PHƯỚC
VÀ TỘI
Con người sanh ra trên mặt thế nầy, hạn định bách
tuế chi kỳ mà chưa từng thấy ai được sống đủ đầy trăm tuổi, thiết tưởng trong
thời kỳ chiến-tranh loạn-lạc, thì bất luận già trẻ cũng có thể chết một cách
dễ-dàng.
Vậy thì lẽ phải của con người, nên làm những điều
gì cho có phước đặng hưởng sự vui-vẻ tương lai, chẳng nên làm việc chi phạm
tội, rồi kết cuộc phải ăn-năn hối hận, dầu có kêu than cũng đã muộn.
Nên nhớ câu sách Nho dạy rằng: "Ô hô! Tam thốn
khí tại thiên ban dụng, nhứt đáng vô thường vạn sự hưu".
Than ôi! Ba tấc hơi còn thì ngàn việc cần dùng
tranh danh đoạt lợi, chẳng may đến buổi vô-thường muôn việc đều thôi chỉ đem
theo xuống chốn dạ đài có hai món phước và tội.
Trong Kinh Sám-Hối có câu:
Người
lương thiện ra vào thong-thả,
Kẻ
tội nhiều đày đọa rất minh.
Sở hành của con người làm thế nào mà được phước,
còn làm sao mà bị tội?
Tổng luận từ trong gia-đình, xã-hội cho đến
Tôn-giáo các khoản như sau:
1- Trong gia-đình những người con mà được hưởng
phước của cha mẹ ban cho, thì người con ấy biết nghe lời cha mẹ dạy bảo, hằng
lo trông nom bồi-bổ mọi sự trong gia-đình, tức là người con chí hiếu. Còn đứa
con mà bị tội, là bất tùng giáo-hóa, không tuân lời cha mẹ khuyên răn, phóng
tâm du-đảng theo cờ bạc điếm-đàng, làm cho cha mẹ lắm nỗi thảm sầu, thiên-hạ
cười chê khinh bỉ, ấy là đứa con bất hiếu đã không được hưởng phần hương hỏa,
mà còn bị tội là con giặc trong gia-đình.
2- Trong quốc-gia xã-hội có văn thần, võ tướng,
những vị nào được hưởng phước lộc của chánh-phủ ban cho, thì vị quan ấy là bậc
trung thành, dám hy-sinh với Tổ-quốc, gầy dựng cơ nghiệp nước nhà, tạo
hạnh-phúc cho giống nòi chung hưởng như thế mới có phước đức lưu tồn.
Bổn phận làm dân trong nước phải tuân theo luật-lệ
của chánh-phủ, thật hành y theo lịnh của nhà cầm quyền trong địa phương truyền
dạy.
Sưu đi thuế đóng cho tròn bổn-phận lương dân mới là
có phước.
Còn làm dân mà bất tùng luật-pháp quốc-gia, trốn
xâu lậu thuế, gian tham trộm cướp không kiêng phép nước, thì phải chịu tội tù
ấy là lẽ tự nhiên cổ kim như thế.
Luận qua trong Tôn-giáo Cao-Ðài, từ hàng phẩm
Chức-Sắc Thiên-Phong cho tới Chức-việc và Ðạo-hữu nam nữ, những người tận tâm
trung thành vì Ðạo, thật hành y theo luật-pháp chơn-truyền, trọn tuân
Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN cùng các Ðấng Thiêng-Liêng chỉ dạy, biết trọng mạng
lịnh của Hội-Thánh ban hành, dầu gặp việc hi-sinh vì Ðạo cũng chẳng thối chí
ngã lòng, ấy là người trọn tâm phụng thờ Tôn-giáo.
Trên thuận với lòng Trời, dưới nhơn-sanh đồng tín
nhiệm, thì sẽ được hưởng phước của Ðức CHÍ-TÔN ban cho, đạt thành phẩm vị
Thiêng-liêng siêu thoát.
Còn những kẻ lợi dụng danh Ðạo, tạo hạnh-phúc riêng
về phần cá-nhân, thì mọi sự hành-động đều trái với luật-pháp khuôn viên của
Ðạo, làm nhiều việc bất nghĩa vô nhân, mưu sâu chước độc, phá Ðạo hại người,
phản loạn chơn-truyền bất tùng Thiên-lý, ấy là kẻ tội nhơn trong nền Tôn-giáo,
phải chịu luân-hồi chuyển kiếp trả quả tiền khiên, do theo lẽ công-bình thưởng
răn của Tạo-hóa.
Muốn biết phước và tội, thì xem cả hành-vi của con
người, bất luận làm những việc gì có lợi ích chung cho đồng loại, được thiên-hạ
kính mến ca tụng, do sở hành của mình mà mọi người được hưởng nhờ ấy là phước.
Trái lại, làm điều chi mà hại nhơn ích kỷ, sanh
chúng bất bình, kêu ca thán oán, bởi việc làm của mình mà thiên-hạ phải chịu
thảm sầu đau khổ, ấy là kẻ đại tội trên thế gian.
Ngày nào nhơn sanh biết tìm những việc có phước đức
mà thật hành, tránh xa mọi điều tội ác, được như vậy thì đời sẽ trở nên
thuần-phong mỹ-tục, gia vô bế hộ, lộ bất thập di nhà không đóng cửa, đường
chẳng ai lượm của rơi, thiên-hạ cọng hưởng thái-bình, tức là phục lại đời
Thánh-đức.
TU-HÀNH
VÀ HỌC-HÀNH
Tu-hành và học-hành, ấy là cái thể với cái dụng. Tu
gõ mỏ tụng kinh niệm Phật là cái thể, cố tâm thật-hành theo lời của Phật dạy
trong kinh mới là sở-dụng.
Học, đọc sách viết vở làm bài là cái thể, chỉ có
thi hành theo lời dạy của Thánh-Hiền thì mới là hữu dụng.
Có câu: "Tụng
kinh giả minh Phật chi lý". Tụng kinh là cần hiểu rõ giáo-lý của Phật,
mà làm y theo mới có hiệu quả, chớ không phải tụng kinh niệm Phật lần chuổi mà
đắc đạo.
Cũng như câu: "Nhứt
cú Di-Ðà vô biệt niệm, bất lao đàng chỉ đáo Tây-Phương". Nghĩa là một
câu lục tự Di-Ðà cứ niệm hoài, thì chẳng nhọc khảy móng tay cũng đến cảnh
Tây-Phương.
Câu nói mới nghe qua thì sự hành đạo rất dễ, nhưng
phải hiểu ý-nghĩa lục tự Di-Ðà là thế nào? Và thật-hành theo cho châu đáo, thì
mới mong mỏi về đến cảnh Tây-Phương.
Nói về Nho-Giáo thì có câu: "Tạo chúc cầu minh, độc thơ cầu lý, minh dĩ chiếu ám thất, lý dĩ
chiếu nhơn tâm". Ðốt đèn đuốc để cầu ánh sáng, còn đọc sách để kiếm
hiểu chơn-lý, cái ánh sáng để rọi trong nhà tối, ý-nghĩa trong sách để soi vào
lòng người cho được thông-minh.
Ðức Khổng-Tử dạy rằng: "Vi thiện tối lạc, Ðạo lý tối đại". Làm lành rất vui, đạo lý
rất lớn, thì người có học ai cũng biết như vậy, mà tại sao không chịu làm lành
đặng hưởng sự vui-vẻ, để làm những điều tàn bạo gian tham, mà phải bị các tội
tình rồi ăn-năn thảm sầu hối hận.
Ðã biết Ðạo-lý là rất trọng mà chẳng chịu làm, để
xu hướng theo điều bất nghĩa vô nhơn, có phải tại người chỉ có tu có học bề
ngoài, mà trong tâm không thật hành nên mới ra nông nổi.
Luận về Ðạo Cao-Ðài thì toàn thể môn-đệ của Ðức
CHÍ-TÔN, khi vào nơi Bửu-Ðiện đãnh lễ, trước hết tay bắt ấn Tý để lên trán
niệm: Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng, ấy là Tam-qui: Qui-Y Phật, Qui-Y
Pháp, Qui-Y Tăng, thì ta phải noi theo cả hành-vi của Phật, từ-bi bác-ái, tế độ
chúng sanh. Lại nữa phải trọn tuân theo luật-pháp chơn-truyền của Ðạo và làm
thế nào cho tròn bổn phận tín-đồ trong nền Ðạo-giáo, mới xứng đáng là môn-đệ
của Ðức CHÍ-TÔN.
Trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ-Tổ, ta nên chủ tâm
ghi nhớ một câu:
"Trong Tam-giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải làm lành".
Ðã trải qua ba mươi năm trường,
nếu toàn Ðạo nam nữ mà cố tâm thi-hành cho được vuông tròn một câu đó, thì hiện nay
Hòa-Viện không còn phân xử tội-tình của ai nữa. Bởi vì mỗi người đã biết làm
phải làm lành, thì có điều chi mà phạm vào luật Ðạo, được như vậy mới tròn
bổn-phận người tu-hành đạo-đức.
TRIẾT-LÝ
CHỮ TÂM
Tâm là vi chủ tất cả châu thân của con người, nên
hư phải trái đều do nơi tâm chủ trương sở định.
Làm người biết chú trọng lương-tâm, tức là biết
kỉnh thờ Trời. Có câu: "Tồn tâm dưỡng tánh sở dĩ chi sự Thiên",
gìn-giữ bổn tâm chơn tánh cho chẳng phóng túng mà làm các điều sái quấy, mới
gọi là biết thờ Trời vậy.
Trời chẳng phải cao, mà cũng chẳng phải xa, chính
thiệt ở nơi lòng người, lòng người có tín-ngưỡng thì Trời Ðất ắt biết đó.
"Phi cao
diệc phi viễn đô chỉ tại nhơn tâm, nhơn tâm sanh nhứt niệm Thiên Ðịa tất giai
tri".
Vậy con người chẳng nên khinh dễ bản tâm, mà phải
đắc tội với Trời.
Có câu: "Khi
kỳ tâm tất tự khi kỳ Thiên, Thiên bất khả khi hồ".
Người tu-hành đắc đạo cùng chăng, là do nơi tâm
biết giác ngộ thì được siêu-thoát, con tâm mờ-hồ si-mê thì phải chịu luân-hồi
chuyển kiếp.
Có câu: "Vạn sự do tâm tạo". Muốn việc
chi thảy đều có kết-quả, là tại sự tư-tưởng của lương-tâm. Hễ tâm tư-tưởng việc
chánh đáng công-bình, thì thân thể đặng thung-dung nhàn lạc, tức là Bồng-Ðảo
Niết-Bàn tại thế. Còn tâm vọng động những điều vô-nghĩa vô-nhân gian ác bạo
tàn, thì thân thể phải chịu mọi điều thảm khổ. Cho nên con người cần phải biết
kỉnh trọng linh-tâm, nhứt là làm những việc gì, trước khi khởi sự thực-hành ta
nên trầm tỉnh xét suy cho đáo để và phải nhớ hỏi lại chủ-nhơn Ông (tức là
linh-tâm) thì mọi sự phải trái thiệt hư tâm đều chỉ rõ....
Trong Tam-giáo: Nho, Thích, Ðạo dạy phép tịnh luyện
cũng dùng chữ Tâm.
Ðức Khổng-Tử dạy tồn tâm, yếu-dụng hai chữ
trung-thứ. Ðức Thích-Ca dạy minh tâm, thiệt hành hai chữ từ-bi. Ðức Thái-Thượng
dạy tu tâm, chú trọng hai chữ cảm-ứng. Bởi sáu chữ: Trung-thứ, Từ-bi, Cảm-Ứng
đều có trùng tâm. Chữ tâm là: "Tam điểm như tinh tượng, hoành câu tợ nguyệt
tà, phi mao tùng thủ đắc tố Phật giã do tha". Ba chấm như tượng hình sao,
giòng ngang giống như trăng xiên, dỡ lông theo ấy đặng thành Phật cũng bởi tâm
mà nên.
"Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm".
Muốn tu thân cho nên người hiền-lương đạo-đức, thì trước phải sửa lòng cho được
ngay thẳng "Tương tâm tỉ tâm tiện thị Phật tâm". Ðem cái lòng của
mình mà sánh với cái lòng của người ấy là cái lòng nhơn từ, cũng như lòng Phật
vậy.
Làm người mà biết bảo thủ lương-tâm, thì mới đủ
tư-cách làm người cao thượng, đời trở nên tận thiện.
Còn người tu-hành mà biết trau-giồi tâm đức cho
được kiên cố vững bền, thì mới đặng thành-công đắc đạo.
THÁNH-GIÁO
ÐỨC
CHÍ-TÔN
Bạch-Ngọc
từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng
cần hạ giới vọng cao ngôi.
Sang hèn trối kệ tâm là quí,
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.
Tâm ấy là Trời chớ dễ tâm,
Phải trau cho sạch điểm
lương-tâm.
Ngôi Trời tâm ấy là nơi dựa,
Mình
biết tâm, tâm mới biết tâm.
Ðạo
cao thâm, Ðạo cao thâm,
Cao
bất cao, thâm bất thâm.
Cao
khả xạ hề thâm khả điếu,
Cao
thâm vạn sự tại nhơn tâm.
Tâm an mao ốc ổn,
Tánh định thể căng hương.
DIỆT TẬN PHÀM-TÂM
Giáo-lý của nhà Phật,
cần yếu là diệt tận phàm tâm tham, sân, si. Người tu hành đạo-đức mà còn tích trữ
lòng tham, thì không khi nào siêu phàm đạt Ðạo.
Bổn-phận của người tu là xả thân
cầu đạo, xả phú cầu bần, chưa từng thấy một vị Phật nào mà còn tham lam
của thế-gian. Người đời vì tham quyền lợi mà giết hại lẫn nhau, gây thù kết oán cũng vì tham....
Sân là giận hờn gây-gổ
cải-cọ, tánh tình nhỏ mọn, thắc-mắc khó khăn, độ-lượng hẹp hòi, thiếu lòng
từ-bi bác-ái thì mất đức-hạnh người tu, tự nhiên phải lánh xa cửa Phật.
Con người vì tánh sân
mà xảy ra lắm điều oan-nghiệt có khi dứt tình thân-ái nghĩa-nhơn cũng vì sân.
Si là mê-tín dị đoan,
đụng đâu nghe đó, không phân biệt đường chánh lẽ tà, nên phải lầm vào Bàn-môn
Tả-đạo không thoát khỏi bến mê.
Ðạo-đức tinh thần là phương thức tỉnh
nhơn-sanh, người tu-hành mà không phát huệ-tâm, thì cũng khó mong thành
chánh quả.
Giáo-lý của nhà Phật,
thì người tu cần phải diệt tận phàm tâm, tức là trừ bỏ tánh tham, sân, si, thì mới có thể
siêu phàm đắc đạo.
"Nhơn dục tịnh
tận, Thiên-lý lưu hành". Lòng dục vọng của con người lặng-lẽ, thì đường Thiên-lý phát
khởi quang minh.
Con người giữ được Thánh-tâm cho thanh tịnh mới rõ
biết đường Thiên-lý, thì phàm-tâm nhơn dục không nảy sanh. "Tịnh tịnh
thường lạc cố viết Niết-Bàn". Thánh-tâm thanh tịnh an vui, thì gọi là cảnh
Niết-Bàn Cực-Lạc.
GIẢI-THÍCH
TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG
Tam-Cang Ngũ-Thường tức là điều-mục của Nho-giáo,
lại là một vai tuồng đặc biệt của nam nhân, cần phải thật hành cho vẹn toàn
bổn-phận.
Tam-Cang là: Quân-thần, Phụ-tử, Phu-phụ. Vua tôi,
cha con, chồng vợ; Chúa ở với tôi có đạo-đức, thì tôi thờ chúa mới tận kỳ
trung; Cha ở với con từ-thiện, thì con thờ cha chí hiếu; Chồng giữ trọn nghĩa với
vợ, thì vợ phải thủ tiết thờ chồng ấy là Tam-cang tức là đời có Ðạo.
Còn đời thất chánh vô nhơn đạo, thì phong-hóa suy
tồi nhân tâm bất cổ, đạo-đức sai dời lòng người chẳng giống xưa. Luật Tam-cang
chẳng giữ, phép Ngũ-thường không noi, Vua vô đạo, tôi bất trung, cha chẳng lành
con chẳng thảo, chồng không giữ nghĩa với vợ, vợ lại thất tiết với chồng. Anh
em không thuận hòa, xóm riềng chẳng có tình thương-yêu liên-lạc cùng nhau,
luân-lý cang thường đều nghiêng đổ, tức là đời Hạ-nguơn cuối cùng mạt kiếp.
Ngũ-thường là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
1- NHƠN là trắc ẩn chi tâm, ái vật chi lý, bất sát
bất hại thể háo sanh chi đại-đức. Lấy lòng nhơn phóng xá cho loài vật, đặng
phần sống sanh hóa như loài người, mới có lòng từ-bi bác-ái gọi là nhơn....
Chữ nhơn là nhân đứng bằng chữ nhị, nhân là người,
nhị là hai. Làm người phải giữ cho đặng trọn hai phần, một là đối với Trời Ðất,
thì phải noi theo phép công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thuận tùng Thiên-lý.
Hai là đối với người, vật, thì phải giữ lòng đạo-đức, thương người mến vật, trợ
cấp phò nguy mới trọn lòng nhơn ...
Theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN:
Nhơn
là đầu hết các hành tàng,
Cũng
bởi vì nhơn dân hóa quan.
Dân
trí có nhơn nhà nước trị,
Nước
nhà nhơn thiệt một cơ-quan.
Tu nhơn thì thành Thần; niệm nhơn thì thành Thánh;
hành nhơn thì thành Tiên; đắc nhơn thành Phật
2- NGHĨA là Nhứt thảo nhứt mộc, các hữu kỳ chủ, cả thảy mọi vật đều có chủ, cấm
chẳng đặng gian tham ham muốn của người, mà làm cho thất nghĩa.
Chữ nghĩa là toàn ngã hiệp thành, chữ toàn là trọn,
chữ ngã là ta, hiệp lại thành chữ nghĩa, làm người giữ trọn cùng ta thì nên
nghĩa, còn chẳng trọn cùng ta là thất nghĩa. Muốn thật hành chữ nghĩa, thì phải
noi theo câu: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn". Những việc gì ta chẳng
muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu thì ta không nên đem các điều ấy mà
làm cho người khác, mới là trọn nghĩa.
Chữ nghĩa bao hàm rất lớn thay. Như là nghĩa cha
con, nghĩa thầy trò, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng
hữu chi giao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ
tư-cách làm người cao trọng.
Chữ nhơn và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho
nên trong Kinh Sám Hối có hai câu dạy rằng:
Làm
người nhơn-nghĩa xử xong,
Rủi
cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
Làm
người nhơn-nghĩa giữ tròn,
Muôn
năm bóng khuất tiếng còn bay xa.
Xem trong truyện sử đời nhà Châu, vua Võ điếu dân
phạt Trụ, dĩ danh Nhơn-Nghĩa, mà thâu phục cả tâm-lý của tám trăm chư-hầu qui
thuận nhà Châu cho đến các bậc Tiên-gia Xiển-giáo, cũng đồng ủng hộ Võ-Vương,
thuận thọ thiên-mạng diệt giả phò chơn, thì rõ biết cái năng lực danh-từ
nhơn-nghĩa tinh-vi hiệu quả là thế nào.
Hiện nay ta muốn biết trước những người cầm quyền
bĩnh cán trong một nước nào, có thể lập thành sự-nghiệp phục hưng quốc-thể được
trường tồn, hay là làm cho dân tâm ly tán, vận nước khuynh nguy, thì chỉ xem sở
hành của vị ấy có nhơn-nghĩa hay không mà quyết đoán ...
3- LỄ là yết dục dưỡng tinh, cấm không đặng tà tình hoa nguyệt, làm cho hao tổn
nguơn-tinh biến ra thất lễ. Lễ là khuôn viên trọng thể của con người, làm người
sở dĩ linh hơn muôn vật, chỉ nhờ biết giữ lễ mà đặng phần tôn quí hơn. Nhơn
sanh vạn-vật tối linh, lễ giả Thiên Ðịa chi tự giả.
Qui cũ chữ lễ là để chế sửa phong-tục, nhân quần
xã-hội, quan hôn, tang tế, Triều-đình Hương-đảng, cả thảy đều dùng lễ mà làm
cho đời được tận thiện tận mỹ.
Lễ là thiết yếu để giữ chừng mực cho mọi sự hành-vi
của con người.... Con người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí là do
nơi biết giữ lễ, còn bị tội lỗi làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê bai
khinh bỉ nhục-nhã, là do nơi thất lễ.
Chữ lễ rộng lớn bao la, xem bài giải-thích về Kinh
Lễ mới rõ biết.
4- TRÍ là tồn tâm dưỡng tánh, chẳng nên dùng tửu nhục ẩm thực quá độ, rối loạn
trí não tâm thần, hoại hư tạng-phủ biến ra người mất trí.
Chữ trí là tri trên bạch dưới, chữ tri là biết, chữ
bạch là trắng, làm người phải biết giữ lòng thanh bạch, chẳng cho nhiễm vào một
điểm nhơ ố vạy tà, mới gọi là hạng người trí-thức....
"Trí
giã nhạo thủy". Bậc trí-thức tánh lưu thông như nước, mọi sự đều rõ
biết, cư xử việc gì cũng được phân-minh, chẳng khi nào phạm vào luật-pháp.
5- Chữ TÍN là bằng hữu chỉ ư tín, thỉ chung như nhứt trước sau như một, không thay
lòng đổi dạ, dầu hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là người
chơn-chất biết thủ tín.
Chữ TÍN là nhơn bằng chữ ngôn, nhơn là người ngôn
là lời nói. Làm người mọi điều thốt ra, phải giữ sự chơn thật thì mới đủ lòng
tín-nhiệm của quần chúng, nếu việc không mà nói có, việc có lại nói không, thì
chẳng còn ai tín-dụng. Người ở đời mà thất tín thì chẳng làm gì nên danh phận.
Nên có câu: "Nhơn vô tín như xa vô luân". Người mà không thành tín
thì cũng như chiếc xe không có bánh, chẳng hề cử-động được nữa.
Lại có câu: "Nhơn vô tín bất lập". Người
không giữ tròn câu tín nghĩa thì chẳng lập nên danh-thể trường tồn, mà cũng
không đứng vững trên mặt thế.
Vấn-đề Tam-cang Ngũ-thường, tức là nền tảng của
Nho-Tông, thuộc về phần Nhơn-đạo để giáo-hóa nhơn sanh cho đủ tư-cách làm người
cao thượng, nếu mỗi người thật hành y theo qui-điều kể trên cho châu đáo, thì
đời sẽ được mỹ-tục thuần-phong, tức là đời thái-bình an-cư lạc-nghiệp.
Ðiều-mục của Khổng-giáo cũng như qui-giới của
Phật-giáo, Tiên-giáo. Ngũ-thường, ngũ-giới, ngũ-hành kỳ trung hiệp đồng nhứt
lý....
Ðệ-tử nhà Phật, nhà Tiên muốn đi tới Bồng-Ðảo,
Niết-Bàn thì tức nhiên phải đi qua đò nhà Nho trước.
Phật, Ðạo cũng như hành bộ khách, nền Nho ví tợ
chiếc đò qua.... Ấy là: "Dục tu Tiên-đạo, tiên tu Nhơn-đạo, Nhơn-đạo bất
tu, Tiên-đạo viễn hỉ"....
Luận về đạo-lý rất quảng đại bao la, không thể giải
cho cùng tận, chỉ do theo trình-độ của mọi người, hiểu biết đặng bao nhiêu lược
biến ra để làm phương-châm thật-hành cho được vẹn toàn, cũng là điều bổ ích.
CHÁNH-TRỊ
CỦA KHỔNG-GIÁO
Chánh-trị của Khổng-giáo cốt yếu là dùng người có
tài có đức để cầm quyền hành-chánh giúp nước trị dân.
Ðức Khổng-Tử nói: "Nhơn-đạo chánh vi
đại". Ðạo của người thì chánh-trị là lớn, dùng đạo nhân làm gốc, lấy hiếu
đễ lễ nhạc làm căn-bản trong sự giáo-hóa, để lập thành nền đạo-đức, nhơn-nghĩa,
lấy chánh-trị mà làm công-dụng, thi thố cho ra đời trở nên thuần-phong mỹ-tục.
Cái quan-niệm của Nho-giáo, về đường chánh-trị
trong một nước thạnh, suy, bĩ, thới đều do nơi người cầm quyền hành-chánh,
người hành-chánh có đủ tài đức, thì trong nước được thái-bình, dân an cư lạc
nghiệp.
Còn người hành-chánh mà thiếu đạo-đức, nhơn-nghĩa
thì nước phải loạn-lạc suy tồi, nhơn tâm ly tán. Mặc dầu cái chánh-thể hay, mà
người cầm quyền dở thì không ích lợi cho nước, mà còn làm hại quốc-gia là khác.
Ðức Khổng-Tử nói: "Văn Vũ chi chánh bố tại phương
sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chánh tức". Nghĩa
là: Việc chánh-trị của vua Văn, vua Vũ bày ra ở trong sách, nếu có người biết
noi theo vua Văn, vua Vũ thì nền chánh-trị ấy được thi thố ra rất hay, bằng
chẳng có người noi theo phương sách của vua Văn, vua Vũ, thì cái chánh-trị tự
nhiên phải hư hỏng. Vậy nền chánh-trị trong nước hay dở, cốt ở người cầm quyền
hành-chánh. Những người cầm quyền bao giờ cũng phải kính cẩn, hằng lo sửa mình
cho ngay thẳng, lấy đạo-đức để cảm hóa dân, và dùng người hiền cất lên làm quan
để chung lo việc nước, không ứng nạp những kẻ gian-tham ấy là nền chánh-trị của
Khổng-giáo lập thành trường tồn kiên cố.
Chánh-trị là việc trọng yếu của một nước, người có
trách-nhậm cai trị dân, cần phải lấy sự kinh-nghiệm mà làm phương-pháp thật
hành, phải xem xét cái Ðạo của Thánh-Hiền đời trước là thế nào, rồi mới
quyết-định sửa đổi mọi việc cho được hoàn-toàn.
Bởi các bậc Thánh-Hiền là Ðấng thông-minh, đã hiểu
rõ về đường Thiên-lý, và đạt được nhân sự, biết dùng điều nhơn-nghĩa, lễ, trí,
mà làm phép trị dân trị nước đặng hòa-bình. Những công việc của các bậc
Thánh-Hiền tích lũy đã lâu đời và kinh-nghiệm rất châu đáo, có ích lợi cho nước
cho dân, lại được thuận tùng Thiên-lý, phù hạp nhơn tâm, tức là nền chánh-trị vững-vàng
trường-cửu.
Ðức Khổng-Tử dạy: Chánh-trị là làm mọi việc ngay
thẳng lấy sự công-bình chánh-trực mà khiến người, thì ai dám làm những điều vạy
tà sái quấy. Hễ người trên đã ngay thẳng thì kẻ dưới ắt phải noi theo. Có câu:
"Kỳ
thân chánh bất lịnh nhi hành,
Kỳ
thân bất chánh tuy lịnh bất tòng".
Mình làm việc ngay thẳng thì chẳng sai khiến người
ta cũng làm, còn mình không được ngay thẳng, thì dầu có bắt buộc cũng chẳng ai
tuân theo.
"Chánh kỷ dĩ giáo dân giả thuận, thích kỷ dĩ
giáo nhân giả nghịch". Tự lập mình cho chánh đáng, rồi mới dạy người ta là
thuận chơn-lý, còn mình dung-túng sự sái quấy của mình mà dạy người ta làm phải
là trái ngược.
Luận qua chánh-trị hà khắc bạo tàn, trong một nước
dầu có oai-quyền thế lực hùng cường, mà thiếu phần đạo-đức nhơn-nghĩa, thì
chẳng bao giờ vững bền tồn-tại. Mạnh-mẽ như Tần Thỉ-Hoàng, gồm thâu lục-quốc
khanh sĩ phần thơ, kết cuộc cũng vì thiếu đạo-đức, mà phải mất nước tiêu nhà
hại mạng, truyện sử còn ghi chép đến ngày nay, thiên-hạ phê bình vua Tần là bạo
ngược.
Sở Bá-Vương Hạng-Võ cũng oai-quyền ám-á sất sá
chúng dân đều kinh khủng, đến khi thế cùng lực tận phải đành tự-vẫn nơi
Ô-Giang, là bởi không thiệt hành nghĩa-nhơn đạo-đức.
Ông Lưu-Bang tức là Hớn Bái-Công, thuận thọ
thiên-mạng tuy là nhu-nhược "Dĩ đức phục nhơn, tam phân thiên-hạ đoạt kỳ
nhị". Cơ nghiệp nhà Hớn thuộc về Hớn Bái-Công, ấy là nhu thắng cang nhược
thắng cường, sách xưa chẳng lầm đó vậy.
Tóm lại đường lối chánh-trị của Khổng-giáo thì
người cầm quyền trong nước, phải dùng đạo-đức để cảm hóa chúng dân, phải giữ
phép công-bình chánh-trực, trong sự thưởng phạt cho được phân minh. Cần yếu là
tạo hạnh-phúc cho quốc-dân chung hưởng. Mọi sự hành-vi trên thuận tùng Thiên-lý
dưới phù hạp nhơn tâm, thì vạn sự tổng giai thành, ấy là nền chánh-trị đại-đồng
thế-giới.
Ngày nào những người cầm quyền trong các nước mà
biết noi theo phương sách của vua Văn, vua Vũ và thật hành theo nền chánh-trị
của Khổng-giáo cho ra chơn tướng, thì đời mới phục lại thái-bình, dân an-cư
lạc-nghiệp, tức là cơ bảo tồn qui thượng-cổ.
CHÁNH-DANH
ÐỊNH-PHẬN
DĨ
ÐỨC GIÁO DÂN
Chánh-trị của Khổng-giáo là dùng đạo-đức để cảm hóa
dân, lấy nhân chánh làm phép trị bình thiên-hạ....
Một hôm Thầy Tử-Lộ hỏi Ðức Phu-Tử: Giả như vua nước
Vệ cậy Thầy sửa việc chánh-trị, thì Thầy định làm việc gì trước?
Ðức Khổng Phu-Tử trả lời rằng:
Tất giả chánh danh hồ, ắt phải sửa cái danh cho
chánh vậy. Hễ cái danh được chánh thì ngôn thuận tự nhiên mọi sự đều nên.
Ðức Khổng-Tử nói: Danh bất chánh tắc ngôn bất
thuận, ngôn bất thuận tắc vạn sự bất thành....
Danh-từ đã chánh thì làm việc gì đều có nghĩa lý rõ
rệt, còn danh phận đã định thì địa-vị của mỗi người, trên dưới có trật-tự quyền
hành trách-nhậm phân minh, trên lấy lễ mà sai khiến dưới, dưới lấy lòng trung
mà thật hành phận sự, thì trong nước lo chi không được thạnh-trị.
Ðức Khổng-Tử nói: Vi chánh dĩ đức thí như Bắc-Thần
cư kỳ sở, nhi chúng tinh củng chi. Làm việc chánh dùng lấy đức ví như sao
Bắc-Thần đứng một chỗ, mà các vì sao khác đều qui chầu tất cả. Có câu: Quân-tử
chi đức phong, tiểu-nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển. Cái đức
của người quân-tử cũng như gió, cái đức của kẻ tiểu-nhân cũng như cỏ. Gió thổi
trên cỏ thì cỏ phải lướt xuống mà theo. Ðây là nói những bậc cầm quyền trị dân,
phải giữ đạo-đức thì dân tự nhiên trọn tuân mạng lịnh.
Việc chánh-trị có ba điều trọng yếu:
1 . Thâu phục cho được phần đa số dân,
2 . Làm thế nào cho dân giàu có,
3 . Dạy dân cho biết lễ nghĩa.
Việc trị dân trong nước là phải lo cho dân được no
ấm, nước có đủ người tài đức cầm quyền hành-chánh, làm cho toàn thể chúng dân
trong nước đủ lòng tin cậy, thì mới đủ năng-lực làm cho nước vững bền
trường-cửu.
Người quân-tử làm việc chánh-trị phải có tài có đức
cho xứng-đáng mới làm được hữu ích cho quốc-gia, nếu tự lượng tài đức của mình
không đủ, thì chớ quá tham lam ...
Ðức Khổng-Tử nói: Ðức bạc nhi vị tôn, trí tiểu nhi
mưu đại, lực tiểu nhi nhiệm trọng, tiểu bất cập hỉ. Nghĩa là: Ðức mỏng mà ngôi
cao, trí nhỏ mà làm việc lớn, sức yếu mà gánh việc nặng, thì ít khi thành công
vậy.
Mạnh-Tử viết: Tam-đại chi đắc thiên-hạ giả dĩ nhân,
kỳ thất thiên-hạ giả dĩ bất nhân.
Thầy Mạnh-Tử nói: Ðời Tam-đại sở dĩ được thiên-hạ
là vì làm điều nhân, sở dĩ mất thiên-hạ là tại làm điều bất nhân. Tam-đại là:
Nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu. Vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ làm điều nhân
mà được thiên-hạ.
Vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ, làm điều bất nhân
mà mất thiên-hạ.
Xem như lời Thánh-Hiền đã nói, thì sự đắc thất là
do sở-hành của người cầm quyền nhân và bất nhân.
Những người cầm quyền trong nước mà có đạo-đức
nhơn-nghĩa đủ đầy, thật hành theo đường chánh-trị của Khổng-giáo cho được
hoàn-toàn, trên thuận tùng thiên-lý, dưới phục đắc nhơn tâm, thì nước nhà sẽ
được thái-bình, chúng dân cọng hưởng mọi điều hạnh-phúc.
CHÁNH-TRỊ
TRONG NƯỚC
cần
phải có đạo-đức hay không?
Từ cổ chí kim nền chánh-trị trong một nước nào,
những người cầm quyền trị dân có đạo-đức, biết giữ luật công-bình thiêng-liêng
của Tạo-hóa, thì nước ấy mới được trường tồn, lê dân chung hưởng mọi điều
hạnh-phúc.
Nếu người cầm quyền chánh-trị, mà không lấy đạo-đức
để cảm hóa dân, thì trong nước ắt phải suy tồi loạn-lạc.
Có câu: Bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc nguy.
Nước nhà có đạo-đức hiền lành, dân mới mở mang trí hóa cao thượng, còn nước
không có đạo, thì dân tranh cạnh hiếp đáp giết hại lẫn nhau, ắt phải nguy vong
đại biến.
Nước có Ðạo dân an quốc thới,
Nước không Ðạo dân tán quốc khuynh.
Ðạo là hồn của nước vậy.
Con người có linh-hồn thì đặng khôn ngoan tỉnh táo
trí-huệ minh-mẫn cao-siêu, còn người mà không có linh-hồn thì ảnh hưởng lu-lờ,
tinh-thần tối-tăm bạc nhược....
Xem trong truyện sử đời xưa, các bậc Ðế-Vương hằng
lo sửa mình cho được chơn-chánh, cố tạo hạnh-phúc cho quốc dân và do theo
nguyện-vọng của dân mà định vận-mạng chánh thể trong nước, hễ thuận lòng dân
thì tự nhiên phù-hạp với lòng Trời.
Nhơn
tâm tức thị Thiên tâm.
Xem như đời Thành-Thang, vua Ðế-Ất, thiệt hành
đạo-đức nghĩa nhơn, bá tánh được thái-bình an-cư lạc-nghiệp, ấy là nhờ ông Vua
có lòng từ-bi quảng-đại biết thương người mến vật, ố sát háo sanh. Ðến khi Ngài
đi săn bắn với bá quan, giăng lưới chỉ dùng có một mặt, thì đủ biết ông Vua
nhơn đức là thế nào? Vì vậy mới truyền ngôi đến sáu trăm năm.
Trải qua đời Ân-Thọ là Trụ-Vương, hành tàng vô đạo
giết vợ chém con, sát hại các quan trung-thần, lại ưa thích những kẻ gian tà
sủng nịnh. Cho nên cơ Trời dứt nghiệp Thành-Thang. Chúa Thánh Tây-Kỳ ra đời
hưng Châu diệt Trụ. Bởi nhà Thương chánh-trị bạo tàn, vì thiếu phần đạo-đức mà
phải mất nước tiêu nhà hại mạng.
Châu Võ-Vương thuận tùng Thiên-lý, dĩ đức phục
nhơn, gồm thâu bá tánh, lập thành quốc-thể, lập hạnh-phúc cho lương dân, ấy là
nền chánh-trị đủ đầy đạo nghĩa. Cho nên nhà Châu lưu truyền đến tám trăm năm,
thật là cơ-nghiệp vững bền trường-cửu.
Có câu: Quốc chánh thiên tâm thuận, quan thanh dân
tự an. Nghĩa là người cầm quyền trong nước, giữ được chánh tâm thì mới thuận
với lòng Trời, còn làm quan biết giá-trị thanh liêm, thì dân chúng được an-nhàn
tự-toại.
Trái lại, người cầm quyền trị dân, không giữ phép
công-bình, chẳng noi theo đường đạo-đức, lại dùng quyền chuyên-chế hà khắc
lương dân, gian tham tư lợi chẳng kiêng luật Thiên-điều, làm cho lòng dân thán
oán, thì vận mạng trong nước ắt phải nguy vong.
Ðức Khổng-Tử dạy chư môn-đệ của Ngài ghi nhớ một
câu rằng:
Hà
chánh mãnh ư hổ.
Chúng dân đã ghê sợ cái chánh-trị hà khắc còn hơn
là sợ cọp....
Một cường-quốc có thế lực quyền hành, mà không lấy
đạo-đức làm nền tảng, thì nước ấy sẽ bị tiêu-diệt.
Còn nước nào muốn cho nền móng chánh-trị được kiên
cố vững-vàng thì người cầm quyền trong nước phải noi theo đường đạo-đức nghĩa
nhơn, thì tự nhiên nước nhà mới được thạnh hành trường tồn vĩnh-viễn.
CHÁNH-TRỊ
KHỔNG-GIÁO
cần
phải có đạo-đức
Từ xưa đến nay, nước nhà được thạnh-trị, hay là
loạn-lạc suy tồi, đều do nơi người cầm quyền hành-chánh. Người cầm quyền biết
giữ theo đường ngay lẽ phải, thuận thọ Thiên-mạng, biết lấy nhơn-nghĩa để cảm
hóa dân, thì nước nhà được thái-bình, chúng dân đặng âu-ca lạc-nghiệp.
Còn người cầm quyền không noi theo đường đạo-đức mà
sửa trị, lại chẳng biết thương dân, thì nước nhà ắt phải chinh nghiêng rối
loạn.
Bởi dân tâm tức là Thiên-ý, làm trái lòng dân ấy là
nghịch mạng Trời, mà hễ nghịch mạng Trời thì tự nhiên sẽ đi vào lối diệt vong
đó vậy.
Trong Kinh Thơ có câu rằng:
"Hoàng
thiên bất thân, duy đức thị phụ, dân tâm vô thường, duy huệ chi hoài".
"Vi
thiện bất đồng, đồng qui vu trị, vi ác bất đồng, đồng qui vu loạn".
Nghĩa là: Trời chẳng thân riêng ai, chỉ người có
đức thì được Trời trợ giúp, lòng dân không có thường, chỉ có người thi ân-huệ
thì được dân cảm mến.
Làm việc lành chẳng giống nhau, nhưng kết-quả là
bình trị, làm việc dữ cũng không giống nhau, nhưng kết-quả là đảo-điên
loạn-lạc.
Ðức Khổng-Tử cho đạo nhân là gốc của việc
chánh-trị, cũng như đất tốt là gốc của sự sanh-sản ra cây trái thạnh mậu tốt
tươi. Vì vậy người hành-chánh dầu có tài mà thiếu đạo-đức, thì cũng không định
quốc an dân cho được.
Huống chi người cầm quyền bỉnh cán trong một nước,
dầu là Vua nước quân-chủ, hay là Tổng-Thống nước Cộng-hòa dân-chủ, cũng đều có
ảnh-hưởng chịu mạng Trời, ấy là thể thiên hành hóa. Cái quyền hành ấy có
quan-hệ đến vận-mạng của một xã-hội, một dân-tộc, vì vậy nên trị dân phải biết
thương dân và do theo lòng dân mà thật-hành cho tròn sứ mạng.
Lại nữa, những người đem thân ra phụng-sự cho
quốc-gia, thì thân của mình là thuộc về của quốc-gia, và của chung của
thiên-hạ, cái thân ấy không còn riêng về gia-đình nữa, vậy phải trọng sứ-mạng
của mình là thiêng-liêng, coi thân của mình nhẹ hơn hạnh-phúc của nhơn-sanh,
chính là con đường dìu người hành-chánh đi đến mức thành-công. Ðược như vậy thì
người cầm quyền đối với dân cũng như cha đối với con. Phải lo tu nhơn tích đức
cho dân được an-cư, dạy dân cho được khôn ngoan sáng-suốt, y như cha lo cho con
vậy.
Trái lại, làm những điều của dân ghét bỏ, và ghét
những điều của dân yêu chuộng, hoặc là ham muốn xa-hoa, lo cho thân của mình
được giàu sang vui sướng, ngoài ra mặc kệ dân khốn-khổ lầm than, ấy là
hành-động trái với lòng dân, thì người cầm quyền dầu có tài ba lỗi-lạc cũng
không tránh khỏi đi đến con đường thất bại.
Lẽ dĩ-nhiên là trị dân mà chẳng làm cho dân mến yêu
tin cậy, hành-động trái ngược khiến cho trăm họ đổi lòng tùng phục mà trở lại
oán ghét nghịch thù, thì người cầm quyền sẽ đem tai họa cho mình và cho nước.
Những Ðấng Minh-Quân đời trước, thương dân như con
đỏ, hằng chịu lao tâm tiêu tứ, để lo gầy tạo hạnh-phúc cho dân. Người trong
nước không kể sang hèn, hễ ai có tài có đức, thì đưọc cất nhắc lên làm quan
giúp nước trị dân. Vua với quan đều lấy sự ích nước lợi dân mà làm chủ đích.
Trên thân dưới như tay chơn đối với lòng dạ, dưới
thân trên như con trẻ đối với mẹ lành, vì sự thương yêu lẫn nhau mà mối nước
được vững bền, muôn dân âu-ca lạc-nghiệp.
Kết-luận, người cầm quyền chánh-trị cần phải có
đạo-đức, nếu không thật-hành theo đạo-đức, thì tức nhiên là chánh-trị hà khắc
bạo tàn, làm cho lòng dân ly tán vận nước khuynh nguy, dầu có lập hình-pháp
nghiêm trị thế nào, cũng không khắc phục được lòng dân.
Ðời nay văn-minh tấn bộ, nền văn-hóa mới lan tràn
trong nước, dường như phe tân-học quá thuyên về đường vật-chất, nên phần nhiều
người cầm giềng mối chánh-trị, chỉ biết quyền-hành chớ không muốn biết đến
nghĩa-nhơn đạo-đức.
Giữa xã-hội người ta thấy bao nhiêu sự bất-bình bực
tức, mạnh lấn yếu, chúng hiếp cô, vì lẽ thế lực kim tiền được tôn thờ sùng
kính.
Cái khổ của dân vì đó càng ngày chồng-chất thêm
mãi, mà chẳng biết kêu ca vào đâu, phải cam chịu phận thiệt-thòi mãn kiếp.
Cái thuyết cao-siêu của Ðức Mạnh-Tử là: "Dân
vi quí, xã-tắc thứ chi, quân vi khinh". Ngày nào mà thuyết ấy được
thật-hành trên mặt địa-cầu nầy, thì thế-giới sẽ đặng hòa-bình đại-đồng
nhơn-loại.
LUẬT
THƯƠNG-YÊU, QUYỀN CÔNG-CHÁNH
Ðức Chí-Tôn đã định luật thương-yêu và quyền
công-chánh tại mặt thế nầy, để cho những người nắm luật cai-trị chúng dân, phải
có lòng thương-yêu giáo-hóa chúng dân làm lành lánh dữ, như vậy trong nước mới
được thái-bình.
Còn người có quyền phải giữ phép công-bình
chánh-trực trong sự thưởng phạt phải cho được thông-minh (*1), thì đời mới đặng
lạc-nghiệp âu ca, chúng dân cọng hưởng huệ-ân hạnh-phúc.
Trái lại, người hành luật thì giam hãm chúng sanh
trong vòng thống khổ, kẻ cầm quyền lại hà khắc con dân thảm sầu ta thán.
Vì cớ mới nảy sanh phong-trào cách mạng, gây nên
đời loạn-lạc chiến tranh, ấy là tại những người cầm-quyền, hành luật không tùng
thiên-lý, chẳng thuận nhơn tâm, nên mới có tai nạn đao binh lan tràn khắp xứ.
Ngày nào luật thương-yêu và quyền công-chánh được
thật hành châu đáo, thì đời sẽ trở lại hòa-bình, phục hồi Nghiêu thiên Thuấn
nhựt. (Bài nầy Ðức Hộ-Pháp giảng)
(*1) Còn người có quyền phải giữ phép công-bình
chánh-trực trong sự thưởng phạt phải cho được công-minh (?),... ...
GIÁ-TRỊ
CỦA CON NGƯỜI
Con người sanh ra tại thế nầy, từ ngôi Thiên-tử
xuống tới hàng thứ-dân, giá-trị của mỗi người được cao trọng, hay là thấp hèn,
là do nơi sở-hành của người đào tạo. Hễ làm việc có đạo-đức nhơn nghĩa, biết
giữ lẽ công-bình, trên thuận tùng thiên-lý, dưới được lòng tín-nhiệm của chúng
dân, thì giá-trị đặng tôn-nghiêm cao trọng.
Còn làm những điều gì mà hại nhân ích-kỷ, độc ác
gian tham lương-tâm tán tận, vụ lợi bỏ nghĩa, thì danh thể giá-trị của con
người thấp hèn đê tiện.
Ðời xưa vua Nghiêu, vua Thuấn trị bình thiên-hạ là
nhờ giữ chánh tâm, thiệt hành bác-ái, khoan-dung đại độ, thưởng phạt phân minh,
cố tạo hạnh-phúc cho dân cọng hưởng.
Nghiêu Thuấn không lập luật hình, Võ Thang chẳng
tạo khám đường ngục thất, đời vô vi nhi trị thiên-hạ thái-bình do sở hành
đạo-đức nghĩa nhơn, mà giá-trị của vua Nghiêu, vua Thuấn sánh cùng Trời Ðất....
Còn vua Kiệt, vua Trụ cũng thời làm vua trong một
nước, vì bởi hành tàng bạo ngược sát hại trung lương, làm cho nhân tâm ly tán,
không kiêng luật Thiên-điều, cho nên thiên-hạ phê-bình là hôn quân vô đạo,
giá-trị thấp hèn cả chư-hầu đều khinh bỉ.
Luận qua các bậc văn thần võ tướng đời xưa, tên
tuổi vẫn còn nêu vào truyện sử, thì ai cũng được biết rõ: Quan-Công Hầu,
Nhạc-Phi, Bàng-Cử, Ðịch Vương-thân, Tiết Hiền-thần cùng các bậc tiền-vãng trong
nước Việt-Nam giá-trị cao thượng thế nào? Chẳng cần biện-bạch mà người đời
hoài-cảm ca tụng thương tiếc vô cùng.
Còn như Bàng-Hồng, Tôn-Tú, Tần-Cối, Trương-Huờn giá-trị
đê tiện ra sao, chẳng luận minh tả thì nhơn-sanh cũng chán biết đủ điều.
Trong buổi hiện tại nầy, những mày trung mặt nịnh
đã biểu lộ trên sân khấu của đời. Người thì tận tâm trung thành hy-sanh vì
Tổ-quốc, kẻ thì gian xảo bán nước hại dân, trải qua thời kỳ lệ-thuộc trên mười
(*1) năm, người chánh kẻ tà, lành dữ trắng đen, Việt-sử cũng còn ghi chép rõ,
để cho đoàn hậu-tấn so-sánh điều hay lẽ phải mà làm phương-châm tự lập thể
thống giá-trị của mỗi người, cho đặng tiến-hóa lên cao thượng, mới xứng đáng
một kiếp sanh trong vũ-trụ.
Trong nền Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ của Ðức Ngọc-Hoàng
Thượng-Ðế, hoằng khai trong nước Việt-Nam, trải qua trên bốn mươi năm, Chức-sắc
hành đạo giá-trị Thánh-danh cao thấp, cũng do nơi mỗi vị đào tạo, để lưu truyền
cho đàn hậu-tấn khen hay chê.
(*1) Chúng tôi nghĩ là 80 năm thì đúng hơn.
TRÍCH
LỤC NHO-GIÁO
YẾU-ÐIỂM
TRONG NGŨ-KINH
Ngũ-Kinh là: Kinh Thi, Kinh Thơ, Kinh Diệc, Kinh
Lễ, Kinh Xuân-Thu.
Mỗi một bộ kinh Ðức Thánh dạy, cốt yếu trong một
câu hay là một chữ, ta có thể do theo đó mà làm phương-pháp thật hành, thì cũng
như học suốt thông một bộ sách vậy.
1- Kinh Thi cốt yếu có một câu: "Thi, Tam bá thiên nhứt ngôn dĩ tế chi, viết tư
vô tà". Nghĩa là trong Kinh Thi có ba trăm bài, gồm lại một điều chủ tâm
đừng suy nghĩ những sự vạy tà sái quấy....
2- Kinh Thơ có 58 thiên cốt yếu là tại hai chữ chấp-trung, nghĩa là ta làm việc chi từ
lúc khởi đầu cho đến khi kết cuộc, phải giữ một mực thường, thỉ chung như nhứt
chẳng vì sự khó khăn mà thối chí ngã lòng, bán đồ nhi phế mọi việc làm cần phải
giữ bậc trung-dung, không thái quá mà cũng không bất cập, thì sớm muộn sẽ được
thành công.
Ðức Khổng-Tử: "Ngô Ðạo nhứt dĩ quán chi".
Ðạo của ta từ đầu suốt đến đuôi chỉ có một là thuận thiên-lý.
3- Kinh Diệc có 348 hào cần yếu là một chữ thời, thời là tùy thời
mà thuận theo, hay là chống lại.... và do theo thời thế biến đổi cho phù-hạp
thiên-lý, cùng thuận nhân tâm.
4- Kinh Lễ có 48 thiên chỉ dùng ba
chữ: "Vô Bất Kỉnh". Bởi lễ là chủ ư kỉnh, dầu ngồi trong nhà kín hay
là ở dưới hang sâu, lúc nào cũng xem như có các Ðấng Thiêng-Liêng ở trên đầu,
đã thấy rõ mọi sự hành-động của mỗi người lành hay dữ. Cho nên ta phải thành
kỉnh luôn luôn, ấy là người biết giữ Lễ.
Ðức Khổng-Tử nói: Lễ giả thiên địa chi tự giả, nhạc
giả thiên địa chi hòa giả. Lễ là trật-tự của Trời Ðất, còn nhạc là sự điều hòa
của Trời Ðất....
5- Kinh Xuân-Thu chép việc 242 năm, tóm lại là: khuyến thiện, răn
ác.
Ðức Khổng-Tử tác thành Kinh Xuân-Thu biên chép việc
đời hai trăm bốn mươi hai năm để lưu-truyền hậu thế.
Những điều lành sự dữ của các nhà vua, cùng các bậc
chư-hầu, khanh-tể, chỉ rõ hai điều: thưởng phạt, khen chê.
"Nhứt tự chi bao vinh ư hoa cổn,
Nhứt tự chi biếm nhục ư phủ việt".
Một lời khen thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua
ban cho, còn một tiếng chê nhục hơn bị tội xử bằng rìu búa.
Kinh Xuân-Thu, cốt-yếu là để dạy đời, khen đời và
chê đời.
Ðạo Cao-Ðài gọi là Nho-Tông chuyển thế, thì cần
phải thật hành theo giáo-lý của Ðức Khổng-Tử trong Ngũ-Kinh. Nếu mỗi người mà
giữ đặng các điều cần-thiết kể trên cho được vẹn toàn, thì danh-thể giá-trị sẽ
tiến lên cao thượng, để làm gương soi-sáng cho bước đường của đàn hậu-tấn noi
theo.
Ðạo Cao-Ðài hoằng khai từ năm Bính-Dần cho đến ngày
nay, trong hàng Chức-Sắc, Chức-việc và Ðạo-hữu nam nữ, cũng có nhiều người trọn
tâm trung thành với Hội-Thánh, dám chịu khổ-hạnh hy-sinh vì Ðạo. Mà cũng có kẻ
lợi dụng danh Ðạo, tạo gia-nghiệp riêng về phần cá-nhân, bất tùng luật-pháp,
phản loạn chơn-truyền, thất thệ nghịch Thầy phá Ðạo.
Hai lẽ chánh tà, trung nịnh, vẫn còn chép ghi vào
Sử-Ðạo để lưu-truyền thất ức dư niên. Cũng như bộ sách Xuân-Thu của Ðức
Khổng-Tử lưu-truyền từ cổ chí kim.
Thì những người đạo-đức nhơn-nghĩa, chánh-trực
công-bình, vì nước vì dân, vì Ðạo làm hữu-ích chung cho nhơn-loại được hưởng
nhờ, để làm gương cho đời hậu tấn, noi bước hành trình, và tránh những thói mị
tà gian tham xảo-trá đặng khỏi mang tại họa tội tình hành-phạt vi xủ vạn niên.
Trong Kinh Xuân-Thu phân biệt trắng đen, chánh tà,
phước họa đều rõ lý, để cho con người chọn lựa mà thật hành, làm thế nào cho
được danh thơm tiếng tốt lưu truyền, vạn đại thiên-thu mới xứng đáng một kiếp
sanh hữu duyên gặp Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ.
NHƠN-NGHĨA
ÐẠO-ÐỨC
Thầy Mạnh-Tử yếu dụng hai chữ nhơn-nghĩa không nói
đến việc lợi, Ngài đi tới nước nào cũng giảng đạo-đức, thuyết nhơn-nghĩa.
Ngài nói: Tiên nghĩa hậu lợi là chánh, còn vụ lợi
bỏ nghĩa ấy là mị tà.
"Nhơn, nhân chi an trạch dã,
Nghĩa, nhân chi chánh lộ dã".
Ðiều nhơn là cái nhà yên
ổn của người ta vậy, điều nghĩa là cái đường chánh đại quang-minh của người ta vậy.
"Khoáng an trạch nhi phất cư, xá chánh lộ nhi bất do ai tai".
Ðể không cái nhà yên ổn, mà chẳng ở, bỏ cái đường
chánh mà không noi theo, khá thương thay!
Hai chữ Nhơn-Nghĩa đại-ý:
* Nhơn là từ-bi, bác-ái,
* Nghĩa là công-bình, chánh-trực.
Ngày nào nhơn-sanh hiệp nhứt tâm thật hành
nhơn-nghĩa cho được hoàn toàn, thì mới thấy tinh-vi hiệu quả.
ÐẠO-ÐỨC
Ðạo lẽ phải nhứt định, ấy là một con đường cái
người ta phải do theo đó mà đi, Ðạo giả đại lộ dã.
Ðức là làm theo lẽ phải mà đặng vừa lòng thích ý
tất cả mọi người.
Ðạo-đức là căn bản của con người. Do theo sách
Trung-Dung nói chữ Ðạo là: Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo, tùng
đạo chi vị giáo, đạo giả dã bất khả tu du lỵ giả, lỵ giả phi đạo dã. Nghĩa là:
Trời ban cho con người một cái tánh lành, đem sự lành thi thố ra gọi là đạo, do
theo đạo-lý mà dạy người, gọi là giáo-hóa nhơn-sanh.
Ðạo chẳng rời trong tâm giây phút nào, nếu để cho
đạo lìa xa lòng người, thì chẳng phải đạo mà cũng chẳng nên người. Làm việc gì
thuận thiên-lý là có đạo, còn trái với thiên-lý là phi đạo dã.
Ðức là nguồn cội của con người, có đức dày thì bền
vững trường tồn, nếu thất đức thì chinh nghiêng xiêu đổ. Ví như cây có rễ nhiều
thì đứng vững chẳng sợ gió giông, còn cây không rễ lúc bảo tố tự nhiên phải
trốc gốc.
Lập đức là thi ân tế chúng cứu độ sinh-linh, làm
việc gì có lợi-ích chung cho nhân-quần xã-hội, thiên-hạ được vui mừng là có
đức. Còn làm việc chi lợi riêng cho mình, mà hại người, sanh chúng bất bình kêu
ca thán-oán, ấy là điều tổn đức bất nhơn vô đạo.
Ðạo-đức là sở hành của người quân-tử, nếu không có
chí quân-tử, thì chẳng thế nào vẹn toàn đạo-đức.
ÐẠI-ÐẠO
TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ
ÐẠI-ÐẠO là nền Ðạo lớn Trời khai kỳ thứ ba, phô bày
chơn-lý độ rỗi nhơn-sanh khắp cả thế-giới.
Ðại-Ðạo là một con đường "Thiên-Linh" để
cho các phẩm chơn hồn nguyên-nhân hạ trần, do theo đó mà phục hồi cựu-vị, và
các bậc hóa-nhân cũng noi theo con đường ấy mà tiến lên đạt thành địa-vị cao
thấp là tùy nơi công-nghiệp.
Luận về thường thức, Ðại-Ðạo là: "Ðại lộ giả
nhân sở cọng do". Ðạo là con đường rộng lớn, để cho mỗi người đều đi trên
con đường ấy mà tiến-hóa lên cao thượng.
TAM-KỲ
PHỔ-ÐỘ
Nhứt-Kỳ Phổ-Ðộ: Tý Hội Thượng-Nguơn Khai Ðạo.
Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ: Sửu Hội Trung-Nguơn Khai Ðạo.
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ: Dần Hội Hạ-Nguơn Khai Ðạo.
Ðạo Cao-Ðài hoằng-khai năm Bính Dần 1926, gọi là
Hạ-Nguơn tái tạo, phục hồi Thượng-cổ.
Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ hồi đời nào? Mà ngày nay
Ðạo Cao-Ðài xưng rằng Tam-Kỳ Phổ-Ðộ?
■ Nhứt-Kỳ Phổ-Ðộ từ đời Bàn-Cổ, Văn-Tuyên Ðế-Quân
lập Ðạo Thánh tại Trung-quốc. Qua đời Ngũ-Ðế Ðức Thái-Thượng Ðạo-Tổ lập
Tiên-giáo tại Trung-Nguyên.
Ðức Nhiên-Ðăng Cổ-Phật lập Phật-Giáo cũng tại
Trung-Nguyên.
■ Trải qua tới Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ, Ðức Lão-Tử lập
Tiên-giáo tại Trung-Hoa, giáng-sanh vào đời nhà Thương, vua Võ Ðinh năm Dậu,
ngày 15 tháng 2.
Ðức Thích-Ca lập Phật-Giáo tại Ấn-Ðộ Tây
Thiên-Trước, giáng sanh vào đời nhà Châu, vua Chiêu-Vương, năm thứ 24 tháng 4
ngày mồng 8.
Ðức Khổng-Phu-Tử lập Nho-Giáo tại Trung-Huê, giáng
sanh vào đời nhà Châu, vua Linh-Vương, năm Kỷ-Dậu, ngày 15 tháng 9.
Còn Gia-Tô Giáo-Chủ cũng mở Ðạo Thánh bên Thái-Tây,
ấy là Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ. Cũng lậpTam-giáo Nho, Thích, Ðạo dạy nhơn-sanh làm phải
làm lành tu tâm dưỡng tánh.
■ Nay đến buổi Hạ-Nguơn hầu mãn, Ðức CHÍ-TÔN dùng
huyền diệu cơ-bút khai Ðạo Cao-Ðài, chuyển Tam-Giáo qui nguyên, Ngũ-Chi phục
nhứt cho theo lẽ tuần-huờn của Tạo-hóa, gọi là Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Ðức CHÍ-TÔN tuyển
chọn 3 vị Phật, Tiên, Thánh thay mặt cho Tam-giáo, cầm quyền Tam-Trấn
Oai-Nghiêm:
1 . Thường cư Nam-hải Quan-Âm Như-Lai.
2 . Lý Ðại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Ðại-Ðạo
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ.
3 . Hiệp-Thiên Ðại-Ðế Quan-Thánh Ðế-Quân.
Bởi ba Ðấng Phật, Tiên, Thánh trong thời-kỳ cận đại
mà toàn thể nhơn-sanh đều rõ biết hạnh-đức từ-bi quảng đại Linh-Quan Thế-Âm
Bồ-Tát cứu khổ cứu nạn. Ðức Lý Ðại-Tiên cầm quyền thưởng phạt phân minh, thừa
hành mạng lịnh Ðức CHÍ-TÔN xây cơ chuyển thế.
Ðức Quan-Thánh Ðế-Quân, trung cang nghĩa khí,
chánh-trực công-bình, Ngài chú trọng bộ Xuân-Thu nối chí của Ðức Văn-Tuyên
Khổng-Thánh.
Ba vị kể trên tài đức hoàn toàn, đủ phương-diện độ
đời đáng roi gương cho thiện nam tín nữ.
Ðức CHÍ-TÔN hoằng-khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, là
một nền Tôn-giáo trong kỳ thứ ba, phổ truyền chánh-pháp độ tận 92 ức
nguyên-nhân phục hồi cựu-vị, và cứu vớt chúng sanh thoát khỏi chốn trầm luân
khổ hải, lập đời minh-đức tân-dân chỉ ư chí-thiện.
TÔN-CHỈ
ÐẠO CAO-ÐÀI
Là qui Tam-giáo, hiệp Ngũ-Chi.
Tam-giáo là: Nho, Thích, Ðạo.
Ngũ-chi là: Nhơn-Ðạo, Thần-Ðạo, Thánh-Ðạo,
Tiên-Ðạo, Phật-Ðạo.
ÐỨC-TIN
Ðức-tin con người chia ra làm ba phương-diện:
1-Tự-tín, 2-
Tha-tín, 3- Thiên-tín.
■ Tự-tín
là: mình tin nơi sở-hành và năng-lực của mình có thể bảo-đảm cái đời sống cùng
giá-trị của mình được vững bền trường-cửu.
Con người từ ấu thơ cho đến trưởng thành những lời
của cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho tới sự ở đời giao-thiệp với nhơn-quần
xã-hội thì việc nào phải, trái nên hư, lợi, hại cha mẹ đều chỉ vẽ phân-minh. Ta
do theo đó mà làm bài học vỡ lòng, và ghi nhớ lời giáo-hóa của cha mẹ để làm
căn bản.
Ngoài ra sở-hành của ta làm những điều gì có
đạo-đức nhơn nghĩa, mà được thiên-hạ ngợi khen và thương yêu kính mến thì ta
noi theo đó mà làm phương-pháp thực hành. Còn điều nào của ta làm mà quần chúng
cười chê, khinh bỉ, thì ta phải chừa bỏ ra liền, được như vậy thì đủ đức-tin
rằng: sở hành của ta sẽ bảo tồn. Giá-trị của ta được cao trọng, ấy là tự-tín.
■ Tha-tín là:
tin nơi người khác, trước là tin ông thầy dạy ta học, những kinh sách của
Thánh-Hiền lưu lại ta noi theo đó mà lập thân cho nên người hiền-lương đạo-đức.
Lại nữa ta phải Quang tiền dũ hậu là vẻ-vang được sự-nghiệp người xưa dành để
cho đời sau đầy-đủ trong xã-hội, chẳng phải họ cố ý dạy ta. Nhưng ta suy-xét
công việc của họ làm những điều gì có nghĩa có nhơn được nhiều phước đức,
thiên-hạ hoài cảm ca tụng hoan-nghinh, thì ta học theo các điều ấy mà làm. Còn
họ làm việc chi hại nhơn ích kỷ bất nghĩa vô lương phạm tội với luật đời, sanh
chúng nghịch thù oán ghét, thì ta truất bỏ các điều tình tệ ấy ra không nạp
dụng, làm người mà biết suy độ như thế, gọi là có kiến-thức ấy là tha-tín.
Tự-tín và tha-tín chưa đủ, cần phải có thiên-tín,
thì mọi sự mới được hoàn-toàn.
■ Thiên-tín
là: trọn tin nơi Trời là một Ðấng CHÍ-TÔN chủ-tể Càn-khôn Thế-giới, có đủ quyền
linh mầu-nhiệm bảo hộ sanh mạng của nhơn-loại trong vũ-trụ, những người biết
thuận tùng thiên-lý thì hằng còn.
Trời cầm luật công-bình lành thưởng dữ răn. Còn
người có đủ đức-tin nơi Trời, thì đọc hai câu trong bài Ngọc-Hoàng Kinh rõ
biết:
Càn-kiện cao-minh vạn-loại thiện ác tất kiến,
Huyền phạm quảng đại nhứt toán họa phước lập phân.
Nho-giáo có câu: Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất
lậu. Lưới Trời lồng-lộng thưa mà chằng lọt. Những người được hiểu quyền linh
của Trời thì không bao giờ dám làm một điều gì trái với nhơn-tâm.... Mọi
hành-vi phải thuận tùng Thiên-lý, noi theo đức háo sanh là từ-bi bác-ái
chánh-trực công-bình, dụng đạo-đức nhơn-nghĩa mà làm phương-châm thực hành, thì
Trời ban cho ân-huệ được vẹn toàn hạnh-phúc.
Hoàng thiện bất thân duy đức thị phụ. Ngày nào chư
đạo-hữu và tất cả nhơn-sanh, làm y theo ba phương diện: tự-tín, tha-tín, và
thiên-tín cho đặng châu đáo thì con người sẽ trở nên chí-thiện, đời phục hồi
trật-tự an-ninh, nhơn-loại chung hưởng hồng-phước của Trời ban cho, trong
thế-giới sẽ được thái-bình trường cửu.
BỔN-PHẬN
TÍN-ÐỒ
Bổn phận ngưòi tín-đồ trong nền Ðạo, phải có đủ
đức-tin và trọn tâm trung thành với Ðạo. Mọi việc hành-vi phải đồ y theo khuôn
viên luật-pháp của các Ðấng Thiêng-Liêng và Hội-Thánh truyền dạy, chẳng nên
canh cải chơn-lý của Ðạo, cần phải giữ lời minh-thệ khi mới nhập-môn, trước sau
như một không đổi dạ thay lòng, tin theo giáo-lý mà thật hành, chẳng vì
khổ-hạnh mà thối chí ngã lòng nửa đường bỏ Ðạo.
Ví như một người học trò vào trường thì phải
tín-nhiệm và cung kỉnh vâng lời của vị giáo-sư chỉ dạy. Chuyên lo học tập cần
mẫn, thức khuya dậy sớm, nấu sử xôi kinh trải qua mười năm công-phu cực nhọc,
mới có thể thi đậu cấp bằng tốt nghiệp ra làm việc giúp ích cho nước nhà lập
nên danh phận hiển Tổ vinh Tông.
Còn những người nhập-môn theo Ðạo Cao-Ðài, thì gọi
tín-đồ, tức là môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN, phải giữ tâm thành đức vẹn, nhứt là tuân
theo Thánh-giáo, và luật-pháp Chơn-truyền của Ðạo mà thi-hành cho tròn
bổn-phận. Ngoài ra còn phải siêng năng lập công-quả cho đầy-đủ và học hỏi cho
được lảu thông kinh sám, thì mới có thể tiến-hóa lên vào hàng Chức-việc cùng
Chức-Sắc.
Trái lại kẻ học sanh vào trường mà không tuân theo
lời dạy của thầy thì dầu học kể cho nhiều năm cũng không thế thi đậu cấp-bằng
cao đẳng. Người nhập-môn vào hàng tín-đồ của Tôn-giáo mà chẳng thiệt hành theo
khuôn viên của Ðạo thì tu đến trọn đời cũng khó mong đắc Ðạo. Ngày nào toàn thể
chư môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN mà cố tâm thực-hành cho được vuông tròn bổn phận hai
chữ tín-đồ thì nền Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ sẽ tiến triển cao siêu vô đối.
Khuyên
giữ cho tròn phận tín-đồ,
Ðêm
ngày khá niệm chữ Nam-Mô.
Trước
sau như một không dời đổi,
Giữa
biển chờ khi gặp Lão-Tô.
GIẢNG-ÐÀI
TÒA-THÁNH
Chức-Sắc Thiên-phong Thuyết Ðạo trên giảng đài
Tòa-Thánh, trải qua mười lăm năm giải thích đủ các đề-tài nào là đạo-đức nhơn
nghĩa, từ-bi, bác-ái, chánh-trực, công-bình, thương-yêu, liên-lạc, thuận-hòa,
khiêm-cung, nhẫn-nại, vân vân.
Kể ra phương châm giáo-hóa cũng đầy-đủ lắm rồi.
Nhưng tiếc vì chư đạo-hữu thật hành chưa được châu đáo theo các đề-mục kể trên.
Hôm nay xin ôn lại hai điều cần:
Một là: Ngôn cố hành.
Hai là: Hành cố ngôn.
Lời nói phải đoái lại việc làm, mà việc làm cho
đúng lời nói.
Ví-dụ: nói tôi là người tu, thì phải làm thế nào
cho ra vẻ người hiền-lương đạo-đức, ngôn từ hòa-nhã, hạnh-kiểm trang hoàng, đủ
tư-cách là người ở trong nền Tôn-giáo, mới xứng đáng gương mẫu cho đàn hậu tấn
noi theo.
Nếu nói rằng: tôi là người tu, mà còn tranh danh vụ
lợi xu-hướng theo thói thường tình, không chừa bỏ tánh tham, sân, si, cử chỉ
thắc-mắc, khó-khăn thiếu lòng bác-ái công-bình thì trái ngược với bổn phận của
người tu, ấy là việc làm không y theo lời nói, thì tự nhiên mất cả uy-tín làm
cho người đời khinh bỉ cười chê.
Nên giữ lời nói với việc làm phải phù hạp cùng
nhau, mới có đủ tư-cách làm người cao thượng.
Hiện nay có một ít người cũng tự xưng là tín-đồ
trong Ðạo Cao-Ðài, mà sở-hành chẳng noi theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN, không
giữ theo luật-pháp chơn-truyền của Ðại-Ðạo, ấy là nói một đường mà làm một ngã,
không nhớ khi quì trước Thiên-Bàn lập thệ rằng: Hiệp đồng chư môn-đệ, gìn
luật-lệ Cao-Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục.
Chư Ðạo-hữu nên ôn lại sở-hành của mình có giữ theo
luật-lệ của Ðạo hay không? Xin ghi nhớ đại-cương trong Tân-Luật dạy: những
người nhập-môn phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày là bực chót.
Còn lễ sóc vọng mỗi tháng hai kỳ ngoại trừ khi có bận
việc hoặc là đau ốm thì được chế giảm như thế chẳng phải khó-khăn gì mà làm
không đặng.
Nếu chẳng thật-hành cho trọn lời minh-thệ, thì tức
nhiên là kẻ giả dối với Ðức CHÍ-TÔN, kết cuộc phải chịu luật Thiên-điều
trừng-trị, chừng ấy dầu có ăn-năn hối-hận thì đã muộn rồi, đáng tiếc cho một
kiếp sanh làm người hữu duyên ngộ Ðạo, mà không được chung hưởng ân huệ của
Trời Phật ban cho, là tại bởi sở-hành chẳng y theo lời nói.
Tóm lại: Chư Ðạo-hữu bất luận làm những việc gì cần
phải suy-xét, coi có y theo Chánh-giáo của CHÍ-TÔN và luật-pháp chơn-truyền của
Ðạo hay không, nếu nhận thấy sở-hành của mình còn sai suyển, thì nên sửa cải
liền, đừng để cho người chỉ trích mà phải chạm lòng tự-ái, có khi nảy sanh câu
chuyện không hay.
Nhứt là lời nói đối với việc làm phải tương-liên mật thiết cùng
nhau thì mọi sự được thành công
kết quả khỏi mang câu: Năng thuyết bất năng hành./.
CHUNG
GIẢNG ĐẠO CHƠN NGÔN
Soạn giả THÁI ĐẾN THANH
Ấn hành năm Tân Hợi 1971
In tại nhà in LÊ THÀNH
- LONG HOA TÂY NINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét