Thuở
Hỗn Độn sơ khai, nhứt Khí Hư Vô sanh duy có một Đấng Tạo Hóa, người phương Đông
gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người Âu Tây gọi là DIEU, Đức Chúa Trời,
người An Nam gọi là Ông Trời, là Đấng dựng nên Trời Đất và muôn vật.
Có Thánh Ngôn, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ
ngày 13 tháng 6 năm Bính Dần, rằng:
"
. . . Bậc chơn tu, tỷ như hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì
trổ bông,
trổ bông rồi sanh trái, mà biến biến sanh sanh càng thêm tăng số, vì
vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa
Chơn thần, Chơn thần lại biến hóa hằng muôn, thêm tăng lên hoài. Ấy là Đạo.
"
Bởi vậy, một Chơn thần mà sanh hóa chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và
toàn cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới, nên chi, các con là Thầy, Thầy là
các con.
"
Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Đăng
là
Chưởng giáo, Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Đế.
Người
gọi Quan Âm là Nữ Phật tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân, Từ Hàng
lại sanh ra lúc Phong Thần, đời nhà Thương.
Người
gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
Người
gọi Lão Tử là Tiên Tổ giáo thì Lão Tử cũng sanh đời nhà Châu.
Người
gọi Jésus là Thánh đạo Chưởng giáo, thì Jésus cũng sanh nhằm đời nhà Châu.
Thầy
hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy ? Ấy là Đạo, các con nên biết.
Nếu
không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không có Hư
Vô chi Khí thì không có Thầy."
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mỗi khi giáng cơ đều xưng
là Đạo hữu với các chư môn đệ Nam phái Nữ phái của Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn
chính mình Ngài lại xưng là Thầy của chúng sanh và hằng dạy rằng : Sự khiêm từ
nhịn nhục hạ mình là hạnh yêu dấu của Ngài.
Khi chư Thiện nam Tín nữ vừa nghe trong môn đệ gọi Ngọc
Hoàng Thượng Đế là Thầy thì ái ngại điều phạm thượng, song đã có Thánh Ngôn
chính mình Ngài dạy vậy, xin hãy an lòng.
Có hai Đạo hữu : Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập
môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị Lão thành pháp danh là Đạo Quang nơi chùa
Minh Đường (Hạnh Thông Tây).
Nhằm ngày 21 tháng 8 năm Bính Dần, Ngọc Hoàng
Thượng Đế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn dịp Ngài có để lời rằng :
"
Tương, Kinh, hai con phải lạy Đạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi là Anh
mà thôi, còn Thầy duy có một Thầy."
Thánh Ngôn ngày mồng 5 tháng 9 năm Bính Dần có dạy
rằng :
"
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông
Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo Nam phương.
Các
con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải
xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên và Phật. Đáng lẽ thế
thường phải để mình vào phẩm vị tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là
thể nào. Vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ.
Hạnh
khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa con phải noi gương Thầy mới độ rỗi thiện hạ
đặng . . . "
Thánh Ngôn dạy tại Vĩnh Nguyên Tự, chùa Minh Đường,
Cần Giuộc :
"
Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích
Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái
Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Gia
Tô Giáo Chủ thị Ngã,
Kim
viết Cao Đài Bồ Tát Ma Ha Tát."
Thánh Ngôn ngày 25 tháng 2 lang sa năm 1926:
"
Trọng Ni (Khổng Phu Tử) là Văn Xương Tiên hạ trần đặng thừa mạng Thầy làm
Chưởng giáo Nhơn Đạo, lo xong phận sự thì Thầy đến độ hồi cựu vị."
Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc
Hoàng Thượng Đế đều có để lời tiên tri rằng :
"Ngày
kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong vạn quốc mà đặng làm chủ nền Chơn đạo
Ta."
Trong Sám truyền và Phật Tông Nguyên Lý đều có ghi
lời tiên tri ấy.
Chúng ta nên nghĩ, tiếc cho Phật đạo và Tiên đạo đã
khai từ thuở mới tạo Thiên lập Địa, nay càng ngày càng xem tựa hồ như nền Chơn
đạo đã biến dời, lần lần xa nguồn Chánh giáo. Ngoái lại coi Thánh Đạo gọi Gia
Tô mới lập trong hai ngàn năm nay mà Thánh quyền cao thượng là dường nào.
Song, mọi việc chi cũng hữu chung hữu thỉ, có tạo
Thế tức là có Tận Thế. Cái tận tức là cuối cùng, mà hễ cuối cùng chẳng dứt thí
phải qui nguyên lại trước nên gọi là Tuần huờn.
Ngày nay là buổi tuần huờn Đại Đạo, Thiên Địa hoằng
khai, Ngọc Hoàng Thượng Đế tuy chẳng giáng sanh như mấy kỳ trước, song giáng
thế bằng huyền diệu Tiên bút, khai Đạo tại Nam phương, hầu chuyển Phật giáo lại
cho hoàn toàn.
Có Thánh Ngôn ngày 13 tháng 3 Bính Dần rằng:
"Vốn
từ trước, Thầy lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là:
Nhơn
đạo,
Thần
đạo,
Thánh
đạo,
Tiên
đạo,
Phật
đạo,
Tùy
theo phong hóa của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, vì khi trước Càn vô đắc khán,
Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn
nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Đạo
ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt.
Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa
Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười
ngàn năm, nhơn loại phải bị sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Thầy
nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh giáo cho
tay phàm nữa."
"
. . . Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà
trị phần hồn của nhơn loại. . . . "
Tuy vân, mỗi lần giáng thế truyền Đạo thì đổi Thánh
danh khác nhau, chớ kỳ trung cũng một Chơn linh Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Còn nay giáng thế bằng huyền diệu đặng chuyển Phật
giáo, chuyển Phật pháp, chuyển Phật tăng, lại lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Troisième Amnistie générale) (Đại Ân Xá lần thứ ba) thì Ngọc Hoàng Thượng Đế
tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo Nam phương.
Thánh Ngôn ngày 7 tháng 7 năm Bính Dần :
"
Vốn từ ngày Đại Đạo bế lại, chánh quyền đều vào một tay Chúa Quỉ. Khi Ngọc Hư
Cung và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, Chúa Quỉ biết cơ mầu nhiệm ấy và hiểu
rõ rằng Tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến thì nó đã hiểu rõ rằng :
Bề nào Thầy cũng phải chiếu y Thánh ý Tam giáo qui nhứt mà dùng danh Cao Đài
Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, nên đã dùng danh Cao Đài trước Thầy mà lập Tả
đạo Bàng môn.
Thầy
hỏi các con : Vậy chớ Tà quái nhận tên ấy là chủ ý gì ?
. .
. Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy để cho các con nghi ngờ mà lánh xa Chánh giáo,
như đàn Cái Khế vậy, nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy, tiện
dùng làm một vị Tiên Ông mà thôi.
Vậy
các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia, đừng vội tin mà lầm mưu
Tà mị."
Nội trong Thánh danh : Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát, chúng ta đủ hiểu rõ Thánh ý gồm Tam giáo (Nho Thích Đạo) và Ngũ Chi
Đại Đạo cũng qui nguyên phục nhứt.
Cao Đài : Nho gọi là Đấng
Chí Tôn.
Tiên Ông : là về Tiên đạo.
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát : là
về Thích giáo.
Có bài thơ giáng cơ tại Biên Hòa rằng :
Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền
đạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp
một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh,
Tiên, Phật đạo vốn như nhà.
Ngài đã dạy rõ rằng : Tam Kỳ Phổ Độ tuy khai năm
Dần (Nhơn sanh ư Dần) chớ kỳ trung Thiên cơ tiền định đã lâu rồi :
Thánh Ngôn rằng :
"
Vốn từ trước, trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có :
Nhứt
Phật,
Tam
Tiên,
Tam
thập lục Thánh,
Thất
thập nhị Hiền,
Tam
thiên đồ đệ.
Chưởng
quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.
Nơi
Bạch Ngọc Kinh, hơn sáu chục năm trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ
của Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời, Thầy coi lại bọn ấy lại làm tội
lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi, các con biết chăng ?
Bị
hàng phẩm Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước. Đáng lẽ Thầy cũng
nên cho các con phải chịu số phận bần hàn, mà bởi không nỡ, nên ngày nay mới có
kẻ như vậy. Thầy nói thiệt cho các con biết : "Dầu một vị Đại La Thiên Đế xuống phàm nầy mà không tu cũng khó
trở lại địa vị đặng."
Ngài hằng dạy rằng : Đạo phổ thông trễ một ngày là
một ngày hại nhơn sanh. Vậy thì trong kỳ Phổ độ nầy là lần thứ ba, lại là lần
chót, xin chư Hòa Thượng, chư Lão thành. Chư sơn cùng chư Chức sắc cả Tam giáo,
và chư Thiện nam Tín nữ ráng hiệp sức, cộng trí vùa giúp chung lo chấn hưng
Chơn Đạo cho hoàn toàn, hầu cứu vớt chúng sanh thoát khỏi trầm luân khổ hải.
Có Thánh Ngôn giáng cơ ngày 27 tháng 6 năm Bính Dần
rằng :
"
Thầy hằng nói cùng các con rằng : Thầy đến độ rỗi các con là đến lập tại thế
nầy một Trường thi Công quả. Các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi
trường nầy mà đoạt thủ địa vị mình, chớ chẳng đi nơi nào khác mà đặng đắc đạo
bao giờ. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng : Thầy đã đến chung cùng với các con,
các con duy có tu mà đắc đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải
bị trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.
Nay
tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm mà chính mình Thầy đã đến nói,
các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời dạy của Thầy là chơn thật. Nếu
các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác, mới thấy cơ mầu nhiệm đặng,
thì chừng ấy đã muộn rồi. "
Chúng ta lưu ý rằng : Ngũ Chi: Minh Đường, Minh Sư,
Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân cũng đều do nơi Phật pháp mà ra, chớ nên lầm
tưởng vì chia phái mà riêng Đạo. Hễ cùng nhau một Đạo tức là con một CHA, phải
thương yêu nhau, vùa giúp nhau, tình đồng cốt nhục vậy.
Từ buổi bế Đạo, tu nhiều thành ít, gẫm lại coi, từ
trước nơi cõi Á Đông nầy đã đặng bao nhiêu Tiên, Phật. Chúng ta duy biết có một
mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi.
Thánh Ngôn của Ngọc Đế giáng cơ tại chùa Minh Đường
Vĩnh Nguyên Tự ngày 14 tháng 7 năm Bính Dần rằng :
"Đời
Mạt kiếp nầy dữ nhiều lành ít, nếu Thầy không chuyển pháp lại thì chưa một ai
tu đặng trọn Đạo."
Ngài có giáng cơ tại Chùa Minh Đường ở Hạnh Tông
Tây ngày mồng 2 tháng 9 năm Bính Dần, cho bài Tứ Tuyệt nầy :
"Huợt
địa bất tri Thánh chí tân,
Minh
Thiên nhựt khí tản phong trần.
Huyền
vi thế sự vô nhơn thức,
Hiệp
khí bất năng hiệp diệu thần."
Theo tứ bài thi trên đây thì xét đương kim ít ai
quen thuộc đường đi nước bước mà gấm ghé chơn vào nguồn Tiên ngọn Phật. Duy
thành đạo cùng chẳng thành đều do nơi Thiên ý, công bình chánh trực, đại từ đại
bi của Ngọc Đế ban ơn cho chúng ta, tùy theo công quả âm chất và công phu của
chúng ta khổ hạnh hành đạo.
Thánh Ngôn hằng dạy rằng : Người đời muốn đặng giàu
có thì phải làm ra của, ấy là về phần phàm, xác thịt; còn Thần, Thánh, Tiên,
Phật muốn đắc đạo phải có công quả.
Nếu lầm tưởng rằng bấy nhiêu Đạo lý trong Cổ pháp
Cựu luật thế tình mà đủ chiếm máy Thiên cơ huyền vi mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa
và đặng phản nguyên ư nhứt Khí Hư Vô, hay là tưởng rằng người thông thuộc kinh
sám, hằng bữa tụng cầu, lâu ngày chầy tháng mà thành Tiên hóa Phật, thì từ cổ
cập kim, quê hương chúng ta, Tiên, Phật An Nam biết kể sao cho xiết.
Vậy thì đâu đến đỗi Thượng Đế phải giáng trần mà
chuyển Pháp, và e khi cũng khỏi lập Tam Kỳ Phổ Độ mà cứu vớt nhơn sanh.
Có Thánh Ngôn Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài
giáng cơ tại Hội Trường Sanh Tự (Cần Giuộc) ngày 19 tháng 4 năm Bính Dần, dạy
chư chúng sanh rằng:
"
Từ trước, Ta giáng sanh lập Phật giáo gần sáu ngàn năm thì Phật đạo Chánh
truyền gần thay đổi. Ta hằng nghe chúng sanh nói : Phật giả vô ngôn. Nay nhứt
định lấy huyền diệu mà giáo đạo chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo
lại cho hoàn toàn. Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu, bị đọa A Tỳ thì
hết lời nói rằng : Phật tông vô giáo, mà chối tội nữa.
Ta
nói thiệt cho chúng sanh biết rằng : Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì
không còn trông mong siêu rỗi."
Thánh Ngôn của Thích Ca Như Lai kim viết Cao Đài
Tiên Ông Đại Bồ Tát, giáng tại Hội Phước Tự ngày 26 thánh 4 năm Bính Dần, rằng:
"
Chư sơn nghe dạy:
Vốn
từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất
thành. Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp
luật, buộc mối Đạo Thiền.
Ta
vì luật lịnh Thiên mạng đã ra, cho nên cam để vậy, làm cho Phật tông thất chánh
có trên 3 ngàn năm nay.
Vì
Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật
chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh.
Trong
Phật Tông Nguyên Lý đã có cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ
không kiếm chơn lý mà hiểu. Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo.
Ôi !
Thương thay, công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau
lòng.
Ta
đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi, vì trong thế, hiếm bậc Thần,
Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt.
Chư
tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ độ nầy là lần chót, phải
ráng sức tu hành, đừng mơ tưởng hoài trông giả luật. . . .
Ta
đến với huyền diệu nầy thì từ nay Ta cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học
hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền.
Chư
tăng từ đây chẳng đặng còn nói : Phật giả vô ngôn, nữa."
Trần thế bị những sự vinh hoa phú quí hằng làm chìm
đắm biết bao nhiêu người có tiền căn cựu phẩm, vì ham luyến hồng trần mà lạc
bước vào đường tội lỗi. Vậy thì, nay trống Lôi Âm đã giục, chung Bạch Ngọc đã
rung, xin chư Thiện Nam Tín Nữ hồi tâm tỉnh ngộ, lo tu tâm dưỡng tánh mà chen
bước vào đường đạo đức cho kịp thời Tam Kỳ Phổ Độ nầy. Gẫm xét cho cùng tột
rồi, chẳng vinh diệu nào cho bằng chịu khổ hạnh nâu sồng, lập âm chất công quả
hầu siêu rỗi cho tiền bối nơi Chín Suối, chưởng đức lưu truyền lại cháu con,
ráng công phổ độ, cứu vớt nhơn sanh khỏi nơi trầm luân khổ hải, và chính mình
đặng cải tà qui chánh, thoát kiếp luân hồi, ấy là sở hành cao thượng vô cùng.
Có bài thi giáng cơ rằng :
"Tu
như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo
vốn cây che mát mẻ đường.
Một
kiếp muối dưa muôn kiếp hiển,
Đôi
năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có
Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện
Khí thông thương Khí mới tường.
Nhập
thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn
Tiên ngọn Phật mới nhằm phương."
Trong nước có nhiều Đạo mà chẳng một Đạo chi đáng
chơn chánh đặng làm gương soi cho quốc dân, cho nên nước phải thấp, dân phải
hèn, thấp hèn cũng vì dân một nước như con một nhà mà xem tựa hồ như phân chia
ra nhiều phe nhiều phái, kẻ đạo nầy người đạo khác, rồi kích bác lẫn nhau.
Trời không hai mặt, Đất chẳng hai vua. Đất có hai
vua là đất giặc. Trời già hai mặt, thế ra tro.
Phải trông mong ngày sanh linh đạo đức, an cư lạc
nghiệp, cộng hưởng thái bình, trong nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm
của rơi.
Nay Cao Đài Thượng Đế hạ trần, dùng huyền diệu Tiên
bút, lập nền Chơn Đạo tại Nam phương, nhập Tam Giáo lại làm một, chủ ý qui tụ
chúng sanh lại một nhà, Ngài làm CHA chưởng quản, sẽ hội Tam Giáo nơi Thánh
Thất là nhà chung (tại Tây Ninh ngày rằm tháng 12 tới đây) xem xét kiểm duợt
kinh điển mà tạo thành Tân Luật, sự thờ phượng chế sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ cũng
nơi ấy mà xuất hiện; nhìn Quốc âm, tiếng An Nam làm Chánh tự mà lập Đạo.
Từ đây, nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo
của Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài lập ra gọi là QUỐC ĐẠO.
Có bài thi giáng cơ rằng :
" Hảo Nam bang ! Hảo Nam bang !
Tiểu
quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh
ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo
phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi
ân tế chúng thiên tai tận,
Nhược
thiệt nhược hư vạn đại an.
Chí
bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng
tri giác thế sắc cao ban."
THÁNH TƯỢNG CON MẮT :
Có Thánh Ngôn dạy rằng :
"
Chưa phải hồi các con rõ tại sao phải vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song
Thầy cắt nghĩa cho hiểu chút đỉnh :
Nhãn
thị chủ tâm,
Lưỡng
quang chủ tể,
Quang
thị Thần,
Thần
thị Thiên,
Thiên
giả Ngã dã.
Thần
là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy
Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm
nhập Thánh."
SỰ
THỜ PHƯỢNG chế sửa theo
Tam
Kỳ Phổ Độ nơi Thánh Thất Tây Ninh :
Thánh Ngôn ngày 12 tháng 8 năm Bính Dần dạy rằng :
"
Các con lo một trái Càn khôn, hình tròn quay như trái đất, sơn màu xanh da
trời, bề kính tâm 3 thước 3 tấc, lớn quá, mà phải vậy mới đặng vì là cơ mầu
nhiệm Tạo Hóa trong ấy.
Cung
Bắc đẩu và Tinh tú phải vẽ lên trái Càn khôn ấy. Thầy kể Tam thập lục Thiên và
Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại
Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh tú, tính lại là ba ngàn
bảy mươi hai ngôi sao, con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con dở sách Thiên văn
Tây ra coi mà bắt chước.
Tại
ngôi Bắc đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc đẩu cho rõ ràng,
trên vì sao Bắc đẩu, vẽ Con Mắt Thầy.
Đáng
lẽ trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời
cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới đó, nhưng mà
làm chẳng kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp Đại hội.
Khi
đem trái Càn khôn ấy về, con làm một cái cốt xây, để trái ấy lên Đại Điện, nhớ
day Con Mắt ra ngoài, rồi con lại lên tượng Phật Thích Ca, Lão Tử, và Khổng Tử
mà để dựa dưới; kế ba vị ấy là Quan Thế Âm, Lý Thái Bạch, Quan Thánh Đế; kế nữa
ngay dưới Lý Thái Bạch là Jésus de Nazareth; kế dưới Jésus là Khương Thượng Tử
Nha; còn chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đã lên cốt thì để dài theo dưới."
Ấy là sắp đặt sự thờ phượng tại Thánh Thất Tây
Ninh, còn các nơi Tiểu đàn, lập tran thờ tại nhà riêng thì như vầy :
TIỂU
ĐÀN : Trên thì Thánh Tượng Con Mắt, hàng dưới thì lập đủ Ba Trấn chứng đàn
trong Tam Kỳ Phổ Độ và qui Tam Giáo nầy :
Phật thì có Quan Âm (bên
mặt, ở trong ngó ra)
Tiên, Lý Thái Bạch (ở
giữa, dưới tượng Thầy)
Nho, Quan Thánh Đế Quân
(bên trái)
Mồng 2 tháng 7 năm Bính Dần :
Lý
Thái Bạch giáng cơ :
"Thái
Thượng vô ngôn hữu Đạo thành,
Bạch
vân hữu nhãn kiến nhơn sanh.
Kim
quang đắc kiếp tu tâm thiện,
Tinh
đẩu nan tri Ngã độ thành."
Quan
Âm Bồ Tát giáng cơ :
" Quang minh Nam hải trấn
Thiền môn,
Âm
cảnh năng du độ dẫn hồn.
Bồ
đoàn mạc hám liên huê thất,
Tác
thế tâm ưu khởi đạo tông."
Quan
Thánh Đê Quân giáng cơ :
"Quan
thành tái kiếp Hớn triều phong,
Thánh
đức mạc vong hám thế trần,
Đế
thất nhứt tâm trung khí dõng,
Thanh y xích diện hảo vinh phong."
TỊCH ĐẠO THI :
Thanh Đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo
vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
KHAI
ĐẠO NƠI CHÁNH PHỦ :
Ngày 7 Octobre 1926, nhằm mồng 1 tháng 9 năm Bính
Dần, có môn đệ Thiên phong của Đức Cao Đài là cựu Hội Đồng Thượng Nghị Viện Lê
văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, vưng lịnh Thánh Ngôn đến Khai Đạo
nơi Chánh phủ.
Trong Tờ Khai Đạo ấy có ký tên 247 chư môn đệ, phần
nhiều đều là Chức sắc Viên quan và có Nữ phái nhiều người danh dự.
Quan Nguyên soái Nam Kỳ hoan nghinh và khen rằng vì
chữ thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng.
Chúng tôi xin phô đôi lời thành thật thô sơ, chư
Hòa Thượng, chư Lão thành, chư sơn, chư Chức sắc trong Tam Giáo và chư Thiện
nam Tín nữ xin lưu ý.
Chầy kíp đây, chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận
Đạo kỹ thêm nữa.
TÂN TẢ BẠCH NGỌC KINH
(Giáng cơ mồng 1 Tết năm Bính Dần)
Một
tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền
bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn
trượng then gài ngăn Bắc đẩu,
Thiên
trùng nhiếp khảm hiệp Nam tào.
Chư
Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt
Thánh kinh tâm pháp vẫn cao.
Dời
đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững
bền vạn kiếp chẳng hề xao.
CHUNG
Phố Cáo Chúng Sanh
Tòa Thánh Tây Ninh
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
(Saigon, Imprimerie de L'union, 15 Octobre
1926)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét