Thuyết-Đạo: Chúng ta đã có dịp nói qua rồi về con
đường tiến-hóa của Vạn-Linh hay là con đường Thiêng-Liêng-Hằng-Sống tức là con
đường tiến-hóa từ vật-chất đến thảo-mộc, thú cầm mới lên phảm người. Giai đoạn
đó phải đòi hỏi cả muôn năm, muôn kiếp trong mỗi phẩm.
Vì vậy, từ buổi mới được kết tạo nơi chốn bào thai
thì mọi đơn-vị nhơn-loại đã phải chịu ảnh-hưởng của nợ tiền-khiên là công chuộc
quả của các bậc tiến-hóa trước từ kim-thạch đổ lên đã phải chịu trong vòng
vận-chuyển của Bát-Hồn.
Hiểu vậy thì mỗi chúng ta khi mới tượng-hình trong
bào-thai đã có nợ rất nhiều rồi trong tiền-kiếp trên bước đường tiến-hóa từ khi
còn là kim-thạch đổ lên. Như vậy thì mỗi kiếp sanh đã sẵn nặng nợ của Tạo-vật
dẫy-đầy, mặc dầu là chưa làm chi nên tội.
Rồi một khi lọt lòng mẹ bước ra chào đời thì lại
còn thêm nặng nợ xã-hội nhơn-quần, bắt đầu là nợ sanh thành dưỡng-dục, mớm cơm
vú sữa, rồi đến nợ áo cơm ăn học, nợ tình-cảm trong gia-đình, cha mẹ, anh em,
thân tộc rồi đến bạn tác. Một khi đến lúc trưởng-thành thì lại thêm quả-nghiệp
tạo dựng gia-đình nên chồng nên vợ, nên nhà nên cửa, nhứt nhứt mỗi nhu-cầu
trong sự sanh sống hằng ngày đều là cơ hội để vay thêm nợ của xã-hội. Đó là
định-nghiệp của một kiếp. Lấy lý mà suy-nghiệm, thì cả một kiếp sanh, mỗi
đơn-vị con người đã phải chịu ơn tấn-hóa của hóa-nhơn, rồi lại chịu ơn
cấp-dưỡng của đồng loại. Hai cái ơn ấy muốn cả đơn-vị chơn-hồn con người phải
đi theo đà sanh-hóa, luân-chuyển mãi thôi ! Trong cơ vay trả biết bao giờ mới
hết?
Đó là nói về nguyên-quả, còn nói về nghiệp-quả, thì
ngoài các món nợ mà ta tự gây nên thì còn phải chịu nợ của những kẻ đã hy-sinh
cho kiếp sống của chúng ta ấy là sự nhờ vã lẫn nhau trên đường sanh-nghiệp.
Bát cơm của chúng ta ăn hằng ngày để nuôi sống thân
phàm nầy là do ơn của bao nhiêu người đã phải khổ cực, dầm sương dãi nắng để
tạo ra, từ người nông phu luôn cả con súc vật đã cực khổ cày bừa, dọn dẹp thửa
đất cho sạch-sẽ để rồi gieo lúa lên mạ. Khi cây mạ đúng sức rồi, phải nhờ bao
nhiêu công đẻ cấy. Khi cấy xong rồi còn phải chăm nom, săn-sóc, giữ cỏ, giữ
nước, giữ sâu bọ, chim chóc, đến lúc chín còn phải cắt, gặt, đập, giê xay, giã
.v.v...Ra hột gạo rồi còn phải vo nấu cho ra hột cơm mình ăn. Cái áo chúng ta
mặc , cũng do bao nhiêu công nợ mà chúng ta phải chịu, từ kéo ra sợi chỉ, dệt
lại thành bức cắt ra rồi may ráp lại cho ra kiểu vỡ một cái áo để ta mặc. Đó là
chưa kể những nợ mà ta phải chịu về những người tạo ra máy móc, hoạc tạo ra cái
kéo, cây kim .v.v...
Đấy là kể sơ hai thí-dụ cụ thể để nhận-thức những
món nợ vô cùng lớn lao và đầy-dẫy mà ta phải lo trả.
Một khi ta nhận-thức tận-tường về lý rồi, thì ta
nên kiếm ra lẽ đặng trả cho xong các mối nợ thì ta sẽ nhận thấy mãnh thân phàm
nầy chẳng phải đến mặt Thế nầy cho một cá-nhân mà sự liên đới của nhơn-loại.
Bởi cớ, chẳng có một cá-nhân nào được quyền sống
cho đơn-vị, tức là sống ích-kỷ hay vị-kỷ, cho riêng mình mà trái lại, phải đem
hết kiếp sống của mình ra để phụng-sự cho toàn-thể, hoặc bằng lời nầy, hay
phương khác theo thường gọi là phải sống vị tha.
Chúng ta cũng nên nhớ là nghiệp-quả ở trong sự
cấp-dưỡng của đồng loại về cái ăn, đồ mặc, chỗ ở, thì chẳng phải lấy của mà trừ
công cho đặng, mà là phải lấy thiện-ý của chơn-chánh để phục-sự, hầu cứu an nhơn
khổ, tức là ta phải lấy công mà trả công chớ không phải thế ỷ có tiền rồi lấy
tiền làm trọng và xem công quả của đồng-loại là rẻ. Đó là Đạo vậy.
Trong cửa Đạo, cũng như nơi mặt xã-hội, người đời
thường xãy ra lắm nỗi éo-le biến động. Ấy cũng bởi chưa hiểu thấy lý, và cũng
không tìm ra lẽ, mà khiến xảy ra bao nhiêu cuộc xáo trộn khổ cho nhơn-sanh, và
cũng làm cho cơ cứu-khổ cửa Đạo chẳng được thành hình, và nền Chánh-giáo phải
còn mờ tướng.
Lấy lý mà suy, đem lẽ đặng nghiệm, thì chúng ta
thấy mỗi người chúng ta muốn sống trong xã-hội phải sống liên-đới với tất cả
tầng lớp nhân-dân, chớ không thể sống riêng biệt mình, mà trái lại, phải sống
bằng cách nhờ vã lẫn nhau.
Nếu lấy theo lý đó mà suy ra, thì mối nợ xã-hội này
chúng ta trả biết bao giờ mới hết, và như thế thì phải chịu luân-chuyển cùng đà
sanh-hóa mãi hay sao?
Không đâu! Nếu chúng ta biết luật tiến-hóa của
vạn-linh đã định là hy-sinh về kiếp sống của mọi xác-thân nơi mặt thế này. Mọi
xác-thân nơi mặt thế nầy phải là vật hy-sinh trên đường thế sự.
Thêm nữa trong cửa Đạo, chúng ta vẫn biết rằng Đức
Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng chú-trọng nơi tâm thành, và chỉ lấy Tâm là
quí. Vì thế, nấu chúng ta biết, thì cả món nợ hay nói cách khác, cả công ơn của
xã-hội chúng ta có thể trả trong một kiếp mà quyền Thiêng-Liêng Vô-Hình vẫn
chấp-nhận cho ta, nếu ta đem hết tâm thành hy-sinh trọn vẹn mãnh thân phàm đẻ
phục-vụ cho nhơn-loại, hay cho những kẻ chung quanh mình mà không có một điểm
gì nhỏ mọn để nghĩ đến mình, tức là phải sống một đời hoàn-toàn vị tha không
còn một điểm gì nhỏ nhít vị-kỷ, mặc dầu kết quả về mặt hữu-hình không xứng đáng
là bao, nhưng tấm lòng chơn-thành quyết chí trọn vẹn hy-sinh đã bao trum hết,
và nếu quả quyết làm đúng theo vậy, thì quyền Thiêng-Liêng sẽ cho TRỪ HẾT NỢ
TRONG MỘT KIẾP !
Mới nghe qua tưởng là dễ, chớ thực-hành cho đúng
chưa phải là chuyện chơi và từ trưóc chưa có mấy ai dám hy-sinh trọn vẹn mãnh
thân hình mà không có một ý-nghĩ cỏn con về tư lợi cho mình, dầu là tư lợi về
tinh-thần hăy là hữu-danh.
Từ xưa đến nay ta chỉ thấy có một tấm gương để ấn
chứng lẽ này trong cửa Phật Giáo mà ít người đuợc hiểu rõ ý nghĩa. Đó là vị
Phật thường gọi à Ông Dám, được các chùa Phật để thờ nơi Hậu-Đường.
Sự tích sơ lược như sau: Ông là một người dốt nát
thật-thà, xin ở chùa làm công quả, lãnh phận sự nấu nước cúng Phật, và cho mọi
người dùng. Mặc dầu hết sức tận tụy với nhiệm vụ, nhưng những người ở trong
chùa, nhất là mấy chú Tiểu ngỗ nghịch rầy la, mắng nhiết hiếp đáp đủ điều mà
ông vẫn vui vẽ âm thầm quên mình tận tụy với nhiệm vụ, không một lời oán trách
hay than-thở.
Thường bữa đến tối là Ông lo vùi một cục than lữa,
để khuya Ông thôi lên nhen-nhúm có lửa nấu nước cho Ông Sư công-phu cúng Phật,
vì thưở ấy không có diêm quẹt.
Một hôm có kẻ ác tâm lén tưới nước tắt mấy cục than
lửa. Đến khuya Ông thức dậy dụm lữa, thì khổ nguy không biết lấy lửa đâu mà
nhen nhúm. Buổi ấy là nhà ở thưa thớt. Muốn đến xóm trên xin lửa phải qua một
khu rừng có đầy ác thú, nhưng vì nhiệm vụ Ông không kể thân sống, quyết đi xin
cho có lửa đem về nấu nước cúng Phật cho kịp giờ, nên một mình trong đêm tối
Ông băng mình đi đại.
Khi đến giữa rừng, gặp một con cọp đòi ăn thịt Ông,
thì Ông van lạy để Ông đi xin đặng lửa về nấu nước cúng Phật cho kịp giờ, rồi
Ông sẽ trở ra nạp thịt. Cọp bằng lòng, nên Ông đi xin đặng chút lửa than về
nhen nhúm lên nấu nước cho kịp giờ cho Ông Sư cúng Phật .
Khi ấy, Ông quyết giữ lời hứa, nên lén một mình trở
ra rừng nạp thịt cho cọp. hại thay, Ông lại gặp cọp gìà nói với Ông là răng cọp
không còn cứng bén, mà xương Ông lại cứng, ăn không nổi, nên yêu cầu Ông leo
lên cây cao buông tay rớt xuống cho dập xương thịt, cọp mới ăn đặng. Ông cũng
bằng lòng hy-sinh trọn vẹn leo lên ngọn cây thiệt cao buông tay cho rơi xuống
đất.
Theo tích kể lại, lúc Ông buông tay rớt xuống, thì
Ông được Phật rớt luôn và cọp già kia cũng là do Phật hóa hình để thử lòng Ông.
Chuyện kể nghe có vẽ thần thoại, nhưng ý nghĩa là nêu lên một gương hy sinh
trọn vẹn với một tinh thần vị tha bất vụ lợi, thì được quyền thiêng liêng chứng
cho quả Phật-vị, tức là Ông đã trả hết nợ trong một kiếp. Người ta đặt tên Ông
là Ông Dám, vì Ông dám làm một việc mà chưa có ai dám làm.
Trong sự hy sinh thì quyền Thiêng-Liêng chỉ chứng
cho TÂM THÀNH CHƠN CHÁNH không vụ danh, mà cũng không vụ-lọi. Nếu sự hy-sinh đó
càng ầm thầm kín đáo chừng nào thì giá-trị tinh thần lại càng cao chừng ấy, chớ
quyền thiêng liêng không kể sự hy-sinh ấy kết qủa to lớn hay nhỏ mọn.
Nếu sự hy-sinh có tính cách rầm rộ, quảng cáo, kích
động quần chúng với mục đích vì hữu danh thì sự hy-sinh ấy chẳng có giá trị gì
hết với quyền Thiêng-Liêng .
Vậy ai muốn hết nợ, hay đắc qủa trong một kiếp thì
chỉ có phải dám hy sinh trọn vẹn quên mình âm thầm phục vụ cho mọi người là
đặng.
Nhưng thử hỏi có mấy ai dám làm.
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét