Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Ấn Tý Biên Khảo
Nguyễn Phúc Thành
NAM MÔ CAO ĐÀI
TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
LỜI THƯA TRƯỚC.
Vào dịp
Trung Thu năm Quí Tỵ (2013) một số người theo chánh giáo chơn truyền ĐĐTKPĐ mở
cuộc thảo luận về đề tài: BẮT ẤN TÝ THẾ NÀO MỚI ĐÚNG?
Mới
nghe báo đề tài nhiều người đã nhận xét rằng: Đạo khai từ năm 1926 biết bao thế
hệ đã bắt Ấn Tý rồi... Nếu đặc vấn đề tìm hiểu ý nghĩa việc bắt Ấn Tý thì còn
dễ nghe. Đằng nầy nêu vấn đề bắt sao mới đúng nghe phản cảm quá.
Thế
nhưng đi sâu vào pháp lý tôn giáo và thực tế chúng tôi đành chấp nhận là có 02
cách bắt Ấn Tý khác nhau; xuất phát từ 04 văn bản với đầy đủ tính pháp lý tôn
giáo trong đó. Đó là một sự thật sờ sờ trước mắt không có cách chi chối bỏ
được. Nói cụ thể thì:
./-
Cách của Đức Chí Tôn và Đức Hộ Pháp giống nhau; theo thứ tự trên & dưới.
./-
Cách Hội Thánh dạy trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo và Thông Tri số 05 của Văn
Phòng Ngọc Chánh Phối Sư ngày 06-02-Tân Hợi (02-03-1971) thì lại theo
thứ tự trong & ngoài.
Ngày
nay Hội Thánh ĐĐTKPĐ không cầm quyền hành chánh trong tôn giáo. Hội Thánh không
có nơi làm việc vì cơ ngơi đã bị chi phái Hội Đồng Chưởng Quản lập năm 1997
chiếm mất. Do vậy mà người đạo muốn thỉnh giáo Hội Thánh chơn truyền để đi đến
việc bắt Ấn Tý thống nhất cũng không thể được. Cơn địa chấn mang tên Ấn Tý muốn
minh lý rốt ráo và đi đến thống nhất thiết tưởng phải chờ ngày cơ đạo phục hồi
rồi đưa ra cho 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh bàn tính và quyết định.
* * *
Bắt Ấn Tý theo lời dạy Đức Chí
Tôn và Đức Hộ Pháp. Tay mặt ngữa ra nằm dưới. Tay trái chụp lên trên. Nghĩa
là theo thứ tự trên dưới.
Bắt Ấn Tý theo cách Hội Thánh:
dạy bàn tay mặt áp ngoài. Nghĩa là theo thứ tự trong ngoài.
Tập biên khảo có 02 phần và 02 phụ
lục.
- Phần một: Quan Điểm Sử Cao
Đài Giáo.
- Phần hai: Pháp lý và thực tế
về Ấn Tý.
- Phụ lục 1: Đức Hộ Pháp bắt
ấn khi cúng Đại Đàn.
- Phụ Lục 2: Lý Thường Kiệt
phá Tống.
Tập sách nầy Hội Thánh ĐĐTKPĐ chưa
kiểm duyệt nên rất có thể có sai sót trong đó. Chúng tôi kính mong quí đồng đạo
đón nhận nó trong tinh thần hòa bình chung sống trước khi kết luận đúng hay
sai.
Nay kính.
PHẦN MỘT
QUAN ĐIỂM SỬ CAO ĐÀI GIÁO
"Biên niên & chắc lọc"
Tiểu phẩm ở vào diện biên khảo nên
phải căn cứ vào sử liệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà thể hiện. Đề cập đến sử liệu
về Ấn Tý tất nhiên liên quan đến quan điểm sử của Đạo.
Quan điểm sử đạo do ai dạy, ở đâu?
có nội dung như thế nào?
Thiễn nghĩ quan điểm sử do Đức Chí
Tôn dạy. Dạy trong cổ pháp và thi văn. Phân tích và tìm hiểu chúng tôi thấy có
02 tiêu chuẩn: BIÊN NIÊN & CHẮC LỌC. Từ đó cung cấp một sản phẩm có những
nhân tố tích cực giúp người đọc nhận thức được bến mê và bờ giác.
Cổ Pháp tượng trưng cho Đại-Đại
Tam-Kỳ Phổ-Độ là: Xuân Thu, Bình Bát Vu và Phất Chủ (đứng đối diện và tính từ
trái qua phải). Bình Bát Vu (Biểu tượng Thích Giáo), Cây Phất Chủ (Biểu
tượng Lão Giáo). Quyển Xuân Thu (Biểu tượng Nho Giáo).
Xuân Thu là bộ Biên Niên Sử do Đức
Khổng Phu Tử soạn.
Biên niên là ghi chép sự việc theo
đúng thứ tự thời gian nó diễn ra. Sự thật thế nào thì phải ghi đúng thế ấy,
không đặng tự ý bỏ bớt hay thêm vào. Sự việc và thời gian phải theo thứ tự
trước sau rõ ràng.
Đó là tiêu chuẩn đầu tiên chớ không
phải là duy nhất.
Kinh Xuân Thu (còn gọi Lân Kinh) là bộ Biên Niên Sử về nước Lỗ năm 722 TCN tới
năm 481 TCN. Kinh Xuân Thu ghi lại 12 đời vua nước Lỗ kể từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai
Công. Nhưng
tác phẩm không gói gọn trong phạm vi nước Lỗ mà ghi chép cả thời đại (nhà Châu
và nhiều nước khác kể cả thiên văn và khoa học...) Đây là văn bản
lịch sử Trung Quốc sớm nhất còn lại và được ghi chép theo các quy
tắc sử biên niên. Nội dung cực kỳ súc tích.
Trong Bộ Xuân Thu ngoài tính biên niên Đức Khổng Tử còn
phê bình các nhân vật hay triều đại trong đó. Phê bình thì có khuôn thước, tiêu
chuẩn, lập trường và quan điểm rõ ràng. Ngài đã đứng trên quan điểm nhân đạo và
nhân văn mà phê bình các nhân vật hay các triều đại.
Trang Tử nhận định rằng: Xuân Thu dĩ đạo danh
phận (Sách Xuân Thu là để nói cái đạo danh và phận).
Người đời sau nhận định về giá trị phê bình trong Kinh
Xuân Thu: Nhứt tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhứt tự chi biếm, nhục ư
phủ việt. (Một chữ khen thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban
cho, một chữ chê thì nhục hơn phải tội rìu búa.) Những vị vua hung bạo,
tàn ác với dân chúng Ngài không nhìn đó là vua nên viết: Ta nghe nói giết đứa
Kiệt, Trụ chớ không nghe nói giết vua Kiệt, vua Trụ.
Ngài để hết tâm huyết xây dựng con người công nghĩa và xã
hội có kỷ cương minh chánh vào tác phẩm nên tự thán rằng: Tri ngã
giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ! (Người
biết ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu).
1.1/- Ai biết Đức Khổng Tử và nối chí Ngài?
Biết Ngài là những người có tư tưởng nhân đạo vì lẽ bác
ái và công bằng, biết nhìn nhận sự việc trong chiều hướng nhân văn. Biết Ngài
là những người chủ trương trau dồi bản thân để thành nhân tố hữu ích cho gia
đình và xã hội (tu thân). Biết Ngài là làm theo tinh thần và tư tưởng của Ngài
chớ không phải là những người hô hào dựng tượng Ngài cho lớn, xây đền thờ cho
bề thế và đem tư tưởng của Ngài để áp đảo thiên hạ.
Biết Ngài không phải coppy học thuyết của Ngài mà lấy
những tinh hoa phối hợp với hiện đại và bổ cứu cho hoàn chỉnh (theo đường lối
trung dung). Nho giáo chủ trương nhân trị mà thiếu phần thiên trị nên ngày nay
Đại Từ Phụ đến dạy môn sinh bổ túc thêm phần thiên trị cho hoàn chỉnh. Do vậy
ĐĐTKPĐ mới chủ trương THIÊN THƯỢNG THIÊN HẠ ĐỒNG TRỊ để xây dựng con người và
xã hội.
Biết Ngài và thừa kế tinh hoa của Ngài từ trước đến nay
thì có nhiều (cá nhân hay tổ chức). Ngày nay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Đạo Cao
Đài) dùng Nho Tông chuyển thế; xây dựng nhân tố mới, thế giới mới trên nền tảng
BÁC ÁI – CÔNG BẰNG.
Thế giới mới của ĐĐTKPĐ bắt đầu từ năm 1925 (Lễ Hội Yến
Diêu Trì Cung đầu tiên “15-8- Ất Sửu”). Công khai hóa trước nhân loại vào ngày
15-10-Bính Dần (19-11-1926) tại chùa Gò Kén Nam phần Việt Nam. Một địa cầu mới
(địa cầu 67) đã ra đời để đưa nhân loại từ địa cầu 68 lên địa cầu 67. Trong Đền
Thánh có Quả Càn Khôn với 3072 ngôi sao ứng với Thất Thập Nhị Hiền và Tam Thiên
Đồ Đệ của Đức Khổng Phu Tử. Đó là thể pháp biểu thị cho Nho Tông Chuyển Thế.
Các triều đại phong kiến dùng học thuyết của Ngài phần
lớn là mang tính lợi dụng để mưu cầu lợi ích riêng cho triều đình chớ không
phải thật tâm xây dựng xã hội theo học thuyết của Ngài. Nếu triều đình phong
kiến thật tâm xây dựng xã hội theo tư tưởng và học thuyết của Ngài thì nhân dân
Trung Hoa và các quốc gia chịu ảnh hưởng Nho Giáo không bị lạc hậu và đau khổ
như ngày nay.
Cộng sản ở Trung Quốc ngày nay mang học viện Khổng Tử đi
trình diễn khắp thế giới như một QUYỀN LỰC MỀM cũng là một cách lợi dụng danh
tiếng và uy tín của Ngài chớ kỳ thật họ chẳng khi nào muốn học thuyết của Ngài
được hiểu đúng. Cộng sản đã không muốn mọi người hiểu đúng về Đức Khổng Tử thì
dĩ nhiên họ chẳng có chút chất Khổng Tử nào trong việc tu thân hay trị quốc an
dân. Trong thời đại internet hiện nay họ đi rao giảng thứ mà họ không có thì
dối gạt được ai? và lừa đảo được bao lâu? Một ngòi bút đã là vạn binh lang mà
vô vàn chiến sĩ hòa bình trên hành tinh nầy chỉ ra cái trí trá của cộng sản thì
sự tiêu vong của họ chỉ còn là thời gian sớm hay muộn mà thôi.
Các triều đại phong kiến lợi dụng học thuyết Nho Giáo để
phục vụ cho đế quyền nên kẻ sĩ chân chính vì lẽ phải, trung thành với lý tưởng
Nho Giáo can gián thì bị những hình phạt rất thảm khốc (xẻo thịt đến chết hay
tru di tam tộc...) nhưng rốt lại thì các triều đại vẫn tiêu vong.
Ngày nay với sức mạnh của internet thì chế độ độc tài
cộng sản có lợi dụng Nho Giáo đem học viện Khổng Tử đi trình diễn cũng sẽ thất
bại. Nhân loại không chống đối hay tẩy chay Nho Giáo mà phản đối những cá nhân
hay tổ chức lợi dụng Nho Giáo. Xét cho cùng thì chính họ là người làm sai lệch
và hủy hoại Nho Giáo. Đạo Pháp Vô Biên nên cái giả dối của họ cũng có cái công
(ngoài ý muốn của họ) là làm cho nhiều người biết đến Nho Giáo dỏm rồi tìm đến
Nho Giáo chân chính. Đó là điều mà Kinh Thánh viết: Chúa Trời gặt trong chổ
không gieo, lượm trong chổ không rãi... còn Đạo Đức Kinh viết: Thiên chi đạo
lợi nhi bất hại (Đạo của Trời chỉ làm lợi mà không làm hại).
Học thuyết của Ngài đầu tiên phải dụng phép TU THÂN làm
gốc (học phải hành) mà có được bao nhiêu người cộng sản tu thân? Bao nhiêu Đảng
viên là bấy nhiêu ông vua thì tu thân thế nào? hành cái gì?
Học thuyết của Ngài chủ trương: Kỷ sở bất dục,
vật thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác). Người cộng sản thi hành ngược lại. Điều gì cộng sản không muốn thì CỨ
LÀM cho dân chúng. Họ nói rất hay nhưng sự thật đã chứng tỏ rằng: chưa có một
chế độ nào, một đảng phái nào, một cuộc cách mạng nào nói nhiều, hứa nhiều mà
làm KHÔNG CÓ GÌ như cộng sản. Do vậy dân chúng lầm than khổ sở còn Đảng viên
thì sống như bạo chúa.
Sự dối trá của cộng sản bị công chúng vạch trần qua sáng
tác thực hiện di chúc 09 chữ: Không có gì quí hơn độc lập tự do.
Ông Hồ Chí Minh chết chưa đầu thai được, gặp ông Tôn Đức
Thắng hỏi di chúc của Tôi thực hiện đến đâu rồi. Ông Thắng trả lời: Thưa Bác
được 1/3 rồi ạ. Bác Hồ khen vậy là khá.
Ông Lê Duẫn chết gặp Bác cũng hỏi như thế. Ông Duẫn trả
lời: Dạ được 1/3 rồi ạ. Ông Hồ cũng khen lấy khen để...
Kiểm tra lại thì di chúc có 09 chữ. Được 1/3 là 03 chữ.
Ba chữ đó là KHÔNG CÓ GÌ... nghĩa là láo toét thôi chớ có độc lập, tự do chi
đâu.
Người Việt Nam thông minh và sâu sắc như vậy thì dầu cho
nhất thời có bị lầm lẫn mà bị rơi vào bàn tay quỉ quyệt của cộng sản nhưng chắc
chắn dân tộc Việt Nam sẽ đủ sức chôn vùi cộng sản.
ĐĐTKPĐ khai năm 1926. Đức Chí Tôn có dạy Đạo Trời mở cho
một nước là tai nạn nước đó đã hầu mãn... nên tai nạn cộng sản là tai nạn sau
cùng mà dân tộc phải chịu rồi thức tỉnh và dùng đạo đức (Nho Tông làm giềng
mối) xây dựng lại cương thường cho dân tộc.
Đức Khổng Tử quí nhân, trọng đức, sùng đạo, ức tà, hoằng
dương chánh pháp (quí con người, trọng đức hạnh, tôn sùng Trời Đất, áp chế tà
vạy, mở mang chánh pháp). Cộng sản chà đạp con người, ai đồng ý với họ là tốt,
không đồng ý là xấu nên dùng cả lưu manh và côn đồ đối phó với hiền nhân quân
tử hay tăng lữ, dẹp bỏ tôn giáo bổ báng Thần, Thánh, Tiên, Phật và Thượng Đế.
Lập ra tà giáo thay cho chánh giáo. Nơi nào cộng sản làm chủ thì họ lập ra một
hệ thống tôn giáo mới đối lập với hệ thống có từ trước. Nhân sự trong hệ thống
họ lập ra thường là những người có đầy đủ tham, sân, si là 03 món độc hại của
đời nên họ sa đọa về mọi phương diện (đời chán đạo ngán) để dễ sai khiến.
Khổng Tử nhận định rằng việc chính trị tốt hay xấu là do
nơi người thi hành còn chế độ là phụ thuộc. Quan lại là phụ mẫu chi dân (quan
là cha mẹ dân) nên phải thương dân và lo cho dân, không được phép hà khắc hay
đày đọa dân. Ngài nhận định rằng chính trị hà khắc còn độc ác hơn là hổ dữ, nên
bác bỏ cách dùng luật pháp hà khắc, tin rằng dùng nhân trị là cách hay nhất để
duy trì trật tự trong xã hội.
Chính con người mới là yếu tố QUYẾT ĐỊNH làm cho xã hội
tốt đẹp chớ không phải chế độ ưu việt cộng sản như họ láo khoét. Bằng cớ là rất
nhiều quốc gia còn theo thể chế QUÂN CHỦ mà dân chúng vẫn có hạnh phúc. Còn chế
độ cộng sản đang bị thế giới lên án rằng: Cộng Sản là thảm họa lớn nhất trong
lịch sử nhân loại.
Tóm lại Bộ Xuân Thu gần như là chuẩn mực về thiện và ác
trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam cũng như cả Đông phương một thời gian dài...
nhiều người căn cứ vào chuẩn mực của Xuân Thu mà nên danh phận trong xã hội.
Xuân Thu đã góp phần tạo ra những bậc trung quân ái quốc, những anh thư tiết
liệt kể từ khi nó ra đời.
Đặc biệt là Quan Vân Trường đời nhà Hớn căn cứ vào bộ
Xuân Thu để trau dồi tam cang ngũ thường mà nên danh khi sống và hiển thánh sau
khi chết. Ông được nhân loại tôn kính và thờ phụng. Người đời có câu đối khen
tặng Đức Ngài:
Chí tại Xuân Thu công tại Hớn.
Công đồng Nhật Nguyệt dữ đồng Thiên.
Năm 1926 Đức Chí Tôn hoằng khai ĐĐTKPĐ Ngài lãnh trọng
trách Tam Trấn Oai Nghiêm. Tượng của Ngài ở Bát Quái Đài có cầm quyển Xuân Thu
bằng tay phải (sách mở ra như đang đọc).
Ngày nay nếu tư tưởng Đức Khổng Tử được thực thi thì cộng
sản bị tiêu diệt cho nên học viện Khổng Tử kiểu của Tàu cộng thực chất là để mị
dân và tuyên truyền cho cộng sản chớ chẳng có chất Khổng Tử đích thực nào trong
đó. Nghĩa là dầu ở diện nào cộng sản cũng có hàng nhái, hàng kém chất lượng để
tạo nên sự rối loạn.
ĐĐTKPĐ dụng Nho Tông chuyển thế để xây dựng một thế giới
mới. Thầy Trời bổ xung chổ khiếm khuyết của Nho Giáo là thêm phần thiên trị.
Đạo thực thi thiên thượng thiên hạ đồng trị.
Từ PHÁP CÔNG BÌNH: Điều gì mình không muốn thì đừng làm
cho người khác. Đức Chí Tôn bổ xung: TÂM BÁC ÁI: Mình muốn nên đạo
thì phải lo cho người nên đạo trước.
Luật Thương Yêu, Quyền Công Chánh sẽ tiêu diệt tà pháp để
xây dựng một thế giới đại đồng.
ĐĐTKPĐ chính là tôn giáo biết Ngài và nối tiếp tư
tưởng: Tứ hãi giai huynh đệ (Người trong bốn biển đều là anh
em) của Ngài đó vậy.
1.2/- Ai bắt tội Ngài?
Bắt tội Ngài là những hôn quân, loạn thần tặc tử những
hạng ác nhân, bất đức trong xã hội. Bắt tội Ngài là những kẽ ngu dốt lại ra mặt
lãnh đạo về tư tưởng, văn hóa hay xã hội. Là những người thừa kế mà không nhận
ra cái tinh túy của Nho Giáo để dung hòa với Tây Phương Khoa Học lại chủ trương
đoạn tuyệt với Nho Giáo để chạy theo khoa học một cách mù quáng. Họ đã bảo hoàng
hơn vua khi không biết rằng chính các nhà khoa học Tây phương đã kêu gào thảm
thiết rằng: Khoa học không có lương tâm chỉ là sự băng hoại của tâm
hồn. Họ không biết rằng thế kỷ thứ 18 Quốc Ấn nước Mỹ (1782) đã để
CON MẮT trên Kim Tự Tháp. Con mắt là cửa sổ của tâm hồn là biểu tượng của tinh
thần. Kim Tự Tháp biểu tượng cho sự bền vững của vật chất. Tinh thần phải ở
trên vật chất; tinh thần phải chỉ huy vật chất... xã hội đão điên do những anh
mù tư tưởng học được chút ít khoa học, tinh thần dân chủ của phương Tây đã vội
vàng cho là tất cả rồi quay lại đạp đổ cả quá khứ cha ông gầy dựng để tạo ra
một lớp người Tây chẳng phải Tây, Đông chẳng phải Đông (tiền nhân ta dạy dơi
chẳng dơi chuột chẳng chuột) chỉ biết hô hè, đập phá chớ đã xây dựng được
cái chi hay??? Nói cho cùng nước là cái mà họ xây dựng nên đang đẩy xã hội đi
đến chỗ hổn loạn và bế tắc.
Văn hiến bốn ngàn năm sẳn có họ chê bỏ để đi rước những
chủ nghĩa ngoại lai về tôn thờ mà không biết rằng chính chủ nhân của nó đã rên
than rằng chúng tôi còn thiếu xót và đang đi tìm mảnh ghép còn thiếu để ghép
vào cho hoàn chỉnh. Mảnh ghép còn thiếu đó chính là chữ HÒA trong tinh thần đạo
học phương Đông.
Hòa là kết hợp tinh hoa Đông Tây (giử lấy tinh hoa của
mình tiếp thu cái mới trong tinh thần tự chủ, cầu tiến). Đó là điều rất khó với
nhân loại nên Đức Cao Đài mới đến chỉ CÁCH XÂY DỰNG CHỮ HÒA cho nhân loại và
dùng Nho Tông chuyển thế. Mà Nho Giáo đang bị thất thế trước thế lực Tây Phương
nên những người thích cái dễ đã chọn cách đạp đổ Nho Giáo và đầu độc xã hội
bằng cái dễ. Họ dùng sự dối trá, lừa đảo để quần chúng nghe theo rồi xiềng xích
dân tộc bằng thiên đường mù lòa, bắt làm nô lệ cho chế độ cộng sản. Dân Việt
không nghe lời kêu gọi của Đại Từ Phụ nên đang phải chịu ách độc tài từ Nam chí
Bắc. Đảng cộng sản dâng đất, biển, tài nguyên và chủ quyền cho Tàu cộng để tồn
tại.
Phát xuất từ bài thi:
Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa biển ai từng gặp lão Tô.
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ.
* * *
2.1/- Câu một: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ
hồ,
Phong thần là chuyện có khá nhiều ảnh hưởng trong xã hội.
2.1.1/- Truyện Phong Thần trong văn
học.
Chuyện phong thần của Trung Hoa
được lưu lại bằng tiểu thuyết chương hồi Phong Thần Diễn Nghĩa (Tác phẩm có 100
hồi, viết vào đời nhà Minh). Tác giả bộ Phong Thần là ai thì các nhà nghiên cứu
vẫn còn đang tranh luận. Có thuyết nói là Hứa Trọng Lâm, hiệu là Chung Sơn Dật Tẩu (mất
1566), người Phủ Ứng Thiên huyện Trực Lệ biên soạn. Thuyết khác lại cho
rằng do Lục Tây Tinh, hiệu Trường Canh (mất 1601), người huyện
Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô viết.
Ông Lê Quý Đôn và Trịnh Xuân Thụ khi
làm sứ giả sang triều cống nhà Thanh năm
1762 đã chọn mua bộ Phong Thần mang về. Nhưng
đến Quế Lâm thì bị giữ lại (Đây là bằng cớ cho thấy chánh quyền
Trung Hoa không hề muốn nước Nam tiến bộ về mọi phương diện. Điều nầy cho thấy
ý chí của nhà chánh trị trái hẳn với ý chí người viết nên tác phẩm. Văn hóa
chân chính đem nhân loại đến gần nhau còn nhà chính trị thường lợi dụng văn hóa
để tạo nên sự phân biệt trong cộng đồng nhân loại. Tinh thần Thiên
hạ vi công của Nho Giáo đã bị triều đình chà đạp).
Đầu thế kỷ 20, tác phẩm Phong
Thần được cụ Trần Phong Sắc dịch ra tiếng Việt. Sau đó có Mộng
Bình Sơn...
2.1.2/- Truyện Phong Thần liên quan đến ĐĐTKPĐ.
Từ khi nhân loại hiện sinh đã có 03 thời kỳ mở đạo: Nhứt
Kỳ, Nhị Kỳ và Tam Kỳ. Ba thời kỳ mở đạo nhưng chỉ có 02 nguyên lý.
Nguyên lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ là Đạo đi từ vô vi đến
hữu hình và Nhứt bản tán vạn thù.
Nguyên lý Tam Kỳ đi từ hữu hình đến vô vi và Vạn thù qui
nhứt bản (phản tiền vi hậu).
Nên ĐĐTKPĐ có thể pháp (hữu hình) và bí pháp (vô vi).
Thể pháp qua kiến trúc Đền Thánh có 05 phần chính theo
thứ tự: Nguyên Lý Đạo Pháp (Lầu Chuông, Lầu Trống), Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng
Đài, Cung Đạo và Bát Quái Đài (tính từ Tây sang Đông).
Phần Cung Đạo giáp với Bát Quái Đài trên trần nhà có 03
khuôn diềm. Khuôn giữa (Chánh Tây- Cung Đoài) bố trí Tam Giáo và Ngũ Chi. Bên
phái Nữ bố trí Bát Tiên (Lý Ngưng Dương, Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Trương Quả
Lão, Tào Quốc Cựu, Lâm Thể Hòa, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô). Bên phái Nam bố trí
Thất Thánh (Lý Tịnh, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiển và Lôi Chấn
Tử).
Khuôn giữa bố trí Đức Khương Thượng (Tử Nha) cầm bảng
Phong Thần (Thần Đạo), kế là Đức Chúa Jésu (Thánh Đạo), Đức Lý Thái Bạch (Tiên
Đạo), Đức Thích Ca (Phật Đạo).
2.1.3/- Đàn cơ về tiền kiếp của Đức Hộ Pháp.
Trong Thất Thánh có Vi Hộ là một trong những tiền kiếp
của Đức Hộ Pháp. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ dạy trong đàn cơ tại Báo
Ân Đường Kiêm Biên, ngày 15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956). Hợi thời.
Phò loan: Hộ Pháp - Bảo Đạo.
THANH SƠN ÐẠO SĨ
Bần tăng xin chào Thiên Tôn, Chơn Quân và hiền đệ.
Thưa Thiên Tôn, có Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đến nhưng người
lại nhượng cơ cho Bần tăng trước. Cười . . .
Nhiều điều Thiên Tôn hỏi thì Bần tăng khó trả lời đặng,
duy Nguyệt Tâm đảm đương Thiên vụ, người hiểu biết rõ hơn Bần tăng, vậy Thiên
Tôn nên hỏi nơi người.
Chỉ có về bài thi của Bần tăng có hơi huyền bí tiên tri,
nên Bần tăng có thể giải đáp.
Thiên Tôn nhớ lại khi lập thành Phong Thần Bảng, những
người đứng vào hàng Thất Thánh là ai?
Đức Hộ Pháp bạch: - Lý Thiên Vương, Kim Tra, Na Tra, Mộc Tra, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi
Chấn Tử.
- Phải, thì trước đầu kiếp vào nhà họ Vi,
còn nay vào nhà họ Phạm. Điều ấy
có chi khó hiểu mà phỏng đoán. Tiên tri của Bần tăng đã hiểu và chỉ rõ,
Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn chi không rõ rệt. Lại còn một điều
trọng hệ hơn nữa là Di-Lạc giáng linh, thì Thiên
Tôn đã thấy rằng tiên tri vốn không sai sót. Còn lời thứ hai, Thiên Tôn hỏi Bần
tăng thì xin Ngài vấn đáp với Nguyệt Tâm vì chính mình người đã truyền tin ấy.
Vui mừng hơn nữa là từ đây, thiên hạ đã hiểu rõ Thánh
chất của Thiên Tôn và ngọn cờ cứu khổ sẽ cứu quốc cho giống nòi Việt Nam, rồi
lan truyền cho toàn thế giới chung hưởng.
Bảo Đạo, có phải ta tri âm với nhau về điều ấy
chăng? Cười ... THĂNG.
* * *
2.1.4/- Vi Hộ và Đức Hộ Pháp.
Trong chuyện Phong Thần diễn nghĩa. Vi Hộ xuất hiện vào
hồi 59:
Ân Hồng giữa đường thâu Chánh Ðáng
Vũ khí
Vi Hộ dùng là Gián Ma Xữ.
Tác giả
chuyện Phong Thần viết: Vũ khí nầy như cây chày nện vải luyện phép rất hay,
cầm trên tay thì nhẹ như bông, nhưng đánh nhằm người thì nặng như núi. Ðó là
một vũ khí lợi hại phi thường.
Có bài thơ rằng:
Trong lò Bát Quái luyện hằng lâu,
Chày Gián Ma Xử rất nhiệm mầu.
Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp,
Văn Huy nay gặp nát tan đầu.
* * *
Tác giả viết chuyện Phong Thần sống
vào thế kỷ 16. Bối cảnh chuyện Phong Thần diễn ra trước tác giả khoản 2.400
năm. Và trước khi ĐĐTKPĐ tổ chức Lễ Khai Đạo hơn 03 thế kỷ. Nhưng chúng ta cũng
tự hỏi vì sao tác giả viết rất đúng các chi tiết như:
. Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp.
. Vũ khí của Vi Hộ là Gián Ma Xử.
Hai chi tiết trên hoàn toàn phù hợp
với Đức Hộ Pháp.
Ngày 13-10-Giáp Ngọ nhân lễ vía Đức
Quyền Giáo Tông. Đức Hộ Pháp làm bài thi kỷ niệm có câu:
Bầu linh gậy sắt ông an thế,
Chày Giáng Xử Ma tớ giúp đời...
[[[Quan sát cây Giáng Ma Xử của Đức
Hộ Pháp ta thấy có 02 phần cán và thân. Cán có hình dạng như cán cây gươm. Phần
thân có lóng (đốt) như cây tầm vông (hay mía) đầu hơi nhọn. Các hình chụp khi
Đức Hộ Pháp hành pháp cho thấy có 10 (mười) lóng. Cộng với phần cán ra số 11 là
số của Hộ Pháp). Tác giả Phong Thần viết: Vũ khí nầy như cây
chày nện vải. Trên thực tế chính Đức Hộ Pháp gọi là cây
hay chày. “dĩ nhiên chày đây khác với chày vồ của thợ mộc
là một khúc gổ khoan một lổ ở giữa rồi tra cán vào, có hình dạng như chữ T dùng
thay cho búa”]]]
Và còn một chi tiết kín đáo nhưng
rất thú vị khác ở hồi 67:
Ðàn Kim Ðài, Tử Nha bái Tướng
Khương Thượng lãnh ấn nguyên nhung
xuất binh phạt Trụ hưng Châu thì lạy Thầy là Nguyên Thỉ Thiên Tôn xin cho biết
tiền trình...
Các vị khác cũng xin Thầy như vậy.
Phần Vi Hộ lạy Thầy là Đạo Hạnh
Thiên Tôn xin cho biết việc đi chinh chiến thế nào. Vi Hộ được dạy:
Dẫu bao nhiêu bạn tu hành kỹ,
Chỉ một mình ngươi quả vị cao.
Về mặt hữu hình Ngài được thiên
phong Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản HTĐ. Từ năm 1934 Ngài được công cử cầm luôn
quyền Chưởng Quản CTĐ. Cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu
Trùng là nắm quyền Giáo Chủ Đạo Cao Đài để ứng hợp với Bài Kinh Đại Tường (câu
01 đến 04):
Hỗn Ngươn Thiên dưới quyền Giáo
chủ.
Di Lạc đương thâu thủ phổ duyên.
Tái sanh sửa đổi chơn truyền,
Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt
vong....
ĐHP phê từ TỜ XIN TRẢ CHỨC của Lễ
Sanh Ngọc Giác Thanh:
Bần Đạo buồn cười mà để dấu hỏi coi
ai dạy Giác mà nó ngoan đạo quá vậy. Đương chèo Thuyền Bát Nhã là một tên bạn
chèo mà coi mình trọng hơn phẩm Lễ Sanh cũng là một điều hi hữu.
Ừ phải nó chỉ biết nó theo
khuôn thuyền tế độ ấy là vì biết chủ chiếc thuyền là Đức Di Lạc Vương Phật. Nên nó nghĩ: Thà
làm tôi cho một vị Phật đặng đưa bước thiêng liêng sanh chúng cho các chơn hồn,
hơn là làm tôi đòi cho vạn linh sanh chúng. Sáng suốt ấy chẳng phải xác thịt
phàm của nó xúi biểu nó, mà là chơn linh phật tánh của nó đã nói nhỏ với nó...
* * *
Qua lời phê trên chúng ta biết rằng
Đức Di Lặc là chủ khuôn thuyền bát nhã. Trong Bản Hát chèo thuyền Tổng Lái là
chủ thuyền. Tổng Lái là hiện thân của Hộ Pháp.
* * *
Đức Hộ Pháp giảng rằng: Di
Lặc ngự trên khối nguyên tử mà đến... Thực tế là năm 1941 Pháp
bắt Đức Hộ Pháp đày sang Madagascar (Phi Châu). Mục đích của Pháp là đày cho
chết bên đó (các văn bản hành chánh của thực dân Pháp thể hiện như vậy). Năm
1945 chánh phủ Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất Nhật để kết thúc đệ nhị
thế chiến. Năm 1946 Pháp phải đưa Ngài từ Madagascar về Tòa Thánh. Đó
chẳng phải Đức Di Lạc ngự trên nguyên tử hay sao?
Tái sanh là phải đầu kiếp, thọ tinh
cha huyết mẹ hưởng âm dương chi khí để nên hình. Phải mang xác phàm theo luật
tam thể với tên Phạm Công Tắc. Cửu tuyền diệt vong là Đóng địa ngục mở
tầng thiên(Phạm Hộ Pháp - Kinh Giải Oan - câu 23). Sửa đổi chơn truyền là
sửa đổi nguyên lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ bằng nguyên lý của Tam Kỳ.
. Nhứt bản tán vạn thù sửa đổi
thành Vạn thù qui nhứt bản.
. Ngày trước đi từ vô vi xuống hữu
hình; Tam Kỳ đi từ hữu hình đến vô vi.
. Ngày trước là buổi buộc nên người
tu phải nâng mình lên ngang với Thần, Thánh, Tiên, Phật nên tu thì nhiều mà
thành thì ít; bởi phàm thể níu kéo. Tam kỳ Thầy cho DÂNG CÔNG ĐỔI VỊ bất luận
lương hay giáo nếu biết thực thi Tam Lập (Lập Công, Lập Đức, Lập Ngôn) được
nhân loại nhìn nhận thì Thầy nhìn nhận bằng cách đem phẩm vị Thần, Thánh, Tiên,
Phật ban cho.
. Ngày trước gây tội tình phải đọa
lạc. Tam Kỳ Thầy mở cơ Đại Ân Xá nên ngày 16-06-Ất Mùi. (03-08-1955) Đạo Núi
Trần Ngọc Dương bịnh nặng làm Tờ Yêu Cầu Đức Hộ Pháp xá tội cho hết căn bịnh
chướng.
ĐỨC HỘ PHÁP PHÊ: Đức Chí Tôn là Đại
Từ Phụ, khi đến độ Bần Đạo, Bần Đạo có hỏi về phương tận độ các vong linh
thì có nói quả quyết như vầy: Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt
đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh ta thì cũng đặng siêu thoát.
Cho dù bị vào Phong Đô (Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng) vẫn có người đến PHỔ TẾ (Bà Thất Nương).
* * *
2.1.5/- Giáng linh và tái
sanh.
Giáng linh Hộ Pháp Di Đà...
Về giáng linh Thầy dạy ngày 11 và
12 tháng 03 Bính Dần (22 &23- 04-1926 ):
.... Ngay chỗ bàn ngự của Thầy,
phải để một cái ghế, trước ngôi ba vị Đầu-Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết
như vầy:
"CỬU THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH
PHỔ HOÁ THIÊN TÔN" lại vẽ thêm một lá buà "KIM QUANG TIÊN" để
thông ngay ở giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.
Bàn Thầy giáng cơ thì để trước vọng
Ngũ-Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ đặng nhị vị Đầu-Sư quỳ mà
thề.
Con lại để thêm một cái bàn giữa
bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.
Cư, nghe dặn: Con biểu Tắc tắm rửa
sạch sẽ (xông hương cho nó) biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc
như thường đội nón...
Cười.....
Đáng lẽ nó phải sấm khôi, giáp như
hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu.
Bắt nó đứng trên, ngó mặt ngay ngôi
Giáo-Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt nó lạị.
Lịch, con viết một lá phù
(Giáng-Ma-Xữ) đưa cho nó cầm.
Các con, phải cho thanh tịnh kể từ
ngày nay, diệt tận phàm tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới đặng. ...
.... Cả hết thảy Môn-Đệ phân làm ba
ban, đều quỳ xuống biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang,
đến bàn Ngũ-Lôi đặng Thầy triệu nó đến rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục
xuất chơn-thần nó ra: nhớ biểu Hậu, Đức xông hương tay của chúng nó,
như em có giựt mình té thì đỡ.
Rồi biểu hai vị Đầu-Sư xuống
ngai,quỳ đến trước mặt Ngũ-Lôi, hai tay chấp trên đầu quì ngay bùa
(Kim-Quang-Tiên) mà thề như vầy:
"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên
Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch Nguyệt, thề
Hoàng Thiên, Hậu Thổ, trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên Đạo mà dìu dắt
cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Đài Ngọc Đế; nhứt nhứt do lịnh Thầy
phân định chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo; như ngày sau hữu tội thì
thề có Ngũ Lôi tru diệt."
Đến bàn Vi-Hộ Pháp cũng quỳ
xuống,vái y vậy đều câu sau như vầy:
"Như ngày sau phạm Thiên-Điều,
thề có Hộ-Pháp đọa Tam-đồ bất năng thoát tục".
(TNHT Q1 trang 16 & 17. Bản in
1973)
* * *
Như vậy tái sanh khác với giáng
linh. Tái sanh là phải mang xác phàm. Mang xác
phàm thì phải ở theo Luật Tam Thể. Có tái sanh rồi mới có giáng linh.
Giáng
linh có nhiều bước chuẩn bị nhưng cuối cùng là: Thầy trục xuất
chơn-thần của Phạm Công Tắc ra để đưa linh của Hộ Pháp Di Dà
vào ngự trị trong xác phàm.
* * *
2.1.6/- Chắc
lọc lẽ thật và mê tín (giữ chữ Hòa).
Đức Hộ
Pháp dạy Thần Đạo thì là Trung Huê Phong Thần, Hi Lạp Phong Thần và Ai Cập
Phong Thần, (Mythologie Chinoise, Grecque et Egyptienne).
Thầy
dạy: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ
Nghĩa
là nó có phần thật và phần mê tín trong đó.
Ngày 15-08-Quí
Dậu (04-10-1933) Đức Hộ Pháp giảng về Khương Thái Công: Ông Khương
Thái Công gọi là Thái Công Vọng hay là Tử Nha, vâng lịnh đức Nguơn Thỉ
Thiên Tôn ở Côn Lôn sơn cầm Phong Thần bảng đến giúp nên nghiệp nhà Châu, cũng
vì nhơn mà khai minh chơn lý của quyền hành thưởng phạt thiêng liêng, giúp thế
trị đặng thêm mỹ mãn. Tôn sùng trinh liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm
nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt của xác thân.
Ấy
là dụng quyền phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế. Ngài giúp cho thế
gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng vạn ác đã đào tạo của kiếp sống con
người chẳng trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng liêng có đủ
quyền năng cả xác cùng hồn, thế thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo thì lại
có Thần minh ám sát.
Triết
lý Thần linh, nghĩa là quyền phép của lương tâm do đó mà lập thành căn bổn và
năng lực vận hành hiện tượng của tư tưởng cùng tùng bổn nguyên thần pháp đặng
nảy sanh.
Ôi!
Cũng vì cớ quả nhiên thật sự Bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê
tín.
Tuy
vân, chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần,
song Ngài biết tùng lệnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Đức Nguơn Thỉ
Thiên Tôn, thì công ấy đủ làm đầu Thần giáo.
Đời
khi ấy dường như bị phát bối ung thư chịu đau đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài
lãnh đặng hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.
Ngài
nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nhơn nghĩa của nhà Châu, vua Văn
Vương và Võ Vương, giục khai bổn thiện, nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám
chịu nhọc nhằn khổ cực, giúp đạo đức khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang,
cứu dân đen trong nước lửa. Tuy đôi bên: Thương - Châu khác giá, mà đối với bậc
trung cang trí dõng vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư, trong Thần vị, chỉ
ngó mặt công phong phẩm tước. Dầu điều dị đoan mê tín trong Truyện
Phong Thần dẫy đầy, nhưng ngó đến Bảng Phong Thần lẽ công chánh phải đành nhìn
nhận thật.
* * *
Đêm
27-7-Mậu Tuất. (10-9-1958).
Hôm
nay Bần Đạo giảng về Nhơn Sanh nhập vào trường thi.
Học
thì phải có thi, thi mới biết giá trị của thí sinh dày công học tập chẳng uổng
công phu.
Phẩm
Thần Tiên cũng phải thi nếu không thi mở hội Phong Thần để làm gì?.
Đâu
phải chuyện Phong Thần không có, có nên sử mới ghi lại đó. Đó là mầu
nhiệm của thời kỳ Trung Nguơn định vị.
Buổi
Hạ Nguơn nầy mãnh liệt vô cùng khốc liệt, nên các cơ quan Đại Đồng Thế Giới
phải nhập cuộc trường thi Phong Thánh. Bần Đạo quả quyết cho Nhơn Sanh tự thức
giác, có nghĩa là cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển, bắt đầu Nguơn Tứ Chuyển thì mở cửa
cho cả thiên hạ nhập trường chung cuộc khảo thí.
Tín
Đồ Cao Đài là thí sinh có trường lớp, có Thầy dạy hẳn hoi. Thế mà hôm nay Bần
Đạo xem môn sinh quá tệ.
Bài
vở Thánh Ngôn Thánh Giáo tiềm tàng nhưng không chịu nghiên cứu học thuật để làm
Thánh làm Tiên; ngược lại theo học bóng chàng đồng cốt, sấm giảng bá vơ, cúi
đầu lạy tà mị, đem tiền dưng cho kẻ lợi dụng mê tín ăn hưởng...
* * *
Tóm
lại:
Trong
chuyện phong thần có những điều thật lẫn lộn với hư cấu, phải chắc lọc ra. Nói
đến chắc lọc là nói đến khả năng riêng của cá nhân và thời đại. Đó là nói về
nguyên tắc còn thực tế trường của Thầy có 05 lớp (ngũ chi), bài của lớp nào thì
vừa với trình độ lớp đó. Hiểu như vậy được thì thuận nhĩ nhau để HÒA BÌNH CHUNG
SỐNG.
2.2/- Câu
hai: Giữa biển ai từng gặp lão Tô.
Theo Đức Hộ Pháp giảng thì Tô là
Tô Đông Pha và cho biết vắn tắc ý nghĩa câu trên (theo nghĩa chữ biển
là đại dương). Nhưng chính Đức Hộ Pháp dạy rằng mổi khi thuyết Đạo Ngài
đều để khoản trống cho con cái Chí Tôn tìm hiểu.
Do vậy chúng tôi xin trình bày
thêm diện chữ biển là biển trần khổ. Từ đó liên hệ đến
03 cảnh ngộ đầy trớ trêu (bi hài) của Tô Đông Pha để hiểu nghĩa câu hai. Nghĩa
là trong cuộc đời (biển trần khổ) ai đã từng sống qua, trãi qua (hay hiểu) cảnh
ngộ mà họ Tô từng nếm trãi. Trong 03 cảnh ngộ chúng tôi chọn có 02 cảnh ngộ do
chính ông là tác nhân, tự suy nghĩ của mình làm mình vấp (chủ quan) và 01 cảnh
thời thế tạo ra (khách quan). Từ chủ quan và khách quan để lại bài học cho hậu
thế.
2.2.1/-Giai thoại văn chương
của Tô Đông Pha &Vương An Thạch.
a/- Tô Đông Pha (1037-1101) tự Tử
Chiêm, hiệu là Hòa Trọng hay Đông Pha cư sĩ nên thường gọi Tô Đông Pha. Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay
là Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Thân phụ ông là Tô Tuân (tự là Minh Doãn, 1009-1066), và em
trai là Tô Triệt (tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con
ông cùng được xếp vào bát đại gia Đường Tống. Ông theo đạo Phật, có
lòng từ bi và rất mực yêu dân, không tham ô hối lộ. Ông có tính cương
trực nên sự nghiệp chính trị đầy sóng gió.
Ông đậu tiến sĩ năm 1060 và bước vào hoạn lộ với chức Chủ Bạ huyện
Phúc Xương tỉnh Hà Nam. Năm 1061, nhậm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh
Thiểm Tây. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán.
Năm 1066, cùng em là Tử Do xin nghỉ việc quan lo tang cha.
Năm 1069, ông trở lại kinh thành nhận chức Giám quan. Ông cùng em đả kích
mạnh mẽ các chính sách cải cách của Tân đảng như "Phép Thị Dịch",
"Phép Mộ Dịch" do Thừa Tướng Vương An Thạch thi
hành. Ông bị vu oan là lạm dụng quyền lực cướp tiền dân.. nên bị
đổi ra Hàng Châu.
Sự nghiệp văn chương.
Ngoài thi văn Ông còn là một nhà thư pháp, nhà họa
sĩ nổi tiếng. Những tác phẩm của ông gồm có: Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích
phú...Lô Sơn là một trong những bài thơ bất hủ:
Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều,
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu.
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự,
Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều.
(Khói từ Lô Sơn tỏa trên sóng nước Triết Giang có tiếng là đẹp.
Khi chưa tới đó thì lòng ấm ức hận rằng chưa biết.
Khi đến rồi trở về chẳng thấy chi là đặc biệt.
Khói Lô Sơn vẫn tỏa trên sóng nước Triết Giang như tự thuở nào).
. Về mỹ học chúng ta thấy rằng câu 01 và 04 như nhau nhưng mức độ cảm thụ
đã được nâng lên nên nghĩa câu 04 đã khác với câu 01....
b/- Vương An Thạch (1021-1086), tự Giới Phủ, hiệu Bán Sơn
Lão Nhân, người ở Phủ Châu – Lâm Xuyên (nay là huyện Đông
Hương, tỉnh Giang Tây). Ông được xếp vào nhóm bát đại gia Đường Tống.
Ông đỗ tiến sĩ năm Khánh Lịch thứ 2 (1042)
đời Tống Nhân Tông. Ông là nhà biến pháp (tân pháp), kinh
tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc.
Hoạn lộ lần một.
Năm 1042 làm trợ lí cho quan thủ phủ tỉnh Dương Châu. Năm 1047 thăng
tri huyện Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Năm 1051 làm Thông
Phán ở Thương Châu. Hết nhiệm kỳ ông được điều về kinh đô.
Năm 1057 làm tri châu Thương Châu (Giang Tô). Năm 1058 làm
quan hình ngục ở Giang Đông...Đến cuối năm 1058, ông đúc
kết nhận định về chính sự trình lên Tống Nhân Tông. Ông nêu
rõ các trì trệ hiện thời của Bắc Tống và nêu lên các biện pháp khắc phục. Ông
muốn áp dụng tân pháp để cải cách chế độ kinh tế-xã hội,
quân sự của nhà Tống. Cuộc cải cách thất bại do sự chống đối của
các quan lại đương thời. Sau khi về chịu tang mẹ 3 năm ở quê nhà, ông ở
lại đó và mở trường dạy học.
Hoạn lộ lần hai.
Năm 1068, Tống Thần Tông lên ngôi, triều đình khủng
hoảng về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội. Vua triệu
ông về kinh đô Biện Kinh, phong làm Hàn lâm viện học sĩ. Năm 1069 ông
được thăng Tham tri chính sự. Năm 1070, được cử làm Tể tướng, đã đề ra
chính sách cải cách kinh tế, dựng ra phép "... Bảo Giáp, Bảo Mã làm dân
bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc khố dồi dào, làm binh lực nước mạnh"
nhằm cứu vãn tình thế khó khăn trong nước, chống sự uy hiếp của hai
nước Liêu – Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, đồng thời
có ý mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam (trong đó có Đại Việt). (1:
Xem Phụ Lục 2)
Tân pháp, hay còn gọi là biến pháp là những chủ trương cải
cách gặp sự chống đối của các tầng lớp quan lại. Biến pháp Vương An
Thạch tiến hành một thời gian bị các thành phần khác chống lại luật "thu
thuế lúc lúa đang xanh" nên ông đã bị bãi chức lần thứ nhất.
Giai đoạn từ 1070 đến 1075, ông mạnh tay thực hiện các biện
pháp cải cách. Ông cho sửa đổi lại hệ thống thi cử quốc gia, ít lệ
thuộc vào Tứ Thư, Ngũ Kinh mà dựa trên những kiến thức có giá
trị thực tiễn. Điều này làm tầng lớp quý tộc và quan lại theo trường phái Khổng
Tử khó chịu.
Tháng 6 năm 1074, thấy không làm được gì, ông từ chức.
Đến tháng 3-1075, Vương An Thạch lại được vua Tống triệu về chấp chính. Lần
này lại có làn sóng chống "luật miễn dịch" của ông.
Từ 1075 đến 1077, ông cho tiến hành luật Thị dịch. Phái
chống đối ngày càng hành động quyết liệt hơn. Ông bị chỉ trích với 7 tội
lớn. Nhưng hai năm thi hành luật Thị dịch, cuộc sống ở kinh thành ổn
định hơn.
Vào năm 1076, Vương An Thạch lại được vua phong Tể tướng. Tháng
10 năm 1077, vua lại phế chức ông, đồng thời ông cũng xin từ chức do vua
không nghe theo các cải cách khác của ông.
Năm 1085 Tống Thần Tông qua đời, Tống Triết Tông (10
tuổi) lên ngôi, nhà vua bổ nhiệm Tư Mã Quang làm Tể tướng. Một
năm sau khi Tư Mã Quang chấp chính, các biện pháp cải cách bị loại bỏ gần hết.
Tháng 10, năm Hi Ninh thứ 9 (1077) Vương An Thạch quay
về Giang Ninh. Ông trồng cây, làm vườn... đến khi mất (66
tuổi).
Sự nghiệp của ông trên chính trường có 02 ngôn
luận khác nhau: Khen cũng lắm mà chê cũng nhiều.
Về văn
chương: Ông là một trong bát đại gia về văn xuôi và thơ
phú thời Đường Tống (thế kỷ 7 đến thế kỷ 13).
c/- SỬA HAI CÂU THƠ.
Họ Vương lớn hơn họ Tô 16 tuổi.
Họ Tô đọc thơ họ Vương:
Minh nguyệt sơn đầu khiếu,
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.
Ông luận rằng ánh trăng sao lại
hót trên đỉnh núi, trăng soi chiếu đỉnh núi thôi chớ và con chó vàng to thế sao
nằm giữa đóa hoa được, chó nằm dưới bóng hoa thôi chớ... và cho là không hợp
lý. Ông sửa thành:
Minh nguyệt sơn đầu chiếu,
Hoàng khuyển ngọa hoa âm,
(Trăng sáng soi đỉnh núi, chó
vàng nằm dưới bóng hoa).
Ông Tô ưng ý, nhiều người cũng
cho rằng ông Tô hữu lý và câu chuyện tới tai họ Vương. Tác giả cười nhưng không
nói gì. Người có quan tâm càng phục ông Tô hơn.
Nhiều năm sau họ Tô đổi ra làm
quan ở Hải Nam. Một hôm trăng sáng ông đi qua triền núi nghe tiếng chim hót rất
hay. Thi nhân đi trong đêm trăng, tắm mình trong ánh tơ vàng... nghe chim
hót... rõ ràng là cảnh hiếm có. Ông tìm hỏi mới biết con chim hót hay đó tên là
chim Minh Nguyệt, (nó chỉ hót vào đêm trăng sáng). Họ Tô trực nhớ lại câu thơ mình
đã sửa cảm thấy hụt hẩng như đất sụp dưới chân... ông nghĩ đến câu thứ nhì và
tìm hiểu thêm thì biết vùng nầy còn có loại sâu tên Hoàng Khuyển chuyên ăn nhụy
hoa (nên nằm ở giữa đóa hoa). Ông ngộ rằng:
Minh nguyệt sơn đầu khiếu,
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.
(thực nghĩa là chim minh nguyệt
hót trên đỉnh núi, con sâu hoàng khuyển nằm giữa đóa hoa). Ông biết mình đã lầm
khi sửa thơ họ Vương.
Họ Vương quan sát thực tế từ
thiên nhiên để viết câu thơ trên nên hoàn toàn đúng. Họ Tô xét về lý là đúng
nhưng trong trường hợp cụ thể nầy chính cái sự thật từ cuộc sống đã bác bỏ cái
lý của ông.
Hậu thế nhận xét: họ Vương thì
uyên bác, thâm trầm, họ Tô thì phóng khoán, bộc trực; cả hai đều tài hoa và thể
hiện phẩm hạnh đáng khâm phục. Cả hai đều cư xữ rất đẹp xứng đáng với chữ GIAI
(đẹp).
Bài học từ họ Tô ở đây là dù
thông minh, biết suy luận nhưng chưa trãi qua thực tế nên lầm. Đến khi biết sai
thì can đảm sửa sai. Đây là cú vấp tốt lành mà họ Tô là người có chuyên môn cao
lại vấp ngã từ chính lãnh vực (thi văn) mà ông tự tin nhất.
[[[Viết đến đây rồi buồn cho cảnh
đồng đạo cùng theo chơn truyền ĐĐTKPĐ, không theo chi phái 1997 do ông Nguyễn
Thành Tám lãnh đạo. Cùng là người đạo mà cứ hễ thấy ai nghĩ hay nói khác ý mình
thì phán xanh dờn: theo bàn môn tả đạo, theo chi phái, theo cộng sản.... Nặng
nhẹ nhau còn quá hơn đời... mà chắc chi ý mình đã đúng? Đạo thì TIÊN GIÁO HẬU
TRỊ. Đạo dùng giáo lý và pháp luật để xây dựng lẫn nhau, họ chẳng giáo lấy một
câu chỉ lăm le, chực chờ để nặng nhẹ đồng môn.
Một cái hại lớn là văn bản của
Hội Thánh dạy sờ sờ ra đó không đọc, không học mà cứ luận rằng xưa làm sao nay
cứ coppy vậy, không cần xét đến cái lý đúng sai. Chúng tôi có đầy đủ bằng cớ
nhưng chẳng phải nơi nên chẳng trưng ra làm gì. Nhắc vậy để cảnh giác là nên
nhớ tới chữ GIAI khi THOẠI với người trái ý “vì biết đâu họ đúng còn mình
sai”... Nên hằng nhớ rằng: khiêm cung là hạnh yêu dấu của Thầy.
Thầy Trời còn than rằng: Thầy là
bậc Chí Tôn mà còn chưa vừa hết lòng người... Vậy mà có lắm người ra mặt dạy
khôn rằng phải làm vừa lòng hết, rồi kêu gọi đoàn kết là gộp chung kẻ trắng
người đen...“sic”. Họ không biết rằng dẫu anh có trái ý với tôi nhưng chúng ta
cùng học một Thầy, (nếu không cùng tín ngưỡng cũng là bạn đồng sanh) thôi thì
việc anh anh cứ làm, việc tôi tôi tiếp tục, đường ai nấy đi nhưng chúng ta vẫn
HÒA BÌNH CHUNG SỐNG. Thầy cho biết: Chẳng mất một con nghiệt cả bầy...số
đông đâu phải đồng nghĩa với chân lý trong buổi tà chánh còn chưa đưa ra 03 Hội
Lập Quyền vạn linh phán quyết.
2.2.2/- Tô Đông Pha và
thiền sư Phật Ấn.
Tô Đông Pha thường tạo dịp để đến
chùa Kim Sơn đàm đạo với thiền sư Phật Ấn. Kẻ tăng người tục kết thành đôi bạn
tâm giao khi thì thưởng thức chén trà xanh ngắm vầng dương vừa lố dạng, khi bày
cuộc cờ, khi lặng lẽ nhìn mây chiều với những cánh chim bay về tổ ấm, tắm mình
dưới ánh trăng thanh trong gió mát thi họa cùng nhau, chia xẽ những nghĩ suy về
đời người và người đời hay nhận định về thế cuộc....
Một hôm ông hỏi thiền sư: Đại Sư
thấy Tôi như thế nào?
Thiền sư: Ông có cốt cách uy nghi
như một vị Phật.
Thiền sư hỏi lại: Cư sĩ thấy Tôi
ra sao?
Đông Pha đáp liền: ông giống như
đống phân.
Thiền sư cả cười rồi thản nhiên
trò chuyện tiếp....
Khi sắp ra về họ Tô không kềm
lòng được mới hỏi: Tôi nhận xét về ông như vậy ông có phiền không?
Thiền sư cười đáp có chi đâu mà
phiền não...
Thấy họ Tô ngạc nhiên chưa hiểu
thiền sư ôn tồn nói: Phật dạy Ta là Phật đã thành các Ngươi là Phật chưa thành.
Phật nhìn chúng sanh thấy ai cũng có Phật tánh. Chúng sanh lấy tâm chúng sanh
nhìn người nên tâm thế nào thì nhìn chúng sanh như thế đó... tâm ta chứa gì thì
nó thể hiện ra như thế ấy... Họ Tô tâm phục và ra về. Đây là cú vấp trong lãnh
vực mà ông không uyên thâm (chuyên môn không cao) nên cũng là điều dễ hiểu.
Đạo hạnh thiền sư Phật Ấn thể
hiện qua lập ngôn thật đáng cho hậu thế kính phục. Chẳng bù với mấy ông sư hay
những nhà tôn giáo được Đảng cộng sản đưa vào làm dân biểu trong quốc hội nước
CHXHCNVN hiện nay mở miệng ra là bay mùi thối làm ô nhiễm cả xã hội...
Đức Cao Đài dạy: Sự
thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh (Niết Bàn). Nhưng Thầy
biết con người còn mang phàm thể thì có thương ắt có ghét. Sự ghét lẫn nhau là
mầm móng của chiến tranh và mở đường vào cảnh khổ (ngục môn ai oán) nên Thầy
đóng cửa địa ngục cho môn đệ bằng lời dạy: Không thương được thì
cấm ghét. Nghe à.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài
Kinh Giải Oan câu 23 & 24 dạy:
Đóng Địa ngục mở tầng Thiên,
Khai đàng cực lạc, dẫn miền
Tây Phương.
Nghĩa là có đường thăng thì có
nẽo đọa. Thầy chỉ con đường thăng và CẤM ĐI VÀO con đường đọa. Bởi pháp công
bằng Thầy không xóa bỏ nẽo đọa nhưng Thầy CẤM môn sinh đi vào đó. Nẽo đọa vẫn
còn nhưng môn đệ nghe Thầy thì không sa vào địa ngục.
2.2.3/- Tân Đảng và Cựu
Đảng.
Là người tài hoa và có lòng nhân
ái với dân chúng nhưng hoạn lộ của Ngài Tô Đông Pha đầy sóng gió. Khi Tân đảng
do Vương An Thạch cầm quyền thì cho rằng Tô Đông Pha là người theo cựu đảng nên
không trọng dụng. Họ Vương bổ ông đi làm quan ở các địa phương để thuyên giảm
ảnh hưởng của ông trong triều đình.
Khi cựu đảng do Tư Mã Quang đứng
đầu được cầm quyền trong triều đình thì lại cho rằng ông theo tân pháp (hay
biến pháp) của Vương An Thạch nên cũng không trọng dụng.
Vậy thực chất ông là người của
cựu đảng hay tân đảng?
Rằng cựu rằng tân tớ
cũng ừ
Bài học ở đây là hể có thực tài
và thực tâm lo cho dân chúng, phụng sự xã hội thì được xã hội đền đáp lại. Tài
hoa mà bất phùng thời âu cũng là do sự tích tụ trong vô lượng kiếp, người đã
biết đạo lý thì cũng chẳng dám oán trách cao xanh. Hiểu được rằng tạo hóa rất
công bằng:
Bắt phong trần phải phong
trần,
Cho thanh cao mới đặng phần thanh cao.
Có đâu tư vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều).
Trang Tử viết trong Nam Hoa Kinh:
...con khỉ con vượn nhảy nhót ở trong rừng thì người có tài bắn cung như Bàng
Mông, Hậu Nghệ... cũng không làm chi được nó, con cọp xuống đồng bằng thì thất
thế bị rượt đuổi chạy dài... ấy là do môi trường mà ra
2.3/- Câu 3: Mượn
thế đặng toan phương giác thế,
Thiễn nghĩ đây là câu rất hàm
súc... Mượn thế có mấy cách hiểu:
Cách một: Mượn thế là mượn những
điều như thế (trong Phong Thần rất mờ hồ mà vẫn có phần thật và cuộc đời Tô
Đông Pha tài hoa, lịch lãm mà vẫn va vấp) để dồi mài kiêu khí và mê tín của
khách trần.
Cách hai: Mượn thế là mượn thế gian
(là biển trần khổ) với đầy đủ diện mạo, mùi vị và góc cạnh của nó để làm đề thi
tấn hóa cho khách trần đi từ bến mê sang bờ giác (đáo bĩ ngạn) khi trãi bước
trên đường luân hồi.
Cách ba: Thầy là Đấng tự hữu và
hằng hữu, Thầy là chúa tể càn khôn, nhưng Thầy không nhơn thân phàm ngữ lại cao
không với tới, khuất không rờ đặng thì làm sao nhơn sanh nghe được lời Thầy
dạy? Do vậy mà Thầy phải cậy lương sanh dẫn dắt quần sanh. Lương sanh là những
người hữu căn hữu kiếp được Thầy hun đúc một khối từ bi trong lòng, có trách
nhiệm trong Tam Kỳ họp lại thành Hội Thánh. Hội Thánh ấy thay mặt Đức Chí Tôn
mà dìu dẫn nhân loại đi trong con đường tương đối nhập thế và xuất thế. Ấy là
mượn người phàm (mượn người thế gian) để độ người thế gian...
Hiểu mượn thế theo cách nào thì
MƯỢN THẾ đều là phương tiện mà cứu cánh là GIÁC THẾ. Muốn giác thế thì môn đệ
Thầy phải rút ra được bài học và có giáo án phù hợp cho từng lớp và từng giai
đoạn. Phải thu phục nhơn tình (hòa bình chung sống) trước khi nói đến phương án
xây dựng thế giới đại đồng.
Nhơn tình ví chẳng mưu thâu phục,
Thế giới mong chi phép độ lường...
Mượn Đời dồi Đạo, mượn Đạo trau Đời
cả hai đấp điếm nhau giúp cho khách trần thực thi Tam Lập (lập vị). Cuối cùng
là Đạo thì nên mà Đời thì rạng. Người đời tiêm nhiễm những văn bút chia rẽ đạo
đời đôi ngã đã mấy ngàn năm qua; nay Đức Chí Tôn đến để cho nhân loại hiểu rằng
Đạo hay Đời cũng từ Đức Chí Tôn mà có. Nên Thầy dạy rõ rằng Đạo Thầy là phương
châm thoát tục cũng là kế bảo tồn quốc túy. Trong nền chánh giáo của Thầy có
phương án xây dựng cá nhân và xã hội trong diện thượng thừa và hạ thừa. Pháp
điều của Tam Kỳ Phổ Độ là thực thi Tam Lập. Thầy không bồng ẩm ai lên địa vị
nào hết. Muốn đạt địa vị nào thì cứ lo phụng sự cho con cái của Thầy theo tam
lập. Dù Đạo hay đời mà biết thực thi Tam Lập được chúng sanh nhìn nhận thì Thầy
đem phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật trả công cho. Thánh ngôn dạy:
Trường đời đem thử gan anh tuấn,
Cửa Đạo mới ra mặt thánh hiền.
Do vậy trong ĐĐTKPĐ (là cái nhánh
do Thầy làm chủ) có 09 viện nghiên cứu (Cửu viện: Học, Y, Nông, Hộ, Lương,
Công, Hòa, Lại, Lễ) để bậc thể thiên hành hóa và những anh tài còn nặng nợ trần
ai mà có tâm phụng sự có đầy đủ tài nguyên và môi trường thực thi Bảo Sanh –
Nhơn Nghĩa – Đại Đồng (Trường học, Dưỡng Lão, Ấu và Tịnh thất).
* * *
Cơ tận độ và độ tận của ĐĐTKPĐ mở
ra cho cả người sống và người đã bỏ xác phàm. Trong giờ phút lâm chung Thầy
dạy: Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy
danh ta thì cũng đặng siêu thoát.
Thậm chí Đức Hộ Pháp dạy: ... sau
khi giải thể (bỏ xác phàm) thì mổi người đều phải đến Nghiệt Cảnh Đài nhìn vào
hành tàng của mình (là kinh vô tự của chính mình) đã làm trong kiếp sinh rồi tự
mình làm quan tòa xử mình. Phiên tòa thiêng liêng đó tự mình đóng vai nguyên
cáo, bị cáo, bào chữa và kêu án.
Đài Chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,
Xem rõ ràng tội phước căn sinh...
(Kinh Đệ Ngũ Cửu câu 5 & 6)
Tự mình xem xét rồi xử mình thì đâu
thể kêu ca chi được. Có khi tội tình mình chẳng đáng mà mình TỰ XỬ mình nặng
quá mức, quá nghiêm khắc với chính mình... do vậy Ngài dặn: khi phải TỰ Xử thì
ĐỪNG TỰ XỬ mà xin giao hết cho Đức Chí Tôn xử. Mà Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ thì
Ngài chẳng phạt đứa con nào hết. Ngài sẽ bảo lãnh cho tái kiếp mà trả nợ.
(Thiễn nghĩ kinh sách xưa nay dạy
tha thứ chính là tập cho mình thói quen tha thứ đến mức thành ra phản xạ tự
nhiên để đức tánh tha thứ đó gắn chặc với mình... kết quả là đức tính tha thứ
đó đem áp dụng cho chính mình. Kinh Thánh dạy kẻ nào xóa nợ cho người khác ở
thế gian thì sẽ được xóa nợ nơi thiên đàng cũng nằm trong lẽ bí mật, sâu xa
ấy).
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài Kinh
Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu câu 26 & 27 dạy:
Thong dong cõi thọ hương hồn,
Chờ con lập đức giúp hườn ngôi xưa.
Nghĩa là con cái biết lập công quả
thì đủ quyền dâng công quả ấy lên cha mẹ... giúp cha mẹ đã mãn phần trở về ngôi
xưa vị củ.
1/- Trường hợp ông Võ Văn Đợi (tạ
thế năm 1947, ba năm sau “1950” các sư đệ đồng tu xin
dâng công quả).
Tờ đề ngày 03-11- Canh Dần (1950).
Của Nguyễn Văn Thế và 16 vị nữa đồng đứng dâng
công quả của mấy vị ấy để chuộc tội cho Ông Võ Văn Đợi là Sư huynh của họ ở Đạo
Núi.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Đợi bị phế vị là do nó dám chối Thập nhị đẳng
cấp thiêng liêng.
Ngày nay theo Thiên điều thì nó phải tái kiếp
mà hành đạo lại.
Nếu nó đặng ở Thanh Tịnh Đại Hải mà tu hành nơi
cõi hư linh cũng là may phước cho nó.
Còn quyền thiêng liêng thưởng phạt là do nơi
quyền Ngọc Hư Cung có phải của Bần Đạo đâu mà xin Bần Đạo.
Còn dâng công quả cho Đợi chỉ có vợ con Đợi mới
đặng; còn mấy em ai thèm đâu mà
dâng.
HỘ PHÁP
(Ấn Ký)
Vậy: Thanh Tịnh Đại Hải Chúng và
Phong Đô là hai hay một?
Theo lời giảng của Đức Hộ Pháp về
bà Đoàn Thị Điểm kết hợp với Thánh giáo của Bát-Nương: Giải thích về
âm-quang tháng 10 năm (1932) (TNHT trang 85 & 86) và Thánh giáo bà Thất
Nương ngày 09-04-Giáp Tuất (1934) (TNHT trang 91 & 92) thì ngày xưa gọi là
Phong Đô nay với cơ Đại Ân Xá của Đại Từ Phụ thì đó là Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng.
2/- Trường hợp ông Đại Tá Đặng Quang
Dương (dâng công quả khi cha ông vừa tạ thế).
Tờ đề ngày 27-10-Nhâm Thìn (09-09-1952).
Của Đại Tá Dương Quang Đặng xin dâng công
nghiệp để cầu thăng cho người cha tên Dương Văn Y, 57 tuổi.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Bần Đạo từ ngày trở về cố quốc thường để tâm
suy nghĩ đối với Bần Đạo cũng như đối với con cái chí hiếu với Chí Tôn đã
chịu biết bao khổ hạnh truân chuyên vì đạo. Vừa thoát khỏi ách lệ thuộc lại bị
cường bức của họa độc tài. Nào giết chốc đánh đập tra tấn, thiệt không còn giá
trị con người mà là con vật. Nếu may còn sống sót thì cái thân già đã mang
không biết bao nhiêu là tật bịnh.
Tuy nhiên đã hiểu rằng luật thiên nhiên có một:
Sống thì ở, thác thì về. Song nhớ đến tình trạng đau đớn ấy, Bần Đạo nhiều phen
không ngăn giọt lệ.
Tư cho Q. Ngọc Chánh Phối Sư lập Thánh Lịnh ân
tứ do Q Chí Tôn tại thế phong Dương Văn Y vào hàng phẩm Lễ Sanh Phái Ngọc hàm
phong.
Thánh Lịnh nầy đọc trước linh sàng trước khi di
linh cửu.
HỘ PHÁP
(Ấn Ký).
* * *
*3/- Trường hợp ông Đỗ Công Khanh
(khi cha còn tại thế).
Phúc trình
số 329/PT ngày 23-12-Nhâm Thìn (07-11-1952).
Của Thánh
Vệ Trưởng dâng lên Đức Hộ Pháp kèm theo tờ của Thiếu Tá Khanh xin nhường chức
Lễ Sanh lại cho thân phụ là cựu Chánh Trị Sự Đỗ Văn Cầm 73 tuổi xin được ân
phong hàm phong.
LỜI PHÊ ĐỨC
HỘ PHÁP:
Phê y và
cho Q Ngọc Chánh Phối Sư lập Thánh Lịnh ân phong cho cụ anh Đỗ Văn Cầm vào hàng
phẩm Lễ Sanh Phái Ngọc (hàm phong) còn Thiếu Tá Khanh chỉ còn là 1 vị Tín Đồ mà
thôi.
Bần Đạo còn
để lời khen lòng hiếu thảo của Khanh đáng ghi vào nơi Đạo Sử.
HỘ PHÁP (Ấn
Ký).
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài Kinh
Cầu Tổ Phụ Đã Qui Liễu câu 17 đến 20 dạy:
Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,
Cả thế gian đầy đủ đạo mầu.
Âm-dương đôi nẻo như nhau,
Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ-trì.
Là dạy dù cho thế gian hay miền âm
cảnh đều có Đạo, có hồng ân của Chí Tôn bao phủ. Cả hai nơi đều có con đường
(Đạo) cho người biết hối ngộ, tu sửa hưởng được ân lành của Đạo. Dương
gian âm cảnh đồng nhất lý là ĐỀU CÓ Đạo mầu, có hồng ân Thầy bao phủ...
Bọn lừa đảo kinh văn giải thích: ĂN
XÀI NHƯ NHAU... Người trần ăn thịt, cá, dùng tiền, nhà lầu, xe hơi... thì người
chết cũng thế nên đem thịt, cá, tiền âm phủ, xe hơi... cúng vái rồi đốt cho
người chết dùng.
Thậm chí bày trò THUÊ heo quay đem
cúng vái ông bà (hay Trời, Phật...). Người THUÊ đem heo quay vào rồi mướn bọn
chuyên môn vái mướn giải oan cho ông bà, cha mẹ... chưa tàn nén hương thì họ đã
khiêng heo quay xuống để cho người khác thuê tiếp. Một cái xác con heo quay mà
bọn lừa đảo kinh văn kết hợp với hạng kinh doanh tôn giáo làm cho quay cuồng xã
hội như thế. Lạ là không thấy tôn giáo nào ở Việt Nam lên tiếng chính thức tẩy
chay. Các tôn giáo được cộng sản cho phép hoạt động thì ĂN XÔI CHÙA NÊN NGẬM
MIỆNG. Chín chi phái Cao Đài vì hưởng lộc cộng sản, LIÊN HIỆP với chính trị nên
cũng im lặng.
Đạo và Đời liên hiệp nhau làm cho
xã hội đảo điên rồi biểu sao đạo đức xã hội không xuống cấp. Một xã hội băng
hoại như thế nếu không dụng Nho Tông để khai hóa (giúp người đời hiểu được đúng
sai bằng nghị luận theo khuôn thước đạo đức chuẩn thằng) thì dùng cái chi? Dụng
khuôn thước đạo đức để dung hòa cá nhân với cá nhân; cá nhân và xã ước cùng đi
vào đạo lý nhau. Đó là chuyển thế.
Tóm lại trong biển trần khổ (hay
gặp khổ cảnh) phải nhờ ánh sáng của Đạo, lần chân trên đường đạo đức để an lạc.
2.4/- Câu 4: Cũng
như nương viết của chàng Hồ.
Đức Hộ Pháp xác định Hồ là Đổng Hồ
(không phải Hồ Chí Minh hay một Hồ nào khác).
Đổng Hồ là một nhân vật thời Đông
Châu. Bộ Đông Châu Liệt Quốc lưu hành là thành quả của nhiều người. Khởi đầu dĩ
nhiên là những câu chuyện truyền miệng. Ông Dư Thiệu Ngư biên soạn ra khoảng niên hiệu Gia
Tĩnh (triều
Minh) với tên Liệt quốc chí truyện. Thời Minh mạt Ông Phùng Mộng Long cải biên
thành bộ Tân liệt quốc chí. Đến thời Thanh ông Sái
Nguyên Phóng cải biên thành Đông Chu liệt quốc chí có 108 hồi như
đang lưu hành.
Đông Chu Liệt Quốc đề cập đến thời kỳ lịch sử rất
dài khoảng hơn 400 năm (thế kỷ III, IV, V, VI trước Công Nguyên) của Trung
Quốc, bắt đầu từ đời Tuyên vương nhà Chu cho đến khi Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa. Sử sách cũng gọi thời kỳ ấy là đời Đông
Chu, được chia làm hai giai đoạn là Xuân Thu và Chiến Quốc.
Trong bộ Đông Châu Liệt Quốc do Đỗ Mục dịch hồi 51 có
tên:
ÐỒNG HỒ CHÉP THẲNG ÁN ÐÀO VIÊN VUA SỞ
MỪNG CÔNG MỞ ÐẠI HỘI.
Tấn Linh Công hoang dâm vô đạo nên lập mưu giết tướng
quốc Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn bỏ trốn, trên đường đi gặp Triệu Xuyên hỏi chuyện
đầu đuôi. Nghe xong bảo Triệu Thuẫn rằng: Thúc phụ chớ sang nước khác vội, hãy
đợi trong mấy ngày tôi sẽ có tin báo.
Triệu Xuyên về dinh lập mưu và sắp xếp các việc
xong xuôi rồi tuyển hai trăm quân giáp sĩ vào Ðào Viên giết Tấn Linh Công.
Triệu Xuyên đi đón Triệu Thuẫn về. Các quan trong triều
đến đông đủ cả. Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh Công khóc
rất thảm thiết.... Tấn Linh công chưa có con trai. Triệu Thuẫn bàn với các quan
rồi mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón công tử Hắc Ðiến về nước (nhằm gở tội
giết Linh Công cho Triệu Xuyên). Công tử Hắc Ðiến nối ngôi xưng là Tấn Thành
Công.
Triệu Thuẫn vẫn lấy việc Ðào Viên làm áy náy, một hôm
sang chơi sử quán. Bảo quan Thái Sử là Ðổng Hồ trình xem chép việc Linh Công
chết ở Ðào Viên ra sao. Ðồng Hồ đem bản thảo trình lên. Triệu Thuẫn mở ra xem,
trông thấy chép rõ ràng: “Mùa thu, tháng bảy, năm Ất Sửu Triệu Thuẫn giết vua
là Di Cao ở Ðào Viên”.
Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ nói:
- Quan Thái Sử lầm rồi! Ta đã chạy ra Hà Ðông cách kinh
thành hơn trăm dặm, Ta có biết đâu đến việc giết vua, mà quan Thái Sử chép vậy
thật là oan cho Ta lắm!
Ðổng Hồ nói:
- Ngài làm quan Tướng Quốc, trốn đi chưa khỏi địa giới
nước nhà mà đã có việc giết vua, khi ngài về lại không trị tội quân giặc, như
thế mà bảo không phải ngài chủ mưu, còn ai tin được?
Triệu Thuẫn nói:
- Bây giờ có thể chữa lại được không?
Ðổng Hồ nói:
- Ðã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế, bởi
vậy đầu tôi có thể cắt được, chứ bản thảo này thì không thể chữa lại được.
Triệu Thuẫn thở dài than rằng:
- Thế mới biết cái quyền chép sử,
còn lớn hơn cái quyền làm Tướng Quốc! Tiếc thay, bấy giờ ta chưa ra khỏi địa
giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời, hối sao cho kịp!
* * *
Sử quí ở chổ có sao viết vậy không
cải sửa theo ý muốn người có quyền (nhưng sẳn sàng đính chánh và cải sửa khi
phát hiện ra lỗi do ghi nhận chưa đủ thông tin hay nhận định sai). Tô hồng hay
bôi đen trong tác phẩm sử thì sớm muộn gì cũng bị vạch trần. Trong thời đại
internet ngày nay tư liệu rất phong phú đâu dễ gì đổi trắng thay đen...
Đức Chí Tôn nói đúng, nói sai là
khuôn thước chuẩn thằng để người có tín ngưỡng căn cứ vào đó mà tu sửa đồng
thời đối chiếu xem những người làm trái thánh ý, trái với lời dạy của Ngài có
kết quả như thế nào. Các công thức, các thế Ngài dạy cho ĐĐTKPĐ xây dựng phẩm
hạnh cá nhân hay một thế giới mới đem đối chiếu với công thức đường lối của các
chánh trị gia từ Âu sang Á... xem đâu là con đường rộng mở khả thi và đâu là
con đường trói buộc và đi vào bế tắc.
Điều nầy tương đối khó nhận ra vì
bước đầu hai đường lối đồng dạng nhau ở chổ ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC mà chỉ khác nhau
ở bước thứ ba. Với Đức Chí Tôn là ĐẠI TỪ BI còn đời là ĐẠI ÁC.
Đại Từ Bi là Thầy bày con đường hay
lẽ phải ra đó, dạy dỗ cho con cái và môn đệ thực thi. Giáo hóa và nuôi dạy là
phần của Đại Từ Phụ còn nghe hay không tùy ý (Lành dữ hai đường vừa ý chọn).
Thầy treo bảng cấm đi vào con đường đau khổ, đọa lạc nhưng ai không nghe Thầy
không phạt. Để cho luân hồi vay trả, trau dồi đến mức tỉnh ngộ. Đạo không chặt
chân hạt cho ngắn, cũng không kéo chân vịt dài ra cho bằng nhau.
Đại ác là bắt buộc phải thực thi,
ai không tuân theo thì bị hành hạ, bị tù đày, bị giết chết bằng đủ loại cực
hình (có khi tru di tam tộc). Đại ác có chiếc giường của Procuste (Le lit de
Procuste), cứ đem người họ muốn hành hạ lên đó rồi kéo dãn ra hay chặt chân cho
bằng với chiếc giường.
* * *
Tín sử hay không tín sử tự thân nơi
tác phẩm thể hiện. Nếu Đổng Hồ sửa lại theo ý Triệu Thuẫn thì có xưng là tín sử
liệu có ai tin?
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171b Cống Quỳnh TPHCM
soạn bộ LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI Q1 được Nhà xuất bản Tôn Giáo in năm 2005. Ban soạn
sử tự phong là BAN TÍN SỬ và đứng trên lập trường THUẦN CHƠN VÔ NGÃ để soạn sách.
Nhưng xem trong nội dung thấy:
*/- Từ trang 348 đến 356 vị chi là
09 trang sách viết về Ngài Ngô Văn Chiêu (1878-1932) là người đệ tử đầu tiên
của Đức Cao Đài được dạy Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi. Ngài có
08 năm hành đạo. Một cuộc đời hành đạo rất êm đềm.
Một năm hành đạo của Ngài Chiêu
tính ra hơn 01 trang sách.
*/- Từ trang 361 đến 365 có 05
trang sách viết về Ngài Phạm Công Tắc (1890-1959) là một trong số 03 đệ tử đầu
tiên của Đức Cao Đài được dạy về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài có 35 năm hành
đạo. Trong đó có hơn 05 năm bị thực dân Pháp lưu đày sang tận Madagascar (Phi Châu). Ngài là
giáo chủ của Đạo Cao Đài hay Phật Giáo Chấn Hưng.
Bảy năm hành đạo của Ngài Tắc mới
được 01 trang sách.
Như vậy xưng BAN TÍN SỬ có đáng tin
không? Thuần chơn vô ngã là như vậy đó sao?
So sánh một chi tiết đó thôi đủ để
người biết quan sát nghi ngờ cách làm việc của BAN TÍN SỬ & THUẦN CHƠN VÔ
NGÃ.
* * *
"Về bắt Ấn Tý"
Tìm hiểu, nhận xét và phân tích
những lời dạy về bắt Ấn Tý chúng tôi nhận thấy có hai cách khác nhau. Cụ thể là
cách bắt Ấn Tý của Thầy và Đức Hộ Pháp giống nhau. Cách dạy bắt Ấn Tý của Hội
Thánh KHÁC VỚI cách dạy bắt Ấn Tý của Thầy và Đức Hộ Pháp.
Lưu ý là chúng tôi phân tích thấy
khác nhau thì nói khác chớ chẳng dám nói là Hội Thánh sai.
Đây là tiểu phẩm biên khảo
nên việc đầu tiên là trích nguyên văn. Kế đó là phân tích và đối chiếu.
Việc trích văn không nhứt thiết
phải theo thứ tự thời gian mà căn cứ vào nội dung ở vào diện (trên dưới hay
trong ngoài) để việc tìm hiểu được thuận lợi.
Sau đó
là phần nghị luận. Nếu được rõ ràng thì đi tới kết luận. Việc kết luận không
nhầm mục đích thuyết phục người đọc mà muốn hiệp tác với người đọc để đi đến
tận cùng sự thực. Nó có thế nào thì phải được hiểu như thế ấy chẳng cần cường
điệu hay xin được thông cảm.
* * *
Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển và Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có ghi lời dạy của Đức
Chí Tôn về Ấn Tý.
1.1/- Ngày
25-02-1926.
ĐỨC CHÍ
TÔN DẠY:
Khi
bái lễ, hai tay con chắp lại, song phải để tay trái ấn TÝ, tay mặt ngữa ra nằm
dưới, tay trái chụp lên trên.
TNHT Q1, tr 11, bản in 1973.
1.2/- Từ Đạo Sử:
Phò loan: Hộ Pháp-Thượng
Phẩm. Sài Gòn, Vendredi 25 Février
1926 (13-01-Bính Dần). (Tại nhà Ðức
Cao Thượng Phẩm, đường Bourdais số 134). Thầy dạy về ấn Tý:
Phải
chính mình con dâng các lễ ấy, khi bái lễ hai tay con chấp lại, song phải để
tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.
* * *
PHÂN TÍCH.
Theo chổ tìm hiểu của chúng tôi
thì trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển và Đạo Sử Đức Chí Tôn dạy về bắt ấn Tý có một
lần duy nhứt. Theo lời Thầy dạy có 04 thao tác.
Thứ nhứt: hai tay chấp lại (như
trước nay đã làm).
Thứ hai: tay trái ấn Tý.
Thứ ba: tay mặt ngữa ra nằm dưới.
Thứ tư: tay trái nằm ở
trên.
Thầy không dạy các ngón khác phải
làm như thế nào.
Lưu ý Thầy dạy: Tay trái ở trên
tay mặt dưới.
Nghĩa là thứ tự của
Thầy dạy là TRÊN & DƯỚI.
Thầy không có dạy (TAY MẶT ÁP
NGOÀI) như trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo hay Thông Tri 05 năm 1971 của Hội
Thánh.
Hội Thánh dạy theo thứ tự TRONG & NGOÀI.
Hẳn nhiên thứ tự (trên & dưới) KHÁC
VỚI (trong & ngoài).
2/- ĐỨC HỘ PHÁP DẠY CÁCH BẮT ẤN TÝ.
(1947).
Bần Đạo nhắc lại, người tín đồ Cao
Đài luôn luôn nằm lòng lời minh thệ, đó là nghĩa vụ mà cũng là quyền lợi của
mình. Phải ghi tâm mới giử được sự thương yêu bạn đồng môn; và chúng sanh là
con chung của Đức Chí Tôn để khỏi bị thất thệ mà mình đã hứa: “Hiệp
đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài...”. Cúng lạy phải tuân thủ tuyết đối
thực hành nghiêm chỉnh và hoàn chỉnh: “Đàn không nghiêm thì Thầy không
giáng”.
Chí Tôn đã dạy: Bắt ấn tý “khi
bái lễ hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn tý, tay mặt ngữa ra nằm
dưới, tay trái ấn tý chụp lên trên”
Nghĩa là đầu ngón cái tay trái điểm
vào gốc ngón áp út (cung Tý) nắm chặt lại để khủyu ngón tay trái ấn vào gốc
ngón tay giữa (cung Sửu) tay mặt ngữa ra đỡ bàn tay trái rồi nắm lại, ngón cái
của tay mặt điểm vào gốc ngón trỏ của tay trái (cung Dần) nắm chặt lại, tức
nhiên các ngón của tay mặt không che khuất gốc của ba ngón trỏ, giữa và áp út
của bàn tay trái (tức ba cung Tý, Sửu và Dần). Ấn tý là thể hiện Đức Chí Tôn
nắm trọn Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn. Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu,
Nhơn sanh ư Dần. Nhớ giữ ấn tý nơi ngực cho chặt, mắt ngó ngay Thiên
Nhãn ấy là phương pháp tịnh tâm. Thể pháp hoàn chỉnh mới mong tìm được bí pháp
đó vậy. Khi bắt ấn Tý tức điểm đủ Tam Tài. Xá và lạy cũng thực hiện Tam Tài đến
với bản thể của chúng ta ở thể pháp mà Kinh Phật Mẫu có câu:
“Lập Tam Tài định kiếp hòa căn,
Chuyển luân định phẩm cao thăng”
Vậy ấn tý tiêu biểu cho
Tam Kỳ Phổ Độ để chư môn đệ của Thầy sử dụng khi bái lễ Đức Chí
Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng. Nếu bắt ấn tý không đúng, để bàn tay
phải (âm) khi nắm lại trùm phủ ba cung Tý, Sửu, Dần tức bao trùm Tam Tài:
Thiên, Địa, Nhơn ở bàn tay trái (dương) là một điều sai lạc rất hệ trọng “Dương
thạnh tất sanh, Âm thạnh tất tử” sẽ có ảnh hưởng đến nghiệp đạo.
Chí Tôn đã dạy: “Nơi lòng
Thầy ngự hễ động Thầy hay” nên ấn Tý luôn ở nơi ngực, tuyệt đối không
được thả xệ xuống bụng mà thất lễ.
Bần Đạo nhắc lại lần nữa, khi xá và
lạy đều thể hiện kỉnh đủ Tam Tài Thiên Địa Nhơn. Đưa tay lên trán: Kỉnh
Thiên; xá thẳng hết tay, đầu hơi cúi: Kỉnh Địa; đưa về nơi
ngực: Kỉnh Nhơn.
Đức Chí Tôn đã dạy: “Thập Nhị Khai
Thiên là Thầy. Chúa cả càn khôn thế giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay,
số 12 là số riêng của Thầy”.
Bái lễ Đức Chí Tôn thì ba lạy, mổi
lạy bốn gật, mỗi gật phải niệm danh Thầy “Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma
Ha Tát”.
Còn làm lễ Đức Phật Mẫu cũng ba
lạy, mỗi lạy ba gật, mỗi gật niệm “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn”.
* * *
PHÂN TÍCH.
Việc đầu tiên cần xác định là văn bản trên đây
có phải là của Đức Hộ Pháp hay không?
Chúng tôi có được văn bản nầy chung với một số
văn bản khác từ một vị Lễ Sĩ. Nhưng nhiều người nêu nghi vấn và cho rằng đây là
văn bản giả danh Đức Hộ Pháp vì không thấy ghi là dạy ở đâu... một số vị còn
dẫn chứng câu coi chừng Hộ Pháp giả của Tôn Sư dặn dò rồi kết luận đây là văn
bản không đáng tin cậy. Nếu Đức Hộ Pháp dạy như vậy cớ sao Hội Thánh không đem
thi hành???
Chúng tôi đem văn bản trình với nhiều vị chức
sắc còn theo chơn truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để thỉnh ý xem văn bản trên có
đáng tin hay không?
Tất cả các vị đều xác định rằng căn cứ vào nội
dung và cách hành văn thì văn bản trên là của Đức Hộ Pháp. Trưởng huynh
Thừa Sử Lê Quang Tấn khi còn sanh tiền cũng xác định đây là lời dạy của Đức Hộ
Pháp và đề nghị phải phổ biến sâu rộng văn bản nầy.
Song điều quan trọng nhất là lời dạy trong văn
bản trên đây phù hợp với lời dạy của Đức Chí Tôn nên chúng tôi tin chắc rằng
văn bản trên là của Đức Hộ Pháp. Nghĩa là căn cứ vào nội dung nên chúng tôi tin
rằng đây là lời dạy của Đức Hộ Pháp. Do vậy chúng tôi xin phép phân tích.
Lời dạy trên đây đúng với bốn thao tác căn bản
của Đức Chí Tôn và chỉ dẫn tường tận hơn.
Thứ nhứt: đầu ngón tay cái (của bàn tay trái)
bấm vào cung Tý, khuỷu ngón cái ấn vào cung Sửu.
Thứ nhì: ngón cái của tay mặt điểm vào gốc ngón
trỏ của tay trái (cung Dần) nắm chặt lại
Thứ ba: các ngón của tay mặt không che khuất
gốc của ba ngón trỏ, giữa và áp út của bàn tay trái (tức ba cung Tý, Sửu và
Dần).
Cách bắt ấn Tý của Đức Hộ Pháp dạy cũng theo
thứ tự TRÊN & DƯỚI. Bên trên là 03 ngón trỏ, giữa và áp úp phải lộ ra không
bị che khuất. Bên dưới là 04 ngón trỏ, giữa, áp út và ngón út của bàn tay mặt.
Bảy ngón tay chia ra 03 ngón ở trên và 04 ngón
ở dưới cho ta hình ảnh của Thất Đầu Xà 03 đầu Hỉ, Lạc, Ái ở trên bên dưới là
Nộ, Ái, Ố, Dục. Còn nói về dịch lý (3/4) ứng với quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp.
* * *
Lời dạy trên đây cũng chỉ ra sự tai hại nếu bắt
Ấn Tý sai:
Nếu bắt ấn tý không đúng, để bàn tay phải (âm)
khi nắm lại trùm phủ ba cung Tý, Sửu, Dần tức bao trùm Tam Tài: Thiên, Địa,
Nhơn ở bàn tay trái (dương) là một điều sai lạc rất hệ trọng “Dương thạnh tất
sanh, Âm thạnh tất tử” sẽ có ảnh hưởng đến nghiệp đạo.
* * *
Tóm lại: Văn bản của Đức Hộ Pháp chỉ ra cách
bắt Ấn Tý đúng và chỉ ra cái tai hại của bắt Ấn Tý sai.
ẢNH MINH HỌA.
Bắt Ấn Tý như vầy thể hiện thứ
tự trên & dưới và không che khuất gốc 03 ngón trỏ, giữa và áp út. Điều quan
trọng là tay trái ở trên và tay mặt ở dưới (theo lời Thầy dạy).
03 ngón trên và 04 ngón dưới
cho phép ta liên tưởng đến Thất Đầu Xà...
Bắt
ấn Tý như vầy cũng không che khuất GỐC của 03 ngón trỏ giữa và áp út (Tý Sửu
Dần) nhưng không thể hiện thứ tự trên & dưới (tay mặt không ngữa ra và tay
trái không nằm trên) mà thể hiện thứ tự trong & ngoài.
Thực tế rất khó bắt ấn tý theo
thứ tự trong & ngoài mà phủ luôn gốc 03 ngón trỏ, giữa và áp úp được.
LƯU Ý: chữ ĐÚNG & SAI là nơi văn
bản của Đức Hộ Pháp chúng tôi không dám cải sửa. Phần chúng tôi đã thưa
trước là nói khác nhau mà thôi (nhắc lại để khỏi phải tranh cãi hay chỉ trích
nhau rất vô bổ).
VÌ SAO LỜI DẠY NẦY CÓ RẤT ÍT
NGƯỜI BIẾT?
Tìm hiểu cuộc đời hành đạo của
Đức Hộ Pháp khi còn mang xác phàm chúng ta thấy có 02 trường hợp:
./- Thấy sai Ngài chỉnh đốn ngay.
./- Thấy sai và cho biết cái sai
mà không chỉnh đốn ngay lại dạy:
. Để đó ngày sau toàn đạo sẽ
tính:
...Câu chú mà khi thượng sớ,
chúng ta thường nghe đọc "TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN". Thật sự
thì như vầy "TAM THIÊN THẾ GIÁI HỘ PHÁP GIÁNG LÂM". Từ trước đến giờ,
các bậc tiền bối của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được,
phải để y như vậy....
(LTĐ Ðền Thánh, đêm
14-02- Mậu Tý - dl. 24-03-1948).
* * *
Theo đây thì có sai nhưng Ngài
không sửa, dạy cứ để y vậy nhưng nếu để y vậy thì người đời phê bình rằng TU LÀ
SỬA mà quí vị thấy sai tại sao không sửa...? thì mới trả lời sao?
. Trường
hợp chờ có tướng lễ ra đời sẽ chỉnh đốn.
Như trường hợp lạy Phật Mẫu khi
dâng Tam Bữu. Đức Hộ Pháp lạy tổng cộng cho 03 bữu là 09 lạy (mổi lần cúi lạy
03 gật).
Bà Nữ Chánh Phối Sư lạy tổng cộng
cho 03 bữu là 27 lạy (mổi bữu cúi lạy 03 lần, mổi lần 03 gật).
Khi có người thỉnh giáo Ngài trả
lời:...cứ làm theo cách 27 lạy chờ sau nầy tướng lễ ra đời sẽ định....
(Chúng tôi hiểu tướng lễ là các
văn bản chính thức của Hội Thánh ra đời chớ không phải là một người nào mang
xác phàm gánh trách nhiệm làm Tướng Lễ. Bởi vì hành chánh tôn giáo có vị Tiếp
Lễ Nhạc Quân nhưng vị đó chưa phải là tướng lễ.
Quyển QUAN HÔN TANG LỄ của Hội
Thánh ban hành (1976) mới là tướng lễ của Đạo.
Hội Thánh nhìn nhận quyển QUAN
HÔN TANG LỄ còn thiếu sót... nên nhân sự tôn giáo thỉnh giáo một số vấn đề Ngài
Ngọc Đầu Sư và Hồ Bảo Đạo có bút phê rằng chờ khi chỉnh đốn quyển QUAN HÔN TANG
LỄ sẽ giải quyết...(lời thỉnh giáo về việc bắt Ấn Tý khi cầu siêu như thế nào
của Q Tiếp Lễ Nhạc Quân là một bằng chứng).
. Khuyên nhơn sanh tìm hiểu để
hành xữ đúng mức quyền của mình. Diễn văn ngày 15-8-Quí Dậu (04-10-1933).
Bần
đạo xin tỏ rằng : Duy bậc phẩm hèn của Đạo mới dày công nghiệp với Chí Tôn, còn
có công nghiệp thì có đủ quyền hành, có quyền hành thì có tự do ngôn luận. Cũng
vì chư Đạo hữu trong Hội Nhơn Sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức Sắc Thiên
Phong lộng phép. (Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi kiếm
hiểu).
Tóm lại cách dạy của Ngài làm cho
Tín đồ không đặng ỷ lại rằng: Các việc đúng sai đã có Hộ Pháp hay Hội Thánh lo
hết rồi, mình không phải lo đến hay thắc mắc chi...ĐHP vẫn để khoản trống cho
con cái Chí Tôn tìm hiểu và thể hiện khi thực thi tam lập.
Đức Chí Tôn không hề bồng ẩm con
cái vào bất cứ một địa vị nào mà để cho nhân loại tự lập thân danh với đời với
đạo thì Đức Hộ Pháp cũng đi trong khuôn viên ấy. Ngài chỉ đường dẫn lối cho Tín
đồ lập vị mình nhưng Ngài không thể làm thay. Đó là pháp công bình.
* * *
3/- Kinh Tứ Thời Nhựt Tụng dạy
về Ấn Tý (trang 49 & 50).
... Nay
Đấng Chí Tôn giáng cơ tiếp điển mở Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh
là kỳ kiết quả độ đủ 92 ức nguyên nhân về nơi nguyên thỉ. Có câu sách Thiên Địa
tuần hườn châu nhi phục thỉ, tam giáo qui nguyên, chấp tay hoa sen đã thành
trái quả bên tay trái thuộc dương, ngón cái là mẫu chỉ, ngón trỏ là thực chỉ,
ngón giữa là trung chỉ, ngón út là tiểu chỉ còn một ngón không tên là vô danh
chỉ. Sách có câu vô danh thiên địa chi thỉ là trước khi Trời Đất chưa khai thì
một khí không không sau định hội Tý mới mở trời nên chữ Tý ở tại gốc ngón tay
vô danh. Khi mở Trời rồi mới có hữu danh vạn vật chi mẫu, muôn vật có hình chất
đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh. Nay đến hội Tam Kỳ kiết quả, độ hết cả quần linh
về cõi Niết Bàn, chẳng để một điểm chơn linh ở miền Đông Độ. Nên ngón tay cái
là mẫu chỉ vào chữ Tý, còn tay hữu ngón cái chỉ vào chữ Dần. Tay tả bốn ngón
đều bao ngoài. Tay tả là nhơn vật quần linh tận qui nguyên vị. Tay tả là dương
mà có ngón tay hữu âm chỉ vào, còn tay hữu âm mà có tay tả dương ở trong. Vậy
nên kinh Diệc nói: Âm nội hữu chơn dương, dương nội hữu chơn âm, âm dương lưỡng
cá tự, năng hữu kỳ nhơn tri. Như cách dạy nầy là thời kỳ dạy đạo. Còn người
luyện đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai
bàn tay ngữa mới cuối đầu. cách lạy mầu nhiệm nghĩa lý sâu xa chưa đến kỳ Tịnh
Thất nên chưa dám giải diệu mầu e lậu thiên cơ chẳng dễ.
* * *
PHÂN TÍCH.
Cách dạy bắt ấn Tý trên đây gồm
các thao tác:
Thứ nhứt: chấp tay hoa sen
Thứ nhì: ngón tay cái (tay trái) chỉ cung Tý.
Thứ ba: bàn tay trái nắm lại (04 ngón bao
ngoài).
Thứ tư: ngón tay cái (tay phải) chỉ ngay cung
Dần.
Theo lời dạy trên đây chưa thể hiện rõ vị trí
bàn tay trái và bàn tay phải theo thứ tự trên & dưới hay trong & ngoài.
Nhưng các trích dẫn từ Kinh dịch: Âm nội hữu chơn dương, dương nội hữu chơn
âm... cho phép ta nghĩ rằng thiên về thứ tự trong & ngoài.
Ngày nay Kinh Tứ Thời Nhật Tụng đã được thay
thế bằng Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Nên phần Ấn Tý cũng chỉ mang tính tham
khảo. Đối chiếu chúng ta thấy phần dạy quì trong Kinh Tứ Thời Nhật Tụng lại bị
bỏ sót không đưa vào Kinh Thiên Đạo & Thế Đạo. Thiết tưởng ngày sau cần bổ
túc phần dạy cách quì.
* * *
Chấp hai tay lại như dưới đây:
Để hai tay như vậy mà đưa lên trán,
xá sâu ba xá rồi quì xuống đưa hai tay lên trán như trước mà niệm ''Nam-mô
Phật''; đưa qua bên trái niệm ''Nam-mô Pháp''; đưa qua bên mặt niệm
''Nam-mô Tăng'', rồi để ngay ngực mà niệm:
.... Khi lạy thì 2 bàn tay trải ra
và hai ngón cái phải gác tréo nhau.
* * *
PHÂN TÍCH.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo in lần đầu năm 1936.
Chúng tôi không có đầy đủ bản in các năm để đối
chiếu lời dạy về Ấn Tý. Nhưng các bản kinh in năm 1968, 1974 và 1975 lời dạy về
Ấn Tý đều giống nhau.
Theo lời dạy trong kinh thì bàn tay trái và bàn
tay phải theo thứ tự trong & ngoài (bàn tay mặt áp ngoài).
Các thao tác như sau:
Thứ nhất: ngón cái bàn tay trái chỉ ngay cung
Tý rồi nắm lại.
Thứ hai: bàn tay mặt áp ngoài.
Thứ ba: ngón cái bàn tay phải xỏ ngay cung Dần
(xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái).
Thứ tư: khi lạy thì 2 bàn tay trải ra và hai
ngón cái phải gác tréo nhau.
* * *
Về khoản 02 ngón tay gác chéo nhau ông Lễ Sanh
Thái Quý Thanh cho biết trong khi ông học Hạnh Đường có người thỉnh giáo Ngài
Bảo Đạo: tay tả là dương, tay hữu là âm. Gác 02 ngón tay như vậy là để âm lên
trên dương, như vậy có phải là âm thạnh dương suy hay không?. Ngài khen câu hỏi
rất hay nhưng không trả lời.
Theo thiển nghĩ khi lạy thì 2 bàn tay trải ra
và hai ngón cái phải gác tréo nhau theo thứ tự trên dưới: ngón cái tay phải
(âm) trên ngón cái tay trái (dương) như vậy tượng cho quẻ Địa Thiên Thái.
Theo dịch lý quẻ Thái có 03 hào âm ở trên và 03
hào dương ở dưới; khí âm nặng vốn ở dưới thông thương nhau được nên lên trên và
khí dương vốn nhẹ nên ở trên thông thương nhau được nên xuống dưới. Sự thông
thương như vậy tạo nên sự chuyển hóa lẫn nhau nên dịch lý cho đó là tốt (THÁI).
Cũng như trong một tổ chức mà trên (thượng tầng) và dưới (hạ tầng) có sự
trao đổi mới thông hiểu nhau được. Còn như khí dương ở trên không xuống dưới
được và khí âm không lên trên được thì là BĨ. Vì trên dưới không thông nhau là
bế tắc.
5/- Các văn bản khác của Hội Thánh.
5.1/- Thông Tri số 05 của Văn Phòng
Ngọc Chánh Phối Sư ngày 06-02-Tân Hợi (02-03-1971 ).
...Phần bắt Ấn Tý cúng Thầy phải
giử đúng theo lời dạy của Đức Chí Tôn và Hội Thánh. Nghĩa là ngón tay cái trái
bấm vào ấn Tý rồi nắm lại, tay mặt áp ngoài, ngón cái tay mặt bấm vào ấn Dần
chớ không được gác ngan, qua ngón trỏ bàn tay trái, hoặc thọc sâu bên trong
lòng bàn tay trái, là trái pháp. Bởi Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh
ư Dần đó là “bí pháp” của Đức Chí Tôn vậy.
(cuối văn bản còn có hình vẽ minh
họa cách bắt Ấn Tý theo thứ tự trong ngoài rất rõ ràng).
* * *
PHÂN TÍCH
Hội Thánh dạy: ...Nghĩa là ngón tay cái
trái bấm vào ấn Tý rồi nắm lại, tay mặt áp ngoài, ngón cái tay mặt bấm vào ấn
Dần chớ không được gác ngan, qua ngón trỏ bàn tay trái, hoặc thọc sâu bên trong
lòng bàn tay trái, là trái pháp.
Nghĩa là tay trái ở TRONG tay phải BAO NGOÀI. Hội
Thánh dạy theo thứ tự trong & ngoài.
Cho dù Hội Thánh viết rằng đúng với lời dạy của
Đức Chí Tôn, song phân tích chúng ta thấy TRONG & NGOÀI chắc chắn là khác
với TRÊN & DƯỚI.
Nói cách cụ thể thì:
Nóc nhà và nền nhà thể hiện cho trên và dưới.
Căn nhà và tường rào thể hiện cho trong và
ngoài.
(Chúng tôi nhấn mạnh rằng KHÁC chớ chẳng dám
nói là sai, xin các vị bảo thủ chơn truyền vui lòng đối chiếu lời dạy của Hội
Thánh với lời dạy của Đức Chí Tôn đừng vội cho là nghịch mạng với Hội Thánh để
phủ nhận đề tài.
Nói rõ như thế vì trên thực tế chúng tôi đã
từng gặp nhiều vị phán rằng Hội Thánh dạy vậy... nay có ý kiến khác thì các vị
giỏi hơn Hội Thánh rồi hay là các vị muốn làm Hội Thánh.
ĐĐTKPĐ đang đứng trước vô vàn khó khăn, có được
những đồng đạo hiệp đồng nhau bảo thủ chơn truyền là rất đáng trân trọng do vậy
chúng tôi không muốn tự chúng ta làm suy yếu hay mất một bằng hữu nào nên trình
bày mọi lẽ để hiểu đúng lời Thầy dạy mà thôi)
5.2/- Bắt Ấn Tý khi cầu
siêu.
Năm 1980 Vị Q Tiếp Lễ Nhạc Quân có
thỉnh giáo về cách bắt Ấn Tý như thế nào về cầu siêu...
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.
(Ngũ Thập Ngũ Niên).
Tòa Thánh Tây Ninh.
Nguyên văn như sau:
HĐCQ.
VP. TLNQ.
SỐ:87/TLNQ.
THỈNH GIÁO.
Q. Tiếp Lễ Nhạc Quân
Hội Viên HĐCQ phụ trách nghi lễ.
Kính dâng Hội Đồng Chưởng Quản.
Theo thông lệ mổi khi có cầu siêu
nơi Đền Thánh thì toàn thể Chức Sắc và Đạo Hữu đều bắt Ấn Tý.
Riêng tại Báo Ân Từ và Khách Đình
toàn thể đều khoanh tay đọc kinh. Đến khi dứt kinh niệm câu chú của Thầy cả
thảy mới bắt Ấn Tý.
Hai trường hợp trên có được đúng
hết hay không?
Do đó nên Tôi kính dâng Hội Đồng
Chưởng Quản hoan hỉ chỉ giáo để có sự thống nhất theo chơn truyền của Đạo.
Lễ phép kính dâng.
Nay kính.
Ngày 18-12-Kỷ Mùi. (04-02-1980 ).
Q Tiếp Lễ Nhạc Quân.
Nhạc Sư Võ Thành Tươi.
(Ấn Ký).
Đồng ý với Hiền Huynh Ngọc Đầu Sư Cửu Trùng
Đài.
Sự việc nầy là một thủ tục từ khi Tôi mới về
Đạo đến nay. Vậy chờ khi bổ túc quyển Tang Lễ hoặc khi có cơ bút thỉnh giáo sẽ
quyết định sau.
Ngày 22-12-Kỷ Mùi.
(09-02-1980 ).
Bảo Đạo. Q CQ HTĐ.
(Ấn Ký).
Kính chuyển đến Hiền Huynh Bảo Đạo Q Chưởng
Quản HTĐ xin có ý kiến.
HĐCQ hôm phiên họp ngày 18-12-Kỷ Mùi có ý
kiến: Tạm thời đình lại chờ khi điều chỉnh và bổ túc thêm quyển Tang Lễ thống
nhất sẽ quyết định. Hiện tại cứ giử theo tình trạng củ.
Ngày 19-12-Kỷ Mùi.
(05-02-1980 ).
Ngọc Đầu Sư.
(Ấn Ký).
* * *
PHÂN TÍCH.
Có nhiều người nói rằng Hội Đồng Chưởng Quản là
một chi phái...sao lại đem vào đây?
Xin thưa rằng: Năm 1980 Hội Đồng
Chưởng Quản còn trong mạng lịnh Hội Thánh ĐĐTKPĐ. Đến năm 1997 HĐCQ mới ra khỏi
mạng lịnh Hội Thánh thành một Chi Phái...với danh hiệu 10 chữ.
Diễn tiến cụ thể như sau:
Ngày 04-02- Kỷ Mùi (01-03-1979 ) Hội Thánh ký Đạo Lịnh 01.
ÐIỀU THỨ HAI:
Tất cả chức sắc Hiệp Thiên, Cửu
Trùng Nam, Nữ từ phẩm Giáo Hữu và các phẩm tương đương
trở lên, hợp thành một Hội Thánh duy nhứt là: HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
gồm:
- Hiệp Thiên Đài nhiệm vụ bảo vệ Giáo pháp Chơn
truyền của Ðạo.
- Cửu Trùng Đài nhiệm vụ Giáo hóa và Phổ độ nhơn
sanh trên đường Ðạo và đường Ðời.
Hội Thánh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ Ðộ lập một
Cơ quan hành Ðạo duy nhứt tại Tòa Thánh là: Hội Đồng Chưởng Quản của
HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ gồm có.
Một Chưởng Quản.
Một Phó Chưởng Quản
Một Từ Hàn
Một Phó Từ Hàn
Tám Hội Viên.
* Hội Đồng Chưởng Quản của HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
thay mặt cho Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng với chức năng và nhiệm
vụ sau đây:
a)- Là Cơ quan Thường trực của Hội Thánh, chịu trách nhiệm trước Hội Thánh và
Toàn Ðạo, quản lý nền Ðạo về mặt tín ngưỡng từ Trung ương Tòa Thánh đến các
Thánh Thất và Ðiện Thờ ở địa phương; chăm lo sự nghiệp tu hành cho Chức sắc và
toàn Ðạo, xây dựng Thánh Thể hữu hình của Ðức Chí Tôn đời này qua đời khác.
b)- Hội Đồng Chưởng Quản hành Ðạo theo nguyên
tắc Dân chủ tập trung, cá nhân phụ trách, chấp hành nghiêm chỉnh và đứng đắn
Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Giáo pháp Chơn truyền của Ðạo và các biểu quyết
của Hội Thánh về mặt Ðạo, lập các Ðạo Lịnh, Thông Tri, Huấn Lịnh, chỉ đạo chư
Chức sắc Nam Nữ làm nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ nhơn sanh trên đường
Ðạo và đường Ðời.
* * *
Đạo lịnh 01 xóa hành chánh 05 cấp (Trung Ương,
Trấn, Châu, Tộc và Hương Đạo) LẬP RA hành chánh 02 cấp (Trung Ương và địa
phương). Cho dù không tán thành chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng Đạo Lịnh 01
có đầy đủ mạng lịnh Hội Thánh trong đó (11 con dấu và chữ ký “trong đó có Ấn Ký
vị Thời Quân Bảo Đạo Q Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài).
Nhiều vị không ưng lý luận rằng Hội Thánh không
có đủ quyền ký Đạo Lịnh 01. Nhưng Pháp Chánh Truyền chú giải phần HTĐ có qui
định về quyền năng dây sắc lịnh:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Thầy khuyên các con
lấy tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền
thì ắt có trọng phạt".
CHÚ GIẢI: Vì lời khuyên của Thầy mà Đức Lý Giáo
Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy
dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Đài thật trọng
quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Đồ và cả Chức Sắc Thiên
Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh
nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chìu theo, chỉ để cho Hội
Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của
Hiệp Thiên Đài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh
* * *
Những phẩm nào có dây sắc lịnh?
Có 15 phẩm có dây sắc lịnh. Đó là 03 vị Chưởng
Quản 03 chi: Đạo, Pháp, Thế (Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh) và 12 vị thời
quân của 03 chi.
Ngài Bảo Đạo được ban dây sắc lịnh. Do vậy
trong hành chánh tôn giáo Ngài có đầy đủ quyền ký Đạo Lịnh 01.
Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh làm áp lực buộc
Hội Thánh thành lập Hội Đồng Chưởng Quản. Họ viết trong bản thảo: Hội
Đồng Chưởng Quản Hội Thánh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.
Cách viết lập lờ nầy tạo thế cho HĐCQ đứng trên
Hội Thánh.
Ngài Ngọc Đầu Sư xem xong viết thêm chữ CỦA:
Hội Đồng Chưởng Quản CỦA Hội Thánh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.
Hội Thánh rõ ràng là đứng trên HĐCQ.
HĐCQ do Ngài Bảo Đạo Chưởng Quản thì đạo sự vẫn
trôi chảy, chơn truyền vẫn được bảo thủ. Chánh sách phá hoại tôn giáo của chánh
quyền bị thất bại... nên sau đó họ tìm cách phế truất Ngài Hồ Bảo Đạo xuống
hàng Đạo Hữu và quản chế Ngài tại tư gia. Năm 1986 khi sức khỏe Ngài kém chánh
quyền có tới tư gia Ngài nhiều lần vận động Ngài viết ĐƠN XIN PHỤC HỒI PHẨM BẢO
ĐẠO để làm đám tang theo nghi thức Thời Quân...
Ngài trả lời chánh phủ định sao là quyền của
chánh phủ...phần của Ngài không có xin gì với chánh phủ hết...câu trả lời rất
nhỏ nhoi mà đầy quyền thế, dường như yếu ớt mà thật ra rất mạnh mẽ... chánh phủ
hết phép.
Ngày 18-12-Bính Dần (17-01-1987) Ngài tạ
thế cả chánh quyền (Mặt Trận Tổ Quốc, Ban Tôn Giáo...) và Hội Đồng Quản Lý, Ban
Cai Quản Thánh Thất Đệ Tam (Phận Đạo Đệ Tam)... họp tại văn phòng xã Hiệp Tân,
bàn thảo rất lâu xem phải hành đám theo phẩm nào?
Cuối cùng chánh quyền mới ra lịnh làm theo phẩm
Đạo Hữu.
Khi tế điện cầu siêu người Đạo đến cúng tế rất
đông. Các mâm tế đem đến trước còn có chổ để, các mâm tế đem đến sau không có
đủ ghế nên phải để dưới đất. Chính quyền theo dõi thấy người đạo tôn kính Ngài
Bảo Đạo như vậy nên tức tối và lo sợ mới ra lịnh cho ông Lễ Sanh Thượng Tiếng
Thanh (Trưởng Ban Cai Quản Phận Đạo Đệ Tam) chịu trách nhiệm hành đám tang phải
rút ngắn chương trình tang lễ.
Ông Lễ Sanh trả lời rằng chính các ông ra
chương trình tang lễ và chúng tôi đã niêm yết công khai. Nay các ông muốn rút
ngắn chương trình thì cứ ra chương trình mới để chúng tôi niêm yết và thi hành.
Còn như ra lịnh miệng như thế khó làm việc lắm... chính quyền hội ý với nhau
rồi cuối cùng để y, không ra chương trình mới...
* * *
Nhiều văn bút viết rằng Đạo Lịnh 01 ngưng cơ
bút.
Vậy có đúng với sự thật hay không?
Văn Tịch Pháp Nhơn Luân Chi Đạo của Ngài Hồ Bảo
Đạo trang 87 có nội dung:
Ngày 01-10- Đinh Tỵ (11-11-1977) Hội Đồng Chánh
Phủ Việt Nam ra nghị quyết 297 về một số chánh sách đối với tôn giáo.
Qui định khoản 3 phần 6: Việc phong chức,
bổ nhiệm những người chuyên hoạt động tôn giáo (kể cả những người do tín đồ bầu
cử) phải được chánh quyền chấp thuận trước. Tuỳ theo phạm vi hoạt động Tôn giáo
của những người nầy trong một Xã, Huyện, Tỉnh hoặc Thành Phố mà Uỷ Ban
Nhân Dân Xã Huyện Tỉnh hoặc Thành Phố chấp thuận. Nếu phạm vi hoạt động tôn
giáo bao gồm nhiều Tỉnh thì phải do Thủ Tướng Chánh Phủ quyết định.
Chương II- Điều 10 có nội dung: những
cuộc họp của Tôn giáo mà thành phần nhân sự bao gồm nhiều Tỉnh thì phải xin
phép thủ tướng chánh phủ ….
* * *
Ngày 23-12- Đinh Tỵ (31-01-1978 ). Ngài Hồ Bảo Đạo và Ngọc Đầu Sư
(Ngọc Nhượn Thanh) trình trong phúc sự chung niên rằng:
Nghị quyết 297 là sợi xích thằng trói buộc Đạo
Cao Đài… nên Hội Thánh quyết định ngưng các cuộc cầu phong và cầu thăng để giử
giá trị thiêng liêng cao quí của phẩm tước Chức Sắc Thiên Phong không chịu đặt
Đạo Cao Đài do Thượng Đế thành lập dưới quyền của phàm tục.
Ngày 19-8- Mậu Ngọ (20-9- 1978) Mặt Trận Tổ
Quốc Tỉnh Tây Ninh ban hành “Bản án Hoạt Động Phản Cách Mạng Của Một Số
Tên Phản Động Trong Giới Cầm Đầu Giáo Phái Cao Đài Tây Ninh” và triễn
khai rộng rãi….
Ngày 23-12-1978 Báo Tây Ninh bộ mới số 47 có
đăng quyết nghị của Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh kỳ 6 khoá 1 nơi điều
thứ 3 và 4 như sau:
Ðiều 3: Giải tán và nghiêm cấm hoạt động hệ thống tổ
chức hành chánh đạo từ trên đến cơ sở, xoá bỏ và nghiêm cấm cơ bút.
Chánh quyền sẽ quản lý toàn bộ các cơ sở vật
chất mà Ðạo đang quản lý kinh doanh không thuộc chức năng tôn giáo để phục vụ
cho lợi ích xã hội.
Ðồng thời căn cứ vào tính chất tu hành, chánh
quyền sẽ qui định cụ thể số cơ sở để lại Ðạo quản lý và số người trong từng cơ
sở để chuyên lo về mặt tín ngưỡng.
Ðiều 4: Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh chịu trách nhiệm tổ chức chỉ đạo,
thực hiện thắng lợi Nghị quyết này, và báo cáo kết quả lên cấp trên, và Hội
Ðồng Nhân Dân Tỉnh trong kỳ họp tới.
Ngày 12-01 1979 Hội Thánh ra Thông tri số 01.
Ngày 01-3-1979 Hội Thánh ra Đạo Lịnh 01.
* * *
Qua các sử liệu trên chúng ta thấy Ngài Bảo Đạo
và Ngọc Đầu Sư CHỦ ĐỘNG xin với thiêng liêng ngưng cơ bút TRƯỚC KHI có Bản Án
Cao Đài. Mục đích ngưng cơ bút là: để giử giá trị thiêng liêng
cao quí của phẩm tước Chức Sắc Thiên Phong không chịu đặt Đạo Cao Đài do Thượng
Đế thành lập dưới quyền của phàm tục.
Thời gian và ý chí việc xin ngưng cơ bút rõ
ràng như thế mà văn bút của nhiều người cứ viết tràn lan rằng Đạo Lịnh 01
(1979) ngưng cơ bút. Thứ nữa họ lập luận rằng Đạo Cao Đài do cơ bút mà có...
nay ngưng cơ bút là xóa bỏ Đạo Cao Đài... và công khai xin với chính quyền cho
dùng cơ bút.
Việc cơ bút của Đạo sao lại phải xin với chánh
quyền? Chính Hội Thánh xin với thiêng liêng ngưng cơ bút chớ đâu có trình trước
với chánh quyền. Thẳng thắn mà nói nếu xin chánh quyền chưa chắc đã cho. Bởi vì
chánh quyền cộng sản từng lợi dụng cơ bút để giết đạo bằng cách lập ra chi
phái.
Tạp chí Cao Đài do các chi phái xuất bản đã
viết rất rõ rằng: Trong thời kỳ chiến tranh Đảng Cộng Sản Việt Nam đã dùng cơ bút để lập hết chi phái
nầy đến chi phái khác, hết tổ chức nầy đến tổ chức khác để chống phá chơn
truyền của Đạo. Đa số chi phái trước ngày 30-04-1975 đều do Đảng dùng cơ bút lập ra. Sau
ngày 30-4-1975 Đảng lập thêm chi phái mới năm 1997 mà không
có cơ bút. Họ phải lập ra chi phái mới trong thế yếu và bị động chính là do Hội
Thánh xin ngưng cơ bút. Lập chi phái 1997 không qua cơ bút là tử
huyệt đã lộ ra.
Sau ngày 30-4-1975 nếu Đảng khống chế đồng tử rồi dùng
đàn cơ ở Cung Đạo lập ra những nội dung trái với chánh giáo...phong chức cho
nhân sự họ cài vào tôn giáo... Người của họ cài vào có đủ tư cách của Hội Thánh
rồi ký lịnh phải thế nầy thế khác SAI VỚI CHƠN TRUYỀN thì người còn tin vào
chánh giáo làm sao đối phó? Hội Thánh ngưng cơ bút là đã mở thế
thượng phong cho chánh giáo.
Việc ngưng cơ bút chính là yếu tố quyết định để
bảo tồn chánh giáo của Đức Chí Tôn không qui phàm vậy. Cú đột phá sáng suốt và
mạnh mẽ của Hội Thánh đã làm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn biến hóa chi được. Tiếp
đó là cuộc đấu tranh của chức sắc, chức việc và nhơn sanh từ các nơi đòi thực
hiện điều 04 của Đạo Lịnh 01 (1979) để chấn chỉnh cơ Đạo. Đảng bí quá phải hiện
nguyên hình là quỉ vương nên họ đở đầu cho HĐCQ lập ra chi phái vào năm 1997.
Năm 1997 Hội Đồng Chưởng Quản tự thành lập một
chi phái mới với danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh.
Cho HĐCQ thành chi phái là để giết đạo nên mọi
việc của chi phái không có giá trị với cái gốc là ĐĐTKPĐ.
Báo Xa Lộ Pháp Luật số 36 ra ngày
17/8/2013 trang 16 cột bốn dòng
26 viết:
...Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh
được nhà nước công nhận là một trong chín chi phái Cao Đài hoạt động hợp pháp ở
Việt Nam .
Chứng cứ rành rành ra đó chối cải nổi gì.
5.3/- Khi nào thì bắt Ấn Tý?.
Khi còn bé Mẹ có dạy chúng tôi rằng
khi lạy ông bà các con không bắt Ấn Tý mà để hai ngón cái song song nhau. Mẹ
không biết chữ nhưng biết Đạo và tin Đạo nên dạy chúng tôi cúng lạy từ khi còn
thơ bé như vậy. Thời đó không có đèn điện, nhà đốt đèn bằng dầu hôi. Tối tối có
khi Mẹ lấy quần áo ra kết lại nút áo, hay vá chiếc quần mà chúng tôi làm rách.
Thời thơ ấu chúng tôi thường phải mặc quần áo đến khi rách mới được thay quần
áo mới. (Bây giờ ít ai mặc đồ đến rách mới thay...trong số ít đó lại có Tôi
trong đó, lắm khi con Tôi cười chúm chiếm hỏi sao đồ củ rồi ba không thay...Tôi
cũng cười nói còn xài được mà con, cái dĩ vãng mặc đồ cho tới rách và Mẹ ngồi
vá quần áo liền sống lại trong tôi rất ấm áp, rất ngọt ngào...). Có khi lớn
nhanh quá đồ chật mà còn tốt thì Mẹ giặt thật sạch rồi giao cho đứa em kế mặc
khính... Mẹ không biết câu Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn... nhưng chính
cuộc sống của Mẹ thể hiện đức tính tốt đẹp đó. Chúng tôi đem đồ sứt nút, đứt
dây lưng hay rách ra... nhìn tay Mẹ cầm cây kim sáng bóng thoăn thoắt dưới ánh
đèn và nghe Mẹ kể chuyện... khi bỏ quê hương chạy loạn về Tòa Thánh với hai bàn
tay trắng. Thánh Địa khi ấy còn nghèo chưa phát triễn muốn đi làm mướn (cấy,
gặt...) cũng không ai có việc gì để mướn. Mẹ đi mót lúa nhưng chủ ruộng bảo họ
chỉ có ít ruộng nên phải để họ mót mới đủ sống... Mẹ thất thiểu đi hái rau rừng
đào củ nần đem về rắm rồi tẻ nước nhiều lần cho bớt độc để ăn thay cơm. Sau đó
Đức Hộ Pháp phát động chương trình trồng mì, trồng lúa... Thánh Địa mới lần hồi
có công ăn việc làm, nạn đói lui dần...
Hội Thánh mở rộng trường lớp Đạo
Đức Học Đường... buộc phải cho trẻ em đi học nhờ vậy mà các con biết chữ...
những người ở xa thì Bàn Trị Sự vận động người biết chữ mở lớp dạy tại nhà (với
học phí rất nhẹ) để giúp cho trẻ em khỏi phải thất học.
Khi lớn lên quan sát xã hội, nhìn
lại thời thơ ấu và tìm hiểu ĐĐTKPĐ chúng tôi được các vị tiền bối chỉ ra rằng
Hội Thánh ĐĐTKPĐ đã ÂM THẦM làm cuộc CÁCH MẠNG XÃ HỘI BẰNG ĐẠO ĐỨC rất rõ ràng
cho cư dân Thánh Địa (để làm mẫu mực cho hậu tấn noi theo đó mà hành sự). Cuộc
CÁCH MẠNG XÃ HỘI BẰNG ĐẠO ĐỨC có 05 chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn,
kiến thiết và tôn giáo.
Gia cư: Cấp KHÔNG cho mổi gia đình
chạy về Thánh Địa một phần đất và buộc phải cất nhà ở nếu không sẽ bị thu hồi.
Những người tham lam xin nhiều phần đất cũng bị thu hồi.
Mưu sinh: Buộc phải làm ruộng hay
rẫy hoặc tiểu thủ công nghiệp để mưu sinh, cương quyết không để cho nạn đói kém
xãy ra.
Giáo Huấn: Điều nầy được thể hiện
trong Tân Luật (ban hành ngày 01-06-1927 ) phần Đạo Pháp chương
VI: VỀ GIÁO HUẤN. Điều 23, 24 và 25. Phần Thế Luật điều thứ 13.
Nhưng quan trọng là Hội Thánh bám
sát và đôn đốc thực hiện. mười năm sau (1937) Hội Thánh đã tính đến chuyện giao
việc giáo dục bậc Tiểu học và Trung học cho các địa phương để Hội Thánh rãnh
tay lo Đại Học Đường (vi bằng Hội Nhơn Sanh năm Đinh Sửu-1937).
Kiến thiết: dù còn nghèo và cư dân
còn thưa thớt nhưng Hội thánh đã có qui hoạch từ đầu về đường xá, chợ búa,
trường học.... đây là điều mà đến năm 2013 qua nhiều thời kỳ chánh phủ tại Việt
Nam không thể nào sánh kịp.
Tôn giáo: Nề nếp tôn giáo là mẫu
mực. Sự thờ phượng, cúng kiến, chay lạt, tương thân tương trợ, tinh thần phụng
sự vô vụ lợi...là thể pháp tôn giáo được thực hiện xuyên suốt nên biến thành
thể pháp xã hội.
Năm điểm trên chính là những điều
căn bản cho một xã hội hòa bình, tự do, dân chủ và nhân quyền. Hội Thánh đã
thực hiện CUỘC ĐẠI CÁCH MẠNG mà không thể công khai vì Đạo chưa đủ mạnh nên sẽ
bị thực dân Pháp tiêu diệt từ trong trứng nước. Đây là bài học mẫu mực cho
ĐĐTKPĐ áp dụng khi xây dựng đạo nghiệp ở bất cứ nơi nào trên bước đường phổ độ
chúng sanh. Đạo có nhiệm vụ giải quyết CÁI KHỔ của chúng sanh mà không có
chương trình trên lấy gì giải quyết?
Người đi năm châu bốn biển nếu chú
ý quan sát và tôn trọng sự thật phải nhìn nhận rằng:
./- Thánh Địa là nơi có nhiều người
ăn chay nhất thế giới. Người ăn chay đi trong vùng Thánh Địa sẽ gặp rất nhiều
quán ăn chay rất ngon và rất rẽ... và bảo đảm dinh dưỡng lẫn vệ sinh vì thường
thì người bán thức ăn chay cũng ăn chay.
./- Thánh Địa là nơi có rất nhiều
người có tinh thần làm công quả phụng sự xã hội. Đặc biệt tinh thần phụng sự về
tang tế sự thì không nơi nào trên thế giới nầy sánh được. Xã hội đang dần dần
nhận ra rằng ĐĐTKPĐ rất trân trọng con người khi sống và chết (nhân phẩm) nên
tang lễ của Đạo rất trang nghiêm, chu đáo, dùng toàn đồ chay lạt và tinh thần
công quả hoàn toàn. Bất cứ ai có Đạo hay không có Đạo khi lâm chung mà có lời
nhờ thì Đạo lập tức có mặt để giúp đở cho tang lễ từ A đến Z.
./- Kiến thiết của Thánh Địa về hạ
tầng giao thông tỷ lệ đường xá rất lớn đáp ứng cho đại đô thị. Kể cả trường hợp
đột xuất trong một thời gian ngắn mà lượng người về rất đông cũng bảo đảm lưu
thông không tiềm ẩn tai nạn dẫm đạp nhau đến chết... Quan sát lễ Hội Yến Diêu
Trì Cung hằng năm vào ngày rằm tháng tám hằng năm (số lượng người dự lễ rất
đông từ ngày 13...đặc biệt đêm 15 sáng 16 hầu như chen chân không lọt. Nhưng
đến sáng 16 hầu như nội ô Tòa Thánh vắng lặng) cho phép chúng ta tin chắc như
vậy.
Địa linh thì sinh nhân kiệt. Một
tinh thần đạo đức như thế hẳn phải có nơi kết tinh để làm bằng chứng với nhân
loại. Chúng tôi muốn đề cập đến chương trình PHƯỚC THIỆN của Bác Sĩ Nha Khoa
Bùi Quốc Thái.
Mang trong lòng một tinh thần phụng
sự như thế nên Châu Thành Thánh Địa sản sinh ra Bác Sĩ Bùi Quốc Thái và đội ngũ
cộng sự với những cơ sở trị bịnh miễn phí hoàn toàn. Người đến trị bịnh được
cấp thuốc miễn phí, đãi ăn miễn phí và nếu không có chổ ở thì Bác Sĩ Thái cung
cấp luôn nơi ở. Nghèo quá không có tiền xe khi về còn được cấp tiền xe. Một số
xe đò ở Việt Nam cũng hưởng ứng tinh thần Phước Thiện nên hành khách nói rằng
đi lên Tây Ninh hốt thuốc Bác Sĩ Thái thì nhà xe giảm tiền tùy người và tùy
xe... Song điều quan trọng là nó thể hiện rằng tinh thần Phước Thiện đã được xã
hội hưởng ứng.
Rất nhiều người đạo nghèo đi làm
mướn kiếm sống, thấy cây chi làm thuốc được mọc hoang thì nhổ hay chặc đem về
còn như có chủ thì xin đem về. Họ phơi khô rồi buổi tối bày vạc và cho vào
bao... hôm sau đi làm tiện đường thì chở theo rồi ghé ngang giao cho bác sĩ lo
cho bệnh nhân. Nhiều người dành dụm được ít tiền thì mua gạo, thức ăn...đem đến
phụ lo ăn cho người bệnh. Có những đoàn giàu lòng hảo tâm xa gần lo sẳn thức ăn
hẹn rằng ngày tháng đó họ sẽ đến nấu món gì, bao nhiêu phần... để cho bệnh nhân
và công quả dùng...dĩ nhiên là thức ăn chay. Nhiều người khỏi bệnh rồi cảm ơn
bằng cách tình nguyện ở lại làm công quả một thời gian.
Nhiều người ở xa nghe tiếng tự họ
tìm đến quan sát và tìm hiểu rồi lặng lẽ mua nhà và đất xây dựng nên cơ ngơi
hẳn hoi với những tiện nghi ăn ở, vệ sinh tối thiểu cho nhiều người sinh hoạt
được rồi mời bác sĩ đến xem và giao cho bác sĩ dùng để phục vụ cho bệnh nhân.
Đội ngũ chuyên môn hợp tác với Bác
sĩ Thái đều là người có bằng cấp chuyên môn hẳn hoi và dĩ nhiên là làm công
quả. Thành phần công quả căn bản đều phải thọ trường chay (với thành phần căn
bản nếu chưa có chuyên môn thì lo cho đi học chuyên môn...). Thành phần công
quả hợp tác khi có thời giờ thuận tiện thì tùy theo chuyên môn có sẳn, với diện
nầy không phân biệt tôn giáo hay chính kiến miễn có lòng phụng sự thì kết hợp
được.
Đó là tinh thần PHƯỚC THIỆN chân
chính của ĐĐTKPĐ.
Chánh quyền Việt Nam vẫn đố kỵ ĐĐTKPĐ nên đố
kỵ luôn công việc Phước Thiện nầy. Họ sách nhiễu dưới nhiều hình thức mà một
trong những chiêu thức thông thường nhất là kiểm tra tạm trú tạm vắng để đuổi
người bệnh ra khỏi cơ sở.
Chiếc phao cuối cùng của những
người nghèo khó và bệnh tật đã bị chánh quyền Việt Nam tước đoạt và dẹp bỏ...
để mặc người bệnh hoạn và nghèo khó tự bơi trong khốn khó và tuyệt vọng... Họ
đã bịnh và nghèo tiền đâu chạy chữa trong những cơ sở của chánh phủ?
Chính quyền đuổi người bệnh ra khỏi những cơ sở Phước Thiện của Bác Sĩ
Thái là hành động rất tàn nhẫn và vô nhân đạo.
Chi phái Hội Đồng Chưởng Quản thì
càng ghét chương trình Phước Thiện nầy hơn nữa nên ra lịnh cho nhân sự của họ
không được đến cơ sở của Bác Sĩ Thái xem bệnh hay hốt thuốc. Chúng tôi ghi nhận
điều có thật (do nhân sự của chi phái than thở ra mới biết) còn lý do vì sao
HDCQ cấm như vậy thì chúng tôi không biết.
Chính quyền lẫn chi phái ông Cựu
Dân Biểu Quốc Hội Nguyễn Thành Tám đều không ưa và muốn triệt tiêu chương trình
Phước Thiện nầy ngay từ đầu (hơn 20 năm về trước) nhưng nhân dân thì ưa mà ai
mạnh hơn nhân dân được? Do vậy mà qua bao sóng gió chương trình vẫn tồn tại và
ngày một phát triễn.
* * *
Chúng tôi quan sát thấy thời đó
(thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20) lạy ông bà đều làm như thế cả (bây giờ vẫn
còn nhiều cụ già để hai ngón tay cái song song nhau khi lạy ông bà).
Sau lớn lên đọc trong Quan Hôn Tang
Lễ thấy Hội Thánh dạy:
Lễ Bái Chí Tôn, Thần, Thánh, Tiên,
Phật và Vong Phàm
Người Đạo Cao Đài hễ khi lạy thì
tay chấp bắt ấn Tý. Lạy Thần, Thánh, Tiên, Phật hay vong phàm tay cũng đều bắt
ấn Tý.
Tôi nói với Mẹ điều đó. Mẹ bảo chắc
hồi đó còn mới Hội Thánh chưa dạy rõ như vậy con à. Vậy thì từ đây cứ bắt Ấn
Tý.
Ấn Tý Mẹ nói đây là Ấn Tý theo thứ
tự TRONG & NGOÀI của Hội Thánh dạy.
* * *
6/- KẾT
LUẬN.
Chúng tôi xin trả lời câu chất vấn:
Đức Chí Tôn và Đức Hộ Pháp dạy như vậy cớ sao Hội Thánh không đem thi hành???
Xin thưa rằng không riêng gì lời
dạy về Ấn Tý không được đem ra thi hành ĐÚNG mà có một vài điều RẤT QUAN TRỌNG
chính Hội Thánh đã quyết định cũng KHÔNG được thi hành.
Nói có sách, mách có chứng xin
trình ra sự việc sau:
Châu tri số 15 của Thượng Đầu Sư
Thượng Trung Nhựt ban hành ngày 30-02-Tân Mùi (18-08-1931 ) trong đó có nhắc lại chương Trình HIẾN PHÁP của
ĐĐTKPĐ do Đức Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ dạy Hội Thánh lập thành.
Nguyên văn trong Châu Tri 15 phần
chương trình Hiến Pháp:
Hồi năm Mậu Thìn, Ðức LÝ GIÁO TÔNG
giao cho Ông Phối Sư Thái Ca Thanh lập chương trình Hiến Pháp. Ngày 14-07 Mậu
Thìn (28 Aout 1928) khi Lễ Trung Ngươn có nhóm Hội Thánh, có lập vi bằng ký
tên. Tôi xin lục rút tờ Vi Bằng ấy ra sau đây cho Chư Hiền Hữu xem:
***
Tòa Thánh Tây Ninh, le 28 Aout 1928
VI BẰNG
Chiều ngày 14 tháng 7 Annam, năm
Mậu Thìn, y theo tờ mời nhóm của Hiệp Lý "Cửu Trùng Ðài", các Quản Lý
"Cửu Viện" tựu tại Tòa Thánh hồi 7 giờ tối với các Chức Sắc Thiên
Phong có mặt kể ra sau này:
Ông Phối Sư Thái Ca Thanh đọc
chương trình Hiến Pháp.
CHƯƠNG TRÌNH HIẾN PHÁP
CHƯƠNG THỨ V
Ðiều thứ 22: -Nghiêm cấm trong
Ðạo không ai đặng lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dùng THIÊN ÂN, THIÊN NHÃN
mà đề vào bìa Kinh sách, Bố cáo, vân vân... hay là in Thánh Tượng, Kinh sách
(bán hoặc phát không) nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy không có trình ban kiểm
duyệt xem xét trước và đóng con dấu kiểm duyệt.
Ðiều thứ 23: -Ai phạm nhằm hai
điều lệ trên đây thì các Kinh sách, Tượng ấy phải đem nạp cho Tổng Lý hủy bỏ.
Người có lỗi ấy sẽ giao về Bình Viện phân đoán, chiếu theo điều lệ thứ 9
(Chương III)
Thảng như người ngoại Ðạo mà phạm
nhằm điều lệ thứ 22 thì Quản Lý Nội Viện chạy tờ Châu Tri cho Chư Ðạo Hữu các
nơi biết, mà không dùng đến Kinh sách, Tượng in sái phép ấy.
Ðiều thứ 24: -Kể từ ngày ban
hành "Chương Trình Hiến Pháp" duy có một mình Hội Thánh "Cửu
Trùng Ðài" được quyền in Kinh sách, Tượng để hiệu "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ
Ðộ".
Lập tại Tòa Thánh, ngày Rằm tháng
bảy năm Mậu Thìn.
Ký tên:
Chưởng Pháp:
Trần Ðạo Quang
Ðầu Sư:
Thượng Trung Nhựt - Ngọc Lịch
Nguyệt
Chánh Phối Sư:
Ngọc Trang Thanh - Thượng Tương
Thanh - Thái Thơ Thanh
Phối Sư:
Thái Ca Thanh - Thái Bính Thanh
Giáo Sư:
Thượng Thành Thanh (Thượng Giảng
Thanh)
Thượng Vinh Thanh (Nguyễn Thế Vinh)
Thượng Lai Thanh (Ngọc Tựu Thanh)
Giáo Hữu:
Lê Châu Trì - Lê Văn Sanh - Ðỗ
Quang Ngự - Trần Quang Minh - Tuyết Tấn Thành
Lễ Sanh:
Nguyễn Văn Phùng.
Lục rút y bổn chánh lưu tại Tòa
Thánh.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
***
Châu tri nhắc rõ Hiến Pháp như thế
nhưng chúng ta quan sát thực tế xem việc NGHIÊM CẤM dùng đại tự ĐẠI ĐẠO TAM KỲ
PHỔ ĐỘ được bao nhiêu người Đạo thực thi??? Thậm chí một số người không chấp
hành lại quay ra chỉ trích người thi hành là muốn lập chi phái, công kích, mạ
lỵ người chấp hành mới thấy ghê hồn cho lưỡi không xương...
Cách dùng đại tự ĐĐTKPĐ trong tương
lai CÓ CẦN đem ra làm rõ để thực thi hay không? Theo chúng tôi là RẤT CẦN đem
ra bàn định ĐỂ THỰC HIỆN cho nghiêm minh. Đại tự ĐĐTKPĐ đã như vậy thì việc bắt
Ấn Tý như thế nào?
Theo chúng tôi thì vấn đề Ấn Tý
cũng phải đem ra phân tích và đi đến thống nhất là PHẢI LÀM THEO lời dạy của
Đức Chí Tôn là Ấn Tý phải thể hiện thứ tự trên & dưới.
Nền chánh giáo của Đức Chí Tôn có
thể pháp. Thiên thơ cũng là thể pháp. Nhờ thể pháp mà chánh giáo của Thầy được
bảo tồn. Nhờ văn tự của Thầy lưu lại mà chúng ta có đầy đủ cơ sở pháp lý để đối
chiếu xem lời Thầy dạy có được thi hành đúng hay không. Phải bảo tồn thể pháp
và thực thi đúng thể pháp trước khi tìm hiểu bí pháp.
(PHẢI
CHỜ NGÀY 03 HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH ĐỊNH QUYẾT VỀ TRẬN ĐỊA CHẤN CÓ TÊN ẤN TÝ...)
BẢN
CHỤP THÔNG TRI 05 DẠY VỀ ẤN TÝ.
TRANG 01.
TRANG 02. (BẢN CHỤP THÔNG TRI 05).
Đây là
phần chúng tôi kết hợp từ BÀI NÓI CHUYỆN đêm 14-02-Mậu Tý (24-03-1948) của Đức
Hộ Pháp (Lời Thuyết Đạo Q2) với một số ảnh trên trang web caodaibanchinhdao.org
Do đâu mà trang web có số ảnh nầy?
Gốc của số ảnh nầy từ tạp chí LEFI.
Điều chúng tôi thấy liên hệ với
phần bắt Ấn Tý trong phần nầy là ẤN HẠ NGƯƠN của Hộ Pháp về thứ tự tay tả và
tay hữu: ... tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để
dưới,...
Hạ ngươn ứng với Tam Kỳ Phổ Độ. Ấn
của Tam Kỳ Phổ Độ là Ấn Tý. Hộ Pháp nói rõ thứ tự của tay trái và tay mặt là
TRÊN & DƯỚI (phù hợp với lời Đức Chí Tôn dạy và bài dạy bắt Ấn Tý của Đức
Hộ Pháp năm 1947).
Trích nguyên văn và ảnh minh
họa.
ẤN THƯỢNG NGƯƠN.
Còn Ðại Ðàn lại còn rối cho Hộ Pháp
hơn nữa, là có ba ấn: Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn...
Kế dâng bông, bắt ấn Thượng Ngươn
dưới đạp Ngưu Ðẩu, tay đưa Gián Ma Xử lên hiệp với chữ Khí, đem khí ấy đưa ra
cả càn khôn thế giới. Ấn Thượng Ngươn làm chủ chữ Khí, đem khí ấy hiệp hết cả Ngươn
Khí đặng bao trùm vũ trụ.
* * *
ẤN TRUNG NGƯƠN.
Ðến Trung Ngươn bắt ấn Hiệp Chưởng biến hóa,
Gián Ma Xử để nằm ngang, đuôi bên Thế, cán bên Ðạo, ý nghĩa Ðạo cầm cán đặng
trị Ðời. Bắt ấn Hiệp Chưởng, cầm cả cơ pháp của vạn vật biến sanh đặng bảo tồn
không cho tương tranh, tự diệt nhau.
* * *
ẤN HẠ NGƯƠN.
* * *
NHẬN XÉT.
Nếu đúng thứ tự đàn cúng thì
ấn Hạ Ngươn bắt sau rốt.
Khi dâng bông bắt ấn Thượng
Ngươn.
(Thiễn nghĩ khi dâng rượu bắt
ấn Trung Ngươn và khi dâng trà bắt ấn Hạ Ngươn)
Nhìn quí vị chức sắc HTĐ đi
vào cho thấy đây mới là lúc nhập đàn cúng. Chưa phải khi đang cúng như hai ảnh
bắt ấn Thượng Ngươn và Trung Ngươn.
Bởi vì nhiếp ảnh gia không cố
ý chụp đủ 03 cách bắt ấn.
Nhưng từ tấm ảnh nầy so sánh
với nội dung về bắt ấn hạ ngươn chúng ta thấy không khác nhau về tư thế (hai
tay bắt ấn và cây Gián Ma Xử chúi xuống...).
Có lẽ khi bắt Hạ Ngươn cũng
như thế nầy chăng?
Tới Hạ Ngươn, tay tả
thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để Gián Ma Xử
chúi xuống, trụ thần đem cả càn khôn hiệp cả vạn vật. Bắt ba ấn phải trụ thần,
làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban sơ, buổi Chí Tôn mới giao cho Bần
Ðạo tại Từ Lâm Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì không quen, không phải mình
làm thầy phù, thầy pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng. Vì cớ nên mới
có quỉ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà
quỉ lộng? Ấy là Thiên Cơ khiến vậy. Chí Tôn mở Tam Thập Lục Ðộng coi có phá nổi
Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh Giáo không? Ðể cho chúng sanh
thí nghiệm mà thay quyền năng vô tận của Ngài. Buổi nọ vì thời gian ngắn ngủi,
nên công việc chưa rành rẽ, vì không đủ thì giờ để chuyên luyện, hoặc cho là
chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ lược. Ðó là Thánh ý của Ðức Chí Tôn muốn
như vậy.
* * *
LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ VƯƠNG AN THẠCH.
“Họ Lý kết thúc sự nghiệp tể tướng họ Vương”.
* * *
Lý Thường Kiệt (1019–1105) là một danh tướng đời nhà Lý có công đánh bại quân nhà
Tống vào năm 1075-1077. Họ Lý của ông là do vua ban cho. Lý Thường Kiệt sinh 1019
lớn hơn họ Vương 02 tuổi.
Chiến
công phá Tống của anh hùng Lý thường Kiệt gắn liền với thời kỳ Vương An Thạch
làm tể tướng. Ông đã góp phần kết thúc sự nghiệp tể tướng họ Vương. Sử Trung Quốc chép tên
ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát. Tướng
thời Lý Thái Tông và Thánh Tông.
Chiến tranh với
Tống: Tiên phát chế nhân
Năm 1075, Vương
An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua
Tống là Đại
Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót
lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi,
và Lưu Di làm tri Quế Châu đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu
huyện không được mua bán với Đại Việt (chuẩn bị tiến chiếm Đại
Việt). Vua Lý biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh.
Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tôn Đản, Thân Cảnh
Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An chỉ huy, tổng chỉ huy là Tôn Đản. Bộ
binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu
rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc
Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các
trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo. Quân ta thắng như chẻ tre.
Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi
đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng
Ninh)
đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm.. cùng Tôn Đản vây châu Ung.
Ngày 30-12-1075, quân Nam tiến chiếm
thành Khâm
Châu,
bắt toàn bộ quan quân mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau,
2-1-1076 Liêm
Châu cũng thất thủ.
Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất
hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Ti kinh lược Quảng Nam tây
lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ
dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc
đường từ Kinh đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, ti ấy cũng xin
dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung Châu.
Triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức
Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế
Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây.
Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm
chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ
bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng
phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc,
chiếm lấy Bạch Châu, để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày
18-1-1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng
với 2.800 quân cương quyết cố thủ.
Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân
đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng
Tây)
phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Tri Ung Châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt
đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như
nhựa thông vào thành, trong thành không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Nam
bắt dân Tống chồng bao đất cao lên để đánh thành. Ngày thứ
42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu. Người trong thành không chịu
hàng, nên bị giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm,
Liêm thì đến hơn 100.000.
Lý Thường Kiệt đánh xong thành Ung, lại lấy đá lấp
sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân
Châu, nghe thấy quân Nam kéo gần đến thành, liền bỏ thành chạy trốn.
Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.
Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái (Thanh - Nghệ).
* * *
Phòng thủ sông Như Nguyệt
Do tiền đồn ở Ung châu là căn cứ tập trung quân để nam
tiến bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để thực
hiện chiến tranh với Đại Việt.
Tháng 3-1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ
Quảng Nam là Quách
Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm
Thành và Chân
Lạp sang xâm lấn Đại
Việt.
Nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại
Việt. Quân Tống có bộ
binh 10 vạn quân, một vạn kỵ binh và hai mươi vạn dân phu, khí
thế rất mạnh mẽ.
Tuyến phòng thủ của quân Nam, Lý Thường Kiệt dựa vào sông
núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu.
Trên bộ từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng, phải qua dãy núi
rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đông Mô ngày nay, vào
khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc châu Ôn. Rồi lại phải qua dãy núi lèn (đá không
phá đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu,
tức là ải
Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng
Sơn ngày nay.
Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Nam chỉ cần
đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.
Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng
Thịnh Đức coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi
Thủ An giữ châu Tô Mậu…
Quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu
Đỉnh, tới phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng
sang phía đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông
Cầu.
Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh,
lập chiến lũy sông Như
Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa
phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông
Bạch Đằng. Từ Lục Đầu ra đến biển, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở cho
đồng bằng nước Việt để chống lại quân ngoại xâm đường bộ từ Lưỡng
Quảng kéo vào. Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì sông Bạch Đằng
không can hệ, vì đã có sông Lục Đầu, là cái hào ngăn trước rồi.
Trái lại, sông Cầu rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu
qua vùng rừng núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái
Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và
qua rồi thì có đường xuôi. Nhưng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể
vượt. Chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà
thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham
Biền, là có bến, có đường qua sông để tiến xuống miền nam một cách dễ
dàng (thẳng và gần).
Lý Thường Kiệt phòng thủ nhiều lớp. Đem chủ lực
chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam Định (sông Cầu) bằng cách đặt
những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau: ải Quyết Lý ở phía bắc châu
Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi
Lăng)
ở phía nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở phòng
tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định. Để cản quân Tống qua sông, Lý
Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giậu,
dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông
Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Giao
Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, khó vượt qua và nhưng lại dễ phòng thủ
hơn là một thành lẻ như thành Thăng Long.
Cùng lúc đó thuỷ binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu
chỉ huy đã bị thủy quân Nam do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối
vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc
thủng chiến tuyến quân Nam tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp
thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý
để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. "Đang đêm, nghe tiếng vang trong
đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh
đã tan".
Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì
chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Nam lại tập kích,
doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá... dù quân Tống cũng giết được
hoàng tử quân Nam là Hoàng Chân và Chiêu Văn nhưng quân Tống 10 phần chết
đến 6, 7 phần.
Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí,
mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin
"nghị hoà" để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và
rút quân.
Sách Việt
Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh
dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho
rằng "Cũng may mà lúc đó
địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào"…
* * *
Lược ghi theo bài của Hòa Cao. Đăng trong Bán Nguyệt San
Thông Liên số 67 ra ngày 20-04 Nhuận- Nhâm Thìn (09-06-2012).
HẾT.
BIÊN SOẠN
NGUYỄN PHÚC THÀNH
Email: thanh.minh96@yahoo.com
BẢN IN NGÀY 19-11-QUÍ TỴ (21-12-2013 ).
LỜI CẢM ƠN.
Tập thể Nguyễn Phúc Thành xin thành thật cảm ơn
quí đồng đạo, chư vị hiền nhân quân tử bốn phương góp ý và gởi tặng tài
liệu ủng hộ chúng tôi biên soạn tập biên khảo về ấn Tý.
Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của quí
vị để tập biên khảo được phong phú hơn...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét