Lời Tựa
Ít lời lược luận sơ ra trước đầu quyển sách nầy cốt để giúp ích cho đời thâm tín
thám-ngộ, sát cứu chơn giả chánh tà cho rõ đạo-lý.
Nhưng tôi thiểu học
không dùng văn-chương đặng nên lấy lời thật-thà luận ra cho hiểu mà thôi. Xin
đồng-chí xem, miễn nghị, như chỗ nào sai sót xin giúp thêm đặng ích cho đời.
Nguyên bổn sách nầy tôi
lập ra mười mấy năm rồi, mà chưa in được. Song anh em đạo-hữu có sao lục ra dùng đã
lâu,
hoặc là đổi hiệu khác, nay mới soạn lại in ra, vì bởi khi tôi mới soạn
rồi, tôi cầu chư Tiên giáng đàn xin xem xét coi chỗ nào sai sót và có đáng in
ra dùng hay không, thì có Ðức Thái-Thượng phê cho bài thơ như vầy:
Tương
công chiết luận trí thơ hồng
Kinh
điển huyền huyền diệu sắc phong
Nhựt
ảnh minh đâu tương phản bổn
Cao
ngôn tất diệu trí phi phòng.
Nguyễn Văn Kinh
Khi tôi còn nhỏ 13 tuổi, học Ðạo Minh-Sư tu-hành,
nhờ năng tìm kiếm kinh sách của Phật, Thánh, Tiên mà học đặng suy cổ nghiệm
kim, nghiên-cứu bổn mạc biện minh tà chánh, tận sát bì mao, tồn lưu cốt-chủy,
mới thấy rõ trong kinh sách và Ðơn-thơ của Tam-Giáo có để lối ẩn ngữ, tâm-pháp
bí truyền có ấn-chứng ứng nghiệm. Bởi vậy Tiên, Phật, Thánh, Hiền xưa cũng đều
tầm sư học đạo, tu-hành mà thành đạo.
Như đời Thượng-ngươn, nhứt-kỳ phổ-độ, người tu-hành
thành Tiên, Phật, Thánh, Hiền vô số. Trung-ngươn, nhị-kỳ phổ-độ, người tu-hành
cũng thành hiển nhiên tại thế. Nay Hạ-ngươn tam-kỳ phổ-độ, tuy chưa thấy người
tu thành như khi trước vậy mà sách lại cho rằng: "Kim hà nhơn cổ diệc hà nhơn, hữu vi giả diệc nhược thị",
nghĩa là xưa là người gì, hễ tu-hành trúng lý nhằm đạo thì cũng đặng siêu thoát
thành một thể. Thì mấy lời đó chẳng phải Thánh, Hiền, Tiên, Phật dối ngữ mà có
ích chi, nên tôi lập chí xung thiên, tu-hành, tịnh dưỡng tinh-thần một lúc mà
không thấy ấn-chứng ứng nghiệm chi cả. Sau tôi đi tầm Chơn Sư, may gặp ông Võ
Trần Tử, tôi hạ thân cầu giáo, nhờ Ngài chỉ chỗ huyền-cơ, tâm-pháp bí-truyền,
hỏa-hầu thứ-tự, y theo kinh điển, mới hạ thủ dụng công thí-nghiệm ước chừng 8,
9 tháng, thoạt nhiên đắc ấn-chứng ứng nghiệm cảnh thành, y trong kinh điển, thể
hành đến đâu có cảnh đoạn ấn-chứng ứng nghiệm tới đó, mới biết kinh sách Tiên,
Phật, Thánh, Hiền để không sai. Sau cách ít lâu tôi lập đàn cầu khẩn Tiên Phật
lấy huyền-cơ diệu bút cho tôi rõ những người lập chí tu luyện, nay có thành như
xưa vậy không? Thì khi ấy Ðức Lữ-Tổ giáng cho như vầy:
Chơn
Tiên bất nhị ngôn,
Luyện
đạo mạng vĩnh tồn.
Kim-đơn
thiên tải thọ,
Ðắc
vật thoát càn khôn.
Thì Tiên Phật cũng chắc cho rằng: nếu tu nhằm kỳ Ðạo
khai, hành trúng thiên-cơ, bí-pháp của Ðạo, thì cũng thành đặng. Nên tôi lo tìm
kiếm Tài, Lữ, Ðịa cho đủ đặng thiệt hành cùng lý tận tánh. Chẳng qua công-quả
chưa đầy, phước đức chưa đủ, nên phải gián đoạn mà bồi công lập đức. Nhơn lúc
thừa nhàn, tôi lược lục bổn sách hiệu là: Hội-Lý Xiển-Chơn Luận, nghĩa là nói
sơ các chơn-lý kinh điển của Tam-giáo, luận giải ra đây, cho người đồng-chí
thám-ngộ, cho rõ chánh-đạo mà tầm, khỏi lầm bàn-môn tả-đạo.
Tác-giả: NGUYỄN VĂN KINH
Làng Bình-Lý-Thôn
GIA-ÐỊNH
Hội
hiệp tinh-thần khí tự nhiên,
Lý
điều tâm tức vận huyền huyền,
Xiển
khai cửu khiếu xung tam đảnh,
Chơn
ý tụ thành thể hống diên.
***
Nguyễn
tu học đạo đạt cơ huyền,
Văn
võ luyện phanh khí đảo điên,
Kinh
điển bí-truyền tâm liễu ngộ,
Tự
nhiên thần khí phản tiên-thiên.
***
Ngọc ẩn côn sơn xuất bất kỳ,
Kinh
quyền phổ-độ thuyết huyền-vi,
Thanh
tâm minh biện qui tam-giáo,
Luận
giải tam thừa đạo hiển-vi.
THIÊN THỨ NHỨT
ÐẠI-ÐẠO HÓA SANH LUẬN
I
Ðạo là Hư-vô chi khí, nơi cùng tột chỗ không, lại hóa sanh nhứt khí: Thái-Cực
Hồng-Mông, phân định âm dương, khí trong sạch nhẹ nhàng thuộc dương, nổi lên
làm Trời; khí trọng trược nặng nề thuộc âm, lóng xuống làm Ðất.
Thanh trược hỗn hiệp (trong đục lộn nhau) âm dương giao phối sanh hóa ra người,
cùng muôn vật.
Người thọ bẩm khí Tiên-Thiên mà sanh tánh, giao cảm
âm dương mà thành hình; nhờ khí ngũ-hành nuôi nấng sanh ra ngũ tạng, ngũ đức,
ngũ linh. Bởi do đó mà trọn đủ, mới đứng đồng vào bực Tam-Tài: Thiên, Ðịa,
Nhơn.
Nên Trời thì có Nhựt, Nguyệt, Tinh; Ðất thì có
Thủy, Hỏa, Phong; Người thì có Tinh, Khí, Thần, cũng là Hư-vô chi khí mà sanh
hóa từ Tam-Cực, Tam-Thanh, đến Ngũ-Lão, Ngũ-Ðế.
Tam-cực là: Vô-cực, Thái-cực, Hoàng-cực.
Tam-Thanh là:
Thái-Thanh, Thượng-Thanh, Ngọc-Thanh.
Ngũ-Lão là: Kim-Công, Mộc-Mẫu, Xích-Tinh, Thủy-Tinh,
Huỳnh-Lão.
Ngũ-Ðế là: Phục-Hi, Thần-Nông, Huỳnh-Ðế, Nghiêu,
Thuấn.
Bởi do nơi Vô-Cực không khí mà hóa Thái-Cực,
Thái-Cực sanh Lưỡng-Nghi, Tam-Tài, Tứ-Tượng, Ngũ-hành, Bát-Quái, đến nhơn-loại,
Thái-Cổ, Bàn-Cổ. Bàn-Cổ lại hóa hóa sanh sanh càng ngày càng tăng số.
Nên khai Thiên thì có Tam-Cực, thâu viên thì có
Tam-Phật, sanh hóa thì nương Ngũ-hành, phổ-độ cũng nương Ngũ-Lão.
Tam-Phật là: Nhiên-Ðăng, Thích-Ca, Di-Lặc.
Ngũ-Lão là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ấy Ngũ-Công
vậy.
Kể từ Ngũ-Lão đến nay chủ trương ngũ-hành chuyển
hóa chẳng biết mấy kiếp hạ triều giáng thế.
Từ Tam-Hoàng, Ngũ-Ðế dẫn đến nay phân định Tam-Giáo
là Phật, Thánh, Tiên cũng năm ngôi ấy phân chia biến hóa trăm muôn ngàn ức,
hằng hà sa số, đầy khắp trong cõi trần gian lập đàn thuyết giáo, tùy nguơn hội
mà tá thành danh khác nhau lập Ðạo chẳng biết bao nhiêu kể xiết; ấy cũng do
Hư-vô chi khí mà hóa sanh muôn ngàn chi phái Thánh-Tiên-Phật, cũng một gốc Ðạo
mà phân lập ra mấy đời Thánh-Giáo, rồi cũng huờn nguyên lại một, nên nhứt sanh
vạn-vật, Ðạo sanh nhứt.
II
Bởi Ðạo gốc không có chi cả, kêu là Hư-vô chi khí,
biến sanh âm dương động tịnh, mà phần âm có ẩn phần dương, nơi phần dương có ẩn
phần âm, nên sách gọi rằng âm trung hữu chơn dương, dương trung hữu chơn âm, âm
dương điên-đảo ấy là Ðạo. Nên nhứt nhứt cả, phải có Ðạo mới sanh sanh hóa hóa
siêu thoát lên theo khí dương, còn không Ðạo thì luân luân trầm trầm chuyển
xuống theo khí âm, ấy là lẽ tự nhiên của Tạo-hóa vậy.
Kể từ nhứt khí Thái-cực (Trời) phân định âm dương
hóa sanh đến Bàn-Cổ. Thánh-Giáo dạy đạo cho đời mở mang sanh chúng từ ấy dẫn
đến Thái-Thượng Ðạo-Tổ, Nhiên-Ðăng Cổ-Phật truyền đạo hiệp thành Tam-Giáo, gọi
là Nhứt-kỳ phổ-độ, Tí-Hội thượng-nguơn khai đạo; dẫn xuống nhà Châu, Lão-Tử
Thái-Thượng hóa thân khai Ðạo Tiên, Thích-Ca truyền Ðạo Phật, Khổng-Phu-Tử và
Gia-Tô Giáo-chủ khai Ðạo Thánh sửa đời là Nhị-kỳ phổ-độ, Sửu-Hội trung-nguơn.
Nên ngươn hội nào cũng phải có Tam-Giáo dạy truyền tùy theo nhơn phẩm mà lập
Ðạo. Nay đã đến kỳ âm tận dương sanh, Thiên Địa tuần-huờn; nghĩa là, hung ác
tàn bạo, đến cuối cùng thì lẽ tự nhiên phải khởi sự lại từ-thiện nhơn-đức, nên
Trời hoằng khai Ðại-Ðạo mà cũng đã cho tiên-tri trong sấm truyền rằng: Mạt hậu
Tam-kỳ Thiên khai huỳnh-đạo, gọi là Dần-Hội, Trời mở Ðạo, phổ-độ lần thứ ba kêu
là Tam-kỳ phổ-độ. Ðộ, là độ rỗi sanh linh, lấy huyền-diệu thiêng-liêng mà lập
thành Ðại-Ðạo; ấy là Chơn-Ðạo.
Thuở trước chưa có Trời Ðất chi hết thì Tạo-hóa
cũng duy có một khí Vô-cực (là không khí) mà gầy dựng nên Trời Ðất, đến nay thì
cũng bởi lấy nơi không hình mà biến ra có hình, nên phải lấy chỗ vô hình mà lập
Ðạo, thì mới hợp cái bổn nguyên của Tạo-hóa; rồi nơi có hình chất ấy tiêu tụy
biến ra không, như vậy mới hiệp Ðạo.
III
Khi tạo thế đến giờ Thượng-Ðế chia chơn-linh của
Ngài biến ra mà lập đời, tức phải lập Ðạo. Như đời Châu Sơ, Thượng-Ðế chia
chơn-linh là Lão-Tử giáng sanh bên Trung-Quốc mở Ðạo Tiên, giáng sanh Ấn-Ðộ
Thiên-Trước xưng danh là Thích-Ca khai Ðạo Phật, cho Văn-Tuyên Vương giáng sanh
Trung-nguyên lập Nho-giáo, giáng sanh phương Tây lập Ðạo Thánh lấy danh là
Gia-Tô Giáo-Chủ. Mỗi kỳ khai đạo đủ mấy ngàn năm, kế mãn kỳ nguơn hội ấy thì
đạo bế lại, thì tức nhiên phải mất chánh pháp kỳ truyền, nên lúc ấy kẻ tu không
thành đặng.
Vì sao Ðạo khai rồi bế lại?
Vì Ðạo khai lâu, lòng người canh cải, bỏ lần
luật-lệ, không giữ qui điều cấm răn, làm cho Thánh-Giáo biến ra phàm giáo. Bởi
đó, đời phải đổi thay, luật Tam-cang chẳng giữ, phép Ngũ-thường không noi, thì
vua vô đạo, tôi bất trung, cha chẳng lành, con chẳng thảo, chồng bất nghĩa với
vợ, vợ thất tiết với chồng, anh chẳng hòa với em, em không thuận với anh, loạn
luân trái lý làm nhiều điều tồi phong bại tục, tham gian lường gạt, xảo trá
giành giựt với nhau mà tranh cạnh đường lợi lộc, mới có giết lẫn nhau. Phong
tục đổi dời, đời hung ác bạo tàn, đã vào đường tội lỗi muôn trùng biết bao kể
xiết, thế thì đạo làm người ra sao?
Bên Phật-Ðạo thì phần nhiều thầy tu không giữ
tam-qui và ngũ-giới cấm "tích kinh
điển dĩ mưu lợi, kiến tụng chuyên văn hạ thừa chi học" nghĩa là: mượn
kinh sách mà thủ lợi, chuông trống mô dạng gạt kẻ muội mê, thịt ăn rượu cũng
uống, thì đủ rõ đời chưa có Ðạo khai nên mới làm sự hung ác, thì Phật-Ðạo phải
biến đổi thất truyền.
Còn người tu theo Ðạo Tiên, không giữ tam-nguơn
ngũ-hành, dùng bùa chú ếm trấn, gạt-gẫm cho đời thêm điều giả dối, người tin
tưởng tà quái dị đoan, cho nên Tiên-giáo phải dợt phai thất truyền.
Vì đó mà Tam-Giáo phải thất truyền, chánh biến ra
tà, lòng người bất chánh, làm nhiều điều hung bạo, nào mưu sâu kế độc hại nhau,
tham gian cướp giựt, tranh danh đoạt lợi, chẳng kể công-lý, không thương đồng
loại, chẳng mến giống nòi, giết vật hại nhơn, mến ưa tửu, sắc, tài, khí, quí
trọng thân hình, miễn cho vui tâm khoái chí, chớ chẳng giúp ích cho người,
chẳng làm lợi cho vật, mà còn lập thế giết lẫn nhau, gian trá trộm cướp
lẫy-lừng, gọi tài hay học giỏi, mưu sâu thượng kế, chớ chẳng rõ mình xô lấy
mình vào hang thẳm xuống vực sâu, linh hồn phải chịu tam đồ khổ hải nơi biển
trầm luân, vay vay trả trả nhau hoài.
Như đời mà có Ðạo thì trong thiên-hạ hiền từ, nhơn
đức, nhà khỏi đóng cửa, đường không lượm của rơi; vì biết giữ theo luật của
Ðạo, mà luật của Ðạo tức là luật của Trời ban, luật của Trời biết giữ, thì ắt
phải sợ Trời, lấy hết tâm chí thành kỉnh làm lợi ích cho Trời, do y luật Trời
giữ sự công-bình ngay thẳng, thương người mến vật không xa-xí phá hại muôn loài
của Trời sanh; người biết giữ trọn vậy, sẽ trở nên tâm ôn-hòa, thật-thà
khiêm-nhượng, bổn tâm như vậy là đầu bài của Phật, Thánh, Tiên, thì người đặng
gần Phật, Thánh, Tiên, là đời có Ðạo.
Nên các việc chi phải có khởi sự rồi phải cuối cùng
tận tất. Cái cuối cùng tận tất chẳng dứt thì phải tuần-huờn trở lại; sự
tuần-huờn là vậy. Nếu trong lúc nầy khôn-ngoan trí hóa mà làm điều hung ác bạo
ngược đến cùng thì phải tới khi dại khờ ngu-xuẩn; như ngu-xuẩn dại khờ biết làm
hiền lành nhơn-đức thì phải tới khi khôn-ngoan trí hóa; hết thạnh đến suy, hết
cường bạo phải đến lúc nhu-nhược (yếu ớt), ấy là việc tuần-huờn của đời. Còn
phần Ðạo cũng vậy, Ðấng Tạo-Hóa công-bình thiêng-liêng, hễ lập Ðạo khai cho xứ
này rồi phải bế lại đặng khai xứ khác, tuần-huờn châu khắp, thì Ðạo cũng thạnh
hành rồi phải suy vi, suy vi rồi thạnh hành.
Ðạo chánh mở lâu rồi bị phàm canh cải chế biến thì
trở ra tà, tà biết sửa lỗi lại, lâu ngày phải trở nên chánh.
Nên Tạo-Hóa phân một phần âm một phần dương, một
phần về tối, một phần về sáng, thì đủ rõ Thiên Ðịa tuần-huờn, ấy là Ðạo.
IV
Như người cùng Trời Ðất đồng thuộc Tam-Tài mà chẳng
đặng như Trời Ðất đồng trường-cửu là vì cớ nào? Vì bởi chẳng biết lý dinh-hư
tiêu-trưởng, thấy máy huyền-vi, không lo tu tánh dưỡng mạng, phản lại
Tiên-Thiên hư-vô chi-chí.
Còn người với Tiên Phật đồng hình thể mà chẳng đặng
siêu thăng như Tiên Phật là vì cớ nào? Vì chẳng biết lý dinh-hư tiêu-trưởng
cùng máy Tiên-Thiên Ðại-Ðạo, tu phục môn, chìm đắm linh hồn, nhiễm lấy trược
khí nặng nề, thì ngõ Thiên-Ðàng vẫn đóng lại, cửa Ðịa-Ngục mở thông, cho có
phân đường thanh trược, siêu đọa Thiên-Ðàng, Ðịa-Ngục, thưởng phạt theo lẽ
công-bình, cũng do tại lòng người có hai nẻo: một đàng thiên-lý, một đàng
nhơn-dục, nên Tam-Giáo: Ðạo Lão, Ðạo Thích, Ðạo Nho cũng đều luận hai nẻo ấy.
Tiên kêu rằng: Càn-khôn phản phúc, âm dương động
tịnh; Phật kêu rằng: Thiên-Ðàng Ðịa-Ngục, luân-hồi quả báo; Thánh kêu rằng:
Thiện ác họa phước, Thiên-Ðịa tuần-huờn, cũng một lý.
Nếu muốn bỏ đường nhơn-dục theo đường thiên-lý thì
phải giữ theo điều-lệ Tam-Giáo mà rèn lòng sửa tánh cho trong sạch tinh-tấn,
làm điều phước đức cho đầy đủ, công-quả cho trọn mà tu luyện Tinh-Khí-Thần,
phản lại Tiên-Thiên nhứt khí, thì xác phàm mới trở lại nên xác Thánh, xác Tiên
xác Phật đặng.
V
Vậy thì trước hết buộc phải giữ tam-qui ngũ-giới,
trường trai, giới sát cho đặng toàn thể, nếu không trường trai tuyệt dục thì
vật-chất trược khí trong hình thể vẫn còn phải nặng-nề thì làm sao nhẹ nhàng
lên khỏi không khí.
Nên muốn thành Thánh, Tiên, Phật thì phải luyện
Tinh, Khí, Thần hiệp lại, mà ba món báu phải cho trong sạch tinh tấn, mới hiệp
với không khí Tiên-Thiên đặng.
Trong khí Tiên-Thiên thì có điễn quang, nó tương
khắc, nên buộc cái chơn-thần của con người phải tinh tấn trong sạch nhẹ hơn
không khí ấy mới ra ngoài Càn-Khôn đặng. Nó phải có cái bổn nguyên chí Thánh
mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng. Trong bổn nguyên phải có một thân phàm
tinh-khiết mới xuất chơn-thần tinh-khiết đặng.
Nên Nho có câu rằng: Dục khởi mỹ ốc, tiên trúc kỳ
cơ. Nghĩa là: Muốn khởi cất nhà trước phải đắp nền, nếu không giữ y điều lệ
trai-giới theo Ðạo thì chơn-linh người không tinh khiết, đâu trọn người chí
đức, thời làm sao luyện đạo cho thành đặng?
Nho có câu rằng: Nhân bất chí đức, chí đạo bất
ngưng yên. Nghĩa là: Người chưa đặng chí đức thì chí đạo khó thành đặng.
Nên Tam-Giáo lập điều-lệ ra cho người sửa tánh rèn
lòng đem về chỗ tự nhiên, đặng bồi đắp nền nhơn đức. Ấy vậy, điều lệ tam ngũ là
căn bổn của Tiên, Phật, qui giới là chuẩn thằng của Tam-Giáo. Nếu giữ luật Trời
đặng sanh hóa, không giữ luật Trời phải tiêu tụy mà chuyển kiếp luân-hồi.
THIÊN
THỨ NHÌ
GIỚI
TÂM LUẬN
Ðấng Tạo-Hóa là vì Thượng-Ðế, phú cho mỗi người một
điểm tánh (linh-quang). Ngài tỷ như một đốm lửa lớn lấy lửa đó mà chia ra mỗi
người một đốm lửa nhỏ kêu rằng: Tiểu Thiên-Ðịa. (Như một hột giống gieo xuống
đất rồi sanh sanh hóa hóa).
Ðiểm tánh linh ấy nó thuộc Tiên-Thiên nhứt khí chia
ra cho người thì phải thông đồng với khí không hình, hô-hấp của Trời Ðất. Nên
tánh linh con người cảm xúc cử động việc hiền lành trong lòng, thì cái cơ khí
của Trời điều động việc hiền lành; nó liên tiếp nhau. Thiên khí, là khí nhẹ
nhàng hơn hết hay khinh phù xung lên hiệp với Trời.
Còn điểm linh tánh của người cảm xúc cử động việc
dữ trong lòng, thì cái cơ khí của Trời điều động ác khí, ứng đối liên nhau. Ác
khí, thì hay nặng nề, ô trược trầm xuống hiệp với Ðất.
Nên sách Trung-Hiếu lược rằng: Khi kỳ nhơn tức tự
khi kỳ tâm, khi kỳ tâm tức tự khi kỳ Thiên. Nghĩa là: dối trá với người là dối
lòng mình, dối lòng mình thì là dối với Trời; nên rõ cái tâm con người thông
đồng với lòng Trời vậy.
Có câu:
Trạm trạm thanh thiên, bất khả di, vị tằng cử ý,
ngã tiên tri. Khuyến quân mạc tác khuy tâm sự, cổ vãng kim lai phóng quá thì.
Nghĩa là:
Trời tuy mịt mịt xanh xanh, chẳng nên dối, mựa tính
chi trong lòng thì Trời đã biết rồi, khuyên người chớ tính việc gian dối trong
lòng, xưa nay qua lại mấy ai lọt khỏi máy Tạo-Hóa đặng.
Ông Thiệu Tiên-sinh rằng: Phi cao diệc phi viễn, đô
chỉ tại nhơn tâm. Nghĩa là Trời chẳng phải cao, cũng chẳng phải xa, đều có ở
trong người cả.
Làm việc chi phải coi như có Trời Ðất chứng trong
lòng mình vậy, nên phải giữ mực công-bình mà bỏ các điều gian dối của cái ác
tâm, gìn lòng nhơn đức đó, giữ việc hiền lành bền chặt cho đến chết mà thôi,
thì là đền bồi ơn Tạo-Hóa. Bởi việc lành thuộc thanh khí, nhẹ nhàng hiệp với
Tạo-Hóa, mà mình giữ đặng lành thì là thù tạ báo đáp cung-hiếu công ơn của
Tạo-Hóa cùng cha mẹ; chớ mình, đứng trong vòng Tạo-Hóa đây mà an hưởng của ai
tạo lập? Các loài vật cùng gió, nước, lửa, sanh hóa vạn-vật cho có mà dùng ấy
có phải nhờ ơn Ðấng Tạo-Hóa là Trời chăng?
Vì cớ nào mình chẳng đoái nhìn công ơn đó? Chẳng lo
thờ kỉnh đền bồi? Bởi tâm phàm con người hay dời đổi, mắt hằng thấy sự hữu-hình,
lòng ham muốn theo thất-tình lục-dục, đua chen, tranh danh đoạt lợi, tửu, sắc,
tài, khí; vô ngằn ích riêng cho mình, quên phức căn bổn của con người, làm cho
phạm tội với Trời Ðất, xung khắc trong ngũ-hành, tán tận lương tâm, tiêu mòn
tinh khí mà chết, sa đọa luân-hồi, uổng cho mình lắm; vì vậy, nên không đền bồi
ơn của Tạo-Hóa cùng cha mẹ đặng.
Sách có nói rằng: "Dĩ ái thê tử chi tâm, sự thân tắc tận hiếu, dĩ bảo phú quới chi
tâm, sự quân tắc tận trung". Nghĩa là: lấy lòng thương con mến vợ đó
mà thương cha mến mẹ đặng vậy thì tột hiếu. Lấy lòng ham muốn sự giàu sang đó
mà ham muốn thờ vua đặng vậy thì tột trung.
Nên sách dạy rằng:
"Thế
tục sở vị bất hiếu giã ngũ, đọa kỳ tứ chi,
Bất
cố phụ-mẫu chi dưỡng, nhứt bất hiếu dã;
Bác
dịch, háo ẩm tửu bất cố phụ-mẫu chi dưỡng, nhị bất hiếu dã;
Háo
hóa tài tư thê tử, bất cố phụ-mẫu chi dưỡng, tam bất hiếu dã;
Tùng
nhĩ mục chi dục, dĩ vi phụ-mẫu lục, tứ bất hiếu dã;
Háo
dõng, đấu ngận dĩ nguy phụ-mẫu, ngũ bất hiếu dã".
Nghĩa là: tục đời bất hiếu có năm điều:
Làm cho hư hại thân-thể của mình chẳng đoái tưởng
công cha mẹ nuôi nấng cái hình vóc nầy, là một điều bất hiếu thứ nhứt;
Ham cờ bạc rượu thịt; chơi bời chẳng xét tưởng công
cha mẹ nuôi hình thể nầy, thì điều bất hiếu thứ hai;
Ham tiền của yêu mến đắm nịch vợ con, không nghĩ
tưởng công ơn cha mẹ nuôi cái xác nầy, là điều bất hiếu thứ ba;
Ham luyện thinh sắc vật dục đa tình, chẳng đoái
công ơn cha mẹ nuôi dưỡng cái hình tượng nầy, là điều bất hiếu thứ tư;
Ham đua tranh đánh đập làm cho hư nát thân-thể cha
mẹ sanh dưỡng là điều bất hiếu thứ năm.
Nên người phải lập chí tu thân dưỡng toàn bổn-thể
đặng làm trọn hiếu mà vào đường đạo-đức.
Nho nói rằng: "Thân
thể phát phu, thọ chi phụ-mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã. Lập thân
hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển kỳ phụ-mẫu, hiếu chi chung dã".
Nghĩa là cái hình vóc, da thịt thọ bẩm khí huyết
cha mẹ sanh chẳng nên phá hoại thương tổn thì là hiếu ban đầu vậy.
Còn lập thân học đạo, tu cho đắc cái thân nầy trở
nên Tiên, Phật, Thánh, Hiền thì hiếu đó là tận cùng vậy.
Mình phải suy cổ nghiệm kim học đòi mà sửa tánh lâu
lâu cũng trở nên đặng người hiền đức.
Sửa tánh răn lòng, tu thân là đường vào ngôi Thánh,
Hiền, Tiên, Phật đó.
Muốn sửa tánh răn lòng tu thân, hãy nghe theo lời
Ðức Khổng-Tử dạy đây: "Thông minh
huệ trí, thủ chi dĩ ngu, công bị thiên hạ, thủ chi dĩ nhượng, dõng lực chấn
thế, thủ chi dĩ khước, phú hữu tứ hải, thủ chi dĩ khiêm".
Nghĩa là: dẫu mình thông minh khôn biết hơn người
phải giữ tánh coi như ngu dại; dầu công lao mình đầy khắp trong thiên-hạ cũng
giữ lòng khiêm-nhượng; mình giàu có đầy dẫy bốn phương cũng phải giữ lòng như
kẻ nghèo hèn vậy.
Còn Thầy Tử-Cống nói rằng: "Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu".
Nghĩa là: Nghèo cũng không theo a dua nói lùa kẻ có
của, còn giàu cũng không khoe-khoang kiêu hảnh.
Ðức Phu-Tử lại nói rằng: "Bần nhi vô oán nan, phú nhi vô kiêu dị".
Nghĩa là: Nghèo không trách phận khi hèn khó, còn
giàu không khoe-khoang khi dễ.
Ông Thái-Công rằng: "Vật dĩ kỷ quí nhi tiện nhơn,vật dĩ kỷ cao nhi ti nhơn, vật thị trí
dĩ ngu nhơn, vật thị dõng dĩ khinh địch".
Nghĩa là: Chớ ỷ mình tước quan sang trọng mà chê
người hèn hạ; chớ ỷ mình nơi cao mà khi người thấp hèn. Chớ ỷ trí thông-minh mà
khi dễ người dại khờ, chớ cậy sức mạnh mà lấn lướt kẻ mềm yếu.
Song các Thánh Hiền xưa cũng phải răng lòng sửa
tánh, khắc kỷ phục lễ mà học Ðạo vô-vi, mới siêu phàm nhập Thánh đặng.
Còn chúng ta đây gặp lúc Tam-Kỳ mạt hội, đương thời
tấn bộ thì phải dùng con mắt tinh anh, nhậm lẹ mà dòm các việc trong đời đừng
cho lầm cuộc dối giả.
Con người trong cuộc thế nầy mãn lo phú quí công
hầu đua chen cho hết sức, chết rồi đều phủi hết.
Nên sách có câu rằng: "Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhứt đán vô thường vạn sự
hưu".
Nghĩa là: Ba tấc hơi còn thì ngàn việc của mình,
chẳng may vô số thường đến, muôn việc đều bỏ lại.
Xin đồng-chí xét đó mà coi, nghĩ cho chí lý, thiệt
là giả cuộc.
Nên đứng làm người phải giữ căn-bổn là nền đạo-đức
của mình; có chữ rằng: "Nhứt thất nhơn thân nan tái phục". Nghĩa là
mất thân nầy, khó kiếm trở lại đặng.
Sách có câu: "Bất
dĩ bần cùng nhi đãi đạo, bất dĩ phú quí nhi yểm đạo". Nghĩa là chẳng
vì nghèo nàn mà bê trễ đường đạo-đức, cũng chẳng vì giàu sang mà bỏ quên đạo.
Những việc đạo-đức thì có chánh có tà, các việc đều
có giả có thiệt. Tà do chánh mà ra, giả ở trong thiệt mà biến; nếu không lấy
con mắt tinh thần dòm xem, suy nghĩ thì khó biết đặng giả chơn.
Bởi con mắt chưa từng thấy, việc chưa từng làm đến,
sao biết so sánh thí-nghiệm chỗ chánh tà (1), vì đó, làm cho Ðạo Phật, Tiên,
Thánh, ba nhà lu lấp, biến đổi ra bàn-môn.
Vì vậy, mà chúng ta lấy đó dòm xem tôn-giáo nào, tu
không giữ tam-qui ngũ-giới, luật-lệ bề ngoài chẳng trọn thì luận chi tới
tâm-pháp bí-mật bề trong, nhưng cũng có kẻ bề ngoài giữ y qui điều mà bề trong
tâm-pháp bí-truyền chưa hề biết đến. Nên Ðạo chánh tà thiệt giả khó mà phân
biệt đặng.
Xin người đồng-chí mộ sự tu-hành, phải giữ tam ngũ
của Tam-Giáo làm căn-bổn là nền đạo-đức của Phật, Thánh, Tiên.
Chớ đừng ỷ mình rằng học theo đời xảo cho thái-quá
mà bỏ lấp căn-bổn lễ-nghi, trai-giới của Ðạo.
Song cũng nên hiểu, chữ thái-quá cũng như bất-cập. "Thông minh đa ám muội" nên
Thánh-nhơn hay giữ bậc trung-dung, chẳng cho thái-quá, chớ hề bất-cập.
Còn người học chưa quảng thông lịch-lảm trong
Tam-Giáo mà ỷ trí thông-minh do theo ý riêng của mình dịch giải kinh điển, hay
là đặt sách chi không thấu rõ lời bí yếu tâm-pháp của Tam-Giáo mà dịch ra thì
lấy làm hại những người do mà hành theo đó.
Vậy thì tội lỗi biết mấy, thiệt hại là bao, làm cho
người mộ đạo tu-hành do theo đó cả đời lầm sai, khổ hạnh, mà không thấy chỗ
thành cảnh ứng nghiệm.
Như Thầy Châu-Tử không vừa lòng trong Phật, Lão làm
chú-giải sách rằng: "Phật Lão hư-vô
tịch-diệt chi giáo".
- Như người làm sách "Qui Nguyên Trực Chỉ" đem góp đặt để nói theo đạo mình phải,
như vậy lầm cho kẻ hậu học không biết, lại còn chê bai báng sán nhau, thật rất
tổn đức và làm điều tồi bại cho nhau nữa. - Nên người tu muốn làm Tiên, Phật
thì cái tâm cho khác hơn tâm của phàm mới thành đặng.
(1) "Vị thức kim yên năng thí kim". Nghĩa là thuở nay mình
chưa thường dùng xài vàng làm sao biết cách thử vàng thiệt giả.
THIÊN
THỨ BA
THIỆN
ÁC BÁO ỨNG LUẬN
I
Bàn-môn, ba ngàn sáu trăm ngoại đạo, thì đạo nào
cũng có sở-trường sự hay, làm cho người đều tin mà lầm.
Nhưng ai đầy đủ phước đức, tiền kiếp có căn lành,
thì gặp chơn-sư chỉ truyền bí-pháp máy dinh-hư tiêu-trưởng, huyền diệu trong
mình mà tu-hành thì siêu phàm nhập Thánh chẳng sai.
Nên Phàm, Thánh tại người chưởng giống, hễ gầy
giống chi thì ra giống nấy; song người ở trần gian nầy, phải lo cho thân sau
chút ít; chờ đừng để xài phí hưởng hết phước lộc của mình, đến sau đâu mà hưởng
nữa.
Sách
có câu: "Hữu phước bất khả hưởng tận, phước tận thân bần cùng".
Như ngày nay mà đặng giàu sang là bởi kiếp trước
chưởng phước, tu-hành, nên nay sanh mà hưởng phước ấy.
Như nay không làm lành, tích phước, kiếp sau phước
nào đến cho mình hưởng nữa. Lúc nầy không lo trồng cây gây giống sau lấy chi mà
hưởng.
Nên trong Kinh Nhơn-Quả rằng: muốn biết kiếp trước
của người, thì xem đời nay người ta hưởng đó, muốn biết kiếp sau người thì xem
tâm tánh người đang gây tạo đây.
Tác thiện, thiên giáng chi bá tường; tác bất thiện,
thiên giáng chi bá ương. Nghĩa là: làm lành Trời xuống cho điều lành, làm điều
chẳng lành trả xuống cho trăm điều tai hại.
Ðức Ðạo-Tổ rằng: Họa phước không nhứt định, tại
lòng người dời đổi nó.
II
Sự giàu sang tiền của đây là Ơn Trên ban thưởng cho
người có công chứa phước điền khi trước, tùy theo mình làm ra nhiều hay ít mà
thưởng.
Kẻ chứa sự không lành thì cũng phạt tại thế gian,
một mảy không sót đặng.
Vậy nên mới có kẻ giàu người nghèo, kẻ tàn tật,
người đui mù, kẻ thông-minh, người ám-muội.
Nếu lành dữ không thưởng phạt, thì Trời Ðất ắt có
chỗ tư riêng sao?
Dương pháp nầy, dẫu trốn khỏi phép nước gia hình,
về âm pháp khó trốn quỉ thần ký phạt.
Nên sách rằng: Dương hiến cận nhi hữu đào, âm pháp
trì nhi bất lậu. Chớ đừng tưởng chết rồi thì mất đi, không kể về phần linh hồn
sau nữa. Nếu chết mà mất hết thì ai ai cũng làm điều hung dữ, các điều tội lỗi
sái phép công-bình cho dễ hơn, chớ cần gì làm sự hiền lành, nhơn đức chi cho bó
buộc tâm tánh hình xác của người. Còn Thánh, Hiền, Tiên, Phật tu-hành làm chi
cho cực nhọc thân thể, hễ chết rồi mất đâu còn nữa lo sợ.
Chẳng rõ Thiên-Ðàng, Ðịa-Ngục thưởng phạt thể nào,
xin xem trên thế-gian thì biết; kẻ sướng người cực, kẻ đói, người no, kẻ
liền-lạc, người tàn-tật, người sao quân-tử kẻ lại tiểu-nhơn, trí ngu chẳng
đồng, thì biết có sự thưởng phạt công-bình thiêng-liêng của Tạo-Hóa. Thiên-Ðịa
tuần-huờn báo ứng tự nhiên cho người đó.
THIÊN
THỨ TƯ
TÂM
TÁNH CỬ ÐỘNG LUẬN
Phàm người đứng trong thế-giới nầy thì phải biết
cái tâm tánh là nơi căn-bổn, những điều họa phước của ta như tâm tánh phát động
ra các điều nhơn lành chánh trực lợi ích cho người, chẳng kể lợi ta và
thanh-liêm trong sạch thì cái tánh linh của ta nó hiệp với thiện khí trở nên
nhẹ-nhàng khinh phù đặng. Còn như lòng ta phát động ra điều mất công-bình và
các việc thiệt hại cho người mà lợi cho ta, làm nhiều điều ác đức tội lỗi, thì
cái tánh linh của ta nó hiệp theo ác khí, phải trọng trược nặng-nề là sa đọa
theo ác khí đó. Cái tâm người cũng như cái máy điễn không dây. Nếu tâm tánh
người khiến tưởng điều lành hay điều dữ, sự phải, hay sự quấy thì cái thần điễn
của ta phát động ra thông đồng Trời Ðất liền. Thì thiện khí ác khí Trời Ðất
thấy tỏ phân minh, khó mà ngăn đóng giấu che đặng, Trời đã có lập luật tự nhiên
rồi vậy, mới có thưởng phạt siêu đọa Thiên-đường Ðịa-ngục.
Nên sách rằng: Nhơn tâm sanh nhứt niệm, thiên địa
tất giai tri. Nghĩa là: trong lòng người tưởng chỉ một điểm mà chưa ứng lộ ra
thì Trời Ðất đã rõ rồi.
Còn Kinh Cảm-Ứng rằng: Sở vị nhơn tâm khởi ư thiện,
thiện tuy vị di nhi kiết-thần dĩ tùy chi, hoặc tâm khởi ư ác, tuy vị di nhi
hung-thần dĩ tùy chi. Nghĩa là: lòng người khiến tưởng điều lành mà chưa làm ra
thì vì kiết-thần đã tới chứng cho người rồi. Còn lòng người khiến tưởng điều ác
mà chưa làm ra thì ác-thần đã tới chứng cho người đó, nên điều lành điều dữ
chẳng đợi lộ ra thấy vừa nghĩ-nghị nơi lòng thì Tạo-Hóa đã biết trước rồi.
Ðức Thái-Thượng rằng: Thiện ác nhứt hào cảm động,
Thiên địa tất hữu báo ứng. Nghĩa là: lành dữ một điểm nhỏ cũng động thấu Trời
Ðất thì có việc báo ứng, nên kêu rằng: thiện ác nhi báo như ảnh tùy hình. Nghĩa
là việc lành việc dữ vay trả như bóng theo hình.
THIÊN
THỨ NĂM
ÐẠI
ÂN LUẬN
Ðứng làm người có hai ơn rất lớn là:
Ơn Tạo-Hóa là vì Thượng-Ðế phú cho ta một điểm tánh
linh, đấng vào trong xác thịt của cha mẹ sanh đây, biết rõ muôn vật, khôn ngoan
dưới thế; cùng sanh hóa các loài vật dựng bốn mùa đủ cho nhân-loại dùng ấm no,
thì là một ơn lớn.
Còn cha mẹ lấy tinh huyết mà chia ra cho chúng ta
một cái thân hình nầy và nuôi nấng đến lớn, cực nhọc biết bao, ấy là ơn lớn thứ
hai.
Vậy người, sao chẳng nhớ lo đền bồi ơn ấy? Chớ
chúng ta ở đâu mà có đây, nở quên người sắm tạo.
Nên người đứng trong cõi thế nầy lo đền hai ơn đó
thì phải hơn hết. Nho rằng: "Vật hữu
bổn mạt sự hữu chung thỉ, tri sở tiền hậu, tắc cận đạo hỉ ". Nghĩa là:
vật chi cũng có gốc ngọn, sự chi cũng có trước sau; nếu mình biết gốc ngọn
trước sau đó, thì gần Ðạo vậy. Ấy là biết gốc tại đâu mà sanh sanh hóa hóa tới
chúng ta đây và lấy chi nuôi-nấng chúng ta đây.
Song người học biết rồi bỏ qua lo đua chen cuộc thế
những điều danh-lợi, ân-ái phú-quí, vinh-huê, làm cho hao tán tánh linh, hủy
hoại hình xác, tánh mạng tiêu mòn, đến chết rồi thôi, đâu có ngày giờ rảnh mà
đền bồi hai ơn đó, cùng là bồi đấp tánh mạng căn-bổn của chúng ta lại đặng.
Căn bổn là nhứt điểm linh tánh của người chủ-trương
nơi thân thể.
Nếu có nhiễ̉m tình đời nhiều, bị trược khí xâm vào
đàng nhơn-dục, thì phải tối-tăm nặng nề đọa xuống.
Còn biết tu-hành trong sạch, trở lại thuần dương,
thì nó khinh phù nhẹ-nhàng xung lên, nên đường lên xuống tại tâm người xử
khiến. Vì tại "nhơn dục sở tế, khí
bẩm sở câu", làm cho tánh linh buộc phải nặng xuống luân-hồi chuyển
kiếp vay trả nhau.
THIÊN THỨ SÁU
HIỀN THÁNH TIÊN LUẬN
I
Việc tu-hành, có nhiều bậc thành công khác nhau;
hoặc khiêm-nhượng, nhẫn-nhục, hoặc thí tiền của cứu kẻ bần hàn, tu kiều bồi lộ,
hoặc giữ cang-thường luân-lý, tránh điều hung dữ làm các việc lành, lập công
làm âm-chất, có công với đời; chết về Lạc-Thiện-Ðường, chánh là bậc Hiền đó.
Còn gặp chơn-sư chỉ phép tu-hành thấu rõ ấn-chứng
ứng nghiệm mà chưa kết đặng Linh-đơn, đi hành công lập đức giảng độ kẻ chẳng
lành, thức tỉnh người mê, lo bồi công đức với đời, Thánh Phàm lưỡng toàn là bậc
Thánh đó.
Như gặp chơn-sư chỉ truyền bí-pháp tu-hành, ly gia
cắt ái, kiếm nơi thanh tịnh tu-dưỡng Linh-đơn, hoặc ở thành-thị hoặc ở lâm-sơn,
mật tu chí đạo, chẳng cho mệt sức chẳng tổn tinh-thần, trần-gian dứt đoạn, khổ
chí kiên tâm, nhựt dạ công cần, Linh-đơn thành tựu mới là người Tiên đó.
Ðây cũng do tại sở hành công-quả mà thành, chẳng
phải tụng kinh niệm Phật mà nên, trì trai thủ giới mà trọn đủ.
II
Trì trai: Nghĩa là lòng nhơn thương vật, nên Thầy
Mạnh-Tử rằng: "Kiến kỳ sanh, bất
nhẫn kiến kỳ tử, văn kỳ thinh, bất nhẫn thực kỳ nhục". Nghĩa là: Thấy
sống chẳng nỡ đành thấy chết, nghe tiếng kêu la, ăn thịt sao đành. Nên người
chí nhơn phải trì trai giới sát và dùng vật-chất nhẹ nhàng giúp cho tánh
thiêng-liêng mới kêu rằng chí nhơn, cũng do nhơn đức mà làm Thánh Hiền đặng.
THIÊN THỨ BẢY
CHÁNH-ÐẠO LUẬN
ÐẠI-ÐẠO sanh Trời, sanh Ðất, sanh Người, sanh Vật.
Trời, Ðất, Người, Vật cũng một khí đồng sanh.
Trời có Âm-Dương,
Ðất có Cang-Nhu,
Người có Nam-Nữ,
Vật có Trống-Mái.
Hễ có Âm-Dương thì sanh Nhựt, Nguyệt, Tinh; có
Cang-Nhu thì sanh sơn, xuyên, thảo, mộc, thủy, hỏa, phong; có Trống-Mái mới hóa
sanh các loài Thai-noãn, Thấp-hóa; bốn loại sanh, có Nam-Nữ thì có phối-ngẫu,
sanh sản ra người.
Bởi phối-ngẫu, giao-cấu mới có dâm-dục sanh, ân-ái
phát mới có ma-chướng phiền não; ma-chướng sanh phiền não khởi, thì có các điều
khổ ách, các điều khổ ách mới hóa ra sanh, lão, bệnh, tử.
Bởi vậy Ðức Thượng-Ðế có lòng háo sanh, thương
người cùng vật mở Ðạo cứu thế, cho Phật Tiên xuống giải bày kinh điển, chỉ
truyền tâm-pháp, dạy đời tu-hành dưỡng tánh mạng thủ căn-bổn, giữ chỗ chơn nhất
khí, đặng trở về nơi cựu vị, cõi hư-vô khí. Còn như công-quả chưa đầy-đủ thì ẩn
nơi trần tục hằng ngày tu-dưỡng trau giồi ngọc báu của mình, tu cho đắc diệu lý
yểu minh, thì chơn tinh thường ngày sanh hóa. Tu cho đắc pháp hoản hốt, thì
chơn-khí không hao, thường sanh thì thạnh-vượng, không hao thì kiết tụ
linh-đơn.
Tinh hay hóa Khí, Khí hay hóa Thần, Thần hay thông
linh, thì khỏi âm-dương cướp hại, ngũ-hành xâm đoạt, tránh đặng sự nguy hiểm
trong bốn mùa Phong, Hàn, Thử, Thấp mới hiệp đặng đồng thể với Ðạo, siêu thoát
khỏi Trời-Ðất, ấy là Ðạo vô-vi thanh tịnh của Trời lập đó.
Ðời Hớn Ngụy-Bá-Dương Chơn-Nhơn, trong
Kim-Ngọc-Bích làm sách Tham-Ðồng-Khế mới đặt tên rằng: Long-Hổ, Diên-Hống. Qua
đời Ðường, Tống, chư Tiên lập các đơn-kinh lộ phát rõ ra để nhiều lời khác lạ,
lưu ký đơn-kinh vô số, đã xét tột lý bổn nguyên, ứng bày cốt-chủy, cũng một mà
lập khác tên.
Nên sách Thánh-Sư Xiển-Giáo lời dạy cặn-kẽ cho
người tường ý muốn người người đều thông, cả thảy thành đạo.
Song bày danh ra càng nhiều mà trần-gian càng ràng
buộc đắm sa. Kinh sách ra nhiều mà đường đạo-đức càng lu lấp, lời ẩn ngữ
tâm-pháp của Tam-Giáo, bởi tại đó, mà làm cho người học không chủ ý mối đạo-đức
cho thấu rõ căn nguyên mà nắm chánh lý, cứ học thoát qua mà thôi. Nay nhờ Trời
muốn ra một sợi buộc mối Ðại-Ðạo lại đem trở về nơi vô danh cổ-giáo, cũng dùng
rìu búa trẩy các nhánh nhóc bề ngoài bàn-môn ngoại đạo, cho thấy nơi căn-bổn
cốt-chủy khử tà qui chánh.
Các lời thí dụ lộ hết bổn chơn, phô trương đường
chánh lý sắp đặt các lời trực chỉ như đây, vậy phải tìm biết chơn Diên-Hống,
chơn Long-Hổ, chơn Ðảnh-Lư dược vật mà thể thủ trừu thiêm, ôn-dưỡng hỏa-hầu,
đặng lấy chơn Chưởng-Tử, phục tánh mạng lại cho kiết thành thai, rồi xuất thai
thứ lớp.
Như người có chí tầm sư học đạo rồi xem các
đơn-kinh thì rõ khỏi lầm bàn-môn ngoại đạo.
Vì đơn-kinh hạn ngưu sung đống giảng luận thì
nhiều, lộ lời khẩu-khuyết, hỏa-hầu thì ít, nên khó thấu lý rõ mà tu-hành vì đó
mà phải lầm nơi bàn-môn ngoại đạo.
Nay Trời thấy vậy mở lòng từ-bi lộ hết tâm-pháp
bí-mật cho kẻ có duyên tu, phản hồi thượng-giới, đặng khỏi sa chìm nơi khổ hải.
Ông Vân-Phòng Chơn-Nhơn nói rằng: Ðạo pháp ba ngàn
sáu trăm mối đạo, thì ai ai cũng chấp một mối, nhưng mà huyền-diệu khiếu khuyết
chẳng ở trong ba ngàn sáu trăm ngoại đạo. Duy riêng đây là Linh-đơn Ðại-Ðạo thì
có huyền-quang bí khuyết của đàng chánh-lý mà thôi.
Nếu bỏ đường chánh-lý nầy thì không nẻo nào tu
thành chánh quả đặng. Song huyền-quang bí khuyết Ðại-Ðạo khó gặp mà dễ thành,
lại thấy công hiệu ứng nghiệm thì lâu, còn bàn-môn diệu thuật dễ học mà khó
thành lại mau thấy sự hiển linh hiệu nghiệm.
THIÊN
THỨ TÁM
BÀN-MÔN
LUẬN
Ðạo Bàn-môn dị thuật phần nhiều tham danh thủ lợi
tài sắc trái lẽ đạo-đức, nên khiến học thoát qua mà không gặp đàng ngay, lý
chánh, vì căn duyên siển bạc, phước đức chưa đầy-đủ, dẫu cho gặp nẻo chánh rồi
cũng khiến lòng nghi hoặc thối chí lại đem mối chánh đó chế biến ra tà. Nho nói
rằng: "Tiểu đức xuyên lưu, đại đức
đôn hóa". Nghĩa là: người ít phước đức, phải tuông rơi, kẻ phước
đầy-đủ thì ngưng động lại đặng.
Thương ôi! Lấy sự dối giả lầm lạc, mà dạy cho người
khác nữa, thì muôn kiếp không thành, lạc ngõ không vong, thiệt hại cho đời lắm
lắm. Nên Hứa-Chơn-Quân rằng:
Bất
cầu Ðại-Ðạo xuất mê đồ,
Túng
phụ hiền-tài khởi trượng-phu.
Bá
tuế quang-âm thạch hỏa xán,
Nhất
sanh thân thế đẳng bào trù.
Chỉ
tham lợi lộc đồ vinh hiển,
Bất
quản hình dung ám tý khô.
Tích
vấn đôi kim sơn đẳng nhạc,
Vô-thường
nan mải bất lai vô.
Nghĩa là: Sao chẳng tìm cửa Ðại-Ðạo đặng ra khỏi
chốn mê-đồ, túng sử kẻ hiền-tài cùng bậc trượng-phu, dầu đặng trăm tuổi như đá
lửa nháng, sanh đứng trong trần tỷ như bọt nước, bởi ham lợi lộc, đàng vinh
hiển, chẳng kể hình dung đã xếp khô; dầu có của tiền chất đầy núi, đến số
vô-thường khó chuộc mua.
THIÊN THỨ CHÍN
CÚNG TẾ LUẬN
Trời, Phật, Thánh, Tiên, chẳng luận sự cúng tế mà
độ cho siêu-thăng và cho phước đặng, do tại cái tâm chí thành của người và học
trúng tâm-pháp bí-truyền, lời Ngài dạy thì là Ngài độ đó.
Như Ngài không độ cũng thành đặng, lẽ tự nhiên.
Nếu không giữ qui giới điều lệ, không biết tâm-pháp
diệu lý của Phật, Thánh, Tiên, mà tu, dẫu cúng lạy bao nhiêu cũng không thể
Ngài cứu độ đặng. Nên Phật rằng: "Phàm-phu
bất liễu tự tánh, bất thức thân trung tịnh độ, nguyện Ðông nguyện Tây vãng sanh
nan đáo". Nghĩa là: người phàm-phu không biết chỗ tịnh-độ nơi trong
mình mà tu dầu cầu nguyện phương Ðông phương Tây khó trông vãng sanh đặng.
Việc cúng tế đó là trong lòng thành kỉnh Trời Phật
không biết lấy chi làm lễ kỉnh trọng, dùng sự cúng lạy mà tỏ dấu kỉnh ra bề
ngoài đặng cầu may. Nếu cúng lạy mà độ cho chúng ta khỏi tội và đặng
siêu-thăng, thì sự đó nhiều người dễ làm lắm. Như vậy, có câu: Hoạch tội ư
thiên, vô sở đảo giã. Nghĩa là: mắc tội với Trời không chỗ cầu đặng; nên mình
phải làm lành giữ theo luật Trời, cầu xin với Trời, thành kỉnh Trời, và ăn-năn
lập công đức, mới chuộc đặng tội; nếu mình cầu với Tiên Phật mà không ăn-năn
thì ai tha tội cho đặng, vì mấy vị ấy cũng thọ mạng nơi Trời.
Sự cúng tế chẳng khác nào lễ lo lót, mà Trời Phật
chí công đâu dùng của lo lót ‘Thiên Địa
vô tư, thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phước, bất vi thất lễ nhi
giáng họa”. Nghĩa là: Trời Đất không tư riêng, có thần minh soi xét, chẳng
vì cúng tế mà cho phước, chẳng vì không cúng tế mà cho họa.
Còn sự cúng lạy phải biết rõ vì Thượng-Ðế là đứng
chủ trương hóa sanh Phật, Thánh, Tiên, người cùng vạn-vật thì mình phải lấy
lòng chí thành của mình mà kính thờ Thượng-Ðế mới phải cho và đừng làm hại nhơn
vật của Trời sanh thì là cúng tế đó.
Sự cúng thờ là giữ cho khỏi phạm luật Trời, không
sai lời Tiên Phật dạy, giữ lẽ công-bình lợi ích cho người cùng vật; như vậy mới
hết lòng thờ kỉnh, đó là lễ trân trọng hiến cho Trời Phật.
Nho rằng: "Tồn
tâm sở vị sự thiên". Nghĩa là giữ lòng chẳng cho phóng túng làm các
điều tội lỗi, thì là thờ kỉnh Trời. Nên sự cúng tế là sự bề ngoài chưa có trọn
thành kỉnh.
Còn vì Tạo-Hóa thương chúng sanh cho Phật, Thánh,
Tiên xuống giáo truyền chơn đạo, lập điều lệ qui giới và tâm-pháp bí-mật nơi
kinh sách, đó là cứu độ.
Ai làm tội lỗi mà biết ăn-năn giác-ngộ lại đặng sửa
lỗi, và học lời bí-truyền trong sách kinh đặng mà tu-hành y theo thì cũng đặng
siêu thoát.
THIÊN
THỨ MƯỜI
ÐIỀU
LỆ TAM-QUI NGŨ-GIỚI LUẬN
Ðạo Nho thì Tam-Cang, Ngũ-Thường.
Thích thì Tam-Qui, Ngũ-Giới.
Tiên thì Tam-Nguơn, Ngũ-Hành.
Tam-Cang của Nho là: Quân-Thần, Phụ-Tử, Phu-Phụ.
Nghĩa: Chúa ở với tôi lấy đức, tôi ở với chúa lấy chữ trung, cha đối với con
lấy chữ từ thiện, con ở với cha lấy chữ hiếu; chồng đối với vợ lấy chữ nghĩa,
vợ đối với chồng giữ chữ tiết; ấy là Tam-Cang về Nhơn-đạo, còn Thiên-đạo, thì
tại minh minh-đức, tại tân-dân, tại chỉ ư chí-thiện.
Minh minh-đức. - Nghĩa là: Người đã theo đàng
thiên-lý thì phải sửa trau lọc lược cái tánh trong sạch, qui tựu về khí hư
linh, nhẹ-nhàng không tối tăm nữa, thì Tiên-Thiên chơn khí nó mới ứng hiện ra
muôn vật nơi cảnh huyền-diệu.
Tân-dân. - Nghĩa là: bỏ các điều nhiễm cũ xưa nay,
sửa lòng cho trong sạch đặng tịnh dưỡng, theo chỗ minh-đức.
Chỉ ư chí-thiện. - Nghĩa là: đặng tánh tự nhiên
phục hưng về nơi hư-vô chi khí, nơi đường thiên-lý, không cho một mảy gián đoạn
xen lòng nhơn-dục.
Tam-Qui của Phật là: Qui y Phật, qui y Pháp, qui y
Tăng.
Qui y Phật. - Nghĩa là: thường tịnh nguơn-thần
chẳng sanh vọng động đến sự lo tưởng chi hao tổn linh-tánh.
Qui y Pháp. - Thường tịnh định chơn-khí chẳng có
hao tán.
Qui y Tăng. - Thường chủ chơn-linh chẳng cho hao
mòn mới khỏi lậu tận.
Tam-Nguơn của Tiên là: Nguơn-tinh, Nguơn-khí,
Nguơn-thần. Ba báu ấy luyện cho biết tụ, chẳng cho diêu động khuy tổn.
Còn số Ngũ của Tam-Giáo là: Ngũ-thường, Ngũ-giới,
Ngũ-hành. Tuy lời nói khác nhau, nhưng cũng đồng một lý.
Ngũ-thường là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nhơn
Nho rằng: Chẳng phạm sát hại loài sanh linh xung
động vật sống.
Phật rằng: Nhứt bất sát sanh.
Tiên rằng: Chẳng cho hao phạm phế (kim).
Nghĩa
Nho rằng: Không trộm cướp gian tham một mảy may của
người.
Phật rằng: Nhị bất du đạo.
Tiên rằng: Chẳng cho hao phạm đến can (mộc).
Lễ
Nho rằng: Không sắc dục phong tình.
Phật rằng: Tam bất tà dâm.
Tiên rằng: Chẳng cho hao phạm thận (thủy).
Trí
Nho rằng: Không rượu thịt, món ngon vật lạ.
Phật rằng: Tứ bất tửu nhục.
Tiên rằng: Chẳng cho hao phạm tâm (hỏa).
Tín
Nho rằng: Không nói dối giữ một lòng chắc thật.
Phật rằng: Ngũ bất vọng ngữ.
Tiên rằng: Chẳng cho hao phạm tỳ (thổ).
Ấy vậy Thích dạy buộc giữ tam-qui ngũ-giới. Tiên
dạy buộc giữ tam-nguơn ngũ-hành; Nho buộc giữ tam-cang ngũ-thường, là điều lệ
của ngưới mới nhập-môn giữ theo, tu-hành đấp nền đạo-đức.
Nên trong Nho hay dạy chữ nhơn là: Trắc ẩn chi tâm
ái vật chi lý: Thương xót loài vật, không đành giết hại, mới gọi người nhơn.
Thánh-nhơn rằng: Tánh ta cũng đồng vật tánh, tuy hình thể khác nhau tánh linh
cũng một. Ái chi dục sanh, ố chi dục tử: Nghĩa là thương thì muốn cho sống,
ghét thì muốn cho chết; cũng như lời Phật dạy giới cấm sát sanh. Nên người chí
nhơn bỏ nhơn-dục, theo đàng thiên-lý, thì phải Thanh tâm quả dục, thạnh phục
trai minh; sửa lòng trong sạch, phủi hết sân si, ái dục, mới đứng bậc chí-nhơn;
một mảy quấy không làm, một lành nhỏ không bỏ; ăn năn chừa lỗi, bòn kiếm các
điều lành cho đầy đủ âm-chất, tầm chơn-sư học phép dinh-hư tiêu trưởng,
tâm-pháp Tiên-Thiên bí-mật, cách thức kiểu vở y theo kinh sách mà tu-hành cho
trúng, thấy ấn-chứng ứng nghiệm, kết tụ sự thành cảnh nơi trước mắt, rồi lập
công bồi đức đầy-đủ, quả mãn, đơn thành, thoát xác phi thăng.
Ðạo Nho thì thành Thánh, Ðạo Thích thì thành Phật,
Ðạo Lão thì thành Tiên, tiêu-diêu thắng cảnh, vĩnh kiếp trường-tồn khỏi nhập
luân-hồi, chuyển báo. Vậy mới là người tu niệm, xuất thế.
Còn như tu không thấy thành, bởi đồ không trúng
kiểu, học không nhằm lý nên không thấy ấn-chứng, ứng nghiệm sự thành cảnh đặng.
Vậy Nho thí dụ rằng: Diện mộc cầu ngư; nghĩa là trèo lên cây mà bắt cá, đâu
thấy cá đặng; dầu có lòng thành tu niệm công-quả đầy đủ, thì sau hưởng hồng
phước mà thôi.
THIÊN
THỨ MƯỜI MỘT
VÔ
HẬU LUẬN
Người học không thông Tam-Giáo nên chấp câu vô hậu
không con nối đời là phạm tội bất hiếu.
Nếu có con nhiều thì có hiếu hay sao?
Như ông Bá-Di, Thúc-Tề mấy có con, sao Thánh-nhơn
còn cho là Thánh chi thanh. Còn Tần-Cối, Tào-Tháo con bầy cháu lũ sao không
nghe ai khen ngợi, phượng thờ người ấy.
Mạnh-Tử viết: Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại. Nghĩa
là Thầy Mạnh-Tử than rằng: không có người hiền mà nối mối đạo-đức lại về sau
nữa; nên ba tội đó là tội vô hậu lớn hơn hết.
Khi ông Mạnh-Tử mãn rồi đã thất chơn-truyền nên
Ngài than đó; chớ chẳng phải luận người có con là hiếu, không con là bất hiếu.
Tôi đã dòm xem kinh điển Tam-Giáo không thấy lý
chắc buộc tội vô hậu không con là bất hiếu. Duy có Thầy Mạnh-Tử than câu như
vậy mà không giải lý.
Ðến sau Thầy Châu-Tử làm chú-giải theo lòng thế thì
vừa bụng hiệp ý tình đời, nên người đời cố ý nhận câu đó mà làm hiếu. Hễ ai
không con thì cầu thiếp kiếm hầu cho nhiều làm cho hư tệ cái đức tánh khí chất
của mình, tinh-thần hao kém mà rằng đặng hiếu.
Ai ai cũng chủ ý lấy lời đó lắm, chẳng rõ Thầy
Mạnh-Tử luận thể nào, không con bất hiếu, hay là không có người hiền nối mối
đạo-đức về sau là bất hiếu.
Nghe lời chú-giải thêu dệt mà nhận theo.
Tôi coi sách có ý suy nghĩ hoài, không lẽ Ngài nói
không con là bất hiếu. Nếu Ngài luận vậy thì bắt tội bất hiếu đến Tiền-Tổ nhiều
lắm. Và có câu rằng: "Sử bút trứ kỳ
gian chi tặc, túc kiến trung hiếu bất tại thê tử nhi hữu vô". Nghĩa là:
trong sử hay biên ký mấy điều ấy là điều gian hại chẳng luận chữ hiếu có con
hay không con.
Học cho đa văn quảng kiến thì thấy người trung
hiếu, chỉ yếu tại tiết nghĩa mà nên danh thành hiếu. Chẳng thấy lấy sự vợ con
nhiều mà thành hiếu. Nên lời đó có lý lắm.
Khi nọ có một người học Nho cãi với tôi rằng: Thầy
Mạnh nói chắc không con là tội bất hiếu, nên tôi không tin. Ðến năm 1923 tháng
năm ngày rằm, tôi có thuyết Ðàn cầu thỉnh Tiên Thánh giáng cơ xin hỏi lời sách
đó. Có Ðức Vân-Trung-Tử giáng đàn và cho đệ-tử là Thanh-Y đồng-tử trả lời "Chẳng phải ông Mạnh-Tử nói không con
là bất hiếu. Nếu không con bất hiếu sao Lục-Tổ trước còn thành đặng".
Nên tôi lấy làm ấn-chứng để đây cho đồng-chí xem.
Nếu chấp không con là tội bất hiếu thì Tiên, Thánh chẳng lầm nhiều lắm sao. Lại
còn để câu "Vô oan bất thành phu
phụ, vô trái bất thành phụ tử". Như Tiên, Hiền còn nói đó là oan gia
nợ trái, sao chúng ta lấy đó mà làm hiếu, chớ không có điều chi khác nữa mà làm
hiếu hay sao? Cứ giữ lời đó mà làm căn-bổn bởi kẻ không thông dĩ văn hại từ.
THIÊN
THỨ MƯỜI HAI
THẤT
CHƠN-TRUYỀN LUẬN
I
Ðạo mở hết kỳ Nguơn-hội thì phải bế, nên thất
chơn-truyền. Người học Thích-Ca thì dùng cái sự hình tượng mô dạng, kiến tụng
chuyển văn, thinh âm sắc tướng (là chuông trống hình tướng tụng đọc ca kệ theo
giả luật của Thần-Tú lưu truyền), hoặc ăn chay tụng kinh, cúng hương bái Phật,
chế ra cầu siêu bạt độ, hoặc tham thiền quán tưởng nhập thất thọ hương (ngồi
liều) ép buộc hình xác đặng thì cao thăng tước phẩm với nhau, làm sao thấy
ấn-chứng sự thành Phật đặng.
Như đọc Tâm kinh quan tự tại bồ-tát mà không làm
theo lý quan tự tại; đọc Bát-nhã kinh cũng không hành theo tánh Bát-nhã. Bởi
noi theo Thần-Tú thất truyền lấy sắc tướng tụng niệm bề ngoài đâu rõ thấu chơn
thông chánh pháp của Phật.
Người học Ðạo Tiên đọc Huỳnh-Ðình không giải
bí-khuyết Huỳnh-Ðình mà làm theo, đọc Cảm-Ứng kinh không hành y lời Cảm-Ứng
dạy, cũng không rõ thấu lời tâm-pháp của Tiên, lấy bùa chú dối rằng ếm quỉ, trừ
ma, khử tà diệt quái, dối giả gạt đời.
Còn người Ðạo Nho đọc "Ðại-học chi đạo, tại minh minh-đức, tại tân-dân, tại chỉ ư
chí-thiện", mà không hành theo lý đạo, dùng từ-chương chi học, tập thi
phú cho cao thông, ngạo biếm khoe mình, không noi trung-dung mà hành chữ
minh-đức, chí-thiện.
Nên Thích hữu Thích chi dị-đoan,
Nho hữu Nho chi dị-đoan,
Ðạo hữu Ðạo chi dị-đoan.
Dị-đoan là không qui y
luật ấn-chứng trong Tam-Giáo nương trong ba Ðạo ấy mà chế ra
bàn-môn dối giả, phân chi tác-diệp, lập ra nhiều nẻo cho người người phải lầm
tin rằng gốc trong ba nhà Nho-Thích-Ðạo mà ra. Chớ vẫn thiệt mình chưa thấy đường đi
lại dắt người vào hang tối nữa, lầm lạc kẻ thiện-tín vô số, không thể ngước đầu
mà thấy chỗ ánh sáng của Phật đặng. Tại đó Tam-Giáo có dị-đoan xen vào.
II
Sự thành cảnh tại lý mà thôi, song người xuất gia
đi tu-hành thì ai ai cũng muốn thành Phật, thành Tiên, ép xác buộc hình, bỏ hết
sự sản, vợ con danh lợi mà tu, nhưng không rõ Phật, Tiên, Thánh đó, tu cái lý
chi mà trở nên thành đặng vậy.
Hễ mộ đạo đi tu gặp chánh thì nhờ, gặp tà phải
chịu, biết lý đâu mà phân biệt tà chánh.
Nên thương ôi! Thiệt hại cho người có chí mộ đạo
lắm.
III
Tam-Giáo để kinh sách lại cho người đọc đặng rõ
trong các yếu-lý mà tu, tu theo tâm-pháp, đồ cho trúng kiểu, đặng trở nên như
các Tiền-Tổ vậy. Chớ chẳng phải để kinh sách lại cho người tụng đọc nhiều mà
thành, nếu tụng kinh sách mà không rõ diệu-lý bí-pháp trong sách kinh, hành cho
giống thì tụng đọc đến chết cũng không thành đặng. Như Ðạt-Ma Tổ-Sư mấy tụng
kinh, Ngài học đặng chữ Nhất tự vô hành tâm-pháp, mà thành. Nên tụng kinh đọc
sách, phải cầu diệu-lý mà hành theo, nếu không hành theo diệu-lý thì luống đọc
vô ích... (Thí-dụ mình muốn làm một món đồ chi cho khéo, mà không ra công làm,
cứ ngồi nói hoài, món đồ đó nó rồi đặng cho mình chăng).
Kinh Bửu-Ðàn nói rằng: "Mê giã khẩu tụng, trí giã tâm hành". Nghĩa là: người mê muội
tụng niệm kẻ trí làm theo lời kinh dạy, kinh sách chẳng khác nào tờ trác của
quan trên xuống dạy dân phải làm việc chi y theo đó, mà dân cứ ngồi đọc trác
hoài việc chi đó ai làm. Lại rằng tụng kinh ba ngàn bộ, chẳng biết nước
Tàu-Khê, không rõ máy xuất thế, luống tụng hóa ra cuồng; cho nên Ngài nói "Giữ y theo phép ta mà tu, thì về cùng
ta một chỗ, chẳng y phép ta mà tu thì cạo đầu xuất gia cũng vô ích";
nếu đọc không hành thì đọc thành không, tu không biết luyện, ngồi mơ-ước thành
đặng sao. Như có thiện niệm tín-ngưỡng bền chí, ăn chay giữ giới, tâm thành chí
thật, lập công bồi đức, chưởng các việc lành, mà không tu dương-thần thuần
dương, phục khí Tiên-Thiên lại, thì về Lạc-Thiên-Ðường, chứng bậc Hiền, hoặc
chuyển lại trần thế hưởng hồng phước.
Còn người trung-trực, nghĩa khí cùng kẻ chí hiếu
cảm động Thiên tâm mà cũng không tu dương-thần thuần dương thì thuộc âm-linh
chi Thần, cũng về Lạc-Thiên-Ðường gia thưởng thanh phước. Nên Cổ-Tiên nói rằng:
"Tu tánh bất tu mạng, thử thị tu
hành đệ nhứt bịnh, tu tánh bất tu đơn, vạn kiếp âm linh nan nhập Thánh".
Nghĩa là: tu tánh không tu linh-đơn dương-thần thì khó nhập Thánh đặng; vì bởi
cái tâm tánh còn trọng trược (nặng nề) chưa tu đổi lại dương-thần, dầu có trung-trực
lành hiếu thì linh-hồn còn thuần âm cũng như vật chi quí mà chưa nấu, luyện
lược-lọc ra cho tinh ròng vậy. Còn Phật, Thánh, Tiên cũng lấy tam-bửu, ngũ-hành
trong mình tu cho thuần-dương thành Tiên-Thiên không khí phới nhẹ mà chứng quả,
nên Phật kêu rằng: Xá-lợi-tử, Tiên kêu rằng: Kiết-linh-đơn, Thánh kêu rằng:
Chơn-nhứt-khí (Thái-cực) đều thuộc dương-thần khí Tiên-Thiên, hay khinh phù nhẹ
nhàng hơn hết; bởi khí đó sanh Trời, sanh Ðất, sanh Phật, sanh Tiên, sanh
Thánh, sanh Phàm, sanh muôn loài vật. Nên Tam-Giáo lấy Hư-vô chi khí đó mà làm
cội rễ, cũng do tu luyện lược-lọc tinh, khí, thần thuần-dương cho nhẹ nhàng
hiệp phù khí ấy.
IV
Người chưa biết tu luyện thì tinh, khí, thần trọng
trược còn thuộc âm, nếu biết học chế luyện ra trở nên thuần-dương khinh phù
cũng đặng thành, như mới vào đạo buộc giữ luật đạo ấy là chế luyện bề ngoài cho
tâm tánh trong sạch tự nhiên lại.
Vậy nên nói rằng: "Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần huờn hư"
mới gọi là dương-thần.
Tu Hậu-Thiên khí đổi lại Tiên-Thiên khí, luyện
lạc-thơ biến ra hà-đồ, tu phàm-phu trở nên Tiên Phật, có khó chi đâu. Nên Bồ-Ðề
Tổ-Sư rằng: "Di dị đạo tối dị mạt bả
xá-lợi tác dung dị, bất ngộ chí nhơn truyền diệu khuyết vô phi hậu thiên luyện
thần khí". Nghĩa là, Tổ-Sư rằng: Ðạo rất dễ tại người đầy-đủ phước
đức, gặp chơn-sư chỉ truyền và chí khí cho lớn, việc chi cũng xuất chúng, bền
lòng khổ chí, tu y tâm-pháp trúng kiểu thì một bậc, thấy ấn-chứng một bậc thành
cảnh nơi trước mắt chẳng phải để chết rồi mới thấy, nếu chết rồi mới thành thì
lấy chi làm bằng chứng chắc cho mình. Nên sách rằng: "Sanh tiền bất đắc Thiên-Ðường lộ, tử hậu nan ly Ðịa-Ngục
môn". Nghĩa là sanh tiền chưa biết đặng chỗ Thiên-Ðường, chết rồi sợ e
khó tránh chốn Ðịa-Ngục, là bởi thất truyền không rõ thấu tâm-pháp sự tu-hành
cảnh ứng nghiệm khi hiện tại đây, nên luận cho chết rồi mới thành đặng.
Tiên rằng: "Nhứt
liệp kim đơn thân nhập phúc, thùy trì ngã mạng, do ngã bất do Thiên". Nghĩa
là luyện đặng một hột Linh-đơn đem vào dạ, thì mạng ta do ta, chẳng do Trời.
Phật rằng: "Bất
tử A-La-Hớn" thì Phật, Tiên cũng tu hành ấn-chứng trước mắt vậy, lại
rằng: "Sanh tiền bất đắc huợt Phật
thần thông, tử hậu nan xưng đắc đạo". Nghĩa là: hồi sống tu không thấy
ấn-chứng phép thần-thông của Phật, để chết rồi khó xưng rằng đắc đạo.
THIÊN
THỨ MƯỜI BA
HỌC-VẤN
LUẬN
Ðứng làm người phải có đạo, nếu không đạo khó đặng
làm người, vả lại người có học đạo rồi, mà chưa rõ lý tâm-pháp Tam-Giáo, tu
chưa thấy ấn-chứng ứng nghiệm theo kinh sách, thì phải tầm chánh đạo học cho
thấu đáo, kẻo để uổng công một kiếp tu niệm xưng là có đạo mà không thấy chắc
sự thành của Tiên, Phật; chớ đừng chấp cố rằng mình đã có đạo rồi thì thiệt hại
cho mình muôn kiếp.
Như Ðức Thích-Ca khi mới ra tìm đạo gặp ba thầy
trước khi, cũng chưa đắc chánh đạo, sau gặp Nhiên-Ðăng mới ngộ chơn-truyền.
Hiên-Viên Huỳnh-Ðế tầm bảy mươi hai (72) thầy chưa
nhầm chánh lý, sau tìm đặng Quảng-Thành-Tử nơi Khống-Ðộng-Sơn mới rõ bí-pháp
tu-hành.
Khổng-Phu-Tử qua nước Trần gặp Hạng-Thác chỉ truyền
nhứt quán sau thành Chí-Thánh.
Ðạt-Ma Tổ-Sư vãng qua Ðông-Ðộ gặp Lưu-Lão-Tổ học
bí-pháp thượng-thừa còn phải cải tăng qua đạo.
Còn Ðạo-Quang là người tu trì, sau gặp ông Tử-Dương
Chơn-Nhơn còn bỏ sự tụng niệm mà hành chánh lý.
Huống chi chúng ta đây gọi rằng mình có đạo chánh
rồi cứ nê cố của mình là phải, không học thêm thì thiệt hại cho mình, uổng một
kiếp tu-hành không đắc quả.
Chớ đừng luận Phật cao, Tiên thấp, Phật nhỏ, Tiên
lớn mà lầm, phải nhớ câu: “Tiên thọ Phật
Pháp”, nên luật Sa Di có dạy rằng: "Nhược
sư bất minh biệt cầu lương đạo". Nghĩa là: Thầy mình chưa rõ thấu lý,
phải kiếm chơn đạo mà học, chẳng nên nhận thấy sự lầm sai trong đạo của mình
trước đó, rồi dạy người sau học theo mà hại cho người ta một đời thì tội lỗi
của mình rất trọng.
(1) . . . . . . . . . . . chẳng luận đạo nào rằng
chánh hết. Hễ đạo nào đồ trúng kiểu Tam-Giáo, tu nhằm diệu-lý bí-pháp của Phật,
Thánh, Tiên, ấn-chứng hiệp phù kinh điển, thì đạo đó mới là chơn chánh, tu khỏi
bị lầm hại cho mình một kiếp, vì vậy mà chẳng luận đạo nào rằng chánh; chớ đạo
nào cũng tự xưng chánh, đạo nào nói cũng có lý.
Người thượng trí suy xét lấy đó đừng chấp rằng: bỏ
đạo mình, học đạo khác kêu là phản đạo, bội sư, như chấp vậy thì Ðức Thích-Ca
gặp ba thầy trước đầu cơ chưa chánh lý, sau ngộ Nhiên-Ðăng mới học đạo thì là
cũng phản đạo, bội sư hay sao?
Nếu xưng đạo mình tột chánh rồi thì đạo-đức đâu cao
xa đặng. Như mình ở một xứ, mình đâu biết xứ khác có vật quí báu hơn. Vậy phải
học cho thông các mối cho đa văn quảng kiến đặng so sánh, mới thấy đường tà nẻo
chánh mà đi.
Nên xin tầm cho chánh lý, đồ cho trúng kiểu, tu cho
thăng đường nhập thất, đặng siêu khỏi đọa luân-hồi chuyển kiếp.
(1) Vì lý do kỹ-thuật, bản
chánh mà TT/NSW chúng tôi do theo để đánh máy và in lại đã bị cắt mất hết một
hàng đầu tiên (trang 36 ấn bản năm Canh Tuất 1970). Vậy xin quí Ðạo-hữu nào
biết được hàng bị cắt mất trên xin vui lòng liên-lạc với TT/NSW để bổ-túc dùm,
chúng tôi thành-thật cám ơn.
THIÊN
THỨ MƯỜI BỐN
ÐẠO
TỰ XƯNG LUẬN
Trong Tam-Giáo của Ðại-Ðạo phân chia ra nhiều đạo,
hoặc xưng Thích-Ðạo, hoặc xưng Tiên-Ðạo hoặc xưng Nho-Ðạo, và các đạo khác nữa,
vân vân... đều cũng dạy ăn-năn sửa lỗi, cải tà qui chánh, bỏ giả về chơn, cải
dữ làm lành khử nhơn-dục tầm đường Thiên-lý, giữ theo phép luật qui điều, hoặc
giảng giáo việc lành, khuyên tỉnh người mê, lập công đức, giúp người cứu vật,
mà không biết hành tâm-pháp diệu-lý, không tu dưỡng thần thuần-dương thì cũng
bậc trung hạ tiệm-giáo mà thôi. Nếu tu đắc chứng dương-thần thuần-dương thì mới
đặng thượng-thừa đốn-giáo của Phật, Thánh, Tiên. Nên Phật nói rằng: hễ còn tụng
niệm tiếng tăm nghe thấy đó, là tu tiểu-thừa sơ học, còn thông pháp giải-nghĩa
là trung-thừa, đắc y pháp tu-hành cho thấy ấn-chứng ứng nghiệm là thượng-thừa.
Trong muôn phép mà tận thông thuần-dương chi đạo,
danh tối thượng nhứt thừa.
Song muốn học thượng-thừa đốn-giáo thì phải dùng
cái yếu-lý tâm-pháp trong các mối đạo tự xưng trên đây mà tu thì trở về nơi khí
Tiên-Thiên; nhưng trước hết, phải bỏ các việc hình tướng mô dạng, dối giả bề
ngoài đặng học tu theo diệu lý hư-vô cảnh giới của Phật Tiên mới nhầm mối
Tiên-Thiên Ðại-Ðạo. Nên Ðức Lạt-Ma rằng: "Tây
lại nhứt tự vô toàn bằng tâm ý dụng công phu". Nghĩa là: Ngài dạy đạo
vô-vi một chữ kinh bạch tự không hình tướng thông linh do nương tâm ý, tu-hành
mà dụng công. Còn Ðức Lục-Tổ rằng: "Nhược
ngộ vô sanh đốn pháp, kiến Tây-phương chỉ tại sát na". Nghĩa là: tu
gặp thấu chỗ (1) vô sanh đốn pháp ấy thì thấy Tây-Phương nơi trước mắt; và tiếp
theo rằng: "Ngộ vô-niệm pháp giã,
kiến chư Phật cảnh giới, tức chí Phật địa vị. Hậu đại đắc độ pháp giã tương thủ
đốn-giáo pháp-môn". Nghĩa là: Ai tu rõ thấy ứng hiện chỗ phép vô niệm
đó thì thấy đến cảnh giới của Phật. Ðời sau mà đặng hiểu thấu phép vô-vi nầy
thì đặng lên đốn-giáo pháp-môn của Phật.
Nên Ngài thường nói rằng: "Nhược thức tự tánh, nhứt ngộ tức chi Phật địa". Nghĩa
là: Mình biết cái nguơn tánh mình, rõ thấu ngộ đạo thì đến chỗ đất Phật liền.
Song đạo nào trước phải học, sau mới hành, trước
chấp sự, sau dùng lý, gọi là biết thể biết dụng.
Học rồi phải hành, tu rồi phải luyện, theo tâm-pháp diệu lý, y kinh sách
của Tam-Giáo, giả như không thấy ấn-chứng ứng nghiệm chi cả, thì gọi là thất kỳ-truyền. Tuy xưng ở đạo nào cũng
không thành đặng. Dẫu có công lành thì được ban thưởng hồng phước, chuyển kiếp an hưởng mà thôi. Tỷ như chúng ta học một
cái máy chi chỗ yếu-lý nó cử động
đó mà chúng ta không rõ thấu thì làm sao chúng ta cử-động đặng. Còn như đồ trúng kiểu,
hiểu thấu chỗ vô-vi bí-pháp của Phật, Thánh, Tiên thì thấy ấn-chứng ứng nghiệm như dưới đây mới
chắc thành đặng.
Kinh Diệc nói rằng:
Nhĩ
mục thông minh nam tử thân,
Hồng-Quân
dự phú bất vi bần,
Thám
tri huyệt khốt, phương tri vật.
Vị
tiếp thiên-căn khởi thức nhơn,
Càn
ngộ tốn thời quan huyệt khốt,
Ðịa
phùng lôi xứ kiến thiên-căn,
Thiên-căn
huyệt khốt nhàn lai vãng,
Tam
thập lục cung đô thị xuân.
Nghĩa là: Tai mắt thông-minh đứng làm người nam tử,
vì Hồng-Quân phú cho người các vật đều đủ, tỏ thông nơi huyệt khốt mới biết chỗ
linh vật, nếu chưa thấu đáo thiên căn đâu gọi đặng người quái càn gặp quẻ tốn
thì tường nơi huyệt khốt, quái địa mà gặp (2) lôi thì rõ chỗ thiên căn. Thiên
căn huyệt khốt, hằng lai vãng trong ba mươi sáu cung đều ứng dương khí.
Lại có câu rằng: Hốt nhiên bán dạ nhứt thinh lôi, vạn
hộ thiên môn thứ để khai, thức đắc vô trung hàm hữu xứ. Hứa-Quân thân kiến
Phục-Hi lai. Nghĩa là: Tu luyện thoạt vậy trong lúc ban đêm trong mình có tiếng
sấm vang, muôn cửa ngàn then đều mở hết, mới biết nơi không mà có cảnh,
Hứa-Quân xảy thấy Phục-Hi đến gần.
Còn Nhan-Tử rằng: "Ngưỡng chi di cao, tàng chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt
nhiên tại hậu". Nghĩa là: tu luyện đến lúc cảnh nghiệm phát ra; ngước
ngữa lên càng cao vọi-vọi, cúi xuống thấy càng sâu thẩm-thẩm, xem thấy tuồng
hình ở trước thoạt vậy trở lại sau (ấy là chơn-khí xung đột phát cảnh nghiệm
đó). Ðây cũng là ấn-chứng cảnh
nghiệm của Nho.
Tiên rằng: "Mặc mặc tự nhiên
trần cảnh diệt, tịnh trung cánh hữu biệt càn khôn". Nghĩa là: lặng-lẽ
tự nhiên cảnh trần dứt trong chốn tịnh thanh có ứng cảnh càn-khôn.
Lại rằng: "Yểu minh hoản hốt
năng tương kiến, tiện thị siêu phàm xuất thế nhơn". Nghĩa là: Tu-hành
thường phát cảnh yểu minh (hào-quang xung đột) thì mới đặng siêu-phàm người
xuất thế; ấy là ấn-chứng của Tiên-gia.
Phật rằng: "Phân
minh động tịnh, ứng vô tướng, bất giác long cung khổng nhứt thinh".
Nghĩa là phân minh khi động tịnh ứng ra, không hình tướng, hay đâu chốn long
cung có tiếng sấm vang, là chơn-khí trong mình nó phát ra vậy.
Hễ diệt tận định thì phát xuất huệ-cảnh, y như lời
Lục-Tổ rằng: "Nhơn địa quả huờn
sanh". Nghĩa là biết phép giao phối âm dương, gieo hột xuống đất hột
ấy bởi nương đất mới hóa sanh, đây là ấn-chứng của Phật đó. Như vậy mới có
Xá-lợi tử, nhứt khí Thái-cực, thuốc linh-đơn, mới thấy chắc sự thành cảnh của
Tam-Giáo Ðạo.
Còn học không biết hành, tu không biết luyện, biết
thể không biết dụng, làm sao thấy Tiên, Phật đặng.
Tuy Phật, Thánh, Tiên nói khác nhau chớ cũng tu một
cái Chơn-khí tự nhiên trong sạch nhẹ-nhàng hơn hết mà thành.
Chớ Ðông, Tây, Nam, Bắc cũng là một vì Tạo-Hóa
sanh, chẳng phải Ðông Tây mà riêng, Nam Bắc mà khác, hễ phương nào tu trúng
phép huyền-cơ Tạo-Hóa thì về trên cõi Thiên-đàng đặng. Song con người ở dưới
thế này phân cách xứ, xứ khác nhau chẳng đồng ngôn-ngữ thì phải tùy phong-thổ
mà lập đạo. Vì vậy mà kẻ học không thấu đáo cho cùng lý, mới phân chia nhơn ngã
rằng: tôi đạo nầy, người đạo kia, thì rất lầm sai cho đó lắm, chớ nơi nào cũng
một gốc Tạo-Hóa ban cho, tuy Ðông, Tây, Nam, Bắc phong-thổ khác nhau cái điểm
linh-quang chơn tánh cũng đồng chung con của Tạo-Hóa sanh như con một cha sanh
cả.
(1) Vô sanh đốn-pháp, nghĩa
là tạ thiền cho đến cảnh diệt hết tâm phàm thì thấy cảnh Tiên-Thiên phát huệ
quang chiếu diệu.
(2) Lôi là chấn vi lôi, một
hào dương mới sanh, kêu địa lôi phục.
THIÊN
THỨ MƯỜI LĂM
PHÀM-PHU
TRỞ NÊN PHẬT, TIÊN, THÁNH LUẬN
Thế gian thường nói phàm-phu nhục-thể tu sao thành
đặng, bởi học không tột lý, chẳng quảng kiến đa văn chỗ yếu diệu tu-hành đó nên
xiển luận như vậy. Có lời Cổ-Tiên rằng: "Mạc
đạo Thần Tiên vô học xứ, cổ kim đa thiểu thượng thăng nhơn". Nghĩa là:
chớ nói Thần, Tiên không chỗ học, vậy chớ Thần, Tiên ở đâu mà hóa thành ra đó
vậy. Chẳng phải trên trời rớt xuống, dưới đất xung lên, hay là trong đá mà hóa
ra, có phải là thân phàm tu-hành nhằm lý mà thành đó chăng. Có bài thi rằng:
Tiên
tức phàm, phàm tức Tiên,
Bất
tri chơn tánh, tổng đồ nhiên,
Nhược
nhơn thức phá, quần ngư hải,
Ngư
hóa long phi thượng Cửu Thiên.
Nghĩa là: Tiên là phàm, phàm cũng là Tiên, chẳng
biết tánh linh bỏ đọa vậy, người biết xét coi loài dưới biển cá cũng thành rồng
thượng Cửu-Thiên.
Huống chi loài người phải hơn loài đó tu không
thành hay sao? Tại người không biết chỗ lý học nên lầm-lạc tu chẳng thành đặng.
Tỷ như loài ngũ kim kia: sắt, đá, đồng, thiếc là vật vô tình không biết cử-động
chi cả, lấy sức người mà chế luyện ra các máy cử-động bay chạy còn đặng thay,
huống là người học trúng máy tâm-pháp của Tiên-Phật không trở nên Tiên-Phật
đặng sao.
Học đạo phải xét cho tột lý vì đạo chơn giả mường
tượng nhau, khó mà phân biệt tà chánh, nếu không nhằm mối chánh thì khó siêu
phàm đặng.
Ðây là luận sơ cho người đồng-chí rõ, hễ tu-hành
phải thí-nghiệm cho hiệp phù kinh điển mới thấy thành đặng, để uổng một kiếp
tu-hành tương rau chay lạc khổ cực hình xác, đến chết không thấy ấn-chứng chi
đắc đạo, thì luống công uổng cho mình đó lắm.
THIÊN THỨ MƯỜI SÁU
CÔNG-LÝ
LUẬN
I
Chúng ta đã dòm xem các kinh điển của Phật, Thánh, Tiên thấy lời để có diệu
lý bí-mật ấn-chứng chắc thật, làm đâu có ứng nghiệm đó không sai.
Bởi thấy người tu-hành theo Nho, Thích, Ðạo đều học kinh điển Phật, Thánh,
Tiên mà tu sao không thấy ấn-chứng cảnh nghiệm phù y theo kinh điển của
Tam-Giáo dạy.
Lại thấy bày ra những điều Bàn-môn, dối giả, tà thuật quỉ ma, toan mưu kiếm chước thâu
tiền của trong bá tánh, làm cho mỗi người đều khinh dễ Tam-Giáo, những kẻ nương
vào đó bày ra tồi bại nền Ðạo
Tam-Giáo, vì vậy mà phải bị che lấp, ngăn cản đàng vào mối chánh và hại cho kẻ
phàm-phu không siêu thăng đặng.
Ðáng tiếc cho ba mối chánh Phật, Thánh, Tiên, chí quí, chí tôn như cái gương sáng
cả trong thế-giới, mà phải bị Bàn-Môn Tả-Ðạo như đám mây che phủ.
Vì đó, Ðạo khai đủ mấy ngàn năm, phải thất truyền,
nên Bàn-Môn tấn phát làm cho người mộ Ðạo đều rối loạn lòng tu niệm, chẳng thấy
đường ngay nẻo thẳng mà đi.
Còn trong kinh điển lời nói bí-mật, ẩn vi khó rõ
đặng; như Kinh Diệc dạy ẩn tánh mạng nơi âm-dương, Trung-Dung ẩn Thiên-Ðạo
trong Nhơn-đạo.
Nên người tu muốn xuất thế phải thức giấc cho cao
xa, tầm yếu-lý mà tu kẻo lầm Bàn-Môn dối giả.
II
Phàm người đứng trong chốn trần nầy thì sao cho
khỏi lấm bụi trần ai, vì bụi trần nó che lấp cái tánh linh của người nên khó
vẫy-vùng ra khỏi.
Vậy thì ở thế-gian này, ai ai cũng như thế, duy tại
cái linh hồn biết thức giấc tỉnh ng̣ộ ăn-năn, cải dữ ra hiền lành thì nó mới
khác nhau.
Hễ người Quân-Tử nhập thế đặng thì xuất thế phải
đặng, tận Nhơn-đạo rồi phải tu Thiên-đạo mới là trí nhơn.
III
Sự ăn học kinh sách bề ngoài, ai ai cũng thông biết
cả; song kinh điển chất bằng non không duyên khó rõ đặng, việc lành là tốt hơn
hết, không lòng mộ khó gần mà thông đặng.
Người trí-thức phải lo xa; nếu nhỏ không lo học
hành, già khó trở nên thông-minh đặng.
Mùa xuân không lo cày cấy, qua thu khó trông lúa
gặt.
Cái lý làm Tiên, Phật chẳng khó, hễ biết gieo giống
thì phải mọc.
THIÊN
THỨ MƯỜI BẢY
BIỆN
BIỆT SỞ HOẶC LUẬN
Người học Nho không luận cho chí lý thấy đâu nói đó
mà thôi. Như luận rằng: Ðức Khổng-Tử cũng có vợ có con, thịt ăn rượu uống, nào
luận ăn chay giữ giới cấm điều dâm-dục.
Luận như vậy là chưa rõ lý.
Ðức Khổng-Tử khi còn nhập thế, chưa xuất thế, ở nhơn-đạo, chưa học Thiên-đạo, Ngài
học văn-chương mà giáo-huấn nhơn-đạo, dạy cang-thường luân-lý, sửa đoan nhơn-đạo; sau Ngài học lễ với
Lão-Ðam cũng giáo-huấn môn-đồ đều dạy nhơn-đạo, trong lúc ấy Ngài có vợ có con,
thịt ăn rượu uống; vậy nên mới có câu rằng: "Khổng-Tử
Thiên sanh chơn kỳ trí, tánh mạng công
phu thỉ bất minh". Nghĩa là: Khổng-Tử Trời sanh người trí lạ, tánh mạng
phép công phu, Ngài còn chưa rõ đặng.
Sau Ngài qua nước Trần gặp ông Hạng-Thác, chừng đó
mới học qua Thiên-đạo, lúc ấy mới cấm răn rượu thịt, dâm-dục y theo qui-giới mà
tu Thiên-đạo. Nên có câu: "Trai minh
thạnh phục yết dục dưỡng tinh". Mấy lời đó sao người học Nho không
nhắc lấy mà so sánh thí cập.
Còn khi chưa xuất thế tu-hành thì Ngài để kinh sách
dạy theo Nhơn-đạo sửa mình mà thôi; như lấy sách dạy Nhơn-đạo thí cập so sánh
với Thiên-đạo sao hiệp phù đặng, khi Ðức Khổng-Tử học đạo rồi. Sau Thầy Tử-Cống
có nói rằng: "Ðức Phu-Tử nói
văn-chương thì ta nghe, hiểu rõ, còn nói qua Thiên-đạo ta nghe không
hiểu". Ðó chẳng phải Ðức Khổng-Tử Ngài ở Nhơn-đạo, sau tu qua
Thiên-đạo hay sao? Nên mới nói Nhơn-tâm, Ðạo-tâm, là hai nẻo khác nhau.
Và còn luận rằng: Ông Quan-Ðế nói: "Ngã bất khiết trường trai, bất tín Phật
thuyết" cũng đặng hiển Thánh vậy, vì tại mấy lời nói đó, người xem
kinh chưa rõ thông nên mới luận theo vậy mà thí cập.
Những người trí-thức chẳng hề luận cạn lý như vậy,
như ông Quan-Thánh không ăn chay, chẳng tin lời Phật thuyết mà Ngài cũng thành
đặng, là Ngài tận nhơn thần, trung cang nghĩa khí, tột nhơn-đạo, thì duy thành
Thần mà thôi, bởi Ngài chí khí lớn, sau tầm Phổ-Tịnh Thiền-Sư, học phép
tu-hành, Phổ-Tịnh truyền tâm-pháp cho cái linh tánh Ngài, tu ba năm mới trở lại
thanh khí, dương-thần siêu-thăng, hiển Thánh chầu Thượng-Ðế; lúc đó Ngài có trì
trai, tin Phật thuyết hay không mà Ngài có dị-ngôn trong Tâm-Ấn Kinh rằng: "Khổ luyện cần tu", ba năm
phi thăng yết Thượng-Ðế, và Ngài nói rằng: "Dục
cầu trường sanh bất tử cấp nghị giái sát phóng sanh" và có câu "Thảo mộc hoa quả hưu chiết thể,
vạn-vật tất hàm thiên địa hóa". Ông Quan-Ðế chẳng ăn chay sao còn biểu
giới sát làm chi; Ngài còn nói: "Thế
nhơn thục vô quá, cải chi vi Thánh Hiền". Nghĩa là: người thế ai không
lỗi, biết ăn-năn chừa lỗi cũ thì làm Thánh Hiền đặng.
Người đọc Minh-Thánh Kinh mà chẳng rõ lúc ông
Quan-Thánh mới khởi cuộc thể nào và khi rốt cuộc ra sao, cứ chấp lời, không ăn
chay không tin Phật, sao Ngài còn đầu-cơ với ông Phổ-Tịnh; sao người chẳng bắt
chước khí tượng của Ngài mà ở, để so sánh mấy lời đó; nào có ích lợi cho chúng
ta đâu.
Tại người tâm bất công-bình làm sách và in kinh
Minh-Thánh và Vĩnh-Mạng của Ngài, gia giảm thêu dệt tùy theo ý mình; cũng như
Thầy Châu-Tử làm chú-giải trong sách Nho rằng: " Ðức Khổng-Tử nói Ðạo Phật Lão rằng: Hư-vô tịch diệt chi giáo là
dị đoan"; chớ Ðức Khổng-Tử đâu luận vậy; như Ðức Khổng-Tử chê Phật Lão
sao còn học lễ với Lão-Ðam, bái Hạng-Thác vi sư, còn nói nơi Tây-Phương có
Thánh-Nhơn danh là Phật, lời đó chẳng phải Ðức Khổng-Tử tin trọng Phật Lão hay
sao.
Bởi lòng người không xét cho tột lý công-bình nên thấy
ai hay hơn thì chiết đốn bài báng, chẳng qua lòng ưa mến thịt rượu tài sắc kiếm
lời tranh luận cho bỏ qui-giới điều lệ chuẩn thằng của Tam-Giáo; lấy sự tửu
nhục tài sắc gọi bổ tâm trường theo ý riêng của mình mà bác-bẻ qui điều của
Tam-Giáo.
Như đời Bàn-Cổ Tam-Hoàng, ông Phục-Hi còn học đạo
với Huất-Huê-Tử, còn ông Huỳnh-Ðế học đạo với Quảng-Thành-Tử, sao không thấy
lời nào tịch diệt Phật Lão.
Nên Tam-Giáo Ðạo để kinh điển làm bằng, như:
Nho thì Kinh Diệc, Ðại-Học, Trung-Dung.
Thích thì Tâm-Kinh, Kim-Cang, Lăng-Nghiêm,
Huê-Nghiêm, Phạm-Dổng, Pháp-Hoa, và Bửu-Ðàn.
Tiên thì Huỳnh-Ðình, Ðạo-Ðức, Tam-Ðồng-Khế,
Ngộ-Chơn-Thiên là sách chánh của Tam-Giáo.
Sao người không học cho thấu đáo cốt-chủy, đồ cho y
theo kinh sách của Tam-Giáo tu luyện cho thành chánh quả, để kiếm lời bài báng,
tranh luận chánh tà với nhau thì tội lỗi thiệt hại cho chúng ta lắm đó.
THIÊN
THỨ MƯỜI TÁM
HƯ-VÔ
TỊCH-DIỆT CHI GIÁO LUẬN
I
Thầy Châu-Tử sanh nhằm đời nhà Châu, xem Ðạo Phật
là học thức cao thâm, bực tối thượng-thừa. Còn Ngài học Trung-Dung mà chưa rồi
lấy học theo lời của Ðức Phu-Tử, lúc còn dạy nhơn-đạo mà luận cho là Phật Lão
hư-vô tịch-diệt chi giáo. Nghĩa là dạy bực thái quá hư không, bóng dáng tự-do
lấy mình không tùy theo kiếp vận của Trời-Ðất. Học tâm-pháp mà tu luyện siêu
thăng, thành lấy mình, dùng đạo-đức làm chủ trương, lại để sách rằng: "Nhứt liệp kim đơn thân nhập khẩu, Ngã
mạng do ngã, bất do Thiên". Nghĩa là: một hột linh-đơn đem vào miệng
thì mạng ta bởi ta đâu có tại Trời. Nếu Thầy Châu-Tử luận cho rằng cải Thiên-mạng;
đó là Ðạo hư-vô tịch-diệt chi giáo là dị đoan.
Người học Nho nghe lời Châu-Tử mà tranh luận; bởi
lý học chưa thông và không suy xét tầm kiếm cho thấu tâm-pháp của Phật, Lão thế
nào, trở lại ngạo báng.
Việc chi cũng phải học đến mới có sánh đặng, chớ kỳ
trung Ðạo cũng một gốc, mà chia ba, lưu truyền kinh điển muôn ngàn cũng luận có
nhứt âm nhứt dương mà thôi.
II
Tuy Phật, Thánh, Tiên lời nói khác nhau là tại
nguơn-hội thời thế xuống trần mở Ðạo và tùy nguơn-hội tá danh lập Ðạo mà thôi.
Còn chứng quả cao thấp khác nhau tại công-quả hay là luyện khí Tiên-Thiên nhiều
ít.
THIÊN THỨ MƯỜI CHÍN
CÔNG-BÌNH
TÔN-CHỈ LUẬN
I
Trong việc tà chánh
thấy thì đủ rõ. Như người học Nho không tu không hành theo Kinh Diệc làm sao biết (1), hiệp
tịch càn-khôn chuyển biến, khi biến hào định quái; làm sao biết (2) cửu nhị
kiến long tại điền đặng rõ thấy vị đại-nhơn (đắc chơn nhứt khí), luyện lục âm
biến thành lục dương, lạc thơ đổi lại hà đồ, khôn quái trở thành càn quái, thuần âm biến ra
thuần dương. Nếu biết đặng diệu-lý ấy mới gọi Quân-tử chung nhựt càn càn, mới
vi mồ tựu kỷ, mới chiết khảm điền ly.
Nên người học đạo phải biết chỗ tu khôn-quái biến
thành càn-quái, dời mồ thổ trở lại kỷ thổ, chiết quái khảm đem lại lấp quái ly
cho thành càn. Càn là Trời thuộc dương thì phải luyện bát thuần-dương mới xung
lên hiệp với Trời; còn quái Khôn là Ðất thuộc âm nếu không tu lại thì còn bát
thuần-âm phải trọng trược nặng-nề đọa xuống Ðất.
Nào ai xưng đắc Ðạo mà không biết di hào định quái,
luyện âm biến dương thì phải còn thuần-âm trọng trược nặng-nề làm sao thành
đặng.
Bởi người theo học Trung-Dung Ðại-Học không giữ
theo tam cang-lãnh, bát điều-mục mà làm cho ra minh-đức, tân-dân, chí-thiện,
không khắc kỷ phục lễ mà tu cho cùng lý tận tánh, không biết nơi tri chỉ đâu
định tịnh đặng, không biết an lự đâu gọi năng đắc.
Trời đã phú cho một cái tánh linh mà mình không
biết đem cái tánh về nơi đạo thì uổng lắm. Nên Nho rằng: "Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo". Nghĩa là:
Trời cho ta cái tánh, ta tu đem cái tánh siêu thoát về đặng là Ðạo.
II
Người học Ðạo Phật không y theo lời Tâm-Kinh,
Kim-Cang, Lăng-Nghiêm, Pháp-Hoa, Huê-Nghiêm, Bửu-Ðàn.
Như người thường tụng Tâm-Kinh mà chẳng biết phép
Quan-tự-tại làm sao, thường niệm Bát-nhã mà chẳng biết cái tánh Bát-nhã ở đâu;
cũng như ngồi không mà nói ăn hoài, chẳng có cơm đem lại miệng, cứ ngồi nói
mãi; có no đặng không? Như vậy thì muôn kiếp khó kiến tánh đặng mà thành.
Kim-Cang rằng: "Bồ-Tát đãng ứng như
sở giao trụ". Nghĩa là: Bồ-Tát phải thường ứng mà biết nơi chỗ trú
dưỡng xá-lợi đạo thai cho viên mãn, nên Phật kêu rằng: "Sơ thoàn niệm trú, nhị thoàn túc trú, tam thoàn mạch trú, tứ
thoàn diệt tận định". Nghĩa là vọng niệm, hơi thở, mạch lạc đều ngưng
tụ lại không có, kêu là diệt tận.
Lăng-Nghiêm rằng: "Hình thành xuất thai thân vi Phật-Tử" thì cũng tu cái
chơn hình hư-vô đầy đủ mà xuất thai làm Phật-Tử.
Huê-Nghiêm rằng: "Trượng-phu hình thành tựu như lai mả-âm tàng tướng".
Phép hình thành tựu, chỗ như lai mả-âm tàng tướng làm sao? Hình thành là
chơn-khí tụ đem lại đủ thì cái ngoại âm rút thun lại. Phật kêu là xá-lợi-tử
thành, Tiên kêu là linh-đơn kiết, Thánh thì chơn-khí tụ.
Pháp-Hoa rằng: "Bạch-Ngọc
xỉ biên lưu xá-lợi, hồng liên thiệt thượng phóng hào-quang, hầu trung cam-lộ
quyên quyên nhuận, khẩu nội đề hồ đích đích lương". Xỉ biên chỗ nào mà
để Xá-lợi, làm sao trên lưỡi mà phóng hào-quang, làm sao trong cam-lồ thường
tươi nhuận, mới có đề hồ mát mẻ thân.
Bửu-Ðàn rằng: "Hữu
tinh lai hạ chưởng, nhơn địa quả huờn sanh". Hữu tinh phép hạ chưởng
làm sao mà do đất lại hóa sanh. Có khí dương sanh phải dụng chơn quả gieo xuống
đất thì do đất mà hóa sanh.
Nếu không biết, làm sao kiến tánh đặng thành Phật.
Nên yếu chỉ tại tâm hành, chẳng phải khẩu niệm; như khẩu niệm mà tâm không hành
theo thì ra việc huyễn bóng.
Lục-Tổ rằng: "Quy
Phật, Phật tại hà xứ, nhược bất kiến Phật bằng hà sở qui, ngôn khước thành
vọng". Nghĩa là: Qui y theo Phật, mà chẳng biết Phật tại đâu, nếu
không biết chỗ tánh Phật mà trở về thì cũng như lời trông vọng mơ ước việc
không có.
Nên có câu rằng: "Tâm mê chấp Pháp-Hoa chuyển minh, tâm ngộ minh chuyển Pháp-Hoa".
Tụng kinh lâu mà chẳng rõ nghĩa thì như lý gây thù
với kinh. Nên để chữ vô niệm gọi là chánh, còn niệm gọi là tà.
Trong mấy bổn kinh đó là chánh lý tâm-pháp của
người tu-hành, nếu không y theo cũng như hát bội mặc áo mão mà ra xưng Vương Bá
vậy, đâu có chắc đặng.
III
Người học Ðạo Tiên-gia không y Huỳnh-Ðình,
Tham-Đồng-Khế, Ngộ-Chơn-Thiên. Như kinh Huỳnh-Ðình rằng: "Tác đạo vu ưu thân độc cư, phò dưỡng tánh mạng thủ hư-vô, huợt
đàm vô vị hà sở lự, võ dực mồ kỷ chánh phò sơ, trường sanh cửu thị nãi phi
khứ". Nghĩa là: Ðức Lão-Tử dạy người học đạo thanh tịnh tâm ý nơi chỗ
vắng, tu tiết dưỡng tánh mạng lại, giữ khí hư-vô lặng lẽ tự nhiên, không xen
vọng tưởng, đem Kỷ-thổ về Mồ-Kỷ, lấy khảm lấp ly mới đặng trường sanh, cũng do
chỗ cửu thị đó mà phi thăng.
Sách Tham-Ðồng-Khế rằng: (3) "Diên cầu ngọc-thố não trung tinh; hống thủ kim-ô tâm nội huyết,
chỉ khu nhị vật kiến thành đơn, chí đạo bất phiền vô nựu nạt". Nghĩa
là: phải biết chơn diên mà tìm ngọc-thố tinh trong não, biết hống mà dùng kim-ô
huyết trong tâm, nếu biết hai vật đó thì kiết thành đơn, những người chí đạo
không cần nhọc sức diêu động mà thành tựu.
Sách Ngộ-Chơn-Thiên rằng: "Tiên bả Càn-khôn vi đảnh khí, thứ tương ô-thố dược lai phanh, lâm
khu nhị vật, qui huỳnh-đạo, tranh đắc kim-đơn bất giải sanh". Nghĩa là
mượn lấy càn-khôn làm lò nồi, dùng ô-thố làm thuốc mà nấu đem hai vật ấy trở về
huỳnh-đạo mới đắc linh-đơn khỏi tử sanh.
Ðây là tông-chỉ của Tiên-gia, nếu tu không rõ thấu
y theo mấy lời đó, sao xưng rằng học đạo Tiên.
IV
Tuy Tam-Giáo nói khác nhau vậy, chớ tu thấu đáo tâm-pháp của ba Ðạo, thì
mới biết cũng một lý, dầu trăm sông ngàn rạch cũng đổ về biển cả. Cũng lấy âm
dương Tạo-hóa mà tu luyện đoạt ra một cảnh Tạo-hóa nhỏ riêng ra nữa.
Bởi người học chưa đắc tâm-pháp, đồ không trúng kiểu, nên tu không ứng nghiệm,
ấn-chứng, mới phân nhơn ngã tranh
luận; tôi đạo nầy người đạo kia, thì lầm cho mình lắm đó.
Còn người học đạo xưng rằng: "Tiên-Thiên
Ðại-Ðạo kiêm hành Tam-Giáo" thì phải tu cho đắc xá-lợi của Phật, luyện cho kiết linh-đơn của Tiên,
hành cho đắc chơn nhứt khí Thái-cực của Nho.
Người tu-hành nhằm lý trong ba Ðạo, tại Thích xuất thai thân vi Phật-tử;
tại Tiên thì hiện xuất dương-thần, tại Nho thì siêu phàm nhập Thánh. Như vậy mới luận rằng kiêm hành Tam-Giáo, đắc cái
sở-hành của người tu, còn chưa đặng như vậy
đâu rằng Tiên-Thiên Ðại-Ðạo kiêm
hành Tam-Giáo. Hễ tu Ðại-Ðạo thì phải khác phàm. Tinh-Khí-Thần nghịch hành phản
lại Tiên-Thiên mà thành Ðạo. Vậy mới rằng tu Ðại-Ðạo, luyện Tinh hóa Khí, luyện
Khí hóa Thần, luyện Thần phản về Hư-Vô.
Ðây nói tiếp về nhựt dụng tu-hành của các Ðạo.
Không y lời Tam-Giáo dạy, lại dùng sự hậu-thiên hữu
hình chỉ truyền chư thiện-nam tín-nữ lầm sai, nên luyện Tinh không hóa ra Khí,
luyện Khí không hóa ra Thần, luyện Thần không phục lại Hư-Vô chơn thần đặng,
làm cho thuận hành, lạc về hậu-thiên tẩu tán hao mòn không đặng trường-sanh mà
chứng quả.
Nếu Tinh lậu, Khí tán, Thần vọng động thì ba vật
báu của người đâu còn làm sao y Phật, Pháp, Tăng đặng kiết tụ tam-bửu mà thành,
tam-bửu không còn làm sao sanh đứng Tam-Tài; chẳng thấy Phật A-Nang nói sao? "Lậu tận nan thành" là đó.
Dầu có tu qui-giới tinh nghiêm làm các việc lành,
quảng lập âm-công, cũng hưởng hồng phước hoặc về Lạc-Thiên-Ðường mà gia công tu
nữa, chớ khó thành Tiên, Phật đặng; vì bởi tam-bửu còn lậu tận, thuộc âm-linh
chí thần. Nên sách rằng: "Tu tánh
bất tu đơn, vạn kiếp âm linh nan nhập Thánh".
Những người tu không biết luyện Tiên-thiên dùng hậu-thiên lầm mấy phép tu
đó thường chuyên cần phải bị nguy hiểm, làm hại cho cả thân-thể, phản thành độc
dược. Hoặc sanh bịnh nhức đầu, hoặc đau bụng, hoặc là thường di-tinh, hoặc là hư
răng; hoặc lớn cổ, hoặc lờ con mắt, hoặc điếc lỗ tai hoặc là trệ khí, cùng là
thống khí lại còn sanh các bịnh khác
nữa, vì dùng hậu-thiên thần khí là những điều hữu-hình làm cho hại thân thể. Thương ôi! cho bọn
chúng ta đây lắm, có lòng mộ đạo
mà tu chưa thấy ấn-chứng sự trường-sanh lại còn bị điều vắn mạng cho chúng ta nữa.
Tôi đây, trước học chưa thấu đáo thành chánh đạo, nên tu mà thí-nghiệm phải
lầm mấy điều hậu-thiên hình tướng đó, nó làm hại cho thân-thể.
Nay tôi sợ người mộ đạo chưa thí-nghiệm đặng chơn
giả mà phân biệt, phải bị lầm hại nữa.
Cổ-Ðức nói rằng: "Trường-sanh tu phục khí, phục khí bất trường-sanh".
Nghĩa là: muốn trường-sanh phải phục khí, nếu phục hậu-thiên khí thì chẳng
trường-sanh đặng nên lấy chữ hữu-hình mà tu vô-hình là đó.
Còn Ðơn-kinh rằng: "Huyền quang nhứt khí", chẳng phải chỉ những vật có hình
trong mình còn dùng riêng không hình cũng khó thành đặng; phải mượn hậu-thiên
tu Tiên-thiên vô hình.
Kinh Lăng-Nghiêm nói rằng: "Chẳng biết chỗ tu dưỡng thần, thì u-âm-ma".
Như Thoàn môn nay: "Tu tánh bất tu mạng, vãng vãng điên đảo phản đáo, đắc bịnh như
tử. Tuy nhiên khẩu xưng đốn ngộ thập địa tam thừa, vãng vãng đáo đầu hư lão.
Bất tu tuyết sơn bạch ngưu phấn chi mỹ xứ, khống dĩ ma ngại tác cảnh, vọng dĩ
tập tuyết vi lương, ngộ liễn cô đa niên thiếu, kỷ vô lập mạng chi. Lý hồ, thí
dĩ hí đài thượng, nhơn tự xưng Hớn Cao-Tổ, Sở Bá-Vương". Nghĩa là:
trong thiền môn nay tu tánh chẳng tu mạng, thảy đều phải điên đảo rồi gặp bịnh
mà chết. Tuy miệng xưng rằng bực thập địa tam thừa, rốt cuộc đáo đầu cũng lão.
Chẳng biết chỗ bạch-ngưu-phấn đó thì cũng như mài gạch đá làm kiếng soi, như
gom tuyết lại làm cơm ăn thì lầm cho kẻ nhỏ, người lớn không chỗ lập mạng, đâu
có tánh đạo mà thành. Châu ôi! Cũng như hát bộ ra xưng ta rằng: Hớn Cao-Tổ, Sở
Bá-Vương đó vậy thôi.
Tuy xưng Tiên-Thiên đại đạo mà dạy người tu
hậu-thiên tiểu đạo thì là uổng công ăn chay giữ giới trong đời khó trông hiểu
đạo mà thành. Còn Ðại-Ðạo Tiên-Thiên tánh mạng thủy hỏa tại kỳ trung không
hình, không tượng, không không đáng đáng thì mới là tu mạng.
Nếu không tu mạng lậu tận, trở nên thuần dương đâu
có lý mà thành, khó thành vì bởi còn lậu tận nguơn tinh.
Luyện Tinh không hóa ra Khí, luyện Khí không hóa ra
Thần, luyện Thần không huờn Hư đặng, đâu hiệp phù kinh điển mà thành. Nên
Liễu-Huê-Dương rằng: "Thả thiên cổ
chí kim, mạt bất dĩ manh dẫn manh, khanh hảm vô số chi thiện tín, thâm nhập cửu
trùng bất năng xuất đầu, kiến Phật chi quang ba". Nghĩa là: từ xưa đến
nay đã lầm đàng lạc nẻo, mà lại còn dẫn người vào đường lầm lạc nữa, sa vào
hang sâu chôn lấp kẻ thiện tín vô số, không thế ngước thấy chỗ ánh sáng của
Phật; ấy là lầm hại của bọn chúng ta, như kẻ mù mà dắt người đui thế nào chẳng
hại.
Lấy sự sai thố mà truyền chỉ cho người sai thố nữa,
hại cho kẻ hậu tấn mộ đạo muôn kiếp.
Chớ chẳng phải tu mà lấy sự cao thăng chức phẩm đó
mà thành đặng, lấy sự tiền của mà cầu tước vị đó gọi rằng siêu thăng.
Tước phẩm là bề ngoài, dùng mà tôn ti phẩm cấp với
nhau, như coi xét sửa đoan trong việc tu-hành của đạo thì phải lấy sự tu-hành
tâm-pháp, công-quả, đạo-đức cao dày mà tôn ti, phẩm cấp mới phải cho chớ, sao
lại dùng tiền của lập tôn ti.
Và chẳng phải trường trai cho rằng đắc đạo, nếu
trường trai mà tâm tánh, đức hạnh của người chưa đặng hoàn-toàn, làm sao thành
đạo, mà gọi ăn chay rằng đắc đạo cùng là cao thăng phẩm tước đặng thì lầm sai
cho người tu lắm.
Hễ người đắc đạo thì phải thành Phật, Thánh, Tiên
mới kêu rằng nhơn đắc nhứt thành Thánh; chớ chẳng phải kẻ tầm thường mà thành
đặng.
V
Nay tôi lấy lẽ công-bình mà biện luận ra đây, chẳng
phải gọi là cao học thông hiểu, vì thấy người tu-hành tu không hiệp phù thành
kinh sách, không nỡ để làm hại cho nhau; thật tôi không gọi rằng minh chánh mà
bác bẻ mối tà; vì chẳng nên ẩn ác dương thiện, che lấp sự công-bình, sự tồi bại
của ta mà đi kiếm sự thị-phi của người đặng bài báng.
Nếu cái lương-tâm như vậy, sao cho công-bình chánh lý. Hễ đứng bực Ðại Hiền chẳng nên khen ai, chê ai, chẳng gọi
rằng mình thông biết đặng, hễ biết bao nhiêu, thì ra sức làm có ích cho đời bấy
nhiêu; tài năng bao nhiêu, tùy theo bổn phận của người, chẳng luận là cao
thấp, lớn nhỏ, vậy cái tâm mới công-bình.
Còn tôi đây lấy lời cổ-ngữ Tiên-Hiền hiệp các lý mà luận đây làm bằng chứng
cho người đồng-chí thâm tín mà thám ngộ lấy công-tâm mà biện-luận, mặc dầu ai
bác-bẻ chê bai thì cũng mặc nhiên,
xin cho người khỏi lầm nơi đường quanh nẻo vạy mà thôi.
Nếu ai ăn-năn lại mà giữ điều-lệ của Tam-Giáo thì
một ngày kia cũng gặp nẻo chánh.
Việc làm Tiên Phật chẳng khó, vì tại lòng người hành cùng không hành,
song muốn phần đạo-đức thì phải
giữ Tam-Cang Ngũ-Thường, khi việc nhơn-đạo đủ rồi, bước qua Thiên-đạo không xa. Nhơn-đạo là
nền đức-hạnh, nếu không tu thì Thiên-đạo xa đó.
Nên Tam-Giáo ra điều lệ cấm răn cho người tu
nhập-môn dầu giữ không đặng trọn thì cũng giữ chút ít cho có căn lành để kiếp
sau tu nữa.
Hễ kiếp nầy chưởng giống gì thì kiếp sau đặng an
hưởng giống nấy, lúc nầy gieo trồng sau mới có trái ăn, ấy là lẽ tự nhiên vậy.
(1) Nghĩa là: hòa hiệp âm
dương hậu-thiên chuyển tiên-thiên, đem dương mà lấp âm.
(2) Dương khí sanh đến cảnh
thứ nhì mới trọn đủ dùng, Phật gọi nhị hầu thể mâu-ni.
(3) Tá danh ô-thố cùng là
Hống-Diên đặng luận về thần khí cho biết hậu-thiên thần-khí, mà hiệp đạo luyện
đơn kêu rằng tá vật siểng đạo.
THIÊN THỨ HAI MƯƠI
NHƠN-TÂM,
ÐẠO-TÂM THUẬN NGHỊCH LUẬN
Thánh-Nhơn dạy bỏ hết lòng nhơn-dục thì đường Thiên-lý mới lộ ra kêu rằng: "Nhơn-dục
tịnh tận, thiên-lý lưu
hành".
Người bỏ đường Thiên-lý, ưa mến theo đường
nhơn-dục, lưu-luyến hồng trần trái lẽ đạo, thì phải tiêu tán sa đọa. Nên có
câu: "Thuận Thiên giả tồn, nghịch
Thiên giả vong". Thuận là giữ theo lẽ Trời nơi đường Thiên-lý thì vẫn
còn; nghịch là ưa mến theo lòng nhơn-dục, thì phải nhiễm khí trược tiêu tan lần
mà sa đọa.
Song Thánh, Phật, Phàm tại đó mà chia hai lẽ thuận
nghịch cũng một cái tâm người, phân ra nhơn-tâm đạo-tâm.
Hễ sanh nơi hình khí tư-dục là nhơn-tâm, sanh nơi
tánh mạng chánh lý là đạo-tâm. Vì bởi nhơn-tâm hưng thạnh ngày ngày tiệm tấn,
thì đạo-tâm ngày ngày phải tiêu mà đọa, làm sao thành đặng. Sách có câu: "Phi mao tùng thử đắc, tố Phật dã do
tha". Nghĩa là làm loài mang lông đội sừng cũng tại tâm, còn làm Tiên
Phật cũng bởi tại tâm.
Nếu bỏ đường tư-dục, noi theo đường Thiên-lý,
tu-hành theo chỗ chỉ ư chí-thiện, đặng phản hồi về khí tự nhiên thì trở nên
cũng như Thánh, Tiên, Phật.
Nên có câu: "Nhơn
nhơn khả dĩ vi Thánh Hiền, nhơn nhơn khả dĩ vi Tiên Phật, chỉ tại hữu chí, vô
chí chi nhĩ". Nghĩa là người người đều làm đặng Thánh Hiền, làm Tiên
Phật đặng, chỉ yếu tại có chí cùng không chí, kẻ có chí chẳng luận xuất gia hay
là tại gia. Tại gia giữ y theo Tam-Qui, Ngũ-Giới tầm chơn-sư học tâm-pháp
diệu-lý của Phật, Thánh, Tiên, kiếm nơi tịnh địa mà tu-hành, cho thấy ấn-chứng
như mấy lời ứng nghiệm nơi trong kinh sách thì cũng đặng, lựa là xuất gia vào
chùa hay là lên núi mới gọi là tu.
Nếu ở chùa hay là trên núi mà tâm không tịnh, còn
mơ vọng hồng trần, làm sao thành đặng.
Nên kinh Bửu-Ðàn rằng: "Tại tự bất tu như Tây-Phương nhơn tâm ác, tại gia năng tu,
Tây-Phương nhơn tâm thiện".
Nếu ở chỗ trần mà đừng cho nhiễm, mới cách vật, ở
trược địa đừng nhiễm trược, mới gọi quân-tử. Có câu rằng: "Bạch ngọc vi ư ô ê, bất năng thảm thấp kỳ sắc, quân-tử xử ư trược
địa, bất năng nhiễm loạn kỳ tâm". Nghĩa là: Ngọc ở dưới bùn mà không
cho khờn lấm, người quân-tử ở chỗ trược địa, chẳng cho nhiễm loạn nơi tâm.
THIÊN
THỨ HAI MƯƠI MỐT
KHAI
HÓA TÙY THỜI LUẬN
Những kinh điển của Tam-Giáo để dạy đời cũng như
thuốc để trị cái tâm bịnh của người, tùy theo bịnh mà gia giảm nếu ai dùng thì
lành bịnh nầy. Kinh điển truyền dạy cũng tùy theo thời thế nguơn hội mà phổ-độ
khai hóa, nếu chấp theo lề luật cũ thì thế khó mở mang; cũng phải lấy lề luật
qui cũ xưa mà chế nay, tùy theo nguơn hội, chớ chấp một thế y như xưa thì khó
khai hóa cho hậu lai lắm. Phải lấy xưa mà chế nay, cho hạp thời thế.
Tỷ như một thứ xe, hay là một chiếc thuyền kiểu xưa
mà để cho đời nay dùng thì bất tiện lắm, nên dùng xưa mà chế nay mới tiện,
chẳng nên chấp cố theo điều bất tiện mà lầm.
Như Nhứt-kỳ Tí-hội Bàn-Cổ khai đạo, Bàn-Cổ,
Thái-Thượng, Nhiên-Ðăng, tùy nguơn ấy mà dạy đạo, đến Nhị-kỳ Sửu-hội, Lão-Tử,
Thích-Ca, Khổng-Tử cũng tùy nguơn ấy mà mở đạo, nay Tam-kỳ Dần-hội, Ðức Thượng-Ðế
hoằng khai Ðại-Ðạo cũng dùng cho phù hạp thời thế nền Ðạo mới thạnh hành.
Như đời Châu Sơ, Ðức Thái-Thượng ra đời dạy đạo mở
mang ấn bế, khó hiểu. Qua Trung Châu, Ðức Thích-Ca ra giáo đạo mở khai dễ lần.
Qua Châu Mạt, Ðức Khổng-Tử ra giáo đạo khác nữa mà cách lộ ẩn hiện không giống,
vì bởi tùy theo nguơn hội mà khai đạo.
Gặp đời bình trị dạy theo bình trị, gặp thời thế
chiến quốc dạy theo đời chiến quốc.
Nếu chấp y theo xưa thì không phù hiệp kinh điển lý
đạo.
THIÊN THỨ HAI MƯƠI HAI
SIÊU
ÐỌA TỰ NHIÊN LUẬN
I
Sự siêu-đọa do nơi một cái khí nhẹ khí nặng mà ra,
hễ linh-hồn ai nhiễm trần-tục, làm điều hung ác tội lỗi nhiều, thì nó trọng
trược nặng-nề phải đọa xuống, còn linh-hồn ai biết ăn năn, sửa lòng tinh sạch,
bỏ các điều ác không làm tội lỗi, tu dưỡng tinh-thần trở lại thì nó phải khinh
phù nhẹ-nhàng, đi lên, ấy là lề luật tự nhiên đó.
Phàm con người ta ở thế, từ mới sanh cho đến lớn,
tập tánh nhiễm các sự lợi ích cho mình, mới ra tội lỗi mà chuyển thành trược
khí, trầm trọng nặng-nề, nên phải chuyển kiếp, tùy theo kiếp trước của mình làm
đó mà trả vay, hoặc giàu sang, hoặc nghèo hèn cô độc, hoặc tàn-tật khốn-đốn,
hoặc biến cầm thú, là tại linh-hồn mình tạo gây buổi trước mà chuyển báo.
Nên sách rằng: "Thiên
Ðịa tự nhiên giai hữu báo". Nghĩa là: Trời Ðất tự nhiên đều có trả quả
cho hết. Xin người đồng-chí phải lo bồi đấp cái căn-bổn lại thành nhánh lá phải
tự nhiên thạnh mậu.
II
Ðấng Tạo-Hóa cho người một điểm linh tánh căn-bổn
của mình, nếu không biết giữ để nhiễm trược khí, nhiều sự tội lỗi ác đức thì
phải luân-hồi chuyển kiếp mà vay trả nhau nên Kinh Nhơn-Quả rằng: "Súc sanh bổn thị nhơn lai cá, nhơn súc
luân-hồi cổ đáo kim". Nghĩa là: Súc sanh vốn thiệt là người thay đổi,
cải đầu hoán diện, biến thân hình. Người cùng vật xưa nay thường chuyển kiếp
nhau vậy. Có câu rằng: "Nhơn chi sở
di, cầm thú dĩ hi, quân-tử tồn chi tiểu-nhơn khử chi". Nghĩa: Người
cùng loài cầm thú khác nhau có bao nhiêu đây, hễ quân-tử thì gìn-giữ bổn tâm
chơn tánh còn kẻ tiểu-nhơn buông lung tâm tánh chẳng giữ gìn đem lại đặng. Nên
có câu: "Nhơn sở dị cơ hỉ".
Nghĩa là: nếu người bỏ mất bổn tâm, chơn tánh thì người cùng vật có khác nhau
bao xa; song bổn tâm chơn tánh là gốc của người để nó buông lung ra làm điều
không chơn chánh, không công-bình và không giữ hiếu đễ, trung, tín, lễ, nghĩa,
liêm, sỉ tám điều mục ấy, thì mất bổn tâm chơn tánh. "Tuy y quan hà dị mao giác" tuy mặc áo mão đâu khác lông
sừng.
Tiên Phật cũng đồng cha sanh mẹ đẻ thân phàm duy có
đặng siêu thăng chứng quả, có phải là giữ cái bổn tâm chơn tánh mà tu-hành
chăng?
Ai mà biết học bí-pháp, tu-hành lập công bồi đức
thì cũng trở nên siêu thăng y như vậy. Còn như không trở lên là tại đồ không
trúng kiểu, tu không nhằm lý. Tỷ như người kia ra một cái kiểu họa đồ chi, mà
chỉ nhằm cách thức, thì đồ lâu ngày cũng trở nên trúng y kiểu đặng. Huống chi
là tâm-pháp của Tiên Phật truyền chỉ nhằm lý mà tu-hành lâu ngày cũng lẽ thành
đặng; nên do tại chỗ sở-hành yếu-lý mà thôi.
THIÊN THỨ HAI MƯƠI BA
HAO
TỔN CĂN-BỔN LUẬN
I
Căn-bổn là gì?
Là Tinh, Khí, Thần, ba vật quí báu hơn hết của con
người, ba vật đó còn thì thân-thể con người còn, ba vật đó tiêu thì thân-thể
phải chết.
Như Trời có ba báu là: Nhựt, Nguyệt, Tinh, nếu
không có thì tối tăm mịt mờ, chẳng tỏ.
Ðất có ba báu là: Thủy, Hỏa, Phong (nước, lửa,
gió), nếu không có thì muôn loài vật đâu sống đặng.
Còn ba báu của con người là Tinh, Khí, Thần, nếu
xài phí tiêu tán hết thì hình thể đâu còn sống đặng.
Nên người lấy Tinh, Khí, Thần đó làm căn-bổn, chẳng
biết tu bổ lại cứ xài phí lâu ngày phải tiêu tụy.
II
Hễ tánh linh vọng động (lo tưởng) thì hao mòn
linh-hồn; nhọc sức cả nhiều lời hao tán chơn-khí, dâm-dục nhiều hao tán
chơn-tinh; ba vật báu ấy hao mòn mà lại còn khắc hại trong ngũ-hành, ngũ-tạng.
Như tham dâm thì hao thận (thủy), tham tài hao can (mộc), tham phú quí hao tâm
(hỏa), tham sát hại hao phế (kim), tham háo thắng hao tì (thổ).
Tam-bửu hao mòn, ngũ-tạng khuy tổn, như ngọn đèn kia tim rút
dầu, dầu hết thì phải tắt. Còn người Tinh, Khí,
Thần hết thì phải chết. Nếu không
biết tu bổ lại thì nó vui theo tửu, sắc, tài, khí, trăm việc lo cảm-xúc nơi
tâm, muôn việc muốn nó hại nơi hình, thì tiêu hao lần lần, ngũ-tạng người giảm suy phải
chết. Nếu người ăn-năn sửa lỗi, giữ theo điều-lệ của Tam-Giáo cấm răn, và tầm
sư học tâm-pháp phục mạng, cũng như chế dầu lại, cho khỏi thiệt hại nguy hiểm.
Nên sách có câu rằng: "Qui căn tự
hữu qui căn khiếu, phục mạng ninh vô phục mạng quan". Nghĩa là đem
căn-bổn trở lại còn có chỗ đem lại đặng, còn phục cái mạng người không có chỗ
hay sao? Còn con người biết dùng tam-bửu, ngũ-hành trong mình hiệp lại tu dưỡng
trở nên một cái khí nhẹ nhàng hơn hết, thì tức nhiên thành Tiên, Phật.
THIÊN THỨ HAI MƯƠI BỐN
SỞ-HÀNH
TÂM-PHÁP LUẬN
I
Nhưng người học đạo phải cho hiểu lý, còn tu-hành
phải thông tâm-pháp mới rõ chắc sự thành của Phật, Thánh, Tiên.
Như Nho đọc câu minh-đức, tân-dân, chỉ ư chí-thiện
thì biết làm sao cho ra nghĩa minh-đức, tân-dân, chí-thiện.
Như Ðạo Thích đọc Tâm-Kinh Quan-tự-tại Bồ-tát phải
hành lý Quan-tự-tại Bồ-tát làm sao; như thường niệm A-Di-Ðà Phật thì phải hiểu
sáu chữ đó đọc mà làm chi, chớ đừng gọi tụng niệm hoài mấy chữ đó mà thành
đặng. Cũng chẳng nên bỏ mà không học, do học hiểu rồi phải hành như đọc bài rồi
phải giải lý hành theo chớ đừng tụng niệm hoài mà hao thần tổn khí.
II
Vì người tu không đủ hết lòng lo cho y một mối Ðạo
của Tam-Giáo như Tam-Qui Ngũ-Giới là điều-lệ bề ngoài dạy răn lòng chừa lỗi cũ,
bỏ nhơn-dục đặng trở lại đàng Thiên-lý mà nhập môn tu-hành, còn giữ y theo làm
không tròn đặng, huống chi là sở hành tâm-pháp nơi trong, vô hình đồ sao y đặng.
Nên Tam-Giáo thường dạy khử nhơn-dục tồn Thiên-lý.
Nhơn-dục thuộc âm, ô-trược nặng nề về phần ma quỉ.
Thiên-lý thuộc dương, thanh, nhẹ nhàng về phần Tiên
Phật.
Ðơn kinh dạy người phải triêu tấn dương hỏa, mộ
thối âm phù, nghĩa là dạy người phục đem cái dương-khí Tiên-thiên lại, đuổi cái
hậu-thiên trược khí lui dần.
Người thường đọc mà không hành lý, chỗ sở-hành là
phải có Chơn-sư chỉ-giáo (khẩu khẩu tương truyền) bí-pháp tu mới thấy ấn-chứng
sở-hành phát lộ. Chớ đạo-lý u thâm, huyền diệu khó tại yếu-lý huyền-vi:
Như biết hạ thủ chẳng biết thể thủ thì chẳng thành
đơn.
Biết thể thủ chẳng biết lão nỏn (già non) chẳng kết
linh đơn.
Biết lão nỏn chẳng biết phối hiệp cũng không thành
đơn.
Biết phối hiệp không biết cang nhu cũng không thành
đơn.
Biết cang nhu chẳng biết thời tiết cũng không thành
đơn.
Biết thời tiết chẳng biết tấn hỏa thối phù cũng
không thành đơn.
Biết tấn hỏa thối phù chẳng biết phanh luyện thì
cũng không thành đơn.
Biết phanh luyện chẳng biết châu thiên độ số cũng
không thành đơn.
Biết châu thiên độ số chẳng biết thăng giáng cũng
không thành đơn.
Biết thăng giáng chẳng biết mộc-dục cũng không
thành đơn.
Biết mộc-dục không ôn dưỡng đơn tụ rồi cũng tán.
Nên người học đạo chẳng lo không thành, duy lo tâm
chí chẳng kiên bền tinh-tấn, thì cần chung đãi, lâu ngày mỏi chí. Nội-Hoàn Kinh
nói rằng: biết đạo dễ, tin đạo khó, tin đạo dễ, hành đạo khó; hành đạo dễ, đắc
đạo khó; đắc đạo dễ, giữ đạo khó; giữ đạo dễ, thành đạo khó. Nhược bằng đạo
không khó thì Thần Tiên đều đầy dẫy như chợ đông.
Nên người học đạo phải chí-khí cho lớn đến chết
không đổi biến cái tâm; như vậy mới đứng làm Tiên Phật đặng.
Ðạo tuy rằng khó, nhưng khó dễ tại tâm người. Có
câu rằng: "Tri dã chí gian chí dị,
bất tri dã chí gian chí nan". Nghĩa là: Kẻ biết rất đơn rất dễ, kẻ
không biết thiệt gian thiệt nan. Nên: "Tri
giã di ngộ, muội giã nan hành". Kẻ trí dễ hiểu, người mê khó hành.
Hễ bền chí thì khó cũng hóa ra dễ, không bền chí dễ
cũng hóa ra khó.
Tại người chưởng phước đức đầy-đủ, chí-khí cho bền,
tầm chơn-sư chỉ truyền diệu-lý ấn-chứng theo kinh sách ứng nghiệm cho phù như
mấy lời hỏi đây:
Làm sao biết hạ thủ tu-hành?
Làm sao biết huyền quang nhứt khiếu mà lập đảnh an
lư;
Làm sao biết lục thần hội hiệp mà tập kỷ trúc cơ;
Làm sao cho biết giờ tiết mà lấy thuốc hiệp đơn.
Làm sao cho biết già non mà dùng;
Làm sao cho biết hống lai mà hiệp diên đặng hóa
sanh huỳnh-nha bạch-tiết;
Làm sao biết mạnh yếu mà chế luyện cho vừa nước
lửa;
Làm sao biết tấn hỏa thối phù, rằng văn phanh võ
luyện;
Làm sao cho biết kiết linh-đơn rồi hóa quan phục
thực;
Làm sao biết vi lư hoán đảnh đặng thoát thai thần
hóa;
Làm sao tam niên nhũ bộ mà tập thần xuất xác;
Làm sao diện bích cửu niên cho hình thần linh diệu.
Như gặp Chơn-Sư chỉ truyền mấy lý đồ cho y kiểu đã hỏi trên đây, thì tu thấy ứng nghiệm mới rằng gặp Chơn-Sư chỉ giáo thì siêu khỏi đọa lầm Bàn-Môn ngoại đạo, không
uổng một kiếp cực khổ tu-hành.
Còn như tu không y mấy điều của Tiên Phật để lại đó thì là ngoại đạo dối giả; dầu có tu thì hưởng hồng phước mà
thôi khó thành Tiên, Phật đặng. Nên sách nói rằng:
"Tu-hành
bất minh giá ta lý, đáo để nan đáo thập điện hình". Nghĩa là: tu
không biết lý hành-vi tâm-pháp đây, dầu tu đến thác khó tránh luân-hồi đặng.
THIÊN THỨ HAI MƯƠI LĂM
TU
ÐẮC ẤN-CHỨNG CẢNH NGHIỆM LUẬN
I
Ðứng làm người xuất thế tầm Chơn-Sư cho đắc chánh truyền, chỉ thấu tâm-pháp, tu-hành
tam-bửu, luyện tinh biến ra khí, luyện khí biến ra thần, thì thấy ấn-chứng y tam-giáo như đây chẳng sai.
Nho rằng: "Tịch nhiên bất động cảm
nhi toại thông". Nghĩa là: lặng-lẽ tự nhiên không diêu-động cảm xúc mà
thông-linh; cùng là "Tam ngoạt bất
di nhơn". Nghĩa là: Trong ba tháng chẳng lìa chỗ nhơn. Còn Tiên rằng: "Yểu hề minh hề kỳ trung hữu tinh. Hoản
hề hốt hề kỳ trung hữu vật". Nghĩa là: trong lúc khí yểu minh thì có
chơn tinh. Trong lúc khí hoản hốt thì có chơn vật. Và có câu: "Miên miên bất tuyệt cố đế thâm
căn". Cũng dùng âm-dương làm nồi lò, cũng lấy Tinh-Khí-Thần tá danh
nấu thuốc Linh-đơn kêu rằng: "Hồi
phong hổn hiệp, bá nhựt công linh". Nghĩa là thấu vận tốn phong nấu
luyện trong một trăm ngày, thì thuốc linh-đơn chín.
Còn Phật rằng: "Nhị hầu thể
mu-ni". Nghĩa là: hai chừng chừng dùng lấy mu-ni, ấy là cũng luyện
Tinh hóa Khí đó. Ba tháng đắc chơn khí, một trăm ngày kiết linh-đơn.
Nên Tiền-Tổ có câu rằng: "Tam
ngũ nhứt đô tam cá tự, cổ kim minh giã định nhiên hi, đông tam nam nhị đồng
thành ngũ, bắc nhứt tây phương tứ cọng chi,
mồ kỷ tự cư sanh số ngũ, tam gia tương kiến kết anh nhi". (Ấy là luyện Tinh
hóa Khí đó), anh nhi thị nhứt hàm chơn khí, thập ngoạt thai huờn nhập thánh cơ
(luyện khí hóa dương-thần xuất hiện). Nghĩa rằng:
Ðông ba nam hai, là mộc với hỏa, phối hiệp sanh
Tiên-thiên chơn hỏa, là một số ngũ;
Bắc một tây bốn, là thủy với kim, giao hiệp sanh
Tiên-thiên chơn thủy đó là hai số ngũ.
Hai số ngũ giao phối lại nữa, sanh Tiên-thiên chơn
thủy hỏa là Ðạo.
Âm-dương hiệp nhứt lại, trung ương sanh một số ngũ là ba nhà hiệp nhau, kiết tụ
thành thai sản anh hài, (bởi ba nhà Tinh, Khí, Thần hiệp lại đủ mười tháng,
thành vào cõi Thánh).
Phật rằng: (1) "Xá-lợi thành
hình xuất thai thân ví Phật-tử". Huê-Nghiêm Kinh rằng: (2) "Thế-Tôn tùng bạch hào tướng trung phóng đại quang minh, danh Như-lai xuất
hiện".
Nho rằng: (3) "Tịch
nhiên bất động cảm nhi toại thông".
Tiên rằng: (4) "Hiện
xuất dương thân thoát thai thần hóa".
Mấy lời đó chẳng phải Tiên, Phật, Thánh dối ngữ
đâu. Vì tại thất chơn-truyền nên học không hiểu thấu và không thấy ấn-chứng,
ứng nghiệm y như kinh điển.
II
Nếu học trúng lý, nhằm tâm-pháp thì thấy ứng nghiệm
thành cảnh, như lời Nho nói đây: "Kỳ
thứ trí khúc, khúc năng hữu thành, thành tắc hình, hình tắc trứ, trứ tắc minh,
minh tắc động, động tắc biến, biến tắc hóa thì dĩ nhiên hạ chí thành năng biến
hóa". Nghĩa là trong đoạn ứng nghiệm nó có thứ lớp. Ðoạn trước, phải
tịnh tâm cho chí thành, lòng chí thành, thì có ứng hình, ứng hình thì tỏ rõ, tỏ
rõ thì sáng chói, sáng chói thì cử-động, cử-động thì biến hóa, đây trong
thiên-hạ ai tu nhằm lý và lòng chí thành, đặng biến hóa.
Còn Tâm-Kinh rằng: "Quan-tự-tại
bồ-tát hành thâm bát-nhã ba la mật đa". Quan-tự-tại bồ-tát nghĩa là
quan định chủ nhơn ông (dưỡng thần) dùng thâu phóng tâm; hành thâm bát-nhã
Ba-la mật đa là diệt tận tâm ý vọng niệm mới hạ thủ dụng công, đem tâm hỏa lại
luyện lấy Tiên-thiên chơn kim thì ứng nghiệm phát sanh nhiều cảnh tượng huyền-diệu.
Nếu mình tu thấu đáo nơi diệt tận định thì phát ra
nhiều cảnh tượng ứng nghiệm như Thế-Tôn rằng: "Diệt tận định lục căn chấn động, mi gian thường phóng bạch
hào-quang". Nghĩa là diệt tận hết nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý cho
định lại thì lục-căn đó phát xung động trước chăn mày hằng phóng bạch
hào-quang.
Tiên kêu rằng: Huỳnh nha sanh bạch tiết phát.
Ấy là ấn-chứng sự thành cảnh của ba nhà Phật,
Thánh, Tiên.
Nên Phật luyện ra Mu-ni bửu châu;
Tiên luyện ra Thử mể huyền châu;
Thánh luyện ra Cửu khúc minh châu.
Ðó là sự mầu-nhiệm của cái máy tu luyện trong Tam-Giáo. Nếu Tam-Giáo không
có tu luyện hành diệu-pháp, vậy chớ học phép nào mà nói ra cảnh tượng dường ấy.
Còn Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ, Châu-Công,
Khổng-Tử cũng học tinh nhứt chấp trung, tâm-pháp bí-mật mà thành "Thánh Thánh tương truyền ư vạn thế".
Ấy là truyền tâm-pháp bí-mật trong sách kinh đó, chẳng phải truyền văn-tự không
mà đọc theo hoài, không hành yếu-lý.
Nên phải thông Tam-Giáo và gặp Chơn-Sư, thì biết diệu-lý bí-mật về Phật, Thánh, Tiên mới đặng.
Nếu thông uyên-lý nhà Tiên mà không thông Phật-pháp, cố chấp một nhánh
thành bịnh; thông nhà Phật không hiểu cốt-chủy nhà Nho thì bọn cuồng học chi lưu đó.
Phải dùng Ðạo Thích mà thám ngộ, dùng Ðạo Tiên mà
công-phu, dùng Ðạo-Nho mà biết chỗ thể dụng thứ lớp; chớ chẳng phải Tam-Giáo
dạy tụng đọc hay là ngồi tự nhiên đó mà thành đặng.
III
Như người muốn học đạo trước phải tu tâm, muốn thấy ứng nghiệm trước phải
luyện tánh thì nhập-môn mới kiến hiệu.
Tiên-gia rằng: Tu tâm luyện tánh.
Phật rằng: Minh tâm kiến tánh.
Nho rằng: Tồn tâm dưỡng tánh.
Tập tâm tánh mà chi vậy? Có phải sửa lòng phàm tục
đổi ra lòng Tiên Phật chăng?
Nho kêu rằng:
"Nhơn-dục tịnh tận, thiên-lý lưu hành".
Thích rằng: "Vô
vô minh, diệc vô minh tận".
Tiên rằng: "Hư
tâm thiệt phúc, quan không chi Ðạo" cũng là luyện tánh bỏ lòng phàm
tục, trừ các điều nhơn-dục mà hành đạo. Như gặp Chơn-Sư chỉ truyền tâm-pháp
hỏa-hầu thứ lớp mà tu, mới rõ Tam-Giáo Ðạo-Sư, cũng tu luyện một lý mà thành.
Còn không gặp Chơn-Sư truyền chánh-pháp, dầu có tu khổ khắc hình-thể, đoạn dứt trần-gian, ngồi thoàn mà tịnh
định, xuất đặng định âm thần, thì cũng thọ hưởng nhơn gian quí tế về cõi Lạc-Thiên mà thôi; thì phân biệt khác nhau
một cái dương-thần, một cái âm-thần.
Nếu luyện dương-thần đặng, thì siêu thoát khỏi phần
âm linh chi thần đó, mà ra ngoài không khí đặng.
Nên Phật, Thánh, Tiên đắc chánh truyền bí-pháp, biết hiệp Tinh-Khí-Thần mà
tu luyện đổi lại dương-thần, trở nên Tiên, Thánh, Phật, nên kêu là tu luyện
linh-đơn, dưỡng huờn Xá-lợi-tử, qui phục Chơn-nhứt khí (hạo nhiên khí). Vậy có
câu: "Có tinh-thần lại dưỡng tinh-thần, tinh-thần bổn thị Linh-đơn dược", thì cũng chỉ quyết lấy Tinh-Khí-Thần, ba báu đó
mà làm thuốc trường-sanh, kêu là (5) Tam phẩm thượng dược, Thần dữ khí tinh.
Còn phép hiệp lại mà tu, phải có người chỉ truyền
mới biết mà dùng, bằng không thầy truyền, dẫu thông-minh hơn ông Nhan, ông Mẫn
cũng khó mà hiểu đặng.
Thầy Tử-Cống nói rằng: "Phu-Tử chi văn-chương, khả đắc văn dã. Phu-Tử chi ngôn tánh giữ
Thiên-đạo, bất khả đắc văn dã". Nghĩa là: Ðức Phu-Tử nói văn-chương
thì Tử-Cống nghe đặng, còn nói cái tánh cùng Thiên-đạo thì Tử-Cống Ngài nghe
không đặng rõ.
Mới biết Thiên-đạo, Nhơn-đạo hai nẻo, tánh đạo, văn
chương khác nhau.
Thiên-đạo là: Tu tánh dưỡng mạng trở về không khí; tận nhơn hiệp thiên là
phủi hết lòng nhơn-dục mới trở về
Thiên-lý kêu là xuất thế
Thiên-đạo.
Còn Nhơn-đạo là ngũ-luân ngũ-sự, ưa mến hồng trần, kêu là Nhập thế Nhơn-đạo.
(1) Phật-đạo tu tam-bửu Tinh, Khí, Thần luyện thành
Xá-lợi-tử chơn hình thiêng-liêng huờn thành một khối dương-thần hiện ra gọi là
Phật-tử.
(2) Phật Thế-Tôn dùng hào-quang trắng mà siêu thoát
gọi là Như-lai xuất hiện.
(3) Nho thì lặng-lẽ tự nhiên không động, cảm-xúc
nhau mà thông linh.
(4) Tiên-đạo luyện thành linh-đơn đủ số dương; thì dương-thần phải phát hiện
ra kêu là Tiên biến hóa.
(5) Ba bực thuốc quí báu là: Tinh, Khí, Thần có thế
hiệp luyện siêu thoát đặng.
THIÊN
THỨ HAI MƯƠI SÁU
THỨ-TỰ
TU-HÀNH LUẬN
I
Cách thức tu-hành cho có ấn-chứng và y qui-điều của
Phật, Thánh, Tiên thì phải giữ theo tam-cang ngũ-thường, tam-qui ngũ-giới,
tam-nguơn ngũ-hành, không cho phạm đến, đổi tánh sửa lòng, trai-giới tinh tấn.
Tìm học phép huờn hư luyện tánh đối cảnh vô tâm,
phủi hết phàm tâm, chẳng cố tâm đến.
Việc đã qua rồi, việc chưa đến, việc trước mắt đều
không mơ tưởng.
Nho rằng: "Chấp
trung chi tâm-pháp, vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã".
Phật kêu rằng: Vô nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, cùng là ứng vô sở trú nhi
sanh kỳ tâm.
Tiên kêu rằng: "Hườn hư tánh thể" luyện cho thanh tịnh thì có cảnh nghiệm, thì mình thấy biết rằng đắc
phép huờn hư luyện kỷ đó.
Nho kêu rằng: "Tri chỉ nhi hậu
hữu định", rồi thầy truyền đến bực trúc-cơ là phép ngưng tụ thần-khí
chẳng cho hao tán tam-bửu (Thần-Khí-Tinh).
Tu cho Càn-khôn giao phối, âm dương hiệp nhứt thì
có cảnh nghiệm ứng cho biết rằng đắc phép trúc-cơ.
Nho nói rằng: Ðịnh nhi hậu năng an.
Phật nói rằng: Diệt tận định.
Tiên nói rằng: Diên hống tương đầu.
Hiệp tu lâu thì có cảnh nghiệm ứng ra nữa.
Nho kêu rằng: An nhi
hậu năng lự;
Phật rằng: Phát xuất huệ cảnh.
Tiên rằng: Thể dược qui hồ.
Thì đây có phải Thầy chỉ truyền hỏa-hầu mà dùng
thuốc linh-đơn, phải biết thời-tiết mà lấy, phải biết già non mà nấu, dùng
cang-nhu chế luyện, phải biết thanh trược mà phối hiệp, phải biết tấn hỏa thối
phù cho đủ châu thiên, phải biết văn phanh võ luyện, đặng ôn dưỡng mộc-dục,
thường hành công cần giờ khắc chẳng ly, tinh biến ra khí hết.
Tiên gọi một trăm ngày kiết tụ linh-đơn.
Nho gọi rằng: Trong ba tháng không giây phút nào lìa chỗ nhơn.
Phật rằng: Diệc phục như thị, thành xá-lợi-tử; mới
gọi cái máy ấn-chứng của Tiên, Phật, Thánh rõ ràng, luyện tinh hóa ra khí vậy.
Như giữ theo bực nầy thì chứng quả.
Nhơn-Tiên trường sanh vô bịnh mà thôi. (1)
Còn tịnh công thêm nữa thì phải định tịnh diệt tận
bảy ngày mà dùng đại dược đặng hóa quang phục thực, hành đại châu thiên.
Hễ hóa quang phục thực đặng thì chứng bực Ðịa-Tiên.
Tịnh định gia công thêm cho Thần mãn, Khí mãn đủ mười tháng, thai huờn nhập
Thánh, Phật gọi xuất thai thân vi Phật-tử, Tiên kêu: xuất hiện dương-thần, Nho
kêu: siêu phàm nhập Thánh, đây là chứng bực Thần-Tiên.
Gia công tu dưỡng ba năm nhũ bộ cho dương-thần
tráng kiện, cho thần thông quảng đại kêu là tam-niên nhũ-bộ chứng bực
Thiên-Tiên.
Như gia công tu thêm chín năm thì về Niết-Bàn hư
không cảnh giới chứng bực đại-giác Kim-Tiên, như Thích-Ca luyện cửu niên diện
bích vậy; đắc quả tiêu-diêu thắng cảnh vĩnh kiếp trường-tồn, thì Trời Ðất có hư
hoại, chớ tánh linh đó không hoại.
II
Phật, Thánh, Tiên đâu có dối ngữ, tại người đồ
không y pháp học không nhằm lý, nên tu hoài không thấy ấn-chứng sự thành mà ngã
lòng và không gặp thầy chỉ truyền tâm-pháp, bị lầm Bàn-Môn ngoại đạo, phân chia
nhiều mối rối loạn lòng người, mượn lời Tiên-Phật mà giáo-hóa, luận những lời
thành Phật thành Tiên, nói hơi Thánh hơi Hiền, xưng rằng chánh lý cho người
người đều ham mộ mà lầm.
Song chưa quảng thông Tam-Giáo, học-thức chẳng cao
thâm, lấy chi mà nghiệm so sánh, biết rằng đàng tà nẻo chánh mà đi, thì phải
lầm Bàn-Môn giả đạo.
Còn hỏa-hầu, tôi luận sơ lược đây cho người đồng-chí sau gặp chánh đạo mà
thám-ngộ nhập-môn hạ thủ.
Tâm-pháp bí-truyền phải có Thầy chỉ mới rõ điều
ấn-chứng của Tam-Giáo.
Như người có căn trước một hai kiếp cùng là có duyên nơi đạo-đức, nay gặp bài
luận nầy tầm cho đặng Thầy chỉ truyền tâm-pháp cho y kinh sánh thì tu chắc thành chẳng sai.
Nếu không y mấy lời nầy và không phù kinh sách thì là chưa phải gặp
Chơn-Sư chánh đạo, có tu thì hưởng hồng phước mà
thôi, khó về Tiên-Thiên hư-vô chi khí, vì bởi còn âm-thần nên chứng quả không đặng.
Biết máy tu dương-thần, thì hiệp với khí ấy mới lên đặng. Vì Ðạo không hành
đến, nên không biết đặng.
Còn chúng ta đây trước khi học chưa thấu lý, dòm chưa tột chỗ Tam-Giáo, cũng
luận rằng; ba đạo ấy bày sự kinh sách lưu truyền, kiếm lời mà đặt để cho cao
xa, luận việc quỉ ma cho thái quá, gạt kẻ ngu phàm cho kẻ vọng tưởng mơ ước làm
Tiên Phật, chớ đâu có lý chắc làm
đặng, có thế nào làm Tiên Phật đâu.
Rồi chúng ta ngụ ý riêng nghĩ thầm rằng: chẳng phải Tam-giáo để kinh sách
bày mấy lời đó mà có lợi ích chi cho các Ngài đâu? Các Ngài cũng muốn cho có
công với đời, không lý các Ngài nỡ lòng nào mà chỉ khiến cho chúng sanh vào
đường nguy-hiểm sa chìm thiệt hại.
Nên chúng ta lập chí xung thiên đi tìm học đạo, cho thấu đạo tâm-pháp
bí-truyền, ngộ đặng phép diệu-lý, y theo trong kinh sách của Tam-Giáo, và tu có
ứng-nghiệm, rồi lại thí-nghiệm coi các điều cũng thật chắc quả nhiên, tu tới
bực nào thì phải cảnh nghiệm ấn-chứng bực nấy.
Mới biết Phật, Thánh, Tiên hết lòng cứu độ chúng sanh. Nên chúng ta hội các
lý của Tiền-Tổ mà luận tắt ra đấy cho người đồng-chí thân tín mà hội-ngộ khỏi
lầm Bàn-Môn ngoại đạo, dối giả đặng trở lại đường ngay nẻo thẳng.
Chú thích:
(1) Theo thiển ý TT/NSW chúng tôi thì hai câu trên
liên tục nhau mới trọn nghĩa.
THIÊN THỨ HAI MƯƠI BẢY
ÍCH
THỌ DIÊN NIÊN LUẬN
Con người có ba vật: Tinh, Khí, Thần là gốc thuốc
trường sanh, nên Tiên nói rằng: Thượng dược tam phẩm (Thần dữ Khí Tinh). Vì
người không học thấu lý mà tu bổ tiếp dưỡng Tinh-Khí-Thần lại, nên già thì tinh
khô, khí hao tán, thần hôn ám, nếu tiêu lần hết thì thân-thể người đâu còn sống
đặng. Nên phải tầm Chơn-Sư học phép dinh-hư tiêu-trưởng, máy động tịnh âm dương
thăng giáng mà lấy chơn nhứt khí hồn nhiên, dùng đoạt thâu chánh khí Trời Ðất,
đem tiếp bổ tinh thần, qui phục mới đặng trường sanh vô bịnh. Nếu như người
tinh khô, truyền phép luyện tinh, hoặc khí yếu phải truyền phép luyện khí, như
thần suy phải truyền phép luyện thần; hoặc có người huyết nhiệt hung, phải
luyện chơn thủy hàn lương tiếp bổ, hoặc người khí huyết hàn lương, phải luyện
chơn hỏa huân chưng ôn bổ. Luyện Tam-Bửu phản huờn đầy đủ, đặng lưu-thông khí
huyết vệ-sinh. Kẻ siêng năng thì vô bịnh trường sanh.
Ðạo kêu rằng: "Luyện kỷ trúc cơ".
Trong các việc tu chưng bá nhựt.
Tiên rằng: (1) "Dương-quan ký bế cá cá trường sanh". Nghĩa là: "Bế đặng dương-quan thì đặng trường sanh".
Còn người già rồi khí huyết suy nhược tiêu hao thì
phải tu luyện tiếp bổ lại.
Cách tiếp bổ luận như đây:
Thận ngôn-ngữ (ít nói) bổ
phế;
Tiết ẩm-thực (ăn có chừng)
bổ tì;
Tuyệt tư-lự (dứt lo tưởng)
bổ tâm;
Khử sân nộ (bỏ hờn giận)
bổ can;
Ðoạn dâm-dục (lìa sắc dục)
bổ thận.
Tìm Chơn-Sư chỉ truyền tâm-pháp phục khí luyện hình thì ngũ-tạng sung-túc, tinh-thần tráng kiện như loài cỏ cây xuân phát,
hè trưởng, thu thâu, đông tàn, thì
đáo xuân cũng sanh chi phát diệp lại nữa, muôn vật đều có chỗ phục mạng qui
căn, sanh hóa lâu dài đặng, huống người biết học đạo thì phải tìm phép qui-căn
tiếp mạng lại thì đặng diên niên ích thọ (trường sanh). Chỗ trường
sanh là tại chơn khí.
Nếu người biết tu luyện chẳng cho Thần-Khí-Tinh hao
tán thì qui căn phục mạng lại đặng; cũng như loài thảo-mộc tam đông đều tịnh
dưỡng toàn tụ nơi căn.
Còn người biết luyện tâm tức tương y mặc nhiên đốn
ngộ, thì huờn tinh bổ não, đắc lý trường sanh, diên niên ích thọ, rồi cầu Thầy
chỉ truyền tâm-pháp quá quan phục thực cùng là thập ngoạt xuất thần mới chứng
Phật, Thánh, Tiên.
Nên người thượng căn trí-thức muốn cho biết lý cao
xa phải tầm Thầy chỉ điểm nhiệm-mầu, vào Chơn-đạo rồi sau mới hiểu.
Ðạo Tam-Giáo giảng không hết lý, kẻ có căn nghe mới
hồi đầu, cuộc tử sanh dời đổi không chừng, để chầy trễ muôn đời khó gặp; phép
Ðại-Ðạo xưa nay bí-mật, người thế gian ít kẻ hiểu thông, xin hết lòng giảng
luận một thiên, luận nguyện trí-thức đồng về Tiên cảnh.
(1) Dương-quan là đường tinh ra.
CHUNG
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
Tái bản năm Canh Tuất 1970
HỘI LÝ XIỂN CHƠN LUẬN Tác
giả NGUYỄN VĂN KINH
Kiểm duyệt, ngày 27 tháng
5 năm Đinh Mùi (dl. 04-07-1967)
Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh
Sách Đạo
HIẾN PHÁP H.T.Đ.
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(ấn ký)
Tái bản năm Canh Tuất 1970 In tại nhà in LÊ THÀNH Long Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét