
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
Giảng Đạo Chơn
Ngôn
言 眞 道 講
SOẠN GIẢ Thái Ðến Thanh
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
Ấn hành năm Tân Hợi 1971
LỜI TỰA
Thuyết nhơn-nghĩa, giảng đạo-đức, là một giáo-lý bao la
quảng-đại của các Ðấng Thánh trước Hiền xưa lưu truyền.
Ðã nói là rừng Nho biển Thánh thì dầu cho người đi
đến non cao rừng thẳm, cũng chưa ắt am hiểu hết danh mộc,
có ra ngoài biển rộng
sông sâu cũng chưa dễ lảu thông các loài thủy tộc. Huống chi tinh-thần đạo-đức,
trong Tam-giáo Phật, Tiên, Thánh truyền dạy, có lắm điều huyền-bí nhiệm-mầu thì
chưa một ai tự hào là thông-tri lịch lãm.
Trải qua trên ba mươi năm trong cửa Ðạo CAO-ÐÀI,
tôi cố tâm học hỏi Ðạo-lý, sự hiểu biết được bao nhiêu những điều thường-thức của
các bậc Chức-Sắc đàn anh chỉ giáo.
Ngày nay lập thành một quyển tựa đề "GIẢNG-ÐẠO
CHƠN-NGÔN" cốt-yếu để làm phương-châm dìu bước cho chư Ðạo-hữu mới nhập-môn
được biết sơ qua trên con đường tu tâm dưỡng tánh cho trở nên người hạnh-đức
thuần-lương, ấy là giúp ích cho anh em đồng đạo.
Những việc thường-thức hằng ngày, cũng chưa chắc ai
dám tự-phụ rằng mình đã thông thuộc mọi điều đầy-đủ. Huống chi Ðạo-lý diệu-diệu
cao thâm, phải trải qua nhiều năm khổ nhọc, mới mong vạch đặng chút ít ánh sáng
vào đường siêu-việt đó.
Vậy mong nhờ quí vị Ðại-Huynh, xem chỗ nào còn sai
suyển xin vui lòng chỉ giáo, đặng bổ cứu vào chỗ khuyết điểm cho được hoàn bị
hơn.
Tôi rất mong và sẵn chờ tiếp nhận sự chỉ giáo ấy.
Mong thay
Ngày 16 tháng Giêng Ðinh-Dậu (15-2-1957)
Giáo-Sư THÁI-ÐẾN-THANH
HUỲNH-VĂN-ÐẾN
TẠI SAO PHẢI CÓ ÐẠO CAO-ÐÀI?
Bởi thời kỳ Hạ-Ngươn cùng tận, Tam-Giáo: Nho,
Thích, Ðạo đã thất chơn-truyền khiến cho nhơn-tâm biến đổi bỏ phép công-bình chiến-tranh loạn-lạc, con người gian-tham xảo-trá giành-giựt quyền-lợi, trộm cướp giết hại lẫn nhau,
thành ra một trường náo-nhiệt tồi phong bại tục nghiêng đổ luân-lý cang thường, ấy là đời mạt kiếp.
Vì cớ cho nên Ðức CHÍ-TÔN
mới hội chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Ngọc-Hư-Cung, nhứt định hoằng-khai Ðại-Ðạo
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, cốt-yếu chấn-hưng Tam-giáo, thức tỉnh chúng sanh giữ Ðạo
cang-thường, tu tâm sửa tánh, hồi đầu hướng thiện tự hối ăn-năn cải dữ làm
lành, lập lại đời tân-dân minh-đức, cho thuận theo lẽ tuần huờn của Tạo-Hóa.
Ðức CHÍ-TÔN dùng huyền-diệu
cơ-bút giáng trần giáo đạo, tá danh là CAO-ÐÀI TIÊN-ÔNG ÐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT,
hiệp qui Tam-giáo thống nhứt Ngũ-chi, gọi là cơ-quan cứu thế chủ nghĩa giáo dân
qui thiện, thật hành Bác-ái Công-bình, đề xướng cho nhơn-loại hòa-bình, đại-đồng
thế-giới.
Tóm lại: Do Thiên-thơ tiền
định đến thời kỳ chuyển-giáo cho nên phải có Ðạo CAO-ÐÀI.
BÀI THI CỦA ÐỨC CHÍ-TÔN
(Giáng cơ dạy buổi ban sơ)
Tường quang nhứt khí chiếu minh đông,
Tam-giáo qui nguyên giữ cộng đồng.
Phật-Pháp khuyến nhơn quy mỹ-tục,
Nho-Tông phục thế hưởng thuần-phong.
Diệu-huyền Chơn Ðạo tu tông hướng,
Mê hoặc tà mưu khả tự phòng.
Thế thượng dục tri Thiên-Sứ đáo,
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ lập kỳ công.
GIÁO-LÝ ÐẠO CAO-ÐÀI
Do theo Chơn-Luật của Ðức
CHÍ-TÔN là thương-yêu, còn Chơn-Pháp là công-bình. Từ năm Bính-Dần 1926, Ðức
CHÍ-TÔN giáng cơ khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, trước hết cũng dạy thương-yêu.
Thầy dạy rằng: Ngày nào
các con thật hành chủ-nghĩa thương-yêu cho ra chơn tướng, ấy là ngày của nhơn-sanh
thoát khổ. Lại có một bài Thánh-Ngôn dạy rằng: "Thầy là cha cả của sự
thương-yêu, do bởi sự thương-yêu mới tạo thành Càn-Khôn Thế-Giới và sanh dưỡng
các con.”
Bởi sự thương yêu mà vạn-loại
hòa bình, Càn-Khôn an tịnh, đặng an-tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau,không
thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ
sanh hóa" (ấy là chơn luật thương-yêu). Còn Chơn-Pháp công-bình, thì Thầy
có dạy rằng: "Ðạo của Thầy là công-lý, ngày nào các con còn trông thấy một
điều bất bình ở thế nầy, thì Ðạo chưa thành tựu".
Nền Ðạo CAO-ÐÀI là
Nho-Tông chuyển thế, trước cửa Tòa-Thánh có biểu-dương hai chữ NHƠN-NGHĨA thật
to, thì thấy chữ NHƠN là chủ sự thương-yêu. Có câu: "Trắc ẩn chi tâm ái vật
chi lý, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức vi nhơn". Nghĩa là: tỏ
lòng thương người mến vật chẳng nỡ sát hại sanh mạng, noi theo lòng từ-bi của Ðức
Chí-Tôn mới gọi là Nhơn.
Chữ NGHĨA là giữ phép
công-bình, gìn lòng chánh-trực không một mảy gian tham, có câu: "Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân" những việc ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ
thảm sầu thì ta không nên đem việc ấy mà làm cho người khác mới là phải Nghĩa.
Con người biết giữ phép
công-bình mới tỏ ra sự thương-yêu, mà thương-yêu cho chánh lý, thì trên thuận với
lòng Trời dưới cộng-hòa cùng đồng loại quốc-dân, ấy là cơ đạt Ðạo "Hòa giã
thiên hạ chi đạt Ðạo dã".
Còn Ðời mà thật hành được
sự thương-yêu công-bình hòa-thuận, thì cơ Ðời trở nên thái-bình an-cư lạc-nghiệp.
Khổng-Giáo ái nhân như ái kỷ, thương-yêu tất cả mọi người cũng như thương thân
của mình vậy.
Phật-Giáo thì lấy câu Từ-bi
Bác-ái làm trọng. Tiên-Giáo Ðức Thái-Thượng dạy: "Căn cô truất quả kỉnh
lão hòa ấu côn trùng thảo-mộc du bất khả thương". Gia-Tô Giáo thì: "Xả
kỷ ái nhân". Xem như thế thì các nhà Tôn-giáo cũng vì chủ-nghĩa thương đời,
nên mới phát-minh ra các vấn-đề đạo-đức để giải khổ cho đời.
Ngày nào nhơn-sanh hồi tâm
hướng thiện, thật-hành chủ nghĩa thương-yêu, biết giữ phép công-bình, thì
nhơn-loại mới đặng chung hưởng mọi điều hạnh-phúc.
CƠ TUẦN-HUỜN CỦA TẠO-HÓA
Kỳ Hạ-nguơn nầy là buổi hiệp
Tam-giáo làm một hầu đem về căn-bản cho thuận theo lẽ tuần-huờn.
Ðức Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế,
dùng huyền-diệu Tiên-gia giáng cơ giáo Đạo, thế thì nhơn-loại hữu duyên hữu phước
mới sanh nhầm kỳ khai Ðạo thứ ba, muôn năm ngàn kiếp mới có một kỳ như vậy nếu
chẳng thành tâm tu-niệm thì rất uổng cho kiếp sanh.
Tu-niệm đặng làm chi?
Nhập-môn vào Ðạo để làm gì?
Nhập-môn vào Ðạo đặng làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm lập công bồi đức cứu độ nhơn-sanh, chớ không phải vào Ðạo rồi cậy lấy
phần đông, kết phe lập đảng ỷ chúng hiếp cô, kẻ vào Ðạo mà chỉ mưu việc quấy như vậy, là kẻ lợi dụng danh Ðạo mà làm cho rối loạn chơn-truyền, tức là kẻ phản nghịch với chánh-lý của Ðạo vậy.
Những người thật tâm nhập-môn tùng
giáo, dầu đông bao nhiêu cũng giữ một phương-diện làm phải làm lành, chẳng làm
điều gì trái với luật-pháp chơn-truyền của Ðạo.
Nay là buổi tuần-huờn Trời khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ
Phổ-Ðộ chấn hưng Tam-giáo thức tỉnh nhơn sanh,
giữ Ðạo cang thường tu tâm dưỡng tánh, hồi đầu
hướng thiện, tự hối ăn năn, cải dữ theo lành tân-dân minh-đức, thì chúng ta rõ biết
cuộc tuần-huờn Tạo-hóa xoay vần công-bình Thiên-Ðạo. Mỗi phương đều có một Chơn-Ðạo, đặng cho đời noi gương chánh giáo, dìu-dắt lẫn
nhau, lấy phép công-bình mà đối đãi với nhau, cho được ôn-hòa mới ra vẻ làm người hiền lương chí thiện, ấy là Ðạo khai cho nhơn-loại trở nên lành.
Trên đây đã nói: nay là buổi
tuần-huờn thế nào? Xin lược giải ra chơn-lý như sau đây:
Tuần-huờn là: "Thiên
hữu tứ thời Xuân tại thủ". Trời có bốn mùa chỉ mùa Xuân là ở đầu, trong
mùa xuân mát mẻ hơn các mùa, cây trái đều tươi tốt, người cũng lấy Xuân mà thêm
tuổi. Mùa Xuân có ba tháng là tháng Giêng, tháng hai, tháng ba trong ba tháng
có 90 ngày, nên gọi là thiều quang chín chục.
Cuối mùa Xuân sang Hạ,
Thu, Ðông, rồi trở lại Xuân ấy là châu nhi phục thỉ. Ví như một năm 12 tháng
thì khởi đầu tại tháng Giêng, xoay vần tới tháng Chạp cũng trở lại tháng Giêng.
Mỗi tháng 30 ngày khởi đầu ngày mồng một ấy là cơ tuần-huờn của Tạo-hóa. Nói rộng
hơn nữa là luận thuyết Tam-Nguơn: Thượng-Nguơn, Trung-Nguơn, Hạ-Nguơn.
Thượng-Nguơn là nguơn Tạo-hóa,
tức là nguơn Thánh-Ðức, ấy là nguơn vô tội.
Trung-Nguơn là nguơn Tấn-hóa,
tức là nguơn tranh đấu, ấy là nguơn tự diệt.
Hạ-Nguơn là nguơn Bảo-tồn,
tức là nguơn Tái-tạo, ấy là nguơn qui cổ.
Trong một năm cũng có
Tam-nguơn: Thượng-nguơn là rằm tháng giêng, Trung-nguơn là rằm tháng bảy, Hạ-nguơn
là rằm tháng mười, rồi thì cũng trở lại rằm tháng giêng, Thiên-Ðịa tuần huờn
châu nhi phục thỉ.
Còn cuộc tuần huờn của
nhơn-sanh là: "Nhơn chi sơ tánh bổn thiện". Con người mới sanh ra ban
đầu, thì có tánh trọn lành gọi là: "Thiên mạng chi vị tánh". Trời đã
ban cho mỗi người một cái tánh lành ai ai đều có, mà tại con người chẳng hay
trau-giồi, để cho nó nhiễm lấy hồng trần thế sự xu-hướng theo vật-chất mà quên
mất lương-tâm, trở nên người hung ác bạo tàn.
Cha mẹ sanh con từ nhỏ cho
đến khôn lớn, đều dạy làm phải làm lành, chẳng có cha mẹ nào dạy con làm các điều
tội-lỗi. Thánh Hiền xưa cũng lo cho buổi sau nầy, phong hóa suy tồi nhơn-luân
điên đảo, nên mới soạn Thi-Thơ Kinh-Ðiển để lưu truyền cho kẻ hậu lai, thì
Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên, không có bài sách nào mà Thánh Hiền dạy
con người gian tham trộm cướp, mà hiện nay thấy rõ con người ở đời, làm những
điều tội lỗi nhiều hơn là làm phải làm lành, ấy là nhơn tâm bất cổ, lòng người
chẳng giống xưa, gọi là mất nguồn cội.
Thời kỳ Hạ-nguơn nầy Ðức
CHÍ-TÔN hoằng khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, cốt yếu là giáo dân qui thiện phục
chánh nhơn tâm, thức tỉnh cho người đời biết giác ngộ, lánh dữ làm lành tu nhơn
tích đức, phản bổn huờn nguyên mới thuận theo cơ tuần-huờn tạo-hóa.
Làm người biết noi theo đường
Thiên-lý, thì chỉ có phương tu là hay nhứt.
ÐỀ TÀI CHỮ TU
Tu là trau-giồi đức-hạnh,
sửa bổn tâm chơn tánh, cải ác tùng lương, khử tà qui chánh. Nghĩa là: đổi dữ về
lành bỏ các điều vạy mà làm theo điều ngay. Con người đồng thọ nhứt điểm
Linh-quang của Tạo-hóa ban cho một cái tánh Thiêng-liêng, tánh ấy vẫn biết khôn
ngoan trí hóa đạo-đức tinh-thần, nếu không lo trau-giồi để cho nó nhiễm lấy vật-chất
hữu-hình lợi-danh phú-quí, sắc-dục tiền-tài, làm cho điểm linh-quang mờ ám, mà
sanh ra các điều tội lỗi.
Có câu: "Ngọc bất trác bất thành khí".
Ngọc chẳng giồi chẳng nên giống tốt. Ngọc ngà là vật quí báu của đời, nếu không
biết cách trau-giồi, thành ra một vật vô giá-trị cũng như con người có một tánh
lành, mà chẳng hay trọng dưỡng để cho nó trở nên hung ác thì gọi là mất nguồn cội.
Cho nên bậc nào cũng lo tu-hành là điều cần nhứt, có câu: Tự Thiên-Tử chí ư thứ
dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn. Nghĩa là: từ ngôi Thiên-Tử xuống tới hàng
thứ dân, chỉ dùng sự tu thân mà làm căn bản.
Xem trong thơ truyện các bậc
Ðế-Vương cũng xuất thân lo việc tu-hành. Vua Hiên-Viên Huỳnh-Ðế, còn phế
giang-san quì gối ba phen yết bái Ðức Quảng-Thành-Tử mà học Ðạo Tiên-Thiên. Lại
nữa: Ðức Thích-Ca là con một của vua Tịnh-Phạn-Vương, Ngài là Ðông-Cung Thái-Tử,
sao chẳng ở nối ngôi Vua mà hưởng nhờ vinh-huê phú-quí, lại xuất thân hành đạo
chịu thiên tân vạn khổ, ly gia cắt ái giáo hóa chúng sanh thuyết pháp độ đời,
thức tỉnh nhơn tâm, cho đặng thoát khỏi sông mê biển khổ. Do nơi công-nghiệp ấy
Ngài mới đắc đạo là Phật-Tổ, thiên hạ phụng thờ, muôn người sùng bái, có phải
là phương tu rất nên quí hóa chăng?
Ðến như các bậc Ðế-Vương
mà còn mộ Ðạo tu-hành thay huống chi chúng ta nỡ nào mê theo mồi phú-quí bả
vinh-hoa vẻ cân-đai mùi chung-đỉnh là điều giả cuộc, mà đành quên hết đạo-đức
tinh-thần hay sao? Có câu: Ðức giã bổn giã, tài giã mạt giã.
Ðạo-đức là căn bản, còn
tài là ngọn ngành, mà chúng ta lẽ nào bỏ gốc tầm ngọn, lại có câu: "Ðức thắng tài vi quân-tử".
Sao lại không lo lập đức đặng làm người quân-tử mà lại tranh tài?
Phương tu rất có ích cho
nhơn-quần xã-hội. Bởi có câu: Tu kỷ dĩ an bá tánh, một người tu mà trong bá
tánh thảy đều an cư, ví như một người kia bình nhựt hay trộm cướp gian tham, mà
nay biết ăn-năn hối ngộ lo việc tu-hành thì trong bá tánh đặng hưởng mọi điều
yên tịnh, có phải là phương tu hữu ích chăng?
Nếu trong xã-hội từ lớn
chí nhỏ đều lo việc tu-hành, giữ theo luật Ðạo làm lành lánh dữ, thương yêu thuận-hòa
cùng nhau thì xã-hội trở nên thái-bình, đời mới đặng thuần-phong mỹ tục. Còn chẳng
noi theo đường đạo-đức, để tranh đua mạnh hiếp yếu trí lấn ngu, giàu hiếp
nghèo, khôn lấn dại, sanh ra các điều ác cảm không kể luân-lý cang-thường thì
chi cho khỏi điều tồi phong bại tục.
Có câu: "Bang hữu đạo tắc trí bang vô đạo tắc
nguy". Nước nhà có đạo-đức thì dân trở nên hiền lành, được mở mang trí
hóa cao thượng.
Còn nước không có Ðạo, thì
dân tranh cạnh thù nghịch lẫn nhau, tìm mưu sâu kế độc mà giết hại lẫn nhau chẳng
thương yêu cốt nhục đồng bào, thì kết cuộc nhơn-sanh phải đi tới con đường tận
diệt....
Tóm lại phương châm
tu-hành đạo-đức là một cơ-quan bảo tồn nhân-loại.
GIẢI-THÍCH CHỮ HÒA
CHỮ HÒA LÀ THUẬN HÒA
Trong Kinh Lễ có câu:
"Lễ dĩ hòa vi quí". Lễ nghi phải lấy chữ hòa làm quí, vì ngoài mặt có
hòa nhã, thì trong tâm mới có thành kỉnh, lễ nghi mới ra vẻ trang nghiêm long
trọng. Nếu hành lễ mà không hòa, thì dầu lễ nghi to lớn Thánh Thần cũng không
chứng hưởng. Thầy Mạnh-Tử nói: Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhơn
hòa. Nghĩa là: Thời Trời chẳng bằng đất lợi, đất lợi cũng không bằng người hòa.
Người có hòa mới cảm tình liên-lạc kết dây đoàn thể với nhau, tương thân tương
ái đồng tâm hiệp lực cùng nhau thì mới thật hành mọi điều kết-quả.
Ðời Tam-Quốc ông Lưu
Tiên-Chúa, duy lấy hai chữ nhơn hòa mà thắng cả thiên thời địa lợi, làm cho Tào
Mạnh-Ðức lắm trận kinh hồn, Ngô Tôn-Quyền nhiều phen mất vía. Xem như thế đủ biết
chữ hòa mạnh-mẽ là dường nào.
Nhớ lại tích xưa 3 vị anh
hùng LƯU, QUANG, TRƯƠNG hiệp đồng nhứt tâm, dụ tất có một chữ hòa mà lập nên
giang san Hớn-Thất.
SÀI, TRIỆU, TRỊNH cũng
dùng chữ hòa mà dựng nên cơ nghiệp Tống-Triều. Quốc-dân Việt-Nam trên 25 triệu
đồng bào, chung cả tín-đồ Ðạo Cao-Ðài, nêu biết hiệp lực đồng tâm, thương yêu
liên-lạc thuận-hòa cùng nhau mới có thể phục hồi an-ninh trật-tự, chấn hưng nền
luân-lý, (mối cang-thường) trở nên tận-thiện tận-mỹ.
Trong Kinh Thi có câu:
"Âm dương hòa võ trạch
giáng, phu phụ hòa gia đạo thành". Khí âm khí dương hiệp hòa thì mưa nhuần
rưới khắp, vợ chồng có hòa thì đạo nhà mới nên. Thiết tưởng như hai vợ chồng mà
biết thuận-hòa với nhau còn tạo thành gia-nghiệp được kinh dinh thay. Trái lại,
vợ chồng mà không hòa thì tự nhiên tình nghĩa phai lợt cách xa, gia-đình ắt phải
suy tồi hư hoại.
Còn trong xã-hội mà chẳng
hòa, thì biến thành xã-hội phân vân tranh đấu. Toàn cả thế-giới mà chẳng hòa
thì đời chiến-tranh loạn lạc, ấy là cơ tự-diệt lẫn nhau.
Nếu chẳng dùng phương-châm
đạo-đức nhơn nghĩa mà làm kế bảo an, thì nhơn loại vì cuộc chiến-tranh ắt phải
có ngày tuyệt chủng.
Trong Kinh Thơ có câu:
"Hiệp hòa vạn
bang". Phải hiệp hòa muôn nước. Dầu cho quốc-dân chủng-tộc nào, hay là sắc
da nào chẳng hạn cũng đồng con chung của Ðấng Tạo-Hóa, thì phải biết thương yêu
thuận hòa với nhau như anh em một nhà thì đời mới trở nên thái-bình an cư lạc
nghiệp.
Ðến như Trời-Ðất âm-dương,
cùng các bậc thượng-cổ Ðế-Vương còn phải lấy chữ hòa làm gốc. Huống chi anh em
chúng ta là người tu-hành đạo-đức, há chẳng noi theo chữ hòa hay sao? Có câu:
"Hòa giã thiên-hạ chi đạt đạo giã". Hòa là cơ đạt đạo trong thiên-hạ
vậy.
Trong thế-giới có hòa thì
mới đặng thái-bình thịnh vượng, nhà nước có hòa mới được tấn bộ văn-minh,
gia-đình có hòa mới được sum vầy vui-vẻ, cha con có hòa mới trọn câu phụ từ tử
hiếu, anh em có hòa mới biết thuận thảo thương yêu, vợ chồng có hòa mới nên cửa
nhà đồ-sộ, bậu bạn có hòa mới giữ tròn câu tín-nghĩa, đạo-đức có hòa mới được
hoàn-toàn.
Chữ hòa rất quí hóa thay!
Thánh-Giáo của Ðức Chí-Tôn
dạy:
Kỳ Phổ-Ðộ thứ ba nầy, Thầy
giáng trần khai Ðạo là đề xướng cho nhơn-loại hòa-bình đại-đồng thế-giới.
Ngày nào các con hiệp nhứt
tâm thật hành cho đặng chữ hòa thì Thầy sẽ giao chìa khóa cho các con mở cửa
Tam-Thập Lục-Thiên mà vào nơi Bạch-Ngọc-Kinh. Còn các con không thuận hòa cùng
nhau thì ngọn đèn thiêng-liêng chưa đủ rọi tỏ cho mấy chục triệu nhơn sanh. Thầy
lại dạy rằng: "Cái nhánh của các con là cái nhánh của chính mình Thầy làm
chủ, một điều Thầy vui hơn hết là muốn cho các con liên-lạc thuận hòa cùng nhau
hoài, chia vui sớt nhọc với nhau dìu-dắt nhau đem lên đường đạo-đức, hầu tránh
khỏi chốn trần ai, khốn đốn (giết hại lẫn nhau) ấy là các con hiến lễ cho Thầy
trân trọng. Nếu các con không thuận-hòa cùng nhau, tựa hồ chia phe phân phái
thù nghịch lẫn nhau, ấy là các con làm đại tội trước mặt Thầy".
Những lời của Ðức CHÍ-TÔN
đã dạy, anh em chúng ta ghi nhớ mà thật-hành cho tròn bổn phận là môn-đệ của
CHÍ-TÔN, kẻo lắm công-trình cực nhọc đem thân vào đường đạo-đức, mà chẳng tuân
theo Thánh-Giáo thì sau nầy không tránh khỏi luật Thiên-điều.
THI CHỮ HÒA
Thiên thời địa lợi bất như hòa,
Tam-giáo chơn-truyền vốn một cha.
Chia rẽ phân tâm thành bạc nhược,
Hiệp hòa chung trí thắng can qua.
Thương yêu nhơn-loại như xương thịt,
Cảm mến đồng-bào thể ruột rà.
Cả tiếng kêu ai là mẫn thế,
Nghiêng vai chung gánh Ðạo nhà ta.
GIẢI-THÍCH KINH LỄ
Lễ là khuôn viên trọng thể
của con người, con người sở dĩ linh hơn muôn vật, tưởng cũng nhờ có lễ nghĩa mà
đặng phần hơn. Nên có câu: Nhơn-sanh vạn vật tối linh, Lễ giả Thiên-Ðịa chi tự
dã. Nghĩa là người đời có tánh linh hơn muôn vật là nhờ biết Lễ, Lễ vốn là Trời
Ðất phân ra trật-tự khác nhau, cho vạn-vật có thứ tự phân-minh, nhưng cũng đồng
một thể, cũng do theo điều hòa mà tạo thành cơ sanh hóa. Có câu: Thiên cao địa
hạ vạn-vật tán thù, nhi lễ chế hành hĩ, Lưu nhi bất tức, hiệp đồng nhi hóa chi
nhạc hưng yên. Trời cao đất thấp muôn vật khác nhau, cho nên Thánh-Hiền mới định
ra Lễ Nghĩa, phân tôn-ti trật-tự. Trời Ðất và vạn-vật lưu hành, hội họp tánh-chất
cho điều hòa để gầy tạo thành cơ sanh hóa.
Căn nguyên của Lễ cao xa
như thế, cho nên mới có giá-trị tôn quý, Thánh Hiền đời trước lấy lễ làm căn bản,
để dạy người và trị thiên hạ. Có câu: Tiên Vương chế lễ nhạc giả, phi dĩ cực khẩu,
Phúc nhĩ mục chi dục giả, tương dĩ giáo dân binh hảo ố, nhi phản nhơn-đạo chi
chánh dã. Tiên Vương chế ra Lễ Nhạc, chẳng phải để làm cho cùng cực cái sở dục
của miệng, bụng, tai, mắt, nhưng để dạy dân giữ lòng hảo ố cho vừa phải mà sửa
lại cái nhơn-đạo cho chánh vậy.
Quy củ chữ Lễ là để chế sửa
phong-tục, nhơn quần xã-hội, Quan-Hôn Tang-Tế, triều-đình hương-đảng, cả thảy đều
dùng lễ mà làm cho tận thiện tận mỹ vậy.
Lễ là thuộc việc tế-tự có
thể trạng-thái tình cảm rất hậu, tế là do tâm thành kỉnh Trời, Phật, Tiên,
Thánh hay là Tổ-Tông.
Có câu: "Phù tế giả
phi vật tự ngoại, tự trung xuất sanh ư tâm dã". Trong việc cúng tế chẳng
phải tại lễ vật ở ngoài, chỉ tại lòng thành kỉnh mà sanh ra vậy.
Lễ là cốt để giữ sự chừng
mực cho sự hành-vi của con người. Ðức Khổng-Tử nói: "Ðạo-đức nhơn nghĩa
phi lễ bất thành, giáo hóa chánh tục phi lễ bất bị, phân tranh kiện tụng phi lễ
bất quyết, quân-thần thượng hạ phụ-tử huynh-đệ phi lễ bất định, hoạn học sự sư
phi lễ bất thân, ban triều trị quân tỵ quan hành pháp phi lễ oai-nghiêm bất
thành. Ðảo từ tế-tự cung cấp Thánh-Thần, phi lễ bất thành bất trang, thị dĩ
quân-tử cung kỉnh tôn tiết thái nhượng dĩ minh lễ". Lời của Ðức Khổng-Tử dạy,
những người đã làm đạo-đức nhơn-nghĩa, mà thiếu lễ cũng chẳng nên, dạy bảo sửa
đổi phong-tục mà thiếu lễ thì cũng chẳng đủ. Xử việc phân tranh kiện tụng mà
thiếu lễ thì không quyết đoán, Vua tôi trên dưới cha con anh em, mà không có lễ
thì chẳng định, học làm quan thờ Thầy mà không có lễ thì chẳng thân mật, sắp đặt
thứ vị trong triều, cai-trị quân lính, đi làm quan thi-hành pháp lịnh, mà không
có lễ thì chẳng oai nghiêm, cầu khẩn, cung cấp, tế-tự Thánh Thần mà chẳng có lễ
thì không trang-nghiêm thành kỉnh.
Bởi thế cho nên người
quân-tử dung mạo phải đoan trang trong tâm phải thành kỉnh, giữ-gìn pháp-độ để
làm cho lễ ra sáng tỏ vậy.
Ðức Khổng-Tử, thỉ chung
làm những việc gì, cũng cần giữ bực trung-dung, nếu không dùng lễ để làm
tiêu-chuẩn cho sự hành-vi thì biết thế nào là trung được, nên Ngài nói rằng:
"Lễ hồ sở dĩ chế trung dã". Lễ vậy ôi!... để đặng chế cho vừa bực
trung vậy.
Lễ là dùng phương diện
phân tôn ty trật-tự, tức là cái phép để tạo nên luân-lý trong gia-đình và xã-hội
quốc-dân vậy.
Có câu: "Phù lễ
Tiên-Vương dĩ thừa thiên chi đạo, dĩ trị nhân chi tình". Lễ là các vì
Tiên-Vương vâng theo cái Ðạo của Trời, để trị tình dục của con người, tình dục
của người vừa biến sanh, chỉ có dùng lễ mà ngăn cản lại được.
Khổng-Tử viết: "Ẩm thực
nam nữ nhân chi đại dục, tồn yên tử vong bần khổ nhơn chi đại ố, tồn yên cố dục
ố giả tâm chi đại đoan dã, nhân tàn kỳ tâm bất khả trắc độ giả, mỹ ác giai tại
kỳ tâm bất kiến kỳ sắc dã, dục nhứt dĩ cùng chi xá lễ hà dĩ tai".
Ðức Khổng-Tử nói: Các việc
tội lỗi của con người là do nơi sự ăn uống quá độ mà sanh ra, nhứt là trai và
gái ăn chung với nhau, thì cái sở dục bao giờ cũng có.... Còn cái giận cái ghét
của con người, là do sự nghèo khổ bịnh hoạn chết mất mà nảy sanh, cái ố-dục là
mối lớn của tâm vậy, cái tâm của con người thường giấu kín, chẳng khá độ lường
đặng, tóm lại nếu muốn biết cho cùng mà không dùng lễ thì chẳng thế nào biết được.
Các bậc Ðế-Vương đời trước,
sở dĩ trị được thiên hạ, là nhờ hiểu rõ cái tình dục của con người, nên mới chế
ra Lễ Nghĩa, để phân tôn-ty trật-tự chuyên trị thất tình là: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc,
Ái, Ố, Dục, sửa thập nghĩa là: Phụ-từ tử-hiếu, huynh-để đệ-cung, phu-nghĩa phụ-tiết,
trưởng-huệ, ấu thuận, quân nhân, thần trung. Giảng giáo điều tín nghĩa chuộng sự
hòa thuận, bỏ sự cạnh tranh trộm cướp.
Sự giáo-hóa của Ðức Khổng-Tử,
là tinh-vi hiệu quả rất sâu xa.
Có câu: "Lễ chi giáo
hóa giả vi kỳ chỉ tà dã ư dị hình sử nhân nhựt tỹ thiện viễn ác như bất tự tri
dã". Sự giáo-hóa của Ðức Khổng-Tử mà dùng lễ là cao-sâu mầu nhiệm, có thể
ngăn ngừa các điều tội lỗi trong lúc chưa bày ra, khiến cho người ngày ngày đến
gần chỗ lành, lánh xa điều dữ là người biết lễ vậy.
Ðức Khổng-Tử rất trọng lễ
vậy, nên Ngài nói: Phù lễ cấm loạn chi sở do sanh, do phường chỉ thủy tự lai
dã. Lễ là ngăn cấm các điều rối loạn lúc chưa sanh ra, cũng như con đường đấp để
ngăn cho nước đừng tràn vào vậy.
Người giàu sang mà biết lễ
thì không dâm tàn, không kiêu căng, người bần tiện mà biết lễ thì không nản
chí, không làm quấy, người làm Vua mà biết lễ thì mới biết phép sửa nước trị
dân. Tóm lại: Lễ chi ư chánh quốc giã, do hành chi ư khinh trọng giã, thằng mạc
chi ư khúc trực giã, qui củ chi ư phương viên dã. Lễ đối với việc sửa nước trị
dân, chẳng khác nào như cây cân để đối với vật nặng vật nhẹ, cũng như sợi dây để
đối với vật thẳng vật cong, cũng như cái quy cái củ để đối với vật tròn vật
vuông vậy.
Nếu con người từ ấu chí
trưởng mà biết trọng lễ nghĩa khiêm cung, thì khỏi chịu dưới luật hình trừng trị,
mà đời sẽ trở nên thái-bình an-cư lạc-nghiệp. Sánh với đời Nghiêu-Thuấn,
Võ-Thang, Văn-Võ, Châu-Công, Khổng-Tử, Mạnh-Tử, Nghiêu-Thuấn không lập luật
hình, Võ-Thang không tạo khám đường ngục thất, đời vô-vi nhi trị thiên-hạ
thái-bình là nhờ dân-tộc thời kỳ ấy biết giữ lễ.
Thánh-Giáo của Ðức TÔN-SƠN dạy:
Lễ nơi mình là khuôn viên trọng thể,
Lễ
nơi nước là phép trị an,
Lễ nơi toàn cầu là đại-đồng thế-giới.
Nếu không có lễ thì chẳng
làm việc gì mà nên đặng.
THI CHỮ LỄ
LỄ là trật-tự của Thần-Tiên,
LỄ dạy nhơn-sanh giữ tánh hiền.
LỄ đối toàn cầu điều yếu trọng,
LỄ qui Tam-Giáo thuận cơ Thiên.
GIẢI-THÍCH CHỮ KHIÊM
Chữ Khiêm là khiêm-nhượng,
dầu mình khôn ngoan trí hóa, tài hay nghề giỏi cũng phải kính nhường người. Có
câu: "Thánh-nhơn bất tự mãn túc, Nghiêu Thuấn kỳ du bịnh chư". Ðức
Thánh-Nhơn còn chưa gọi mình là đầy-đủ, Vua Nghiêu, Vua Thuấn còn có chỗ thiếu
sót thay. Ấy là bậc Thánh Hiền còn phải khiêm-nhượng như thế.
Người đời thường có tánh tự
đắc, kiêu ngạo, chẳng biết khiêm-nhượng là gì, hễ mở miệng ra thì tự-tôn tự-đại,
coi mình như Thần-Thánh, khinh bỉ người nhẹ như mảy lông.
Có câu: "Khinh bạc
chi thái, thị chi quân-tử tắc tán ngô đức, thị chi tiểu-nhân tắc tán ngô
thân". Nghĩa là: Cái thói khinh bạc mà đối với người quân-tử thì tổn cái đức
của mình, còn đối với kẻ tiểu-nhân thì hại cái thân của mình.
Cho nên Ðức Khổng-Tử dạy rằng:
"Thông-minh huệ trí thủ chi dĩ ngu, công bị thiên hạ thủ chi dĩ nhượng,
dõng lực chấn thế thủ chi dĩ khước, phú hữu tứ hải thủ chi dĩ khiêm".
Ðức Khổng-Tử nói: dầu mình
có thông-minh trí huệ hơn người cũng phải coi mình như ngu dốt vậy, dầu mình có
công lao đầy-đủ trong thiên-hạ, thì cũng phải kính nhường người, mình có sức mạnh
hơn đời, cũng phải coi mình như kẻ mềm yếu vậy, dầu mình giàu có trong bốn biển,
thì cũng xem mình như nghèo khổ vậy. Ấy là cái hạnh khiêm-nhượng của Ðức
Thánh-Nhân, để roi truyền cho đoàn hậu tấn.
Chữ khiêm đối với các
phương-diện cần phải thật-hành tất cả. Người bác-học mà biết khiêm-nhượng thì kẻ
tài sơ mới hết lòng mến phục, còn kẻ tài sơ mà biết khiêm-nhượng, thì người
bác-học mới vui dạ dắt-dìu.
Còn tánh hiu-hiu tự đắc,
thì thành ra người không được tiến hóa.
Trong gia-đình mà biết
khiêm-nhượng thì mới được trên thuận dưới hòa. Trong xã-hội mà nhiều người biết
khiêm-nhượng, thì xã-hội mới được thái-bình. Còn người tu-hành đạo-đức mà biết
khiêm-nhượng thì mới đặng hoàn-toàn.
Trong quyển Phương-Châm
Hành-Ðạo của Ðức Quyền Giáo-Tông dạy rằng: Quí hóa thay cái hạnh khiêm-nhượng,
nguy-hiểm thay cho tánh tự-kiêu.
THI
Khiêm cung nhẫn-nại mới là hay,
Tự-đại tự-tôn chẳng phải tài.
Xem hạnh người xưa gương trước mắt,
Mắt dầu không thấy vẫn còn tai.
GIẢNG-GIẢI CHỮ CUNG
CHỮ CUNG LÀ CUNG KỈNH
Ðối với các sự đời và
hành-vi cử-chỉ của con người hằng ngày phải giữ tấm lòng cung kỉnh. Dầu lúc nào
cũng xem mình như ở giữa chốn triều-đình, đứng trên sân tế lễ. Dầu ngồi trong
nhà kín cũng tưởng như: thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ. Nghĩa là mười mắt
trông vào và mười tay chỉ vào mình.
Trong Kinh Thơ có câu:
"Như lâm thâm uyên, như lý bạc băng". Phải coi mình như đến vực sâu,
như noi giá mỏng.
Cách cử động của các bậc Cổ-nhơn
cung kỉnh như thế. Con người còn có tánh linh hơn vật, là do nơi biết cung-kỉnh
lễ nghĩa mà cao hơn.
Nếu con người chỉ biết đói
thì ăn, khát thì uống, no ấm thì vui mừng, đói rách thì lo buồn, còn ngoài ra
chẳng biết cung-kỉnh lễ phép là gì. Người như vậy phỏng có khác chi cái hình bằng
gỗ chăng? Thiết tưởng hạng người như thế thiên-hạ kêu là giá áo túi cơm cũng phải.
Ðức Khổng-Tử, giáo hóa
nhơn-sanh có dạy năm điều là: "Ôn, Lương, Cung, Kiệm, Nhượng". Vua
tôi có cung kỉnh thì thiên-hạ mới được thái-bình, cho nên vua Nghiêu đối với
bá-quan thường dùng một chữ Khâm, ngàn thu còn để tiếng Thánh-quân. Cha con có
cung-kỉnh thì gia-đình mới được thuận hòa. Ông vua Thuấn thờ cha mẹ trọn niềm
thủ kỉnh, mà muôn đời còn lưu danh là đại hiếu. Anh em có cung kỉnh với nhau,
mói có tình cảm thân yêu mến. Ðời xưa ông Lý-Tịch làm quan to, ông đã già mà
cung kỉnh bà chị một cách lạ thường. Một hôm bà chị đau ông thân hành đi nấu
cháo cho chị ăn, thổi lửa rủi bị cháy hết râu, người chị thấy em như vậy thì hết
lòng thương xót. Còn vợ chồng mà biết cung kỉnh với nhau, thì tình thân-ái mới
được thuận-hòa, tạo nên cửa nhà đồ sộ.
Ðời xưa vợ chồng ông Khước-Khuyết
tương kỉnh như tân, vợ chồng của ông kỉnh nhường nhau ví như khách quí, thường
bữa ông đi cày bà vợ đem cơm phải quì mà dâng cho ông, rồi chấp tay đứng hầu đến
trọn bữa.
Ngày kia có quan Đại-Phu,
đi ngang qua xem thấy cách cung kỉnh của vợ chồng ông như vậy, bèn về tâu lại với
Vua nước Tấn, Vua liền mời ông Khước-Khuyết phong làm quan Hạ Ðại-Phu, ấy là vợ
ngoan làm quan cho chồng.
Người tu-hành mà biết
cung-kỉnh, thì tinh-thần đạo-đức mới được tăng tiến lên cao. Trong xã-hội từ lớn
chí nhỏ đều biết cung kỉnh lễ phép thì xã-hội mới có vẻ điều-hòa thuần phong mỹ-tục.
Toàn thể nhân-loại mà biết
giữ lễ-nghĩa cung kỉnh với nhau, thì thế-giới sẽ được hòa-bình phục hồi thượng-cổ.
THI CHỮ CUNG
Cung kỉnh là đầu của thế gian,
Lễ nghi biết giữ đặng trang-hoàng.
Tài sơ bác-học đều lưu-ý,
Nghiêu-Thuấn thường dùng đối bá quan.
GIẢI-THÍCH CHỮ NHẪN
Chữ Nhẫn là kiên tâm nhẫn
nại. Bền lòng nhịn nhục được thì cái tâm mới an-tịnh, nhứt là về phương-diện
tu-hành đạo-đức, phải thật hành chữ nhẫn trước hết.
Ðức Khổng-Tử nói: "Tiểu
bất nhẫn, tắc loạn đại mưu". Việc nhỏ mà chẳng nhịn thì cái mưu lớn ắt phải
hư hoại. Ở đời ta thường thấy những việc nhỏ bằng sợi tóc, vì không nhịn được
mà xảy ra sóng gió to lớn, nhiều khi gây nên tai họa giết hại lẫn nhau, là do
nơi chẳng chịu kiên-nhẫn mà biến sanh ra nông nỗi.
Có tích xưa: Ông Quách-Tử-Nghi,
đời nhà Ðường khi còn nhỏ đang đi học, một hôm ông xem kinh Phật thấy câu
"Hắc phong xuy châu phiêu nhập chi khổ hải". Nghĩa là luồng gió đen
thổi chiếc thuyền trôi vào trong biển khổ. Ông không hiểu ý câu ấy ra sao, bèn
đến hỏi một Hòa-Thượng, vị Hòa-Thượng thấy hỏi như vậy, thì thịnh nộ mắng ông
Quách-Tử-Nghi rằng mầy còn con nít biết gì mà dám hỏi những câu đó. Ông Quách-Tử-Nghi
thấy vị Hòa-Thượng trả lời như vậy thì nổi giận hầm-hầm tím mặt. Lúc ấy vị Hòa-Thượng
bèn ung dung day lại cười mà cắt nghĩa cho ông Quách-Tử-Nghi biết rằng: Sự thịnh
nộ của công-tử từ nãy đến giờ tức là luồng gió đen thổi chiếc thuyền trôi vào
biển khổ đó....
Ông Quách-Tử-Nghi hồi tâm
tỉnh ngộ, bèn chấp tay tạ ơn vị Hòa-Thượng, đã dùng một cách gián-tiếp mà chỉ
giáo cho mình. Ôi! Ở đời biết bao nhiêu luồng gió đen, hằng ngày lẩn-quẩn xung
quanh mình của chúng ta, nếu chúng ta không hết sức lấy tấm lòng kiên-nhẫn ra
chống chỏi, thì cơ hồ thân thể của chúng ta như một chiếc thuyền nhỏ kia, có
ngày chìm đắm vào trong bể khổ.
Có bài sách Thầy Tử-Trương
hỏi Ðức Khổng-Phu-Tử về chữ nhẫn. "Tử-Trương dục hành từ ư Phu-Tử, nguyện
tứ nhứt ngôn vi tu nhân chỉ yếu". Thầy Tử-Trương muốn đi làm việc chánh,
bèn đến từ tạ Ðức Khổng-Phu-Tử, xin cho một lời để làm phép sửa mình.
Phu-Tử viết: "Bá hạnh
chi bổn nhẫn chi vi thượng". Ðức Khổng-Tử nói: Trăm nết chung gốc chỉ có
chữ nhẫn là cao thượng hơn hết.
Tử-Trương viết: Hà vi nhẫn
chi. Thầy Tử-Trương hỏi tại sao mà phải nhịn đó. Phu-Tử viết:
Thiên-Tử nhẫn chi quốc vô hại,
Chư-Hầu nhẫn chi thành kỳ đại.
Quan-Lại nhẫn chi tấn kỳ vị,
Huynh-đệ nhẫn chi gia phú-quý,
Phu-phụ nhẫn chi chung kỳ thế,
Bằng-hữu nhẫn chi danh bất phế,
Tự thân nhẫn chi vô họa hoạn.
Nghĩa là: Làm Vua mà biết
nhịn thì trong nước không có điều tai hại, bậc chư-hầu mà biết nhịn thì nên
nghiệp lớn.
Bậc Quan-Lại mà biết nhịn
thì phẩm-vị đặng cao thăng.
Anh em biết nhịn với nhau
thì nhà cửa đặng giàu sang.
Chồng vợ biết nhịn thì niềm
ân-ái mới đặng trọn đời. Bậu bạn biết nhịn thì danh nghĩa chẳng hư, còn thân của
mình mà biết nhịn chẳng lo tai họa.
Tử-Trương viết: "Bất
nhẫn hà như". Thầy Tử-Trương hỏi: Còn chẳng nhịn thì dường nào? Phu-Tử viết:
Thiên-Tử bất nhẫn quốc khống hư,
Chư-Hầu bất nhẫn tán kỳ xu,
Quan-Lại bất nhẫn hình phạt tru,
Huynh-đệ bất nhẫn cát phân cư,
Phu-phụ bất nhẫn tình ý sơ,
Tự thân bất nhẫn hoạn bất trừ.
Nghĩa là: Làm Vua mà chẳng
nhịn thì nước phải trống không. Bậc Chư-Hầu chẳng nhịn thì hư bại thân mình. Bậc
Quan-Lại không nhịn thì phải chịu hình phạt. Anh em chẳng biết nhịn nhau, thì
chia của cắt nhà phân ly thủ túc. Chồng vợ chẳng nhịn thì tình nghĩa ra phai lợt.
Còn bổn thân của mình mà chẳng biết nhịn thì mọi việc hoạn họa chẳng dứt....
Ðức Khổng-Tử giải nghĩa
các bậc rồi, Thầy Tử-Trương ngậm-ngùi mà than rằng: phải lắm, phải lắm, thật là
khó thay nếu không có chí kiên-nhẫn thì cũng khổ cho bổn phận làm người.
Trong Kinh Hoa-Nghiêm có
câu rằng: "Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai". Một phen
nư giận nổi lên thì muôn ngàn nghiệt chướng nảy sanh. Trong các kinh sách của
Phật, Tiên, Thánh-Hiền hằng ngày dạy nhơn-sanh chữ nhẫn làm đầu, mà con người
mơ-màng chưa tỉnh ngộ.
Chúng ta nhận xét qua một
trận giông tố, ắt phải có cây ngã, nhà sập, thuyền tàu chìm đắm. Còn người trải
qua những cơn thịnh nộ rồi, thường có xãy ra lắm điều tai ương hoạn-họa, khi biết
tự-tỉnh ăn-năn thì việc đã muộn rồi.
Vậy mà có nhiều người trải
qua biết bao nhiêu lần giông tố, mà cũng không biết kiên-nhẫn chút nào, thật
cũng đáng buồn cho đó ...
Có tích Ông
Trương-Công-Nghệ:
Ngày xưa ông
Trương-Công-Nghệ chín đời cùng ở với nhau một nhà. Có câu:
"Trương-Công-Nghệ cửu thế đồng cư". Vợ chồng con cháu có mấy trăm người
mà trọn đời chưa có điều chi xích-mích, trong gia-đình bao giờ cũng đấm ấm như
khí hòa mùa xuân.
Ngày kia Vua nghe tin bèn
ngự giá đến nhà ông mà hỏi rằng: nhà của ngươi dùng cách gì mà trong gia-đình
vui-vẻ thuận-hòa với nhau như vậy?
Ông Trương-Công-Nghệ bèn
viết một chữ NHẪN thiệt lớn vào trong tấm giấy mà dâng lên cho Vua.... Vua xem
rồi lấy làm kính phục, liền ban cho ông một trái lê thử coi ông xử sự ra sao.
Ông bèn sai người cắt trái lê bỏ vào trong cái thùng lớn đổ nước nấu sôi, rồi
kêu tất cả người trong nhà đến trước mặt, cho uống mỗi người một muỗng, để gọi
là chung hưởng ân Vua.
Ôi! Tấm lòng nhẫn nại của
ông quý biết chừng nào.
Ðến đổi nhà của ông có
nuôi một trăm con chó, mỗi bữa ăn cho ăn cơm nếu thiếu một con nào thì hết thảy
cả bầy đều không ăn đứng đợi....
Sự nhẫn nại của ông kịp đến
cả súc vật cũng biết nhẫn nhượng như thế. Ðời nay những người không biết kiên
nhẫn mà xem đến truyện của ông thì há chẳng hổ mình lắm sao?
Có câu:
Trương-Công-Nghệ trăm phần nhẫn nhịn,
Chín đời cùng xúm-xích ở chung.
Tiếng lành đồn thấu bệ rồng,
Một nhà sum hiệp Cửu-Trùng ban khen.
"Bá nhẫn đường trung hưởng thái hòa"
Nếu trăm điều mà nhịn được hết, thì trong
gia-đình sẽ được thuận-hòa vui-vẻ vô cùng.
THI
Huệ
Lan chung đứng mái tây hiên,
Biết
phải cùng nhau dữ hóa hiền.
Kẻ
đố người làm đôi đứa hại,
Trăm
điều nhẫn nhịn mới là Tiên.
TÂN-LUẬT VÀ PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN
(Giảng-giải về đại-cương)
Tân-Luật là do theo Thánh-giáo mà lập thành, mọi sự hành trình của
Chức-Sắc, Chức-việc và Ðạo-Hữu nam nữ đều tuân y theo Tân-Luật mà thi-hành phận
sự. Bởi Tân-Luật là thế cho Thiên-Ðiều, hễ phạm Tân-Luật thì tức nhiên là phạm
Thiên-Ðiều ắt phải chịu tội lỗi do Thập-Hình của Ðức LÝ GIÁO-TÔNG trừng trị.
Vậy những người nhập-môn tùng giáo, vào Ðạo
Cao-Ðài thì phải thật hành theo Tân-Luật, là trau-giồi đức-hạnh, cần phải học
thuộc lòng Ngũ-Giới Cấm và Tứ-Ðại Ðiều-Qui, giữ theo đó mà tu-hành cho tròn bổn
phận của một vị tín-đồ trong nền Tôn-giáo Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Mỗi người nhập-môn rồi
phải thỉnh một quyển Tân-Luật, để học hỏi cho hiểu rõ mọi điều, và do theo đó mà làm mực thước để độ lượng
bước đường hành đạo của mình, mới
có thể tiến-triển cao thăng đạt thành phẩm vị.
Trái lại, người vào Ðạo mà không thiệt
hành theo Tân-Luật chẳng giữ trọn lời minh-thệ buổi ban sơ, thì không thế nào thành công đắc Ðạo.
PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN
Pháp-Chánh-Truyền chú-giải, cũng do theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN đã định
phẩm tước quyền hành của Chức-Sắc Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Chức-việc nam nữ,
lớn nhỏ đều có trật-tự phân minh. Ðức HỘ-PHÁP chú-giải thêm sáng tỏ từ chi
tiết, để cho Chức-Sắc từ Ðại Thiên-Phong đổ xuống tới Chức-việc Bàn-Trị-Sự, do
theo đó mà thi-hành cho được vuông tròn trách-nhiệm, không ai có phép canh cải
chơn-truyền
của Ðạo. Nếu vị nào phạm vào
Pháp-Chánh, thì bị đưa ra Tòa Tam-Giáo.
Cũng như phần Ðời có gia-pháp, hay là
quốc-pháp. Bổn phận làm con mà chẳng tùng mạng lịnh của cha mẹ trong gia đình,
thì tức nhiên là con ngổ-nghịch bất hiếu.
Bổn-phận làm dân mà không tuân lịnh của Triều-đình Chánh-Phủ trong nước, ấy là kẻ phản
loạn quốc-gia thì phải chịu tội
tình hành phạt.
Còn người giữ Ðạo mà bất tùng
Luật-Pháp chơn-truyền của Ðức CHÍ-TÔN thì
trái với lời minh-thệ khi nhập-môn đã không được chung hưởng ân-huệ của Ðức
CHÍ-TÔN ban cho mà còn bị quyền Thiêng-Liêng trừng-trị là khác.
LUẬT-PHÁP CHƠN-TRUYỀN
của
nền ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ
Luật là Tân-Luật và Ðạo-Luật, Pháp là Pháp-Chánh-Truyền chú-giải. Chơn-truyền của Ðạo là Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển. Ðức CHÍ-TÔN giáng
cơ
khai Ðạo, từ buổi ban sơ đã chỉ rõ đường đi nước bước, ấy là lời vàng
tiếng ngọc, dạy từ chơn tóc kẻ răng sau nữa là Pháp-Chánh-Truyền và Bát-Ðạo Nghị-Ðịnh, của Ðức LÝ GIÁO-TÔNG dạy về
Chánh-Trị-Ðạo, thì dầu cho Chức-Sắc Thiên-Phong đổ xuống tới hạng tín-đồ, cũng
phải tuân y theo đó mà thi-hành phận sự. Nếu ai canh cải chơn-truyền của Ðạo thì gọi là dị đoan bất chánh, phạm vào
Luật-Pháp phải bị đưa ra Tòa Tam-Giáo xử trị.
Tân-Luật và Ðạo-Luật, thì do quyền Vạn-linh sửa đổi được những khoản nào
không phù hạp với nhơn-sanh. Còn Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, Pháp-Chánh-Truyền
và Bát Ðạo Nghị-Ðịnh thì bất di bất dịch.
Luật-pháp qui điều của các nhà Tôn-giáo xưa nay là
khuôn viên trọng thể. Ai là người tự xưng mình rằng môn-đệ trong ba nhà: Nho,
Thích, Ðạo thì phải do theo kỷ-luật của vị Giáo-chủ di truyền, mà thật hành cho
được hoàn-toàn bổn phận, nếu đệ-tử trong Tôn-giáo nào chẳng tùng Luật-pháp qui
điều, lại canh cải chơn-truyền của Ðạo, thì dầu có tu hữu công cũng khó mong
thành chánh quả.
Ví như người đời mà chẳng giữ theo điều luật của
Chánh-phủ thì tức nhiên đời loạn quốc-pháp, phong-hóa suy đồi, luân-lý cang
thường điên đảo.
Ðạo là Luật-pháp công-bình Thiêng-liêng của
Tạo-hóa, để truyền-bá cho đời, người biết giữ theo luật Ðạo thì ví như một
người thợ mộc, làm việc chi cũng có mực giăng thước độ, thì khí dụng mới được
hoàn thành.
Con người mà không giữ theo Luật-pháp của Ðạo, thì
chẳng khác nào kẻ làm thợ không có mực thước thì cả khí dụng ắt phải hư hoại.
Luật-pháp là nấc thang tấn-hóa, mọi sự hành-vi của con người, dầu các cuộc chơi
cũng có luật-pháp....
Luật-pháp qui điều là: bốn phương-diện để răn mình
chừa lỗi, gọi là: "Qui, Củ, Chuẩn, Thằng". Có câu: Bất dĩ qui củ
chuẩn thằng, bất năng thành phương viên....
Người làm thợ mà chẳng noi theo mực thước thì
phận-sự không đặng vuông tròn. Còn người tu mà chẳng giữ theo Luật-pháp
chơn-truyền của Ðạo, thì không đắc quả phẩm vị Phật, Tiên mà còn phạm tội
Thiêng-liêng là khác.
Tóm lại, Ðức CHÍ-TÔN khai Ðại-Ðạo kỳ thứ ba nầy gọi
là cơ-quan giải khổ cho chúng sanh, nếu chúng sanh muốn được thoát khổ, thì
dùng phương châm tu-hành đạo-đức mà làm kế bảo an và cần phải thật hành y theo
khuôn viên luật-pháp của Ðạo thì mới chung hưởng cơ hòa-bình an-cư lạc-nghiệp.
TAM-LẬP
Lập công - Lập đức - và Lập ngôn
1.- Lập công là: Lập công-nghiệp với Ðạo cho đầy-đủ, mới có thể
thọ phong vào hàng Chức-Sắc, hay là đạt thành phẩm-vị thiêng-liêng, cao thấp là
tùy theo công-nghiệp nhiều ít.
Ví như phần đời các bậc trung-thần tể-tướng, cũng
do nơi lập công-nghiệp với Triều-đình, mà đặng chức trọng quyền cao lộc cả.
Chưa từng thấy một người nào bình nhựt ở không chơi bời lười biếng, mà được
giàu sang vinh hiển, lập nên danh thể lưu lại trên đời mà cũng chẳng thấy một
nhà tu nào, không chịu khổ hạnh vì Ðạo mà đắc thành Thiên-vị phẩm tước cao siêu
ấy là chơn-lý hiển nhiên từ thử.
2.- Lập đức là: Lập đức-hạnh cho được hoàn toàn ấy là một nấc thang tiến hóa đến cực
phẩm Thiêng-liêng.
Ðức-hạnh đủ đầy ví như hai cái chơn mạnh-mẽ, có thể
trèo lên tới đảnh thượng, vẹt ngút mây xanh, biết rõ cơ mầu nhiệm, thanh-nhàn
vui-vẻ hơn mọi sự.
Có câu: "Ðức trọng quỉ thần kinh". Những
người lập đức được cao trọng, thì dầu cho quỉ thần cũng phải kiêng nể hay là võ
lực hùng oai cũng chẳng màng ...
Người có đức cũng như cây lớn có gốc rễ nhiều, dầu
gặp giông tố bão-bùng cũng không khi nào xiêu ngã.
"Ðại đức đôn hóa, tiểu đức xuyên lưu".
Ðức lớn thì ngưng tụ vững bền, còn đức nhỏ hay là khiếm đức, phải chịu trôi
giạt không bờ bến dựa nương ... Ðức là căn bản nguồn cội trường tồn, còn
tài-sản như sương đeo ngọn cỏ.
Những người cố tâm lập đức, thì hay thi-ân tế-chúng
phổ hóa nhơn-sanh, mọi sự hành-vi đều có lợi ích chung cho đồng loại. Trên
thuận tùng Thiên-lý, dưới phù hạp nhân tâm giá-trị quí hơn ngọc ngà châu báu.
Có câu: "Ðức thắng kim". Ðạo-đức là trọng
hơn vàng bạc, ấy là lời của Thánh-nhơn dạy con người cần lập đức.
3.- Lập ngôn là: Kính cẩn thận trọng từ lời nói, những lời thốt ra
phải có đạo-đức, nhơn-nghĩa, khiêm-cung, thì mọi người đều cảm hoài yêu chuộng.
Còn lời nói có tổn hại cho nhơn sanh là những điều
bất nghĩa vô nhân, làm cho thiên-hạ vì lời nói của mình mà phải chịu thảm sầu
đau khổ, thì tự nhiên phải mang câu thất đức.
Ðức Khổng-Tử nói: "Bán cú phi ngôn ngộ tổn
bình sanh chi đức".
Ðức Thánh-nhân dạy rằng: "Xuất kỳ ngôn thiện,
tắc thiên-lý chi ngoại ứng chi, xuất kỳ ngôn bất thiện, tắc thiên-lý chi ngoại
vi chi". Nghĩa là nói ra một lời lành, thì chưng ngoài ngàn dặm thiên-hạ
nghe mà cảm động hưởng ứng theo đó, còn nói ra những lời chẳng lành, thì chưng
ngoài ngàn dặm thiên-hạ nghe mà nghịch đó.
"Xuất nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, xuất nhứt
ngôn khả dĩ tán bang". Một lời nói có thể làm cho lợi ích nước nhà, cũng
một lời nói mà làm hư hoại tất cả giang-san sự nghiệp.
Vậy làm người cần phải biết cẩn ngôn là dè-dặt thận
trọng từ lời nói.
Trước khi thốt ra những lời nói ta nên xét đoán suy
nghĩ được 3 điều:
- Một là chơn chánh, - hai là hữu ích, - ba là dễ
thương.
Nếu nói ra mà không đặng ba điều ấy, thì tốt hơn là
làm thinh còn hay hơn nói.
"Nhứt
ngôn trúng vạn ngôn dụng, nhứt ngôn bất trúng vạn sự bất thành".
Tóm lại vấn-đề Tam Lập:
Mỗi người trong Ðạo hay là ngoài đời, mà thật hành
cho được vẹn toàn thì tư-cách phẩm-giá của con người sẽ trở nên tôn nghiêm cao
trọng.
TU
THÂN - TU TRÍ - TU TÂM
Con người trên mặt thế nầy mà được cao thượng là
chỉ nhờ có một phương tu. Danh thể giá-trị được tôn trọng hơn người, là nhờ
biết tu thân và tu trí.
Bởi thân thể đặng trong sạch, trí não được thông
minh sáng suốt, mới có thể giúp hay cho quốc-gia xã-hội làm những điều ích nước
lợi dân, tạo hạnh-phúc cho giống nòi chung hưởng.
Còn tiến triển cao hơn đạt thành phẩm-vị: Thần,
Thánh, Tiên, Phật, là nhờ biết dưỡng tánh tu tâm.
Ngoài ba phương diện: Tu thân, tu trí và tu tâm,
thì con người phải cam chịu ở vào hàng hạ đẳng.
Ngày nào toàn thể nhơn-sanh mà thật hành được ba
phương tu kể trên, thì đời sẽ biến thành cảnh Cực-Lạc Thiên-Ðường tại thế.
CHÍ
KHÍ TINH-THẦN PHẤN-ÐẤU
Con người sanh ra tại thế nầy, mọi sự hành-trình cần
phải có chí phấn đấu, bất luận làm một việc gì, trước khi khởi sự ta phải suy
nghĩ cho đáo để, xét đoán điều lợi hại phân minh rồi mới quyết định thật hành,
khi đã khởi công phải có chí khí phấn đấu, thì mới đặng kết quả mỹ-mãn và sớm
muộn ta sẽ đạt thành nguyện vọng, ấy là cái chí khí của người trượng-phu, làm
những việc gì cũng cương-quyết, không bao giờ nản lòng bán đồ nhi phế.
Nếu con người làm chuyện chi, mà chẳng có sự quyết
định và thiếu chí phấn đấu, thì công-trình dầu cực nhọc bao nhiêu, kết cuộc
cũng trôi theo dòng nước.
Thiết tưởng kẻ sĩ vào trường-học, cũng phải có chí
phấn đấu, là siêng-năng cần mẫn thức khuya dậy sớm, chuyên lo nấu sử xôi kinh
thập niên đăng quả, mới đậu cấp bằng tốt-nghiệp ra làm quan giúp nước trị dân.
Nếu kẻ sĩ vào trường mà không kiên tâm học hỏi, lại
thiếu chí phấn đấu thì chẳng khi nào lập nên danh phận mà còn trốn học bỏ
trường, cam chịu tiếng chê cười thấp hèn dốt nát.
Người làm ruộng cũng phải có chí phấn đấu, là chịu
dầm mưa chải nắng, quanh năm luống phận cần-cù khai mở đồn điền cho rộng lớn,
nông-vụ tấn thời, cày cấy cho kịp thì tiết mùa màng, đến ngày kết-quả mới có
lúa nhiều, để bảo tồn sự sống cho con người được ấm no đầy-đủ.
Trái lại, người nông-phu mà không có chí phấn đấu,
thì cũng như kẻ thiếu nợ làm ruộng giao cho chủ điền, chỉ có công làm mà không
được ăn.
Luận qua người tu-hành đạo-đức phải có đủ chí khí
tinh thần phấn đấu. Chịu trải qua lắm nỗi truân-chuyên khảo-đảo lao tâm tiêu tứ
vạn khổ thiên tân, mới đạt thành phẩm-vị thiêng-liêng, cao thấp và tùy theo
công-nghiệp.
Nếu người tu mà không có chí phấn đấu, không thắng
nổi lục-dục thất-tình, lại thiếu đức-tin với Ðạo, thì sớm muộn sẽ cuốn tượng
thôi tu, thất thệ xa Thầy phản Ðạo.
Nho-Giáo có câu: "Chấp đức bất hoàng, tín đạo
bất đốc, yên năng duy-hữu, yên năng duy-vô". Nghĩa là: người giữ Ðạo mà
không hoằng-hóa ra rộng lớn, tin Ðạo không đốc thực, thì dầu có nhiều người như
vậy cũng chẳng lợi ích chi, mặc dầu không có cũng chẳng hại chi.
Kết-luận trong Ðạo Cao-Ðài:
Từ Chức-Sắc Thiên-Phong cho đến Chức-việc và
Ðạo-hữu nam nữ, mà được tồn tại vững bền tới ngày nay, trước mắt trông thấy cơ
Ðạo tiến-triển như thế. Ấy là nhờ có đủ nghị lực tinh-thần phấn đấu, đã từng
gian lao khổ hạnh dầu phải hi-sinh vì Ðạo cũng chẳng ngã lòng, thật là xứng
đáng con cái hiếu-hạnh của Ðức CHÍ-TÔN, và trọn bổn phận tín-đồ trung-thành với
Hội-Thánh.
Vậy từ đây anh em chúng ta cần phải nung nấu
tinh-thần phấn đấu cho được tăng tiến thêm nữa, và hiệp cả Thánh-tâm đoàn-kết
với nhau, cho thành một khối kiên cố vững bền, để chung lo tô điểm nền
Chơn-giáo, cho được rực-rỡ quang minh và lo kiến-thiết sự nghiệp nước nhà, cho
sớm phục hồi trật-tự an-ninh, dân-tộc đặng chung hưởng hòa-bình, ấy là ngày của
chúng ta đạt thành nguyện vọng, mới xứng đáng một kiếp sanh hữu duyên gặp Ðạo.
TINH-THẦN
ÐOÀN-KẾT
Từ xưa đến nay dân-tộc trong nước, hay là một
xã-hội nào có tình đoàn-kết với nhau, thì thấy đủ năng lực tinh thần mạnh-mẽ.
Theo lời của Bà Ðoàn-Thị-Ðiểm nói:
Trong
vũ-trụ hiệp hòa là mạnh,
Phận
đồ thơ phải gánh non sông.
Anh
em bạn tác vầy đông,
Xô
thành cũng ngã lấp sông cũng bằng.
Ðức Thanh-Sơn Ðạo-Sĩ dạy hai câu:
Vầy
thuyền chi sợ cơn giông tố,
Hiệp
chủng còn hơn cuộc chiến tranh.
Xem như thế thì sự đoàn-kết là một khối năng-lực
dõng mãnh phi thường.
Trải qua mấy năm trên mặt báo chương hằng thấy nêu
lên những câu: Ðoàn-kết là sống, chia rẽ thì chết.
Vậy anh em đồng đạo và đồng-bào của chúng ta, nên
để tâm chiêm nghiệm cho đáo để thì thấy rõ trong một đoàn thể nào, mà có cảm
tình thương yêu liên-lạc với nhau, đồng tâm hiệp lực, kết dây thân ái cho được
vững bền thì mọi hành trình sẽ kết-quả trăm phần thắng lợi. Còn một việc dở tệ
hơn hết là: Người chung thờ một nền Tôn-giáo, một chủ-nghĩa với nhau mà chẳng
biết đoàn-kết thuận-hòa cùng nhau, lại cố tâm chia rẽ phân phe lập phái thù
nghịch kích-bác lẫn nhau để cho thiên-hạ trông vào cười chê khinh bỉ, trong
Tôn-giáo hay một đoàn thể nào, có những hành động trái ngược như vậy thì
kết-cuộc sẽ thấy tai hại chẳng nhỏ.
Xem gương trước như ba vị anh hùng Lưu, Quang,
Trương hay Sài, Triệu, Trịnh, chỉ có ba người hiệp đồng tâm đoàn kết với nhau,
mà tạo thành giang-san Hớn-thất cơ nghiệp Tống Triều ấy là gương hiệp-hào để
nêu cao cho đoàn hậu tấn.
Riêng về Ðạo Cao-Ðài, thì Ðức CHÍ-TÔN cùng các Ðấng
Thiêng-Liêng, đã chỉ giáo sự thương yêu liên-lạc đoàn-kết cùng nhau, thì sự lợi
ích thế nào? Còn chia rẽ thù nghịch lẫn nhau thì tội-lỗi ra sao đều có dạy rõ.
Vậy anh em chúng ta cần phải sưu-tầm những lời
Thánh-Giáo để làm phương-pháp thiệt hành cho đặng vẹn toàn phận sự môn-đệ của
Ðức CHÍ-TÔN.
BÁT-NƯƠNG DIÊU-TRÌ-CUNG chỉ giáo bốn câu thật là
chí lý:
Ong kiến là loài rất tế vi,
Nó còn ưu-ái chẳng quên nghì.
Người
đời ví biết hai điều ấy,
Thử
hỏi ai mà lại dám khi.
Xét ra loài ong kiến là vật tế vi, còn biết
đoàn-kết với nhau mà tạo thành hang ổ có trật-tự phân minh và đủ năng lực đáng
kiêng nể....
Làm người có tánh linh hơn vạn-vật, nếu chẳng biết
thương yêu đoàn-kết với nhau, lại còn tranh đua cừu hận giết hại lẫn nhau thì
cũng lấy làm tủi hổ.
Than ôi, phong-hóa suy tồi, nhơn-luân điên đảo, lòng
người quỉ quái ngậm xương nòi giống, xé thịt lẫn nhau, hằng ngày xảy ra những
tấn tuồng thảm thương bi kịch xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, những người
có tấm lòng bác-ái từ-bi, cũng phải ngậm-ngùi khổ tâm than trách.
Ðến như cuộc thế-giới chiến-tranh, nhơn-sanh điêu
linh đồ thán, ấy là tại mất sự thương-yêu đoàn-kết với nhau, nên mới xảy ra tai
nạn tương-tàn tương-sát.
Ngày nào toàn thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy,
mà biết đồng tâm hiệp lực đoàn-kết với nhau thì thiên-hạ mới được hòa-bình an-cư
lạc-nghiệp.
THIỆN-ÁC
PHÂN MINH
Giải thích sở hành thiện, ác của con người, từ buổi
sơ khai cho đến thời kỳ Hạ-Nguơn hiện tại.
Kỳ Hạ-Nguơn cận mãn, cuộc tuần-huờn tái tạo qui cổ
hầu sang.
Ðức CHÍ-TÔN hoằng khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, gọi
là cơ-quan cứu thế, chủ-nghĩa giáo dân qui thiện, tức là xây chuyển tâm-lý của
người phản bổn huờn nguyên.
Bởi con người đồng thọ nhứt điểm linh-quang của
Tạo-hóa, ban cho một cái tánh lành. Có câu: "Nhơn chi sơ tánh bổn
thiện". Người mới sanh ban đầu thì có tánh trọn lành, biết giữ theo đường
Thiên-lý, làm việc chi cũng noi phép công-bình chánh trực, không nhiễm loạn một
điểm vạy tà "Tài thị không sắc thị không" gọi là tâm hữu Thánh-đức.
Ðời Thượng-cổ người người đồng giữ một tánh lành, kêu là tánh tương cận. Trải
qua đến Trung-Nguơn và Hạ-Nguơn nhơn tâm thất chánh, con người chia ra làm hai
hạng, quân-tử và tiểu-nhơn. Hạng người quân-tử thì biết giữ bổn tâm chơn tánh,
lương-tri, lương-năng vẫn còn tự nhiên. Hạng tiểu-nhân thì buông lung tâm tánh,
bỏ phép công-bình, vật dục sở nhiễm khí bẩm sở câu, sa đắm hồng trần sắc, tài,
tửu, khí làm cho điểm linh-tâm mờ ám, không phân biệt đường chánh nẻo tà, gian
tham xảo trá trộm cướp bạo tàn, luân-lý cang-thường đều nghiêng đổ.
Hạng người ấy đã trở nên hung ác, toàn thể phải hẩm
vào con đường tội lỗi, chịu các điều hình phạt khổ sở truân chuyên, đó là sự
lầm-lạc của con người chẳng biết khử nhơn-dục tồn thiên-lý.
Cho nên người đời ngày nay, chỉ có hai phương-diện
một là thiện, hai là ác. Phân ra lành dữ đen trắng hai đường chánh tà đôi nẻo,
để cho mọi người tùy ý mà tuyển chọn mà thi-hành....
Ai xu hướng theo việc làm lành lánh dữ, dưỡng tánh
tu tâm, lập công bồi đức cứu độ nhơn-sanh, thương người mến vật căng cô truất
quả, kỉnh lão hoài ấu, tế nhơn chi cấp, cứu nhơn chi nguy, chú trọng về đạo-đức
tinh-thần, thì đặng an-nhàn thung dung tự toại.
Còn ai thích hợp việc làm dữ, chuyên môn sát sanh
hại mạng, xuy mao cầu tỳ, đồ mưu hoạch kế, gian tham trộm cướp tàn bạo sanh
linh, hại nhân ích kỷ tán tận lương tâm, chẳng kiêng phép nước, không sợ luật
Trời, cho kiếp chết là mất, xem sự luân-hồi thưởng phạt là điều vô hiệu-quả,
cho nên việc ác nào cũng dám làm. Những hạng người làm dữ thì dầu có dõng lực
chấn thế, cường bạo đến bực nào, cũng còn quyền luật-pháp hữu hình, hay là
vô-vi trừng-trị, chẳng bao giờ thoát khỏi chốn lao-lung.
Có câu: Nhược hữu nhơn tác bất thiện đắc hiển danh
giả, nhân bất hại thiên tất tru chi. Bằng có người làm những việc chẳng lành,
mà đặng giàu sang danh cao lộc cả, thì người chẳng hại, Trời ắt giết đó ...
Ðáng quí những người biết làm lành, vị chủ bất vị
ngã, làm nhiều việc có lợi ích chung cho nhơn-quần xã-hội, đặng hưởng mọi điều
hạnh-phúc; trên thuận với lòng Trời, dưới cộng hòa cùng đồng chủng quốc-dân,
đáng mặt râu mày ưu thời mẫn thế.
Nếu con người từ ấu chí trưởng, mà biết trau-giồi
tâm đức, un-đúc tinh-thần cho trở nên chí-thiện thì chẳng còn cái quyền hành
thế lực nào, mà cường bức chuyên trị cái quyền tự-do chí-thiện ấy đặng.
Bởi nước nào cũng trọng dụng cảm thương yêu người
làm lành.
Có câu: Sở quốc vô dĩ vi bửu, dĩ thiện vi bửu dã.
Nghĩa là: Bên nước Sở không lấy vật chi mà làm của báu trong nước, chỉ dùng
người lành mà làm vật quí báu trong nước vậy.
Nếu nhơn-sanh toàn thể hiệp đồng nhứt tâm, chung
thờ chủ-nghĩa nhân đạo, thì tự nhiên đắc giải thoát. Bởi luật hình của đời, là
để răn phạt những kẻ gian tế, làm rối loạn quốc-dân, mất sự trị an trong nước.
Chớ không có khuôn luật nào để buộc tội lỗi những người đạo-đức hiền lương.
Ngày nào nhơn-sanh thật hành cho đặng trọn lành,
thì đương nhiên là kế bảo an quyền hành tự chủ. Bởi con người có nhứt điểm
linh-tâm, đủ năng-lực làm chủ xác thân, mà tại người chẳng kỉnh trọng linh-tâm
nên mới mất quyền vi-chủ. Nếu con người biết giác-ngộ, tầm phương lập quyền
tự-chủ, điều khiển cái thân thể của mình, thì chẳng còn ai đặng phép làm chủ mà
cai-trị mình nữa. Tóm lại, nhơn-sanh biết thức tỉnh tâm hồn ăn-năn sám hối, cải
cựu ác tùng tân lương, diệt giả phò chơn, khử tà qui chánh thì quyền tự-do
tự-chủ tự-lập sẽ huờn nguyên phản bổn, ấy là chí-thiện vậy.
TRIẾT-LÝ
THIỆN VÀ ÁC
Thiện
ác là thế nào? Thiện là lành ác là dữ.
Chiếu theo luật công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thì lành thưởng dữ răn, lành
siêu dữ đọa. Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng. Làm theo việc lành thì
thuộc thanh khí nhẹ nhàng tức nhiên thăng phù siêu thoát.
Còn làm theo điều dữ, thì thuộc về ác khí trọng
trược, là phải hạ giáng trầm luân. Cũng như thế gian hiện-hữu, người lành thì
được thong thả tự-do. Kẻ dữ phải chịu lao tù khổ sở. Thiện hữu thiện báo, ác
hữu ác báo. Lành có lành trả, dữ có dữ trả. Thiện ác nhược vô báo, càn-khôn tất
hữu tư. Nếu làm lành mà không được hưởng phước còn làm dữ mà chẳng có tai họa,
thì Trời Ðất ắt có tư vị hay sao? Không, Trời Ðất chẳng bao giờ mà tư vị ai tất
cả.
Bởi có câu: Thiên Ðịa chí công, Thần minh ám sát,
bất vị tế hưởng nhi giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng họa. Nghĩa là: Trời
Ðất công-bình có các Ðấng Thần-minh soi xét, chẳng phải vì sự cúng tế cầu khẩn
mà ban phước, cũng chẳng vì thiếu lễ vật cúng kiếng mà xuống cho tai họa. Chỉ
có làm lành hay làm dữ mà định phần phước cùng họa, báo ứng phân minh.
Ðức Thái-Thượng nói: Thiện ác chi báo như ảnh tùy
hình. Lành dữ đều có trả cũng như bóng theo hình....
Xem về mặt hình-thức hữu vi, thì những hạng làm
lành thấy chơn-chất nhu-nhược, không bằng cái thể tướng của kẻ làm dữ, bởi kẻ
dữ thì có oai thế hùng cường mạnh bạo, ai xem thấy cũng đều kinh khủng. Mà kết
cuộc người làm lành vẫn được trường tồn, còn kẻ làm dữ thị tự nhiên tiêu-diệt.
Có câu: Hành thiện chi nhơn như xuân viên chi thảo,
bất kiến kỳ trưởng nhựt hữu sở tăng, hành ác chi nhơn như ma đao chi thạch, bất
kiến kỳ tổn nhựt hữu sở khuy. Nghĩa là những người làm lành như cây cỏ mùa
xuân, tuy là khô-khan còi cọc chẳng thấy lớn, mà đến lúc mưa dào thì phát triển
thạnh mậu, nhành lá tươi tốt sum-sê. Còn những hạng người làm dữ thì xem sắc
sảo cũng như lưỡi dao bén mài trên đá, tuy là chẳng thấy hao mòn, mà tự nhiên
nó cùn tận.
Chẳng khác cái lưỡi với răng. Cái lưỡi tuy mềm mà
còn mãi mãi, cái răng rất cứng mà kết cuộc thì nó gãy hết không còn....
Chiếu theo Nho-Giáo của Ðức Khổng-Tử lưu truyền thì
mỗi bộ sách đều có dạy việc thiện và ác, nhưng có chỗ thì nói sự báo ứng thậm
tốc, về mặt hình-thức, còn có chỗ thì nói quả báo bí ẩn vô-vi.
Có câu: Sỡ dĩ nhơn tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị
vi nhi kiết thần dĩ tùy chi, hoặc tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi nhi hung thần dĩ
tùy chi. Nghĩa là: lòng người muốn làm việc lành tuy là việc lành chưa làm mà
đã có vị kiết-thần chứng-minh rồi đó. Hoặc lòng người mống khởi làm việc dữ, mà
việc dữ ấy chưa làm, thì đã có vị hung-thần chép biên rồi đó....
Lại có câu: Nhứt nhựt hành thiện, phước tuy vị chí
họa tự viễn hỉ, nhứt nhựt hành ác, họa tuy vị chí phước tự viễn hỉ. Một ngày
làm lành phước tuy chưa đến, mà tai họa đã lánh xa, một ngày làm dữ họa tai tuy
chưa đến mà phước đã lánh xa.
Hai bài sách trên đây, là nói sự báo ứng về cơ
mầu-nhiệm. Mặc dầu con người tin hay là không, đến khi kết cuộc thì sở hành
thiện ác đều thấy rõ.
Sự lành thưởng dữ răn của nhân-loại trên mặt
địa-cầu nầy ví như:
Trong gia-đình có đặt quyền của một ông cha
cai-quản, khi mà ông cha nhứt định sẽ giao gia-nghiệp cho con gìn-giữ thì tự
nhiên ông chọn lựa trong bầy con, người nào trọn tâm hiếu-nghĩa với cha mẹ,
hòa-thuận với anh em, biết lo bồi-bổ mọi sự trong gia-đình, tánh tình
hiền-lương đạo-đức, thì ông cha mới giao sự sản đất vườn cho người ấy bảo hộ.
Chớ không bao giờ cha lại giao gia-nghiệp, chìa khóa tủ, bằng khoán đất cho một
đứa con bất hiếu ngổ nghịch bạo tàn, ấy là lẽ cố nhiên trong gia-đình như thế.
Ðức CHÍ-TÔN là Cha cả, có quyền năng chưởng-quản
toàn thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy, thì ông cha Thiêng-liêng muốn giao
đại-nghiệp trong thế-giới cho một sắc dân nào cầm quyền thống-nhứt về mặt
vật-chất hay là tinh-thần, thì Ðại Từ-Phụ cũng chọn lựa một dân-tộc nào, có
trọn tâm hiếu hạnh, biết tôn trọng thành kỉnh Ðấng Cha lành và có lòng đạo-đức
nghĩa-nhơn, biết giữ luật-pháp công-bình chánh trực thì Ðức Chí-Tôn mới giao
phó cả đại-nghiệp trong vũ-trụ nầy, cho dân-tộc ấy giữ-gìn cai-quản. Chẳng khi
nào Ðức Chí-Tôn lấy giao sản-nghiệp vĩ đại trong hoàn-cầu cho một sắc dân bất
nghĩa vô nhơn bạo tàn hung ác, mà được cầm quyền bá chủ.
Trái lại dân-tộc ấy, đã không đặng hưởng hồng-ân
của Ðấng Cha lành ban cho, mà còn phải chịu luật Thiên-điều trừng trị, ấy là lẽ
công-bình của Ðức CHÍ-TÔN, lành thưởng dữ răn hai đường đặc biệt.
THI
ÐỨC
CHÍ-TÔN
Thiện ác đáo đầu đã biết
chưa,
Hiểu rồi cái ác cũng nên
chừa.
Theo làm âm-chất may bồi
đấp,
Thì sẽ trở về chỗ vị xưa.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét