Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Tòa Thánh Tây Ninh
Tựa
ẤN, PHÁP, PHÙ, CHÚ chẳng khác nào như những
công-tắc điện để mở những nút dây điện khắp nơi. Nên Đạo-gia nói Tu đắc
Đạo là đoạt được cơ mầu-nhiệm Thiêng-liêng đó. Hỏi vậy Đạo Cao-Đài có sử dụng:
ẤN, PHÁP, PHÙ, CHÚ không? Đương nhiên là có đủ cả, bởi có Bí pháp mới hiện ra
Thể pháp. Xưa, Đức Chí-Tôn ban ân huệ cho Thần Tiên Thánh Phật thế nào, thì nay
Ngài cũng ban ân huệ cho cả nhân loại như thế ấy. Nên khi một người Nhập-môn
vào Đạo trở thành tín đồ thì Ngài ban đủ: ẤN, PHÁP, BÙA, CHÚ nắm trong
tay:
Pháp - là các pháp Giải
oan, Phép Tắm Thánh, phép Hôn phối, phép xác, phép đoạn căn…
Bùa - là bùa chữ Khí, bùa
Kim Quang Tiên…
Chú - là câu chú của Thầy
“Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”.
Trong Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ,
trước khi lạy phải bắt Ấn Tý, gọi là Ấn Kiết quả, nghĩa là thời-kỳ
này Pháp tu đã kết thành trái: Tu thì thành, dữ thì đọa. Thưởng phạt phân minh
để kết thúc hạ ngươn, chuyển sang ngươn Thánh đức của kỳ chuyển mới. Bàn tay
trái thuộc Dương, bàn tay hữu thuộc Âm. Ấn Tý là Ấn của Chí-Tôn, rất quan trọng
về mặt bí pháp, nhưng bắt Ấn thế nào cho thật đúng?
VĂN KIỆN 1:
THÁNH GIÁO DẠY CÁCH LỄ BÁI VÀ THỜ THIÊN NHÃN
25 Février. 1926
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT GIÁO ÐẠO
NAM PHƯƠNG.
TRUNG vô giữa bái lễ cho THẦY coi...
Con làm lễ trúng song mỗi gặt, con nhớ niệm câu chú của THẦY:
"NAM MÔ CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT"
Ðại lễ là làm lễ ba lần:
Lần đầu dâng hương và hoa.
Lần giữa dâng rượu
Lần chót dâng trà.
Phải chính mình con dâng các lễ ấy.
Khi bái lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn TÝ, tay mặt ngữa ra nằm dưới, tay
trái chụp lên trên.
VĂN KIỆN 2:
LỜI DẠY TRONG QUYỂN KINH LỄ CỦA TÒA THÁNH TÂY
NINH
Trong quyển KINH LỄ, phần Tiểu dẫn, phần hướng dẫn CÁCH LẠY
có ghi như sau:
Chấp hai tay lại như dưới đây:
Tay trái bắt Ấn Tý (1) rồi nắm lại. Kế đó, bàn tay mặt áp
ngoài, rồi ngón cái (tay mặt) xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái.
Để hai tay như vậy mà đưa lên trán, xá sâu ba xá rồi quì
xuống đưa hai tay lên trán như trước mà niệm “NAM MÔ PHẬT”, đưa qua bên trái
niệm “NAM MÔ PHÁP”, đưa qua bên mặt niệm “NAM MÔ TĂNG”. Rồi để ngay ngực mà
niệm:
- Nam-mô CAO- ĐÀI TIÊN- ÔNG ĐẠI BỒ- TÁT MA- HA- TÁT (cúi
đầu).
- Nam-mô QUAN- THẾ- ÂM BỒ- TÁT MA- HA- TÁT
- Nam-mô LÝ ĐẠI TIÊN-TRƯỞNG KIÊM GIÁO-TÔNG ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ
PHỔ-ĐỘ
- Nam-mô HIỆP THIÊN ĐẠI ĐẾ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
- Nam-mô CHƯ PHẬT, CHƯ TIÊN, CHƯ THÁNH, CHƯ THẦN.
Mỗi lần lạy Trời thì lạy: một lạy gật đầu bốn cái, làm như
vậy cho đủ ba lạy là 12 gật . Nhớ mỗi gật phải niệm: Nam-mô CAO- ĐÀI TIÊN- ÔNG
ĐẠI BỒ- TÁT MA- HA- TÁT.
Còn lạy Phật và Tiên thì ba lạy, mỗi lạy gật đầu ba cái là
9 gật.
Khi lạy thì hai bàn tay trải ra và hai ngón cái phải gác
tréo nhau.
Bắt Ấn Tý nghĩa là: bấm đầu ngón tay cái vào gốc ngón tay
áp út.
Về
nghi thức Lễ bái của Đạo Cao-Đài, khi lấy dấu: Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi cũng
mang ý-nghĩa Tam bửu:
- PHẬT, quyền năng tối thượng là Đức Chí-Tôn.
- PHÁP, quyền năng tạo đoan là Đức Phật-Mẫu..
- TĂNG, quyền-uy giáo hoá, đại diện qua mỗi nguơn hội có:
- Nhứt kỳ Phổ-Độ: Phật A-Di-Đà
- Nhị kỳ Phổ-Độ: Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
-
Tam kỳ Phổ độ: Phật Di-Lặc Vương
VĂN KIỆN 3:
THÔNG TRI CỦA HỘI THÁNH CỬU TRÙNG ĐÀI
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Tứ thập lục niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
CỬU TRÙNG
Văn phòng
NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
Số5-NCPS/TT
THÔNG TRI
HỘI THÁNH CỬU TRÙNG ĐÀI
NAM NỮ
Kính gửi Toàn thể Chức sắc Thiên Phong, chư Chức Việc và
Bổn Đạo nam, nữ
Kính chư Hiền Huynh, Hiền Hữu, Hiền Tỷ, Hiền Muội,
Do phúc trình số 77PT, ngày 13 tháng Giêng Tân Hợi (dl
8.2.71) của HỘ ĐÀN PHÁP QUÂN tường trình có phần đông Chức sắc, Chức việc và
Bổn Đạo, khi vào ĐềnThánh hiến lễ Đức Chí Tôn, không giữ đúng theo Luật Đạo như
sau:
- Bắt ẤN TÝ không trúng, có người ngón tay mặt gát
ngang qua bàn tay trái, có người thọc sâu trong lòng bàn tay trái;
như vậy là bấm không đúng chỗ như trong Kinh đã chỉ dẫn.
- Khi bắt Ấn Tý không để trên ngực lại bỏ xuôi xuống
chân và khi lạy không đưa tay khỏi đầu.
- Khi NHẠC TẤU QUÂN THIÊN đứng không yên lại còn nói
chuyện làm mất vẻ tôn nghiêm trong thời cúng thất lễ với Đức Chí Tôn.
Sau khi cứu xét tờ tường trình nói trên của HỘ ĐÀN PHÁP
QUÂN, HỘI THÁNH nhận thấy việc bắt ẤN TÝ trọng hệ giữ THỂ PHÁP VÀ BÍ PHÁP cho
người hành lễ. Hưởng mầu nhiệm cùng chăng là do ấn chứng đúng
PHÁP; bởi cớ nên ĐỨC CHÍ TÔN có dạy trong Thánh Ngôn và Hội Thánh
cũng đã có ấn định rành rẽ trong Kinh-lễ. Để nghiêm chỉnh giữ đúng ẤN
PHÁP nhứt luật và sự tôn nghiêm trong giờ hành lễ hầu tránh thất lễ với Đức Chí
Tôn cùng các Đấng Thiêng liêng nên HỘI THÁNH quyết định triệt để thi hành các
khoản sau đây:
1. Phần bắt ẤN cúng Thầy phải giữ đúng theo lời dạy của
Đức Chí Tôn và Hội Thánh, nghĩa là ngón
tay cái trái bấm vào ẤN TÝ rồi nắm lại;
bàn tay mặt áp ngoài, ngón cái tay mặt
bấm vào ẤN DẦN chớ không được gát ngang qua ngón trỏ bàn tay trái hoặc
thọc sâu bên trong lòng bàn tay trái là trái Pháp. Bởi Thiên khai ư Tý,
Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần; đó là Bí Pháp của Đức Chí Tôn vậy
2. Khi bắt Ấn Tý
luôn luôn phải để ngay ngực tức là để tại Tâm,
không được để xuôi theo chân, hay rún và khi lạy phải đưa tay lên chí trán,
chẳng nên đưa khỏi đầu hoặc thấp hơn.
3. Trong khi còn
đứng NHẠC TẤU QUÂN THIÊN thì phải giữ
nghiêm trang yên lặng ngó ngay THIÊN NHÃN ở Bát Quái Đài tịnh tâm tưởng
niệm cung nghinh ĐỨC CHÍ TÔN. Không được nói chuyện, hoặc ngó qua, ngó
lại để tỏ lòng tôn kính tránh thất lễ vì Đức Chí Tôn có dạy nơi Thánh Ngôn: “như
Đàn nội chẳng nghiêm, THẦY không giáng”
Ước mong Chư Chức Sắc, Chức Việc và Bổn Đạo nam, nữ lưu tâm
thực hành các điều khuyên nhắc trên đây, chẳng những giúp cho mình được hưởng
nhiệm mầu của Ơn Trên bố hóa mà còn gìn nghiêm luật của nền Đại Đạo để khỏi
thất Pháp.
Q.THƯỢNG THỐNG LẠI VIỆN ban hànhThông tri này cho toàn thể
Chức Sắc, Chức Việc và Bổn Đạo tuân hành nhứt luật.
Nay kính,
TÒA THÁNH, ngày 6 tháng 2 nămTân Hợi (dl 2/3/1971)
THÁI CHÁNH PHỐI SƯ
THÁI BỘ THANH
Q.THƯỢNG CHÁNH PHỐI
SƯ
THƯỢNG TỬNG THANH
NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
NGỌC NHƯỢN THANH
XL T.V. VP NỮ CHÁNH
PHỐI SƯ
PS HƯƠNG NGỘ
Phê kiến
ĐẦU SƯ
CHƯỞNG QUẢN CTĐ NAM PHÁI
THƯỢNG SÁNG THANH
NỮ ĐẦU SƯ
CHƯỞNG QUẢN CTĐ NỮ PHÁI
HƯƠNG HIẾU
Vâng lịnh ban hành
Nội chánh, ngày 6 tháng
2 năm Tân Hợi (dl2/3/1971)
Q. THƯỢNG THỐNG LẠI
VIỆN
GIÁO SƯ NGỌC TỊNH THANH
ẤN TÝ LÀ GÌ? CÁCH BẮT ẤN TÝ NHƯ THẾ NÀO?
Ấn là dấu hiệu đặc biệt về mặt đạo có tác dụng huyền bí do
hai bàn tay kết lại tạo ra. Tý là chi đầu tiên trong Thập nhị Địa chi: Tý, Sửu,
Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi.v…v. . .
Ấn Tý là cái ấn đặc biệt của Đạo Cao Đài, cách bắt như sau:
Trên bàn tay trái, vị trí của Tý ở tại chân ngón áp út, Sửu
ở chân ngón giữa và Dần ở chân ngón trỏ. Ấn Tý là cái ấn mà ngón tay cái của
bàn tay trái co lại chỉ vào chi Tý rồi nắm lại, bàn tay mặt bao lấy bên ngoài
bàn tay trái mà ngón cái chỉ vào chi Dần của bàn tay trái.
Cách bắt Ấn Tý có ý nghĩa về sự tạo thành Trời Đất và Nhơn
loại, theo quan niệm của người xưa ở đông phương: Thời gian tạo thành càn khôn
vũ trụ và vạn vật được chia làm 12 khoản, mỗi khoản thời gian được gọi là Hội
và đặt tên theo Thập nhị Địa chi: Hội Tý là Hội đầu tiên, kế đến Hội Sửu, sau
đó là Hội Dần, vv. . .
Thiên khai ư Tý: Trời
mở ra ở hội Tý.
Địa tịch ư Sửu:
Đất mở ra ở hội Sửu (tịch là mở).
Nhơn sanh ư Dần: Người
sanh ra ở hội Dần.
Các hội tiếp theo là sự tiến hóa của trời, đất, người và vạn
vật đến chỗ hoàn hảo.
Ấn Tý là ấn đặc biệt của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà Đức Chí
Tôn đặt ra. Cho nên trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mỗi khi lạy tín
đồ đều phải bắt Ấn Tý trong tất cả các trường hợp; dù đó là lạy Đức Chí
Tôn, Đức Phật Mẫu, lạy các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, hay lạy Cửu Huyền Thất
Tổ, lạy Vong phàm.
Hình: Hai tay bắt
như vậy gọi là Ấn Tý.
(Trích
câu 40 của quyển 99 câu hỏi đáp về Đ.Đ.T.K.P.Đ.)
BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP NĂM 1947
A. “Bần đạo nhắc lại; người tín đồ Cao Đài luôn luôn nằm lòng
lời minh thệ, đó là nghĩa vụ mà cũng là quyền lợi của mình. Phải ghi tâm mới
giữ được sự thương yêu, bạn đồng môn và chúng sanh là con chung của Đức Chí Tôn
để khỏi bị thất thệ mà mình đã hứa: Hiệp
đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài…”.
Cúng lạy phải tuân thủ tuyệt đối, thực hành nghiêm chỉnh và
hoàn chỉnh.
“Đàn
không nghiêm thì Thầy không giáng”
Chí Tôn đã dạy bắt Ấn Tý khi bái lễ hai tay con chấp lại;
xong phải để tay trái bắt Ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới tay trái Ấn Tý và
chụp lên trên. Nghĩa là đầu ngón cái tay trái điểm vào góc ngón áp út (cung Tý)
nắm chặc lại để khuỷu ngón tay trái ấn vào góc ngón tay giữa (cung Sửu) tay mặt
ngửa ra đỡ bàn tay trái rồi nắm lại; ngón cái của tay mặt điểm vào góc ngón trỏ
của tay trái (cung Dần) nắm chặc lại. Tức
nhiên, các ngón của tay mặt không che khuất gốc của 3 ngón: áp út, giữa và trỏ
của bàn tay trái (tức 3 cung Tý, Sửu, Dần)
Ấn Tý là thể hiện Đức Chí Tôn nắm trọn Tam Tài: THIÊN, ĐỊA,
NHƠN.
Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần.
Nhớ giữ Ấn Tý nơi ngực cho chặc, mắt ngó ngay Thiên Nhãn, đó
là phương pháp tịnh tâm. Thể pháp hoàn chỉnh mới mong tìm được bí pháp đó vậy. Khi bắt Ấn Tý tức điểm đủ Tam tài; xá và lạy cũng thực
hiện Tam tài đến với bản thể của chúng ta ở thể pháp mà kinh Phật mẫu có câu:
…Lập Tam
Tài định kiếp hòa căn,
Chuyển luân định phẩm cao thăng…
Vậy Ấn Tý tiêu biểu cho Tam Kỳ Phổ Độ để chư môn đệ của
Thầy sử dụng khi bái lễ Đức Chí Tôn, Đức Phật mẫu và các Đấng. Nếu bắt Ấn Tý không
đúng, để bàn tay phải (âm) khi nắm lại trùm phủ 3 cung Tý, Sửu, Dần; tức bao
trùm Tam Tài THIÊN, ĐỊA, NHƠN ở bàn tay trái (dương) là một điều sai lạc rất hệ
trọng: “Dương thạnh tất sanh, Âm thạnh tất tử” sẽ có ảnh hưởng đến nghiệp Đạo.
Chí tôn đã dạy: Nơi lòng Thầy ngự, hễ động Thầy hay; nên Ấn
Tý luôn ở nơi ngực, tuyệt đối không được thả xệ xuống bụng mà thất lễ. Bần đạo
nhắc lại lần nữa, khi xá và lạy đều thể hiện kỉnh đủ Tam Tài: THIÊN, ĐỊA, NHƠN.
- Đưa tay lên trán; kỉnh THIÊN.
-Xá thẳng hết tay, đầu hơi cúi: kỉnh ĐỊA.
-Đưa về nơi ngực: kỉnh NHƠN.
Đức Chí Tôn đã dạy:”Thập nhị khai Thiên là Thầy, Chúa của
cả Càn Khôn thế giới. Nắm trọn thập nhị Thời thần vào tay, số 12 là số riêng
của Thầy”.
Bái lễ Đức Chí Tôn thì 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật phải
niệm danh Thầy:
Nam-mô CAO- ĐÀI TIÊN- ÔNG ĐẠI BỒ- TÁT MA- HA- TÁT.
Còn làm lễ Đức Phật mẫu cũng 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật
niệm:
Nam-mô DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN.
Dưới đậy là hình minh họa bắt Ấn Tý theo đúng lời Đức Hộ
Pháp dạy
B. ĐỨC CHÍ TÔN PHÂN ĐỊNH VIỆC CÚNG TỨ THỜI
Tứ thời gồm 4 thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Tý, Ngọ cúng rượu;
Mẹo, Dậu cúng trà. Là một ý nghĩa huyền bí cao siêu để cho con cái của Ngài
được hưởng bí pháp vô vi là cái đặc ân của Ngài ban cho đó vậy.
Thời Tý, Ngọ cúng rượu. Rượu rót mỗi ly 3 phân; ba ly cộng
lại là 9 phân (CỬU THIÊN KHAI HÓA). Mẹo, Dậu rót nước trắng và nước trà: rót 8
phân. Nước trắng là Dương, nước trà là Âm. Ý nghĩa Âm Dương tương đồng.
CẦU NGUYỆN KHI DÂNG TAM BỬU
DÂNG BÔNG: con nguyện dâng hiến thể xác này cho Thầy tùy
phương sử dụng. Xin Thầy ban ân lành cho thể xác con được mạnh khỏe và tươi tắn
như bông hoa kia vậy.
DÂNG RƯỢU: con nguyện dâng hiến trí não con cho Thầy tùy
phương sử dụng. Xin Thầy ban ân lành cho trí não con được sang suốt và mạnh mẽ
như chất rượu kia vây.
DÂNG TRÀ: con nguyện dâng hiến Chơn linh con cho Thầy tùy
phương sử dụng. Xin Thầy ban ơn lành cho Chơn linh con được tráng kiện thơm tho
như trà kia vậy.
CHUNG: CON NGUYỆN DÂNG THỂ XÁC, TRÍ NÃO, CHƠN THẦN CHO THẦY
DÙNG CON TẾ VẬT HY SINH ĐỂ CỨU KHỔ NHƠN LOẠI.
Bần đạo đã giảng Tam Bửu. Tại sao Chí Tôn lấy bông tượng
trưng hình hài. Ngài muốn nhìn con cái của ngài bằng giá trị tốt đẹp như mắt
thấy cái bông. Ngài lấy rượu là muốn tinh thần loài người cường liệt như rượu
mạnh kia vậy. Ngài lấy trà là muốn Chơn linh ta điều hòa như trà vậy. Ngài lại
món đó cốt yếu là vậy. Như hiến lễ Đức Phật mẫu, lời cầu nguyện cũng như vậy,
song từ “Chí tôn” đổi lại thành “Phật Mẫu”.
Bần đạo nói một điều nên nhớ: khi đến chầu lễ Chí Tôn, không
nên mặc đồ lót trong có màu sắc khác mà phải toàn màu trắng (trừ chức sắc, chức việc có sắc phục riêng khi chầu
lễ Chí Tôn). Khi đến chầu lễ Phật Mẫu phải toàn màu trắng cả (không phân biệt
đạo hữu, chức việc, chức sắc) vì ai cũng là con của Mẹ. bần đạo ban ơn cho toàn
thể con cái Đức Chí tôn.
KẾT LUẬN:
- Như vậy, khi đi chầu lễ Chí Tôn và Phật Mẫu, chúng
ta nam và nữ, đều phải mặc quần áo lót trắng; không được mặc quần màu ở trong
rồi mặc chồng quần trắng ở ngoài.
- Việc bắt Ấn Tý đúng rất quan trọng, ảnh hưởng đến
sự thịnh suy cuả nghiệp Đạo. Đến nay, THC mới cho biết bài thuyết Đạo năm 1947
này. Không hiểu vì sao có sự chậm trễ lâu dài đến thế. Chúng ta, kẻ hậu bối,
khi biết rồi nên sửa lỗi, bắt Ấn Tý cho thật đúng vì Đức Hộ Pháp đã dạy thể
pháp và bí pháp có tương liên mật thiết với nhau.
PHỤ LỤC
TÌM HIỂU ẢNH HƯỞNG MÀU SẮC TRÊN THỂ VÍA
Sự sống
của Thượng Đế- Tinh thần- càng giáng sâu xuống những cõi dưới, các lớp vỏ
bao bọc bên ngoài càng dày nặng. Chỉ cái lớp vỏ
sau cùng, lớp nặng trược hơn cả, mới tạo thành hình hài vật chất. Khi nói sang
qua một cõi khác, không có nghĩa là di chuyển trong không gian mà là sự
chuyển tâm thức từ một thể chất nầy qua một thể chất khác.
BẢY
THỂ CỦA CON NGƯỜI.
Nói một
cách đơn giản, thể xác là thể hành động và hiểu biết, thể phách là thể sinh
lực, thể vía là thể tình cảm và dục vọng, thể trí là thể tư tưởng cụ thể. CHƠN
LINH là thể tồn tại từ kiếp nầy sang kiếp sau nên nhớ được các kiếp con người.
Còn thể Bồ đề và Kim thân chỉ được phát triển khi nào con người được điểm đạo
hay được thu nhận làm đệ tử.
TAM
THỂ XÁC THÂN-BA YẾU TỐ TIẾN HÓA
Trong
ngôn ngữ Cao Đài, ba yếu tố đó là: phàm nhơn, chơn thần, chơn linh
1. Phàm
nhơn (Physical body)
Phàm
nhơn gồm ba thể hữu hoại : thể xác, thể vía và thể trí. Tuy chúng nó hữu hoại,
mỗi thể đều lưu lại một hạt trường tồn, được gọi là nguyên tử trường
tồn.
Nhờ các
kinh nghiệm thu thập nhứt là ở cõi Trần, phàm nhơn phát triển sự hiểu biết của
mình. Ở cõi Hạ thiên, những điều hiểu biết nầy chuyển thành những quan năng để
phát triển ở các kiếp sau.
2. Chơn Thần (Spiritual Body,
Périspirit)
Với mức tiến hóa hiện nay của chúng
ta, Chơn thần là con người thật, vì Chơn linh (monad) là một điều rất cao xa
đối với chúng ta. Mục đích của đời sống con người là trau giồi Chơn thần để nó
có thể hòa hợp với Chơn Linh. Chỉ có hành động vị tha và vô ngã mới giúp chúng
ta đạt được mục đích đó. Đức Phật dạy: “Các lý thuyết của bạn về Thượng Đế
không đáng lưu ý. Hãy hành thiện, hãy nhân từ. Chính những điều đó đưa các bạn
đến sự giải thoát và đến Chân lý.”
3. Chơn Linh.
Chơn Linh là đơn vị tâm thức, là
Điểm Linh Quang của ngọn lửa thiêng của Thượng Đế được chuyển xuống cõi Đại
Niết Bàn như là những sinh linh riêng biệt. Chúng có tất cả các quyền năng
thiêng liêng trong trạng thái tiềm tàng và các quyền năng nầy sẽ phát triển khi
Chơn thần được tinh luyện với các kinh nghiệm do phàm nhơn thu thập. Nhờ đó,
con người, một Thánh linh mơ ngủ sẽ trở thành một Thánh linh thức tỉnh và linh
hoạt.
HÀO QUANG (Aura).
Hào quang là toàn thể các thể tinh
vi của con người. Đôi khi, danh từ nầy chỉ cái phần các thể ấy vượt ra khỏi xác
thân. Hình dáng, màu sắc của nó tùy sự tiến hóa của mỗi người. Ai thấy nó được
thì biết trình độ tiến hóa của người ấy như thế nào. Nhờ tác động của tư tưởng,
nó có thể tạo một cái vỏ bảo vệ chống với các tư tưởng và dục vọng của kẻ khác.
NGƯỜI CHẾT THẤY CHÚNG TA KHÔNG ?
Họ thấy dễ dàng thể vía chúng ta và
do đó biết được các tình cảm và cảm xúc của chúng ta và những tư tưởng liên hệ.
Những hình tư tưởng đẹp đẽ, rõ ràng, tươi sáng và thanh khiết là hình dáng của
những tư tưởng thanh cao. Trái lại, những tư tưởng lu mờ, xấu xí, âm u là triệu
chứng của những tánh tình đê tiện.
Ở cõi Thượng giới, chất thượng
thanh khí tượng hình với mỗi chuyển động của tư tưởng. Và ở đây vì không còn bị
kềm chế bởi các hạ thể, tư tưởng phát biểu dễ dàng bằng hình ảnh, màu sắc và âm
thanh. Ở trần gian, ta không biết rõ bạn ta. Trái lại, ở Thiên đàng, chúng ta
biết họ trọn vẹn vì đọc được tư tưởng của họ.
Màu sắc đại diện cho cảm xúc của con người liên kết với hình
thái tư tưởng. Ý niệm càng trong sáng và hình thành tốt bao nhiêu thì hình thái
tư tưởng kết hợp với ý niệm đó càng trong sáng và hình thành tốt bấy nhiêu. Ta
nâng cao những hình thái tư tưởng này bằng cách tập trung vào những tư tưởng mà
chúng đại diện. Những tư tưởng quen thuộc trở thành những lực "kiến tạo
tốt" mạnh mẽ sẽ tác động đến cuộc đời của ta. Cơ thể này thâm nhập những
cơ thể đậm đặc hơn mà nó bao quanh. Màu của nó thay đổi từ những màu sáng chói
đến những màu xám xỉn, tùy theo tình trạng sáng suốt hay lẫn lộn của cảm giác
hay của năng lượng sản sinh ra chúng. Những cảm giác trong sạch và có năng
lượng cao như yêu thương, kích động, vui mừng hay giận dữ thì sáng và trong
trẻo; những cảm giác rối rắm thì tối và xám xịt. Cơ thể này chứa tất cả màu sắc
của cầu vồng. Từng luân xa trông giống như một cuộn xoáy nhiều màu và theo các
màu sắc của cầu vồng.
Đức
Hộ Pháp không giải thích vì sao phải mặc toàn trắng, trong lẫn ngoài; nhưng qua
tìm hiểu trên, chúng ta biết rằng màu sắc ảnh hưởng lên thể phách, thể vía. Các
Đấng thiêng liêng sẽ nhận biết lòng thành tâm và sự tiến hóa của mỗi linh hồn
qua màu sắc của các thể. Vì vậy, khi dâng lễ cho Đức Chí Tôn và Đức Phật mẫu,
các tín hữu Cao Đài nhớ làm đúng theo lời dạy của Ngài.
Nếu tìm hiểu thêm, chúng ta biết rằng màu trắng là màu có độ sáng cao. Phần lớn các
nhà khoa học tin rằng màu trắng là màu nền tảng của ánh sáng; và các màu khác
chỉ được tạo thành bằng cách bổ sung thêm một cái gì đó vào ánh sáng. Newton đã
chứng minh rằng màu trắng được tạo thành bởi tổ hợp của các màu khác. Màu trắng còn tượng trưng cho sự tinh khiết, đức hạnh, mềm mại, trống rỗng,Thiên Chúa, tri thức, thiên đàng, sự sống, sạch sẽ, không khí, ánh sáng ban ngày…
- CHUNG -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét