần Ðạo tưởng cả thảy con cái của Ngài đều
hiểu và quyết đoán đặng.
Ngài đến với một lời hứa
hẹn rất thiết yếu, mà chính Ngài đến đặng chuyển pháp xây cơ chuyển thế, Ngài
đã hứa quả quyết nhơn loại sẽ là một; một về nòi giống, một về xã hội, một về
tôn giáo. Lời hứa hẹn ấy nếu chúng ta không có đủ đức tin vững vàng, hay chúng
ta không quyết chắc cái tay quyền năng vô biên ấy có thể làm đặng, một người
nào, một Ðấng nào dám cả gan nói điều ấy. Chúng ta dám chắc cả thảy đều để dấu
hỏi nghi hoặc, nếu chúng ta nghi thì chúng ta phải kiếm thôi.
Bây giờ cả con cái của
Ngài xin lỗi với Ðức Cha Lành, rồi làm khách bàng quang tính thử cái lời ấy có
kết quả chăng ? Chúng ta đã thấy và dám chắc biết rằng không có một vật loại
nào, một tinh thần nào mà gầy dựng một cơ quan hữu hình trong càn khôn vũ trụ
mà ra ngoài quyền lực của vài điều ấy.
Chúng ta đã chán biết,
chúng ta bất quá là xin lỗi Ngài đặng làm kẻ phàm kia xét đoán thử coi ông Trời
nói vậy mà có thể làm đặng chăng cho biết. Làm bàng quang lấy lý trí đoán thử
coi lời hứa rất khó khăn, lời hứa rất trọng yếu, trong buổi nhơn loại đang
hoang mang, dở sống dở chết, có thể chúng ta cũng nên tọc mạch kiếm hiểu thử
coi, cả cơ quan chuyển thế ấy quả nhiên đặng, tức nhiên nó có ảnh hưởng tối
yếu, tối trọng của cơ huyền vi bí mật cứu khổ của Ðức Chí Tôn đó vậy.
Lạ chi chúng ta thấy vạn
vật hữu hình từ trong vật loại côn trùng thảo mộc. Cả thảy chúng ta không luận
về toàn thể của nó, dầu cho các phần tử trong vạn loại ấy nó có quyền năng tinh
thần đặc biệt của nó. Chúng ta thử đoán xét một vật vô tri vô giác, có thể
chúng ta tưởng tượng vật vô hồn vô giác là đá kia mà nó cũng còn có giá trị.
Thứ đá có ngọc, ngọc đó để định giá trị đặc biệt trong tông môn. Ngọc đó là
chúa của đá, chúa của đá ấy để làm gì ? Ðể làm giá trị của đá, để định giá trị
của đá.
Bây giờ nói đến loài kim
khí kể từ chì, kẽm, sắt dĩ chí cho tới bạc, vàng, cũng có vàng là chúa của kim
khí và có giá trị đặc biệt, đặng định giá trị của kim khí.
Trong vạn vật, Bần Ðạo
không cần nói nhiều, dầu cho loài người loài thú cũng thế. Thấy trong ổ kiến, ổ
mối hay ổ ong kia, chúng ta cũng thấy có con chúa, cả thảy đều phải tuân theo
con chúa ấy, nó có quyền năng tuyệt đối đặng định mạng của nó, vi chủ mạng sống
của nó, nó làm chủ xã hội nó, đặng nó định giá trị của loài ong, loài kiến.
Luận tới loài người, chúng
ta thấy toàn thể xã hội sự chê khen, nào là từ bỏ vương quyền, đế quyền, thì
nhơn loại cũng phải chịu dưới quyền thống trị nào mới tồn tại được. Nếu gọi dân
trị, thì cả thảy là dân đi, lập trường quan lại mà làm gì ? Thành thử đánh đổ
giai cấp là thuyết quái gở, lý thuyết dở sống dở chết. Chúng ta nhìn lại dầu
cho quốc gia xu hướng về dân trị đi nữa thì các vị Giám Quốc hay các vị Thủ
Hiến, quyền áp bức của họ còn hơn đế vương mà chớ, bất quá thêm duyên, thêm
tánh làm cho thiên hạ tin mình là lòe con mắt thiên hạ, không có chánh lý, sự
thật là gì hết.
Bây giờ trong xã hội nầy,
chúng ta thấy đảo lộn hai quyền hành khác nhau, đang tranh quyết nhau là quyền
hành đế chủ và dân chủ.
Nếu chúng ta lấy đầu óc
suy đoán thì hai cái như một, không cái nào hơn cái nào, cũng như một hình
bóng, một khuôn khổ với nhau, lấy công lý lòe con mắt của cơ quan trị thế. Dầu
cho là đế quyền hay dân quyền cũng là một phương pháp áp bức thiên hạ mà thôi,
bởi cân công chánh nơi mặt thế nầy không có, nếu có thì Ðức Chí Tôn không đến
ký hòa ước với nhơn sanh. Luật thương yêu mới có cân công chánh mà thôi, thành
thử chơn luật nơi mặt thế gian nầy cũng không có.
Ấy vậy, hiện giờ nhơn loại
đang kiếm gì ? Kiếm cân công chánh, kiếm luật thương yêu, kiếm ở đâu ? Luật
thương yêu ấy Chí Tôn đã ban bố mà nhơn loại chưa tìm được, nhơn loại đang khao
khát mà chớ. Quyền công chánh thì do nơi luật thương yêu mà có, quyền công
chánh nơi mặt thế gian nầy không có, dầu trong tay đế quyền hay dân quyền cũng
không có.
Ðức Chí Tôn, Ngài đến do
tay Ngài ký một hòa ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài
nĩ xin cho đặng hai điều trọng yếu làm cho nhơn loại đặng sống tồn tại là luật
thương yêu và quyền công chánh.
Ngài đã ký, Ngài đã hứa
với Thánh Thể của Ngài, tức nhiên là cả quốc dân nầy, đặng tạo ra hình ảnh luật
thương yêu, nếu cả quốc dân Việt Nam lấy quyền công chánh làm thành tướng ra,
rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm môn thuốc cứu sanh mạng của nhơn
loại đó vậy.
Bần Ðạo và toàn con cái
của Ngài nhờ phương thuốc của Ngài mà tạo ra cửa Ðạo Cao Ðài đó vậy. Giờ phút
nầy phải thật hành không thế gì không thành, mà nó sẽ thành hình trong nầy thì
chúng ta thấy ở ngoài toàn cầu, vạn quốc đều thay hình, đổi dạng, đổi cả chơn
tướng của nó cho phù hạp và đủ phương thế thọ hưởng huờn thuốc cứu sanh của
Ngài. Tức nhiên toàn cầu xu hướng, làm cho nhơn loại thống nhứt lại làm một,
chúng ta thấy bằng cớ rõ ràng trận giặc thứ nhứt cả vạn quốc đều xúm nhau đặt
tên Hội vạn Quốc Liên Minh, rồi trận giặc thứ nhì nầy, vạn quốc cũng chưa bỏ nó
và còn kiếm phương thế tăng cường nó nữa. Hỏi vậy, Vạn Quốc Liên Minh là gì ?
Là cơ quan hiệp chung nhơn loại làm một vậy.
Ðức Chí Tôn nói: " Nhơn loại sẽ một về nòi giống, một xã
hội, một về tôn giáo."
Tôi tưởng không xa đó vậy.
Tại sao Ðức Chí Tôn phải làm phương thuốc ấy đặng chi ? Ðặng đưa cho họ uống,
đặng họ phục sanh lại, không thôi họ sẽ đi đến con đường diệt vong của họ vậy.
(Thuyết Ðạo QIII / tr 16)
* * *
15. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm mùng 1 tháng 2 năm Canh Dần ( 1950 )
Nhơn loại phải biết yêu ái nhau
Ðêm nay Bần
Ðạo đem sự sưu tầm hạnh phúc của nhơn loại sẽ đưa đẩy mình đến đâu.
Mỗi 15 ngày
mới tới kỳ đàn, mỗi kỳ đàn cúng rồi cả thảy đều mệt, cúng thường có trong 1 giờ
rưởi hay 1 giờ 40 phút nên thường lệ lên giảng đạo Bần Ðạo tìm thế thúc nhặt
gói ghém lại nhưng trong thời gian ngắn ngủi không thế gì thuyết minh nhiều vấn
đề trọng yếu.
Nói thật có
nhiều vấn đề giảng mà Bần Ðạo viết thành quyển sách sưu tầm sự sống của nhơn
loại nơi mặt địa cầu nầy, kiếp sống của họ, chúng ta thử hỏi họ có tìm hạnh phúc
đặng chăng? Không thế gì đặng. Có tìm đặng chăng chỉ tìm với cái bóng dáng mà
thôi, chớ không khi nào tìm đặng.
Nơi thế gian
nầy có hai lẽ :
1. / Là tìm
với bóng dáng thì sẽ đưa đẩy đến con đường tận diệt.
2. / Là tìm
hạnh phúc đi đến đại đồng thế giới.
Chúng ta thử
nghĩ theo triết lý nhà Phật có nói rằng: Khi chúng ta mang xác phàm đến thế
gian nầy, chúng ta chịu trong vòng thúc phược của tứ khổ, khi chúng
ta khổ, chúng ta mong mỏi tìm hạnh phúc nhưng hạnh phúc đâu mà kiếm.
Bần Ðạo nói thật hạnh phúc
của nhơn loại tìm bây giờ chỉ là mơ mộng, tìm chẳng khác nào tìm cá trên ngọn
cây. Giá trị của nhơn loại thử trong cảnh khổ của họ tìm, Bần Ðạo không chối là
do sự cố gắng miệt mài của họ đã đo được bước đường tấn hóa, họ đạt đến thời
đại văn minh, thời kỳ nguyên tử lực, họ bay lên Trời được, lặn xuống nước được,
họ có thể tiêu diệt trái địa cầu nầy được, họ muốn làm thế nào do cách vật trí
tri của họ giúp họ phương pháp hóa học tạo ra máy móc, như bay lên Trời thì có
máy bay, chun xuống nước thì có tàu lặn, muốn chạy mau phải có chiếc xe máy,
các điều ấy phải có tiền mua sắm mới được, mà muốn cho có tiền thì phải làm mới
có đặng sắm, khi có tiền muốn bay lên Trời hay xuống nước cũng được, có tiền
thì dễ như không.
Coi lại như lời Ðức Chí
Tôn khi lập Thiên Chúa Giáo để lại trong sám truyền: " Các ngươi hãy sống, có thể sống với giọt mồ hôi nước mắt của các
ngươi."
Muốn tìm hạnh phúc phải
làm cho có tiền, nhưng tiền là mồ hôi nước mắt của nhơn loại thì nó xô đẩy nhơn
loại vào trường tranh đấu náo nhiệt, tranh đấu cho sự sống còn của họ. Chúng ta
thử nghĩ, rồi can đảm nhìn nhận kiếp sống của chúng ta từ khi mẹ đẻ tới giờ,
chúng ta đã có hạnh phúc buổi nào chưa ?
Chúng ta thấy cái khổ của
nhơn loại chẳng khác nào kẻ kia mang mụt nhọt đau nhức sợ quá, rồi rờ mãi, mà
sợ mãi đau vẫn còn đau, có ai can đảm nặn mụt nhọt cho đau thử coi. Không có.
Nơi mặt địa cầu nầy chưa ai dám làm, vì mình khổ cần tìm giải pháp nào đặng trừ
cái khổ.
Bởi vậy trường chiến
tranh, hạnh phúc náo nhiệt ấy là tranh sống ; tranh sống vì hạnh phúc giả, họ
phải đổi giọt mồ hôi nước mắt của họ, nên trong khi đổi chọn phải tranh đấu,
náo nhiệt đương nhiên giờ nầy là trường tranh đấu, tranh đấu đặng tìm cái hạnh
phúc giả ấy.
Chúng ta tìm thấy đương
nhiên bây giờ có hai thuyết:
1. / Cộng sản
2. / Tư bản.
Ðang tranh đấu nhau, một
đàng thấy họ tìm hạnh phúc họ vì các của cải sẵn có, họ muốn lên Trời, xuống
nước tìm hạnh phúc, họ bay lên Trời được xuống nước được, nên họ đánh họ giết.
Một đàng thì nói tao có làm tao mới sống hạnh phúc, tao có thì tao hưởng. Họ
đang chiến đấu nhau vì hai thuyết ấy, mà tranh đấu là giặc giã, tức nhiên là cơ
tự diệt, họ gớm, họ ghê, sợ giặc lắm, giờ phút nầy cho đến nhà binh cầm vận
mạng quốc dân họ cũng sợ chiến tranh sẽ tới, bởi chiến tranh không phải như hai
trận chiến vừa qua, mà nó chiến tranh bằng bom nguyên tử và khinh khí, không
phải vì sự sống mà họ sợ họ chạy đi sưu tầm hạnh phúc giả nên họ chiến đấu mãi
thôi. Mà sợ chiến tranh họ mới kêu gọi hòa bình, tìm kiếm hòa bình với đường
tên mũi đạn của họ đặng họ sống, mâu thuẫn làm sao. Họ sợ chiến tranh mà tức
nhiên họ tạo chiến tranh.
Ban đầu họ sợ, họ tìm phải
có hòa bình, bởi hòa bình là phương sống còn. Nếu chiến tranh là tự diệt của
họ, họ mơ mộng kiếm hạnh phúc để sống, họ nhè đẩy vào hạnh phúc giả cho chết.
Nên họ tìm lập vào hội Vạn
Quốc Liên Minh..v..v... giờ phút nào cũng vậy, tấn tuồng xảo trá mạnh đặng yếu
thua, khôn còn dại mất vẫn còn diễn mãi, sự chơn thật đâu thấy mà hòa bình thế
giới, nếu các nước yếu ớt toàn mặt địa cầu nầy đừng bị cái ách thâu chiếm thì
mới có thể hòa bình trở lại.
Như hai trận đại chiến xảy
ra xô đẩy nhơn loại vào đường tàn sát nhau ghê gớm. Bây giờ họ muốn kiếm phương
thế đặng dung hòa hai thuyết ấy:
Một đàng thì nói phải vô
sản, với đẳng cấp bảo vệ hòa bình cho thiên hạ mới đi đến đại đồng thế giới.
Một đàng nói: Phải thực
hiện hạnh phúc nhơn loại với sức mạnh làm ra của cải, phú hữu, tứ hải phương
pháp giành giựt cướp bóc.
Hai thuyết ấy đang chiến
đấu nhau giờ nầy. có điều ngộ nghĩnh sẽ tới trước mắt ta, lạ lùng thay ! Huyền
vi mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn, Ngài để cho quốc dân Việt Nam hát một tấn tuồng
dị hợm. Giờ phút nầy là giờ phút chúng ta đang giải ách nô lệ, ta có thể nói
nước Việt Nam đã đứng ngang mặt với vạn quốc.
Hại thay ! Nước Việt Nam
chúng ta lại là một trường chiến địa của hai khối sẽ đối chọi nhau, hai khối ấy
đang gầm hét nhau nơi địa giới Việt Nam.
Thử hỏi nó sẽ làm nơi
chiến địa cho vạn quốc không? (Bần Ðạo nói ra thiên hạ sẽ cho Bần Ðạo là mê tín
dị đoan ). Bần Ðạo nói : Nếu như nòi giống Việt Nam đối với các sắc dân họ biết
bảo vệ sanh mạng họ trước đã, đặng họ làm kiểu vở cho vạn quốc bắt chước theo,
may ra Chí Tôn gồm vạn quốc để trước mắt dân Việt Nam sẽ có bí ngôn nói với họ
rằng:
Cả toàn thể nhơn loại tìm
hạnh phúc đều là giả, cả phương pháp của các người đều trật hết, duy có phương
pháp vô đối là: Giờ phút nào nhơn loại biết yêu ái hòa bình, biết lấy thân mình
giúp thân nhơn loại, lấy thân mình giúp lẫn nhau, hạnh phúc mới có thiệt tướng.
Còn những phương pháp của
các người thi thố như giọt nước mưa rơi xuống. Vì giả dối với nhau thì không
thể nào tìm hạnh phúc cho ra đặng. (Thuyết Ðạo QIII / tr 72)
* * *
16. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 11 năm Tân Mão ( 1951 ).
Quyền lực đạo đức nhơn nghĩa
Ðêm nay Bần Ðạo giảng về
cái quyền lực đạo đức nhơn nghĩa. Chúng ta đã hạnh phúc nhờ Ðấng Ðại Từ Phụ đã
đến chung hiệp cùng chúng ta và giao phó cho chúng ta một cái sứ mạng thiêng
liêng là làm thế nào cho cả toàn thể con cái của Ngài, tức nhiên là vạn linh
hiệp đồng làm một cùng nhau. Vì cớ cho nên Ngài đã dạy cho ta hiểu rõ cả cái
thể tạo đoan, cái quyền lực thiên nhiên Ðại Từ Phụ đã vạch rõ cho chúng ta thấu
hiểu, thấu đáo đặng huyền vi mầu nhiệm ấy, sao là sanh, sao là tử, sao là còn
sao là mất? Chúng ta đã hiểu rõ rằng:
Cuộc thế nầy nó ở trong
khuôn luật tiến triển buộc vạn vật và các đẳng linh hồn phải tiến triển mãi
thôi, cơ thể tiến triển của nó muôn hình ngàn tướng đạo pháp vô biên, chúng ta
chẳng vì lẽ ấy, vì lẽ cơ thể tiến triển của nhơn loại hay là các xã hội nơi mặt
địa cầu nầy mà tủi phận.
Chúng ta lấy làm hãnh diện
rằng: Ðối với Cao Ðài cả cơ thể của Ðạo không có chi là lạ, không có làm cho họ
ngạc nhiên chút nào hết, bởi họ đã hiểu thấu huyền vi mầu nhiệm sống chết còn
mất của họ, nếu lấy đạo đức làm căn bản bảo sanh cho họ, thì chúng ta bất quá
giống như kẻ bàng quang kia vì thấy một nhơn vật họ không biết cái sống của họ,
họ chưa định giá trị kiếp sống của họ hay là phương sống của họ. Chúng ta để
lòng khuyên nhủ dìu dẫn vậy thôi, còn nên đặng hay hư của họ vốn là chuyện
chúng ta không có thể gọi rằng trọng hệ cho lắm, đạo đức nhơn nghĩa giá trị thế
nào mà thiên hạ lại không ngó thấy rõ, hiểu cho thấu đáo, biết tận tường giá
trị của nó thế nào đặng lợi dụng lấy nó làm cái phương sống của mình. Trên xã
hội nhơn quần nơi mặt địa cầu nầy, xét ra thì họ bỏ cái quí mà họ ham cái
khinh, họ biết rằng: Trong kiếp sống của họ muốn bảo tồn cho đặng thì không thế
gì họ xa đặng đạo đức nhơn nghĩa. Từ thượng cổ đến giờ, dầu cho cá nhân, dầu
cho xã hội, dầu cho toàn thể nhơn quần, hỏi nếu họ muốn sống cho yên, cái sống
của họ đặng hạnh phúc, cái sống của họ bền bỉ, ta thử để dấu hỏi : Họ có xa
được đạo đức nhơn nghĩa hay chăng ?
Nói vậy cá nhơn chẳng cần
gì luận tinh thần, hành vi quân tử, trượng phu, ta tỷ lại một kẻ tiểu nhơn, kẻ
tiểu nhơn hèn tiện kia, hỏi muốn bảo vệ cái sống của nó, nó có buộc mình phải
giữ đạo đức nhơn nghĩa hay không chớ ? Dầu cho nó thiệt hay giả, đạo đức nhơn
nghĩa thiệt hay giả, nó cũng phải nương đạo đức nhơn nghĩa mà sống. Tỷ xưa, lấy
cái tỷ xưa kia so sánh, Bần Ðạo nói cái năng lực của Ðức Khổng Phu Tử, Ngài có
một người học trò là Nguyên Hiến, Nguyên Hiến là một người thế nào, mà lại có
một người em tàn bạo hung ác là Ðạo Chích ( ăn trộm ), Thầy Nguyên Hiến khẩn
cầu Ðức Khổng Phu Tử giáo đạo dùm em. Ðức Khổng Phu Tử gặp Ðạo Chích, Ngài luận
Tam Cang Ngũ Thường, Ngài nói nếu con người đã sanh ra dưới thế nầy mà thiếu
Tam Cang Ngũ Thường thì không đáng làm người. Ðạo Chích trợn mắt hỏi:
- Sao Ngài biết rằng tôi
không có Tam Cang Ngũ Thường ? Tôi có đủ chớ, tôi gom toàn thể lâu la lại, làm
chủ trại của nó, làm Sơn Vương của nó không phải có Quân hay sao ? Chúng nó
phụng sự tôi, hễ lớn thì đồ vương định bá, còn nhỏ thì làm tướng cướp, nó phụng
sự tôi là vị Thần, như vậy mà không có Quân, Thần sao ? Ðứa nào, nội bọn cướp
đây lại không có đủ con vợ tức nhiên thê nhi của nó.
Luận đến Nhơn, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín, lấy của kẻ giàu đặng nuôi nấng kẻ nghèo không phải nhơn sao ? Nghĩa,
biết đồng sanh đồng tử với nhau, mới hiệp quần cùng nhau lập đảng cướp của người
không nghĩa sao ? Trí, biết của người ta để nơi nào mà lấy không phải là trí
sao ? Tín, ăn đều chia đủ, mỗi lần giựt của rồi ăn chia đều đủ không phải giữ
tín với nhau hay sao ? Nếu chúng tôi không có giữ trọn vẹn với nhau như thế đó
không thể giữ đảng cướp của chúng tôi còn tồn tại. Kẻ cướp của thế gian nầy là
Ngài chớ: Ngài lấy ba tấc lưỡi của Ngài, không cày có ăn, không dệt có mặc, kẻ
cướp là Ngài có phải tôi đâu ( nó có thể lấy nhơn nghĩa của nó tạo nghiệp được
).
Luận xa hơn nữa, thiên hạ
tưởng cái võ lực của họ là hơn hết, nếu võ lực quả nhiên bảo thủ cái sống của
họ còn tồn tại, thì Sở Bá Vương kia, nào bạo Tần nọ, hỏi cái nghiệp của họ còn
bền bỉ hay chăng, nếu không có thượng cờ nhơn nghĩa thì cái nghiệp Hớn không
còn tồn tai tới 800 năm, không có thượng cờ nhơn nghĩa thì nhà Châu chưa hề
cướp đặng cái Ðế Vị của nhà Trụ. Lấy nhơn nghĩa mà luận thế gian nầy, giờ phút
nầy, dầu cho liệt cường nào họ cũng phải dùng màu nhơn nghĩa đứng trước thiên
hạ, đặng làm bá chủ thiên hạ họ cũng phải mượn màu nhơn nghĩa, chúng ta đã ngó
thấy hiện tượng.
Ấy vậy, đạo đức nhơn nghĩa
là cái huờn thuốc sống của kiếp sanh nhơn loại, dầu cho cá nhân, dầu cho xã
hội, dầu cho toàn thể nhơn quần cũng vậy, nếu họ bỏ đạo đức nhơn nghĩa tức
nhiên họ tự diệt lấy họ, họ tự kêu án tử hình lấy họ. Chúng ta thử để mắt coi
cái con đường của nhơn loại họ tàn ác khởi dậy quá lẽ tưởng tượng, hung bạo ấy
nó sẽ đi đến mức nào cho biết ! Nếu nó còn đi tới nữa sẽ tự diệt, nhơn loại sẽ
bị tự diệt, mà nếu muốn sống còn của nó.
Bần Ðạo nói quả quyết rằng
: Nó phải trở lại, sống trở lại với đạo đức nhơn nghĩa mới bảo tồn sanh mạng
đặng. (Thuyết Ðạo QIV / tr88)
* * *
17. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ngày 14 tháng 9 năm Tân Mão ( 14-10-1951 )
Cái chơn
hạnh phúc của kiếp sanh chúng ta
Ðêm nay Bần Ðạo giảng cái
chơn hạnh phúc của kiếp sanh chúng ta thế nào ? Và chúng ta gặp nó tại nơi đâu
?
Chúng ta đã chán biết rằng:
Ta sống nơi thế nầy chẳng hề buổi nào gặp được chơn hạnh phúc, vì nếu chúng ta
gặp nó một cách dễ dàng thì dám chắc thuyết Tứ Diệu Ðề của Ðức Phật Thích Ca
không có giá trị chi hết.
Sống nơi cảnh khổ mà tìm
hạnh phúc khó lắm, hạnh phúc ấy có hay chăng, Bần Ðạo để dấu hỏi ? Có chớ !
thật ra nếu chúng ta biết tìm nó cũng có thể được.
Chúng ta thấy trước mắt
dầu cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy họ đã khác tánh đức, tinh thần,
tâm lý với nhau, cái gì cũng khác hết, chỉ có cái cười cái khóc là giống nhau
mà thôi. Tại sao cái cười cái khóc của con người lại giống nhau ? Cười ấy phải
chăng là tượng trưng cho hạnh phúc. Khóc phải chăng là tượng trưng cho đau khổ
của loài người.
Bần Ðạo nói đây chỉ có cái
cười giả dối là cười thì cay đắng như ớt, gừng, cũng có cái khóc giả dối là
khóc cũng có nước mắt, nhưng cái khóc của họ là khóc giả dối mà thôi. Bần Ðạo
nói cười thế nào mới tượng trưng hạnh phúc, dầu hạnh phúc đó như ngọn gió
thoảng qua, như giọt sương đầu cỏ, còn khóc thế nào mới đau đớn và quả quyết
thống khổ ? Chúng ta đã thấy kiếp sống của chúng ta khóc nhiều mà cười ít. Thử
hỏi một kiếp sống của chúng ta có thú vị hay chăng ? Xin trả lời:
Từ lọt lòng mẹ dĩ chí ngày
chung qui chúng ta chỉ hưởng được hạnh phúc bóng dáng mà thôi, chớ chẳng hề khi
nào chúng ta hưởng được chơn hạnh phúc.
Ấy vậy, chơn hạnh phúc của
ta, ta có thể tìm nó được, tìm nó ở trong cái cười hạnh phúc của các bạn đồng
sanh với ta nhưng họ ở trong cảnh khổ thì làm sao họ có cái cười hạnh phúc được
? Chúng ta phải làm thế nào cho họ hưởng được hạnh phúc, mặc dầu hạnh phúc ấy
mảy mún ( mảy mún là phần vụn vằn ) chúng ta phải làm thế nào cho họ có cái
cười hạnh phúc ấy, chúng ta lúc nào cũng muốn cho họ hưởng được mãi mãi hạnh
phúc, tuy hạnh phúc ấy chỉ thoảng qua như gió thổi hay một đám sương sa mà có
hưởng còn hơn không có chi hết.
Khi chúng ta thấy người
bạn đồng khổ của chúng ta hưởng được điều chi của ta đã làm cho được hạnh phúc
vui vẻ, cái đó phải chăng là hạnh phúc của ta đây.
Hại thay ! Ðâu có người
nào có cái tâm yêu ái vô tận vô biên hy sinh mình đặng tạo hạnh phúc cho kẻ
khác, họ chỉ thấy cái khổ của họ và họ chỉ tìm cách đạt cái hạnh phúc giả dối
của họ mà thôi, họ dám lấy cái khổ trọn kiếp sanh mua trận cười giả dối, họ
chưa biết lấy khổ nhọc của đời thiệt hiện một trận cười hạnh phúc cho bạn đồng
sanh của họ, thảng như chúng ta thấu đáo triết lý ấy chúng ta nên để cái trí
não tinh thần, chúng ta hy sinh tạo hạnh phúc cho con cái Ðức Chí Tôn tức nhiên
tạo hạnh phúc toàn thể nhơn loại thì cái hạnh phúc mà họ hưởng mỗi người đó có
thể tổng số lại làm cái hạnh phúc lớn cho ta chớ có mất đâu.
Hại thay ! Nhơn loại chỉ
vì tranh sống, thay vì họ gieo rắc trong tâm hồn bạn đồng sanh của họ cái cười
hạnh phúc ấy, trái lại họ chỉ làm cho đổ lụy mà thôi, cái suối cửu tuyền kia
nếu chúng ta thấy được cái suối cửu tuyền là nước mắt của nhơn sanh đã thống
khổ, thì dám chắc rằng kiếp sanh của chúng ta không có hạnh phúc gì hết. Chỉ
giành cái sống mà tạo khổ cho nhau, chớ chưa hề biết hy sinh mình đem cả tâm
hồn bác ái từ bi vô tận vô biên đặng tạo hạnh phúc cho người, làm nên cho
người, họ chỉ giành hạnh phúc ấy, mà hưởng được hay không, không biết, cứ giành
để mà hưởng cái hạnh phúc giả dối mà thôi. Nếu thế họ chẳng hề buổi nào hưởng
được chơn hạnh phúc.
Bần Ðạo đã nói hôm nay con
cái của Ðức Chí Tôn, nam nữ cũng vậy, sẽ có hạnh phúc. Bần Ðạo nói quả quyết
điều ấy, Bần Ðạo để lời hỏi, tỉ như ngày giờ nào con cái Ðức Chí Tôn hoàn toàn
thay thế hình ảnh cho Ngài, dám hy sinh mình đem lòng thương yêu vô tận vô
biên, tạo hạnh phúc cho nhơn loại. Ðể dấu hỏi ? Cả thảy con cái Ðức Chí Tôn suy
gẫm. Bần Ðạo thú thật những người tạo hạnh phúc cho gia đình, gầy con cháu tông
đường sum hiệp lại với nhau gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc ấy bền vững hay chăng ?
Không bền vững được, chỉ như ngọn gió thoảng qua mà thôi. Biết bao nhiêu gia
đình ở mặt thế gian nầy sang cả, mà họ hưởng được cái thiệt hạnh phúc hay chưa
? Bần Ðạo nói: Họ hưởng đặng tạm thời trong giây phút mà thôi.
Bây giờ kiếm nó nơi đâu mà
có ? Chúng ta chỉ hưởng được là giờ chót, giờ hấp hối của chúng ta đó thôi. Nếu
chúng ta còn trí lự , còn sống sót trong 5 phút thấy cả cái sống của kẻ đồng
loại không còn đau khổ thì cái chết của ta mới thiệt là hạnh phúc. Bởi chúng ta
có thể đến trước mặt Ðức Chí Tôn mà nói rằng:
- Thưa Thầy, con đã làm
tròn bổn phận của con đối với Thầy, Thầy muốn con thay thế hình ảnh cho Thầy
đặng tạo hạnh phúc cho con cái của Thầy, con đã làm đặng.
Rồi day lại nói với các
bạn đồng sanh của chúng ta rằng:
- Nầy các bạn, tôi xin
kiếu từ các bạn và trông đợi các bạn.
Lúc nào tâm hồn tôi cũng
rung chuyển cho mấy người, giờ phút nầy tôi còn trông mong nơi cảnh Thiêng
Liêng Hằng Sống kia, là nơi chúng ta hưởng được hạnh phúc thiệt thọ với nhau,
tôi mong các bạn đến đó đặng tạo dựng một hạnh phúc lâu dài. Tôi xin đợi mấy
người tại chỗ đó . (Thuyết Ðạo QIV / tr 73)
* * *
18. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 30 tháng 9 năm Tân Mão ( 1951 ).
Kiếp duyên kiếp quả của chúng ta
Ðêm nay Bần
Ðạo giảng kiếp duyên kiếp quả của chúng ta, chúng ta phải hiểu nghĩa kiếp duyên
là gì ? và kiếp quả là gì ? Chúng ta biết đương nhiên kiếp sanh của chúng ta
bây giờ đây ở trong cái tình trạng nào ?
Kiếp quả
theo chơn lý của nhà Phật đã nói rõ rằng : Cái nhơn quả của ta nó làm cho
chúng ta sanh nơi cõi trần nầy, chúng ta có xác thịt thi hài làm người nơi mặt địa
cầu nầy do nơi nhơn quả của chúng ta mà ra, đã mang căn kiếp số
đương nhiên của chúng ta, do nơi nhơn quả của tiền kiếp, tức nhiên kiếp trước,
rồi cái kiếp tương lai, cái kiếp sắp tới của chúng ta do nơi nhơn quả của kiếp
bây giờ, chúng ta đã đào tạo ra nhân, bởi chúng ta đã đào tạo ra nhân mới
sanh ra quả, mà có quả tức nhiên chúng ta phải tái kiếp đặng đền cái quả ấy.
Gọi là kiếp quả.
Bây giờ kiếp
duyên là chúng ta có làm đầy đủ phận sự trong kiếp sanh trước của chúng ta trọn
vẹn nhơn đạo, trọn vẹn cái đạo làm người của chúng ta và đã gieo cái tình ái vô
biên trong tâm thần của bạn đồng sanh của chúng ta, ta đã thi ân cho họ, ngày
giờ nầy ta đến cho có mặt đặng cho họ trả cái quả kiếp của họ. Gọi là kiếp
duyên hay là cái căn tu của chúng ta đã đạt đến một địa vị Thiêng Liêng của
chúng ta gọi là siêu thoát, thì ta tái kiếp đặng mà đạt cái phẩm vị ấy nơi cõi
nầy, tại mặt địa cầu nầy. Ðó là chúng ta đã đào tạo cái nhơn duyên của chúng ta vậy.
Trong cái kiếp duyên của
chúng ta có cái kiếp ngộ Ðạo là hạnh phúc hơn hết và trọng hệ hơn hết, mà chính
cái ngộ Ðạo ấy chúng ta có thể may duyên đến hội hiệp cùng Ðại Từ Phụ, tức
nhiên vào ngồi trong lòng của Ðức Chí Tôn vậy. Cái kiếp duyên cao trọng hơn hết
là đấy.
Bần Ðạo nói rõ, mấy bạn
yêu ái của chúng ta đang ở trong lòng thương yêu vô tận của Ðức Chí Tôn, nhập
trong cái đại gia đình Thiêng Liêng của Ngài. Ngài đến nơi mặt địa cầu nầy là
để cái dấu chơn của Ngài trên cái Cao Ðài nầy, đặng Ngài làm cái dấu hiệu cho
toàn thể con cái của Ngài đã hữu duyên gặp đặng Ngài, đó là nơi hội hiệp của
nó, nghĩa là chúng ta ngày hôm nay ngồi trong cái Ðền Thánh nầy, tức nhiên
trong một cái cơ thể tượng trưng lòng yêu ái vô tận của Ðức Chí Tôn, nó không
phải tình cờ mà được vậy, chúng ta chung hiệp với nhau ngày hôm nay trong lòng
yêu ái của Ngài nơi Ðền Thánh nầy không phải do nơi cái may mà ra, mà chúng ta
đã đạt đặng một kiếp duyên của chúng ta, hội hiệp cùng nhau chung cả hạnh phúc
của chúng ta làm một khối Thiêng Liêng vô đối trong lòng yêu ái vô tận vô biên
của Ðức Chí Tôn, đặng cầm cái quyền năng yêu ái ấy rải khắp cho toàn thiên hạ
được hưởng, nghĩa là chúng ta có cái duyên phận đến đặng thọ cái mạng lịnh của
Ðức Chí Tôn phụng sự con cái của Ngài, cái phụng sự ấy là để tạo kiếp duyên cho
họ, cũng như ta đã được may phước ngộ Ðạo gặp Ngài nơi thế nầy.
Vị Thanh Tâm tài nữ trước
kia vì tình mà chết, nên phải đầu kiếp, trước khi người đến tại nước Anh, người
có đến đặng từ biệt chúng tôi, buổi ấy chúng tôi hỏi :
- Sao lại đến nước Anh,
chớ không đến nước khác?
Thanh Tâm tài nữ nói:
- Nhơn duyên của em nơi
đó, em cốt yếu đến nước Anh đặng đón đường Ðức Chí Tôn đi ngang qua đấy.
Thanh Tâm tài nữ làm như
vậy là :
"Phải đủ căn sanh mới thấy Trời,
Ai ơi đừng tưởng dễ như chơi.
Nghe danh tuy chất chồng bên gối,
Cổ Phật không duyên khó gặp Người."
Bần Ðạo nói thật, mấy bạn
nam cũng thế, nữ cũng thế, đang chung hiệp cùng nhau nơi đây, cái buổi hạnh
phúc của chúng ta là buổi nầy "Bá
thiên vạn kiếp nan tao ngộ" không phải dễ mà gặp. Ta đã gặp đặng tưởng
chắc nếu chúng ta hiểu rõ giá trị của nó, thì cái kiếp duyên của chúng ta đây
dầu có của phú hữu tại mặt địa cầu nầy, cái danh giá cao trọng như thế mấy, cái
hạnh phúc sang trọng thế mấy cũng xa cái giá trị của kiếp duyên như Trời với
vực.
(Thuyết Ðạo QIV / tr 78)
* * *
19. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Ðêm 30 tháng 2 năm
Giáp Ngọ ( 1954 )
Cái thật & Cái giả
Ngày mai nầy
là ngày Lễ của Ðức Cao Thượng Phẩm, Bần Ðạo xin toàn thể con
cái Ðức Chí Tôn lưỡng phái có mặt đông đảo dự lễ đặng làm cho Chơn Linh của Người được vui
mừng.
Ðêm nay Bần Ðạo giảng cái
thiệt và cái giả của quyền lợi giữa thế kỷ 20 nầy mà cả toàn thể nhơn loại đã
bị khuẩn bách về tinh thần. Thật sự, từ thượng cổ đến giờ, không có buổi nào
nhơn loại không bị thống khổ tinh thần như hôm nay vậy.
Giờ phút nầy nơi mặt địa
cầu nhơn loại đã tăng lên quá độ, chẳng còn như buổi thượng cổ kia, nếu ta lấy
dân số từ thế kỷ thứ ba cho đến ngày nay thì ta thấy nó gấp đôi, bằng hai buổi
nọ, vì cớ sự sanh sống của nhơn loại trở nên khó khăn, trường hợp tranh sống
của họ càng thêm náo nhiệt. Ta thử nghĩ một quốc gia đã sanh ra trong đời, con
người muốn lập thân danh của mình là một điều rất khó.
Chúng ta đã ngó thấy hạng
lê thứ vẫn nhiều, mà hạng thượng lưu trí thức vẫn ít, luật thiên nhiên vẫn vậy.
Vì cớ cho nên trường tranh đấu đặng bảo vệ quyền lợi của họ trở nên khó khăn và
nguy hiểm.
Thật, con người bao giờ
cũng chạy theo quyền lợi, dầu cho một quốc gia hay một quốc tế toàn thể trên
mặt địa cầu nầy cũng vậy, chỉ tranh quyền lợi mà nhơn loại đã tương tàn, tương
sát với nhau, chúng ta lấy theo tâm lý của loài người mà luận thì chưa có buổi
nào mà trình độ tâm hồn của nhơn loại đã nghiêng đổ thái quá như buổi hôm nay.
Thật tâm hồn nhơn loại đã bị sa sút xuống một mức quá thấp hèn.
Vì cớ cho nên toàn cả tinh
thần không còn thánh đức như buổi trước nữa. Tiên Nho đã có nói:
" Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh Ðức, kim
nhơn biểu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc."
Người cổ nhơn hình dạng
xấu xa gần giống như con thú, mà tâm của họ là đại thánh đức và thánh đức của
họ còn nguyên vẹn. Ngày hôm nay nhơn loại đẹp đẽ dáng phẩm con người, nhưng thú
tâm không thể đoán xét được. Nhứt là quyền lợi, thiên hạ đã theo dõi và mê mẫn,
nếu nói cái hám vọng của họ nơi cửa quyền thì thấy rằng : Trong xã hội muốn
đứng đầu thiên hạ cho có tên tuổi của mình, có quyền hành đặng điều khiển độc
đoán là một cái khó làm hơn hết, khó thiệt hiện được.
Vì cớ cho nên họ không từ
chối không có một phương pháp nào hèn hạ mà họ không làm, thử nghĩ chúng ta
đoán xét từ cổ chí kim những quyền mà lập với phương pháp tàn ác vô nhân đạo
thì ta quan sát coi có tồn tại bền vững hay chăng ? Con người đem quyền mà mua
chuộc với xương máu của người, cả cái quyền hành đó nó trở lại làm một ác khí,
thử hỏi những kẻ thọ hưởng nó có bền vững hay chăng ? Chúng ta đã thấy nào là
đài Tần nào là đảnh Hớn mà từ trước tới giờ trên mặt địa cầu nầy đã tạo dựng
trên xương máu của nhân sanh, hết họ nầy đến họ khác làm chúa, làm vua thiên hạ
thay đổi mãi, không có một ngôi báu nào còn tồn tại là do chỗ nào ? Là do ngôi
báu ấy đã mua chuộc bằng xương máu của dân cho nên chẳng hề khi nào những kẻ
thọ hưởng đó nó được trường cửu đặng.
Chúng ta thử quan sát
trước mắt thấy những mưu mẹo những phương pháp, những trí độ họ tiềm tàng họ
làm cách nào đặng lập quyền cho họ. Rốt cuộc lại, chúng ta thấy cái hưởng của
họ, nếu họ hưởng trong cái hưởng ấy nó dành để cho họ một sự nguy hiểm chẳng
khác nào trong ấy dành để cho họ một chén thuốc độc đặng tự diệt lấy họ.
Quyền: chúng ta thấy quyền
thế nào ? Giờ chúng ta kể lại sự tích của nước Tàu: như Hạng Võ đã có lời cam
kết với Lưu Bang, kẻ nào vô Quang Trung ( Hàm Dương: kinh đô nước Tần ) trước
thì được làm chúa.
Hớn Bái Công ( Lưu Bang )
và Sở Bá Vương ( Hạng Võ ) hai người lãnh sứ mạng vô diệt nhà Tần phục Hớn, Sở
Bá Vương ỷ mạnh tới đâu đánh đó, thành thử vô Quang Trung sau Hớn Bái Công. Còn
Hớn Bái Công chỉ lấy nhơn nghĩa mà làm thành lũy, quan ải đều mở rộng cửa cho
người vào, đã vậy Sở Bá Vương không giữ lời hứa và kiếm lời bào chữa đày Hớn Bái
Công vô Bao Trung (Hán Trung; là chỗ nhà Tần dùng để đày tội nhân ). Rốt cuộc
lại cả sự nghiệp của Hớn lấy nhơn nghĩa hưởng được 800 năm, còn Sở Bá Vương chỉ
một đời người mà chưa hết, thì đây là cái giả của Sở Bá Vương, còn cái thiệt
của Hớn Bái Công là 800 năm đó vậy.
Chúng ta thử nghĩ các giả
quyền đang giờ phút nầy mới vừa qua trận đại chiến thứ II như Hitler,
Mussolini, Thiên Hoàng của Nhật muốn làm bá chủ với cả phương pháp cường quyền
của họ vì quân lực của họ có đủ cường lực muốn cho cả hoàn cầu phục lụy tôn làm
bá chủ. Rốt chuyện cái ngôi báu đã làm cho ba sắc dân ấy điên đảo thống khổ
biết bao nhiêu, bao nhiêu đế vị cường liệt hôm nay chúng ta đã thấy đều là giả
hết. Bởi họ không có lưu lại cho đời một mảy may gì, còn cái thiệt là Người mà
chúng lên án là mê tín dị đoan; đem đóng đinh trên cây Thánh Giá là Ðức Chúa
Jésus Christ, quyền của Ngài là 2.000 năm vẫn còn tồn tại mãi thôi, mà trái lại
càng ngày nó càng cường liệt.
Người thứ nhì nữa, là Ông
Già mang Bình Bát đi xin nơi nầy ăn, xin nơi kia ăn, đi mót từ manh giẻ rách
của thiên hạ đặng chầm khiếu làm áo mặc cho kẻ lạnh, mà 2.500 năm cái quyền của
ông ấy vẫn còn tồn tại. Cái quyền giả thế nào ? Cái quyền thiệt thế nào ? Thật
không thể đoán trước được.
Tội nghiệp thay ! Những
quyền mà tạo nên bền vững, kẻ đào tạo nó khó khăn lắm, làm cho đến mức đó thật
là nguy hiểm mà khi đoạt đặng rồi thì không thể nào tiêu diệt đặng. Luận lại
'Phú hữu tứ hải' của các ngôi vua chúa dùng xương máu thiên hạ lập đế vị, cả
của cải trong nước đều là của mình. Rốt chuyện lại chúng ta coi giòng họ làm
vua chúa trên mặt địa cầu nầy, giờ phút nầy các tông đường đó, nếu Bần Ðạo làm
chứng quả quyết các tông đường ấy còn tàn mạt, còn hèn tiện, còn ăn mày, ăn xin
hơn các tông đường khác nữa mà chớ ! Không lưu lại sự giàu sang bền vững cho
con cháu của họ.
Có một người ta chỉ sợ,
đời không ai biết không ai ngó tới, nếu không nói ra họ gớm ghiết là Ðức Khổng
Phu Tử. Ðạo của Ngài giờ phút nầy cái nền văn minh Nho Giáo cũng không tiêu
tàn, giờ phút nào quốc dân Trung Hoa không tiêu diệt thì Ðạo của Ðức Khổng Phu
Tử vẫn còn tồn tại mãi thôi.
Hại thay mà may thay cho
nhơn loại, là sắc dân của Trung Hoa tới 450 triệu hay là 500 triệu muốn tiệu
diệt không dễ gì, mà hễ sắc dân ấy vẫn còn tồn tại thì Ðạo của Ðức Khổng Phu Tử
cũng vẫn còn mãi mãi.
Còn cái ngôi của các đế
vương đào tạo trên mặt địa cầu đều tiêu hủy, còn Ðạo của Ðức Khổng Phu Tử nó in
sâu trong đầu óc trí não của nền văn minh nhà Nho cho tới tận thế nó cũng vẫn
còn. Mỗi một sắc dân chịu ảnh hưởng nền văn minh ấy như : Triều Tiên, Nhựt Bổn,
Việt Nam. Ngày nào sắc dân Trung Hoa chưa tiêu diệt thì Ðạo của Ðức Khổng Phu
Tử chưa tiêu diệt. Cái Ðạo kia là thiệt còn cái Ðời kia là giả. (Thuyết Ðạo QVI
/ tr 200)
* * *
20. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ðêm mùng 1 tháng 8 năm Canh Dần ( 12-9-1950 ).
Danh từ Tà & Chánh trong Tôn Giáo
Hôm nay Bần
Ðạo thuyết danh từ Tà & Chánh mà thiên hạ đã ban cho các nền Tôn Giáo, dùng
nghĩa lý của nó trước về mặt tôn giáo.
Về mặt Ðạo thì chúng ta
phải để tâm suy xét cho tận cùng, hiểu cho thấu đáo phận sự con người tức nhiên
là phận sự của nhơn loại ở nơi mặt địa cầu nầy đã làm sao? Vả chăng con người
là một vật ở trong vạn vật cùng tạo đoan, vì cớ nào Ðức Chí Tôn lại giáng linh
trong một con vật ?
Tức nhiên Ngài có chủ định
cho nó làm mới cho quyền hành vô đối như thế, lẽ dĩ nhiên con người khôn hơn
vạn vật, đã đành khôn thì làm chúa của sự dại, tức nhiên Ðức Chí Tôn muốn cho
loài người làm chúa của vạn vật. Chúng ta không cần kiếm hiểu hay xét đoán việc
làm chúa để làm gì đó ? Phận sự đối vạn vật thế nào ? Mình đã xuất hiện trong
khuôn luật của tạo đoan, tức nhiên mình thọ ân tạo hóa của Chí Tôn ban cho mình
một tánh linh, cốt yếu để cho mình đảm nhiệm phần bảo vệ cơ quan tạo đoan của
Ngài, tức nhiên dễ dàng bảo thủ luật tạo đoan chớ không phải đễ tiêu diệt luật
tạo đoan.
Chúng ta đã xét đoán thấy
mặt địa cầu nầy khi trước buổi thoát xác của nó, các đẳng linh hồn đạt được
biết bao nhiêu Phật vị. Mặt địa cầu nầy kiếp trước của nó đã tạo nhiều Ðấng có
đủ quyền hành điều khiển, cầm quyền trong càn khôn vũ trụ nầy, hay các nơi khác
nữa, chớ chẳng phải đây mà thôi. Bần Ðạo đã thuyết khi trái địa cầu nầy thoát
qua, chính mình Ðức Di Lặc Vương Phật thời kỳ nầy cầm quyền càn khôn vũ trụ chỉ
là một "dã nhơn" mà thôi.
Còn Ðức Phật Thích Ca là người quê dốt. Trong ba đại chuyển mà Ðức Phật Thích
Ca, Ðức Di Lặc lập vị mình một cách vinh hiển oai quyền như thế, mặt địa cầu
nầy cốt yếu Ðức Chí Tôn giáng để làm một trường học tạo cấp bằng cho nhà Phật.
Cái bảo vệ cho tạo đoan
không có quyền diệt hóa phải bảo hóa mà thôi. Cơ quan bảo hóa tức nhiên chánh,
cơ quan nào diệt hóa tức là tà, nếu chúng ta lấy cái lý xét đoán dầu cho bên
vật chất hay bên tinh thần cốt yếu cho loài người làm môi giới, điều độ các
chơn linh tấn triển mãi cho đến Phật vị. Về mặt hình thể, cơ quan nào không có
ích cho cơ thể tạo đoan tức là không có ích cho nhơn loại.
Việc bảo vệ sanh mạng của
nhơn loại trong khuôn khổ tạo đoan, tức nhiên là cơ quan nào nâng đỡ bảo trọng
thêm cái sống nầy giúp cơ thể tạo đoan và bảo vệ sanh mạng của vạn linh nơi mặt
địa cầu nầy, nó là chánh, triết lý nào giúp cho nhơn loại tức nhiên bảo trọng
cơ quan tạo đoan bền bỉ vững chắc nó là chánh. Triết lý nào xúi giục làm cho
vạn vật tàn sát với nhau, diệt hóa tức nhiên triết lý ấy là tà.
Chúng ta thấy cơ thể tạo
đoan trước kia cũng vậy, chớ không phải trong cửa Ðạo Cao Ðài nầy mà thôi.
Trong Vương Ðạo và Bàn Môn ta thấy khuôn luật định của nhà vua tức nhiên là
Vương Ðạo đi ngay con đường chánh mà thôi, buộc nó phải bảo vệ sanh mạng cho xã
hội nhơn quần, tức nhiên bảo vệ trong một nước phải lấy chánh tâm định phận con
người. Lấy chánh đó là Vương Ðạo, còn các triết lý hay các cơ thể nào đi ngược
lại với cái chánh ấy là làm cho thiên hạ phải loạn lạc, xao xuyến tâm hồn,
không biết cái chủ nghĩa kính sùng ( kính trọng và tôn sùng ) cái sống lẫn
nhau, tương tàn tương sát với nhau làm rối loạn cả luật pháp thiêng liêng kia ;
diệt hóa tức nhiên là Bàn Môn Tả Ðạo.
May thay cho chúng ta, nhờ
Ðức Chí Tôn đến, Ngài quả quyết nói rằng : Những điều ở thế gian nầy tín ngưỡng
từ trước đến giờ là khi trái địa cầu mới phục sanh lại, vạn vật còn trong buổi
sơ sanh dốt nát mà từ từ họ tấn triển đến mãi cho tới phẩm vị Phật hay ngang
phẩm cùng Thầy đều đi trong các lý do của chữ Ðạo. Ấy là người với Trời "Reliron" do chữ "Relior" mà ra, là liên kết
người với Trời. Cơ quan nào liên kết người với Trời tức nhiên là Ðức Chí Tôn
đến với chúng ta. Ngài nói: Ngài đến đặng dạy một chơn lý để cho các con biết;
các con thờ đây duy có thờ mình và thờ Thầy mà thôi. Bởi cơ quan nầy có hai
quyền vi chủ.
1 . Thầy.
2 . Nhơn loại tức nhiên các con.
Chúng ta chỉ thờ có hai
Ðấng ấy mà thôi, bây giờ muốn bảo hóa, đừng diệt hóa, Ðức Chí Tôn biểu gì ?
Ngài để một định luật trước mặt là bác ái và công bình. Chúng ta tỉ thí như con
chó kia đẻ ra mấy con, người ta đến xin, dòm thấy con nào thương được, người ta
mới xin đặng nuôi dưỡng nó, vì cái thương ấy mới nuôi dưỡng. Bây giờ trồng một
cây gì người ta ham thích nó, tức nhiên người ta thương nó nên mới trồng, mới
bảo vệ mạng sống của cây ấy.
Vạn vật muốn bảo trọng
toàn vẹn cái luật tạo đoan cho bền chắc duy có mặt luật thương yêu mà thôi.
Trong khuôn luật thương yêu ấy định cho mình bảo trọng cơ thể tạo đoan, giúp
hay cho luật tạo đoan mà thôi.
Bây giờ thương yêu ấy
không thể thương yêu là tại cần cái nầy bỏ cái kia, chê cái nọ, khen cái khác.
Chúng ta phải lấy công tâm định, tùy theo khuôn luật tạo đoan đặng định phận
cái sống mình cho còn tồn tại, chúng ta muốn bảo vệ phải có công bình và tâm lý
mới được.
Xã hội nhơn quần, chúng ta
đã sanh trong một nước, giống nòi tông tộc chúng ta, thì chúng ta phải biết
thân phận của mình đối với đồng chủng thế nào.
Ta sanh ra trong một nước,
nhờ ơn ngọn rau tấc đất ta mới sống, ta nhờ nương nơi đó mà ta lập vị định phận
của ta, nếu ta không biết thương yêu thì phận con người của ta chưa đúng vậy.
Vì cái phận ấy, vì lẽ công bình ấy, vì thương yêu mới đem hy sinh mình phụng sự
cho toàn thiên hạ.
Cơ quan phụng sự ấy Ðức
Chí Tôn biểu chúng ta dâng cả thi hài trí hóa và tâm hồn đặng Ngài làm cơ quan
phụng sự cho nhơn loại bảo tồn khuôn luật tạo đoan vững chắc, tức nhiên dắt
chúng ta đi trên con đường chánh Ðạo đó vậy. (Thuyết Ðạo QIII / tr 103)
* * *
21. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 15 tháng 12 năm Giáp Ngọ ( 1954 )
Nghiệp Ðời & Nghiệp Ðạo
Hôm nay Bần
Ðạo giảng cho các thanh niên nam nữ lưỡng phái, vì trong mấy tháng các
em làm ngày làm đêm cực nhọc quá. Mấy con, mấy đứa nhỏ nhứt là sự làm việc rất
siêng năng, nên hôm nay Ðạo giảng thử so sánh nghiệp Ðời với nghiệp Ðạo, nhứt
là trong khi làm rồi mệt mỏi, mấy em, mấy con có thể hiệp lại với nhau suy nghĩ
tính toán, có lẽ đứa nầy hỏi đứa kia. Tại cớ gì mà chư vị chức sắc Thiên phong nam
nữ lưỡng phái là đàn anh của mấy em và mấy con, chịu cực nhọc khổ não theo Ðạo
trọn một đời hy sinh cả kiếp sống của mình để chơn theo dõi bước thiêng liêng
của Ðức Chí Tôn, chắc có lẽ mấy em mấy con có khi nói:
Kìa nơi ngoài đời thiên
hạ họ lên xe xuống ngựa, sống vinh hiển, giàu sang phú quí, ăn mặc sung sướng
đủ hết, không hiểu vì cớ gì mà chư vị chức sắc Thiên phong ăn uống khổ hạnh, nhưng
cứ mài miệt mãi theo Ðạo. Không có một món chi để an ủi sự khổ não của tâm hồn và hình
thể.
Mấy em ơi ! Cái hột Thánh
Cốc của Ðức Chí Tôn là đấy. Hột giống tối cổ của tổ phụ, của nền văn hiến ông cha
ta để lại, hôm nay nó đã thành ra một cội Ðạo. Cội Ðạo ấy có thể che chở cho
loài người đặng nương cái bóng trong buổi đau khổ tâm hồn lẫn vật chất mà cả chư
vị chức sắc Thiên Phong, Thánh Thể của Ðức Chí Tôn đã cố gắng
biết bao nhiêu. Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tôi cho mấy em để
làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em. Chúng Qua đã từng chịu nhục nhã
truân chuyên khổ não, mà hễ còn sống sót bao nhiêu đều cố tâm làm, làm chỉ tìm
một con đường một sở vọng là làm thế nào cho đám hậu tấn mấy em mấy con khỏi
khổ não như chúng Qua đã khổ não vậy.
Thử nghĩ,
nếu đem so sánh nghiệp Ðạo của chúng Qua với nghiệp Ðời của thiên hạ, tưởng khi nghiệp Ðạo của chúng
Qua không thua mấy đâu. Trái ngược lại chúng Qua sung sướng và hạnh phúc trong
cái kiếp sống của chúng Qua đã may duyên làm nên đặng một lẽ đáng sống. Tức
nhiên là theo con đường Thiêng Liêng của Ðấng yêu ái và công bình. Chúng Qua
chỉ rèn tập sao cho đặng như tánh đức của Ðấng ấy. Yêu ái và công bình như thế nào ? Yêu ái
đặng chi ? Yêu ái đặng có phương an ủi mấy em mấy con. Công bình đặng chi ?
Công bình đặng có phương dìu dắt mỗi đứa đi trên con đường Ðạo có niêm luật, có
chuẩn thằng.
Bần Ðạo nghĩ lại, Bần Ðạo
thấy dầu cho ngôi báu của đế vương kia, qua một kiếp sanh của họ chưa có đặng
an ủi tâm hồn như chúng Qua. Mấy em chịu cực buổi nầy rồi, mấy em mấy con suy
nghĩ lại đàn anh của mấy em buổi nọ, lúc Ðạo còn khổ não, nghèo nàn, hèn hạ,
thiên hạ đã khinh rẽ thế nào, có lạ chi theo thói tục thường tình của thiên hạ,
họ thấy kẻ nghèo, kẻ khổ, kẻ rách rưới bần cùng họ miệt sát khi rẽ. Trước kia
chơn tướng của Ðạo cũng bị như thế.
Hồi buổi Ðạo mới phôi thay
còn nghèo nàn, thiên hạ có kể nó đâu, lẽ dĩ nhiên vẫn vậy. Nếu đem so sánh với
các nền Tôn Giáo có căn bản, có oai quyền, sang trọng giàu có thì xem nó như
một trời một vực. Cái phận của Ðạo buổi nọ chẳng khác chi người nghèo hèn khốn
khổ kia bị thiên hạ mạt sát khinh rẽ. Chỉ thương có một điều là trong nền Ðạo
gần ba triệu con cái Ðức Chí Tôn nương nơi bóng Ðạo cũng bị chung hoàn cảnh ấy.
Thiên hạ đã mạt sát chúng
Qua, nhưng mạt sát cá nhân chúng Qua không nghĩa lý gì hết, chúng Qua coi nó
không có giá trị chi cả. Tội nghiệp cho cái hèn hạ ấy, thiên hạ đã khi rẽ, đã
mạt sát con cái Ðức Chí Tôn gần ba triệu tín đồ thờ phượng Ngài, không phân
biệt đảng phái. Cái hèn của mình không có hại gì hết, chúng Qua chỉ sợ một điều
là cái hèn của mấy em đem ra đương đầu với thiên hạ.
Kẻ bần cùng nghèo khỗ nói
ai thèm nghe, như vậy rồi dạy đời sao đặng, nhưng sứ mạng Thiêng Liêng đã giao
phó biểu phải dạy đời, tức nhiên chúng Qua phải làm thế nào cho có định luật.
Muốn cho Ðạo của mấy em có hiệu lực ấy thì hôm nay mấy em phải chịu cực khổ đó
vậy.
Những đế nghiệp của các
nền tôn giáo đã hiện tượng nơi thế nầy mười phần thì Ðạo của mấy em chưa được
một, mấy em để ý xem xét suy gẫm coi đặng mảy may gì chăng ? Hồi còn chòi tranh
vách lá thiên hạ không có bước chân tới, họ có kể mình xứng đáng gì mà họ ngó
đến, lời tục có nói: " Có thế mới dễ
làm ăn " Ðời cũng thế mà Ðạo cũng thế. Thế Ðạo của mấy em hôm nay
không đáng giá bao nhiêu, nhưng có thể đối lập với thiên hạ đặng.
Nghiệp Ðạo buổi nầy mấy em
nên suy nghĩ, bước ra một tấc đường thì phải mặc áo mới đẹp thì mới có phương
diện đối với người ta, còn Ðạo của mấy em cái đẹp của nó là theo Thánh Ý của
Ðức Chí Tôn, nên sự cực của mấy em cũng như chúng Qua, cái khổ của mấy em cũng
như chúng Qua đã khổ.
Mấy em muốn nên hay chăng
đều do cả đầu óc tay chân của mấy em mới tạo nên nghiệp Ðạo ấy. Mấy em muốn
vinh hiển hay chăng cũng do cả đầu óc tay chân của mấy em tạo nên.
Qua xin nhắn nhủ mấy em
mấy con một lời : Thân già nầy, cả chức sắc Thiên Phong nam cũng vậy, nữ cũng
vậy đều già yếu thành ra người bạc nhược, làm công chuyện như mấy em mấy con
không nỗi, không lẽ mấy em mấy con sanh nạnh chúng Qua rồi không tạo nghiệp cho
mấy em.
Luân lý: Nếu trong tủ tiền
của Ðạo có đủ đi nữa cũng do nơi túi của mấy em, mấy em không biết lo chung,
Qua phải mượn thì mấy em thấy rõ rằng tiền trong túi của mấy em nó chạy qua túi
khác. Không có tiền lấy công làm lần, lẽ tự nhiên vẫn vậy. Ðạo của mấy em còn
nghèo thì mấy em phải chịu cực, chịu nhọc, đừng để con mắt các nhà đạo đức thấy
mấy em khó nhọc rồi họ nói chúng Qua không yêu ái mấy em.
Qua xin nhắn gởi với mấy
em nói lại cho thiên hạ biết điều ấy . (Thuyết Ðạo QVI / tr243)
* * *
22. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo - Ðêm 30 tháng 3
năm Ất Mùi ( 1955 )
Quyền Ðời & Quyền Ðạo
Ðêm nay Bần
Ðạo giảng cái đề so sánh quyền Ðời và quyền Ðạo, cả con cái Ðức Chí Tôn nam nữ
lưỡng
phái, nhứt là đám thanh niên nam nữ phải rán để ý cho lắm để tâm nghe
sẽ phân biệt cảnh Ðạo với đường Ðời xa cách với nhau một trời một vực, chỉ có
ngộ nghĩnh một điều:
Tuy vẫn phân
biệt nhau như thế mà nó lại có cái liên hệ mật thiết với nhau mới lạ lùng. Trước khi giảng
quyền Ðời và quyền Ðạo, Bần Ðạo phải tả cái hình trạng của Ðạo thế nào, hình
trạng của Ðời thế nào rồi mới tả cái quyền của nó ra sao, quyền Ðạo cả thảy con
cái Ðức Chí Tôn đều thường nghe giảng và đều hiểu mà chớ, vì Ðức Chí Tôn không
có tái kiếp làm người, Ngài đến cả con cái của Ngài với một huyền diệu lạ thường là huyền
diệu cơ bút , thành thử Ngài không nói mà chúng ta nghe, Ngài không hình mà chúng
ta thấy.
Bần Ðạo đã
giải rõ thường tình tại sao Ngài đến ? Ðại Từ Phụ đến, Ngài đã nói quả quyết Ngài đến để
Ngài chia khổ não cùng con cái của Ngài, vậy nếu Ngài không có hình trạng thế
nào Ngài chia khổ ấy được, tức nhiên Ngài phải làm thế nào Ngài có hình mà chớ,
muốn cho ra cái Thánh Hình của Ngài không phương chi hay hơn là Ngài
tụ họp con cái hiền lương của Ngài đặng lập thành Thánh Thể tức nhiên cái hình Thánh
của Ngài, chúng ta thường gọi là Hội Thánh.
Ấy vậy, Ngài đến Ngài chia
khổ, Ngài lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập hình ảnh của Ngài. Hình ảnh của Ngài
nó có đẳng cấp trật tự.
Cả Thiên Phong chức sắc
của Hội Thánh từ Giáo Hữu đổ lên là Thánh Hình của Ngài, chẳng khác nào như cái
đầu, còn cả toàn thể con cái của Ngài từ bực Lễ Sanh đổ xuống tỷ như tay chân
thân thể của Ngài.
Ngài lấy cái đại thể chơn
giáo của Ngài đã lập giáo thành tướng của nó tức là cái Gia Ðình Ðạo Giáo. Ấy
vậy, chơn truyền của Ngài đã đặt trên thế gian nầy là Gia Ðình Ðạo Giáo của
ngài tức nhiên gia đình tinh thần.
Bây giờ ta lại luận hình
thể của Ðời, bất kỳ xã hội nhơn quần nào, Bần Ðạo đã có dịp thuyết minh rằng,
con người bao giờ cũng phải sống tập đoàn đặng bảo vệ cái sống cho nhau mới gầy
nên quốc gia xã hội, cái đại thể đó nó thành ra toàn thể nhơn loại, Bần Ðạo nói
giờ phút nầy cả toàn thể nhơn loại lại còn mong rằng họ sống tập đoàn với nhau
trong đại thể của nhơn loại mà chớ.
Ấy vậy, mỗi xã hội có Vua,
có Chúa không thì có vị Quốc Trưởng, dưới quyền của vị Quốc Trưởng ấy hoặc có
Triều Ðình hoặc có Chánh Phủ, cả nhơn viên chánh phủ hiệp lại với Quốc Trưởng
là cái đầu, còn dưới là dân chúng tức nhiên là các năng lực của toàn thể quốc
dân, Sĩ, Nông, Công, Thương, tứ dân, tứ thứ là tay chân và thân thể. Rồi trong
xã hội ấy định phương pháp đặng lập cái đại thể gia đình của toàn một sắc dân
đại gia đình gọi là gia đình xã hội, tướng diện của hai bên đó vậy.
Bây giờ Bần Ðạo luận về
cái quyền, cái quyền đôi bên bao giờ cũng phải quyết định với một cái pháp luật
của Hội Thánh, luật của Hội Thánh để định quyền cho Ðạo, cho đại gia đình của
tinh thần nhơn loại. Tân Luật, Pháp Chánh Truyền là một chơn tướng lập Thánh
Thể của Ngài không cần luận đến, chỉ luận về Tân Luật mà Ðức Chí Tôn và Ðức Lý
Giáo Tông đã dạy Hội Thánh khi mới Khai Ðạo, lập trong 3 tháng phải thành tựu,
trong Tân Luật con cái của Ðức Chí Tôn đều thấy, Bần Ðạo không cần lập đi lập
lại vô ích, chỉ lấy cái tinh túy của nó là trong Tân Luật ấy Ðức Chí Tôn định
cho Ngũ Giới cấm và Tứ Ðại Ðiều Qui và trong ấy cốt yếu bảo vệ Tam Cang Ngũ
Thường của toàn thể con cái của Ngài, thật ra cái Thiên Luật của Ngài mà Ngài
đã để trong tâm não con cái của Ngài.
• Luật chỉ có một là Thương Yêu.
• Quyền chỉ có một là Công Chánh.
Thiên hạ đã lập luật nhiều
quá, mà cái luật của thiên hạ lập ấy, tưởng khi cả thảy đều thấy dầu cho họ có
thay đổi cho tới tận thế họ chưa có phương nào làm cho nó phù hạp với cả nhơn
tâm bao giờ. Còn Ðức Chí Tôn đến lập luật có một điều mà thôi là Thương Yêu, cả
thảy đều hiểu cái luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không, người nào
không có dính trong cái luật thương yêu ấy thì chẳng hề họ sống được bao giờ,
nhứt là sống chung của đồng loại, hoặc họ phải tự họ ly dị cả nhơn loại hay là
cả nhơn loại buộc phải đào thải họ nếu họ không tuân cái luật ấy, còn cái quyền
công chánh, công bình chánh trực dầu một kẻ không học kia dốt nát thế nào mà
học được hai cái đặc tánh quí báu ấy, tôi tưởng cả thảy thiên hạ đều cúi đầu
tôn trọng kính nhường và nhứt là họ thương yêu, Thiên Luật của Ðức Chí Tôn là
vậy.
Tân Luật Ðức Chí Tôn cốt
yếu muốn cho ta làm đặng ta bảo vệ cái Tam Cang Ngũ Thường của nhơn loại, nói
về phương đông nầy dầu cho luận tới các quốc gia xã hội đến đâu đi nữa, họ tự
trọng họ văn minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm luật ấy bao giờ,
nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã hội của họ thì nó sẽ thành cái gì chớ không
thành xã hội.
Giờ đây luận tới Hội Thánh:
Luật của Hội Thánh chỉ lập
ra trong buổi con cái Ðức Chí Tôn bị cái óc ngoại hình ngoài đời kia xâm phạm
tinh thần và hình chất của nó. Hội Thánh buộc phải lập Luật chẳng khác nào như
thể một phương che chở, như ta đã thấy một người kia đi tới miệng giếng, họ
muốn sa vào đó, ta kêu trở lộn lại. Luật của Hội Thánh phải chuyển luân theo
thời thế của xã hội, nhứt là trong con cái của Ngài chớ thật ra không có giá
trị gì hết, bởi hình không có.
Bây giờ nói tới Hình của
Luật Ðạo, cái quyền của Ðạo, quì hương, tụng kinh sám hối, đáo để trục xuất nội
thành nơi Thánh Ðịa, rồi còn dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Ðạo chớ chưa có giết
ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy
là Luật của Ðạo. Vậy cốt yếu cái khuôn khổ đại gia đình tinh thần nầy để tạo
cho con cái Ðức Chí Tôn thành Thánh, nong nã dạy dỗ dìu dắt thế nào cho họ
thành Thánh đặng họ mới cầm cái cơ cứu khổ của Ðức Chí Tôn vững vàng và mạnh
mẽ, họ mới thay thế hình ảnh của Ðức Chí Tôn đặng.
Vì cớ cho nên cả khuôn khổ
quyền lực của Ðạo cốt yếu để tạo Thánh, bây giờ ta mới luận về quyền Ðời, cả
quyền đời thật quyền của họ, thiệt lực của họ là Nhơn Ðạo. Muốn thành tựu nhơn
đạo ấy họ phải thông minh trí thức lịch duyệt thế tình, thông minh trí thức
phải học, lịch duyệt thế tình họ phải chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy,
vì cớ cho nên một ông quan mới đầu tiên thủng thỉnh bực nhỏ lên cao, học đặng
chuyên chú nghề nghiệp của họ, cốt yếu họ cầm quyền trị dân ấy đặng chi, họ
mong mỏi gì, họ mong mỏi cho cả toàn dân được hạnh phúc cả cái sống còn của dân
được bảo thủ, cái sanh hoạt của dân được hòa ái tương thân, thật ra họ không có
đi ngoài khuôn khổ Tam Cang Ngũ Thường của văn minh ta lưu lại từ thử đến giờ.
Muốn bảo vệ cho họ đặng hòa bình thân ái với nhau phải dĩ Ðạo vi trị, họ phải
mượn văn minh đạo giáo của tổ phụ ta để Tam Cang Ngũ Thường làm căn bản, trong
gia đình xã hội phải nương theo bóng của Ðạo bên kia họ mới có căn bản, có căn
bản ấy thì mới ích nước lợi dân trừ gian diệt nịnh.
Hại có một nỗi là họ tạo
luật ra quá quắt, có nhiều điều họ lập ra khuôn luật mình thấy thất đức bất
nhơn tàn ác, họ dùng cả cái cường lực trị dân, vì cớ cho nên các xã hội nhơn
quần hiện tại bây giờ đây loạn là vì họ không lấy đạo đức nhi trị, họ không
tùng theo tâm lý mà họ chỉ tùng theo quyền lực mà thôi, nào là khám lớn, nào
súng, nào gươm máy, hễ tuân theo khuôn luật của họ trị thì họ để cho sống, nếu
không tuân theo khuôn luật thì họ giết, mà kỳ trung thật ra Bần Ðạo tổng luận
gia đình tinh thần tức nhiên Ðạo là Tu thân, còn gia đình xã hội là trị quốc,
còn thiếu tề gia, tề gia không phải là tề gia đình, tối thiểu của mọi gia đình
mà tề gia đình thiêng liêng gia đình tinh thần về xã hội, duy có tề gia ấy nếu
mà đôi bên, bên Ðạo và bên Ðời hiệp phương chước lại với nhau dùng cái phương
tề gia ấy mà tương liên mật thiết với nhau nó phù hạp lấy nhau đời mới hưởng
được hạnh phúc thái bình, ngoài ra nữa dầu phương chước nào hay hơn bao nhiêu
cũng không có đặng cái tề ấy, chữ tề ấy không quyết định đặng thì nước vẫn loạn
mãi thôi, nhơn sanh phải thống khổ mãi thôi, vì cớ cho nên Bấn Ðạo mới nói:
" Ðạo không Ðời không sức.
Ðời không Ðạo không quyền"
Hễ họ tương liên với nhau
không được tề gia nhứt thống về gia đình tinh thần và gia đình xã hội của họ
thì bao giờ họ cũng bất lực hết thảy. (Thuyết Ðạo QVI / tr 276)
* * *
23. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Trường Hành Chánh,
lúc 4 giờ .
Ngày 10 tháng chạp năm Ðinh Hợi ( 20-1-1948).
Lễ Mãn Khóa Hạnh Ðường.
(Ðể trả lời bài diễn văn của Nguyễn Hữu Lương
thay mặt các vị Lễ Sanh tân phong cảm tạ Ðức Hộ Pháp và các vị Giáo Sư.)
Quyền Ðời & Quyền Ðạo ( tt )
Ấy là áng văn đầy chơn lý
đi thẳng vào tâm hồn của Bần Ðạo nó có mãnh lực mạnh mẽ lạ thường. Bần Ðạo
tưởng nếu cả thảy đồng thật hành đúng theo lời thuyết văn mới vừa đọc đây thì
mối Ðạo sẽ lan tràn tốt tươi vô đối, Bần Ðạo lấy làm cảm tình, tuy vân, mấy em
nói bữa tiệc thô sơ, nhưng bữa tiệc nầy xem lịch sử Ðạo trong các bậc thánh
hiền nước Việt Nam từ xưa nay chưa từng có. Lịch sử của Ðức Khổng Phu Tử từ nhà
Châu đến giờ nay mới sống lại, nó sống với bữa tiệc này thôi.
Quả nhiên từ ngày mở Ðạo
thì đã tạo Hạnh Ðường, nhưng nó chưa có sanh hồn, nay nhờ bữa tiệc nầy mà nó có
sanh hồn hiển nhiên quí báu vô giá vậy. Tuy vân, không có gì xứng đáng nhưng
Bần Ðạo hưởng được một vật quí giá mà từ trước đến giờ chưa hưởng được.
Trước hết Bần Ðạo giải
nghĩa cái quyền đương nhiên, quyền chánh trị đương nhiên là quyền Ðời và quyền
đương nhiên của Ðạo trong thế kỷ 20 nầy, nền văn minh của Thiên Chúa Giáo
truyền khắp cả nhân gian cùng vạn quốc trong hai ngàn năm trước. Ðạo Thánh Gia
Tô lập quyền Ðạo hồi xưa có cảnh tượng như thế nào thì ngày nay nền Ðạo Cao Ðài
của chúng ta cũng thế.
Hiện tượng nền Tôn Giáo
của Chí Tôn bây giờ nó giống theo khuôn khổ và cảnh tượng của Thánh Giáo Gia Tô
đã truyền, dầu cho ai cũng phải nhìn rằng: Cái công trình của Thiên Chúa Giáo
với nhơn loại là vĩ đại. Có thể chia ra hai quyền:
1 . Là quyền đời đương
nhiên.
2 . Là quyền năng của tinh thần.
Cái quyền tinh thần ấy
biến ra một nền chánh trị đặc biệt riêng của nó như Ðền Thánh Vatican ở La Mã
là một nước trong vạn quốc, một nước về tinh thần. Cái tương lai Ðạo Cao Ðài sẽ
đi đến đó, không phải mơ hồ mà tưởng chắc quả quyết vậy.
Lập quyền Chánh Trị Ðạo
Cao Ðài cũng như nền Chánh Trị của Thánh Giáo Gia Tô nơi đền Vatican 2.000 năm
về trước. Lúc ấy quyền đời và quyền đạo Thánh Giáo Gia Tô chiến đấu và phản
khắc nhau trong lúc mà Thánh Ðạo Gia Tô đang tạo quyền hành tinh thần đạo đức.
Cái chánh trị của Thánh Giáo Gia Tô lập thành được là nhờ lấy từ mảnh mún tinh
thần mà tạo nên khối đó vậy.
Cái chánh trị của Ðạo Cao
Ðài vẫn thế, nhưng chỉ có một điều khác là người ta làm trước mình làm sau,
đường đi chúng ta kỷ lưỡng hơn, trước kia tôi tưởng nó phải gặp nhiều trở ngại
nguy hiểm như Thánh Giáo Gia Tô đã đi. Trong hai ngàn năm mới lập quyền vững
chắc và mạnh mẽ đặng.
Còn nền chánh giáo của Chí
Tôn mới 23 năm mà đã nên hình mạnh mẽ, đó là Ðức Chí Tôn ban ân huệ cho nước
Việt Nam, đặc biệt từ xưa các vị giáo chủ trên mặt địa cầu nầy chưa đạt được
như chúng ta bao giờ. Tuy vân, chúng ta đã chịu nhiều phen khảo đảo ấy, ngó lại
đối với các nền tôn giáo, các vị giáo chủ, muôn phần không có một.
Nền móng của Thiên Chúa
Giáo tạo ra khó khăn thế nào, chúng ta noi theo sự sáng tạo ấy đặng tạo nên một
nền móng nữa, phận sự rất dễ dàng. Nền chánh trị ấy là một nền chánh trị để
phân quyền với quyền đời, quyền đời Bần Ðạo chẳng cần luận vì nó là oai quyền
như trước mắt chúng ta đã thấy. Bần Ðạo chỉ luận về quyền Ðạo của chúng ta mới
vừa đạt đặng.
Nó cũng quyền hành như ai,
nhưng có một điều trọng yếu khác hẳn là quyền đời và quyền đạo cách nhau một
trời một vực, như bên nây và bên kia, mặc dầu không có mức chính giữa đã định,
nhưng bên kia xâm lăng qua bên nầy một chút thì người ta đã thấy. Hai quyền đều
đặc sắc không giống nhau đặng. Cây huệ kiếm của chúng ta không phải là thiết
kiếm của thế gian hữu hình mà là huệ kiếm vô hình tức là tinh thần và đạo đức
của chúng ta.
Bần Ðạo đã nhiều dịp nói
rằng: Cả Thánh Thể của Chí Tôn là trường quan lại, nếu quan lại Ðạo mà bắt
chước đồ theo thể pháp và hình thể của quyền đời thì xem nó dị kỳ hì hượm lắm.
Quyền Ðạo nó có hình tướng khác, nó không quái gở và dị hượm như trường đời
chúng ta xem thấy hiển nhiên đó vậy.
Nếu anh họa sĩ đủ tài, đủ
năng lực cầm cây bút họa cho nó nên hình tướng, tưởng không có vật báu chi ở
thế gian nầy so sánh được, vì nó có Tiên căn Phật cốt hiện trong đó để tạo ra
hình tướng. Cái hình tướng và tinh thần của Tiên Phật tốt đẹp thế nào không nói
ra ai ai cũng biết. Cái hình nó phải mường tượng như thế đó, phải làm cho nó ra
hình Tiên cốt Phật, các bạn thử xem Tiên Phật tốt đẹp thế nào thì trường quan
lại của Ðạo phải cầm cây viết Thiêng Liêng vẽ nên hình tốt đẹp như Phật như
Tiên vậy.
Nếu rủi có một bệt lọ, hay
một chút bợn nhơ dính vào thì nó dị hình dị dạng và ô trược lắm. Nó phải cho
đẹp đẽ khôi ngô linh dị nguyệt xu mới đặng. Tỉ như hạng gái kia đi ra đường mà
có một bệt lọ lấm trên mặt thì nó đã dị hượm khó coi rồi. Tóm lại là nó phải
tinh túy, nếu dính một chút bợn nhơ thì nó sẽ gớm ghê hình dạng mà chớ.
Tôi nói quyết một điều là
chánh trị đạo mà có dính một chút của quyền đời thì dị hượm xấu xa lắm vậy, bởi
tinh thần không chịu vật chất, vật chất không hề hòa thuận với tinh thần.
Trường quan lại của nền chánh giáo Chí Tôn khác hơn đời, chúng ta chỉ lấy đạo
đức nhơn nghĩa làm quyền, còn ngoài kia họ lấy quyền lực cưỡng bức, hai cái so
nhau khác hẳn.
Trong cửa Ðạo nếu chẳng
biết quyền mình là gì, lại bắt chước đồ theo tâm lý thiên hạ, cường bức vô đạo
đức, vô nhơn tình thì quả nhiên sái hẳn. Quyền chúng ta là chỉ lấy đạo đức tinh
thần của tổ phụ ta để lại trong 4.000 năm làm huệ kiếm. Ðể bảo trọng quốc hồn
của nòi giống thì mới trúng, còn ngoài ra dùng phương pháp khác là sai lầm.
Tôi nói ít mà các bạn nam
nữ hiểu nhiều, tôi chỉ trông cậy các bạn, vậy tôi xin để cả sự trông cậy của
tôi trong tâm của các bạn là hình thể của Ðức Chí Tôn thật hành dùm nhơn nghĩa
của Chí Tôn đã để trước Ðền Thánh cho đời ngó thấy, đặng hướng lấy hạnh phúc
thiên nhiên ngàn xưa để lại là may mắn cho tương lai con Hồng cháu Lạc.
Chúng ta hãy lấy Nho Phong
làm căn bản, phục sanh hồn nước đã điêu tàn sau 80 năm nô lệ, cho nó phục sanh
lại với cái năng lực làm sống quốc hồn của mình trong 4.000 năm về trước. Như
thảng ta vẽ được khéo, được đẹp thì người ta đang trông mong cho nó thành
tướng. Chừng đó chúng ta không muốn bán cũng có kẻ mua, chẳng phải một nước
Việt Nam nầy thôi, mà toàn cầu vạn quốc nài mua mà chớ.
Nhưng phải làm sao cho nên
hình tướng để có đủ quyền năng bảo trọng cả toàn cầu nhơn loại đặng tồn tại,
sống trong tinh thần đạo đức, trong sự công bình yêu ái của Chí Tôn gieo trồng
nơi cửa Ðạo, đến chừng ấy chúng ta có thể trương tấm bảng lên rằng:
- Nền Ðạo Cao Ðài làm môi
giới, căn bản nền đại đồng thế giới đó vậy.
Bần Ðạo tưởng ly rượu nồng
ngày hôm nay là ly rượu trường sanh bất tử, bởi đây là nơi sản xuất hột giống
trường sanh bất tử. Ly rượu trường sanh nầy, các bạn đừng khinh rẽ nó.
Trước khi từ giã, cảm ơn
các vị giáo viên và chư vị tân phong nam nữ đã cho Bần Ðạo hưởng được mùi ngon,
vị ngọt rất hay ho.
Bần Ðạo để lời cám ơn. (Thuyết
Ðạo QI / tr121)
*
* *
24. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Thời tý, mùng 5 tháng 6 năm Kỷ Sửu ( 1949 )
Luật Ðạo liên quan với luật Ðời
Ðêm nay Bần
Ðạo thuyết đạo có liên quan với Thể Pháp tức nhiên nói rõ luật Ðạo có liên quan
với luật Ðời.
Ta thấy cơ quan tạo đoan
càn khôn vũ trụ là cơ quan của Ðức Chí Tôn đã phụng sự vạn linh về chơn pháp, vậy điều
đó Bần Ðạo đã thuyết rồi, thuyết ấy Bần Ðạo nói rằng : Ðất phải hy sinh đặng phụng
sự thảo mộc, nghĩa là phải hy sinh đặng nuôi cây, cây hy sinh với thú, tức nuôi
thú mà loài người đứng đầu thú mà thôi.
Vì cớ nên cổ luật buộc nói
thú phải hy sinh phụng sự cho người, phụng sự không đi quá mức hy sinh đặng
nuôi người, một lẽ vì lầm hiểu chơn pháp nên nhơn sanh lầm lạc.
Bây giờ tới mức nữa, người
phải hy sinh phụng sự cho Trời chắc cả thảy đều nhớ cổ luật. Thượng cổ khi tế
Trời thì đem người ra giết, rồi thiêu người như thú vật, tế sống loài người,
thời hạn cổ luật ấy khá lâu đã dùng tế vật hiến cho Ðức Chí Tôn, nên Bần Ðạo
chiếu theo sử thì đã có từ bốn chục ngàn năm, trước pháp luật ấy thử nghĩ coi
số nhơn mạng buổi nọ phải đem ra làm tế vật đặng tế Ðức Chí Tôn.
Mới đây trước lịch sử
6.000 năm đời vua Jacob, trước 6.000 năm theo đạo luật của dân Hébreux ( Do
Thái ) luật giết người, hy sinh dâng con người làm của tế Trời, vẫn còn vậy.
Hỏi Ðức Chí Tôn có cho như
vậy chăng ? Ðức Chí Tôn đòi hỏi như vậy chăng ? Bần Ðạo dám chắc, không.
Vì chính mình Ngài tạo vạn
linh phụng sự cho vạn linh, có lẽ nào cho nhơn loại lấy sanh mạng làm tế vật
đặng tế Ngài bao giờ, ta thấy phụng sự vạn linh, luật ấy đi từ vật loại đến
nhơn loại, tức nhiên nhờ ta thấy con ong có một ong chúa phụng sự, phụng sự đến
đâu nó làm chúa vẫn có quyền chúa, vì cớ nên có nhiều phận sự sanh sản nòi
giống duy nhứt của nó mà thôi.
Như hồi thượng cổ trước
đây 150.000 năm, loài người cũng vậy, cũng một khuôn luật vậy, Ðạo pháp còn để
lại ta gọi Ðấng vi chủ, các sắc dân tiếng phạn gọi Manu. Hiện giờ con ong con,
mối chúa nó cũng vậy, nó phụng sự cho cả ổ mối hơn ai hết, bởi chính mình mối
chúa nó phải sản xuất cả chủng tộc mối trong ổ đó.
Ta thấy các triều chính
trong xã hội nhơn quần, lập nền chánh trị có tương liên với quốc dân do một
khuôn khổ, dân chúng chịu một pháp luật, luật pháp ấy muốn ai thi hành phải có
triều chính tức nhiên chính mình nhà vua phải phụng sự quần linh là phụng sự
trong quốc dân vậy, mà một mình vua trị toàn thể lê dân không kham, nên phải
lập triều chính là từ bực tể tướng dĩ chí đến bực phủ, huyện, hiệp lại thành
chánh trị. Quốc gia thay thế hình ảnh của vua đặng phụng sự quốc dân mà thôi.
Ta thấy từ vật loại như
mối chúa, ong chúa, là chúa cả loài mối, chúa của loài ong, phụng sự của nó
cũng phải lập ra triều chính mới cầm phương pháp để phụng sự được. Còn nhà vua
lập triều chính để làm gì ? tức nhiên là biến thân ra muôn, ngàn, triệu đặng
phụng sự cho lê dân một nước mới được. Bây giờ Ðức Chí Tôn phụng sự, Ngài phụng
sự cho cả vạn linh toàn thiên hạ, Ngài phải làm thế nào, Ngài dùng phương pháp
nào phụng sự vạn linh nầy, Ngài lấy vạn linh phụng sự cho vạn linh, Ngài lấy
đất nuôi cây, lấy cây nuôi thú, lấy thú nuôi người không lạ gì, lấy thú đặng
phụng sự cho người, Ngài dùng căn bản ấy để phụng sự. Như một ông vua lập triều
chính dùng dân phụng sự cho dân, một khuôn khổ mà thôi, Ðức Chí Tôn ngày giờ
nầy đến lập Ðạo tức nhiên Ngài muốn phụng sự nhơn sanh nơi địa cầu 68 nầy.
Ấy vậy, ta thấy mối chúa
vì phụng sự loài mối mới làm chúa mối. Con ong chúa vì phụng sự loài ong mới
làm chúa loài ong. Nhà vua vì phụng sự quốc dân mới làm vua.
Nên Ðức Chí Tôn vì phụng
sự vạn linh mới làm Trời, Ngài lập triều chánh là Hội Thánh tức là Thánh Thể
của Ngài, muốn Thánh Thể của Ngài đủ quyền phụng sự chính mình Ngài lập và cho
quyền đặc biệt Thánh Thể Ngài là phần tử của Ngài, tức là Ngài vậy.
Ngài lấy triều chánh trên
Thiên Cung thế nào, Ngài lập thánh thể dưới nầy cũng y như thế ấy, như thế ta
thấy thánh thể tức nhiên Hội Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại
thế không phải mơ mộng, Ngài chỉ dùng công nghiệp của người mà phải đền trả bồi
thường.
Vậy Ðức Chí Tôn đến cậy
nhơn sanh làm Thánh Thể của Ngài, Ngài phải bồi thường, phải trả mắc cho người,
người ta mới phụng sự cho Ngài, trả bằng cách đến ký hòa ước với loài người
nhứt là với dân tộc Việt Nam nầy trước đã, nếu các người thay thế cho Tôi,
phụng sự con cái Tôi, Tôi có phận sự lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật cho các
người chịu không ? Nếu các người chịu làm tôi cho con cái Tôi cho vừa sức Tôi
muốn, cho vừa sở ý Tôi định thì Tôi sẽ trả mắc cho mấy người vì công ấy Tôi
thường lại ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật, tức nhiên Tôi đem đưa cơ quan giải
thoát nơi tay mấy người, mấy người đạt được nơi thế nầy thế nào, nơi cõi vô
hình Tôi cũng không chối cãi.
Bởi chính mình Ngài cậy
làm tôi tớ cho con cái Ngài tại thế nầy, Ngài mới đem phẩm vị Thần, Thánh,
Tiên, Phật đưa cho ta.
Nếu chúng ta đạt được, khi
trở về cõi hư linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và Ðức Chí Tôn không hề chối cãi
mà chẳng có quyền luật nào định cải được phẩm vị của chúng ta do phụng sự vạn
linh mà lập được tại thế nầy. (Thuyết Ðạo QIII / tr31 Quyền Ðời & Quyền Ðạo
( tt )
* * *
25.- Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ngày rằm tháng 11 năm Ðinh Hợi ( 1947 )
Thiên Tài & Nhơn Tài
Hôm nay Bần Ðạo giảng về
Thiên Tài và Nhơn Tài, nhưng trước khi giảng thuyết ấy, nên mở một lối để cả thảy hiểu
nguyên do nào mình đạt được thiên tài hay chỉ nắm nhơn tài mà thôi.
Bần Ðạo đã giảng nhiều
phen Tam Bửu, đã cho cả thảy biết trong mình ta có tam thân, thất phách, chúng
ta gọi theo đạo giáo là Tinh, Khí, Thần.
Thứ nhứt : Thân thể hữu
hình của chúng ta đây gọi là phàm thân.
Thứ nhì : Thân thể khí
chất vô hình, mắt không nhìn thấy được, nếu chúng ta thấy được là đạt đạo, gọi
là Pháp thân.
Thứ ba : Gọi là Linh thân
tức là linh hồn.
Ba món báu ấy chung hiệp
nhau lại tạo nên hình ảnh con người.
Nếu ta thấy được thì thân
thể hữu hình nầy đồng thể với vật loại tức là thú vật. Pháp thân tương liên với
càn khôn thế giới đồng thể với khí, cả khí chất tạo đoan ra nguyên do loài
người, lấy nguyên do đó làm hình ảnh của linh thân chúng ta, còn sự sáng suốt
linh thiêng là do nơi lòng Ðức Ðại Từ Phụ. Vậy chia làm ba người trong ta nuôi
nấng xác hài hữu hình nầy. Pháp thân một mặt gìn giữ xác thân châu toàn kiếp
sống, một mặt tương liên với quyền năng sở định của các Ðấng thiêng liêng với
Chí Tôn, vậy nó chia ra hai lập trường:
1 . Lập trường đối với vật loại.
2 . Lập trường đối với Chí Tôn và các Ðấng Thiêng
Liêng.
Ðối với Chí Tôn, Pháp thân
phải có tinh thần trí thức bổn năng xu hướng quyền năng vô hình, tìm nguyên căn
mình xu hướng theo Ðấng tạo đoan, hiểu thể hình, biết đi, biết về gọi là huệ
tức tâm. Thảng như không biết, chỉ lo bảo tồn sự sanh sống của vật loại thôi
thì trở nên tánh. Một đàng linh tâm, một đàng giác tánh, nó ở giữa.
Bây giờ đã hiểu rồi, Bần
Ðạo xin thuyết về "Thiên Tài và Nhơn
Tài".
Tri giác Pháp thân chúng
ta có hai điều xu hướng, hễ xu hướng theo thiên tư thì đạt được thiên lương là
một khối tài tình đạt kiếp sống vi chủ cùng tận hình thể, việc nầy không gì
khác hơn là cái kho đựng quyền năng ta đạt được. Trong phép luân chuyển kiếp
sanh lập kho chất chứa cả tài vật của chúng ta đạt đặng trong kiếp sanh, nhờ
đào luyện bởi bài học khổ của cơ tạo đoan, năng chịu khổ, giỏi chịu hành hạ,
khổ não chất chứa. Kho đó còn tài vẫn còn.
Trở lại giác tánh, ta thấy
gì ? Biết bảo trọng mạng sống như muôn vật, như trâu ăn cỏ, khỉ ăn trái cây,
giác tánh tạo hình xu hướng theo vật lọai thì đè pháp thân xuống, muốn tìm hạnh
phúc mà thôi, mà tiềm tàng hạnh phúc ta tưởng thế gian nầy nhiều tượng hình,
tương đối với càn khôn, xác thịt yếu ớt tìm phương bảo vệ, không có phương nào
không làm, so sánh với vạn vật thì con người thua nhiều con vật khác, thua công
khai, như con cọp mình kêu là ông cọp. Muốn thắng nó đặng thì trí lự tìm phương
quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự vệ lấy mình, nên làm chủ nó được. Giác
tánh tìm phương tự vệ phải xu hướng theo đường duy vật.
Nhơn tài ta thấy gì ? Có một kho sách ở thành NewYork có 2 triệu
quyển sách, học mưu hay chước khéo, cả thảy tài tình nhơn loại cộng thành khối lớn, nhưng chưa hề quyết đoán vận mạng nhơn loại
được.
Nhơn tài đã làm gì hạnh
phúc cho nhơn loại, chúng ta đã thấy dầu cách vật, họ đi tới mức huệ, quá không
được, trở lại vật hình. Trên kia đã thấy gì ? Họ tìm phương pháp tương tàn
tương sát nhau, có gì khác hơn đâu, bởi duy vật chỉ làm chúa vật loại mà thôi,
ấy là nhơn tài. Phương pháp của con người tìm thế đem cả hình thể của người lên
làm chúa cả vạn vật, ấy là thuyết duy vật. Những mưu chước hay khéo, họ thâu
đoạt được để làm chúa vạn vật thuộc nhơn tài.
Bây giờ tới thuyết Thiên
Tài: Thiên tài là khi nào pháp thân xu hướng theo nguyên do căn bản tâm linh
của nó. Tự hỏi mình cũng như con vật, sao khôn ngoan hơn vật, sao có linh tâm,
có căn bản vì đâu ? Tìm kiếm ra căn bản ấy là Tu. Tu để tìm nguyên do linh tâm
chúng ta là thiên lương ta đó, hay khéo hơn hết là ngày giờ nào để trí thức
tinh thần theo thiên lương thì mở mang một cách lạ lùng.
Tại sao khiếu vật hình
không làm trở ngại vật mà phải cùng ta tự tìm kiếm, tự luyện tinh thần ấy là
Pháp thân thì đạt huệ, mà đạt huệ đặng thì đóng khối trong kho vô tận từ thử
đến giờ, nếu mở cửa ra được thì lấy được, kiếp nầy mang thi hài xác thịt, có
một bài học mà thôi, còn các bài học kia nếu chúng ta dở quyển sách vĩnh sanh
ra thì không có gì khuất lấp được.
Thiên tài qui tụ nơi trí
ta đặng, không có năng lực nào nơi mặt thế nầy đối phó mà ta không thắng. Không
nói thiên tài ấy đủ quyền năng tạo hạnh phúc thi hài chúng ta mà thôi, lại còn
tạo hạnh phúc cho thiên hạ nữa mà chớ, ấy là cơ quan đạt Ðạo. Các giáo chủ tại
thế nắm Thiên Tài, bảo trọng tinh thần loài người tức nhiên cứu người đó, bởi
chúng ta thắng vật hình hữu vi, hữu hoại nầy. Ðêm ngày 24 giờ, thấy chết sống
trước mắt, thiệt tướng. Chẳng phải ở cái sống nầy mà ở trong buổi chết, biết
bao nhiêu kẻ khi khổ não cực nhọc thi hài quá lẽ, chạy theo phương cứu khổ, tìm
không được phải thống khổ tinh thần, muốn an ủi chúng nó phải đi con đường nào
? Sự thống khổ chỉ an ủi được chỉ trong giấc ngủ, khi thức, mở mắt ra thấy kiếp
sống nầy đang đau thảm, ta tìm được phương an ủi, làm cho bình tỉnh tâm hồn,
định được thiên lương chúng ta trong giấc ngủ, khi thức chúng ta đã thấy trường
đời đau thảm.
Ðã giải rõ hai thuyết Nhơn
Tài và Thiên Tài, xem coi bên nào hơn bên nào kém. Hại thay ! Những kẻ biết vật
không biết hình bóng của vật, chỉ biết vật không biết thiên lương, bởi cớ trường
đời ta thấy trí lự nhơn tài tìm phương tranh đấu sanh sống, hạnh phúc hơn
người, cả nhơn tài hiện tướng dữ dội lần lần đẹp đẽ có mùi vị quyền năng trục
cả tinh thần con người theo nó, chưa biết tồn tại chăng ? Hình ảnh trước mắt ta
thấy cả trường đời đi đến con đường tự diệt, chớ không phải con đường vĩnh
sanh. Nếu chúng ta muốn đạt được quyền vĩnh sanh thì lấy Thiên Tài làm căn bản.
Muốn đoạt Thiên Tài không
theo ai, không xin ai được hơn là đi theo Ðại Từ Phụ, dầu ta ngu ngốc thế nào,
xin một ngày không đặng thì hai ngày đến một tháng, một năm, nếu theo hoài dầu
cho có nhiều xin mà ông cha không thể cho đặng, chúng ta cứ cương quyết chìu
lòn phục lụy, kiên nhẫn theo hoài, dầu khó cũng phải cho, bởi không nở nào
không cho, mà hễ Ðấng ấy cho rồi không có cái gì ở thế gian nầy đối với của ấy
được.
Lời Bần Ðạo căn dặn: Mặc
ai sang trọng ở trường đời, ta cứ quyết theo Chí Tôn thì đại nghiệp không mất,
quả quyết đứa con nào của Ngài trọn trung, trọn hiếu với Người và với Hội Thánh
là hình thể của Người tại thế gian nầy, thì không bao giờ thất nghiệp và thất
phận. (Thuyết Ðạo QI / tr 112)
* * *
26. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ðêm 15 tháng 11 năm Kỷ Sửu ( 1949 )
Thiên Ðạo & Vương
Ðạo
Cốt yếu Bần
Ðạo phải giảng cái đề tài ấy là có một việc xảy ra giữa Bảo Ðại và Bần Ðạo.
Cũng vì một đôi phần đồng đạo mình chưa hiểu thấu cái chơn lý của Vương Ðạo và chơn lý của Thiên
Ðạo là gì ? Lại bị những kẻ ố Ðạo, nhứt là đảng phái, họ dùng Ðạo làm quốc sự,
họ muốn giữa nhà vua và Ðạo sẽ có một điều xích mích với nhau đặng họ làm mất
uy tín của Ðạo, làm cho Ðạo não nề đi, đừng giúp ta cho Quốc Ðạo.
Họ nói lén
rằng : 'Ðồng Ðạo nói rằng Ðức Giáo Chủ lớn hơn Bảo Ðại.' Chính
mình họ không biết cái lớn đó là gì, tại sao nhỏ ? Tại sao lớn ? Rồi đồng Ðạo
nghe theo, tưởng đâu thiên hạ làm danh dự cho mình, lập đi lập lại
thấu đến tai Ðức Bảo Ðại. Chính Ðức Bảo Ðại nghe và nói : 'Tôi được biết Ðức
Giáo Chủ tức là Ðức Hộ Pháp, không bao giờ Ngài có cử chỉ ấy.' Với lời nói ấy
ta cũng thấy một vị minh quân.
Vậy Bần Ðạo
nói chỗ nào lớn chỗ nào nhỏ cho toàn thể con cái Ðức Chí Tôn thấu đáo, vả chăng
cái Thiên Ðạo khác với cái Vương Ðạo, cũng như Ðế Ðạo khác với Bá Ðạo.
Hai cái Ðạo kia Bần Ðạo không có ngày giờ luận thuyết, Bần Ðạo chỉ lấy cái
Thiên Ðạo và Vương Ðạo mà thuyết cho toàn thể được biết. Tại sao nền Ðạo Cao Ðài nầy Ðức Chí
Tôn gọi là Ðại Ðạo ? Bởi vì nó bao trùm trên các Ðạo lý kia hết.
Bần Ðạo thường thuyết Nho
Tông chúng ta, Ðức Khổng Phu Tử không lập Thánh, không lập Giáo Chủ
với Hội Thánh. Dầu cho tam thiên đồ đệ và thất thập nhị hiền mà Ngài cũng không
lập Hội Thánh, chỉ để cho các Chơn Thánh ấy tìm biết địa vị Thánh của mình mà
thôi. Bần Ðạo muốn thuyết minh điều ấy ra nhưng dài lắm, thuyết trọn đêm nay
cũng không hết bây giờ chỉ lấy triết lý mà thôi.
Triết lý về
Ðạo Giáo của Ðức Khổng Phu Tử không lập Hội Thánh, như trong một gia đình để cho
ông cha làm thầy, làm chủ giáo đạo trong gia đình. Trong thôn lân, Ngài để
Hương Chủ làm thầy giáo đạo trong thôn lân (vì buổi ấy không có Hương Cả). Trong
một nước Ngài để nhà vua làm thầy giáo đạo, Nho Tông của chúng ta vẫn vậy,
không khác, cũng để cho nhà vua làm thầy của nước, tức nhiên giáo chủ của Vương
Ðạo, cũng như Bá Ðạo và Bá Chủ.
Làm giáo chủ Ðế Ðạo thì có
vị Hoàng Ðế, đương nhiên bên nước Mỹ lập Bá Ðạo, chính mình Washington làm giáo
chủ. Bên Nga lập Bá Ðạo chính mình Kark Marx, làm giáo chủ. Cả vạn quốc đương
nhiên hãy muốn lập Ðế Ðạo làm như vậy. Nhưng để hoãn lại vài đêm sau Bần Ðạo sẽ
thuyết minh vấn đề Vương Ðạo của dân trong một nước. Vương Ðạo có thể nói là
Thánh Ðạo cũng được.
Nếu vị Thánh Vương cầm
quyền trị một nước: "Dĩ Ðạo vị thị"
có lẽ chúng ta nói là chơn đạo. Nếu trái ngược lại không tùng thiên mạng trị vì
quốc gia thì nó thành Tả Ðạo. Ấy vậy, Vương Ðạo là nhà vua, vì giáo chủ ngôi vị
nhà vua là giáo chủ về phần đời, tức nhiên phần xác.
Chúng ta lấy một cái gương
của Thánh Chúa Jésus Christ hay gương của Ðức Thích Ca thì sẽ thấy, dầu cho bên
Vương Ðạo phản kháng chiến đấu với Thiên Ðạo bao nhiêu đi nữa, Thiên Ðạo vẫn có
mực thước, địa vị của nó không lay chuyển, tạo sao ? Tại nó duy chủ phần hồn
của thiên hạ, nó tùng vị giáo chủ Thiêng Liêng là Ðức Chí Tôn tức nhiên là Ðại
Từ Phụ của chúng ta đó vậy. Nó có nước của nó, nó có đế nghiệp của nó, nhưng đế
nghiệp của nó không phải ở nơi mặt thế nầy, đế nghiệp của nó ở trên cảnh Thiêng
Liêng Hằng Sống kia mà. Hiện giờ các quốc gia, các xã hội, các chủng tộc nơi
mặt địa cầu nầy, trình độ văn hiến về tinh thần văn minh của họ lên cực điểm,
mà họ không thể gì biết cái quyền năng duy chủ của phần hồn họ bao giờ.
Ông vua làm chúa quốc dân
về phần xác nơi mặt địa cầu này, làm chúa một nước mà thôi. Về phần xác tức
nhiên về phần Ðời, chớ họ không có quyền làm chúa về phần hồn. Làm chúa về phần
hồn duy có Ðức Chí Tôn mà thôi. Ngày giờ nầy Bần Ðạo đứng tại nơi đây xin thú
thật với con cái của Ngài, người thay thế phần xác của Ngài là Hội Thánh, Hội
Thánh là phần xác của Ðức Chí Tôn tại thế đó vậy.
Bần Ðạo dám tự xưng là
Giáo Chủ. Vị Giáo Chủ, tức nhiên người thay thế hình ảnh cho Ðức Chí Tôn, đặng
làm Chúa phần hồn toàn mặt địa cầu nầy. Nhưng Bần Ðạo chỉ biết làm phận sự, làm
tôi cho con Ðức Chí Tôn, thay thế hình ảnh của Ngài đặng làm bạn làm anh em với
con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy mà thôi, chớ chưa hề biết làm chủ. Cả Hội
Thánh cũng vậy chỉ làm bạn, làm anh em dìu dắt con cái Ngài về phần hồn đặng
đoạt cơ giải thoát mà thôi.
Nếu nói lớn là lớn về phần
hồn, nói nhỏ là nhỏ về phần xác. Chính máu thịt Việt Nam ở trong huyết quản của
Bần Ðạo, Bần Ðạo là chủng tộc Việt Nam, ở trong phong tục Việt Nam. Ngoài ra
địa vị Giáo Chủ thì Bần Ðạo là Phạm Công Tắc là công dân trong một nước, là tôi
của nhà vua, Bần Ðạo chỉ làm thầy giáo Ðạo mà thôi.
Khổng Giáo của chúng ta có
đặt địa vị hàng phẩm lớn nhỏ là: Quân - Sư - Phụ ( Vua, Thầy, Cha ) ba phẩm đó
nó trật tự không thể luận được. Trong nước Bần Ðạo là vị Sư mà thôi, Bần Ðạo có
thể nói là vị Giáo Chủ. Bần Ðạo có thể lớn hơn các nước ngoài kia về phần hồn,
mà cái hồn ấy do mạng lịnh của Ðức Chí Tôn chớ không phải của Bần Ðạo. Làm Giáo
Chủ như Bần Ðạo, ngồi bốc cơm ăn cũng không thẹn, mà lên địa vị Quốc Sư cũng
không ngao ngán ; không lớn hơn ai mà nhứt định không nhỏ hơn ai.
Từ đây đến sau con cái của
Ðức Chí Tôn nên hiểu biết cái cơ quan hữu vi nầy. Nào là đài cát vinh diệu cả
tấn tuồng ấy không có giá trị gì đối với chúng ta, chúng ta đã chê bỏ nó rồi.
Nếu theo chơn Ðức Chí Tôn, con đường thiên lý theo Ngài vào con đường Thiêng
Liêng Hằng Sống, chớ không phải ở cõi tạm nầy. Nếu chúng ta biết cảnh thiệt của
nó thì chúng ta không có giá trị gì hết, mà không có giá trị tức nhiên không có
hàng phẩm nào đặc biệt hết.
Vậy sau nầy ai có hỏi, nói
không lớn không nhỏ gì hết... Lớn là lớn cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống. Nhỏ là
nhỏ cảnh tạm này, phải cho biết hai cái đó thì đủ . (Thuyết Ðạo QIII tái bản /
tr75)
* * *
27. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 7 năm Nhâm Thìn ( 1952
Cầu nguyện Lễ Trung Nguơn
Ðêm nay đêm
rằm Trung Nguơn, ấy là ngày kỷ niệm và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Bần Ðạo có dịp
thuyết rằng không có cô hồn, chỉ có các đẳng linh hồn mà thôi, chứ cô hồn không
có nữa.
Bần Ðạo đã thuyết minh Tam
Nguơn, trái địa cầu nầy, Nguơn Niên tức là Nguơn nửa năm, Nguơn Kỷ là Nguơn vào
12 tuổi, Nguơn Thế là Nguơn giữa trăm tuổi. Nếu nói ra thì phải 120 tuổi, Nguơn
Giáp là Nguơn Chuyển cũng đã giải rồi, đêm nay Bần Ðạo xin con cái của Ðức Chí
Tôn làm toán pháp với Bần Ðạo.
Vả chăng Ðức Chí Tôn đến
trong thời buổi nầy là mở Thượng Nguơn Tứ Chuyển, ta chưa biết nó sẽ ăn sâu vào
trong như thế nào, ta chỉ biết nó vừa qua khỏi Hạ Nguơn Tam Chuyển, ta lấy Tam
Chuyển làm căn bản mà thôi, nếu ta tính ba chuyển ấy là 3 lần 61 triệu năm, tức
nhiên 183 triệu năm, trái đất nầy phục sinh lại lần thứ nhì được 183 triệu năm.
Bây giờ ta nói luôn mặt
địa cầu nầy, giờ phút nầy nhơn loại tức nhiên các đẳng linh hồn đã đến ở mặt
thế gian nầy là 2.700 triệu, tức nhiên là 2.700 triệu chơn hồn đã có mặt tại
thế gian nầy.
Bây giờ ta phỏng định trái
đất nầy, có khi chứa nhiều nhơn loại, mà cũng có khi chứa ít, nhứt là buổi con
số nhơn loại trên mặt địa cầu nầy không có tổng số, lẽ dĩ nhiên nhơn loại tiến
triển đến chừng nào, nhơn loại tiến triển đến mức nào thì trái địa cầu nầy con
người vẫn còn tăng độ lên mãi, cái khuôn luật thiên nhiên kia muốn tăng độ nhơn
loại lên đa số làm cho trái đất nầy phải tới giờ tiêu diệt, nó có hạn định kiếp
số của nó, mà muốn làm cho tiêu diệt, nó phải làm cho giảm sức sanh sức sống
của nó, trái địa cầu nầy, nếu nói giờ phút nầy 2.700 triệu nhơn loại coi có
muốn mệt mõi rồi đa, nhơn loại muốn ăn cả sự sống của nó, ăn mãi cho đến khi
tới thời hạn kiếp số của nó, khuôn luật thiên nhiên vẫn vậy.
Bây giờ ta lấy tỉ số nữa
trong 2.700 triệu ta chỉ lấy chiết bán thôi, không cần chiết bán lấy khi ít khi
nhiều, lấy số chỉ định, nó có 500 triệu số nhỏ hơn hết, bây giờ lấy số 500
triệu nhơn cho 183 triệu tức nhiên 91.500 triệu thế kỷ, thử hỏi số nhơn loại
trên mặt địa cầu nầy từ 3 chuyển đến giờ là bao nhiêu, họ lộn, họ đến, họ chết,
họ sống, chúng ta thấy mặt địa cầu nầy duy có 10 triệu thước vòng quanh mà nơi
mặt đất nầy chứa đựng giỏi lắm, tôi tưởng tượng cho đều là 10.000 triệu là quá
chừng, nhưng số đó hằng hà sa số triệu. Nơi khoảng đất chúng ta đứng đây, một
chút xíu đất là có một chơn hồn đứng đó, nhưng mắt của chúng ta không thể thấy
đặng, chúng ta lấy một ngón tay chỉ xuống đất là đã có một chơn linh đứng đó
rồi.
Bởi cớ cho nên Bần Ðạo đã
nói không một hành tàng chi chúng ta làm mà không có chứng cớ, những chứng cớ
không di dịch gì hết, bởi họ có đó, có mãi đó thôi, thử chúng ta nghĩ một anh
khách trần nào ham mê quan tước thì đến 100 kiếp, tôi không nói chúng ta phải
ngàn ngàn, muôn muôn kiếp, từ vật chất đạt đến nhơn loại, không luận điều ấy,
chỉ luận các vị nguyên nhân đã đến tại thế gian nầy, bị giam hãm trăm kiếp,
trăm kiếp ấy, chúng ta tạo biết bao nhiêu cốt nhục, biết bao nhiêu tình ái,
biết bao nhiên gia tộc, biết bao nhiêu thân bằng quyến thuộc, chúng ta giờ phút
nầy, luận đấy trăm kiếp của những kẻ đã có hiện diện nhờ lòng yêu ái mà được an
ủi, nhờ lòng đạo đức được yên vui trong phẩm Nhơn Hồn đã tái kiếp để lập vị của
mình.
Có quyết đoán như vậy mới
được, nhứt là thời buổi nầy Ðức Chí Tôn đến ở cùng con cái của Ngài. Ôi ! Biết
bao nhiêu chơn linh tình nguyện, biết bao nhiêu chơn linh đón đường tìm Ổng,
tội nghiệp thay cho đấng chơn hồn từ trước muốn gặp như ta, gặp Ðức Chí Tôn mà
không thể gặp, họ còn ở nơi cõi vô hình kia, chúng ta thử nghĩ họ sẽ ham muốn
số phận họ như ta biết bao nhiêu mà nói.
Luật Thiên Nhiên kia buộc
mỗi cá nhân ta đã đến nơi mặt địa cầu nầy có định sống, không phải ai đến cũng
đặng, quả căn kiếp số đời đời có mực thước.
Như chúng ta đã thấy mặt
địa cầu nầy quá nhiều nhơn số, quyền Thiêng Liêng kia định cho nó có mực thước
có khuôn luật đặng định cho nó ở hay là đi, bởi vì thân phàm của chúng ta bị
quả kiếp nơi trái địa cầu nầy là trái địa cầu tồi tệ khổ não.
Thật ra chúng ta đã thí
nghiệm trong một kiếp sống trăm năm, chúng ta đặng 100 tuổi thì khối thảm khổ
đau đớn càng nhiều không có thời giờ thương yêu nhau, đâu có thì giờ thù hận.
Chúng ta đã thấy xung
quanh của chúng ta, cả toàn thể nhơn loại có tới 2.700 triệu, chúng ta liếc mắt
ngó lại nhiều kẻ còn mang thân cô quạnh ngồi giữa chợ đau khổ không ai hay,
không cơm ăn, tật nguyền không ai ngó đến, không ai giúp sức cho, hiu quạnh
đường đời, nhiều quả mạng căn kiếp số của hạng chúng ta, chúng ta không vi chủ
nó đặng.
Biết đâu những tinh thần
tàn ác tội tình, rồi ngày kia phải mang nghiệp chướng, chúng ta sẽ chà xát họ
như con vật, chừng đó mới biết ăn năn sám hối thì đã rồi. Giờ phút nầy nếu
không bảo vệ, binh vực cái sống của ta và bạn chúng ta thì tốt hơn đừng thèm
sống. huyết Ðạo QV / tr 64)
*
* *
28. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 7 năm Canh Dần ( 1950 )
Trong cõi Hư
Linh không có đẳng cấp cô hồn
Hôm nay là ngày rằm Trung
Nguơn, có một điều từ thử đến giờ bên Phật Giáo lạc lầm về chỗ các đẳng linh
hồn mà người ta gọi cô hồn đó, không có cô hồn đâu.
Hoặc may ra, có lẽ mấy vị
khi trước đã đạt pháp gặp đám ngạ quỉ súc sanh phần nhiều là con nít, các đẳng
chơn hồn về súc sanh, cho nên các chơn hồn trẻ mãi thôi vì cớ cho nên người ta
làm áo thí cô hồn nhỏ nhỏ vậy.
Không có cô hồn đâu, nếu
như Bần Ðạo không lầm thì người ta đã cho một vị là cô hồn, ấy là người con gái
là Thanh Tâm tài nữ đã chết, là khi người tắm ở tại Cap St. Jacques bị chết
chìm. Thanh Tâm tài nữ chết như thế mà không phải cô hồn đâu.
Các phẩm chơn hồn đạt phẩm
vị nhơn phẩm không có cô quả bao giờ. Nơi cảnh Hư Linh Hằng Sống kia người ta
còn có gia đình, thân tộc bạn tác anh em của người ta, không có một chơn hồn
nào đã đạt nhơn phẩm mà gọi cô hồn đặng. Có hay chăng là thiên hạ tưởng tượng
vậy thôi, tưởng người chết không con nối hậu, không ai phụng sự, xiêu mồ lạc mã
người ta cho là cô hồn, sự thật là không phải.
Bần Ðạo lập lại lần nữa,
không có cô hồn, chỉ có đám ngạ quỉ súc sanh mà thôi, như các đẳng chơn hồn mà
chúng ta cầu nguyện trong Trung Nguơn đây cốt yếu để cho họ giải quả thoát
kiếp, có lẽ trước kia người ta biết một điều bí mật là các ngạ quỉ súc sanh hay
ăn uống thường phá khuấy thiên hạ đặng kiếm ăn, còn chúng ta ngày Trung Nguơn
hay là Thượng Nguơn chúng ta cúng kiến là cúng ông bà tổ phụ, ông bà và bạn tác
đồng sống với chúng ta mới qui liễu.
Ngày cúng ấy là ngày chúng
ta nhắc lại sự đau thảm chia ly với nhau trong kiếp sống. Còn kiếp chết của
chúng ta sẽ được tương ngộ trên cảnh Hư Linh Hằng Sống kia, cái cảm tình của
chúng ta ngày đó dầu cho dưa muối mà chúng ta nhớ cái thâm tình ấy là quí
trọng. Quí trọng hay chăng là cái lòng yêu ái của chúng ta dưng cho họ, nhớ
tưởng đến họ mà thôi, sanh như tiền, tử như thị, ấy là Ðạo nhơn luân của chúng
ta, nhứt là Ðạo phong hóa của nhà Nam.
Bần Ðạo lập lại lần nữa
không có cô hồn đâu, nếu vị nào đọat được nhơn phẩm ở thế gian nầy dầu cho cô
quạnh thế nào, nơi cảnh thiêng liêng hằng sống kia họ cũng có anh em bạn tác
gia đình của họ, chúng ta không có người nào cô quả hết chỉ sợ có một điều là
bạn tác, anh chị em đồng sống với chúng ta mà họ không tu, khi về cảnh thiêng
liêng hằng sống không thế gì mà gặp nhau được, cái đó mới vô phước và đáng sợ
hơn hết, ngoài ra không có cô hồn, chỉ có đám ngạ quỉ súc sanh mà thôi.
Bần Ðạo thuyết tiếp về Tam
Nguơn:
Tại sao trong càn khôn vũ
trụ chia làm Tam Nguơn, là khi càn khôn vũ trụ chưa lập ra, ban đầu cả tinh
khối sanh lực của càn khôn bao trùm hết, khi biến thiên mới tạo ra vạn vật, hồi
lúc Ðức Chí Tôn giáng linh gọi là Thượng Nguơn. Người giáng linh nắm cả nguyên
khí ấy luyện trong càn khôn vũ trụ biết hoạt động nương theo cái sanh lực là
chữ khí đó (Hộ Pháp chỉ ra Liên Ðài Hộ Pháp có chữ Khí) tượng hình của mình.
Kế tiếp nữa là Trung
Nguơn, Ðức Chí Tôn tạo vạn vật dầu cho loài người cũng ở trong vạn vật ấy. Giờ
phút Ðức Chí Tôn đến cho loài người được cái linh, tức nhiên cho họ cái khôn
ngoan hiển hách khác hơn vạn loại kia, gọi là giáng khí vì cớ Ðức Hộ Pháp bắt
Ấn Trung Nguơn hai bàn tay phải hiệp lại với nhau là âm dương tương hiệp, theo
cái thiên linh của Ðức Chí Tôn đến cái nhơn linh của loài người.
Ðến Hạ Nguơn Ðức Chí Tôn
giáng trần, tức nhiên là cái thiên vị Ðức Chí Tôn mở ngôi Thần, Thánh, Tiên,
Phật cho vạn linh, đặng cho các chơn hồn đạt vị của mình, chuyển luân trong quả
kiếp sanh sanh tử tử mà đạt pháp lập thiên vị ; Ðức Chí Tôn giáng trần Hạ Nguơn
là cốt yếu như vậy. Vì cớ nên Hộ Pháp bắt Ấn Hạ Nguơn là tới từng Trà : hai bàn
tay úp nhau, tả là Dương trên, hữu là Âm dưới ; chụp lên đầu Kim Tiên đưa xuống
giáng Thần cho thiên hạ, ba cái Bí Pháp đó là như vậy.
Bây giờ Thượng Nguơn trở
lại, trong càn khôn vũ trụ Nhựt Quang có bảy trái địa cầu ( Sept planètes du
système solaire ) nhơn loại ở được bảy trái đó đi chung quanh giáp một vòng gọi
là đại chuyển thì có : 61.000.000 năm ( sáu mươi mốt triệu năm là một chuyển ).
Trong sáu mươi mốt triệu năm nếu chúng ta tính coi thì chúng ta thấy trái đất
nầy nó tái kiếp lại, nghĩa là chết rồi phục sinh lại bảy lần 61 là 427 triệu
năm, thì trái đất đã chết một phen cốt hài của nó còn lại là mặt trăng đó.
Kể từ nó mới phục sinh lại
đến nay là ba chuyển rồi, nó sẽ đến Thượng Nguơn Tứ Chuyển. Mỗi trung chuyển là
61.000 năm, hạ chuyển lại là : sáu ngàn một trăm năm. Một Giáng là sáu ngàn một
trăm năm cũng chia ra ba nguơn vậy. Một Giáng sáu ngàn một trăm năm thì mỗi
Nguơn là hai ngàn ba trăm ba mươi ba năm, hễ mỗi nguơn ấy tới 2.333 năm 33 ngày
33 giờ 33 phút, qua trong mấy cái ba mươi ba đó sẽ có một vị Thiêng Liêng ở
cung Phật hay cung Tiên giáng thế chuyển Ðạo. Vì cớ nên tượng hình càn khôn vũ
trụ có ba nguơn tạo đoan vạn vật.
Trung Nguơn là nguơn giáng
khí, như chúng ta có đức tin thì Trung Nguơn nầy chúng ta nên cầu khẩn Ðức Chí
Tôn để thức tỉnh tri thức tinh thần loài người đặng cho họ minh tâm kiến tánh
cho thiên linh của họ khôn ngoan đặng bảo tồn sinh mạng của họ.
Giờ phút nầy đừng cầu
nguyện cho cô hồn nữa mà chúng ta cầu nguyện cho con cái Ðức Chí Tôn cho họ đủ
năng lực để minh tâm kiến tánh, bảo trọng sanh mạng của họ mà thôi .
Thuyết Ðạo
QIII / tr 99
Top of Page
29. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 10 năm Nhâm Thìn ( 1952 )
Vật thể ngoài hành tinh của chúng ta
Kể từ đêm
nay nền chơn giáo của Ðức Chí Tôn lại thêm một tuổi nữa, tức nhiên đã đặng
28 tuổi. Con đường viễn vọng trên 28 năm ngó lại như giấc chiêm bao ngắn ngủi.
Chúng ta
cũng nên mừng, một nền chơn giáo mới mở 28 năm, mà độ rỗi cả các chơn linh về Ðạo về Ðời
như
thế nầy, cũng gọi nó là may mắn lắm vậy. Khi Ðức Chí Tôn đến chính mình Ngài
nói : Hễ Ðạo mở trễ một ngày, tức nhiên hại cho chúng sanh không biết mấy.
Ðại Từ Phụ nói: Một con
đường của chúng ta đi, cái năng lực phàm của ta nơi cõi trần nầy nhiều điều gay
trở khó khăn, mà điều ấy có lẽ Ðức Chí Tôn, tức nhiên Ðại Từ Phụ đã chung chịu
cùng chúng ta đó vậy.
Lại nữa đêm nay là đêm
chúng ta kỷ niệm các bạn thiêng liêng của chúng ta, dầu các chơn linh ấy ở nơi
cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống hay là các bạn đồng khổ với chúng ta đã qui hồi cựu
vị của họ.
Bần Ðạo thừa dịp kỷ niệm
của các đẳng linh hồn, thuyết một vấn đề, Bần Ðạo nói trước, hạng nhứt là bên
phái nữ, nghe câu chuyện rùng rợn về đừng giựt mình đa nghe.
Trước khi mở Hội Thánh,
Bần Ðạo có dịp hội đàm cùng Ðức Lý Giáo Tông, Ngài chỉ cho biết trước, kết liễu
của Hội Thánh như thế nào, nhưng điều ấy tưởng cả toàn thể con cái Ðức Chí Tôn
cũng không nên tìm hiểu điều tọc mạch đó làm gì, chuyện tới nó sẽ tới.
Luôn dịp luận về một vấn
đề : Nó thắc mắc làm cho Bần Ðạo để ý hơn hết. Mới rồi đây, các báo cả toàn cầu
mới đăng cái tin nói tại Mỹ quốc có một nơi nào đó dĩa bay rớt xuống, những tay
hiếu kỳ muốn đi tìm cho đặng, coi dĩa bay như thế nào ? Họ lên núi cao kia, xa
thẳm trong rừng già, họ tìm dĩa bay rớt xuống, vô đó không thấy gì hết chỉ thấy
xuất hiện một Kỳ Nhân lạ lùng, nghe nói mà rùng rợn : Con người gì mà ước độ 19
thước bề cao, 5 thước bề ngang, mình xanh lè, hào quang chiếu diệu ra, con mắt
đỏ như huyết, chiếu ra như đèn pha xe hơi. Người ta thấy dị hình dị dạng, bắt
sợ hãi lắm, trong mình người đó xuất ra hơi khí, cái mùi lạ lùng lắm, giống như
thể mùi kim khí cháy vậy, nghe như mùi xe hơi cháy ra mùi khét. Khi ấy làm cho
người đó chịu không nỗi, đến khi về phải ói mửa, phải đau. Trong số ấy cũng có
người phụ nữ cũng tọc mạch vậy, theo bên phái nam là 7 người, có một người phụ
nữ làm chứng chắc rằng : Dị hợm lắm có bốn chân, mấy người kia không chắc bốn
chân hay hai chân. Duy có người can đảm hơn hết ở lại đặng coi, người ta đã
chạy hết mà ở lại coi cho được, đến khi người dị nhân đó đi lại gần thì hoảng
la ré lên phát chạy, sau khi về bị đau gần chết.
Bần Ðạo nghe chuyện đó dị
kỳ lắm mới vấn nạn Ðức Lý Giáo Tông, hỏi cái người đó là gì ?
Ðức Lý Giáo Tông trả lời :
- Thần chớ gì. Té ra từ thử đến giờ họ vô Ðạo, không kể Trời Ðất Thánh Thần
Tiên Phật gì hết nên Ðức Chí Tôn sai một chơn linh, một lấy năng lực nguyên tử
mà họ thí nghiệm, đặng tạo hình hài của vị Thiên Thần đó cho đời ngó thấy, nhứt
là lời nói của Ðức Chí Tôn cho con cái trong Ðạo Cao Ðài của Ngài sẽ còn thấy
nhiều cái dị nữa.
Bần Ðạo hỏi vậy chớ Ðức
Chí Tôn cho ngó thấy điều đó để làm gì ?
Ðức Lý Giáo Tông nói Ðại
Từ Phụ cho thấy đặng nhơn loại hay rằng : - Nếu họ không trở lại Thiên Tánh của
họ, không tự mình lấy bổn nguyên sanh hóa của tạo đoan, tức nhiên không lấy căn
bản của Ðại Từ Phụ mà làm mực thước, làm tinh thần, làm năng lực thì nhân loại
ngày kia sẽ tiêu diệt và thay đổi cả xác thịt, hình thể nhơn loại nơi mặt địa
cầu nầy thành một hình thể khác hẳn bây giờ.
Bần Ðạo mới hỏi thi thể
của người dị nhân đó lấy năng lực nguyên tử tạo hình, cái sự làm đó có phải là
do quyền năng vô lượng của các Ðấng Thiêng Liêng mới làm được, hay là ai cũng
có thể làm được.
Ðức Lý nói:
- Các chơn linh nơi càn
khôn vũ trụ đều làm được hết, chư hiền hữu một ngày kia cũng có thể làm được,
bất quá vị đó là một chơn linh Thần vị mà thôi. Hiền hữu đừng tưởng rằng : Loài
người dị hình dị trạng vậy mà thôi. Trong ngũ hành : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ,
nhơn loại ở càn khôn vũ trụ đều tạo hình hài bằng ngũ hành hết.
- Nói vậy cái vị Thiên
Thần nói đó, tạo hình bằng kim khí. Còn chúng tôi ở quả địa cầu 68 tạo hình hài
bằng gì ?
Ðức Lý nói: - Chư hiền hữu
là Thổ Hình.
- Còn chỗ nào có hình
khác, khác nữa không ?
Ðức Lý nói: - Chư Hiền Hữu
ở thế gian nầy, thấy sống trăm năm, cầu ước cho trường sinh bất tử, nếu Chư
hiền hữu đầu kiếp lên ngôi Hỏa Tinh kia các người có thể sống đôi 3.000 năm,
bởi vì nó thuộc về Hỏa, cho nên nó không bị tiêu diệt. Mà sống đây có nhiều
người, sự sống đó biết bao nhiêu vì sống lâu quá!.
- Cái thân thể vậy mà sống
khổ cái nổi gì ?
- Chư hiền hữu biết rằng :
Ngũ Hành tương khắc với nhau, hễ có thân nầy thì có thân kia, tương khắc với
nhau làm đau đớn, khổ não chớ vui sướng nỗi gì.
Thành thử luận rồi Bần Ðạo
cũng xét mình với cái Thổ Hình của chúng ta, nghĩ ra mình hạnh phúc hơn hết.
Nếu sự thật có thi hình nơi Hỏa Tinh dầu sống trăm năm trong Thổ Hình còn hạnh
phúc hơn họ nhiều. Trên kia có nhiều Ðấng Chơn Linh Phật Thể của mình, trong
Ngũ Hành họ chịu đau đớn khổ não hơn mình . Mang một kiếp sanh dầu có quyền
năng thế nào thì cái khổ não ấy chẳng hề khi nào thoát khỏi, dầu có thoát khỏi
đặng hay chăng là nhờ cái quyền năng của Ðức Chí Tôn cho ta đặng sống nơi cõi
Thiêng Liêng Hằng Sống. (Thuyết Ðạo QV / tr 94)
* * *
30. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm rằm tháng 6 năm Kỷ Sửu ( 1949 )
Cái án tử hình bất công của xã hội
Nhân đang
thuyết về sự tương khắc của Thế Ðạo và Chơn Ðạo trong cơ quan phụng sự vạn linh,
Bần Ðạo ngày nay thừa dịp ấy thuyết về vấn đề án tử hình của các xã hội nhơn quần đã dùng trị
thế với một phương pháp phi pháp.
Bằng cớ là Ðức Chí Tôn đã
phú thác cho Bần Ðạo đảm nhiệm rất khó khăn và rất trọng yếu, Ngài căn dặn
nhiều phen làm thế nào trừ cho được cái án tử hình do xã hội giết người một
cách phi pháp và nơi nào cây cờ Ðạo trương lên bất kỳ nước nào, xứ nào, phải
làm sao cho được bóng cờ ấy trở nên Thánh Ðịa, tức nhiên không có quyền hành
nào xâm phạm nó đặng bảo vệ sanh mạng nhơn loại cả mặt địa cầu, tưởng lại ta
thi thố có kết quả cùng chăng tại đó ta đã để một dấu hỏi ?
Ðương nhiên Bần Ðạo thi
thố phận sự đối với Ðức Chí Tôn để phụng sự nhơn loại. Buổi Bần Ðạo ở hải ngoại
về, khi ở Madagascar có quen biết hai người thân sĩ giống dân Malgache, hai vị
thân sĩ ấy vì tội phiến loạn tức vận động phục quốc của họ, bị Pháp triều lên
án tử hình, Bần Ðạo đánh điện văn xin hủy án tử hình ấy, hoặc thay bằng án nào
khác hơn là giết người. May thay ! nước Pháp là nước cầm quyền được văn minh
chiếu diệu nơi địa cầu nầy ai cũng biết, lại là nước đề xướng nhân quyền. Ngày
nay, Bần Ðạo hữu hạnh thấy vụ án tử hình ấy được đem xử lại.
Lại nữa, khi Bần Ðạo hội
kiến cùng Cựu Hoàng Bảo Ðại tại Ðà Lạt, trước khi về có để lại cho Người một
bức cẩm nang, vấn đề đầu tiên hơn hết là bỏ án tử hình và toàn xá các tù nhơn.
Tại sao Ðức Chí Tôn phải căn dặn Bần Ðạo hủy bỏ án tử hình và tranh đấu đến kỳ
cùng cho kết liễu điều ấy, bởi nó phi pháp, không có quyền năng nào hơn mặt địa
cầu nầy hay là càn khôn vũ trụ đặng làm chúa mạng sống của vạn linh, cả cái chi
mình có quyền vi chủ nhứt định xài nó, dùng nó, mình là chủ quyền đặng, cái chi
không phải mình vi chủ mà mình cướp đoạt là có tội, mạng sanh không phải là
mình vi chủ, Ðức Thượng Ðế vi chủ. Duy Ðức Thượng Ðế có quyền định sống chết,
ngoài cái quyền của Ðức Thượng Ðế tức Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ của chúng ta
thì không có quyền nào định chết sống cho ta được, chết sống ấy không phải là
mình định được. Lại nữa ta biết con người sanh ra nơi cõi thế nầy có ba xu
hướng :
1. / Là trả quả.
2. / Là học hỏi.
3. / Là lập vị.
Ði đến đặng trả quả tức là
làm đầy tớ cho đời, học hỏi tức là học trò của đời, còn đến lập vị tức là đến
làm học trò khó của đời.
Nếu nói từ thử đến giờ có
ông chủ nào có quyền giết đầy tớ phi pháp chăng ? Không có, dầu cho con vật như
con ngựa kia rủi mắc chứng không chịu cỡi, ta cho kéo xe, không kéo xe được ta
tập nó cày, chớ không phải nó không được một việc gì rồi đem giết. Con người
đến thế nầy cũng vậy, làm đầy tớ trả quả do nơi căn quả về trí thức tinh thần
họ không đủ để bảo vệ thiên lương của họ, ngoài ra phương pháp giáo hóa ấy nhơn
sanh nơi mặt địa cầu nầy còn có nhiều điều mâu thuẫn, nếu như một người nào
không được chí thiện, chí chơn, ta thử hỏi : Ai là người trên mặt địa cầu nầy
dám nói mình là chí thiện, chí chơn chăng ?
Ðức Chúa Jésus Christ tức
là Gia Tô Giáo Chủ nói :
"
Nul n’est parfait ici bas seul notre Père au delà des Cieux qui est parfait." Không ai dưới thế nầy được toàn mỹ
toàn thiện, chỉ có Ðức Cha ta trên
Thiên Cung mà thôi.
Một cơ quan tại thế nếu nói các chơn linh mang xác phàm
đặng học hỏi, họ đã học bài gì ở
thế gian, ta chỉ thấy nước nầy tranh sống với nước kia, mạnh hiếp yếu, giàu
hiếp nghèo, cả sự bất công nơi mặt địa cầu đã dẫy đầy không phương thế gì giải thoát cho hết trong khi nước mình hơn nước người ta, đưa binh khí trong tay, xúi giết
nhau, quen thói giết rồi, chúng giết người lại đem ra giết chính mình, đem cái giết ra dạy nó làm, rồi trở lại giết
nó.
Giờ phút nào chánh trị nơi mặt địa cầu biết cung
kỉnh mạng sanh nhơn loại đồng thể thì đừng dạy nhơn loại dữ, Thánh nhơn đã có nói: 'Thánh' bất giáo nhi thiện,
'Hiền' giáo nhi hậu thiện, 'Ngu' giáo diệt bất thiện, rồi hỏi lại. Bất giáo nhi
thiện phi thánh nhi hà, giáo nhi hậu thiện phi hiền nhi hà, giáo diệt bất thiện
phi ngu nhi hà.
Nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy vẫn nhiều từng hạng ,
từng lớp, biểu kẻ ngu sao làm Thần, Thánh được, kẻ dại biết phương pháp cơ quan
trị thế được, đương nhiên ta thấy phương pháp giáo dân một cách phi pháp biểu
sao không dữ, không tàn ác, nhơn sanh buổi nầy do ông thầy xã hội nhơn quần dạy họ dữ, tới chừng họ dữ, đem họ giết phi
pháp, dạy hiền đi, giờ phút nào dạy hiền mà họ còn dữ chừng đó mới giết họ chớ !
Quái dị thay ! Ðạo Ðời vẫn tương khắc điều
thiệt hại ấy do họ muốn lập quyền, giành quyền giáo hóa nhơn sanh, họ cũng ngăn
đạo giáo, họ giành quyền giáo hóa trong tay để họ dạy thiên hạ dữ, hỏi đem ra
mặt công lý của tòa lương tâm Ðạo kiện Ðời thử coi ? Tại sao họ giành quyền
dạy người ta dữ !
Giết người ta rồi chừng ấy
giữa tòa lương tâm họ sẽ trả lời thế
nào ? Bần Ðạo nói quả quyết giờ phút nào còn một hơi thở cuối cùng Bần Ðạo cũng
nhứt định chiến đấu cho tiêu hủy cái án tử hình của nhơn loại. ( Thuyết Ðạo QIII / tr 34 ).
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét