( Trích: Chánh Trị Đạo
của Ngài Khai Pháp )
Trước hãy định nghĩa Hiến Pháp là
gì ?
- Theo nghĩa thông thường: Hiến
Pháp là một bản văn kiện ghi chép những Luật lệ căn bản qui định sự tổ chức
quyền chánh trị trong một nước và bảo vệ các công quyền của toàn thể công dân.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN của Ðạo là một
bản văn kiện do Huyền diệu Cơ Bút của Ðức CHÍ TÔN truyền dạy, qui định sự tổ
chức của nền Ðại Ðạo, sắc phục của chư Thiên Phong: đẳng cấp, quyền hạn của chư
Chức sắc cầm quyền chánh trị, hầu giữ vững chơn truyền của nền chánh giáo,
không cho có sự xâm phạm, giữ gìn cho cơ Ðạo khỏi qui phàm.
Tàng Kinh Các [1] [2]
B- Hiến Pháp có hai lọai:
Tàng Kinh Các [1] [2]
B- Hiến Pháp có hai lọai:
1-Bất thành văn Hiến
Pháp: Ngày trước không có Hiến Pháp, chỉ có các điều lệ do phong tục,
tập quán, vì thời gian mà biến thành. Bởi nguyên căn của nguồn gốc do sự biến
thiên của tập tục và không văn kiện làm bằng chứng cho nên thường bị xâm phạm.
Vì thế về sau, muốn cho nó được tôn trọng, cần phải biên chép thành Hiến Chương
gọi là Hiến Pháp.
2- Thành văn Hiến
Pháp: Là thứ Hiến Pháp lấy từ chương làm căn bản, được thông
dụng trong các nước, vì nó ấn định một cách minh bạch quyền hạn của chánh phủ,
công nhận và bảo đảm các quyền tự do chánh trị cùng tự do dân sự của nhân dân.
Hiến Pháp thành văn lập thành do
nhiều cách:
- Do Vua ban.
- Do sự cam kết giữa Vua và dân.
- Do Quốc Hội Lập Hiến làm ra.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN thuộc về loại Hiến Pháp thành
văn và lập thành theo cách thứ nhứt, song có điều khác nhau với Ðời là Hiến
Pháp do Vua ban hành; còn Pháp Chánh Truyền do Ðấng CHÍ TÔN dụng quyền năng
Thiêng Liêng của Huyền diệu CƠ BÚT mà truyền thế”.
C- SO SÁNH CÁC TÁNH CHẤT CỦA HIẾN PHÁP và PHÁP CHÁNH TRUYỀN
1- Hiến Pháp khác với Pháp luật thường:
Thường, trong một nước sau khi lập quốc, lập
tức Chánh Phủ triệu tập một Quốc Hội Lập Hiến, để lập Hiến Pháp, do theo dân
nguyện. Xong rồi, Quốc Hội Lập Hiến giải tán, để triệu tập Quốc Hội Lập Pháp,
chỉ có quyền hạn lập thành các Pháp Luật thường để thi hành Hiến Pháp thôi.
Trong nền Ðạo, có ba Nghị-Hội hiệp lại làm cơ quan cho quyền Vạn Linh, ba Hội
ấy, quyền hạn tương đồng như Nghị Hội Lập Pháp, chỉ lập Pháp Luật thường do
nguyện ước của Nhơn sanh, đặng thi hành chơn truyền chánh giáo là Pháp Chánh
Truyền.
2- Cang tánh Hiến Pháp và nhu tánh Hiến Pháp:
- Khi Nghị Hội Lập Pháp không có quyền sửa đổi
Hiến Pháp thì Hiến Pháp ấy gọi là cang tánh Hiến Pháp (Constitution rigide).
-Trái lại, khi Nghị Hội Lập Pháp sửa đổi Hiến
Pháp đặng, như các pháp luật thường thì Hiến Pháp ấy gọi là nhu tánh Hiến Pháp
(Constitution souple).
PHÁP CHÁNH TRUYỀN thuộc về loại cang tánh Hiến Pháp, bởi nó bất di bất
dịch, bất khả xâm phạm và Ba Hội Lập quyền Vạn Linh không có quyền sửa cải.
3-
Hiến Pháp đại yếu và Hiến Pháp chi tiết:
- Những bản Hiến Pháp nào nói tỉ mỉ về sự tổ
chức các cơ quan, các ty, các sở, như Hành Chánh, Tư Pháp ....gọi là Hiến Pháp
chi tiết. Thứ Hiến Pháp nầy rất bất tiện, vì phải sửa đổi luôn, mà sửa đổi Hiến
Pháp là một điều phiền-phức.
- Còn Hiến Pháp đại yếu, chỉ nói những điều
thật bao quát. Các điều lệ chi tiết để cho Nghị Hội Lập Pháp tùy nghi ấn định
cho hợp thời. PHÁP CHÁNH TRUYỀN thuộc loại Hiến Pháp đại yếu.
Kết luận
PHÁP CHÁNH TRUYỀN là Pháp Luật chơn chánh
được Đức Chí Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng cơ truyền dạy để làm căn bản Lập
GIÁO, tổ chức và điều hành nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN được xem là HIẾN PHÁP của Đại
Đạo do Đấng Chí Tôn dụng quyền năng Thiêng Liêng qua HUYỀN DIỆU CƠ BÚT mà
truyền thế, nên có tính cách cố định, bất di bất dịch, truyền đến Thất ức niên.
D - Các hình thức Pháp Chánh Truyền:
Ngay sau Ðại Lễ Khai Ðạo Rằm tháng 10 năm Bính
Dần (Vendredi, le 19-11-1926) Ðức Chí Tôn dạy rằng:
“Ðêm nay các con phải thành tâm cầu nguyện đặng
ngày mai Thầy lập PHÁP CHÁNH TRUYỀN nghe à.!”
*Sau
Ðại lễ Khai Ðạo ngày 15-10-Bính Dần tại Thánh Thất tạm đặt tại Từ Lâm Tự Gò
Kén- Tây Ninh, Ðức Chí Tôn liền lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài Nam phái
vào ngày 16-10-Bính Dần (dl: 20-11-1926).
*Đức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai
Nghiêm kiêm
Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giáng cơ lập
Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài NỮ PHÁI vào ngày 11-01-Đinh-Mão (dl: Thứ bảy, 12-02-1927 ) đồng thời Đức Giáo Tông ban sắc
phục cho Nữ phái.
*Đức Chí Tôn giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền
HIỆP THIÊN ĐÀI vào ngày 12-01-Đinh Mão (dl: Chúa Nhựt: 13-02-1927 ).
Thế là trọn vẹn, tạo thành HIẾN PHÁP: có tổ
chức để điều hành toàn bộ Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Phần thực hiện
1- Pháp Chánh Truyền Chú Giải:
Pháp Chánh Truyền là văn bản tổng quát tổ chức
nền Ðạo Cao Ðài: đó là Hiến Pháp của Ðạo, cho nên Ðức Lý Thái Bạch- Nhứt Trấn
Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ, truyền lịnh cho Ðức Hộ Pháp
Chú giải tỉ-mỉ từng chi tiết để cho Chức sắc hai Ðài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng
dễ thi hành, có Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệu đính, gọi là Pháp Chánh Truyền
Chú Giải, tạo thành Hiến Pháp bất di bất dịch của Đạo Cao Ðài.
Ðức Lý Giáo Tông nói rõ trong Ðạo Nghị Ðịnh thứ 6, ngày 3-10-Canh Ngọ (1930)
như sau:
Nghị Ðịnh: "Hai vị Thiên phong Giáo Tông và Hộ Pháp phải điều đình
Hiến Pháp, sửa trị Ðài mình cho hiệp Pháp-Chánh-Truyền, nên đồng ký tờ nầy mà
ước hẹn."
2- Tính cách quan trọng
của PHÁP CHÁNH TRUYỀN
CỬU-TRÙNG-ĐÀI:
Cửu Trùng Đài là cơ-quan rất quan-trọng của Ðạo
Cao Đài vì Cửu-Trùng-Ðài tượng trưng thể xác của Ðạo. Nếu không có thể xác là
hình ảnh của Cửu-Trùng-Ðài thì không phổ thông được Chơn Đạo của Thầy; tất
nhiên những Tôn chỉ qúi hóa của nền Đại-Đạo không thể hiện được nơi cõi
trần nầy, là không thi hành được Bí pháp.
Theo lời thông báo mở Đạo của Đức Quyền
Giáo Tông: Ông ERNEST OUTREY trả lời rằng:
*Tôn-chỉ của Cao-Ðài-Giáo là mưu
cuộc HOÀ BÌNH THẾ GIỚI cho các dân tộc. Nếu quả thật như vậy, thì ai là người
biết điều mà còn dám đứng lên phản đối một cái lý thuyết tối cao như thế !”.
Thật ra không chỉ bấy nhiêu, mà còn rất
nhiều điều:
*Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là thờ Trời
và các Đấng Thần- Thánh- Tiên- Phật hầu cầu xin cứu rỗi cho các chơn linh quá
vãng được siêu thăng và cầu nguyện cho nhơn loại được thái bình”.
*Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo
chánh là Nho –Thích - Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm MỘT, nên chi
chúng ta tu theo Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam Giáo. TU mà gồm được
cả ba thì là gần Thần,Thánh,Tiên, Phật. Phải năng thực hành:
- Giữ Tam Cang Ngũ thường
(Nho-giáo)
- Vẹn gìn Tam qui Ngũ giới
(Phật-giáo)
- Luyện Tam bửu Ngũ hành
(Tiên-giáo)
*Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài là “Qui
Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” nên hình thức biểu hiện rõ
rệt:
- Tín-ngưỡng thì thờ TRỜI và
thờ NGƯỜI.
- Về Luật-pháp là thực thi BÁC-ÁI và CÔNG-BÌNH.
- Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường
CHÂN-THIỆN-MỸ. Chung qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng lấy TÂM làm
gốc: Các Tôn-giáo đã dạy đời những gì, đó chính là
Tôn-chỉ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ.
*Tôn-chỉ của
Ðạo là truyền bá cho nhơn sanh khỏi lầm đường lạc lối và cũng phải có đại hùng
đại lực mới gánh vác nỗi trách-nhiệm lớn lao của Ðại-Ðạo ngày nay.
3- Pháp Chánh Truyền HIỆP THIÊN ĐÀI:
Khi Chí-Tôn đến Lập Pháp-Chánh-Truyền giao cho
Hiệp-Thiên-Đài gìn-giữ trong đó có diệu-pháp của Chí Tôn đến lập vị cho con cái
của Người tại thế-gian này. Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng hợp lại
cho có trật-tự, có đẳng-cấp tức nhiên là lập Thánh-Thể của Ngài; các phẩm-trật
có liên quan với các phần-tử, tức nhiên Hội Thánh tổng hợp lại là Thánh-Thể của
Ngài, mà hễ đạt quyền được tức nhiên về với Ngài được.
Ấy vậy, Pháp Chánh Hiệp-Thiên là phương định vị, lập quyền đặng hiệp
một con cái của Chí Tôn cùng Chí Tôn vậy”.
Thế là trọn vẹn, tạo thành Hiến Pháp tổ
chức điều hành toàn bộ Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
4- Pháp Chánh Truyền NỮ PHÁI:
Nữ phái là nguồn sống của Đạo.
Nay Đức Chí-Tôn mở Đại Đạo ban cho một sự bình quyền giữa Nam Nữ là một vinh dự
lớn cho Việt Nam và cả nhân lọai nữa. Nữ Phái đứng
vào cơ Hòa, trùng hợp với mục đích của Đạo:
“Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi Hạ nguơn Tam
Kỳ Phổ-Độ này duy lấy một chữ HOÀ làm tôn-chỉ: có hòa mới có hiệp, có hiệp mới
có Thương-yêu, mà sự Thương yêu là chìa khóa mở cửa Tam Thập Lục Thiên, Cực-lạc
thế-giới và Bạch Ngọc-Kinh y như lời Đức Chí Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là phải
Từ-bi, Bác-ái mới đắc Đạo vô-vi, phải HOÀ HIỆP mới có cơ qui nhứt”.
5- “Chư Môn Ðệ ham muốn phong TỊCH”:
Thầy dạy: “Các con, phần nhiều chư Môn Ðệ ham
muốn phong Tịch, nhưng chưa hiểu phong Tịch là gì ? Thầy để lời cho các con
biết rằng: Nhiều Thánh, Tiên, Phật, xuống phàm nếu căn quả tiền khiên không mấy
trọng hệ, nghĩa là kiếp trần duyên không chi phải nhơ bợn nhiều, thì dầu
không Thiên Phong hễ gắng tâm thiện niệm
thì
địa vị cũng đạt hồi đặng.
Thiên Phong là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật,
lìa trần phải lắm dày công cùng sanh chúng mới trông mong hồi cựu phẩm đặng.
Các con nên nhớ Thầy lấy từ bi phong TỊCH, nhưng các Chức Sắc nếu vì ÁO
MÃO hơn vì đạo đức thì tội chất bằng hai.
Lại nữa:“Mỗi Kỳ Phổ Độ đều có mở một cuộc ÂN
XÁ, mở cửa dễ dàng cho các đẳng chơn hồn có đủ phương lập vị. Nền Đạo này là Cơ
Đại-Ân-Xá tận độ chúng sanh nên Cao-Đài xưng là ĐẠI-ĐẠO. Vì chủ-nghĩa tối cao
của Đại Đạo chẳng những là Qui Tam-Giáo Hiệp Ngũ Chi mà thôi, mà phải
làm thế nào dầu bậc Đế Vương ngoài thế cũng phải bái
phục, phải tùng Đạo, phải dò theo các cơ thể của Đạo, phải nhờ Đạo mới
mong trị an thiên hạ đặng.
- Vậy mới gọi là HIỆP NHỨT!
- Vậy mới gọi là ĐẠI-ĐẠO !
ĐẠI-ĐẠO ngày nay cũng là Phật-Đạo vì gồm hết
Tam giáo NHO- THÍCH- ĐẠO và Thích-Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích-Ca”.
6- Sự yếu trọng của Pháp Luật:
Riêng về Pháp Chánh Truyền thì như
thế: có đủ Âm Dương, Tam Tài vẹn vẻ. Giờ đây khi Chí-Tôn lập Pháp Chánh Truyền
xong thì Thầy cho con cái của Ngài tự lập TÂN LUẬT để tu, tức nhiên có đủ
Trời-Người thống hiệp: người trị xác, Trời trị hồn. Xem đó cũng thấy rằng:
- PHÁP CHÁNH TRUYỀN thì bất di bất dịch,
- TÂN LỤẬT có thể thay đổi tùy theo sự tiến hóa
của nhơn sanh, nhưng cũng thay đổi trong qui luật đã định.
Thế nên: Pháp Chánh Truyền là Dương; Tân Luật là Âm. Âm Dương hòa-hiệp, luôn
hòa quyện vào nhau trong cái lý “Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo” là vậy. Xen vào
giữa là Pháp Chánh Truyền Chú Giải, phải chăng đây cũng là cơ Hòa, để hiệp
thành Tam Tài không bao giờ thiếu. Lý ấy xem như đan khít vào nhau một cách
chặc-chẽ như tấm lưới. Càng xét nét càng thấy đó là “Lưới Trời” do câu: “Thiên
võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”.
7- Giá trị của PHÁP LUẬT
Lời tựa Pháp Chánh Truyền nói rằng: “Nghĩ
vì cơ huyền vi mầu-nhiệm của Đạo có THIÊN ĐIỀU cũng như cơ đời có Luật-Pháp chơn-truyền
để chế ngự những dục vọng bất chánh mà ở cõi nào và đời nào cũng có,
nếu không có gì chế-ngự thì sự điều-hòa tốt đẹp của cơ tạo hóa sắp đặt có thể
mất đi mà chớ ! Nên khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đã lập ngay một
PHÁP CHÁNH TRUYỀN và TÂN LUẬT để điều-hành guồng máy Hành Chánh-Đạo hầu bảo-thủ
Chơn-truyền và Công bình Thiên Đạo, kèm theo Pháp Luật còn có Thánh Ngôn và
Giáo điều dạy bảo.
Muốn
lập một nền Đạo lớn lao như Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có khả năng truyền giáo đến
thất ức niên mà không lập PHÁP thì làm sao điều-độ được một số giáo-đồ quá đông
gồm gần toàn thể nhân-loại. Bởi thế nên quyển PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN này cần được
tục bản mãi mãi, kỳ này hết tới kỳ khác, để lấy đó làm căn-bản cho các giáo đồ
noi theo mà hành-đạo hoặc giữ-gìn cho trọn tư cách người Đạo đến cùng, không ai
phạm Luật Đạo và không sai đường lạc lối. Mặc dầu không Luật-Pháp nào được gọi
là hoàn bị cả, nhưng Luật-Pháp nào cũng đều phải ấn định ít nhứt những
đại-cương và nguyên-tắc chẳng hạn như: Luật Công bình giữa người với người thì
phải có nguyên tắc bất di bất dịch là: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”
(cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác).
Ví
dụ: nếu mình muốn được tự-do thì đừng làm mất tự-do của người khác).
“Tuy nghe rất đơn-giản nhưng không còn cách giải thích nào đúng hơn
nữa. Luật-pháp rất cần ích cho sự điều hòa trật-tự trong xã-hội. Nó lại còn
cần-ích hơn nữa cho Đạo vì nếu thiếu Pháp Luật thì khó tránh sự hỗn loạn. Mà
nếu trong Đạo có sự hỗn-loạn thì còn gì là Đạo lý !
“Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền cho Đạo tức là lập CHỦ QUYỀN cho ĐẠO đó vậy.
Nếu ai có tinh thần xây dựng nền Đạo thì tất nhiên phải tôn-trọng chủ quyền đó.
Cũng nhờ chủ-quyền đó mà HỘI-THÁNH là hình thể Đức Chí-Tôn tại thế mới có đủ
quyền-hành để thể thiên hành-hóa. Tuy nhiên, quyền ĐẠO có khác hơn quyền đời là
vì nó do sự THƯƠNG YÊU mà có, chớ không phải dùng ÁP LỰC để chế-ngự người
ta.
“Pháp-Luật
đã do Thiên-lý và Công-lý mà lập ra, thì tự-nhiên phải tuyệt-đối Công-bình,
không còn sự chênh lệch nào đối với toàn thể bổn đạo. Vì trong ĐẠO từ trên tới
dưới, từ nhỏ tới lớn đều có qui luật định phân, lớn không giành quyền nhỏ, nhỏ
không lấn quyền lớn. Nếu cứ chiếu luật thi-hành thì toàn đạo được điều-hòa
êm-ái và guồng máy Hành-Chánh-Đạo cứ tiến hành theo luật-định thiên nhiên không
còn gì trở ngại.”
Thầy
khẳng định: “Thầy tưởng chẳng còn nói, nếu ai là đạo-đức, đọc đến cách lập PHÁP
của Thầy mà chẳng mừng giùm cho nhân-loại. THẦY buộc mình hứa cùng Ngọc-Hư-Cung
rằng: Nếu Đạo còn, thì Thầy cũng theo gìn các con. Các con coi lời Thầy
trọng-hệ là dường nào ! Như biết coi ĐẠO trọng, thì cả tinh-thần các con cũng
nên tom góp vào mỗi điều đó mà trông-cậy nơi Thầy lập PHÁP”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét