Pháp Chánh Truyền - Hiến Pháp Đại Đạo ( Chương II )

I - Đức Chí Tôn lập P. Chánh Truyền nam phái
II - Đức Chí Tôn lập P. Chánh Truyền  HTĐ
III - Đức Lý lập Pháp chánh truyền Nữ phái

Luận Đạo
1-Tại sao phải Âm trước Dương sau?
2-Vậy Thánh là gì ?
3-Thánh thể Chí tôn khởi từ Giáo Hữu

IV
A - Pháp CT chú giải về quyền Giáo Tông
1-Phân biệt chữ Đường và chữ Phần
2-Thượng Phẩm nhận định về chia quyền
3- Do số vi diệu này các Thánh lập Đạo
 Tàng Kinh Các          [1] [2

- Thực tế nền Đạo có 3 Giáo Tông
- Đạo phục của Giáo Tông
- Đạo phục xác định quyền hành

B - Đạo phục của Giáo Tông qua Pháp C truyền
I - Bộ Đại phục
II - Bộ Tiểu phục:
III - Tiểu phục Giáo Tông: Bát Quái Hư vô

I - Bát Quái hư vô thành hình
2 - Tính chất của Bát Quái Hư vô
3 - Tổng luận về Bát Quái Hư vô

C - Thầy ban cho thi là xác nhận quyền hành của GT
1 - Đạo có Giáo và Tông
2 - CTĐ là cơ quan quản trị Càn khôn thế giới
3 - Bát Quái Đồ Thiên thành hình
4 - Tại sao lại có một số Chức sắc bỏ Đạo
5 - Lý thất phản Cửu hòan và giá trị các con số

D - Giáo Tông làm chủ hai Bát Quái Cao Đài
E - Tịch Đạo
1 - Tịch Đạo Thanh Hương
2 - Tịch Đạo Đạo Tâm
3 - Tịch: Thanh Đạo
4 - Tịch: Hương Tâm

Kết luận: Quyền hành Giáo Tông
1 - Tại sao quyền Chí Tôn lại chia làm hai ?
2 - Thể pháp của Đạo Cao Đài
3 - Phương diện Chánh thể Đạo
4 - Giáo Tông làm chủ hai Bát Quái

III - Quyền hành Chưởng Pháp
1 - Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ
2 - Vì sao một thành 3 mà 3 cũng như một ?
3 - Luận Đạo: luận về Cổ Pháp
4 - Ý nghĩa Tham Thiên lưỡng địa
5 - Kết:  ba Chưởng Pháp đầu tiên Chí Tôn phong

IV - Quyền hành Đầu Sư
1 - Ba Đầu sư có Thánh Danh:Nhựt, Nguyệt, Tinh
2 - Ba Đầu sư có Thánh danh mang chữ “Thanh”
3 - Ba Đầu sư kế tiếp hòan thành con số 9

Ba Nữ Đầu Sư đầu tiên
V- quyền hành của Chánh Phối sư & Phối sư
VI - Quyền hành của Giáo sư
VII - Quyền hành của Giáo Hữu Nam Nữ
VIII - Quyền hành của Lễ Sanh

Tổng luận về Cửu Trùng Đài
Kinh nói: Thời thừa Lục Long du hành bất  tức
6 phẩm Cửu Trùng Đài ứng với 6 hào quẻ Kiền
Ba thời kỳ Phổ Độ
Hình thể Đạo Cao Đài

I - Ðức Chí Tôn  lập Pháp Chánh Truyền
CỬU TRÙNG ĐÀI NAM PHÁI
Ngày 16-10-Bính Dần (dl: 20-11-1926)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
viết  CAO ÐÀI Giáo Ðạo Nam Phương

Hỉ Chư Môn Ðệ.
Chư Minh Lý có mặt há?
Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe:
Thầy lập phẩm GIÁO TÔNG nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.

Thầy mừng các con ! Chư Môn Ðệ nghe: Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng cầu rỗi cho các con, nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng !
CHƯỞNG PHÁP của ba phái là: ĐẠO- NHO- THÍCH; Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mắt Thầy vốn coi như một vậy, thì một thành ba, mà ba cũng như một. Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành; hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống hay là nơi Ðầu Sư dâng lên. Như hai đàng chưa thuận thì chúng nó phải dưng lại cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống sửa lại, hay là tùy ý lập Luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét Kinh điển trước lúc phổ thông, như thoảng có Kinh luật chi làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản. Buộc các Tín Ðồ vùa sức mà hành sự trước mặt Luật đời, Thầy khuyên các con rán xúm nhau mà giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng, ba ấn phải có đủ trên mỗi Luật mới đặng thi hành.

Chư Môn Ðệ tuân mạng !
ÐẦU SƯ có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của Chư Môn Ðệ. Nó đặng quyền lập Luật, song phải dâng cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt coi phải có ích cho nhơn sanh chăng ! Nên Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.

Chúng nó phải tuân mạng lịnh GIÁO TÔNG, làm y như luật lệ Giáo Tông khuyến dạy; như thoảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ. Thầy khuyên các con phải thương yêu nhau và giúp đỡ nó, Thầy lại dặn các con: Như có chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó. Ba Chi tuy khác chớ quyền luật như nhau, như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả BA đều ký tên không tuân mạng, thì Luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, chúng nó có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ẤN mới thi hành nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng !.
PHỐI SƯ mỗi phái là mười hai người cộng là ba mươi sáu, trong 36 vị ấy có ba vị CHÁNH PHỐI SƯ. Ba vị ấy đặng thế quyền cho ÐẦU SƯ mà hành sự, song không quyền cầu phá luật lệ nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
GIÁO SƯ có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư Môn Ðệ trong đường Ðạo với đường Ðời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em, chúng nó cầm sổ bộ của cả Tín Ðồ. Chúng nó phải chăm nom về sự Tang, Hôn của  mỗi đứa.

Như tại Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về Luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Ðệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
GIÁO HỮU là người để phổ thông chơn Ðạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Ðạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều mỗi phái một ngàn, chẳng đặng tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép khi hành lễ làm chủ các Chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Ðiều chi chúng nó xin thì buộc GIÁO TÔNG phải cần mẫn xét nét hơn hết, như điều gì mờ hồ thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm duyệt. Chúng nó phải đủ hạnh đức, tư cách mới đặng, vì chúng nó là người thân cận với nhơn sanh hơn hết... nghe à.!

LỄ SANH là người có hạnh lựa chọn trong chư Môn Ðệ để hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi Khai đàn cho mỗi Tín Ðồ. Thầy dặn các con hiểu rõ rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
      ... Con khá an lòng chờ đợi, Thầy sắp đặt NỮ PHÁI, công con Thầy chẳng quên, con chớ rầu buồn. Thầy còn lắm điều sắp đặt, con đừng vội mà ngã lòng nghe à !.

Tiếp theo, ngày 17-10-Bính Dần:
THẦY
- Ðầu Sư  muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử.
- Phối Sư  muốn lên Ðầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
- Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị xúm nhau công cử.
- Giáo Hữu  muốn lên Giáo Sư,  thì  nhờ  3000  vị  xúm nhau công cử.
- Lễ Sanh  muốn lên Giáo Hữu, thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
- Môn Ðệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn Ðệ xúm nhau công cử, kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.

      Còn GIÁO TÔNG thì hai phẩm Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn Ðệ công cử mới đặng; kỳ dư Thầy giáng Cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi. Chư Môn Ðệ tuân mạng.!

Thầy ban ơn cho các con. Thăng.”

*
         *

Tóm tắt về Hệ thống tổ chức Cửu Trùng Đài:

Cơ quan Cửu Trùng Đài có ba cấp kể từ trên xuống là: Tiên vị, Thánh vị, Thần vị. Mỗi cấp như vậy gồm có ba phẩm và có phần đối phẩm, theo bảng tóm tắt sau:
- Tiên vị:     Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư
- Thánh vị: Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu
- Thần vị:   Lễ Sanh, Bàn Trị Sự, Tín đồ.

Nếu nhìn vào ba cơ quan của nền Đại Đạo thì:
- Bát Quái Đài dưới quyền Đức Chí Tôn chưởng quản ấy là cơ quan LẬP PHÁP.
- Cửu Trùng Đài dưới quyền Đức Giáo Tông Chưởng Quản ấy là cơ quan HÀNH PHÁP
- Hiệp Thiên Đài dưới quuyền Đức Hộ-Pháp Chưởng Quản ấy là cơ quan TƯ PHÁP

II- Đức Chí-Tôn lập
PHÁP CHÁNH TRUYỀN HIỆP THIÊN ĐÀI

Ngày 12-01-Ðinh Mão (dl: 13-2-1927 )
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phương
Các con. Cả chư môn đệ khá tuân mạng !
Hiệp Thiên Đài là nơi THẦY ngự cầm quyền thiêng liêng mối Ðạo. Hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.

Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị qui phàm là vì khi trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra Phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa.
Lại nữa, Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới, Lục thập bát Ðịa cầu, Thập Ðiện Diêm Cung, mà cầu siêu cho cả nhơn loại.

Thầy đã nói sở dụng thiêng liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
Hiệp Thiên Ðài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm.

Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân chia làm ba:
1. Phần của HỘ PHÁP chưởng quản về PHÁP thì:

- HẬU                                  Bảo Pháp, (1)
- ÐỨC                                  Hiến Pháp,
- NGHĨA                              Khai Pháp,
- TRÀNG                             Tiếp Pháp,

          Lo bảo hộ Luật đời và Luật Ðạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.

2- THƯỢNG PHẨM thì quyền về phần ÐẠO:
- CHƯƠNG                                     Bảo Ðạo,
- TƯƠI                                            Hiến Ðạo,
- ÐÃI                                               Khai Ðạo,
- TRỌNG                                        Tiếp Ðạo, (2)

Lo về phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.

3. THƯỢNG SANH  thì lo về phần ÐỜI:
- BẢO THẾ                thì                    PHƯỚC
- HIẾN THẾ               -                      MẠNH
- KHAI THẾ               -                      THÂU
- TIẾP THẾ                 -                      VĨNH

Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo.
Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền ắt trọng phạt. Thầy ban ơn cho các con”.

*
*          *

Luận: Bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài, ngày 12-01-Ðinh Mão (dl: 13-02-1927) và phong chức chánh thức cho Thập Nhị Thời Quân mà trước đây Ðức Chí Tôn chỉ tạm phong là: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ.

Chức sắc cầm quyền Hiệp Thiên Ðài gồm có:
- Chưởng quản HIỆP THIÊN ĐÀI và Chưởng quyền Chi PHÁP là Ðức HỘ-PHÁP  PHẠM CÔNG TẮC.        
          Phụ Tá Hộ Pháp có Thượng Phẩm và Thượng Sanh:
- Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư Chưởng quyền chi Ðạo
- Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang Chưởng quyền chi Thế.
Dưới Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh có Thập nhị Thời Quân, chia ra ba Chi: Pháp- Ðạo -Thế.
* Chi Pháp gồm bốn vị Thời Quân:
Nguyễn Trung Hậu - Bảo Pháp 
Trương Hữu Ðức    - Hiến Pháp
Trần Duy Nghĩa      - Khai Pháp

Trương Văn Tràng - Tiếp Pháp
* Chi Ðạo gồm bốn vị Thời Quân:
 Ca Minh Chương  - Bảo Ðạo 
 Phạm Văn Tươi     Hiến Ðạo
Phạm Tấn Ðãi        Khai Ðạo
Cao Ðức Trọng      Tiếp Ðạo

* Chi Thế gồm bốn vị Thời Quân:
- Bảo Thế:    Lê Thiện Phước
- Hiến Thế:   Nguyễn Văn Mạnh.
- Khai Thế:  Thái Văn Thâu.
- Tiếp Thế:   Lê Thế Vĩnh.

(1) Bảo là giữ gìn; Hiến là dâng; Khai là mở, bày ra; Tiếp là rước. Ông Cao Ðức Trọng đắc phong Tiếp Ðạo sau hết.

Chú giải:
Theo ÐS.II. 11-12, để dự bị Thập nhị Thời Quân, ÐỨC CHÍ TÔN lập 6 cặp Phò loan, phong là Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo sĩ, gồm:

1- Trương Hữu Ðức - Nguyễn Trung Hậu: Phò loan tại đàn Cầu Kho (nhà của Ông Ðoàn Văn Bản).
2- Trần Duy Nghĩa -Trương Văn Tràng: Phò loan tại đàn Lộc Giang (Phuớc Long Tự Chợ Ðệm, sư trụ trì: Yết Ma Giống)
3- Phạm Văn Tươi - Ca Minh Chương: Phò loan tại đàn Tân Kim (nhà Hội Ðồng Nguyễn Văn Lai, xã Tân Kim, Cần Giuộc)
4- Nguyễn Thiêng Kim - Phạm Tấn Ðãi: Phò loan tại đàn Long Thành Tự ở gần Chợ Rạch Kiến, Cần Ðước).
5- Huỳnh Văn Mai - Võ Văn Nguyên: Phò loan tại đàn Thủ Ðức (nhà của Ông Ngô Văn Ðiều, gần Chợ Thủ Ðức).
6- Nguyễn Văn Mạnh - Lê Thiện Phước.

        Khi lập Pháp Chánh Truyền HIỆP THIÊN ĐÀI, ba vị Phò loan: Nguyễn Thiêng Kim, Huỳnh Văn Mai, Võ Văn Nguyên không đến dự, nên ba vị nầy không được vào Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài. Ðức Chí Tôn phong cho ba vị khác là: Thái Văn Thâu, Lê Thế Vĩnh, Cao Ðức Trọng.
Ngài Cao Ðức Trọng được Ðức Chí Tôn phong sau cùng khi Ðức Chí Tôn bảo Ðức Hộ Pháp lên Nam Vang mở đạo. Tại Nam vang, Ðức Hộ Pháp phò loan cùng Ngài
Cao Ðức Trọng, để Ðức Chí Tôn giáng thâu môn đệ.

Ngài Cao Ðức Trọng được Ðức Chí Tôn ân phong Tiếp Ðạo ngày:  29-6-Ðinh Mão (dl: 27-7-1927).
Đặc biệt: Đạo Cao Đài ngày nay thông công (tức  liên lạc) với các Ðấng thiêng liêng qua CƠ BÚT của Hiệp Thiên Ðài để tham khảo ý kiến hay nhận mệnh lệnh.
- Lục thập bát Ðịa cầu là  Ðịa cầu Thứ 68 mà nhơn loại đang sinh sống trong số Thất thập nhị Ðịa. Dưới Ðịa cầu số 68 còn 4 quả địa cầu nữa, gọi là U Minh Ðịa.
- Thập Ðiện Diêm Cung là 10 Cung Ðiện của 10 vua Diêm Vương (Thập Ðiện Diêm Vương).
- Sở dụng là Sự quan trọng về công dụng của nó.

Tại sao chi Đạo và chi Pháp Thầy lại để tên của Chức sắc trước, phẩm tước sau?  Riêng chi Thế thì phẩm tước trước, tên Chức sắc sau?
Đức Thượng Sanh nói: Các bậc hiền thời xưa đựơc có cái tiết tháo như vậy là nhờ biết phân biệt cái tước của Trời cho và cái tước của người cho: Nhân-Nghĩa, Trung-tín, vui làm điều lành không mỏi là cái tước của Trời cho, tức là Thiên tước. Công khanh, đại-phu là cái tước của người cho, tức là Nhơn tước. Người xưa lo sửa cái Thiên-Tước thì cái Nhơn tước theo sau và được bền bĩ. Người đời nay chỉ lòe mình có cái Thiên tước để cầu lấy cái nhơn-tước; khi đã được cái nhơn tước rồi thì dẹp bỏ cái thiên-tước không nói đến nữa. Như thế thì thật là qúa nông-nỗi vì rốt cuộc thành ra mất hết, cái nhơn tước cũng không giữ được bao lâu!”
(Huấn-từ của Đức Thượng-Sanh nhân lễ tấn-phong Hiền-Tài. 08-02-Canh -Tuất (dl: 15-03-1970).
Đấy cũng là lý Âm- Dương thuận nghịch đó vậy !
Chi Đạo (Dương), chi Thế (Âm- Đời của Đạo). Âm Dương tương hiệp. Chi Pháp là cơ Hòa. Hiệp đủ Tam tài.

III- Ðức Lý lập Pháp Chánh Truyền
Nữ PHÁI - Cửu Trùng Ðài

-o0o-

Thánh giáo ngày 8-6-Bính Dần (Samedi 17 Juillet 1926) 
Thầy dạy thành lập Nữ phái:

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Giáo Đạo Nam Phương
 “Ðường Thị ! Thầy giao phe Nữ cho con lập thành. Chẳng phải vì đờn bà mà sớm nồi cơm, chiều trã cháo hoài.

Phần các con truyền đạo kỳ Phổ-Ðộ nầy cũng lắm nặng nề; bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ; Nam biết thành Tiên Phật chớ Nữ lại không sao ? Thầy đã nói Bạch Ngọc Kinh có cả Nam và Nữ, mà phần nhiều Nữ lấn quyền thế hơn Nam nhiều.
Vậy con phải tuân lịnh Thầy mà lập thành NỮ PHÁI. Nghe và tuân, Thầy hằng ở với con, lo chung cùng con; con chớ ngại.

H... Thầy giao Nữ Phái cho con rộng quyền dạy dỗ, làm chủ, chờ Thầy thâu đến mà giao cho con, trách nhậm con Thầy sẽ chia bớt với”.

Tây Ninh, vào ngày 11-01-Đinh-Mão (Thứ Bảy, 12-02-1927) Đức Lý lập Pháp Chánh Truyền Nữ phái, đồng thời Đức Lý Giáo Tông cũng ban sắc phục cho Nữ phái.

THÁI BẠCH NỮ PHÁI
(Trích y Thánh Ngôn của Giáo Tông Lý Thái Bạch)

Nữ phái vốn của Ðức Lý Giáo Tông lập thành.
Hộ Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng Chánh Phối Sư HƯƠNG THANH rằng: muốn phế Nữ Phái, song con cũng đồng con, hễ bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam, Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ Phái buổi lập Pháp Chánh Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền bí với Thầy cùng Ngọc Hư Cung nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam lòng để cho Ðức Giáo Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật lệ Thiên Ðiều hay chăng ? Hễ càng suy nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày. Xem lại Nữ Phái không biết trau giồi trí thức đặng làm trách nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu lo thêm nữa    Chính mình Cao Thượng Phẩm mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha thứ cho Nữ Phái nơi Ngọc Hư, bằng chẳng thì đã bị phế; xin chư Ðạo Tỷ để dạ lo lấy phận mình.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái; nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp".

CHÚ GIẢI: Ðức Giáo Tông đến kêu Hội Thánh Nam Phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt của Nữ Phái Ngài đến ban đặng hành lễ theo đẳng cấp.

Cái tiếng sắc tốt không, dầu ai đọc đến cũng thầm hiểu nghĩa lý sâu xa.(1)
Giáo Tông duy chỉ dặn xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài buộc phải có trật tự cho lắm, vì vậy mà cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ phái phân biệt nhau, chẳng đặng chung hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.

Hộ Pháp có hỏi Ngài về sự tôn ti phẩm trật, thì Ngài dạy rằng: Nam Nữ vốn đồng quyền, còn hỏi về Lễ Nghĩa giao thiệp về phần Ðời, thì Ngài dạy Giáo Hữu Nam Phái cũng chịu dưới quyền Giáo Sư Nữ Phái (2), còn lễ thì khi vào Ðại Ðiện tỷ như Giáo Sư Nam Phái gặp Phối Sư Nữ Phái thì Nam phải đảnh lễ Nữ trước, lớn nhỏ vẫn đồng, quyền hành tùy Chức Sắc.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nữ Phái phải tùng Ðầu Sư Nữ Phái song Ðầu Sư lại phải tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp.

CHÚ GIẢI: Hội Thánh Nữ Phái phải tùng quyền Ðầu Sư Nữ Phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo Tông và Chưởng Pháp.

Xem rõ lại thì Pháp Chánh Truyền truất quyền Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông.

Hộ Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy: Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng

Pháp và Giáo Tông, thì con e mất lẽ công bình chăng?
Thầy dạy: Thiên Ðịa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt, Âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế Giái phải chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái cầm quyền Giáo Tông làm chủ nền Ðạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Ðạo ắt bị tiêu tàn ám muội.

Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.

Thầy dạy: "Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ Pháp, con ! Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp !”

 Chú thích: (1) Nếu chư Hiền Hữu biết coi Nữ Phái như em thơ dại, chỉ biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ dỗ như Lão vậy mới đặng làm trai con  Thầy mà chớ.  (2) Phải vậy. !

IV- LUẬN ĐẠO
          Như trên cho thấy rõ Pháp-Chánh-Truyền Cửu Trùng Đài Nam phái (tượng Âm) được lập trước, kế đến lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài (tượng Dương); như vậy là Thể pháp đến trước, Bí pháp đến sau; Âm trước, Dương sau.

Đây là Đạo Trời thì Âm- Dương là chỉ hai quẻ: CÀN (thiên), KHÔN (địa), từ đó mới phát khởi. Song song, thì Đức Lý lập Pháp Chánh Truyền cho Nữ phái Cửu Trùng Đài, ấy là cơ HÒA, hoàn thành con số 3 ứng với Tam Tài thật là mầu nhiệm.

I- Tại sao phải Âm trước Dương sau?
   Một:  là thành quả của quẻ  ĐỊA THIÊN THÁI

Trên là KHÔN  tức nhiên khí Âm từ trên giáng xuống; dưới là CÀN  khí Dương từ dưới bốc lên, hai bên giao hòa, thế mới gọi là THÁI, là hanh thông, Càn Khôn giao nhau, lấy Âm bao Dương, vạn vật  mới sanh sanh hóa hóa.

- Hai là mở Thể pháp trứơc, mở Bí pháp sau, theo lời của Đức Hộ Pháp nói: "Trong thời kỳ Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn xuống thế mở Đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:     
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí Pháp trước hay là mở Thể-Pháp trước ?
-Bần-Đạo mới trả lời:  - Xin mở Bí-Pháp trước!

Chí-Tôn nói: Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa ! Đang lúc đời đang cạnh-tranh tàn-bạo, nếu mở Bí-pháp trước cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại, thì mối Đạo phải ra thế nào ? Vì thế nên mở Thể-pháp trước, dù cho đời quá dữ có tranh giành phá hoại cả cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại. Xin miễn là mặt Bí-Pháp còn là Đạo còn”.

ĐHP:  30-5-Quí-Tỵ (1953)
Đức Ngài dạy rằng:
“Phải hiểu THỂ PHÁP, biết Thể pháp, rồi mới thấu đến BÍ-PHÁP. Khó lắm ! Phải để tinh-thần tìm hiểu cho lắm! Khó lắm ! Phải rán học cho lắm mới có thể đoạt đặng! Điều rất khó-khăn là phải viết sách”  (ĐHP: 5-4 Kỷ-Sửu)

Như vậy:
“LUẬT của Đạo, cốt yếu làm cái khuôn khổ cho đại gia đình này còn, tức là làm cho nên chí Thánh; có nghĩa là ĐỨC CHÍ-TÔN muốn tạo cho con cái của Ngài thành THÁNH thì phải làm sao?
- Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm

cho thiên-hạ muốn gần, vì đáng tôn sùng yêu-ái mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-Lồ để tắm rửa linh-hồn vậy. Chơn truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật- Tiên- Thánh là phương để gội rửa linh-hồn”.   

Thế nên trong cửa Đại Đạo ngày nay đâu đâu cũng thấy chữ “THÁNH” như Thánh Thất, Thánh Thể Chí-Tôn, Tòa Thánh, Thánh địa…Vậy thì người sống trên Thánh Địa này cũng  phải có Tâm Thánh; đó là điều quan trọng.

2 - Vậy Thánh là gì ?
- Phân tích chữ THÁNH  có ba phần: phần trên hết hợp bởi chữ nhĩ (nhĩ là lỗ tai, tai để nghe) kế đến chữ khẩu  (khẩu là miệng, miệng để nói); nghe là học, nói là hành; tức là “Tri hành hiệp nhứt” dù khi còn học hay khi ra thực hành cũng được mọi người khen tặng, nễ vì như một vì VƯƠNG  (vương  là vua). Trong chữ Vương  lại có Càn  3 nét, ấy là Tam Tài: Thiên- Nhân- Địa, đó vậy. Tức nhiên chữ Vương đặt ở dưới hai chữ nhĩ và khẩu đã nói trên, họp lại là chữ THÁNH  là người tài đức thông hiểu mọi việc

Luận về Tài Đức, Bát Nương Diêu Trì Cung dạy:
Tài lấn đức tài mau diệt tận,
Ðức đồng tài, tài phấn khởi thêm.
Mênh mông biển khổ con thuyền,
Ðạo sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần.
Ỷ tài sức cậy thân dựa thế,
Tài càng nhiều càng lụy đến thân.
Tài kia tai nọ luôn vần,
Ðức tài trau luyện đồng cân mới mầu.
Trăm năm một cuộc bể dâu !

Tố Như Tiên sanh là cụ Nguyễn Du dạy đời qua hai câu:
 “Thiện căn ở tại lòng ta,
 “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài"

Ở người tài ba, đạo đức cao thượng thì ba nét (Tam tài) này là phải đạt cho được những điều tối yếu:
    - Trên thông thiên văn,
    - Dưới đạt địa lý,
    - Giữa quán nhân sự.

Lại nữa chữ vương  thì nét trên là thiên, dưới là địa, nét giữa là nhân; là  phải thông suốt, chữ Thập  ở giữa là sự quán thông thiên địa. Chúa Cứu Thế chết ở chữ Thập này.
Nếu giải chữ THÁNH qua bốn chiều không gian, thì chữ THANH đứng vào trung tâm, tức nhiên điều cần yếu là phải tự thanh lọc, đạo đức, rồi từ đó biết hướng thượng là nên THÁNH. Dẫu làm việc gì cũng THÀNH, được thành công bởi đã noi theo căn bản tốt đẹp thì THẠNH bình, thạnh vượng. Vậy là tâm hồn THẢNH thơi, hạnh phúc.

3- Thánh Thể CHÍ TÔN khởi từ GIÁO HỮU  教友

Trong cửa Đại Đạo ngày nay Giáo Hữu đã vào Thánh-vị, đối phẩm ĐỊA THÁNH nên Pháp Chánh truyền qui định:
 “Giáo-Hữu là người để phổ-thông Chơn Đạo của Thầy” nhưng Thầy buộc:
 -  Phải học cho lảu thông Chơn Đạo của Thầy.
 -  Phải có khoa-mục mới đặng.
 -  Phải thể Đạo cho xứng đáng Tôn-chỉ của Đạo.

“Cái phận sự phổ thông là một phận sự lớn lao quí trọng, nếu chẳng biết tôn chỉ của Ðạo cho thông suốt, lại đem xuống truyền bá cho nhơn sanh những tư tưởng nghịch cùng chơn lý của Ðạo, là hại Ðạo. Huống chi Thầy đã nói GIÁO HỮU là người thân cận của nhơn sanh hơn hết, nếu chẳng lựa chọn kẻ hạnh đức, tu tâm, có đủ tư cách mà bày gương Ðạo cho rõ ràng, nhơn sanh chỉ để mắt vào đó mà khen, hay là chê Ðạo, vì sự chơn thật, hay là giả dối, nhơn sanh chỉ coi đó mà quyết đoán. Trò phải như Thầy, mà Thầy thế nào Trò phải thế ấy, nhơn sanh xem Trò mà đoán Thầy. Cái thể thống của Ðạo Thầy gọi là chơn thật thì phải hành Ðạo thế nào cho ra chơn thật y như Thầy sở định. Bực trí thức, muốn quan sát một nền Ðạo nào, thì chẳng cần biết hết Chức Sắc, chỉ lựa một phẩm vị yếu trọng hơn hết là bực hạ thừa, mà so sánh tư cách, hạnh đức, đặng quyết đoán tôn chỉ nội dung của Tôn Giáo ấy.. Muốn cho xứng đáng thì phải thông suốt cả các chơn lý Ðạo”. (PCT)

GIÁO HỮU là người phải đạt Tam Tài như trên đã nói. Vì sợ e rằng còn khiếm-khuyết, chưa đầy đủ nên mới “buộc”. Ở vào thời-kỳ còn buộc tức là còn nghi ngờ, chờ sự kiểm điểm, khảo-duợt, lọc lừa, nên ứng với lời chiếm của hào Sơ Cửu quẻ CÀN là  “Tiềm Long vật dụng”.

Vật dụng tức là chớ dùng. “Chớ dùng” đây là vì vấn đề trọng-yếu chớ không phải không dùng được, vì tính cách hào Sơ Cửu quẻ Kiền là Dương cương ở vào vị Dương được đắc chính, cho nên phẩm Giáo-Hữu chỉ được dạy bạn mà thôi, ở vào thời “Chớ dùng”, cho nên phải:

- Tích-luỹ tài năng, đức độ cho được cao dày: sáng chói hơn, vững-vàng hơn, thông suốt nhiều hơn.
- Chờ sử dụng cho đúng với địa vị và quyền hành thích đáng hơn;
- Chờ đúng thời-gian, đúng lúc, vì mỗi phẩm cấp phải đủ năm năm công quả mới được thăng lên phẩm kế tiếp, với điều kiện công nghiệp không gián đoạn.

GIÁO-HỮU, là một phẩm cấp đầu tiên bước vào hàng THÁNH, là nền tảng của Đại Đạo nên Chí Tôn đã chủân bị kỹ lưỡng. Từ đây những phẩm kế tiếp cứ theo cái đà tiến triển đó mà tiến dần vừa là TÀI NĂNG vừa là ĐỨC HẠNH thì tương lai sẽ có một HỘI THÁNH HÒAN TÒAN TỐT ĐẸP, lo gì nền Đại Đạo này không phổ biến khắp năm châu như Thánh Ý của Thầy truyền đến ĐẠI ĐỒNG THẾ GIỚI trong Thất ức niên tuổi Đạo..

Thánh Ngôn:“Hiệp-Thiên-Đài còn chưa muốn nhìn, thì ĐẠO một ngày kia cũng sẽ bị chối. Thầy tìm phương sửa cải cũng đáng đó chút ! Nhưng cũng bởi chư Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho rõ cơ ĐẠO của thế-gian này, nên Thầy không giáng cơ mà phân-giải lại nữa. Các con đã chịu một trách-nhiệm nơi mình, nếu Thầy chẳng để cho các con học tập mà lập nên địa-vị mình trước mặt chúng sanh cho xứng-đáng, thì Đạo cũng chưa ra vẻ Đạo. Vì vậy mà Thầy chịu ép lòng để cho các con hằng nhớ rằng: Chẳng giờ phút nào Thầy xa các con hết.  Nghe à!
                            THI
Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường.
Cho roi cho vọt mới là thương.
 Nhơn-tình ví chẳng mưu thâu-phục,
 Thế-giới mong chi phép độ lường.
 Nhỏ dại Thầy nuôi mùi đạo-hạnh,
 Lớn khôn bây xứng mặt hiền-lương,
 Vinh-hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
 Khổ cực các con chớ bỏ trường.!                                    

*
         *

V- PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI VỀ QUYỀN HÀNH của GIÁO TÔNG

A- Pháp Chánh Truyền: Giáo Tông là ANH CẢ các con
LUẬN: Trong nền Đạo có hai Giáo Tông là hai Anh Cả:
- Một về vô vi: là Đức Lý Thái Bạch Kim Tinh,
- Một  hữu hình là Quyền Giáo Tông Lê văn Trung

Cả hai đều là ANH CẢ của nhơn sanh được tôn tặng.
Đức Hộ-Pháp nói: đêm nay 17-8-Quí Tỵ (1953): Vía Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ðức Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Ðức Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển linh, quyền năng vô đối.

Chữ Hán gọi ANH là Huynh  trong chữ huynh có hai phần: trên là chữ khẩu  là cái miệng để nói, dưới là bộ Nhơn đứng . Thế thường, Anh là người chỉ có quyền dùng lời nói dạy bảo em. Khi cha mẹ còn tại tiền thì Anh là “Quyền huynh thế ngôn”, khi cha mẹ mãn phần thì Anh là “Quyền huynh thế phụ”; nghĩa là trong nền Đại Đạo, Đức Chí-Tôn muốn cả thảy xem nhau như ruột thịt.

CHÚ GIẢI:“Giáo Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì ANH CẢ nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền Thiêng Liêng đã định vậy.

Tuy trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: "Cửu Trùng Ðài" và "Hiệp Thiên Ðài" mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là em của Giáo Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ phần Thiêng Liêng thì đồng vị”.

LUẬN: Về thiêng liêng thì đồng vị, nên: đồ hình bên đây biểu tượng bằng hai hình tam giác đều (suy từ hai quẻ Càn  Khôn ) cùng nội tiếp trong vòng tròn. Nhưng:
- Hộ Pháp tượng tam giác đỉnh quay lên, vì Hiệp Thiên Đài  (Đạo- Dương quẻ Càn).
- Giáo Tông tượng tam giác đỉnh quay xuống, vì là Cửu Trùng Đài (Đời- Âm quẻ Khôn)

Xem ra: Đời (Âm), Đạo (Dương) tức nhiên trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, gọi là “Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn” luôn luôn là qui luật, ấy là ĐẠO- ĐỜI tương đắc (nhưng Đời đây là Đời trong Đạo, phân biệt với đời của đời có khác nhau xa).
- Giáo Tông lớn ở dưới (Anh Cả - đỉnh dưới của tam giác)
- Hộ-Pháp nhỏ mà ở trên (Em- đỉnh trên của tam giác).

Thượng Đế ngự vào tâm để chứng minh quyền Thiêng Liêng là tối thượng. Tam Kỳ Phổ Độ này Đức Thượng Đế là Giáo Chủ về vô vi. Ngài đến ban quyền Chí Tôn tại thế cho hai ông Chủ của hai Đài hữu hình là Giáo Tông và Hộ-Pháp: khi hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế.

Ngày nay, Thầy đến chia đôi quyền CHÍ TÔN ra:
 - GIÁO TÔNG chỉ có quyền dìu dẫn con cái của CHÍ TÔN về phương châm giáo hóa, chánh trị cho thuần phong mỹ tục, thay quyền cho CHÍ TÔN trong đường Ðạo và đường Ðời mà thôi .
- Còn HỘ-PHÁP có đặc quyền gìn giữ luật pháp, bảo thủ chơn truyền; gìn giữ ngôi vị cho con cái CHÍ TÔN, không cho loạn hàng thất thứ.

Phương pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng và còn chia đôi cho lưỡng quyền không thể chuyên chế để áp dụng mà hà hiếp con cái của Người.
Thánh Ngôn: “Khai Thiên Ðịa  vốn Thầy, sanh  Tiên
Phật cũng Thầy. Thầy đã nói một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật”.

PCT: Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.
CG: Giáo Tông đặng đồng quyền cùng Thầy mà dạy dỗ cả chư Môn Ðệ của Thầy trong đường Ðạo-đức, dìu bước từ người, chăm nom săn sóc cho khỏi phạm Thiên Ðiều, thì là buộc tuân y TÂN LUẬT. Ấy vậy dầu cho phẩm vị nào phạm tội; thì Giáo Tông cũng chẳng vì tình riêng gọi là tha thứ khoan dung, để lòng che chở, làm cho kẻ phạm phải mất Thiên-vị, lại gây điều đố kỵ của nhơn sanh, làm cho nhẹ giá trị của nền Chánh Giáo. Những sự đau thảm khó khăn của Tín Ðồ tức là chúng sanh, những sự khổ hạnh của Hội Thánh, nghĩa là hàng Chức Sắc Thiên Phong, thì Giáo Tông phải liệu phương che chở an ủi làm cho đời khổ não hóa ra đời hạnh phước; người nắm trọn quyền thể Thiên hành hóa, ấy là phận sự tối cao tối trọng của Ðức Giáo Tông đó.

PCT: Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
CG: Hễ nói về phần xác là nói phần hữu hình, mà nói về phần hữu hình của chúng sanh tức là nói về phần Ðời. Còn như nói về phần hồn tức là phần Thiêng Liêng ấy là phần Ðạo.

Trên đây Thầy đã nói rằng: Có quyền dìu dắt trong đường Ðạo và đường Ðời, thì Thầy đã chỉ rõ rằng, có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường Ðạo Ðức của chính mình Thầy khai tạo và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên; chớ chẳng phải nói trọn quyền về phần Ðạo và phần Ðời, nghĩa lý phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN,xin rán hiểu đừng lầm hai chữ ấy”

LUẬN ĐẠO:
1- Phân biệt  chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN:
Đường Đạo Thầy mở ra ngày nay là con đường “phản bổn hòan nguyên” ấy là ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO. Đặc biệt là Thầy đến ban cho nền ĐẠI ĐẠO này thêm hai Bát Quái nữa làm hành trang cho bước đường trở về:

Đây là nói đến hai Bát Quái Cao Đài:
 (Xem khai  triển các Bát Qúai. Trang:  68- 82)
Ấy là nhiệm vụ của Đức  Giáo Tông  hữu hình đó:
- “Có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường Ðạo-đức của chính mình Thầy khai tạo”, nghĩa là dẫn dắt “con cái của Thầy” phải đạt cho được BÁT QUÁI HƯ VÔ, chính là đường trở về để hiệp nhứt với Thượng Đế  là Đức Chí-Tôn - Đại Từ Phụ.
 (Bát Quái luyện Đạo trên Áo Tiểu phục Giáo Tông)

- “Và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên” Đó là con đường giáo hóa nhơn sanh, là biểu tượng của BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN, mà quyền hành Giáo Tông đã thể thiên hành hóa, dìu dắt chúng sanh thi hành TAM LẬP: lập Đức, lập Công, lập Ngôn và đạt cho được ba ngàn công quả.
Vì lẽ đây là con “ĐƯỜNG” THIÊN ĐẠO, duy nhứt trong cửa Đạo Cao Đài do Đức Chí-Tôn đến ban thêm  cho hai BÁT QUÁI trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này mà thôi.
Còn trước đây chúng sanh đã biết qua nhiều về  THẾ

ĐẠO hay Nhơn Đạo tức là thực hành hai Bát Quái đã có  từ trước, nhờ đó mà nhân lọai đã văn minh đến tuyệt đỉnh, đây là phần hành của ĐẦU SƯ. Qua hai Bát Quái Tiên Thiên và Hậu Thiên, ấy PCT nhấn mạnh là chữ “PHẦN”:

Nói chung đây là “PHẦN” THẾ ĐẠO tức là gồm cả phần Đạo và phần Đời, cũng có Bí pháp và Thể pháp của Thế Đạo nữa.

Đấy là đã giải rõ về “nghĩa lý phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN” .
Tóm lại:
- Giáo Tông nắm hai Bát Quái Cao Đài để thể Thiên hành chánh, là con ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO:

1 - Bát Quái Hư vô: ấy là Đường Đạo, thành Tiên tác Phật
2 - Bát Quái Đồ Thiên là Đường Đời, phụng sự vạn linh.
- Đầu Sư nắm hai Bát Quái Tiên Thiên & Hậu Thiên, mục đích là “Dạy dỗ nhơn sanh làm lành”, PHẦN THẾ ĐẠO, thực hành  Thể pháp và Bí pháp Thế Đạo:
1 - Bát Quái Tiên Thiên: là phần Đạo, giải nguyên lý vũ trụ
2 - Bát Quái Hậu Thiên:phần Đời, cách sống của con người      
Chú Gỉai: “Ðây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.

Hộ Pháp hỏi: "Thưa  Thầy  theo  như  luật  lệ Thánh Giáo Da-Tô (1) Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì  con  sợ  e  cho

Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng?"
Thầy đáp: "Cười ! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt. Hơn nữa, cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.

Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.

Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.

Như Thầy để cho Giáo Tông trọn quyền về phần xác và phần hồn (nghĩa là Ðạo và Ðời) thì "HIỆP THIÊN ÐÀI" lập ra chẳng là vô ích lắm sao con ? "CỬU TRÙNG ÐÀI" là Ðời, "HIỆP THIÊN ÐÀI" là Ðạo, Ðạo không Ðời không sức, Ðời không Ðạo không quyền: Sức quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp cùng nhau, chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh Giáo của Thầy cho khỏi trở nên phàm giáo 

(1) Bài Thánh thi của Đức Da-Tô 耶蘇 (Da viết D) có câu:
“DA  nồi thịt xáo hại lòng đau,
“TÔ  cả Năm Châu cũng máu đào”.

LUẬN: “Trước  kia  Ðạo  Thánh, CHÍ TÔN    quá thương Nhơn sanh, đã  giao  phần  hồn  và phần xác cho Ðức Chúa Giê-Giu (Jésus Christ) đủ quyền năng lập Ðạo. Trái lại, Nhơn sanh lợi dụng lẽ thương yêu ấy, nhứt là những kẻ kế vị cho Chúa, vì mang phàm thân nhục thể, thành ra quá lạm dụng quyền tối cao ấy như ngọn gươm bén mà sát phạt con cái của CHÍ TÔN. Chính CHÍ TÔN đã nói: "Vì quá thương mà ban cho". Ngày nay CHÍ TÔN cũng không phải đến lấy lại, mà chỉ chia đôi quyền hành ấy ra cho Giáo Tông và Hộ Pháp.

 “Giáo Tông là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa dìu dắt toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung nạp tâm lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên Triều, trọn cả đường Ðạo và đường Ðời cho trọn câu Thể Thiên Hành Hóa. Ngôi Giáo Tông là tột bực của loài người, mà chỉ truyền hiền, chớ không truyền tử. Như thế mới có thể lập đời Thánh Ðức trường tồn được”.

 2- Đức Thượng Phẩm nhận định về sự chia quyền:
“Nếu một thời-kỳ mà Giáo lý đã Thất Chơn-truyền thì đem đến cho nhơn-sanh biết bao tang-thương biến đổi. Cũng vì lẽ ấy mà nay Đức Chí-Tôn giáng trần lập Đạo lại chia hình thể của Ngài ra hai phần để có phương kềm thúc nhau trên bước đường lập vị.

- Phần Cửu-Trùng-Đài chuyên về mặt giáo hóa nhơn-sanh - Còn phần của Hiệp-Thiên-Đài thì lo về mặt Luật Pháp để bảo-thủ chơn-truyền của Đạo. Nhờ đó nền Thánh giáo của Đức Chí-Tôn khỏi phải qui thành phàm-giáo. Cũng vì lẽ quyền-hành riêng biệt ấy mà khiến cho hai bên thường có phản khắc Đạo quyền, bởi tánh phàm thường hay có phạm những lỗi-lầm mà chẳng chịu phục thiện đặng cải sửa cho trở nên tận thiện. Các Em đâu hiểu rằng CHÍ-TÔN giao quyền sửa trị Chức Sắc, Chức việc và toàn Đạo Nam, Nữ cho bên Hiệp-Thiên-Đài là Thánh-ý Đức Chí-Tôn muốn dùng hình phàm đặng làm cho giảm bớt tội vô hình. Nếu ai chẳng thận-trọng để cho phạm vào Pháp Luật mà chẳng chịu pháp sửa trị của Hiệp-Thiên-Đài thì rất uổng cho một kiếp tu mà không trọn phận và đến khi rời bỏ xác phàm rồi làm sao có cơ hội lập công nữa !”.

PCT: Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung, đặng cầu rỗi cho các con.

CG: Thầy đã nói, đặng cầu rỗi cho các con thì Thầy đã chỉ rõ rằng, Giáo Tông có phần cầu rỗi mà thôi, chớ phần siêu rỗi là về quyền của Bát Quái Ðài chưởng quản. Ðức Giáo Tông làm thế nào mà thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu rỗi cho các Tín Ðồ?
Người phải  đến  Hiệp Thiên  Ðài  cầu  huyền  diệu Cơ Bút mới đặng. Xin trích lục ra đây, đoạn  Pháp  Chánh

Truyền Hiệp Thiên Ðài nói về việc ấy:
"Lại nữa  Hiệp Thiên  Ðài là  nơi  của  Giáo  Tông thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu, Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại. Ấy vậy về phần Thiêng Liêng là phần Ðạo, thì Ngài chẳng có quyền  hành chi hết, dầu  cho dâng sớ cầu điều chi cùng Bát Quái Ðài, thì cũng phải do nơi Hiệp Thiên Ðài cả. Hiệp Thiên Ðài là trung gian để liên hiệp Giáo Tông cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật”.

            LUẬN:
Đức Cao Thượng Phẩm nói: “Tam Thiên Thế giới là ngôi vị, còn Thất Thập Nhị Địa là trường thi công quả".
“Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh Tú”. Lục Thập Thất Ðịa Cầu là địa cầu thứ 67, tức nhiên trên trái địa cầu mà nhân loại đang sống là địa cầu 68 trong số 72 địa cầu.Thầy cho biết dầu một vị Đế Vương ở Địa cầu 68 này cũng không bằng một người thường ở Địa cầu 67. Con số càng nhỏ dần là sự yếu trọng cho đến đệ nhứt cầu. Như vậy Giáo Tông được phép thông công cùng “Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới”, tức là ba mươi sáu từng Trời và bảy mươi hai Qủa địa cầu.

Thầy cho biết là “Tới Hạ tầng Thế-giái, Tam Thiên thế giái, Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho  đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68”.

Ngày 28-8-Bính Dần (Thứ hai: 04-10-1926)
Thầy dạy: Chúng Nam nghe:
- Thầy Khổng Tử trước có Tam thiên đồ đệ, truyền lại còn Thất thập nhị Hiền.
- Thầy Lão Tử trước đặng một trò là Nguơn Thỉ.
- Thầy Giê-Giu trước đặng Mười hai người, chừng bị bắt còn lại là Pierre mà thôi.
- Thầy Thích-Già đặng bốn người, ba người bỏ Thầy còn lại một.

Còn nay, Thầy giáng thế chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên Ðồ đệ. Các con coi đó mà hiểu rằng, các con có sự mà thiên hạ từ tạo thế đến chừ chưa hề có chăng?

Nơi Bạch Ngọc Kinh, hơn 60 năm trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thấy đại nộ của Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời. Thầy coi bọn ấy lại còn làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi các con biết chăng?

Các con có cả ba Chánh đạo là Tam giáo, các con biết tôn trọng, ngày nay lại thêm Chánh đạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy! Bị hàng phẩm Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước, đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con chịu số phận bần hàn mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy. Thầy nói cho các con biết: Dầu một vị Ðại La Thiên Ðế xuống phàm mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng. Các con nghe à !”
3- Do những số vi diệu này các Thánh lập Đạo:
- Ðức Khổng Tử  xưa có Tam thiên đồ đệ (3000 học trò),
- Trong đó có Thất thập nhị Hiền  (72 người tài giỏi),
- Trong Thất thập nhị Hiền có Thập Triết (10 Triết gia) và đặc biệt có hai vị Thánh là: Phục Thánh Nhan Hồi, Tông Thánh Tăng Sâm. (Ðời sau có thêm hai vị Thánh nữa là Thuật Thánh Tử-Tư và Á-Thánh Mạnh Tử, hịêp với hai vị Thánh trước nữa gọi chung là Tứ Phối).

Ngày nay lập Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn chọn:
- Nhứt Phật: là một phẩm Giáo Tông, đối phẩm Thiên Tiên hay Phật vị.
- Tam Tiên: là 3 vị Ðầu Sư cho 3 phái, mỗi phái 1 vị,  đối phẩm Ðịa Tiên.
- Tam Thập Lục Thánh: là 36 vị Phối Sư, chia đều mỗi phái 12 vị, đối phẩm Thiên Thánh
- Thất Thập Nhị Hiền: là 72 vị Giáo Sư, chia đều mỗi phái 24 vị, đối phẩm Nhơn Thánh.
- Tam Thiên Ðồ Đệ: là 3000 Giáo Hữu, chia đều mỗi phái

1000 vị, đối phẩm Ðịa Thánh.
Vậy chức sắc Cửu Trùng Ðài Nam phái cả thảy 3112 vị, cộng số (3+1+1+2=7). Số 7 chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên đầu, cũng là chỉ Thất tình. Người tu biến thất tình thành thất bửu.

 Nếu kể thêm 3 vị Chưởng Pháp nữa (đối phẩm Nhơn Tiên) thì tổng số Chức sắc Cửu Trùng Ðài là 3115 vị. Cộng lại sẽ là  (3+1+1+5= 10)  (tượng thập Thiên can).
Số 10 do 9+1 là số hiền-hòa, lặng-lẽ, an-bình, đầm-ấm

THỰC TẾ NỀN ĐẠO CÓ 3 GIÁO TÔNG:
Pháp Chánh Truyền qui định Giáo-Tông (1 vị) là người đứng đầu Tôn-giáo có trách nhiệm hữu hình là “Anh Cả của con cái Đức Chí Tôn”. Lãnh đạo tối cao toàn Đạo, có phận-sự dìu dắt Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Phẩm này chỉ có  một mà thôi đứng vào hàng  Nhứt Phật; Đối phẩm với Thiên Tiên.

GIÁO TÔNG là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa, dìu dắt toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung nạp tâm lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên Triều. Ngôi Giáo Tông là tột bực của loài người, chỉ truyền hiền, chớ không truyền tử. 

Tuy Pháp Chánh Truyền qui định chỉ có một phẩm Giáo Tông ; nhưng  thực tế  có đến  ba Giáo  Tông:
1- Giáo Tông Ngô văn Chiêu (bị mất ngôi):
Đức Chí-Tôn dạy: 13-3-Bính-Dần (dl: 24-4-1926):
 “Chiêu đã có công tu, lại là Môn-đệ yêu dấu của Thầy, nên Thầy muốn ban chức Giáo Tông cho nó, song vì lòng ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con”.  

Tái cầu: “Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn-loại là dường nào! Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau trong đạo đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là đứa thù-nghịch của Thầy.

 “Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy !”.

Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính Dần (25 và 26-4-1926):
 “Chiêu, thiếu đức, thiếu tài.
 “Trung, con sợ ai?  - TA không sợ ai ! TA biết hơn ngươi. TA há không biết thương sao ?
 “Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết TA. Cứ tuân lời  THẦY  đã truyền mà thi-hành !

Cao-Đài:  ngày 26 Avril 1926:
 “Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh TA, Ai kiên? TA chờ ngươi. Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh TA, ai thừa lịnh ? TA đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã bao phen TA  lập  Đạo sẵn cho, ngươi chê há? TA đã sở định, ngươi dám cải:

Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
Sám-hối TA cho tu ít tháng.
Tài hay, tài khéo chớ đua lừa.

Qua các bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ Vương thử thách trước khi được lên ngôi Giáo Tông. Ngài bị thử thách và chỉ trong vòng năm ngày, Ngài không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương bày ra, nên đành chịu mất ngôi Giáo Tông.

Sự  thử  thách của Quỉ Vương là cần thiết đối với ngôi Giáo-Tông là phẩm vị số MỘT của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nếu thắng nỗi Quỉ Vương thì bọn chúng mới chịu phục, còn không thắng nỗi thì phải chiụ mất ngôi.

Đồ hình dưới đây là ba ngôi Giáo Tông nhưng cũng là Một, đứng đầu hàng Tiên vị.
Chú thích: Trên là “Cửu Trùng Đài hàng Tiên vị” gồm:
Tam giác giữa  Giáo Tông là Anh Cả thay trời, có ba:
- Đỉnh giữa: Đức Lý- Giáo Tông ĐĐTKPĐ                 (Thần)
- Góc trái: Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung         (Khí)
- Góc phải (ngòai nhìn vào) Ngô văn Chiêu                 (Tinh)

Tam giác lớn đỉnh quay lên:  Chưởng Pháp
- Thượng Chưởng Pháp (ở đỉnh trên )
- Thái Chưởng Pháp      (góc trái)
- Ngọc Chưởng Pháp     (góc phải)

Tam giác đỉnh quay xuống:  Đầu Sư
- Thượng Đầu Sư          (ở đỉnh dưới)
- Thái Đầu Sư               (góc phải)
- Ngọc Đầu Sư             (góc trái. Ngòai nhìn vào)

Tất cả bấy giờ đi vào qui luật “tuy ba mà một, một mà ba”
-Tuy một tiếng hứa của Đức Chí-Tôn, ông Ngô văn Chiêu cũng là Giáo Tông, thuộc về TINH  (một trong Tam bửu)
2 - Một hữu hình là Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung. Ngài tượng cho KHÍ. Ngài đã hành Quyền Giáo Tông 8 năm tròn không dư không thiếu một ngày. Nếu tính từ: ngày Khai Đạo:   14-10-Bính Dần   (19-11-1926) đến ngày qui Thiên: 13-10-Giáp Túât  (19-11-1934)
3- Một về vô vi: là Đức Lý Thái Bạch Kim Tinh: THẦN.
Ấy cũng là qui luật “Một mà ba, ba mà một”.

Bấy giờ: tổng số Chức sắc Cửu Trùng Ðài sẽ là 3115 vị + 2 (Giáo Tông, số thêm ra) sẽ là 3117 (3+1+1+7= 12 là số riêng của Thầy. Số 12 (Thập nhị Địa chi) hiệp với số 10 ở trên (trang 44) thập Thiên Can là Quyền năng tối thượng của Gíao Tông là Anh Cả thay Thầy trị thế.
 “Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
   “Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”

Muốn biết rõ quyền hành của Chức sắc trong nền Đại Đạo thì trước hết phải luận về ĐẠO PHỤC của CHỨC SẮC ĐẠO PHỤC GIÁO TÔNG

CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Giáo Tông có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba Cổ Pháp là: Long Tu Phiến, Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ. (Ấy Cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế) Ðầu đội mão vàng năm từng hình Bát Quái (thế Ngũ Chi Ðại Ðạo) ráp tròn lại bít chính giữa; trên chót mão có để chữ "Vạn". Giữa chữ Vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí; nơi ngạch mão, phải chạm ba Cổ Pháp cho rõ ràng, y như hai bên cổ áo đã nói trên kia, tay mặt cầm cây gậy 0m90, trên đầu gậy có chữ "Vạn" bằng vàng, nơi giữa chữ Vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí.

Bộ Tiểu Phục cũng toàn bằng hàng trắng, có thêu chữ BÁT QUÁI bằng vàng: cung KHẢM ngay Hạ Ðơn Ðiền, cung CẤN bên tay mặt, cung CHẤN bên tay trái, cung ÐOÀI bên vai mặt, cung TỐN bên vai trái, cung LY ngay trái tim, cung KHÔN ngay giữa lưng. Ðầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre) cũng toàn bằng hàng trắng, bề cao ba tấc ba phân ba ly (0m333) may giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường xếp (ấy là Âm- Dương tương hiệp) cột dây xếp hai lại, nơi bên tay trái có để hai dải thòng xuống, một mí dài một mí vắn (mí dài bề ngang 0m03, bề dài 0m30) trên mão ngay trước trán có thêu chữ cung CÀN. Chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trước mũi có chữ Tịch Ðạo Nam Nữ.

Tỷ như Ðức Lý Giáo Tông đương thời. thì nơi trước mũi giày của Ngài phải có chữ Tịch Ðạo là "THANH HƯƠNG"

ĐẠO PHỤC XÁC ĐỊNH QUYỀN HÀNH CỦA CHỨC SẮC

Trong cửa Đại-Đạo ngày nay điều đặc biệt là do Đức Chí Tôn giáng Cơ dạy đủ mọi nghi thức, nhất là phần Đạo-phục cho các Chức sắc tử Tiểu cấp đến Chức sắc Đại Thiên phong đều được qui định trong Pháp Chánh Truyền.

Với Đức Quyền Giáo Tông thì Đạo phục của Ngài đã hiện tượng qua hai Bát Quái:
- Quyền hành: biểu tượng bằng BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN
- Áo Tiểu phục: biểu tượng bằng BÁT QUÁI HƯ VÔ
Lý Tam Tài trong Đạo phục của Chức sắc:
- Về Thiên: do Pháp Chánh Truyền qui định hẳn hoi từ chi tiết một về áo mão, có kích thước rõ ràng….
- Về Địa: là Thầy giao trách nhiệm cho Bà Hương Hiếu may áo mão cho tất cả các Chức Sắc trong buổi mới lập Pháp Chánh Truyền, nếu khó khăn có Thầy hướng dẫn chi tiết. Về sau Thầy còn nhờ thêm Bà Lâm Hương Thanh may một số áo Mão cho Chánh Phối sư nữa.
- Về Nhân: Thầy còn ban cho bài Thi để xác định những quyền hành tối cao, tối trọng, nhưng chỉ riêng Đức Quyền Giáo Tông  và kế đến là Đức Hộ Pháp mà thôi. Vì hai phẩm này hiệp Một là Chí Tôn, thay Trời tạo thế..

Lần lượt sẽ khai triển các vấn đề trên, để thấy rõ:    “Thầy dùng Lương sanh để cứu vớt quần sanh”.
Bởi Đạo-phục đây là Thiên phục, Đức Cao Đài giáng nói [Dimanche 25 Juillet 1926 (16-6-Bính Dần)] “T... con coi mặc Thiên phục có xấu gì đâu con ? Một ngày kia sắc phục ấy đời sẽ coi quí trọng lắm. Con ôi ! Con có biết những điều ấy bao giờ ! Cười.!...”

B -  Ðạo phục của Giáo Tông qua PCT:
PCT: - “Ðạo phục của Giáo Tông có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục”.

 LUẬN: Đấy là đầy đủ lý Âm-Dương, tượng trưng cho quyền hành của Ngài nắm hai BÁT QUÁI để hòan thành con ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO mà Chí Tôn đã ủy thác qua Pháp Chánh Truyền  (xem triển khai Bát Qúai. Tr 68, 82)

I-  Bộ Ðại Phục:
PCT: “Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới”.

LUẬN: Chức sắc Cửu-Trùng-Đài Nam phái, đặc biệt chỉ có Giáo Tông và Thượng Chưởng Pháp mặc sắc phục trắng chầu lễ Chí-Tôn, ngoài ra đều mặc theo sắc phái.
Vì sao ? - Màu trắng là màu tổng-hợp của bảy sắc cầu vồng, đó là màu  Đại-Đồng,  mục-đích  của  Đạo Cao Đài là phải phổ thông ra cho đến Đại-Đồng Thế-Giới.
Về Bí pháp là phần riêng biệt của Đức Chí-Tôn dùng trong cơ chuyển thế và Cứu thế: Đức Chí-Tôn đã chọn người ANH CẢ để thay hình thể cho Ngài cầm đầu cả nhơn loại. Việc này giải rõ là loài người phải đi từ không trở về sắc-tướng đặng tạo nghiệp vị, rồi trở lại Hư vô.

Phái TIÊN-ĐẠO là phái giữ phần lập-trường thi công quả của sắc tướng. Bởi Đạo Cao-Đài là tinh-hoa bổn nguyên triết lý của chính nền Tôn-giáo này.
Bấy nhiêu đã nói lên Đạo Cao Đài là tu theo Tiên Đạo “Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh”. Điều này được thấy rõ ở phần hữu hình, hữu tướng như các vấn đề sau:
- Đức Chí-Tôn xưng Thánh danh “Cao Đài TIÊN ÔNG  Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”.
- Ngôi Đền  của Đức Ngài ngự gọi là Đền Thánh.
- Màu sắc tượng trưng: màu chính là màu xanh, phái

Thượng đặt ở điểm chính và trung.
- Đền Thánh tượng chữ SƠN  (núi). Người Tín hữu mỗi ngày Tứ thời chầu lễ, tượng chữ Nhân . Hiệp hai chữ lại là chữ TIÊN , không thể lầm lẫn  được.

-“Thêu bông Sen”. Bông sen tượng trưng sự đạo đức, thanh khiết, cao thượng. Như người tu chân chính thì dù sống nơi trần mà “Cư trần bất nhiễm”. Tánh tình người đạo phải thanh cao, tầm cho đạt được ngôi chí Thánh như  Sen sống trong bùn mà không  hôi mùi bùn. Ca dao rằng:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy vàng  bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

- “Màu vàng” tượng cho phái Phật. Đạo Cao Đài là Phật giáo chấn hưng. Vì Đại-Đạo ngày nay cũng là Phật Đạo và gồm hết Tam giáo Nho- Thích - Đạo và Thích-Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích-Ca” (trong ý nghĩa Qui Tam Giáo).

- “Hai  bên cổ áo mỗi phía có ba Cổ Pháp là: Long Tu  Phiến, Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ. (Ấy Cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế)”.
Vẫn cũng là con số 3 – 2, tức “Tham thiên lưỡng địa”
3 là Thiếu Dương, 2 là Thiếu Âm; cộng cả hai số này lại là 5, tức nhiên Ngũ hành, đứng vào giữa gọi là ngũ trung.
-“Mỗi phía có ba Cổ Pháp” mà cả hai bên cổ áo, tức là có 6 Cổ Pháp, ấy là: Tam Âm -Tam Dương.
Nhưng đặc biệt: Giáo Tông thuộc Cửu Trùng Đài mà CỔ PHÁP là của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế (là Người của Hiệp Thiên Đài).  Đấy cũng là “Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm” đó là nguyên lý của Càn Khôn vũ trụ không bao giờ thay đổi.
- ‘Ðầu đội mão vàng”: màu vàng là phái Phật, là hình ảnh của Phật giáo chấn hưng như trên vừa nói, mà tuyệt phẩm của người tu là đạt đến Phật-vị. Giáo Tông vào hàng Nhứt Phật, xác định quyền uy của Người Anh Cả hiện giờ..
- “Năm từng hình Bát Quái (thế Ngũ Chi Ðại Ðạo)”
Năm từng là tượng Ngũ Chi: Tôn chỉ của Đại Đạo là “Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi”. Hơn nữa gồm:
- Ngũ Chi Đại-Đạo: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo  (Dương). 
- Ngũ Chi Minh Đạo: Minh Đường, Minh Sư, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân           (Âm).
Như vậy có đủ Ngũ hành Dương và Ngũ Hành Âm một cách trọn vẹn.

-“Ráp tròn lại bít chính giữa”. Mão Giáo Tông có vòng tròn đội lên đầu, đây là tượng Càn Khôn vũ trụ, “ráp tròn lại” là chỉ một sự “Quản súât Càn Khôn” của nền Tân Tôn giáo này sẽ trấn phục Ngũ châu, mục đích  đưa  nhân  lọai  đến Thế giới Đại Đồng, làm Hòa bình cho nhân lọai.
- “Trên chót mão có để chữ "VẠN", giữa chữ VẠN có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí”:

Chót mão tức là phần giữa của Mão, khi đội lên là ở đỉnh đầu, tức nhiên là tâm của vòng tròn, ấy là tâm của vũ trụ. Chữ VẠN có hai: là hiệp Âm Dương. Vòng tròn bên ngoài chỉ vũ-trụ; hai chữ VẠN ngược, xuôi này xoay quanh tạo nên tám đường kính xuyên qua tâm của vòng tròn trong Bát Quái, ấy là Càn Khôn, tượng Bát phẩm chơn hồn là: vật chất, thảo mộc, thú cầm, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật-hồn.
- Mỗi hồn đều có tánh chất riêng. Từ vật-chất đến nhơn hồn là cơ tấn-hóa, nên có hình chữ Vạn số 1, là chỉ cơ đi xuống trần để tạo nghiệp trần duyên.
- Tạo cho đầy-đủ quả-nghiệp thành khối gia-sản rồi bắt đầu đi lên để học thêm nhiều điều mầu nhiệm, nên Cơ phục-nguyên ở chữ vạn số 2.

Chữ VẠN ấy là chỉ cơ biến-hóa vô cùng  đó vậy, nên vạn-vật bất kỳ là vật chi  hễ có TU cũng ắt có thành.
- “Giữa chữ VẠN có Thiên Nhãn Thầy”.
Thiên Nhãn Thầy là biểu tượng của Đạo Cao Đài là do nơi Ông Thầy Trời định hướng cho người tu phải nhớ: “Thầy khuyên các con nên nhớ hòai rằng: Thầy của các con là ÔNG THẦY TRỜI, nên biết một Ổng mà thôi thì đủ, nghe à !”.
Câu này gồm cả một triết lý sâu xa, mầu nhiệm. Nếu phân tích ra từng  đọan 8 chữ sẽ thấy ý nghĩa:
- Thầy khuyên các con nên nhớ hòai rằng   (8 chữ)
- Thầy của các con là ÔNG THẦY TRỜI,  (8 chữ)
- Nên biết một Ổng mà thôi thì đủ,              (8 chữ)
Nghe à !” (hai chữ: tượng âm dương nhị khí)
-  Về phần Chí-Tôn – ngôi Trời - có BÁT QUÁI
-  Phật Mẫu có Bát Cảnh cung, tạo Bát Phẩm chơn hồn.
-  Người tu: thực hành Bát chánh Đạo.

THIÊN NHÃN cũng nhắc nhở đến lời Minh thệ: “Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai, thì Thiên tru địa lục” (36 chữ)

- “Bao quanh một vòng Minh Khí”: ấy là hào quang Vòng Minh-khí là một thứ ánh-sáng minh triết, mà cái văn minh tinh-thần đã khởi điểm nơi này. Học Đạo, hiểu Đạo là tạo cho mình một ánh sáng minh-triết, phát ra bằng vòng Minh-khí; nói Đạo cho người hiểu Đạo, ban-bố khắp nơi bằng huyền-lực, bằng hào-quang, điển sáng là vòng vô-vi.

Vòng Minh khí cũng là vòng tròn như vòng vô vi, nhưng nét to hơn và chung quanh có các tia sáng vô hình chiếu ra.
- “Nơi ngạch mão, phải chạm ba Cổ Pháp cho rõ ràng, y như hai bên cổ áo đã nói trên kia”.

Mỗi phía có ba Cổ Pháp, cả hai bên ngạnh Mão tức là 6 Cổ Pháp, đủ Tam Âm Tam Dương, mỗi Cổ pháp có ba pháp bửu (Long Tu Phiến,Thư Hùng Kiếm, Phất Chủ)

Nếu tính Cổ pháp: hai bên cổ áo là 6 và hai bên ngạch mão 6 nữa. Thành ra lục Âm lục Dương, hiệp lại thành 12, là biểu hiện tinh thần Chức Sắc “Thể Thiên hành hóa”, định quyết con số 12 là “Số riêng của Thầy”.

- “Tay mặt cầm cây gậy 0m90”. Số 9 là số huyền diệu nhiệm-mầu. Huyền-diệu hơn hết là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện tận mỹ, toàn tri toàn năng; cùng cực cái động để trở về trạng thái tịnh nguyên thủy, tức là đã đến lúc trở về 0. Con số 9 là chỉ Cửu Trùng Đài do Ngài Chưởng quản.

- “Trên  đầu  gậy    chữ "VẠN" bằng  vàng, nơi giữa  chữ Vạn  có Thiên  Nhãn  Thầy,  bao  quanh  một vòng Minh Khí”.

Thầy dạy: “Giáo Tông thay mặt cho Thầy đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì ANH CẢ nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy”. Đặc biệt Gậy 0,9m là để chống đỡ, dắt dìu cả chúng sanh, đó là nhiệm vụ của Ngài, mà quyền hành của Đức Quyền Giáo Tông  định rõ:
 “Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng.
“Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên”.

Chính Đức Lê Văn Trung  là nguơn linh của Đức Lý Ngưng Dương hay còn gọi là Lý Thiết Quả, trước khi đắc Đạo thành Tiên thì Ngài xúât Chơn Thần đi, gởi xác lại cho học trò giữ và bảo sau bảy ngày nếu hồn không trở lại thì hãy thiêu; nhưng trớ trêu: trước đó thì mẹ của học trò đã chết, học trò mới vội thiêu xác Thầy hầu còn về quê lo chôn xác Mẹ nữa. Sau đó hồn của Đạo sĩ trở lại thì xác đã mất, liền thấy có xác người hành khất bên đường: đủ phép Tiên, Ngài mới biến gậy và bị của người này thành “bầu linh gậy sắt” làm bửu pháp của Ngài. Đó là hai món bửu pháp của Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung. Hai món này được đặt trên đỉnh Đài của lầu Chuông và Lầu trống Tòa Thánh Tây Ninh (là Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài) hiệp với giỏ Hoa Lam của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thành ba pháp bửu, trọn cả Tam Tài.

(Ngày:  01-10-Giáp Ngọ (1954):
Đức Hộ Pháp có  thơ ghẹo Đức Quyền Giáo Tông:
Nguyện vọng như ANH đã thỏa rồi,
Cố tâm kế chí có thằng tôi.
Bầu Linh Gậy Sắt  ông an thế,
Chày Giáng Xử Ma tớ giúp đời.
Vững tiến xa thơ già gắng đẩy,
Xuôi chèo Bát Nhã trẻ đua bơi.
Khuôn hồng trước thấy Trời quang đãng,
Kế nghiệp mai sau vẫn có người.

Trong hàng phẩm Chức sắc Đại Thiên phong chỉ riêng Đức Quyền Giáo Tông mới có gậy 0,9m mà thôi. Bởi Người đã có sẵn hai chân thật mà Thượng Đế ban cho, bây giờ Ngài có thêm một “chân” nữa ấy là chân lý. Tất nhiên có ba chân, trở thành số 3 thống hiệp TAM TÀI vậy.
-o0o-

II- Bộ Tiểu Phục:
PCT: “Bộ Tiểu Phục cũng toàn bằng hàng trắng, có thêu chữ BÁT QÚAI bằng vàng, cung KHẢM ngay Hạ Ðơn Ðiền, cung CẤN bên tay mặt, cung CHẤN bên tay trái, cung ÐÒAI bên vai mặt, cung TỐN bên vai trái, cung LY ngay trái tim, cung KHÔN  ngay giữa lưng”.

Pháp Chánh Truyền dạy sắp các Cung trên Áo Tiểu phục Giáo Tông, phải đặt đúng vào vị trí như trên, vì mỗi Cung này nó có giá trị khác nhau. Hơn nữa đây là BÁT QUÁI LUYỆN ĐẠO, tức là bản đồ dùng làm kim chỉ nam  cho con đường trở về của người TU trong ĐẠO CAO ĐÀI.

Thầy dạy:“Con phải chỉ cho Hiếu nó sắp mấy Cung kia đặng thêu vào áo, ấy là Ðạo. Thầy sẽ coi lại.
Trung kiếm thử (là kiếm thử cái bùa Bát Quái) đặng sắp may trong áo Giáo Tông.
Trung bạch cùng Thầy rằng chẳng hiểu.!
- Thì con coi mà định luật luyện Ðạo nơi đó. Con lại phải cho thanh tịnh, kể từ nay diệt tận phàm tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới đặng…”

Áo Giáo Tông có các Cung tức là Quẻ của Bát Quái:
 - Càn  ở trên đầu (thêu chữ Càn trên mão) .
- Cung  Khảm   ngay Hạ Ðơn Ðiền (Rún)
- Cung  Cấn       bên tay mặt,
- Cung  Chấn     bên tay trái,
- Cung  Ðoài      bên vai mặt,
- Cung  Tốn       bên vai trái,
- Cung  Ly         ngay trái tim,
- Cung  Khôn    ngay giữa lưng.

Đây là 8 Cung của Bát Quái Luyện Đạo, tức là BÁT QÚAI HƯ VÔ, mà Kinh Phật Mẫu xác định qua câu:
“Chuyển luân định phẩm cao thăng,
“HƯ VÔ BÁT QUÁI trị Thần qui nguyên.”
Những Cung này là các Quẻ Dịch. Bát Quái có 8 QUẺ như trên làm căn bản, không bao giờ thay đổi các ký hiệu.  Nhưng do cách dùng những QUẺ này cho Bát Quái nào thì nó sẽ thay đổi tùy theo vị trí đứng của nó.

Trừ quẻ Càn trên Mão, còn lại tất cả đặt trên áo. Khi nhìn vào đồ hình về việc sắp các Cung BÁT QUÁI trên Áo Tiểu phục Giáo Tông có vẻ phức tạp; phân tích sẽ thấy rõ:

 - Cung CÀN  tượng Cha, ngôi cao nên đặt trên Mão phía trước trán; hễ lạy xuống thì Càn (Dương) hiệp với Khôn (đất -Âm). Ấy là Âm Dương tương hiệp.
- Quẻ KHÔN  tượng Mẹ là Âm, đặt trên lưng áo, khi lạy xuống thì hiệp với trên là trời (Dương) cũng là tương hiệp. - Quẻ LY  (Hỏa)   đặt trên áo ngay trái tim
- Quẻ KHẢM   (Thủy)đặt nơi Hạ đơn điền (Rún)

            Trên dưới hiệp nhau.
- Cung  Ðoài      bên vai mặt,
- Cung  Tốn       bên vai trái   (Hai vai hiệp nhau)
- Cung  Cấn       bên tay mặt,
- Cung  Chấn     bên tay trái  (Hai tay hiệp nhau)

Đấy là giờ phút qui hiệp, trong chu kỳ “Vạn thù qui nhứt bổn” nghĩa là:
*CÀN là cha, KHÔN là mẹ, hiệp lại với nhau,
*LY là con gái giữa họp với  KHẢM là con trai giữa.
*ĐÒAI là con gái út họp với  CẤN là con trai út,
*TỐN là con gái trưởng họp với CHẤN là con trai trưởng.

Như thế từng đôi, từng đôi một họp với nhau, là sự đòan tụ.  Đối với người tu là giờ phút đắc Đạo đó vậy.
Tám quẻ này xem như một đại gia đình: trên hết có Cha Mẹ, tượng cho Âm-Dương. 6 Quẻ còn lại là 6 con chia ra: Nam, Nữ

- Tam Âm (3 gái): TỐN, LY, ĐÒAI  ở về phía trên.
- Tam Dương (3 trai): CHẤN, KHẢM, CẤN ở phía dưới.
Tất cả đều theo vòng thuận nghịch của lý Âm Dương đó.
Làm sao phân biệt quẻ thuộc Âm hay Dương ?
Ấy là:  - quẻ nào ít Dương (1 Dương) thì Dương làm chủ
- quẻ nào ít Âm (1 Âm)  thì Âm làm chủ.

Xem để phân biệt, còn sự biến hóa một cách nhiệm mầu sẽ bàn sau khi triển khai các BÁT QUÁI (Xem trang 69).
-“Ðầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre)”
Hiệp chưởng nghĩa đen là hai bàn tay úp lại vào nhau. Hình Mão dưới đây là Mão Hiệp Chưởng được đặt theo hướng nhìn trực diện.
- “Cũng toàn bằng hàng trắng, Bề cao ba tấc ba phân ba ly (0m333). Màu trắng là màu Đại Đồng. Bề cao 0m333, cũng có nghĩa là (3+3+3) hay 3x3 hay 32 (3 bình phương) là cấp bực tam ngôi biến-hóa, vận hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên thủy. Số 9 gọi là số  gấp  3 tam  nguyên, tức Thái cực  biến hóa ba ngôi, mỗi ba ngôi lại biến hóa nữa thành ra Cửu chuyển.

Số 3 là căn bản: đầu tiên Đức Chí-Tôn đến xưng AĂÂ. Ngài xưng là Tam, mà Tam là Càn khôn vũ  trụ  định  thể,  ba chấm nói rõ là số ; Con số thiêng liêng tạo-đoan vạn vật là vậy”.

Số 3 là cơ sở của Tam thể: PHẬT-PHÁP-TĂNG nên nó vừa có năng lực huy động mà cũng vừa có năng lực dung hòa. Mão Bề cao ba tấc ba phân ba ly (0m333). Ba con số 3 tức là (3x3=9) tượng 9 từng Trời, ấy là Cửu Thiên Khai hóa: GIÁO TÔNG Chưởng Quản Cửu Trùng Đài là đây.

- “May giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường xếp (ấy là Âm Dương tương hiệp) cột dây xếp hai lại, nơi bên tay trái có để hai dải thòng xuống, một mí dài một mí vắn (mí dài bề ngang 0m03, bề dài 0m30). Trên mão ngay trước trán có thêu chữ cung CÀN  

LUẬN: “Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có 2 dải thòng xuống một mí dài,  một mí vắn, mí dài 3 tấc”.Thầy còn dặn “Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra”, kích thước qui định 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang. Đây là biểu hiện quyền hành từ Chí Tôn chia ra, không cho một người nắm quyền nhứt thống, nhưng Giáo Tông và Hộ Pháp tuy hai mà một. Ba tấc, ba phân tức 33, là con số biểu hiệu "Tam thập tam thiên". Cũng từ lý Thái-cực sanh Lưỡng-Nghi tức Tam Thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam Thập Tam Thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời, nên gọi là Tam Thập Lục Thiên. Trong mỗi từng Thầy chia Chơn linh, có một vị Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản”.

Quyền Giáo Tông đứng đầu 36 Phối sư (hàng Thánh)
“Còn bên trái có 2 dải thòng xuống một mí dài,  một mí vắn”: Là độ lệch nhau 3/2 chứng tỏ hai quẻ: Càn 3, Khôn 2; Người nắm quyền Chưởng quản, bên trái là Dương, quyền uy đối về mặt Đạo là Chưởng quản CTĐ.

Trở lại con số 3, nếu:
 3x3=9 (chỉ Cửu Thiên khai Hóa) cũng là Thái Dương
 3+3=6  là Thái Âm
 3:3= 1  chỉ ngôi Thái cực
 3-3= 0 chỉ vô cực (trở lại vô vi: qua bốn lần biến hóa)

Kết:  lời Thầy dạy may Mão Giáo Tông:

Ngày 7-3-Bính Dần (dl: 18-4-1926)
TRUNG –CƯ -TẮC, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng, trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội Mão trắng có chữ CÀN  thêu bằng chỉ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt. Mão  cũng vậy, áo cũng vậy.

HIẾU, lại phải nhọc công nữa. Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp, rằm phải có nghe con! Hiếu, lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu Mão cho con coi.
Bà Hiếu bạch Thầy:  Mytre (Mão)
- Mão nầy là Mão Giáo Tông. Trước ngực ngay trán phải để chữ cung CÀN  chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo, con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy CUNG  kia trên áo.
Nghe và tuân theo nghe con.!
TRUNG, đêm nay đừng cầu Thầy nghe con.!

TÁI CẦU:
- Mừng sắp con.
Hiếu quì bạch Thầy chỉ dạy may áo Đức Giáo Tông bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào ?
- Thầy sẽ nhứt định mọi việc.
Thầy dạy: Mão bề cao 3 tấc 3 phân 3 ly thước Lang-sa (thước Tây), may giáp mối lại thì thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp. Hiếu  biết mà ! Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có 2 dải thòng xuống một mí dài,  một mí vắn, mí dài 3 tấc. Giáo Tông, thảo hài.

TÁI CẦU:
(Có tạo đỡ một cái Mão bằng giấy dưng lên cho Thầy xem) Cười ! Đặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo. Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra, nghe con ! Con giỏi lắm Hiếu ! Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang, phải vậy rồi.

CƯ, để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may Mão Giáo Tông) Hiếu dâng Mão Giáo Tông may xong rồi cho Thầy xem.
- Trúng, mà ai đội con phòng lật đật !.
 (Đức Chí Tôn biết là Ông Chiêu không lãnh chức Giáo Tông nên mới có câu nầy) (ĐS. I. 106)
PCT: -“Chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trước mũi có chữ Tịch Ðạo Nam Nữ. Tỷ như Ðức Lý Giáo Tông đương thời thì nơi trước mũi giày của Ngài phải có chữ Tịch Ðạo là "Thanh Hương
Vô ưu 無憂 là không buồn phiền. Người mang Giày vô ưu là diệt được lục dục thất tình. “Trước mũi có chữ Tịch Ðạo Nam Nữ”. Trong thời Giáo-Tông này là Tịch Đạo THANH HƯƠNG. (Xem Tr. 96)
I

II- TIỂU PHỤC GIÁO TÔNG: BÁT-QUÁI HƯ VÔ
Kinh Phật-Mẫu xác định Bát-Quái Hư Vô qua câu:
 “Chuyển luân định phẩm cao thăng,
 “Hư-Vô Bát-Quái trị Thần qui nguyên”
Hỏi vậy người tu-hành luyện Đạo để làm gì ?
- Phải chăng là mong đoạt lý Hư-Vô ? Bát-Quái Hư Vô chính là hình ảnh các quẻ sắp trên áo Tiểu phục Giáo Tông đó! Những quẻ mà Thầy dạy sắp trên áo TIỂU PHỤC, đây chính là khởi từ vạch QUẺ cũng như SỐ là từ BÁT QUÁI TIÊN THIÊN mà ra.  

Đây nhắc lại sự thành hình Bát Quái Tiên Thiên:

Bát Quái Tiên thiên là thời kỳ “Nhứt bổn tán vạn thù” tức nhiên Càn Khôn ở hai đầu, giữa là các con. Đặc biệt là hai quẻ đối nhau có tổng số là 9. Ví như:
Càn 1+ Khôn  8 = 9      Đoài 2 + Cấn 7 = 9
Ly 3  + Khảm 6 = 9      Chấn 4 + Tốn 5 = 9                                            
Nhưng khi biến thành Bát Quái Hư vô thì bấy giờ là lúc qui hiệp, là thời của “Vạn thù qui nhứt bổn”.

CÀN KHÔN là hai quẻ chánh trong Bát-Quái:
CÀN  tượng cha, KHÔN  tượng mẹ làm chuẩn. Hai quẻ này giao nhau, như cha mẹ phối-hợp  tạo ra 6 con:
     - Lần thứ nhứt Càn giao với Khôn, Càn cướp đi của Khôn một hào Âm mà thành ra TỐN  đặt bên vai trái.
     - Lần thứ hai Càn giao với Khôn cướp đi của Khôn một hào Âm mà thành ra quẻ LY     đặt nơi trái tim.
     - Lần thứ ba Càn giao với Khôn và cướp đi của Khôn một hào Âm, thành ra quẻ ĐOÀI   nằm bên vai mặt.
Ba hào Âm: Tốn, Ly, Đoài   tất cả đều nằm ở phần trên của thân người (Âm: ở phần trên)
Bây giờ tiếp theo đây:
*KHÔN giao với CÀN lần thứ nhứt, Khôn cướp đi của Càn một hào Dương thành quẻ CHẤN   ở tay trái.
*Lần thứ hai KHÔN cướp đi của Càn một hào Dương thành ra quẻ KHẢM   đặt ở hạ đơn điền (hay là rún)
*Lần thứ ba KHÔN giao với Càn cướp đi một hào  Dương của Càn thành ra CẤN   đặt bên tay mặt.
Ba hào Dương: CHẤN, KHẢM, CẤN 
đều nằm ở phần dưới của thân người (Dương: ở  dưới)
Các Quẻ được sắp theo lời dạy trong Pháp Chánh Truyền, đặt trên Áo Tiểu-phục của Giáo-Tông, hình ảnh đó cho thấy từng đôi một đi liền với nhau: Càn Khôn, Khảm Ly, Đoài Cấn, Chấn Tốn.  Phương hướng vẫn là:
- Đông Tây làm trục đứng,
- Nam Bắc làm trục ngang,

Theo hướng của Bát-Quái Cao-Đài (Bát-Quái Đồ Thiên), làm tượng trưng, chứ khi đã gọi là Hư-Vô thì không có phương hướng, thậm chí cũng không có Quẻ làm hình ảnh nữa. Nhưng khi người mặc phẩm-phục vào thì quẻ CÀN  ở trên trán, lúc lạy đầu cúi xuống hiệp với Khôn là đất.         
Đứng về số thì vẫn lấy theo số của Bát Quái Tiên Thiên là: Càn 1, Đoài 2,  Ly 3,  Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8.   

*
         *

1- Bát-Quái Hư-Vô thành hình:
Từng đôi quẻ đơn đi liền với nhau tạo thành Quẻ  kép đều có tổng-số là 9.
Ví như:
Khôn  8 + Càn 1  =  9            Khảm 6 + Ly  3 = 9
Đoài   2 + Cấn 7  =  9            Chấn  4 + Tốn 5=  9.
Đây có tất cả 4 lần tổng-số 9 (4 x 9 = 36).
Chính là sự ứng hợp với Kinh khi đã chết rồi:
“Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào,
“Nhập trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư”

Nếu không thông hiểu Bát-Quái không thể vào Ngọc Hư-Cung, là không về đường Trời được.
Tại sao Kinh đã chết rồi có câu ấy ?
Người chết thực sự đắc Đạo mới về Ngọc Hư. Nhưng khi còn xác thân này đây mà không học hỏi, không biết "chết Đời sống Đạo" thì cũng như người thuỷ-thủ đi biển mà không có địa-bàn, vẫn phải lênh đênh trong sự vô định mà thôi. TU là để tìm về, là học hỏi trước con đường tấn-hoá của tâm-linh vậy.!

Sự kết hợp các quẻ của Bát-Quái Hư-Vô:
- Hai quẻ Càn- Khôn:
*KHÔN vi địa số 8, đặt lên CÀN vi thiên số 1 thành quẻ kép có tên: Địa thiên Thái  (Thái số 81 là hanh thông). Nếu đặt ngược lại là Thiên Địa Bĩ  (Bĩ số 18- là xấu, thời bế tàng).

- Hai quẻ Khảm - Ly:
*KHẢM  vi thuỷ số 6, đặt lên LY  vi Hỏa số 3,  quẻ kép số 63: Thủy hỏa Ký-Tế  (Ký tế là giao nhau)
Nếu đặt ngược lại là Hỏa-Thủy Vị-tế  (Vị-tế số 36- là chưa giao, vẫn xa lìa).

- Hai quẻ Đoài - Cấn:
*ĐOÀI  vi trạch số 2, đặt lên CẤN  vi sơn số 7, thành quẻ kép: Trạch sơn Hàm  (Hàm= số 27 là bao gồm). Nếu đặt ngược lại thành quẻ Sơn-Trạch Tổn  (Tổn số 72, là hao mòn, tổn thất)

Hai quẻ Chấn - Tốn:
*CHẤN  vi Lôi số 4 đặt lên TỐN  vi phong số 5, thành ra quẻ kép Lôi phong Hằng  (Hằng số 45-là thường, bền chặc). Nếu đặt ngược lại thành ra quẻ Phong Lôi Ích   Ích số 54, là lợi cho riêng mình, chỉ sự chưa thành đạt.

2- Tính chất của Bát-Quái Hư-Vô:
Đây là thời-kỳ qui hiệp: Nếu nhìn riêng về Quẻ thì quả là:
*CÀN là Cha, KHÔN là Mẹ đến lúc họp lại với nhau.         
*Đoài là thiếu-nữ,        Cấn là thiếu-nam họp nhau.
*Khảm là trung nữ,     Ly là trung nam họp nhau.
*Chấn là trưởng nam, Tốn là trưởng nữ họp nhau.
Xem như một gia-đình đoàn-tụ:  hạnh-phúc, vui-vầy.

Đó là tinh cách lấy Âm bao Dương, nên Bát-Quái Hư Vô thành hình là kết hợp bởi 4 quẻ kép là: Địa Thiên Thái, Thuỷ-Hoả Ký-Tế, Trạch Sơn Hàm, Lôi Phong Hằng. Ấy là tượng cho cảnh thăng. Bằng trái ngược lại là tượng cho cảnh Đoạ.
Tại sao như vậy ? Vì Đức Chí-Tôn có nói: Trên Tam Thập Lục Thiên còn có Quỉ mị lẫn lộn thay!

Con đường Qui hiệp đó là trách-nhiệm của GÍAO TÔNG, Ngài có bổn-phận “dìu-dắt con cái của Thầy trên Con đường đạo-đức của chính mình Thầy khai tạo    trên con đường Đời cơ Đạo  gầy nên”  là Ngài đã hoàn thành  hai BÁT-QÚAI. Hay nói khác đi:
- Ngài lo giáo-hóa nhơn-sanh trên con đường hành thiện.
- Vừa độ dẫn nhơn-sanh về với Hư vô: thành Tiên tác Phật.

Hai con đường đó qua hai Bát-Quái Cao Đài là con đường Thiên-Đạo:
1 - Là Bát-Quái Đồ-Thiên (xem trang 81) là hành Thể-pháp của Thiên-Đạo.
2 - Là Bát-Quái Hư-Vô (hình ảnh trên bộ Tiểu  phục của Giáo-Tông) là theo Bí-Pháp Thiên-Đạo.

Tại sao phải lấy Âm bao Dương
Cũng có thể nói rằng: Nếu đặt Càn Khôn làm chủ, mỗi hào có 3 vạch lần-lượt thay đổi và biến-hóa. CÀN KHÔN là quẻ chủ của Bát-Quái. Nếu:

Qui hiệp có nghĩa là từng cặp Âm Dương đi liền nhau và hợp số với nhau, như Càn Khôn là hai ngôi chủ tể của vũ-trụ, giống như hai Cha Mẹ đã gần nhau hay gọi là một sự đoàn tụ, tức như người tu được trở về với Thượng Đế. Gần là hiệp một gia-đình, cao xa hơn là lúc đắc nhứt qui cơ là thành Đạo, là hiệp nhứt với Đại ngã, là Trời.

Tuy nhiên không phải Tu là đạt liền, mà phải tu đúng cách. Trong cõi đời này không hiếm người tu mà sao không thành đạt hết. Như học trò học nhiều mà thi đỗ đạt ít. Vì nếu biết trau giồi đạo-đức, hàm dưỡng tánh tình thì dầu không thành Phật, cũng vào hàng Tiên; rớt Tiên còn được Thánh; rớt Thánh cũng vào Thần; rớt Thần cũng được Hiền, chứ đừng  để sa vào Quỉ vị.
Đức Chí Tôn nói (TNI/31: "Cửa Bạch Ngọc Kinh ít kẻ, chớ chốn A-Tỳ vốn nhiều người. Con liệu mà hành đạo, Thầy thương con chừng nào, ngày sau con càng ăn năn hối tiếc chừng nấy".

*
         *

3- TỔNG LUẬN BÁT QUÁI HƯ VÔ (Bát Quái luyện Đạo)
Bát Quái Hư vô lấy theo số thứ tự của Bát Quái Tiên Thiên, tức là Càn 1, Đòai 2, Ly 3, chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8

Bát Quái tòan đồ dưới đây bao gồm hết 4 Bát Quái, nhưng khi vào đồ hình này thì tất cả thành quẻ kép, chỉ khác là gấp đôi quẻ đơn, mỗi quẻ có 6 hào, còn tính chất quẻ thì không khác. Nếu là quẻ Kiền đơn  ký hiệu bằng 3 nét dương, Số 1; khi thành quẻ kép thì có 6 hào Thùân Càn  số 11; tương tự quẻ Thùân Khôn   số 88.           

Bát Quái Hư Vô nằm trong “Bát Quái biến hóa tòan đồ” cho thấy rõ qua các con số “đóng khung” ứng với:
Số 11 trên đỉnh là quẻ Thùân KIỀN (cung Càn  ở trên đầu (thêu chữ Càn trên mão Giáo Tông).
Số 88 dưới cùng là quẻ Thùân KHÔN (Cung Khôn  đặt ngay giữa lưng áo Tiểu phục Giáo Tông)
Ở ngòai trông vào: từ trái nhìn qua ở hàng trên, các số trong khung:
Số 22 là quẻ Thùân ĐÒAI  (Ðoài   bên vai mặt)
Số 33 ở giữa là quẻ Thùân LY  (Ly  ngay trái tim)
Số 55 là quẻ Thùân TỐN (Tốn  bên vai trái)
- Hàng trên, vì vòng tròn, nên nhìn ngược lại.
- Hàng dưới: từ trái nhìn qua, ở các con số trong khung:
Số 44 là quẻ Thùân CHẤN (Chấn   bên tay trái)
Số 66 ứng với quẻ Thùân KHẢM (Khảm  ngay hạ Ðơn Ðiền (Rún)
Số 77 ứng với quẻ Thùân CẤN (Cấn   bên tay mặt).

Những chữ “Trái” “Phải” ở trên là lời dạy trong Pháp Chánh Truyền; về việc sắp các Cung trên áo Giáo Tông (là đứng về mặt phẳng, hình ảnh của người mặc áo).

Vị trí “Bát Quái biến hóa tòan đồ” là nhìn các quẻ qua đồ tròn, tất cả đều qui tâm. Những chữ “Trái” “Phải” là trên mình của người mặc áo, tức nhiên phải nhìn nghịch lại vì là hướng của người ngòai nhìn vào Bát Quái Hư vô nằm trọn trong BÁT QUÁI TÒAN ĐỒ như dưới đây:

Bát Quái Tòan Đồ này là tất cả 64 quẻ kép đã hiện rõ trên đồ hình, thì có 32 cặp có các quẻ nằm trên trục xuyên tâm đối, khi cộng từng đôi một có tổng số là 99. Trong Tâm của vòng tròn là Thái cực số 1 vi chủ, là Thượng Đế. Cộng (1+99=100), thành số là 100 ức nguyên nhân của Đại Đạo.

Đức Hộ-Pháp xác nhận: "Đã qua hai thời kỳ mở Đạo cũng vì số nguyên nhân ấy mà Đức Chí-Tôn đã cho xuống thế 100 ức nguyên nhân để độ dẫn nhơn-sanh, mà còn làm tội lỗi hơn chúng sanh nữa, nhưng trong hai lần ấy chỉ độ về được có 8 ức nguyên nhân (Nhứt kỳ độ 6 ức + Nhị kỳ độ 2 ức) còn lại 92 ức nguyên-nhân đang còn chơi vơi trên biển trần, lần này Chí-Tôn lo cứu vớt".
o0o -

C - Thầy ban cho THI là xác nhận quyền-hành của Đức Quyền GIÁO-TÔNG
Buổi tiền khai Đại-Đạo: ngày 5 tháng 12 Ất Sửu (dl: 28-1-1926) Đức Lê Văn-Trung được Đấng Thượng Đế tá danh AĂÂ ban cho nhiều bài Thi trong lúc còn Xây bàn do ba Ông: Cư, Tắc, Sang tiếp điển (Sau là Thượng Phẩm,

Hộ Pháp, Thượng-Sanh -  Hiệp Thiên Đài)
Riêng Đức Lê Văn Trung lần lượt được Thiên phong vào phẩm Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt cùng với hai vị Đầu-Sư nữa là Thái Minh Tinh và Ngọc Lịch Nguyệt. Sau đó Ngài được nhận phẩm QUYỀN GIÁO TÔNG, tức là đứng đầu Cơ quan Cửu Trùng Đài, là một trong hai Cơ-quan hữu hình để giáo-hoá nhơn sanh.

Buổi đầu: Đức Chí Tôn tá danh AĂÂ cho biết rằng Ngài đã sai Lý Bạch dìu dắt ông TRUNG nơi đàn Chợ Gạo đã lâu rồi. Đức Ngài  dạy rằng:

 “TRUNG, nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng sủa của con mà suy lấy”.

Thầy cho THI:
Một Trời, một Đất, một nhà riêng.
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền,
Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng.
Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên.

LUẬN: Sự sáng sủa” đây là Chí Tôn ban huyền diệu cho ông Trung được sáng mắt. Bấy giờ, khi Ngài LÊ VĂN TRUNG nắm Quyền GIÁO TÔNG mới nhận ra bài thơ trên là lời tiên tri, xác định quyền hành to lớn ấy. Bởi:

Trong cửa Đạo ngày nay thì ngôi-vị:
- “Giáo-Tông Đạo Cao-Đài do Đức Lý cầm quyền gìn-giữ Thánh-chất dung-hòa nửa Thánh nửa phàm.
- “Còn tạo ngôi-vị tại thế là Thượng-Trung Nhựt đó. Ấy vậy, Thượng-Trung-Nhựt tạo ngôi-vị Giáo-Tông cho Đạo Cao-Đài như ông Thánh Pière tạo ngôi THÁNH HÒANG  cho Phapha tại ROME  vậy”.
1- Đạo có GIÁO và TÔNG:
- GIÁO là những phương-tiện mượn để biểu thị một cách gián-tiếp. TÔNG là chơn-lý nội tại.
- GIÁO là hình tượng kinh sách, chữ nghĩa, lời nói.
  TÔNG là tâm, là hình.

Hiện nay thì:
- Giáo Tông hữu hình là Quyền Giáo Tông Lê văn Trung
- Giáo Tông vô vi là Đức Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Hữu hình là Âm, vô vi là Dương. Âm Dương không xa lìa nhau, là đủ cả xác hồn thật là hòan hảo.
Vô vi là Trời trị hồn. Hữu hình là Người trị xác
Giáo-Tông có ngai và Long vị để thờ vào hàng NHƠN ĐẠO (trong Ngũ Chi)

Xét kỹ ra mới thấy quyền-hành GIÁO-TÔNG quá ư quan-trọng. Nhất là khi Thầy dạy làm bảy cái Ngai cho Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, việc thực hiện Thầy giao cho ông Kiệt, ngày 12 tháng 8 năm Bính-Dần, như sau:
 “Kiệt, con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất, Thầy giao cho con phải săn-sóc mướn thợ làm bảy cái Ngai: 
- Một cái trọng hơn cho Giáo-Tông.
- Ba cái cho ba vị Chưởng-Pháp.
- Ba cái cho ba vị Đầu-Sư.
 *Nhất là cái Ngai của Giáo-Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ TỨ LINH, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con RỒNG.
 *Còn của Chưởng Pháp chạm hai con PHỤNG.
 *Của Đầu-Sư chạm hai con LÂN, nghe à!” (TNI/44)

Vậy là mỗi mỗi vẫn có đủ đôi, là âm dương hòa hiệp;
khi Hộ-Pháp hỏi Thầy về sự sắp đặt bảy cái ngai.Thầy dạy: “Tòa-Thánh day mặt ngay hướng TÂY là chánh cung ĐOÀI  ấy là Cung Đạo. Bên mặt Thầy là cung KHÔN  bên trái Thầy là cung CÀN .Đáng lẽ phải để 7 cái ngai của phái Nam bên trái Thầy là cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-Đạo cho đủ NGŨ CHI nên Thầy buộc phải để Cung Đạo là cung Đ0ÀI cho đủ số”.
Đây là vị trí của ba cung mà Thầy đã dạy, hợp với  phương hướng của Đền Thánh hiện nay:
- ĐOÀI chánh Tây
- CÀN Tây Nam
- KHÔN Tây Bắc

Hình bên là Bát Quái Đồ Thiên cắt ra, chỉ lấy ba cung. Khi hiểu Bát Quái Thầy dạy như vậy rồi, các Cung còn lại cứ sắp theo thứ tự của nó vào là đúng.

2-  Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan Quản-trị Càn Khôn Thế-Giới
Pháp Chánh truyền qui định về quyền hành GIÁO TÔNG  nếu vẽ bằng hình sẽ thấy rõ:
Thầy mở Đạo kỳ này chọn:  nhứt Phật, Tam Tiên  đó là hàng Tiên vị, gồm: 1 Giáo Tông, 3 Chưởng Pháp, 3 Đầu
Sư. Thế nên dưới quyền Giáo-Tông có hai con số 3, tượng:
Tam Âm tam Dương
- Như đã biết đó là hai quẻ Càn  Khôn .Nếu xếp các đường thẳng của Quẻ CÀN - KHÔN đâu cạnh vào nhau sẽ thành hai tam giác đều có ba cạnh bằng nhau và 3 góc bằng nhau, bằng 60°, xong đặt nghịch chiều nhau, như
- 3 ngôi Chưởng-Pháp (là người của Hiệp Thiên Đài, tượng cơ Dương)  đỉnh tam giác quay lên.
- 3 ngôi Đầu-Sư  (Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, tượng cơ Âm)  đỉnh tam giác quay xuống dưới.
Hai tam giác đặt chồng lên và nghịch chiều nhau là  biểu hiện bằng 3 ngôi Chưởng-Pháp và 3 ngôi Đầu-Sư:  Ấy là trong Âm có Dương và trong Dương có Âm; Âm Dương tương hiệp, tương đắc, tương điều hòa. Từ đó mới biến sanh ra hằng hà sa số.                                                                                        
Mỗi phẩm có ba phái, trừ ngôi Giáo-Tông chỉ có một và đặc biệt Ngài mặc sắc phục trắng.
 (Phân biệt: khi Ngài Lê văn Trung mặc phẩm-phục xanh là còn ở ngôi Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt, là phẩm được thọ phong trước. Sau đó Ngài mới được ân phong phẩm Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung, là Giáo Tông chưa vào chánh vị. Giáo-Tông mặc phẩm phục màu trắng, là chủ Cửu Trùng Đài, đặt giữa đồ hình).

* Hình vẽ làm biểu-tượng:
- Chữ A, tượng ngôi Thượng Chưởng-Pháp.
- Chữ B, tượng   ngôi Thái Chưởng-Pháp.
- Chữ C, tượng ngôi Ngọc Chưởng-Pháp                                                  

Như vậy, ngôi Chưởng-Pháp thuộc về Đạo, nên đỉnh Tam giác quay lên trên (tượng tam Dương)
Ba ngôi Đầu-sư là Đời trong Đạo nên đỉnh tam giác quay xuống phía dưới (tượng Tam Âm). Do đó:
- A’ là tượng cho ngôi Thượng Đầu-Sư.
- B’ là tượng cho ngôi Thái Đầu-Sư.
- C’ là tượng cho ngôi Ngọc Đầu-Sư.
Ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tức là đại diện cho Tam-giáo Phật- Tiên- Thánh. Tuy nhiên:
- Chưởng-Pháp thế quyền cho Hộ-Pháp nơi Cửu Trùng-Đài thuộc về Đạo.
- Đầu-Sư đặng quyền thay mặt cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp trước mặt nhơn-sanh thuộc về Đời trong Đạo. 
Hai hình tam-giác này là tam-giác đều nội tiếp trong vòng tròn, gát chồng lên nhau, tượng trưng lý Âm Dương, Đạo Đời tương-đắc. Điểm quan trọng là đây, luôn hiển hiện trong pháp Đạo Cao Đài thật hòan tòan khoa học !
*Tại sao lại đặt chữ Thượng trên đỉnh của tam giác?
Bởi Đạo lúc nào cũng lấy chữ trung, chánh làm điểm yếu-trọng, mà ba phái theo thứ tự thì:
- Thái chỉ về Phật, bên trái  (hay là trước hết)
- Thượng chỉ về Tiên ở giữa;
- Ngọc chỉ về Thánh, bên phải; sau. (Nhìn đối diện)

Mỗi tam-giác được thành hình là do 1 sanh ba, 3 sanh vạn vật thuộc về cơ-quan Chưởng-Quản; do đó mà ngôi GIÁO TÔNG ở vào tâm  của  vòng  tròn, mà  vòng  tròn  chỉ  Càn
Khôn vũ trụ, cho  nên Cửu Trùng  Đài là    quan quản trị Càn-Khôn vũ-trụ  thuộc về TRỜI là vậy.
Mỗi phẩm có 3 ngôi  mà “Pháp-luật Tam  giáo  tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một.” Vốn cũng đồng quyền, đồng đẳng nhau, nên là thế !.
Ngôi Giáo-Tông ở vào vị-trí tâm của vòng tròn, do Thầy qui-định trong Pháp Chánh Truyền:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
Nếu Tâm 0 tượng cho Thượng Đế thì vòng tròn là Càn Khôn vũ trụ, nhưng Thầy dạy “Giáo-Tông là Anh Cả các con”. Vòng tròn này tượng-trưng cho cơ-quan Cửu Trùng Đài thì Tâm 0 là ngôi-vị Giáo-Tông (giữa vòng tròn). Vậy Giáo Tông là chủ của Càn Khôn vũ trụ là vậy.

*Tam Âm Tam Dương tượng TRỜI:
GIÁO-TÔNG làm chủ con số 3, là tam Tiên trong hàng TIÊN VỊ, gồm cả 3 phẩm Chưởng Pháp và 3 phẩm Đầu Sư. Như trên, hình tam-giác biểu tượng cơ Dương mà chính nó cũng tự có Âm Dương của nó  nữa, vì thế mới có Tam Âm, Tam Dương. Do vậy mà thể Dương tượng Trời tạo nên hình sao sáu cánh trên ứng với “Một Trời” trong câu thơ mà Đức Chí-Tôn cho Ngài buổi ban đầu: Một trời, một đất, một nhà riêng.”  (xem bài thơ trên, trang 71)

Nhưng  luật    trụ  khi  nói  đến Dương tất có Âm, hay nói khác đi: ngoài ra còn có Tứ Âm Tứ Dương nữa.
*Tứ Âm tứ Dương tượng ĐẤT:
Âm Dương không xa lìa nhau, thế nên hình vuông là biểu tượng cơ Âm, cũng có tứ Âm, tứ Dương của nó. Hai hình này nội tiếp  trong  vòng  tròn  tạo  thành một hình    tám

cạnh, Dịch gọi là BÁT  QUÁI.  Ngôi  Giáo  Tông  ngự  trị giữa  hình vuông là ý chỉ “Một Đất” trong câu thơ “Một trời, một đất, một nhà riêng” (xem  thơ trang 71)
*Tại sao lại có số 4 này ?

Pháp Chánh Truyền định phần Tiên vị nơi Cửu Trùng Đài là ngoài một ngôi Giáo Tông ra, còn lại  mỗi phẩm  có ba vị: 3 Chưởng Pháp, 3 Đầu-Sư.
Thực tế mỗi phẩm lại có 4 vị (là 4 Chưởng Pháp, 4 Đầu Sư) nên số 4 thuộc Âm phải có mặt.

Hiện  có 4 Chưởng Pháp:
1-Thái Chưởng Pháp Nguyễn văn Tường (1864-1939) là Hòa-Thượng Như Nhãn (hay Huề Thượng Giác Hải) Quảng Pháp Thuyền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ. "Chưởng Pháp phái Thái". Về sau bỏ Đạo.
2-Thượng Chưởng Pháp Nguyễn-văn Tương (1897-1927)  (Minh Sư) Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thượng" Thiên phong ngày 24-07-Bính Dần.
*Ngọc Chưởng-Pháp có hai vị:
3- Trần-văn-Thụ       (1857-1927)
4- Trần-Đạo-Quang  (1870-1946) về sau bỏ đạo.

-Ngài Trần văn Thụ (Minh Sư: Vĩnh Nguyên tự) Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ "Chưởng Pháp phái Ngọc" Ngày 10-9-Bính Dần.

- Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Thanh Nhàn, sanh năm Canh Ngọ (1870), tu theo Minh Sư đến chức Thái Lão Sư, trụ trì ở Linh Quang Tự, Gò Vấp. Ngài được Ðức Chí Tôn giáng cơ độ Ngài theo Ðạo Cao Ðài. Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương qui Thiên,

Ngài được phong làm Quyền Thượng Chưởng Pháp.
Giữa năm 1927, khi Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ qui Thiên, Ngài Trần Ðạo Quang được ân phong là Ngọc Chưởng Pháp chánh vị. Nhưng về sau Ngài tách rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh và lập Chi Phái riêng.

NHỰT- NGUYỆT-TINH: TAM BỬU CỦA TRỜI
Trong thời khởi khai Đại Đạo thì Chức-sắc Cửu Trùng-Đài Nam-phái được một đặc-ân là ba vị Đầu Sư có Thánh-danh mang chữ: NHỰT- NGUYỆT- TINH tượng trưng Tam bửu của Trời.
Nhưng thực tế lại có 4 Đầu Sư. Thế nên:
- Thái Đầu-Sư có hai vị:
1- Thái Đầu-Sư Thái-Minh TINH (Thiện-Minh) Thiên phong ngày 13-10-Bính Dần. Về sau bị Đức Lý cách chức (mất năm 1927)  
2- Thái Đầu Sư Thái-Nương-TINH. Thế danh Dương Văn Nương (1870-1929) Tri Huyện hàm tại Sa-Đéc, sanh năm Canh Ngọ (1870) tại Sa-đéc và mất tại đây ngày 25-10-Kỷ Tỵ (dl: 25-11-1929) hưởng thọ 60 tuổi. 
- Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT. Thiên phong ngày Rằm tháng 3 Bính-Dần. Thế danh Lê-văn-Trung (1876-1934).  Sau là Quyền Giáo Tông Đại Đạo TKPĐ.
- Ngọc Đầu-sư Ngọc-Lịch-Nguyệt. Thiên phong ngày Rằm tháng 3 Bính-Dần. Thế danh Lê-văn-Lịch (1890- 1947).
Nay Đức Chí-Tôn đặt Tam bửu của Trời vào cơ quan Cửu Trùng-Đài Nam phái là điều hạnh phúc cho Đạo.
Ngày ông Thiện-Minh được ân-phong, Thầy dạy: “Thiện-Minh, con há ! Mừng con,
 “Con ôi! Khi Thầy giáng sanh lập  Đạo  Thánh, Thầy đổ máu mà rửa tội cho chúng-sanh, đến đỗi phải lấy thân làm của tế mà cầu-khẩn cho  chúng sanh. Hai ngàn năm chưa qua, giọt máu Thầy đã trôi hết!
 “Nay con vì ma khảo phải đổ máu mà  rửa  tội  cho toàn phái Thái, thì sự vinh-diệu con trước mắt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đã đặng so-sánh cùng Thầy rồi …Cười!
 “Con phải lấy hiệu Thiên-ân là Thái-Minh-Tinh làm Đầu-Sư”
Nhưng Đạo là lý, mà lý vũ-trụ vốn vô cùng. Nếu kể Tam Thiên Thế-Giới và Thất Thập Nhị Điạ là Tinh-tú thì có đến 3.072 vì sao. Do vậy phái Thái (mang chữ Tinh= sao)  phải có đến hai vị như vừa nêu trên làm đại diện.

Ngày 12-12 Bính-Dần (dl: 15-01-1927)
Thầy giáng dạy rằng:
 “NƯƠNG, Thầy dặn con, con chẳng hề nghe đến, Thầy muốn bỏ, song vì cựu vị nên chẳng đành. Từ đây phải lo Đạo nghe ! Thầy phong cho con chức Thái-Đầu Sư, phải hành-Đạo và hiệp sức phổ-độ phái Thái, Thái Minh Tinh bị Lý Thái Bạch cách chức”.

Đức Lý dạy: “NƯƠNG phải sắm Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe!”  (ngày: 13-12-Bính Dần)
Như vậy:  Tam-bửu của Trời mà các vị ĐẦU SƯ có Thánh danh được biểu tượng  qua các hình ảnh của: “Một Trời, một Đất, một Nhà riêng”

Trên đã chứng minh bằng hình (ở trang 76) rằng:
- Tam Âm tam Dương (Tam giác) tượng TRỜI
- Tứ Âm tứ Dương  (hình vuông)  tượng ĐẤT.
Bấy giờ ghép cả hai phần trên lại thành một hình tòan diện biểu tượng “Một nhà riêng” như câu thơ của Đức Chí-Tôn đã ban cho Ngài (xem lại bài thơ trang 71)
Các hình trên cùng nội tiếp trong vòng tròn: là BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN do Đức Quyền Giáo Tông Chưởng Quản, ứng hợp với quyền hành được qui định trong:
Pháp Chánh Truyền:“Giáo-Tông thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.”

Chữ “Đường Đời” giờ đây đã ứng với Bát Quái Đồ Thiên, chính là quyền hành của Giáo-Tông phải đảm trách  “Một nhà riêng” đó! Hay nói khác đi đó là phần hành của Giáo Tông là phải thực thi THỂ PHÁP THIÊN ĐẠO, tức là Bát quái Đồ Thiên hay Bát Quái Cao Đài vậy.

3- Bát-Quái Đồ Thiên thành hình
 “Nhà riêng” đây là BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN đã thành hình!
Khi hai hình tam-giác và hai hình vuông phối hợp vào nhau trong đồ tròn sẽ thành một hình duy nhứt, mà ngày nay chính Đức Chí Tôn sử dụng trong Đạo Cao-Đài, mà chỉ riêng Đạo Cao Đài mới dùng Bát-Quái này nên cũng còn gọi là Bát Quái Cao Đài (trước đã có Tiên Thiên và Hậu Thiên rồi, nay Bát Quái này đứng vào Trung Thiên. Ông Trần Cao Vân gọi là Trung Thiên Dịch- Trung Thiên Đạo; chính Đạo Cao Đài gọi là Bát Quái Đồ Thiên đó !.

GIÁO TÔNG là Người làm Chủ Bát-Quái Đồ Thiên.
Khi đã có một Bát-Quái toàn diện, chúng ta có quyền đặt tên các quẻ còn lại vào các góc cạnh tương ứng, sẽ được đồ hình dưới đây là do lời dạy của Thầy khi Thánh-ý của Chí-Tôn dạy sắp 7 cái ngai:
Bát-Quái dưới đây, tức nhiên có các Cung được xác định qua trục đứng là Đông Tây, trục nằm là Nam Bắc, ấy là đúng như phương hướng của Đền Thánh Toà-Thánh Tây Ninh hiện có 3 Quẻ được xác định là:                                                                                                                                                               
ĐÒAI  chánh Tây (cung Đạo, ở chính giữa, là mặt tiền   của Đền-Thánh).
CÀN  Tây Nam  (trong Đền nhìn ra, tay trái của Thầy)
KHÔN   Tây Bắc (trong  nhìn ra, bên phải của Thầy)
Ba Cung đã được định hướng rồi thì những Cung còn lại của Bát-Quái Đồ Thiên cứ theo thứ-tự của Bát-Quái Hậu-Thiên mà xếp các quẻ còn lại vào vị-trí.
*Thứ-tự & Số lấy theo Bát-Quái Hậu-Thiên:
- Thứ tự của Bát Quái Hậu Thiên là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn,  Ly,  Khôn,  Đoài;  vận  hành  theo  chiều thuận với kim đồng-hồ.
Chỉ riêng Bát-Quái Đồ Thiên đi nghịch với chiều kim đồng-hồ, là nghịch chuyển, dấu hiệu  Đạo về nguồn.

Về Số: lấy theo số của Bát-Quái Hậu-Thiên: Nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly. theo Thánh-ý của Thầy, có 4 phương chánh:

     ĐÒAI       Chánh Tây
     CHẤN       Chánh  Đông
     LY            Chánh Bắc
     KHẢM    Chánh Nam

Phương hướng của Bát-Quái Đồ Thiên đặt nghịch chuyển với Bát-Quái Hậu-Thiên và lật ngược lại, nên bấy giờ khác hẳn với Bát-Quái Hậu-Thiên là Ly ở Bắc, Khảm ở Nam.

*Tại sao Bát-Quái Cao-Đài phải đặt nghịch chuyển với Bát-Quái Hậu thiên ?
- Thứ nhứt là đường Đạo phải đi nghịch lại như vậy mới gọi là trở về nguồn, Thầy cũng dạy “Tu-hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng liêng”.
- Thứ hai là chính Thầy đã “chiết Khảm điền Ly phản vị Càn” chúng ta sẽ bàn đến: vì trước đây Bát-Quái Hậu-Thiên là ở thời "Người tìm Đạo" nên Ly ở Nam, Khảm ở Bắc. Ngày nay người Tu là "Đạo tìm Người" nên nghịch chuyển. Cao Đài là Qui nguyên Phục nhứt, Thầy muốn nền Đạo này là của Thế-giới Đại Đồng, lại nhằm cơ Đại Ân-Xá của Chí-Tôn nên việc tu hành có phần rộng rãi hơn mới độ tận 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị và nền Đạo có khả năng phổ truyền khắp năm Châu Thế giới.    
Thầy đến chuyển đổi lại Khảm  ở Nam, Ly   ở Bắc. Do đó mà vị-trí của các Cung Bát-Quái Đồ-Thiên nằm vào các hướng sau đây:

CÀN là hướng khởi ở Tây Nam (thay vì Càn tam liên Tây Bắc Túât Hợi của Hậu-Thiên)
Như vậy, Bát-Quái mà Giáo-Tông làm chủ đây là Bát-Quái Đồ-Thiên, chỉ riêng Đạo Cao-Đài  mới có; đó là  tổng  hợp của hai lý Âm Dương hỗn-hợp trong cơ sanh biến Vạn linh. Vậy kỳ khai Đại-Đạo này Ngài đã đặt Ly lên Khảm và đặt Khảm lên Ly để tất cả thành CÀN   là vậy.
Trong nguơn hội mới của Đạo Cao-Đài người tu đúng nghĩa là phụng sự cho Vạn linh tức Phụng sự Chí linh. Phụng sự Chí-linh là phụng sự Trời đó vậy.

Một người đứng đầu của nhơn sanh để giáo hóa nhơn-sanh là GIÁO-TÔNG, nên“Giáo-Tông có quyền thay thế cho Thầy mà dìu-dắt con cái của Thầy trong đường Đạo và đường Đời.”
Đường Đời đã chứng mình bằng Bát Quái Đồ Thiên
Đây là phương hướng của BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN:

Kết luận:
Trách-nhiệm Thiêng-liêng của Ngài Lê Văn Trung là được sự lựa chọn, đặt để trước, giờ đến đây để làm sứ mạng, vì vậy bài thơ đầu tiên Chí-Tôn ban cho, xem như là một bản-đồ được để trước mắt Ngài để nhắc nhớ, đồng thời nhơn-loại nhìn vào đó để do theo cử chỉ, lời dạy của Ngài mà làm “bài học tắt” trong việc tu hành.

Ngài chính là một trong những lương sanh được chọn để cứu vớt quần-sanh: Thế nên bài thơ trên đủ yếu lý:              
- Câu 1 “Một trời, một đất, một nhà riêng” đó là đầy-đủ ý-tứ trong các đồ hình về Bát-Quái Cao-Đài rồi. 
- Câu 2 “Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền” đó là trách nhiệm giáo-hóa nhơn-sanh trong con đường hành thiện của kỳ ba  chuyển  thế và  cứu  thế  của  Cao-Đài  mà Giáo Tông là ANH CẢ của nhơn-sanh.
- Câu 3 “Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng”. Thiên-Thơ  là quyển sách trời. Hiện nay trong cửa Đạo này chính là hai quyển “Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển”, trong đó xuất phát những yếu-lý của Đạo là TÂN-LUẬT và PHÁP CHÁNH TRUYỀN làm thước khuôn cho người tu-hành để thành Tiên tác Phật. Vì tính cách quan-trọng đó nếu ai sửa đổi chơn truyền phải đắc tội là vậy !.

Quyển sách nơi tay Ngài là hình ảnh của Ngài đặt trên bức Tượng ở mặt tiền Đền-Thánh (nơi lầu chuông tức Bạch-Ngọc Chung-Đài) là cuốn Thiên-Thơ đó vậy. Vai trò của Ngài là chuyển thế, cứu thế  và bảo tồn Vạn linh…
- Câu 4 “Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên”.
Bổn-phận của Giáo-Tông là giáo-hóa nhơn-sanh do theo Thánh-ý của Thầy, mục đích dẫn dắt nhơn sanh trở về Thầy tức thành Tiên tác  Phật, làm theo Đạo Trời mà thôi.
a/- Sự mầu nhiệm của Bát Quái Đồ Thiên:

Qua đồ hình trên CHẤN  Sổ 3 ở về phương Đông. Dịch nói “Đế xúât hồ Chấn” nghĩa là vua ra ở cung Chấn, mà “Vua Đạo” hiện giờ là hình ảnh của Giáo Tông đó. Quyền Giáo Tông là con Cả của Đức Chí-Tôn về hữu hình. Phần vô vi là Đức Lý Giáo Tông. (rồi đến Di Lạc)

Cũng như con gái Út tượng cung Đòai  (số 7) (Thiếu nữ) qua hình ảnh Đức Phật Quan Âm, nhưng Phật Quan Âm thời này không đến được, mới ủy thác cho Đầu Sư Lâm Hương Thanh thể thiên hành Đạo trong buổi này.

Thế nên, hiện giờ về vô vi:
- Thái Bạch Kim Tinh: Nhứt Trấn Oai nghiêm
- Quan Âm Như Lai: Nhị Trấn Oai Nghiêm.
Hữu hình: hai vị qua bức tượng trước Hiệp Thiên:
- Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung (lầu Bạch Ngọc).
- Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh (lầu Lôi Âm Cổ)

Khi Đức Hộ-Pháp Trấn Thần Tượng Đức Quyền Giáo Tông và Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh, có dạy rằng: “Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn sanh tiến bước vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí-Tôn mỗi khi vào Cầu nguyện và chiêm bái Đức Chí-Tôn”.

4-Tại sao lại có một số Chức sắc bỏ Đạo ?
THẦY dạy tại Cầu Kho ngày 19 Février 1927:
“Thầy vì lẽ công mà phong Chức sắc cho mỗi đứa là cũng do Tòa Tam Giáo xin, chớ xem lại trong hàng Môn đệ đã thọ tước cũng chưa đặng thấy mấy đứa cho xứng đáng. Vậy các con đứa nào đã được thưởng phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự; còn mấy đứa chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà  thất đạo  tâm. Các con hiểu à ?

Thầy ước sao các con biết tự lập thì Thầy mới vui lòng; chớ các con Nhập môn cho đông, lãnh Thiên phong cho nhiều mà không đủ tư cách, thì các con phải tự hỏi mình coi có bổ ích vào đâu chăng - Hiểu à !”
5- Lý thất  phản cửu hoàn và giá trị các số:
Xem thế, Pháp Chánh Truyền qui con số 3 là con số Thiên định, nhưng khi hành sự thì đây là sự biến dịch bởi con người, dù biến đổi thế nào cũng trong vòng luật định của Thượng Đế mà thôi. Vì vậy hình vuông ứng với cơ Âm. Điều này cũng cho ta thấy rằng:
- Trong hình ngôi sao, thực-tế là sáu cánh, nhưng có tâm ở giữa, cộng chung là 7 điểm.
-  Đồ hình có hai hình vuông họp lại tuy có 8 mà có 1 tâm, thành ra 9 điểm. Đây cũng trở lại số 7, số 9 tức là nằm trong lý “thất phản cửu hoàn”.
Vậy (7+9=16)  trở về hai con số Bát Quái, ấy là chỉ:
 - Bát Quái Đồ Thiên (Thể pháp Thiên Đạo)
 - Bát Quái Hư vô      (Bí pháp Thiên Đạo).

Hai Bát Quái này chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới có.
Hai số: 7- 9 giống như hình ảnh mỗi người đều có trên mặt:

Người là một sản-phẩm hoàn hảo nhất của Thượng Đế: có trên mặt 7 khiếu Dương và ở dưới hai khiếu Âm cộng chung 9 khiếu. Thánh nhân do theo nét chẵn, lẻ; Âm, Dương đó để diễn-tả sự chuyển biến trong vũ-trụ này: nét đứt  biểu thị hào Âm, nét liền làm hào Dương 

Nhờ bảy khiếu Dương (khiếu là lỗ) ở trên mặt là dương-điển, nên tất cả con người dù ở xứ nóng hay xứ lạnh đều chịu được thời tiết mỗi nơi khác nhau, nếu khí Âm lên đến đầu hay mặt, là bịnh.
Phải chăng cũng vì lẽ ấy mà Đức Chí-Tôn trúât hai phẩm Giáo Tông và Chưởng Pháp của Nữ phái ?
Con số bảy có liên-hệ đến thất tình và thất khiếu sanh quang của người. Do các số này đã làm nên phương trình Đạo-học, đang áp-dụng trong thế giới lòai người:
Xưa Phật chỉ độ phần Dương: tức là độ hồn mà không độ xác, độ tử không độ sanh, độ Nam mà không độ Nữ; nên Phật-giáo chỉ làm tuần thất (7x7=49 ngày) nghĩa là trong nghi thức cúng thì tính đến 7 ngày mà thôi.

Nay, chính Đức Chí-Tôn mở  Đại  Đạo, là    quan tận-độ chúng-sanh, là thực hiện cả con số 9 (hình ảnh của toàn Cửu khiếu = 7 khiếu dương +2 khiếu âm) tức nhiên kỳ ba này độ cả hồn lẫn xác, độ sanh và độ tử, độ cả Nữ và Nam, độ toàn cả nhân-loại trên Càn khôn Vũ trụ, không phân biệt giống dân, vì tất cả đều là con của Thượng-Đế.

Bởi thế, Thầy lập Cửu-Trùng-Đài    con  đường vào Cửu-Trùng-Thiên, từng bước lên nấc thang tiến-hóa qua Cửu-Phẩm Thần-Tiên để đến Con đường Thiêng liêng  Hằng Sống, theo Phật giáo là nơi  tuyệt-phẩm, là Niết bàn.

a/- Sự liên quan đến Tòa Thánh:
Nhìn vào Đền Thánh có hình 7 chữ SƠN (thất sơn vô vi) con số 7. Ngó ra phía trước là Cửu Trùng Thiên, con số 9. Hai con số này cũng tạo nên con số “Thất phản Cửu hòan” vậy.
Nghi-thức cúng kính của Đạo Cao Đài là làm tuần Cửu (9x9=81). Nghĩa là bắt đầu từ ngày chết đếm đủ 9 ngày thì làm tuần một lần, mỗi lần cầu siêu như vậy là đưa hồn lên một từng trời, qua 9 lần là đến chín từng trời. Tinh thần của Đại-Đạo là nhất quán từ nghi-thức, cúng kính …tất cả đều do  Đức CHÍ-TÔN giáng dạy.

Thể-pháp của Đạo đã hiện hình Bí-pháp đó !              
Con số 9 là bội-số của 3 (3x3=9). Con số 3 là sự thành hình của vạn-vật định thể, cho nên khi thể hiện đủ 3 nét liền đó là quẻ Càn  tượng trưng sự tròn đầy, cao cả, trong sáng, lớn mạnh: Là Cha, là Trời mênh-mông vô hạn. Trong khi đó hiệp đủ 3 nét đứt, họp thành quẻ Khôn  để chỉ một sự bao dung, đầm-ấm, yêu-ái như tình mẹ thương con. Thế nên, dưới mắt người Á-Đông Càn là Cha, Khôn là Mẹ; Là hai cánh cửa để đi sâu vào ĐẠO DỊCH .

Từ đây về sau những con SỐ đóng vai trò trọng yếu.
Do đó khi ghép hai hình tam  giác  và hai  hình  vuông  vào  vòng tròn đó là thành hình của BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN.

Phải chăng Đức Lê văn Trung là Quyền Giáo Tông, tức là chưa chánh vị, nên Thầy giáng cho Thi là để xác định quyền hành của Ngài thêm vào Pháp Chánh Truyền:
b/- Các con số biến-hóa đối với Ngôi vị
Đức Quyền Giáo-Tông:
Thực-tế Ngài đã làm chủ con số 7, con số 7 là con số chỉ Thất tình đó vậy: Bởi hàng Tiên-vị là gồm:
1 Giáo-Tông + 3 Chưởng-Pháp + 3 Đầu-Sư = 7 vị.         

Nhìn vào Bát-Quái Đồ Thiên thì số 7 là quẻ Đoài, Đoài ở chánh Tây, tượng hình là cái miệng; miệng phát ra lời nói là chữ NGÔN  (7 nét) Có câu “đánh lưỡi 7 lần trước khi nói”. Trong thời buổi này là thực hiện Cơ Phổ-độ chúng sanh, thì mới hoằng dương chánh pháp trong thời Thầy khai Đại-Đạo. Tất cả các hình tượng con vật đều hả miệng!

Số 7 là số ngưng kết: 1+2+4=7 tức là Thái cực cộng Lưỡng-Nghi và Tứ Tượng. Thái-cực là Dương, Lưỡng nghi là cơ biến tướng, Tứ tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng cơ biến tướng và sanh-hóa chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt không có biến động, có nghĩa là trạng thái yên-tịnh ngừng nghỉ, nên nó cũng ám chỉ vào thể Âm.

Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình, trong thân  người      Thất  khiếu ở trên đầu. Số 7 ấy là  do  3 ngôi cọng 4 biến hay là 1+2+1+2+1 nên Vô-cực vi-chủ.

Nhưng, Giáo-Tông Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài tức là đứng đầu Cửu-phẩm Thần Tiên là con số 9. Hai con số: 7 và 9 trong trường hợp này gọi là “Thất phản Cửu hòan”. Thất phản là cứ chu-kỳ đi đến 7 là trở lại (như một tuần-lễ 7 ngày, giáp một vòng lại trở lại), cửu hoàn là sự luân-lưu của sự biến dịch không ngừng dứt. Cho nên nói “thất phản cửu hòan” là điểm mấu chốt: cùng cực cái động để trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.

Ngôi số 1 là chỉ trời, là Thái-cực. Từ 1 sanh 3, ba sanh vạn-vật. Như vậy một mà ba, ba cũng là một. Thế nên ngôi Giáo Tông có ba vị là vì lý do ấy.
Nhìn vào Bát-Quái Đồ Thiên thấy quẻ CHẤN mang số 3, chánh Đông, đó là biểu tượng ngôi trời mà Giáo Tông  thay Trời tạo thế “Đế xúât hồ Chấn” là con trai trưởng.
Thử làm một việc so-sánh quyền-hành của Giáo Tông có những điểm tương-đồng nào với lời chiêm-đoán về Quẻ CHẤN mà tiền Thánh đã để lại cách đây hàng sáu ngàn năm coi có trùng khớp với nhau không ? - Nếu trùng hợp nhau thì ngôi vị GIÁO TÔNG quả là Thiên mạng !
c/- Việt Nam là Quốc-gia Thiên định:

Đức Thượng-Đế cũng chuẩn-bị cho Việt Nam có những điều-kiện để hoàn thành một Quốc-gia Thiên định, đó là Thất sơn hữu hình ở Châu-đốc (con số 7) và Cửu Long-Giang (con số 9) tức là “Sơn tiền điểm long mạch” những con số ấy  y như hình ảnh của con người vậy. 

Lại nữa các số này trùng hợp với số trên Bát Quái:
Số 3 (cung Chấn) là núi Tam Đảo ở miền Bắc.
SỐ 5 ở giữa là Ngũ Hành Sơn ở Quảng Ngãi; con số này là do tổng số của hai số thuộc Chấn- Đòai  chia hai (3+7: 2= 5) đứng vào Ngũ trung.
Số 7 (Cung Đòai) là dãy Thất Sơn ở miền Nam.
Đây là một trong nhiều yếu tố để Việt Nam trở thành một Quốc gia Thiên Định: Thánh Địa trong tòan cầu Các số: 3-5-7 nằm trên trục Đông- Tây của đồ hình mang hai cung Chấn- Đòai, thật là mầu nhiệm: Ấy cũng là:
"Sở dĩ Đức CHÍ-TÔN chọn đất nước Việt-Nam này làm làm Thánh-Địa để Phổ-Độ chúng sanh kỳ ba, chỉ vì Việt Nam là nơi kết hợp được tinh hoa của tất cả các nguồn Văn minh trên thế giới, Việt-Nam là nơi tổng hợp các ngành đạo đức: Nho- Lão – Thích    cũng  là nơi gặp  gỡ của hai nền văn minh Đông Tây".

d/- Khai triển các con số trong đồ hình:
Qua Đồ hình trên các con số của Quẻ kết hợp lại có một giá trị vừa khoa học vửa mầu nhiệm: đó gọi là Ma Phương số: Nhìn vào Bát-Quái này ta thấy ngay một bảng ô số, đó là những con số ứng với các quẻ. Tỷ như số 1 là Khảm, 2 là Khôn, 3 là Chấn, 4 là Tốn, 5 ở chính giữa, 6 là Càn, 7 là Đoài, 8 là Cấn, 9 là Ly. Gọi là con số Ma phương vì nó hiện biến và thay đổi một cách lạ thường.

Bài thơ sau, cốt-yếu là cho dễ nhớ vị-trí các con số ấy, đọc theo hàng ngang  của bảng số, là:
Tứ hải, Tam sơn, hội Bát Tiên
Cửu long ngũ hổ nhứt đoàn viên.
Nhị tướng thất trì phò lục quốc.

Nếu cộng những số này theo các chiều ngang, chiều dọc, đường chéo đều được một tổng-số là 15. Nghĩa là có tất cả
8 lần tổng-số 15 như vậy: Thử xem:
8 lần tổng-số 15 như vậy có nhiều ý-nghĩa:
Từ đó suy ra các việc ứng nghiệm trong đạo pháp:

Sở dĩ có các con số tương ứng này là lấy theo số của Bát Quái Hậu Thiên mà các bậc tiền Thánh đã lập ra trước đây 6.000 năm, là nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, Ngũ trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly. Do vậy mà Bát Quái Hậu Thiên chỉ có 9 con số mà thôi. Dịch quan trọng ở Nho, Y, Lý, số.
Suy ra: Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì: ngày 15 tháng 8
- 8 lần tổng-số 15: Lấy số 15 làm ngày, số 8 làm tháng là Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Phật Mẫu hằng năm. Theo Âm lịch là ngày 15 tháng 8 (Rằm Trung Thu). Bởi mùa Thu là mùa gặt hái. Phật Mẫu sản xúât ra Bát phẩm chơn hồn (Họăc 3 lần con số Ngũ: ngũ Khí, Ngũ hành, ngũ Tạng )
*Ngày Khai Đạo:
- Nếu cộng như trên các số qua tâm của hình, nhưng không cộng số 5 ở giữa, sẽ có các tổng số là 10: 4+6 =10, 3+7=10, 8+2=10, 1+9=10. 
Họp hai số 15 và 10 ở trên lại sẽ là ngày Khai Đại Đạo (Rằm tháng 10). Tổ chức hằng năm tại Tòa Thánh.
* Đại Lễ Chí-Tôn: 9 tháng 1 (Giêng)
Hai quẻ Khảm Ly là cái dụng của Càn – Khôn là Đạo của Trời, mà Trời vốn tự hữu hằng hữu nên lấy hai con số này làm biểu tượng cho ngày Đại Lễ Đức Chí-Tôn:
Số 1 là Thái Dương của Bát Quái Tiên Thiên
Số 9 là Thái Dương của Bát Quái Hậu Thiên.

Nói cho đúng phải là “Đại Lễ Đức Chí-Tôn”, “Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung” chứ không nói là “VÍA” được, vì các Ngài là Đấng tự hữu, hằng hữu, không    ngày  sanh, tử.

d/- Số  Ma phương kết thành chữ ĐIỀN  Hình vuông trong đồ hình có dạng chữ ĐIỀN  nghĩa là ruộng. Ruộng bên ngòai sản xúât lúa gạo nuôi thể xác. Ruộng trong Tâm là nơi sản xúât mọi hiểu biết, khôn ngoan, là túi khôn của lòai người dùng tô điểm cho đời mỗi ngày thêm xinh lịch. Nhất là người Đạo Cao Đài giờ này Đức Thượng Đế khai thác “Tâm Điền” một cách rộng rãi và để cho người người gặt hái: chính là triển khai tất cả các Bát Quái làm hành trang cho lúc còn sanh tiền một triết lý cao siêu, mà hữu ích cho chuyến “hồi quê” nữa.
Chính đây là hai quẻ CÀN  KHÔN  kết hợp lại.
D- Giáo-Tông làm chủ hai Bát-Quái Cao Đài:
Pháp-Chánh-Truyền Chú-giải có dạy rõ về quyền hành của Giáo-Tông:
 “Trên đây Thầy đã nói rằng: có quyền dìu-dắt trong đường Đạo và đường Đời, thì Thầy đã chỉ cho rằng có quyền dìu-dắt các con cái Thầy trên con đường Đạo đức của chính mình Thầy khai tạo và trên con đường Đời cơ Đạo gầy nên, chớ chẳng phải nói trọn về phần Đạo và phần Đời nghĩa-lý phân biệt nhau duy chỉ có chữ ĐƯỜNG và chữ PHẦN, xin rán  hiểu đừng lầm hai chữ ấy.”

Điều này đã báo cho biết Đạo Cao-Đài có đến 4 Bát Quái, chứng tỏ thời THƯỢNG NGUƠN TỨ CHUYỂN, trách-nhiệm của Giáo-Tông là chỉ đảm nhiệm hai Bát Quái Cao-Đài nói về THIÊN-ĐẠO mà thôi, có nghĩa là Đức Chí Tôn mở Đạo kỳ này cho thêm hai Bát Quái nữa tức là tạo con đường trở về, là con đường cho nhân loại được thành Tiên tác Phật trong nguơn hội mới. Nói rõ hơn đó là Chơn pháp, Chơn-truyền của Đại Đạo do Đức Chí Tôn khai mở.
-  Vậy Đường ĐẠO là Bí-Pháp của Thiên-Đạo,
-  Về  Đường Đời    Thể-pháp của Thiên-Đạo.

Thầy nói rõ “Nghĩa lý phân biệt nhau duy chỉ có chữ “Đường” và chữ “phần” xin rán đừng lầm hai chữ ấy”. 
Riêng về quyền hành của ĐẦU SƯ thì chữ “Phần”
- Bởi phần Đời của Thế Đạo, tức nhiên là Thể-pháp, tượng trưng Bát Quái Hậu-Thiên.
- Phần Đạo của Thế đạo là Bí-Pháp, tượng trưng Bát Quái Tiên Thiên (cả hai thuộc về Thế-đạo)
Hai Bát-Quái này đã có cách nay 6.000 năm do Vua Phục-Hi sáng tạo, rồi đến Văn-Vương, Châu-Công, Khổng Tử tiếp tục bổ cứu thêm, còn lưu lại đến ngày nay.

Giờ phút này Đức Chí-Tôn đến ban cho nền Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tam-giáo Qui nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, không phải Ngài hủy bỏ các Bát-Quái ấy, mà chính là do theo các Bát-Quái trước đây rồi mở thêm hai Bát Quái mới nữa, tức là tạo cho nhân-loại một con đường trở về trong Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống an-nhàn.

Nay, nhiệm-vụ của GIÁO-TÔNG là đảm nhiệm hai Bát-Quái Cao-Đài này, chính là thực hiện cho được con “ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO”.
- Đường Đời tức nhiên Thể-Pháp của Thiên đạo là Bát-Quái Đồ thiên (khai triển ở quyền hành Giáo Tông "giáo hóa nhơn sanh").                
- Đường Đạo tức nhiên Bí-pháp của Thiên-Đạo là Bát-Quái Hư-vô (thành hình trên Tiểu phục Giáo Tông)
Hơn nữa, Pháp Chánh-Truyền đã qui-định:          
 “Giáo-Tông thay mặt cho Thầy đặng bảo-tồn chơn đạo của Thầy tại thế thì Anh Cả nhơn-sanh đặng dìu-dắt con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi quyền Thiêng liêng đã định vậy”.
Trong Hội-Thánh có chia ra hai phần hữu hình là
Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài:
Đây là hệ-thống tổ-chức của Cửu-Trùng-Đài từ trên xuống dưới là: cơ quan giáo hóa nhơn sanh, là môi-trường học-hỏi, tiến-hóa theo ba bực, mỗi bực có ba phẩm.
- Như trên đã nói  về  hàng  Tiên-vị:  tượng trưng bằng 7 cái Ngai, mà Ngai của Giáo-Tông ở giữa, đặt trên hết và lớn hơn hết.
Các phẩm cấp lần-lượt từ: Tiên-vị, Thánh-vị rồi đến Thần-vị theo như Pháp Chánh Truyền qui định.
Như vậy trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy về đường Đạo và đường Đời rằng:
Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát.”

Ông Lê Văn Trung là Qu. Giáo-Tông hữu hình. Ngày 03-10-Canh Ngọ (dl: 22-11-1930) Đức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệp với Đức Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định thứ hai, ban Quyền Giáo-Tông hữu hình tại thế cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt; Đức Lý là Giáo Tông vô vi. Bấy giờ Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung là Giáo Tông hữu hình thì Đức Hộ Pháp lo về vô vi.

Đức Lê văn Trung chưa vào Giáo Tông chánh vị: Đức Lý Giáo Tông nhường phân nửa quyền hành Giáo Tông cho Ngài Lê Văn Trung điều khiển phần hữu hình, còn Giáo Tông thiêng liêng vẫn do Đức Lý nắm giữ. Khi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung qui Thiên, Đức Lý đem nửa quyền hành Giáo Tông hữu hình ấy giao cho Đức Hộ Pháp, nên Đức Hộ Pháp lúc đó là Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế. Giáo Tông có hai: vô vi và hữu hình tức hiệp đủ Âm Dương. Hộ Pháp đứng giữa thành ra Tam tài, Hộ Pháp là tượng chữ KHÍ là cơ Hòa. Lưới Trời thật nhặc nhiệm !
Đạo Nghị Định thứ 2 thăng phẩm
Quyền Giáo Tông

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ (Đệ Ngũ niên)
Chiếu theo Pháp Chánh Truyền ban quyền hành cho Giáo Tông và Hộ Pháp,
Nghĩ vì chư Chức sắc Thiên phong có quyền đặc biệt ngoài luật đã định, còn quyền hành Hội Thánh nữa.
Nghĩ vì thiếu luật Hội Thánh nên quyền hành chánh chẳng đặng vẹn toàn.

NGHỊ ĐỊNH
- Điều thứ nhứt: Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn phần thiêng liêng có Lão.
- Điều thứ nhì: Chức sắc Cửu Trùng Đài, duy bậc Chánh Phối Sư phải tùng quyền mà hành chánh về phần Chánh trị của Đạo, song đặng thế mặt cho Đầu Sư, đương buổi Người cầm quyền Giáo-Tông của Lão.
- Điều thứ ba: Mọi việc chi thuộc về quyền Chánh trị đều giao cho Chánh Phối Sư.
- Điều thứ tư: Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng Chánh phủ và nhơn sanh, nhưng buộc phải có Hội viên Nhơn sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.
- Điều thứ năm:  Nghị Định nầy sẽ ban hành vào ngày 15-10-Canh Ngọ.
       
Làm tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 03-10-Canh Ngọ.
                GIÁO TÔNG                      HỘ PHÁP
                 Lý Thái Bạch                   Phạm công Tắc
 Tàng Kinh Các                                                                                    [1] [2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét