Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần
hồng.
Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu
Tiên.
05 . Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu
học,
Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
Tinh
thần cao thấp nhờ thi,
Dục
tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.
09 . Chinh
phụ trước treo nên giá quí,
Áng
văn làm nhuệ khí cầu vinh.
Thêm
duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.
13 . Nấu
kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.
17 . Cửa
Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
Chốn
quyền môn nữ lại vẫn không.
Vật
chơi ở chốn khuê phòng,
Đã
cam phận vợ để chồng cầm duyên.
Ngôi mộ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm
21 . Phần
nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo
phụ cơ đã nặng cho mình.
Duyên may chồng đã nghĩ tình,
Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?
25 . Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
Nỗi
nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi
trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.
29 . Trên
lo thảo, giữa hòa, dưới thuận,
Ngoài
nên danh, trong vững mối giềng.
Nỗi
trông hương hỏa giữ bền,
Giúp
nên chồng có phẩm quyền cao sang.
33 . Mảng
lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống
để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.
37 . Kỉnh
tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế
tông đường lo cúng lo đơm.
Kiến
thân viếng sớm thăm hôm,
Chua
cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.
41 . Lưỡi
lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,
Kiêng
vật ăn đặng để nuôi con.
Còn
con nòi giống chồng còn,
Mảnh
thân đành chịu hao mòn với ai?
45 . Còn
gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng
hình hoa treo mắt bướm ong.
Nào
là hương đượm lửa nồng,
Nết
khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.
49 . Muốn
trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ
cho hay mày liễu má đào.
Thương
gìn lúc ốm khi đau,
Sợ
chê xấu phận, cậy màu phấn son.
53 . Mình
mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.
57 . Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
Mảng
trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.
61 . Dầu
khôn mấy giả ngu cho thuận,
Phải
bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
Phòng
đào giữ rủi rơi trâm,
Sợ
lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.
65 . Thử từ nết
khi chung lúc chạ,
Gióng
từ hơi hòa nhã tơ loan.
Chiều
vui dưới trướng ngoài màn,
Nhẫng
lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.
69 . Nghe
từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
Nhọc
lòng chi nào dám dỉ hơi.
Sợ
cơn giông gió tơi bời,
Trà
mi sơ sẩy hoa rời rã bông.
73 . Che
đậy kín tường đông ong bướm,
Giấu
nhặt nghiêm nhụy tướng hương hình.
E khi vách có âm thinh,
Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.
77 . Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,
Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
Mặc
người cha mẹ dễ duôi,
Ngoại
tông nương phận nếm mùi trân cam.
81 . Hiểu
thương ghét giả cam phận dại,
Biết
nên hư chẳng cãi cho cùng.
Nên thì an phận kiếm cung,
Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.
85 . Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
Vinh thì chàng mão thiếp cân,
Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.
89 . Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,
Dụng đau thương rù quến thâm tình.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
93 . Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
Chàng vui thiếp cũng vui càn,
Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.
97 . Dòng Tương
chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng
ai thương chữa lỗi binh lời.
Chàng
thì biển cả vơi vơi,
Thiếp
như bóng bọt giữa vời linh đinh.
101 . Nếu
gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết
yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
Rủi
duyên gặp phải thường phu,
Nhành
xuân thì trọng, gương thu dở cầm.
105 . Khi
lịch sắc trao trâm đáng giá,
Cơn
tàn hoa, keo rã sơn rời.
Vẻ
hồng mắc mỏ bao mươi,
Đưa
cho quân tử trọn đời chủ trương.
109 . Nhụy
đương nở mùi thơm ngào ngạt,
Dâng
hình hoa lo lót con ong.
Trăm năm kim cải cũng chồng,
Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà
thôi.
113 .
Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
Đạo phu thê như đũa nên đôi.
Dầu
cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng
là chúa cả, thiếp thời gia nô.
117 . May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong
tộc gia cũng cứ phép nhà.
Hèn
người sang ấy của ta,
Chê
người ta lại cho là đáng khen.
121 . Chồng sang
đặng, ta hèn chẳng quản,
Chồng
đẹp hình, ta mảng lo âu.
E ra
nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi
tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.
125 . Hễ
xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
Còn
đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
Mình
thương người cũng thương cùng,
Còn
như chê bỏ, lại dùng vào đâu?
129 . Kiếm
xứng mặt mày râu dưới thế,
E
không mưu đủ kế gìn duyên.
Còn theo thăm ván bán thuyền,
Trông chi giữ mảnh hương nguyền
cùng nhau.
133 . Lỡ
lối cũ động đào lạc bước,
Khó
cầm duyên đợi ngọc cầu Lam,
Thân
Tiên dầu lỡ gót phàm,
Gương
xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?
137 . Nhẹ
là bức, nặng chì tình nghĩa,
Để
dùng riêng cho phía nữ lưu.
Thung
dung quân tử hảo cừu,
Năm
thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.
141 . Nào
có tưởng vợ nhà đau đớn,
Ôm
tình si muôn lượng sầu than.
Máu
ghen chăn gối dẫy tràn,
Hình
mai ủ dột sắc càng héo don.
145 . Hễ
càng ngắm hao mòn đóa ngọc,
Càng
riêng lo tơ tóc không bền.
Chàng
vui cung nguyệt trao duyên,
Thiếp
sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.
149 . Lo ngại
rồi ra cơn mất nết,
Vì
ghen tương hết biết thân mình.
Dám
toan tử tiết với tình,
Còn
chi kể đến gia đình hư nên.
153 . Nếu
ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh
tương tư khó gỡ cho kham.
Nên
toan đập nát cung cầm,
Vô
duyên đành phận, sống làm chi đây?
157 . Thương
ra giận khó khuây nỗi nhớ,
Mối
tơ duyên ai gỡ cho đang?
Hỡi
người cỡi phụng ngừa loan,
Phải
chi vợ dám phụ phàng mới sao?
161 . Tả
nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
Mượn
bút hoa đắp cạn thành sầu.
Tiếng
tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc
may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.
165 . Cầm
bút ngọc đề thi tự thuật,
Một
kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu
gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ
trong muôn một những bài sanh ly.
169 . Khi
đầu ấp cùng khi tay gối,
Thân
thiết nhau sớm tối quen hơi.
Chừ
sao chong ngọn đèn ngồi,
Cô
đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.
173 . Nào
là thuở âm thầm dan díu,
Vịn
bóng trăng đặng níu hoa đào.
Chừ
sao bỏ cảnh úa xào,
Nhụy
phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.
177 . Nào
khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua
tường đông lóng bậc tơ đồng.
Chừ
sao chăn chiếu lạnh lùng.
Phím
loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.
181 . Nào
khi lén vẽ mày thục nữ,
Nào
khi lo gìn giữ hương thề.
Chừ
sao bướm cũ lìa huê,
Vườn
thu vắng khách, ủ ê canh tàn.
185 . Nào
khi tựa bên màn canh lụn,
Nào
khi ngồi ngó bóng Hằng Nga.
Chừ
sao để lụn canh gà,
Vắng
hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.
189 . Nào
khi đổ mây mưa đảnh giáp,
Nào
khi lo ấm áp cung thiềm.
Chừ
sao vắng dạng tàn đêm,
Gia
cư rách cửa, ven thềm cỏ chen.
193 . Nào
khi ước giữ niềm son sắt,
Nào
thề non nắm chặt dải đồng.
Chừ
sao đổi dạ thay lòng,
Hẹn
xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.
197 . Nào
khi đứng giữa đàng trông ngọc,
Nào
khi ngồi dưới bộc trong dâu.
Chừ
sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng
toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.
201 . Nào
khi đến cầu Lam chưởng ngọc,
Nào
khi lo giã thuốc trường sanh.
Chừ
sao bỏ nghĩa én anh,
Tham
lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.
205 . Nào
khi cửa then gài mấy lớp,
Cấm
vườn xuân nườm nượp én anh.
Chừ
hoang cây cỏ xủ mành,
Gần
cây chim lánh, đến cành gió day.
209 . Nào
khi sắc so tài đẹp dạ,
Nào
khi nhen hương hỏa ba sinh.
Chừ
toan bứt mảnh tơ tình,
Trà
ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.
213 . Nào
khi hỏi thăm hang Từ Thức,
Nào
khi dò mấy bực cầu ô.
Chừ
sao kẻ Hớn người Hồ,
Để
cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.
217 . Nào
là lúc ngửa nghiêng đêm quạnh,
Nào
là khi thức tỉnh đêm khuya.
Chừ sao loan phụng chia lìa,
Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó
song.
221 .
Càng thấy con khờ không đủ trí,
Càng thêm lo huyết khí bên chồng.
Nâng niu lúc ẵm khi bồng,
Phụ thân thế phận cho chồng dạy
khuyên.
225 .
Càng sợ hở thung huyên phiền muộn,
Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.
Tảo
tần sớm dưỡng chiều nuôi,
Thế
chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.
229 . Thấy
em dại không ham đèn sách,
Càng
để lòng hỏi hạch kinh luân.
Thay chàng thiếp trả nghĩa thâm,
Dạy em văn hóa, thiếp làm trưởng huynh.
233 . Càng
nghĩ đến linh đinh phận thiếp,
Càng
ngại lo tội nghiệp thân con.
Những
ngờ nước thấm đầu non,
Nào
hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên.
237 . Càng
đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm,
Càng
thương thân chích bạn lìa đôi.
Phận
sao phận bạc như vôi,
Nước
lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.
241 . Càng
ngắm đến cỏ hoa vật loại,
Càng
thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
Chim
kết cánh, cây liền cành,
Còn
thân thiếp chịu một mình đơn cô.
245 . Kìa cá giỡn
vẩn vơ đáy nước,
Nọ
kết đôi cưu thước ven trời.
Còn
thân thiếp chịu cút côi,
Đèn
khuya nhắc thảm, gió mơi ghẹo sầu.
249 . Kìa
oan ương ấp nhau chẳng hở,
Nọ
én anh rỉ rả kêu thương.
Còn
ta luống những đoạn trường,
Gối
chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.
253 . Kìa
cầm điểu bẻ cành kết ổ,
Nọ
thú trùng moi lỗ làm hang.
Nầy thân thiếp chịu gian nan,
Linh đinh đất chiếu, trời màn
không nơi.
257 . Kìa ong
kiến tha mồi dành để,
Cơn
khốn cùng có thể nuôi thân.
Còn
thân thiếp chịu khốn nàn,
Tả
tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.
261 . Thôi
đành kiếp nớt non gượng sống,
Sống
vì con, chẳng sống vì thân.
Đòi
phen đổi thảm ra mầng,
Nâng
niu trẻ dại cho gần đặng cha.
265 . Đưa
giọt sữa ra hòa giọt lụy,
Trong tình chung huyết khí đúc
hình.
Còn con may đặng giữ tình,
Khối chung tình ở nơi mình ấu nhi.
269 .
Nghe trẻ khóc như chì dần
dạ,
Thấy con đau như đá đập đầu.
Còn con ô thước bắc cầu,
Mất
con là cửa vô lầu lãnh cung.
273 . Thấy
xuân đến vẻ hồng khắp chốn,
Nương
con thơ sống rốn cùng xuân.
Ru
con giọng hát ngập ngừng,
Xuân
ôi ! Xuân biết mấy lần đau thương?
277. Ve kêu hạ như dường trêu
thảm,
Mưa
sầu tuôn mấy dặm biệt ly.
Dỗ
con lệ ngọc li bì,
Hạ
ôi! Hạ có biết nghì phu thê?
281 . Chiều
thu nhắc ủ ê cảnh hạn,
Nhấp
nhô xem cánh nhạn về non.
Trông
thu rầu nhớ thân con,
Thu
ôi! Thu biết hao mòn tấm duyên?
285 . Đông
lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
Ngồi
đêm trường quạnh quẽ phòng không.
Nhớ
chồng thấy trẻ não nồng,
Đông
ôi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?
289 . Vắng
mặt chồng, cân hình của trẻ,
Ngó
thấy con đặng vẽ tượng chồng.
Cân
thương trẻ ấy mà đong,
Thì
trong thương ấy, của chồng tám phân.
293 . Kìa
máu huyết, cành xuân nhụy nở,
Khối
ái ân đành ở nơi con.
Dầu
cho biển cạn non mòn,
Tơ
duyên khắn khít chỉ còn bấy nhiêu.
297 . Trẻ
nhỏ dại lắm điều học hỏi,
Thường kiếm cha mong mỏi thấy
nhau.
Dỗ con chỉ bóng giải sầu,
Rằng khuya đèn thắp cha hầu về
thăm.
301 . Hơi
mảnh áo còn cầm đặng ngữi,
Gối loan gìn từ buổi kết duyên.
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Họa trong giấc mộng giải phiền
giao hoan.
305 . Càng bạc phước
càng than con dại,
Lo
tảo tần mảy mạy dưởng nuôi.
Còn cha
con tỷ như côi,
Chít
chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.
309 . Nhịn
ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn,
Làm
lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.
Nại
chi xác yếu thịt mòn,
Gia
tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.
313 . Lớn
một tuổi, mẹ thêm một khổ,
Hiểu
một điều, mẹ hổ cho thân.
Trí
con lần mở nẻo gần,
Hỏi
cha sao phụ, tố trần làm răng?
317 . Chẳng
lẽ nói cho chàng đen bạc,
Chẳng
lẽ cho cỡi hạc quên nhà.
Không
đành nói thác ra ma.
Không
đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.
321 . Không
lẽ nói mến anh quên én,
Không
lẽ rằng trộm nén hương thừa.
Nói
chi tìm vợ dâng dưa,
Lẽ
nào nói rượt theo vừa Hằng Nga.
325 . Không
lẽ nói đi qua Đông Độ,
Không
lẽ rằng vô số chinh phu.
Lẽ
nào nói bị tội tù,
Lẽ
nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.
329 . Còn
nói thiệt rằng chàng phụ thiếp,
Cũng
vì mê theo kiếp làng chơi.
E
con đến lớn nên người,
Gương
cha để thẹn những lời bợm hoang.
333 . Riêng chịu thảm không than với trẻ,
Đổ
lụy rơi theo khóe miệng cười.
Vui
là gắng gượng làm vui,
Cái
vui cùng trẻ là hồi ai bi.
337 . Ngàn
dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,
Bận
lòng con lại vấn nô y.
Xem
chừng coi mảnh anh nhi,
Co tay đếm tuổi bấy chầy không
cha.
341 . Hột
cơm tẻ nhai ra như cát,
Gan còn nguyên như nát bao chừ.
Nuôi
con từ lúc đào thư,
Bao
nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu.
345 . Chàng
đâu rõ khúc khiu cực nhọc,
Lớn
khôn ngoan biết học biết hành.
Biết
ơn nuôi dưỡng sanh thành,
Tìm
cha lại bỏ một mình thiếp côi.
349 . Càng
thấy lớn, mầng rồi lại sợ,
Mầng
nên hình, còn sợ theo cha.
Dường
như con vịt mẹ gà,
Trẻ
thơ vội phản, mụ già kinh tâm.
353 . Làm
lụng té bao lăm của cải,
Để
cho con làm ngãi cùng con.
Nỗi lo đôi lứa vuông tròn,
Còn lo gia thất vĩnh tồn hậu lai.
357 .
Định hương hỏa, hằng bày quí tế,
Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
Con chàng thiếp trả khi thơ,
Dòng
chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.
361 . Lựa
cho học các công các nghệ,
Tính
cho hay mọi vẻ văn tài.
Sĩ,
Nông, Công, Cổ sanh nhai,
Ngư,
Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.
365 . Hễ phải mặt
văn nhân tài tử,
Dạy
con nên vẹn giữ nhơn luân.
Văn
là thượng sĩ danh thần,
Võ
thì bạt tụy siêu quần quân trung.
369 . Quan
thì phải tận trung vì chúa,
Dân
thì hay tập búa Lỗ Ban.
Sang
thì giữ vững ngai vàng,
Hèn
thì trừ đảng bạo tàn hại dân.
373 . Trọng
thì lấy đai cân làm lịnh,
Khinh
thì lo trừ nghịch làm duyên.
Nước
non để tuổi cùng tên,
Quốc
gia khinh trọng bở bền nơi dân.
377 . Con
thương mẹ dầu vâng lịnh dạy,
Thương
quê hương trọng ngãi quân thần.
Ngọn rau tấc đất là ân,
Một dòng một giống lo cần ích
chung.
381 . Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết thử để dành.
Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,
Tấm
gan liệt sĩ cũng đành độ dân.
385 . Dầu
rủi phận nợ thân chẳng vẹn,
Đạo
Cần Vương nêu tiếng thanh cao.
Trung
thành giữ cõi Nam trào,
Hùng anh trước đặng Ngụy Tào khiếp oai.
389. Trước quốc chánh chia hai
tộc chủng,
Núi
Hoành sơn định phỏng biên cương.
Bắc
Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm
nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
393 . Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn
hóa so cũng kịp tha bang.
Xa
thơ nay gãy giữa đàng,
Con
tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.
397 . Nào
quốc thể, người khi kẻ thị,
Nào
dân đen, phép quỉ hớp hồn.
Nấu
sôi cái máu anh phong,
An
bang tế thế một lòng lo âu.
401 .
Đấng nam tử đâu đâu cũng nợ,
Khắp năm châu khai mở qui mô.
Châu lưu tứ hải ngũ hồ,
Thơ hương đắc vận cậy nhờ dân
sanh.
405 . Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc,
Cỏ rẽ hai chia đất rấp ranh.
Trời còn roi nước hùng anh,
Giang
sơn là đấy, còn mình ở đâu?
409 . Con
cũng đứng mày râu dưới thế,
Nếu
kém phương thiếu thế vận trù.
Dầu
khôn, mẹ cũng cho ngu,
Tài
chi trong kiếp tội tù dã man.
413 . Con
phải nhớ da vàng máu đỏ,
Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều.
Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu,
Thiếu tài khiếm đức, định triều
an bang.
417 . Mẹ
dầu phải suối vàng nhắm mắt,
Vui thấy con đáng mặt làm trai.
Nhục con, con chịu chớ nài,
Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.
421 .
Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng,
Quen nghề tham, lại nhũng quan
gian.
Sâu dân mọt nước bạo tàn,
Mua
quan bán chức nhộn nhàng cân đai.
425 . Đem
chơn chánh phô bày trừ mị,
Nâng
niu cho dân khí lẫy lừng.
Dân
thì biết phận làm dân,
Chúa
cho đáng chúa, đình thần đáng quan.
429 . Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược,
Diệt những phường mưu chước cầu
vinh.
Xem dường cuồng khấu biên đình,
Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.
433 . Xem lịch sử vĩ
nhân mấy mặt,
Đại
trượng phu trước giặc vong thân.
Nên
danh khai quốc công thần,
Nêu
tên hậu thế xa gần tặng phong.
437 . Muốn
hiển tổ vinh tông báo hiếu,
Học
cho hay trọng yếu miếu đường.
Tầng
quen cỡi ngựa cầm cương,
Trận
trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.
441 . Lựa
những mặt tài tình thọ giáo,
Học
cho thông mối đạo quân thần.
Trương
Lương dâng dép ba lần,
Chút
công ấy định Hớn Tần nên hư.
445. Trọng Ni nhận vi sư Hạng
Thác,
Học
tinh thần khai phát Nho tông.
Gẫm
coi tổn bấy nhiêu công,
Làm
cho thiên hạ đại đồng trí tri.
449 . Tôn
kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
Mới
đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
Học
hay kế nhiệm mưu mầu,
Học
nên tài đặng giải sầu quốc gia.
453 . Học
đặng định chánh tà giả thiệt,
Học
cho thông đặc biệt hư nên.
Học
gan sắt đá cứng bền,
Học
cho đủ chước xây nền Nam phong.
457 . Học
cho rộng giao thông tứ xứ,
Học
cho cùng xử sự ngoại lân.
Học
cho đúng bậc tài thần,
Ưu
quân ái quốc vua cần dân nghinh.
461 . Học
cho thấu máy linh cơ tạo,
Học
cho toàn trí xảo văn minh.
Thâu
tài hay nhập nước mình,
Làm
cho dân hưởng thái bình giàu sang.
465 . Công
dạy dỗ muôn ngàn khó nhọc,
Ơn
của thầy con học nên người.
Tài
hay tom góp một đời,
Cho
con chẳng kể vốn lời hơn thua.
469 . Thầy
lao lực tùy vừa trí trẻ,
Dạy
cho thông mọi lẽ gần xa.
Tuổi
xanh con đặng trí già,
Còn
thơ con học hóa ra lão thành.
473 . Con
nhờ thầy công danh mới toại,
Như
nhờ cha mới giỏi hình dung.
Hai ơn ấy gẫm so đồng,
Nghĩa
kia như hiếu, mặn nồng cả hai.
477 . Xưa ruộng Thuấn
voi cày chim cấy,
Vì
hiếu thân nổi dậy tuổi tên.
Đế
Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,
Nương
nơi gương ấy vẫn bền đạo con.
481 . Mẫn
Tử Khiên tích còn roi dấu,
Dẩy
xe cha áo xấu mặt dơ.
Sợ
đàn em dại u ơ,
Khổ
thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.
485 . Con
ví biết trọng nghì phụ tử,
Hiển
tông môn khá giữ nơi lòng.
Đừng
làm nhục tổ hổ tông,
Lập Nhìn
thung đường đền ơn cúc dục,
Nhớ
công sanh giữ chút hình hài.
Dưỡng
nuôi lao khổ đắng cay,
Lửa
hương chỉn ước có ngày nối xa.
493 . Còn em út
trong nhà thơ bé,
Trai
dạy khuyên, gái để khép khuôn.
Con
đừng quen tánh luông tuồng,
Các
em hư nết, gieo buồn song thân.
497 . Một cục máu chia
phân mấy mảnh,
Hình
hài em tượng ảnh thân con.
Chữ
rằng huyết mạch đồng môn,
Riêng
chưng thân thể, tâm hồn cũng con.
501 . Ngoài
gia tộc, nước non vầy bạn,
Lựa
tài danh giao cạn tâm tình.
Đời
như trận giặc đua tranh,
Dầu
tài một ngựa một mình khó nên.
505 . Coi
gương trước Thánh Hiền ghi lại,
Kết
bạn nhau đạo ngãi làm sao.
Tuy
là khác thửa đồng bào,
Mà
trong sanh tử một màu sắt son.
509 . Lưu
Quan Trương giữ còn nghiệp Hớn,
Gìn
trọn thề chết sống có nhau.
Dầu
cơn độc mã đơn đao,
Tâm
trung nghĩa khí, Ngô, Tào cũng kiêng.
513 . Sài
Triệu Trịnh cũng nguyền như thế,
Mà
nên mưu đủ kế đồ vương.
Tống
thâu thiên hạ Đại Đường,
Cũng
do bởi học nơi trường hữu giao.
517 . Trong
vũ trụ hiệp hào là mạnh,
Phận
đồ thơ phải gánh non sông.
Anh
em bạn tác vầy đông,
Xô
thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.
521 .
Trai nam tử gió trăng là phận,
Đạp nước non đặng tấn khí hùng.
Đi con đường thế gai chông,
Lớn gan hiu quạnh thì lòng cũng
nao.
525 .
Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
Dầu cho non nước đổi dời,
Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.
529 . Bạn
trăm tuổi thân hòa làm một,
Dầu sanh hèn xấu tốt cũng duyên.
Cùng nhau giữ vẹn hương nguyền,
Cái
duyên kinh bố là duyên Châu Trần.
533 . Con
đừng thấy phụ nhân nan hóa,
Cầm
hồn hoa vầy vã thân hoa.
Vợ con thay phận mẹ già,
Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.
537 . Khi tối sớm lạnh nồng có kẻ,
Thân mật con đặng dễ giữ con.
Mẹ lo trong lúc còn non,
Vợ con lo lúc thân mòn gối run.
541 . Nếu khổ cực chung cùng chia sớt,
Dầu sang vinh đừng bớt tình nồng.
Hễ là vào đạo vợ chồng,
Hư nên đều có của ông công bà.
545 . Con
chớ ỷ mình là nam tử,
Chiếm chủ gia hẹp xử thê nhi.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng
nhau.
549 . Ai
nâng đỡ khi đau lúc ốm,
Ai dù tròn nắng sớm mưa mơi.
Tình
chung bền giữ một đời,
Chia
cơm cắn muối không dời lòng thương.
553 . Áo
trâu đắp đông sương lạnh lẽo,
Cửa
hấp gà mở nẻo tiễn phu.
Lập
thân đừng để danh lưu,
Cũng
như Bá Lý Hề âu bạc tình.
557 . Chém
vợ để cầu vinh thuở trước,
Ngô
Khởi còn gian ngược chi danh.
Con
đừng mượn nét khuynh thành,
Lợi
thân mà hại đến mình hồng nhan.
561 . Đừng
sang trọng phụ phàng nghèo khó,
Gặp
hầu xinh vội bỏ thê hèn.
Cá kia chung chậu hơi quen,
Ái
ân đầm thấm bởi bền nghĩa nhân.
565 . Gương
đẹp đẽ Mãi Thần thuở trước,
Trọng
nhơn luân sau phước nên quan.
Hiền
danh ghi tạc giang san,
Nghĩa
trung đi cặp con đàng trượng phu.
569 . Tống
Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ
nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.
Từ
duyên công chúa giao thân,
Đút
cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.
573 . Biết
tình nghĩa biết mùi ân ái,
Chia
đau thương cột dải đồng tâm.
Kìa
ai đã gọi ân thâm,
Hơn
niềm chồng vợ âm thầm giúp nhau.
577 . Đừng
đến lúc ốm đau chẳng ngó,
Hương
sắc xinh lại bỏ hoa tàn.
Những
là anh én nhộn nhàng,
Buôn
duyên bán nợ như hàng chợ đông.
581 . Có
chi trọng đàn ong xóm bướm,
Nơi phồn
ba đậm nhuộm màu gian.
Đừng
quen kết lũ vầy đoàn,
Cửa
thanh lâu những rộn ràng gió trăng.
585 . Giấc
phong nguyệt xem bằng túy mộng,
Vợ
cùng hầu so sóng đồng thương.
Nhỏ
thì trọng, lớn thì nhường,
Nơi
cân quân tử ra trường đánh ghen.
589 . Coi
thân vợ như em nhỏ dại,
Đem
lòng yêu phận gái đơn cô.
Đặng
chồng dường thể đặng mồ,
Chôn
thây cửa lạ, cậy nhờ ở ai?
593 . Phải
tôn kính cành mai đương nở,
Đừng
xa hoa làm mớ hàng chơi.
Sánh
mình mỏng mảnh thương người,
Rủi
sanh phận gái khó cười với thân.
597 . Gái
mẹ dạy ân cần cho lắm,
Đừng
để mình lụy đến sông Tương.
Bông
dầu đẹp, khá gìn hương,
Quí
chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.
601 . Đóng
chặt cửa giữ nguyên trinh tiết,
Trọng
thân danh bền nét đào yêu.
Phụng
lầu gác quyển chờ tiêu,
Gieo
cầu cho đáng, nhiễu điều gói gương.
605 . Đừng
đứng dựa sông Tương nhắn khách,
Đừng
trông trăng hỏi ngạch Cung Thiềm.
Đừng
đề thi lá thơ chim,
Cầu
hôn để phụng đến tìm cung loan.
609 . Con
khá nhớ hồng nhan phận mỏng,
Đừng
làm cho thẹn bóng trăng xuân.
Hồng
quần tài sắc đa truân,
Vào
vòng bạc phận, chi mong trọn nguyền.
613 . Hoa phong nhụy cung Tiên cũng mến,
Gấm lót đường trọng tiếng cũng
nhơ.
Nhà vàng phận quí khi thơ,
Gót
sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.
617 . Đừng
cho nhiễm lấm thân thục nữ,
Chốn
phòng the cứ xủ rèm là.
Vườn
thu giấu dạng Hằng Nga,
Hải
đường nở muộn mặn mà ái phong.
621 . Phàm
phận gái đứng hàng khuê các,
Phải
trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày
đoan trang.
625 . Đối
với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.
629 . Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công
chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm
nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt
văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
633 . Sửa
từ nết ngày thâu tập tánh,
Trăm
hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu
xa rách rưới lõa lồ,
Đoan
nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.
637 . Còn
đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán
theo cha học lễ học văn.
Phép
xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa
thân cội tử đợi hàng trượng phu.
641 . Thánh xưa dạy từ câu nói
hiếu,
Đạo
thờ thân chầm khíu nên kinh.
Tích
xưa nhắc đến Đề Oanh,
Thương
cha nên phải bán mình kêu oan.
645 . Bến
nước gái mơ màng trong đục,
Đếm
mười hai họa phúc khó lừa.
Xem
cha cư xử mà ngừa,
Phòng
sau cho khỏi đổ thừa lỡ duyên.
649 . Cao
niên biết tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi
lầm mưu kẻ giặc phong tình.
Sự
đời thấu rõ dạng hình,
Trá
ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.
653 . Đợi
nơi cửa khách tìm thức ngọc,
Đừng
đỗ đường rời bốc đóa hoa.
Trông
người so sánh với ta,
Lường
tài cân sắc hiệp hòa mới nên.
657 . Ai
nam tử giữ bền tơ tóc,
Nhiều
người hay lừa lọc câu thề.
Trước
khen sau ắt có chê,
Ghi
tâm tánh đức, kiếm bề phụ nhau.
661 . Rủi
để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh
không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
So mình
nắm dễ tóc tơ,
Ngoài
ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.
665 . Nét
xuân sắc mấy hồi là trọng,
Xuân
lỡ rồi khó mộng xuân nguyên.
Thà
cho đáng mặt thuyền quyên,
Đừng
làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.
669 . Khi
gặp đặng phải trang tài mạo,
Hoặc
trao trâm đắp áo làm tin.
Thì toan giữ vẹn chung tình,
Đưa thoi đừng để lỗi mình nữ
trung.
673 . Đến
lúc đã chung phòng hòa hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
Mạnh
Quang tích trước ghi tài,
Tề
mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân.
677 . Vợ
Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở
thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng
thì triều nội cao sang,
Vợ
lo canh cửi cơ hàn tấm thân.
681 . Giúp
chồng trọn ân cần nhiếp chánh,
Mới
nên trang chúa thánh tôi hiền.
Vợ
không tham nhũng kim tiền,
Chồng
lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.
685 . Phạm
trọng Yêm mấy lần xa vợ,
Nợ
quân vương nhiều thuở truân chuyên.
May
duyên gặp đặng vợ hiền,
Thanh
liêm chánh trực giữ bền lòng son.
689 . Phải
căn nợ cách non cũng gặp,
Lỡ
trái duyên vội gấp ra hư.
Con
xem từ trước đến chừ,
Đấng
anh hùng gặp anh thư mấy người?
693 . Dầu
đẹp xấu để đời luận biện,
Vui
duyên con, thân miễn an vui.
Đừng
chê chồng phận thiệt thòi,
Đáng
danh quân tử phải người lang quân.
697. Chữ hằng dạy thanh xuân
bất tái,
Vợ
người rồi danh gái hết kêu.
Noi
gương đức tánh Nhị Kiều,
Dở
dang Du Sách, giữ điều tiết trinh.
701 . Hễ
thất nghĩa rẻ khinh kim cải,
Khó
tưới hoa trở lại thanh tươi.
Hư
nên cũng có một đời,
Hay
chi thay đổi nhành mai sái mùa.
705 . Tri âm ví đáng dây cầm
nguyệt,
Đừng
đem tình chí thiết giao hoan.
Căn
duyên dầu có phụ phàng,
Cũng do tiết giá mở đàng ngại lo.
709 . Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,
Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.
Con coi phận mẹ mỏng mành,
Chánh thê nay lại sánh mình thứ
thê.
713 . Muốn
còn phước dựa kề quân tử,
Phải
hạ mình đặng xử vuông tròn.
Chia
chồng vì dạ sắt son,
Nhịn
chồng bởi chút sắp con cái nhà.
717 . May tiểu thiếp biết hòa biết thuận,
An thân chồng đẹp xứng nợ duyên.
Rủi ro gặp gái bán thuyền,
Loạn gia phải chịu thảm phiền lắm
cơn.
721 . Thà
thấy dạng còn hơn hiu quạnh,
Nên
cắn răng nhịn nhín tình thương.
Ai
đời thắt dạ mà lường,
Bưởi
bòng bụng gái vẫn thường giống nhau.
725 . Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,
Nhớ
liễu mai chếch mác mà đau.
Trường
đình giục thảm canh thâu,
Gối
còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.
729 . Con
quốc quốc chưa âu đổi bạn,
Máu
đổ quyên đợi mãn kiếp sanh.
Trượng
phu hà hải đã đành,
Nỡ
nào đày thiếp một mình tương tư.
733 . Chiêu
Quân chịu giã từ đất Hớn,
Thân
cống Hồ ngất ngưởng tha bang.
Thiếp
nay cũng giống như nàng,
Thân
Hồ tâm Hớn đôi đàng khó nguyên.
737 . Còn
Tinh Vệ lấp phiền biển ái,
Đòi
trả chồng hà hải sóng chôn.
Thiếp
thân như ốc mượn hồn,
Sống
không biết sống, chết còn ngậm đau.
741 . Nơi
Phiên quốc xôn xao lượng thảm,
Hạnh
Nguơn xưa đã dám hy sinh.
Cũng
như thiếp nặng khối tình,
Gãy
trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.
745 . Dầu
chàng có vui riêng quên thiếp,
Thiếp
cũng lo tội nghiệp thân chàng.
Đậm hương cho toại hồng nhan,
Gẫm thân có lúc khốn nàn ốm o.
749 . Thương chi thật con đò đưa khách,
Nghĩa chi nồng những cách bán
duyên.
Còn thân còn mến còn quyền,
Hết ưa hết chuộng thì duyên hết nồng.
753 . Đây
còn nỗi bế bồng thêm trẻ,
Hễ giao tình chẳng lẽ không con.
Hai vai gánh nặng thân mòn,
Cơn
đau thất nghĩa, hầu hờn giảm thương.
757 . Chẳng như
thiếp nhớ ơn giải cấu,
Mến
từ khi mở nụ đào yêu,
Trăm
cay ngàn đắng cũng chiều,
Quí
thân quân tử, dám liều với thân.
761 . Rẻ
rúng bấy, hễ cân cũng trọng,
Quí
bao nhiêu, hờ hững cũng khinh.
Chàng
thì nhẹ thể vì tình,
Thiếp
thì lo sợ lụy mình trượng phu.
765 . Niềm
âu yếm ai đâu rõ giá,
Vui
trăng hoa dối trá là thường.
ˆn
nhờ, ở tạm, mua thương,
Tiếc
chi những thói hoa tường buôn ong.
769 . Trông
tin nhạn về đông mòn mỏi,
Thả
lá hồng biết hỏi nơi ai?
Khối
sầu càng chất càng dày,
Chờ
năm, năm lụn, đợi ngày, ngày qua.
773 . Soi
kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc
hoa râm mày liễu ướm sương.
Mùi
chê dưới mắt chán chường,
Còn
duyên chi mộng đến đường tái hôn.
777 . Thôi
đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết tam tùng.
Hoặc
là tròn nghĩa thủy chung,
Hoặc
là chia dạ não nùng với con.
781 . Ngắm
đường thế đã mòn vinh nhục,
Đổi
thay duyên đặng phúc hạnh gì.
Lánh
buồn lại lạc lối bi,
Rẻ
duyên kim cải, đem bì phấn hương.
785 . Liếc
mắt ngó vào trường phong nguyệt,
Mua
trận cười nào tiếc ngàn vàng.
Chừng
cơn phấn lạt hương tàn,
Núm
mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.
789 . Nào
những khách đoạn trường kim cổ,
Bởi
trái duyên nên lỡ gót trần.
Bán
xuân khi đắt giá xuân,
Thu
qua để thẹn hồng quần biết bao.
793 . Hỏi
đến khách sớm đào tối mận,
Đon
những trang ngọc cận hương thân.
Tầng
nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ
sao bị nhiễm phong trần bởi đâu?
797 . Bởi
thuyền bá sóng xao biển ái,
Bởi
non thề sương trải lạnh lùng.
Bởi
chàng phụ tấm tình chung,
Bởi
tơ duyên cũ, tơ hồng hết xe.
801 . Bởi
nhan sắc không khoe không mặn,
Bởi
hơi đồng không thẳng không kêu.
Bởi
quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm
ong kiếm dựa vườn điều đổi hương.
805 . Bởi
hoa chạ bên đường dễ hái,
Bởi
buôn hương nặng ngãi nhiều nhơn.
Đờn
hay vặn lắm trục lờn,
Đổi
hơi cầm sắt ra trường ca xang.
809 . Bởi
vào trướng ra màn hết vị,
Bởi
ngồi lơn lên kỷ hết nồng.
Nên
ưa mèo mả gà đồng,
Bỏ hình
loan phụng dựa lồng chim xanh.
813 . Bởi
mến cảnh đôi cành đài liễu,
Bởi ưa hoa bận bịu đài hoa.
Bởi
ham nguyệt rạng lánh nhà,
Đèn
chong buồn bực lập lòa rèm thu.
817 . Bởi
quen mặt đào châu bớt đẹp,
Bởi
nhìn thường hoa ép liễu nài.
Chê
vành xuân hết bịu mai.
Kiếm
đường hỏi liễu Chương đài bao mươi.
821 . Bởi cửa tía
bóng trời nồng nực,
Bởi
hiên thu gió chật đường ong.
Cánh
hồng quen với cuồng phong,
Nước
non thế giới vẫy vùng tinh trăng.
825 . Bởi
cung Quảng bóng Hằng nhấp nhóa,
Bởi đền
Ngô nghe gã Tây Thi.
Bởi
ham bóng sắc hơn chì,
Mỹ
nhân thấy dạng kể gì đến duyên.
829 . Quen
xa mã chê thuyền là chậm,
Đã mùi chàm gọi thắm là hơn.
Ca
hay quên hẳn giọng đờn,
Một
đêm túy mộng sánh hơn gặp vàng.
833 . Nơi
tửu điếm nhà lang khác hẳn,
Vợ
chồng thường ít sẵn chiều thương.
Trà
mi kém sắc hơn hường,
Tiếng
cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.
837 . Thiếp
biết phận cánh buồm dưới gió,
Đã
khổ đời chịu khổ cùng đời.
Thuyền
nan sợ sóng dòng khơi,
Khúc
quanh eo hẹp, chiều thời khúc quanh.
841 . Soi bóng
nước đặng nhìn thấy dạng,
Thấy
nghi dung hết mặn nét ngài.
Chẳng
còn yểu điệu hình mai,
Da
mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.
845 . Mảng
gượng vui cùng đàn cháu dại,
Chỉ
lời hay sự phải khuyên răn.
Tóc
xanh là bạn mày nhăn,
Nên
ba dạy cháu biết bằng năm mươi.
849 . Khóc
của mụ pha cười của trẻ,
Chậm
của già đổi lẹ của tơ.
Ngắm
coi cái nhỏ bây giờ,
Nhớ
trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.
853 . Nương
con gậy ra vào lụm cụm,
Lưng
gối dùn lửng thửng bước đi.
Thôi
gần hết kiếp còn gì,
Co tay đếm tuổi quá kỳ tri Thiên.
857 . Bỗng
tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
Ôi thôi trời động đất nghiêng!
Chết chàng hồn thiếp chơi miền Âm cung.
861 . Khi
tỉnh giấc còn trong vòng tục,
Mới
biết thân ít phúc hơn chàng.
Giá
chi một mảnh xương tàn,
Đày
cho thiếp nỗi đoạn tràng tử ly.
865 . Một
thân góa tang y lại mặc,
Chống
gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
Đầu
sương chất trắng khối tình,
Bao
nhiêu ân ái trong mình tử thi.
869 . Ngó
vạn vật cũng kỳ lẽ chết,
Nghe
non sông như hết khí sinh.
Hỏi
ta có sống thật tình,
Hay
là giấc mộng Diêm đình đưa nhau.
873 . Xem
cây cỏ như màu thảm đạm,
Ngó
thú cầm dường cảm đau thương.
Đất
nhà cảnh vật ruộng vườn,
Hình
chàng như gắn nẻo đường vô ra.
877 . Kìa
đào lý tàn già đã cỗi,
Nhắc
tượng chàng dựa cội trông hoa.
Nào
là trời lặn bóng tà,
Đêm
khuya chờ lụng canh gà thăm em.
881 . Kìa
cụm liễu gió đêm xao xác,
Đám
chim chiều tìm mát nghĩ ngơi.
Ấy
là nơi thiếp trao lời,
Trăm
năm khi hứa nửa đời buổi nay.
885 . Kìa đầu
rừng chòm mai đua nở,
Trước
xem màu hớn hở như nay,
Cớ
sao như ủ như vày,
Hay
là nhắc thiếp những ngày trao tơ.
889 . Kìa
lũ én dật dờ cánh liệng,
Dựa
chơn mây kêu tiếng nỉ non.
Cớ
sao ngươi cũng vẫn còn,
Chồng
ta thân mất hình chôn cớ nào?
893 . Bầy
hồng nhạn lao xao vịnh liễu,
Đám
cò ngà bận bịu gành khơi.
Là nơi
lúc đứng khi ngồi,
Trông
trăng hẹn biển, ngó trời thề non.
897 . Kìa
đường cũ bước mòn lãng tử,
Đám
thú nhà dụ dự bước chiều.
Ấy
là nẻo thiếp đến kêu,
Chàng
vào kẻo trễ quá chiều bữa cơm.
901 . Kìa
bến nước dập dồn sóng dợn,
Chỗ
đôi ta vui giỡn khi thơ.
Cũng
cây, cũng bãi, cũng bờ,
Mà
sao buổi ấy bây giờ khác nhau?
905 . Kìa
nhịp cầu bên đầu khe nhỏ,
Đông
chòm cây, Tây có triền bưng.
Ấy
nơi đôi lứa gặp mừng,
Mà
nay như nhắc mấy từng tương tư.
909 . Kìa
chùa cũ nóc hư muốn sập,
Nơi
đôi ta lén gặp gỡ nhau.
Cớ
sao cảnh tịnh úa xào,
Hay
là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.
913 . Bóng
hải đường ta ngồi buổi nọ,
Bồng
con thơ tìm ngõ nhà thầy.
Còn am tự, còn chùa mây,
Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng
trang.
917 . Kìa
cuối xóm mấy hàng trước tử,
Nọ
đầu làng chày lữ phơi sương.
Ấy
là nơi thiếp đến thường,
Thăm
chàng đang học nơi trường sân ngô.
921 . Kìa
xóm rẫy nấm mồ lố xố,
Nơi
đôi ta tảo mộ đạp thanh.
Gò
đâu phút nổi thình lình,
Nào
dè chàng cũng đến giành một nơi.
925 . Để
thân thiếp mình ngồi hiu quạnh,
Còn
thây chàng tuyết lạnh nắng nồng.
Đã
đành bẻ gãy chữ đồng,
Chia
đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.
929 . Tiếng
oan ương bên tai dan díu,
Gió
đẩy đưa bờ liễu lao xao.
Lạ
nghe lời vật thế nào,
Mà
ra như tiếng chàng chào buổi xưa.
933 . Nhành
dâu khuất, bóng đưa mờ mệch,
Cội
tà dương như hết reo chiều.
Hương
tàn gió tối hiu hiu,
Dở
chơn hỏi nợ buổi chiều nghỉ đâu?
937 . Ai
sau gót giây lâu như nói,
Xin
người thương tha lỗi khi xưa.
Giận
đem đổi nhớ cũng vừa,
Trách
mình nào có đổ thừa phụ duyên.
941 . Phải
buổi trước đừng phiền đừng oán,
Để
nguyên tình uống cạn chén tình.
Làm
chi rẽ nợ ba sinh,
Mà
nay phải chịu một mình riêng thương.
945 . Tội
chàng trước tiêu dường tuyết giá,
Còn
thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
Lời phiền đổi lại tiếng than,
Thương kia bao nả lại càng thêm
thương.
949 . Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,
Kiếp
phù sinh đặng thất nơi thân.
Còn
thân sống chịu phong trần,
Dứt hơi dầu muốn trọn gần cũng xa.
953 . Nếu
thiếp trước biết hòa biết thuận,
Nhẫn
ghen tương nhịn lẫn ân tình.
Chia thương ơn ấy đã đành,
Thứ thê chánh thiếp giựt giành
chi duyên.
957 . Giọt
lệ thiếp vì phiền mà chảy,
Gẫm thương người chia dải đồng tâm.
Ta
than lỗi bậc cung cầm,
Nàng
sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.
961 . Vắng
mặt chàng thiếp về kiếm kẻ,
Chia
tương tư đặng để nên tình.
Vì
chàng thiếp kết bố kinh,
Giữ
câu hải thệ sơn minh với nàng.
965 . Mảng sầu
muộn ngổn ngang trăm mối,
Chùa
thu không bóng tối mịt mờ.
Oanh
về tổ, dế reo tơ,
Đường
về vắng bước như tờ canh khuya.
969 . Tiếng
U Minh tía lia gợi thảm,
Giọng
kình khua cửa Phạm dập dồn.
Câu
kinh tiếng kệ gọi hồn,
Kêu
thương khách tục, giải lòng người nhân.
973 . Rốn
để bước đến gần điện Thánh,
Nhìn
tượng thờ lại ngảnh thân mình.
Sao
đó hiển, sao đó linh,
Phải
chăng trước cũng lụy tình như ta?
977 . Đau
đớn thế nắn ra tượng Phật,
Lánh
khổ nên vụ tất cửa không.
Biết
chăng cái thảm mất chồng,
Xin
cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.
981 . Hay
sợ khổ sanh ly tử biệt,
Nên
tìm phương dứt tuyệt nợ đời.
Biết
chăng tình ái của người,
Xin
cho thiếp hiểu ít lời chơn ngôn.
985 . Hay đã
sợ thân mòn gối mỏi,
Mến
ngày xuân mà tuổi không chờ.
Linh
đinh bể khổ dật dờ,
Xin
cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.
989 . Hay
đã sợ nắng nồng tuyết lạnh,
Cảnh
đau thương khó lánh thân phàm.
Thuyền
tình chịu sóng không kham,
Xin
cho phận thiếp biến làm ni cô.
993 . Buồn
tình lóng nam-mô câu tụng,
Nhìn
tượng cây rồi khủng cho thân.
Thân
còn nương giữa phong trần,
Khổ
kia còn đếm mấy lần mới thôi.
997 . Rón
rén trước Phật ngồi cúi gật,
Mấy
lạy trình mấy nấc tương tư.
Mảnh
thân xin gởi bấy chừ,
Nương
theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.
1001 . Lui
chân kiếm con đường nhà nội,
Lửa
đốm nhen dẫn lối thảm trang.
Mắt
xem cái cảnh điêu tàn,
Lòng
thương dường đổ dẫy tràn khắp nơi.
1005 . Tiếng
dế giống như lời chia thảm,
Ngọn
đèn khuya nhấp nhoáng mùi thương.
Thương
vì trong kiếp đoạn trường,
Cùng
căn là chết ấy đường xưa nay.
1009 . Một
ngày sống là bày bước chết,
Sợ
chết nên không tiếc sống thừa.
Đời
không mến, thế không ưa,
Lòng
thương nẩy nở cho vừa tốt tươi.
1013 . Vì
sợ chết mà người kiếm sống,
Trong
căn oan lại mộng tầm duyên.
Già
hay sợ, thế nên hiền,
Khuyên
đau giải thảm cổi phiền của ai?
1017 . Một
vật nhỏ cũng mài cũng gọt,
Của
dầu hèn cũng mót cũng cằn.
Giá
kia nào kể nên chăng,
Tay
chân chàng để cũng bằng báu châu.
1021 . Thấy
ai thảm lòng đau ái ngại,
Nghe
kẻ sầu như cháy lòng thương.
Lau
giọt lệ, giải tai ương,
Chia
cơm nhịn muối đỡ đường khó khăn.
1025 . Thấy
ai thảm lòng vàng xót xáy,
Nghe
kẻ sầu như cháy tâm can.
Lau
giọt thảm, giúp tai nàn,
Nâng
hình quân tử với hàng lụy chung.
1029 . Khi ghen
ghét không cùng hiệp mặt,
Nay
thấy nhau mà bắt động tình.
Hơn
chi giành én giựt anh,
Thước
cưu khuất bóng dựa cành chung nhau.
1033 . Xem
nét thảm, nàng đau như thiếp,
Trông
tình chung mòn kiếp hồng nhan.
Phăng
tâm dòm mảnh đoạn tràng,
Thì trong mấy khúc của nàng như ta.
1037 . Sầu
đã cháy mặt hoa ủ dột,
Thảm
đã tràn hình cốt héo don.
Xuân mai ba bảy đã mòn,
Cội thu thêm nảy mấy hoàn anh
nhi.
1041 . Tay bồng con, tay thì dìu trẻ,
Cảnh gia đình quạnh quẽ không ai.
Hương thề để trước vị bài,
Châm
đề thấy rõ những ngày biệt phu.
1045 . Cặp
liễn tang còn câu long ám,
Hạc
qui hồi lãnh đạm trần ai.
Quả
như chàng có chốn nầy,
Tưởng
khi đổ lụy châu mày với duyên.
1049 . Hỏi
đon thử lời nguyền buổi trước,
Gẫm
thân nàng bạc phước như ta.
Oán
hình liễu, ghét mày hoa,
Kiếp
tu mỏng mảnh mới là nữ nhi.
1053 . Giọt
lụy đổ không chi ngăn nổi,
Thương
thân nàng chung với thân mình.
Thương
chàng đầy dẫy mông mênh,
Khối
thương khó lấy gáo tình đem đong.
1057 . Đôi
mặt cách mà lòng vẫn một,
Khác
tông môn hài cốt hòa chung.
Thề
nhau trọn kết dải đồng,
Cám
ơn chàng giúp mặn nồng nghĩa nhân.
1061 . Chia gia nghiệp trong cơn khốn khó,
Hiệp
đôi nhà con nhỏ làm chung.
Nầy
là vẹn giống trọn dòng,
Nàng
sanh thiếp dưỡng cũng đồng như nhau.
1065 . Lập
gia thất làm giàu con trẻ,
Định
lứa đôi đủ thế cùng đời.
Nàng
thì an phận an nơi,
Con
thì đáng mặt đáng người với ai.
1069 . Khi
thong thả đặt bài trẻ học,
Lấy
gương già gợi chọc sắp con.
Nhìn non
chỉ nước làm hơn,
Mượn
bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.
1073 . Cỏ
huyên cắm kềnh kềnh đầu tuyết,
Con
gậy lê mòn khuyết nửa cây.
Mắt
mờ thêm nỗi lảng tai,
Thất
tuần đã quá từ ngày ấu xuân.
1077 . Dò
đon hỏi bước rừng thiền cũ,
Rằng
Phật còn ngụ ở Lôi Âm.
Tính
niên rồi lại tủi thầm,
Con
đường Cực Lạc biết tầm sao ra.
1081 . Nhẫng
vơ vẩn vào ra bến khổ,
Trước
mặt xem những chỗ sầu than.
Nầy
là hình ảnh của chàng,
Nầy
là tiếng khóc của đàn trẻ con.
1085 . Nầy
là chỗ thiếp còn niên thiếu,
Nầy
là nơi chàng níu thiếp trì.
Nầy
là buổi hiệp hồi ly,
Nầy
là khi khóc khi thì cười mơn.
1089 . Nầy
là chỗ lời hơn tiếng thiệt,
Nầy
là nơi cách biệt sanh ly.
Nầy
là chỗ thiếp chẳng vì,
Nầy
nơi chàng giận ra đi bỏ nhà.
1093 . Nầy
là chỗ đôi ta tái hiệp,
Nầy
là nơi vừa kịp hòa vui.
Nầy
là chỗ thiếp đương ngồi,
Tin
nghe chàng đã qui hồi Tiên bang.
1097 . Các
chỗ ấy dẫy tràn thảm tín,
Càng
ở gần khó nhín sầu than.
Cam
tâm nín nẩm gia đàng,
Vì
con chưa giữ vững vàng qui mô.
1101 . Nay
tuyết đóng song hồ động lãnh,
Đành
cửa không gởi mảnh tâm hồn.
Tiếng
chuông thức giấc huỳnh lương,
Toan
nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.
1105 . Bước
cảnh tịnh đã đành để cẳng,
Tóc
qui y nửa trắng nửa vàng.
Phồn
hoa xa mã rộn ràng,
Vinh
vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.
1109 . Ngắm
thế cuộc chẳng bằng một giấc,
Kiếp
phù sinh đặng thất là bao.
Nhẫng
là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.
1113 . Nào là phép giựt giành quyền lợi,
Nào là phương chuộng quới cầu vinh.
Thử
đem sánh khổ kiếp sanh,
Chưa
ai thấy đặng phước giành nhiều hơn.
1117 . Nào vui gượng do cơn khóc lỡ,
Nào
là khi chịu tớ làm thầy.
Quyền
là chi? Lợi là chi?
Dứt
hơi ba tấc có gì gọi hay.
1121 . Nào
là lúc ăn cay uống đắng,
Nào là khen rồi mắng bao phen.
Tuồng đời trọng trọng hèn hèn,
Chẳng qua bướm tối mến đèn xôn xao.
1125 . Nào
chửa đẻ biết bao khổ nhọc,
Nào
hơn thua theo học sách đời.
Tang
thương lúc biến khi dời,
Trăm
năm e cũng một đời thế thôi.
1129 . Nào
tranh đấu thắng rồi lại thất,
Của
phù du chứa chất gọi giàu.
Thân
còn đã quí là bao,
Dứt
hơi của cải thế nào không hay.
1133 . Thiệt
thì bỏ, giả vay nên nợ,
Mãn
căn sanh chưa mở dây oan.
Kìa là vua, nọ là quan,
Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.
1137 . Sống
thấy chết, miệng cười mắt khóc,
Nịnh
lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.
Cũng
như ác thú nhốt hầm,
Ăn
nhau cho đã nào cần mệnh nhau.
1141 . Muốn
lấy đạo làm đao hại thế,
Toan
dùng văn gọi kế sanh nhai.
Đường
hung ác, nẻo chông gai,
Lấn
chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.
1145 . Mạnh hiếp yếu lấy gan hung bạo,
Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn.
Nhẫng
lo chác oán mua hờn,
Hại
nhau chẳng biết nghĩa nhơn thế nào.
1149 . Thấy cảnh
thế mà đau với thế,
Biết
thương đời mấy kẻ vì đời.
Ngán
thay cái kiếp con người,
Thôi
đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.
1153 . Thay
đạo phục bước xăng lánh thế,
Mơi
thì kinh, tối kệ giải lòng.
Từ
bi hứng giọt nhành dương,
Lau
thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.
1157 . Đoạn
tình ái đem quăng bể khổ,
Bứt
hồng duyên tính bỏ non thề.
Nầy
bờ tục, nọ bến mê,
Từ
đây không trở lộn về thấy ngươi.
1161 . Vì
thấy đó phải cười lộn khóc,
Sách
của ngươi chẳng học mà say.
Cửa
ngươi cửa đọa cửa đày,
Ghét
ngươi ta dứt từ ngày buổi ni.
1165 . Lần
chuỗi hột từ bi cứu khổ,
Nương
gió thanh trăng tỏ là nhà.
Nước
non để bước ta-bà,
Sô
xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.
1169 . Trương
thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,
Cổi
đau thương giải quả trừ khiên.
Lấy
thân rửa thảm lau phiền,
Đem
công chuộc khách thuyền quyên lụy tình.
1173 . Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,
Vui hạc cầm hay dở thú riêng.
Khi động Thánh, lúc non Tiên,
Sớm thì Hải đảo, tối miền Thiên Thai.
1177 . Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,
Mặc
áo tơi nón lá che thân.
Trừ
trần cấu, xủ phất trần,
Quen
bờ biển trí, dựa gần non nhân.
1181 . Đến
phồn hoa thân gần tục lự,
Chơi
lầu hồng hỏi thử trái căn.
Chuỗi
bồ trừ nghiệt gió trăng,
Linh
đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.
1185 . Gót
nhân ái đến nhà kẻ bịnh,
Giọng
từ bi thức tỉnh hung tâm.
Giữa
cơn náo loạn trổi cầm,
Lấy
hơi hòa nhã dẹp lần bỉ thô.
1189 . Giúp những
kẻ ôm mồ thủ hiếu,
Dỗ
những trang bận bịu khối tình.
Dọn
đường phước giúp mày xanh,
Đưa
con thuyền hạc đến gành thiên lương.
1193 . Tưới
hoa chạ bên đường vô chủ,
Đậy
giậu thưa cúc xủ mai xào.
Bó
lòng thảm, dệt tâm đau,
Nâu
sồng cậy phép đổi màu anh hoa.
1197 . Câu
tư dục biến ra bác ái,
Nghiệp
oan khiên đổi lại hồng ân.
Khi
kinh Thánh, lúc kệ Thần,
Đoạn
trường diệt dứt nợ nần nữ lưu.
1201 . Lầu
xanh giặm màu tu trở vẻ,
Cửa
không môn mở hé chơn hồng.
Thu
phòng học chước thu không,
Đốt
hương cho ấm cho nồng phòng tiêu.
1205 . Đưa
tuổi hạc quen chiều non nước,
Mượn bút nghiên làm chước chê đời.
Nâng
bầu nhựt nguyệt lưng vơi,
Dành
gương liệt nữ để lời trinh phu.
1209 . Nắm
huệ kiếm định thâu trái chủ,
Mặc
đạo y sạch giũ phồn hoa.
Nơi
bến khổ để bước già,
Xuân
xanh noi dấu xây tòa anh phong.
1213 . Cột
thân ái cậy lòng đạo đức,
Gầy
từ tâm gắng sức ôn nhu.
Nung trang trí thức nữ lưu,
Biết thân giữ mặt hảo cừu giai nhân.
1217 . Giồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,
Trau tài ba vẹn vẻ anh thư.
Vinh
thì chuộng, nhục thì từ,
Cân
cao tính thấp đặng trừ thiệt hơn.
1221 . Nước
Ma-Ha rửa hờn nhi nữ,
Chuỗi bồ đề gìn giữ hồng nhan.
Cây trăm thước đổi hương tàn,
Treo y bá nạp làm màn phòng the.
1225 . Để chuông mõ dựa kề son phấn,
Chất nhơn tình chồng cận kệ kinh.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.
1229 . Lấy tâm chánh làm cân đong thế,
Cậy lòng lành làm kế dìu đời.
Chông gai vạch bước thảnh thơi,
Cầm phương cứu khổ độ người trầm luân.
1233 . Vẹn nhơn đạo, đi lần nẻo chánh,
Đến vô ưu đặng lánh nhơn luân.
Thuyền con mệch mệch như rừng,
Đon đường Thánh đức, hỏi chừng Như Lai.
1237 . Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước
Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
Oan
trái dứt, nghiệp chướng tiêu,
Cảnh
vui Cực Lạc mỹ miều vẻ tâm.
1241 . Lánh
bợn tục tình thâm cũng tránh,
Trốn
đau thương xa cảnh trần gian.
Biến
thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn, mở đàng Lôi
Âm.
1245 . Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,
Đem
tấm tình để ngụ đài sen.
Thong
dong quạt gió trăng đèn,
Nhành
dương làm bạn, sách hiền gọi quen.
1249 . Bế
ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt
lục trần, xa lánh phàm tâm.
Mệnh
Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt
phương tự diệt giải phần hữu sanh.
1253 . Linh
linh, hiển hiển, khinh khinh khứ,
Sắc
sắc, không không, sự sự tiêu.
Chơn
linh đẹp đẽ mỹ miều,
Xuất
dương sớm đã đến triều Ngọc Hư.
1257 . Ngũ
khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh
quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác
tại thế, đã nên Thần,
Ba
mươi sáu cõi đặng gần Linh Thiên.
1261 . Hiệp
Tạo hóa cầm quyền chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
Sanh ấy ký, tử là qui.
Diệu huyền cơ tạo chẳng gì gọi hơn.
1265 . Chừ mới rõ
nguồn cơn kiếp sống,
Tấc
thây phàm rất mỏng số căn.
Ham
phương cứu thế độ nhân,
Giải
mê khách tục, cõi trần lánh xa.
1269 . Lấy
bác ái làm hòa vạn vật,
Đem
thiện duyên xây nấc thang hồng.
Đoạn
căn đóng chặt Âm cung,
Tòa
sen chín phẩm để cùng Phật tâm.
1273 . Trăm
tuổi sống chẳng lầm tuổi sống,
Một
kiếp sanh chưa trọng kiếp sanh.
Thay
thân Tạo hóa là mình,
Nâng
niu sanh chúng mới đành chữ nhơn.
1277 . Ngồi
mà lóng tiếng đờn vô cực,
Phước
siêu thăng đặng thất nơi ta.
Biết
coi thế giới như nhà,
Sống
nên Chí Thánh, thác là Thần Tiên.
1281 . Thiếp
nhờ Đạo giải phiền diệt khổ,
Biết
may duyên lựa chỗ gởi tâm.
Tìm
đâu đặng kẻ tri âm,
Ôm
thương đem gởi cảnh Thần cửa Không.
1285 . Càng
ngó trái lại miền thế tục.
Lụy
nhỏ dầm đòi khúc lòng đau.
Ái ân, ân ái là sao?
Đày thân lắm khách má đào gian
truân.
1289 . Chịu
mòn mỏi mảnh thân nhi nữ,
Cũng toan lo gìn giữ khối tình.
Trăm năm dầu sống mảnh hình,
Thì trong tâm lý đã đành tiêu
tan.
1293 . Nào
những mộng nợ chàng duyên thiếp,
Nào những mơ ý hiệp tâm đầu.
Duyên là đâu, nợ là đâu?
Chẳng qua biển khổ bắc cầu sông
mê.
1297 . Khối
thảm chất tràn trề bể hẹn,
Giọt đau thương quá chén hiệp phu.
Hễ là trí, ấy là ngu,
Càng say âu yếm càng sầu nhớ thương.
1301 . Khách
má phấn môi son đậm sắc,
Đặng
đem mồi trêu mặt ác phong.
Đâu
chữ tiết gọi là đồng,
Lời
than tiếng thiết để lòng trăm
năm.
1305 . Chẳng qua khách ăn nằm quán tục,
Vắn một ngày, lâu chút trọn đời.
Hỏi ai thỏa chí ai ơi?
Tra phòng hiệp cẩn, bao hồi khóc riêng.
1309 . Một câu mến gieo phiền muôn tiếng,
Đôi lời phân ngàn miệng xa xôi.
Hỏi ai trộm đứng lén ngồi,
Những cay những đắng cái mùi ra sao?
1313 . Tính để viết khuyên rào tiết ngọc,
Thì sợ e ghẹo chọc si tình.
Còn không để trọn lời lành,
Lại e cho gái nhẹ mình nữ trung.
1317 . Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,
Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.
Còn không lưu lại lời hiền,
Mưu
chi gỡ nổi thảm phiền đạo thê.
1321 . Thấy trẻ
gái dầm dề lụy đổ,
E
cho sau chịu số như già.
Muốn
khuyên đầu Phật xuất gia,
Lại
e để hại nước nhà khuyết dân.
1325 . Thấy
nhi nữ kiếp căn mỏng mảnh,
Muốn
binh lời làm mạnh đỡ nâng.
Lại
e lỗi đạo nhơn luân,
Dở
dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.
1329 . Gẫm
thân gái trọn đời cực nhọc,
Tính
buông câu gọi chút nghỉ ngơi.
Lại
e sái thế lỡ thời,
Giúp
nam nhân chẳng có người trọn tâm.
1333 . Nghĩ
phận vợ ngàn trăm đau đớn,
Sanh
đẻ còn nuôi dưỡng nhọc nhằn.
Muốn
khuyên giảm bớt ái ân,
Lại
e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.
1337 . Nên
ngậm thảm đặng ngồi nuốt thảm,
Toan
buông lời, chẳng dám hở môi.
Lén
xem sự thế ngậm ngùi,
Nguyền
trông chỉ đợi phép Trời dạy khuyên.
1341 . Tay
lịch sự tự nhiên chê sự,
Lòng
đa tình vẫn cứ vị tình.
Biết
tùng quyền hiểu chấp kinh,
Tìm
phương hay gởi lấy mình cửa tu.
1345 . Những thảng
mảng tháng thâu năm lụn,
Sớm
công phu, tối tụng vãng sanh.
Đã
quen cảnh Phạm lánh mình,
Nên
phương nhờ bởi đoạn tình ái yêu.
1349 . Nghe
một sự, hiểu điều khác nghĩ,
Trong
thất tình tiêu hủy không không.
Hết ham danh, chẳng mến công,
Xem hình lẩn lộ, bùi nồng thế gian.
1353 . Cây trăm thước bắc thang bến khổ,
Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.
Vui
đọc truyện, buồn ngâm thơ,
Non
Vu lấp nẻo, đàn tơ dở mùi.
1357 . Đếm thử
tuổi tám mươi đã quá,
Giấc
Nam Kha giục giã tỉnh mê.
Tâm
thần mỏi mệt ủ ê,
Khối
sanh khi đã gần kề dứt hơi.
1361 . Khổ
bịnh thấy trêu người đã quá,
Buổi
vãng sanh giục giã kêu hồn.
Tỉnh say trong kiếp dương môn,
Nửa
thì thấy cảnh hoàng hôn mộng hình.
1365 . Muốn
gặp mặt thâm tình gởi trối,
Nhưng
lỡ bề vì buổi đoạn từ.
Khôn
nhạn tín, khó hồng thư,
Viết
quơ chẳng nổi, giấy như tránh đề.
1369 . Muốn nhắm
mắt một bề cho khỏe,
Những
tình hình mọi vẻ trêu ngươi.
Khi
thì khóc, lúc thì cười,
Bao
nhiêu tình nghĩa một đời thoáng qua.
1373 . Tám
chục năm lâu xa cách mấy,
Trong giấc mê xem thấy ngắn thay!
Ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi dương gian với tuyền đài
gần nhau.
1377 . Nhớ
con cháu còn lâu kiếp sống,
Dầu
gặp hình như bóng sá chi.
Dở
hồn phách, yếu thây thi,
Dậy
ngồi chẳng nổi, bước đi không rồi.
1381 . Gắng cầm
viết nín hơi sống rốt,
Đề
năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt
tình ái, giải sầu ưu,
Hễ
thương thì cũng lo mưu giữ mình.
Thi:
1385 . Giữ
mình dầu vẹn tấm tình chung,
Danh
tiết nữ lưu ở phụ tùng.
Mặt
biển khổ dồi dào ái thủy,
Đầu
non thề hủy hoại hương hồng.
1389 . Mày
xanh khá nhớ cơn đầu bạc,
Ngọc
trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
Khí
tượng anh thư gìn lẫn giá,
Giúp
đoàn nhi nữ mở non sông.
1393 . Rán
quá sức cẩn phong thí nhạn,
Dường say mê lơ lảng tinh
thần.
Sấn
tay thêm một chữ: Thân,
Để
dành gỡ khổ đoạn tràng hồng nhan.
1397 . Buông
ngọn viết vào làn mây trắng,
Hễ
có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh
Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề
câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.
1401 . Đời đời danh chói Cao Đài./.
CHUNG
Bính-Ngọ - 1966
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét