Giảng Đạo Chơn Ngôn 2 /2 (Thái Ðến Thanh)

PHƯỚC VÀ TỘI
Con người sanh ra trên mặt thế nầy, hạn định bách tuế chi kỳ mà chưa từng thấy ai được sống đủ đầy trăm tuổi, thiết tưởng trong thời kỳ chiến-tranh loạn-lạc, thì bất luận già trẻ cũng có thể chết một cách dễ-dàng.

Vậy thì lẽ phải của con người, nên làm những điều gì cho có phước đặng hưởng sự vui-vẻ tương lai, chẳng nên làm việc chi phạm tội, rồi kết cuộc phải ăn-năn hối hận, dầu có kêu than cũng đã muộn.
Nên nhớ câu sách Nho dạy rằng: "Ô hô! Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhứt đáng vô thường vạn sự hưu".

Than ôi! Ba tấc hơi còn thì ngàn việc cần dùng tranh danh đoạt lợi, chẳng may đến buổi vô-thường muôn việc đều thôi chỉ đem theo xuống chốn dạ đài có hai món phước và tội.

Trong Kinh Sám-Hối có câu:
Người lương thiện ra vào thong-thả,
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh.

Sở hành của con người làm thế nào mà được phước, còn làm sao mà bị tội?
Tổng luận từ trong gia-đình, xã-hội cho đến Tôn-giáo các khoản như sau:

1- Trong gia-đình những người con mà được hưởng phước của cha mẹ ban cho, thì người con ấy biết nghe lời cha mẹ dạy bảo, hằng lo trông nom bồi-bổ mọi sự trong gia-đình, tức là người con chí hiếu. Còn đứa con mà bị tội, là bất tùng giáo-hóa, không tuân lời cha mẹ khuyên răn, phóng tâm du-đảng theo cờ bạc điếm-đàng, làm cho cha mẹ lắm nỗi thảm sầu, thiên-hạ cười chê khinh bỉ, ấy là đứa con bất hiếu đã không được hưởng phần hương hỏa, mà còn bị tội là con giặc trong gia-đình.

2- Trong quốc-gia xã-hội có văn thần, võ tướng, những vị nào được hưởng phước lộc của chánh-phủ ban cho, thì vị quan ấy là bậc trung thành, dám hy-sinh với Tổ-quốc, gầy dựng cơ nghiệp nước nhà, tạo hạnh-phúc cho giống nòi chung hưởng như thế mới có phước đức lưu tồn.

Bổn phận làm dân trong nước phải tuân theo luật-lệ của chánh-phủ, thật hành y theo lịnh của nhà cầm quyền trong địa phương truyền dạy.

Sưu đi thuế đóng cho tròn bổn-phận lương dân mới là có phước.

Còn làm dân mà bất tùng luật-pháp quốc-gia, trốn xâu lậu thuế, gian tham trộm cướp không kiêng phép nước, thì phải chịu tội tù ấy là lẽ tự nhiên cổ kim như thế.

Luận qua trong Tôn-giáo Cao-Ðài, từ hàng phẩm Chức-Sắc Thiên-Phong cho tới Chức-việc và Ðạo-hữu nam nữ, những người tận tâm trung thành vì Ðạo, thật hành y theo luật-pháp chơn-truyền, trọn tuân Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN cùng các Ðấng Thiêng-Liêng chỉ dạy, biết trọng mạng lịnh của Hội-Thánh ban hành, dầu gặp việc hi-sinh vì Ðạo cũng chẳng thối chí ngã lòng, ấy là người trọn tâm phụng thờ Tôn-giáo.

Trên thuận với lòng Trời, dưới nhơn-sanh đồng tín nhiệm, thì sẽ được hưởng phước của Ðức CHÍ-TÔN ban cho, đạt thành phẩm vị Thiêng-liêng siêu thoát.

Còn những kẻ lợi dụng danh Ðạo, tạo hạnh-phúc riêng về phần cá-nhân, thì mọi sự hành-động đều trái với luật-pháp khuôn viên của Ðạo, làm nhiều việc bất nghĩa vô nhân, mưu sâu chước độc, phá Ðạo hại người, phản loạn chơn-truyền bất tùng Thiên-lý, ấy là kẻ tội nhơn trong nền Tôn-giáo, phải chịu luân-hồi chuyển kiếp trả quả tiền khiên, do theo lẽ công-bình thưởng răn của Tạo-hóa.

Muốn biết phước và tội, thì xem cả hành-vi của con người, bất luận làm những việc gì có lợi ích chung cho đồng loại, được thiên-hạ kính mến ca tụng, do sở hành của mình mà mọi người được hưởng nhờ ấy là phước.

Trái lại, làm điều chi mà hại nhơn ích kỷ, sanh chúng bất bình, kêu ca thán oán, bởi việc làm của mình mà thiên-hạ phải chịu thảm sầu đau khổ, ấy là kẻ đại tội trên thế gian.

Ngày nào nhơn sanh biết tìm những việc có phước đức mà thật hành, tránh xa mọi điều tội ác, được như vậy thì đời sẽ trở nên thuần-phong mỹ-tục, gia vô bế hộ, lộ bất thập di nhà không đóng cửa, đường chẳng ai lượm của rơi, thiên-hạ cọng hưởng thái-bình, tức là phục lại đời Thánh-đức.
TU-HÀNH VÀ HỌC-HÀNH

Tu-hành và học-hành, ấy là cái thể với cái dụng. Tu gõ mỏ tụng kinh niệm Phật là cái thể, cố tâm thật-hành theo lời của Phật dạy trong kinh mới là sở-dụng.

Học, đọc sách viết vở làm bài là cái thể, chỉ có thi hành theo lời dạy của Thánh-Hiền thì mới là hữu dụng.

Có câu: "Tụng kinh giả minh Phật chi lý". Tụng kinh là cần hiểu rõ giáo-lý của Phật, mà làm y theo mới có hiệu quả, chớ không phải tụng kinh niệm Phật lần chuổi mà đắc đạo.

Cũng như câu: "Nhứt cú Di-Ðà vô biệt niệm, bất lao đàng chỉ đáo Tây-Phương". Nghĩa là một câu lục tự Di-Ðà cứ niệm hoài, thì chẳng nhọc khảy móng tay cũng đến cảnh Tây-Phương.

Câu nói mới nghe qua thì sự hành đạo rất dễ, nhưng phải hiểu ý-nghĩa lục tự Di-Ðà là thế nào? Và thật-hành theo cho châu đáo, thì mới mong mỏi về đến cảnh Tây-Phương.

Nói về Nho-Giáo thì có câu: "Tạo chúc cầu minh, độc thơ cầu lý, minh dĩ chiếu ám thất, lý dĩ chiếu nhơn tâm". Ðốt đèn đuốc để cầu ánh sáng, còn đọc sách để kiếm hiểu chơn-lý, cái ánh sáng để rọi trong nhà tối, ý-nghĩa trong sách để soi vào lòng người cho được thông-minh.

Ðức Khổng-Tử dạy rằng: "Vi thiện tối lạc, Ðạo lý tối đại". Làm lành rất vui, đạo lý rất lớn, thì người có học ai cũng biết như vậy, mà tại sao không chịu làm lành đặng hưởng sự vui-vẻ, để làm những điều tàn bạo gian tham, mà phải bị các tội tình rồi ăn-năn thảm sầu hối hận.

Ðã biết Ðạo-lý là rất trọng mà chẳng chịu làm, để xu hướng theo điều bất nghĩa vô nhơn, có phải tại người chỉ có tu có học bề ngoài, mà trong tâm không thật hành nên mới ra nông nổi.

Luận về Ðạo Cao-Ðài thì toàn thể môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN, khi vào nơi Bửu-Ðiện đãnh lễ, trước hết tay bắt ấn Tý để lên trán niệm: Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng, ấy là Tam-qui: Qui-Y Phật, Qui-Y Pháp, Qui-Y Tăng, thì ta phải noi theo cả hành-vi của Phật, từ-bi bác-ái, tế độ chúng sanh. Lại nữa phải trọn tuân theo luật-pháp chơn-truyền của Ðạo và làm thế nào cho tròn bổn phận tín-đồ trong nền Ðạo-giáo, mới xứng đáng là môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN.

Trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ-Tổ, ta nên chủ tâm ghi nhớ một câu:
"Trong Tam-giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải làm lành".

Ðã trải qua ba mươi năm trường, nếu toàn Ðạo nam nữ mà cố tâm thi-hành cho được vuông tròn một câu đó, thì hiện nay Hòa-Viện không còn phân xử tội-tình của ai nữa. Bởi vì mỗi người đã biết làm phải làm lành, thì có điều chi mà phạm vào luật Ðạo, được như vậy mới tròn bổn-phận người tu-hành đạo-đức.

TRIẾT-LÝ CHỮ TÂM

Tâm là vi chủ tất cả châu thân của con người, nên hư phải trái đều do nơi tâm chủ trương sở định.

Làm người biết chú trọng lương-tâm, tức là biết kỉnh thờ Trời. Có câu: "Tồn tâm dưỡng tánh sở dĩ chi sự Thiên", gìn-giữ bổn tâm chơn tánh cho chẳng phóng túng mà làm các điều sái quấy, mới gọi là biết thờ Trời vậy.

Trời chẳng phải cao, mà cũng chẳng phải xa, chính thiệt ở nơi lòng người, lòng người có tín-ngưỡng thì Trời Ðất ắt biết đó.

"Phi cao diệc phi viễn đô chỉ tại nhơn tâm, nhơn tâm sanh nhứt niệm Thiên Ðịa tất giai tri".

Vậy con người chẳng nên khinh dễ bản tâm, mà phải đắc tội với Trời.

Có câu: "Khi kỳ tâm tất tự khi kỳ Thiên, Thiên bất khả khi hồ".

Người tu-hành đắc đạo cùng chăng, là do nơi tâm biết giác ngộ thì được siêu-thoát, con tâm mờ-hồ si-mê thì phải chịu luân-hồi chuyển kiếp.

Có câu: "Vạn sự do tâm tạo". Muốn việc chi thảy đều có kết-quả, là tại sự tư-tưởng của lương-tâm. Hễ tâm tư-tưởng việc chánh đáng công-bình, thì thân thể đặng thung-dung nhàn lạc, tức là Bồng-Ðảo Niết-Bàn tại thế. Còn tâm vọng động những điều vô-nghĩa vô-nhân gian ác bạo tàn, thì thân thể phải chịu mọi điều thảm khổ. Cho nên con người cần phải biết kỉnh trọng linh-tâm, nhứt là làm những việc gì, trước khi khởi sự thực-hành ta nên trầm tỉnh xét suy cho đáo để và phải nhớ hỏi lại chủ-nhơn Ông (tức là linh-tâm) thì mọi sự phải trái thiệt hư tâm đều chỉ rõ....

Trong Tam-giáo: Nho, Thích, Ðạo dạy phép tịnh luyện cũng dùng chữ Tâm.

Ðức Khổng-Tử dạy tồn tâm, yếu-dụng hai chữ trung-thứ. Ðức Thích-Ca dạy minh tâm, thiệt hành hai chữ từ-bi. Ðức Thái-Thượng dạy tu tâm, chú trọng hai chữ cảm-ứng. Bởi sáu chữ: Trung-thứ, Từ-bi, Cảm-Ứng đều có trùng tâm. Chữ tâm là: "Tam điểm như tinh tượng, hoành câu tợ nguyệt tà, phi mao tùng thủ đắc tố Phật giã do tha". Ba chấm như tượng hình sao, giòng ngang giống như trăng xiên, dỡ lông theo ấy đặng thành Phật cũng bởi tâm mà nên.

"Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm". Muốn tu thân cho nên người hiền-lương đạo-đức, thì trước phải sửa lòng cho được ngay thẳng "Tương tâm tỉ tâm tiện thị Phật tâm". Ðem cái lòng của mình mà sánh với cái lòng của người ấy là cái lòng nhơn từ, cũng như lòng Phật vậy.

Làm người mà biết bảo thủ lương-tâm, thì mới đủ tư-cách làm người cao thượng, đời trở nên tận thiện.

Còn người tu-hành mà biết trau-giồi tâm đức cho được kiên cố vững bền, thì mới đặng thành-công đắc đạo.

THÁNH-GIÁO
ÐỨC CHÍ-TÔN

Bạch-Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng cần hạ giới vọng cao ngôi.
Sang hèn trối kệ tâm là quí,
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.

Tâm ấy là Trời chớ dễ tâm,
Phải trau cho sạch điểm lương-tâm.
Ngôi Trời tâm ấy là nơi dựa,
Mình biết tâm, tâm mới biết tâm.

Ðạo cao thâm, Ðạo cao thâm,
Cao bất cao, thâm bất thâm.
Cao khả xạ hề thâm khả điếu,
Cao thâm vạn sự tại nhơn tâm.

Tâm an mao ốc ổn,
Tánh định thể căng hương.

DIỆT TẬN PHÀM-TÂM

Giáo-lý của nhà Phật, cần yếu là diệt tận phàm tâm tham, sân, si. Người tu hành đạo-đức mà còn tích trữ lòng tham, thì không khi nào siêu phàm đạt Ðạo.

Bổn-phận của người tu là xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần, chưa từng thấy một vị Phật nào mà còn tham lam của thế-gian. Người đời vì tham quyền lợi mà giết hại lẫn nhau, gây thù kết oán cũng vì tham....

Sân là giận hờn gây-gổ cải-cọ, tánh tình nhỏ mọn, thắc-mắc khó khăn, độ-lượng hẹp hòi, thiếu lòng từ-bi bác-ái thì mất đức-hạnh người tu, tự nhiên phải lánh xa cửa Phật.

Con người vì tánh sân mà xảy ra lắm điều oan-nghiệt có khi dứt tình thân-ái nghĩa-nhơn cũng vì sân.

Si là mê-tín dị đoan, đụng đâu nghe đó, không phân biệt đường chánh lẽ tà, nên phải lầm vào Bàn-môn Tả-đạo không thoát khỏi bến mê.

Ðạo-đức tinh thần là phương thức tỉnh nhơn-sanh, người tu-hành mà không phát huệ-tâm, thì cũng khó mong thành chánh quả.

Giáo-lý của nhà Phật, thì người tu cần phải diệt tận phàm tâm, tức là trừ bỏ tánh tham, sân, si, thì mới có thể siêu phàm đắc đạo.

"Nhơn dục tịnh tận, Thiên-lý lưu hành". Lòng dục vọng của con người lặng-lẽ, thì đường Thiên-lý phát khởi quang minh.

Con người giữ được Thánh-tâm cho thanh tịnh mới rõ biết đường Thiên-lý, thì phàm-tâm nhơn dục không nảy sanh. "Tịnh tịnh thường lạc cố viết Niết-Bàn". Thánh-tâm thanh tịnh an vui, thì gọi là cảnh Niết-Bàn Cực-Lạc.

GIẢI-THÍCH TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG

Tam-Cang Ngũ-Thường tức là điều-mục của Nho-giáo, lại là một vai tuồng đặc biệt của nam nhân, cần phải thật hành cho vẹn toàn bổn-phận.

Tam-Cang là: Quân-thần, Phụ-tử, Phu-phụ. Vua tôi, cha con, chồng vợ; Chúa ở với tôi có đạo-đức, thì tôi thờ chúa mới tận kỳ trung; Cha ở với con từ-thiện, thì con thờ cha chí hiếu; Chồng giữ trọn nghĩa với vợ, thì vợ phải thủ tiết thờ chồng ấy là Tam-cang tức là đời có Ðạo.

Còn đời thất chánh vô nhơn đạo, thì phong-hóa suy tồi nhân tâm bất cổ, đạo-đức sai dời lòng người chẳng giống xưa. Luật Tam-cang chẳng giữ, phép Ngũ-thường không noi, Vua vô đạo, tôi bất trung, cha chẳng lành con chẳng thảo, chồng không giữ nghĩa với vợ, vợ lại thất tiết với chồng. Anh em không thuận hòa, xóm riềng chẳng có tình thương-yêu liên-lạc cùng nhau, luân-lý cang thường đều nghiêng đổ, tức là đời Hạ-nguơn cuối cùng mạt kiếp.

Ngũ-thường là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

1- NHƠN là trắc ẩn chi tâm, ái vật chi lý, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức. Lấy lòng nhơn phóng xá cho loài vật, đặng phần sống sanh hóa như loài người, mới có lòng từ-bi bác-ái gọi là nhơn....

Chữ nhơn là nhân đứng bằng chữ nhị, nhân là người, nhị là hai. Làm người phải giữ cho đặng trọn hai phần, một là đối với Trời Ðất, thì phải noi theo phép công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thuận tùng Thiên-lý. Hai là đối với người, vật, thì phải giữ lòng đạo-đức, thương người mến vật, trợ cấp phò nguy mới trọn lòng nhơn ...

Theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN:
Nhơn là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan.
Dân trí có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ-quan.

Tu nhơn thì thành Thần; niệm nhơn thì thành Thánh; hành nhơn thì thành Tiên; đắc nhơn thành Phật

2- NGHĨA là Nhứt thảo nhứt mộc, các hữu kỳ chủ, cả thảy mọi vật đều có chủ, cấm chẳng đặng gian tham ham muốn của người, mà làm cho thất nghĩa.

Chữ nghĩa là toàn ngã hiệp thành, chữ toàn là trọn, chữ ngã là ta, hiệp lại thành chữ nghĩa, làm người giữ trọn cùng ta thì nên nghĩa, còn chẳng trọn cùng ta là thất nghĩa. Muốn thật hành chữ nghĩa, thì phải noi theo câu: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn". Những việc gì ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu thì ta không nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa.

Chữ nghĩa bao hàm rất lớn thay. Như là nghĩa cha con, nghĩa thầy trò, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ tư-cách làm người cao trọng.

Chữ nhơn và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có hai câu dạy rằng:
Làm người nhơn-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
Làm người nhơn-nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa.

Xem trong truyện sử đời nhà Châu, vua Võ điếu dân phạt Trụ, dĩ danh Nhơn-Nghĩa, mà thâu phục cả tâm-lý của tám trăm chư-hầu qui thuận nhà Châu cho đến các bậc Tiên-gia Xiển-giáo, cũng đồng ủng hộ Võ-Vương, thuận thọ thiên-mạng diệt giả phò chơn, thì rõ biết cái năng lực danh-từ nhơn-nghĩa tinh-vi hiệu quả là thế nào.

Hiện nay ta muốn biết trước những người cầm quyền bĩnh cán trong một nước nào, có thể lập thành sự-nghiệp phục hưng quốc-thể được trường tồn, hay là làm cho dân tâm ly tán, vận nước khuynh nguy, thì chỉ xem sở hành của vị ấy có nhơn-nghĩa hay không mà quyết đoán ...

3- LỄ là yết dục dưỡng tinh, cấm không đặng tà tình hoa nguyệt, làm cho hao tổn nguơn-tinh biến ra thất lễ. Lễ là khuôn viên trọng thể của con người, làm người sở dĩ linh hơn muôn vật, chỉ nhờ biết giữ lễ mà đặng phần tôn quí hơn. Nhơn sanh vạn-vật tối linh, lễ giả Thiên Ðịa chi tự giả.

Qui cũ chữ lễ là để chế sửa phong-tục, nhân quần xã-hội, quan hôn, tang tế, Triều-đình Hương-đảng, cả thảy đều dùng lễ mà làm cho đời được tận thiện tận mỹ.

Lễ là thiết yếu để giữ chừng mực cho mọi sự hành-vi của con người.... Con người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí là do nơi biết giữ lễ, còn bị tội lỗi làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê bai khinh bỉ nhục-nhã, là do nơi thất lễ.

Chữ lễ rộng lớn bao la, xem bài giải-thích về Kinh Lễ mới rõ biết.

4- TRÍ là tồn tâm dưỡng tánh, chẳng nên dùng tửu nhục ẩm thực quá độ, rối loạn trí não tâm thần, hoại hư tạng-phủ biến ra người mất trí.

Chữ trí là tri trên bạch dưới, chữ tri là biết, chữ bạch là trắng, làm người phải biết giữ lòng thanh bạch, chẳng cho nhiễm vào một điểm nhơ ố vạy tà, mới gọi là hạng người trí-thức....

"Trí giã nhạo thủy". Bậc trí-thức tánh lưu thông như nước, mọi sự đều rõ biết, cư xử việc gì cũng được phân-minh, chẳng khi nào phạm vào luật-pháp.

5- Chữ TÍN là bằng hữu chỉ ư tín, thỉ chung như nhứt trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, dầu hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là người chơn-chất biết thủ tín.

Chữ TÍN là nhơn bằng chữ ngôn, nhơn là người ngôn là lời nói. Làm người mọi điều thốt ra, phải giữ sự chơn thật thì mới đủ lòng tín-nhiệm của quần chúng, nếu việc không mà nói có, việc có lại nói không, thì chẳng còn ai tín-dụng. Người ở đời mà thất tín thì chẳng làm gì nên danh phận. Nên có câu: "Nhơn vô tín như xa vô luân". Người mà không thành tín thì cũng như chiếc xe không có bánh, chẳng hề cử-động được nữa.

Lại có câu: "Nhơn vô tín bất lập". Người không giữ tròn câu tín nghĩa thì chẳng lập nên danh-thể trường tồn, mà cũng không đứng vững trên mặt thế.

Vấn-đề Tam-cang Ngũ-thường, tức là nền tảng của Nho-Tông, thuộc về phần Nhơn-đạo để giáo-hóa nhơn sanh cho đủ tư-cách làm người cao thượng, nếu mỗi người thật hành y theo qui-điều kể trên cho châu đáo, thì đời sẽ được mỹ-tục thuần-phong, tức là đời thái-bình an-cư lạc-nghiệp.

Ðiều-mục của Khổng-giáo cũng như qui-giới của Phật-giáo, Tiên-giáo. Ngũ-thường, ngũ-giới, ngũ-hành kỳ trung hiệp đồng nhứt lý....

Ðệ-tử nhà Phật, nhà Tiên muốn đi tới Bồng-Ðảo, Niết-Bàn thì tức nhiên phải đi qua đò nhà Nho trước.

Phật, Ðạo cũng như hành bộ khách, nền Nho ví tợ chiếc đò qua.... Ấy là: "Dục tu Tiên-đạo, tiên tu Nhơn-đạo, Nhơn-đạo bất tu, Tiên-đạo viễn hỉ"....

Luận về đạo-lý rất quảng đại bao la, không thể giải cho cùng tận, chỉ do theo trình-độ của mọi người, hiểu biết đặng bao nhiêu lược biến ra để làm phương-châm thật-hành cho được vẹn toàn, cũng là điều bổ ích.

CHÁNH-TRỊ CỦA KHỔNG-GIÁO

Chánh-trị của Khổng-giáo cốt yếu là dùng người có tài có đức để cầm quyền hành-chánh giúp nước trị dân.

Ðức Khổng-Tử nói: "Nhơn-đạo chánh vi đại". Ðạo của người thì chánh-trị là lớn, dùng đạo nhân làm gốc, lấy hiếu đễ lễ nhạc làm căn-bản trong sự giáo-hóa, để lập thành nền đạo-đức, nhơn-nghĩa, lấy chánh-trị mà làm công-dụng, thi thố cho ra đời trở nên thuần-phong mỹ-tục.

Cái quan-niệm của Nho-giáo, về đường chánh-trị trong một nước thạnh, suy, bĩ, thới đều do nơi người cầm quyền hành-chánh, người hành-chánh có đủ tài đức, thì trong nước được thái-bình, dân an cư lạc nghiệp.

Còn người hành-chánh mà thiếu đạo-đức, nhơn-nghĩa thì nước phải loạn-lạc suy tồi, nhơn tâm ly tán. Mặc dầu cái chánh-thể hay, mà người cầm quyền dở thì không ích lợi cho nước, mà còn làm hại quốc-gia là khác.

Ðức Khổng-Tử nói: "Văn Vũ chi chánh bố tại phương sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chánh tức". Nghĩa là: Việc chánh-trị của vua Văn, vua Vũ bày ra ở trong sách, nếu có người biết noi theo vua Văn, vua Vũ thì nền chánh-trị ấy được thi thố ra rất hay, bằng chẳng có người noi theo phương sách của vua Văn, vua Vũ, thì cái chánh-trị tự nhiên phải hư hỏng. Vậy nền chánh-trị trong nước hay dở, cốt ở người cầm quyền hành-chánh. Những người cầm quyền bao giờ cũng phải kính cẩn, hằng lo sửa mình cho ngay thẳng, lấy đạo-đức để cảm hóa dân, và dùng người hiền cất lên làm quan để chung lo việc nước, không ứng nạp những kẻ gian-tham ấy là nền chánh-trị của Khổng-giáo lập thành trường tồn kiên cố.

Chánh-trị là việc trọng yếu của một nước, người có trách-nhậm cai trị dân, cần phải lấy sự kinh-nghiệm mà làm phương-pháp thật hành, phải xem xét cái Ðạo của Thánh-Hiền đời trước là thế nào, rồi mới quyết-định sửa đổi mọi việc cho được hoàn-toàn.

Bởi các bậc Thánh-Hiền là Ðấng thông-minh, đã hiểu rõ về đường Thiên-lý, và đạt được nhân sự, biết dùng điều nhơn-nghĩa, lễ, trí, mà làm phép trị dân trị nước đặng hòa-bình. Những công việc của các bậc Thánh-Hiền tích lũy đã lâu đời và kinh-nghiệm rất châu đáo, có ích lợi cho nước cho dân, lại được thuận tùng Thiên-lý, phù hạp nhơn tâm, tức là nền chánh-trị vững-vàng trường-cửu.

Ðức Khổng-Tử dạy: Chánh-trị là làm mọi việc ngay thẳng lấy sự công-bình chánh-trực mà khiến người, thì ai dám làm những điều vạy tà sái quấy. Hễ người trên đã ngay thẳng thì kẻ dưới ắt phải noi theo. Có câu:
"Kỳ thân chánh bất lịnh nhi hành,
Kỳ thân bất chánh tuy lịnh bất tòng".

Mình làm việc ngay thẳng thì chẳng sai khiến người ta cũng làm, còn mình không được ngay thẳng, thì dầu có bắt buộc cũng chẳng ai tuân theo.

"Chánh kỷ dĩ giáo dân giả thuận, thích kỷ dĩ giáo nhân giả nghịch". Tự lập mình cho chánh đáng, rồi mới dạy người ta là thuận chơn-lý, còn mình dung-túng sự sái quấy của mình mà dạy người ta làm phải là trái ngược.

Luận qua chánh-trị hà khắc bạo tàn, trong một nước dầu có oai-quyền thế lực hùng cường, mà thiếu phần đạo-đức nhơn-nghĩa, thì chẳng bao giờ vững bền tồn-tại. Mạnh-mẽ như Tần Thỉ-Hoàng, gồm thâu lục-quốc khanh sĩ phần thơ, kết cuộc cũng vì thiếu đạo-đức, mà phải mất nước tiêu nhà hại mạng, truyện sử còn ghi chép đến ngày nay, thiên-hạ phê bình vua Tần là bạo ngược.

Sở Bá-Vương Hạng-Võ cũng oai-quyền ám-á sất sá chúng dân đều kinh khủng, đến khi thế cùng lực tận phải đành tự-vẫn nơi Ô-Giang, là bởi không thiệt hành nghĩa-nhơn đạo-đức.

Ông Lưu-Bang tức là Hớn Bái-Công, thuận thọ thiên-mạng tuy là nhu-nhược "Dĩ đức phục nhơn, tam phân thiên-hạ đoạt kỳ nhị". Cơ nghiệp nhà Hớn thuộc về Hớn Bái-Công, ấy là nhu thắng cang nhược thắng cường, sách xưa chẳng lầm đó vậy.

Tóm lại đường lối chánh-trị của Khổng-giáo thì người cầm quyền trong nước, phải dùng đạo-đức để cảm hóa chúng dân, phải giữ phép công-bình chánh-trực, trong sự thưởng phạt cho được phân minh. Cần yếu là tạo hạnh-phúc cho quốc-dân chung hưởng. Mọi sự hành-vi trên thuận tùng Thiên-lý dưới phù hạp nhơn tâm, thì vạn sự tổng giai thành, ấy là nền chánh-trị đại-đồng thế-giới.

Ngày nào những người cầm quyền trong các nước mà biết noi theo phương sách của vua Văn, vua Vũ và thật hành theo nền chánh-trị của Khổng-giáo cho ra chơn tướng, thì đời mới phục lại thái-bình, dân an-cư lạc-nghiệp, tức là cơ bảo tồn qui thượng-cổ.

CHÁNH-DANH ÐỊNH-PHẬN
DĨ ÐỨC GIÁO DÂN

Chánh-trị của Khổng-giáo là dùng đạo-đức để cảm hóa dân, lấy nhân chánh làm phép trị bình thiên-hạ....

Một hôm Thầy Tử-Lộ hỏi Ðức Phu-Tử: Giả như vua nước Vệ cậy Thầy sửa việc chánh-trị, thì Thầy định làm việc gì trước?

Ðức Khổng Phu-Tử trả lời rằng:

Tất giả chánh danh hồ, ắt phải sửa cái danh cho chánh vậy. Hễ cái danh được chánh thì ngôn thuận tự nhiên mọi sự đều nên.

Ðức Khổng-Tử nói: Danh bất chánh tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc vạn sự bất thành....

Danh-từ đã chánh thì làm việc gì đều có nghĩa lý rõ rệt, còn danh phận đã định thì địa-vị của mỗi người, trên dưới có trật-tự quyền hành trách-nhậm phân minh, trên lấy lễ mà sai khiến dưới, dưới lấy lòng trung mà thật hành phận sự, thì trong nước lo chi không được thạnh-trị.

Ðức Khổng-Tử nói: Vi chánh dĩ đức thí như Bắc-Thần cư kỳ sở, nhi chúng tinh củng chi. Làm việc chánh dùng lấy đức ví như sao Bắc-Thần đứng một chỗ, mà các vì sao khác đều qui chầu tất cả. Có câu: Quân-tử chi đức phong, tiểu-nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển. Cái đức của người quân-tử cũng như gió, cái đức của kẻ tiểu-nhân cũng như cỏ. Gió thổi trên cỏ thì cỏ phải lướt xuống mà theo. Ðây là nói những bậc cầm quyền trị dân, phải giữ đạo-đức thì dân tự nhiên trọn tuân mạng lịnh.

Việc chánh-trị có ba điều trọng yếu:
1 . Thâu phục cho được phần đa số dân,
2 . Làm thế nào cho dân giàu có,
3 . Dạy dân cho biết lễ nghĩa.

Việc trị dân trong nước là phải lo cho dân được no ấm, nước có đủ người tài đức cầm quyền hành-chánh, làm cho toàn thể chúng dân trong nước đủ lòng tin cậy, thì mới đủ năng-lực làm cho nước vững bền trường-cửu.

Người quân-tử làm việc chánh-trị phải có tài có đức cho xứng-đáng mới làm được hữu ích cho quốc-gia, nếu tự lượng tài đức của mình không đủ, thì chớ quá tham lam ...

Ðức Khổng-Tử nói: Ðức bạc nhi vị tôn, trí tiểu nhi mưu đại, lực tiểu nhi nhiệm trọng, tiểu bất cập hỉ. Nghĩa là: Ðức mỏng mà ngôi cao, trí nhỏ mà làm việc lớn, sức yếu mà gánh việc nặng, thì ít khi thành công vậy.

Mạnh-Tử viết: Tam-đại chi đắc thiên-hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên-hạ giả dĩ bất nhân.

Thầy Mạnh-Tử nói: Ðời Tam-đại sở dĩ được thiên-hạ là vì làm điều nhân, sở dĩ mất thiên-hạ là tại làm điều bất nhân. Tam-đại là: Nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu. Vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ làm điều nhân mà được thiên-hạ.

Vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ, làm điều bất nhân mà mất thiên-hạ.

Xem như lời Thánh-Hiền đã nói, thì sự đắc thất là do sở-hành của người cầm quyền nhân và bất nhân.

Những người cầm quyền trong nước mà có đạo-đức nhơn-nghĩa đủ đầy, thật hành theo đường chánh-trị của Khổng-giáo cho được hoàn-toàn, trên thuận tùng thiên-lý, dưới phục đắc nhơn tâm, thì nước nhà sẽ được thái-bình, chúng dân cọng hưởng mọi điều hạnh-phúc.

CHÁNH-TRỊ TRONG NƯỚC
cần phải có đạo-đức hay không?

Từ cổ chí kim nền chánh-trị trong một nước nào, những người cầm quyền trị dân có đạo-đức, biết giữ luật công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thì nước ấy mới được trường tồn, lê dân chung hưởng mọi điều hạnh-phúc.

Nếu người cầm quyền chánh-trị, mà không lấy đạo-đức để cảm hóa dân, thì trong nước ắt phải suy tồi loạn-lạc.

Có câu: Bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc nguy. Nước nhà có đạo-đức hiền lành, dân mới mở mang trí hóa cao thượng, còn nước không có đạo, thì dân tranh cạnh hiếp đáp giết hại lẫn nhau, ắt phải nguy vong đại biến.

Nước có Ðạo dân an quốc thới,
Nước không Ðạo dân tán quốc khuynh.
Ðạo là hồn của nước vậy.

Con người có linh-hồn thì đặng khôn ngoan tỉnh táo trí-huệ minh-mẫn cao-siêu, còn người mà không có linh-hồn thì ảnh hưởng lu-lờ, tinh-thần tối-tăm bạc nhược....

Xem trong truyện sử đời xưa, các bậc Ðế-Vương hằng lo sửa mình cho được chơn-chánh, cố tạo hạnh-phúc cho quốc dân và do theo nguyện-vọng của dân mà định vận-mạng chánh thể trong nước, hễ thuận lòng dân thì tự nhiên phù-hạp với lòng Trời.

Nhơn tâm tức thị Thiên tâm.

Xem như đời Thành-Thang, vua Ðế-Ất, thiệt hành đạo-đức nghĩa nhơn, bá tánh được thái-bình an-cư lạc-nghiệp, ấy là nhờ ông Vua có lòng từ-bi quảng-đại biết thương người mến vật, ố sát háo sanh. Ðến khi Ngài đi săn bắn với bá quan, giăng lưới chỉ dùng có một mặt, thì đủ biết ông Vua nhơn đức là thế nào? Vì vậy mới truyền ngôi đến sáu trăm năm.

Trải qua đời Ân-Thọ là Trụ-Vương, hành tàng vô đạo giết vợ chém con, sát hại các quan trung-thần, lại ưa thích những kẻ gian tà sủng nịnh. Cho nên cơ Trời dứt nghiệp Thành-Thang. Chúa Thánh Tây-Kỳ ra đời hưng Châu diệt Trụ. Bởi nhà Thương chánh-trị bạo tàn, vì thiếu phần đạo-đức mà phải mất nước tiêu nhà hại mạng.

Châu Võ-Vương thuận tùng Thiên-lý, dĩ đức phục nhơn, gồm thâu bá tánh, lập thành quốc-thể, lập hạnh-phúc cho lương dân, ấy là nền chánh-trị đủ đầy đạo nghĩa. Cho nên nhà Châu lưu truyền đến tám trăm năm, thật là cơ-nghiệp vững bền trường-cửu.

Có câu: Quốc chánh thiên tâm thuận, quan thanh dân tự an. Nghĩa là người cầm quyền trong nước, giữ được chánh tâm thì mới thuận với lòng Trời, còn làm quan biết giá-trị thanh liêm, thì dân chúng được an-nhàn tự-toại.

Trái lại, người cầm quyền trị dân, không giữ phép công-bình, chẳng noi theo đường đạo-đức, lại dùng quyền chuyên-chế hà khắc lương dân, gian tham tư lợi chẳng kiêng luật Thiên-điều, làm cho lòng dân thán oán, thì vận mạng trong nước ắt phải nguy vong.

Ðức Khổng-Tử dạy chư môn-đệ của Ngài ghi nhớ một câu rằng:
Hà chánh mãnh ư hổ.

Chúng dân đã ghê sợ cái chánh-trị hà khắc còn hơn là sợ cọp....

Một cường-quốc có thế lực quyền hành, mà không lấy đạo-đức làm nền tảng, thì nước ấy sẽ bị tiêu-diệt.

Còn nước nào muốn cho nền móng chánh-trị được kiên cố vững-vàng thì người cầm quyền trong nước phải noi theo đường đạo-đức nghĩa nhơn, thì tự nhiên nước nhà mới được thạnh hành trường tồn vĩnh-viễn.

CHÁNH-TRỊ KHỔNG-GIÁO
cần phải có đạo-đức

Từ xưa đến nay, nước nhà được thạnh-trị, hay là loạn-lạc suy tồi, đều do nơi người cầm quyền hành-chánh. Người cầm quyền biết giữ theo đường ngay lẽ phải, thuận thọ Thiên-mạng, biết lấy nhơn-nghĩa để cảm hóa dân, thì nước nhà được thái-bình, chúng dân đặng âu-ca lạc-nghiệp.

Còn người cầm quyền không noi theo đường đạo-đức mà sửa trị, lại chẳng biết thương dân, thì nước nhà ắt phải chinh nghiêng rối loạn.

Bởi dân tâm tức là Thiên-ý, làm trái lòng dân ấy là nghịch mạng Trời, mà hễ nghịch mạng Trời thì tự nhiên sẽ đi vào lối diệt vong đó vậy.

Trong Kinh Thơ có câu rằng:
"Hoàng thiên bất thân, duy đức thị phụ, dân tâm vô thường, duy huệ chi hoài".
"Vi thiện bất đồng, đồng qui vu trị, vi ác bất đồng, đồng qui vu loạn".

Nghĩa là: Trời chẳng thân riêng ai, chỉ người có đức thì được Trời trợ giúp, lòng dân không có thường, chỉ có người thi ân-huệ thì được dân cảm mến.

Làm việc lành chẳng giống nhau, nhưng kết-quả là bình trị, làm việc dữ cũng không giống nhau, nhưng kết-quả là đảo-điên loạn-lạc.

Ðức Khổng-Tử cho đạo nhân là gốc của việc chánh-trị, cũng như đất tốt là gốc của sự sanh-sản ra cây trái thạnh mậu tốt tươi. Vì vậy người hành-chánh dầu có tài mà thiếu đạo-đức, thì cũng không định quốc an dân cho được.

Huống chi người cầm quyền bỉnh cán trong một nước, dầu là Vua nước quân-chủ, hay là Tổng-Thống nước Cộng-hòa dân-chủ, cũng đều có ảnh-hưởng chịu mạng Trời, ấy là thể thiên hành hóa. Cái quyền hành ấy có quan-hệ đến vận-mạng của một xã-hội, một dân-tộc, vì vậy nên trị dân phải biết thương dân và do theo lòng dân mà thật-hành cho tròn sứ mạng.

Lại nữa, những người đem thân ra phụng-sự cho quốc-gia, thì thân của mình là thuộc về của quốc-gia, và của chung của thiên-hạ, cái thân ấy không còn riêng về gia-đình nữa, vậy phải trọng sứ-mạng của mình là thiêng-liêng, coi thân của mình nhẹ hơn hạnh-phúc của nhơn-sanh, chính là con đường dìu người hành-chánh đi đến mức thành-công. Ðược như vậy thì người cầm quyền đối với dân cũng như cha đối với con. Phải lo tu nhơn tích đức cho dân được an-cư, dạy dân cho được khôn ngoan sáng-suốt, y như cha lo cho con vậy.

Trái lại, làm những điều của dân ghét bỏ, và ghét những điều của dân yêu chuộng, hoặc là ham muốn xa-hoa, lo cho thân của mình được giàu sang vui sướng, ngoài ra mặc kệ dân khốn-khổ lầm than, ấy là hành-động trái với lòng dân, thì người cầm quyền dầu có tài ba lỗi-lạc cũng không tránh khỏi đi đến con đường thất bại.

Lẽ dĩ-nhiên là trị dân mà chẳng làm cho dân mến yêu tin cậy, hành-động trái ngược khiến cho trăm họ đổi lòng tùng phục mà trở lại oán ghét nghịch thù, thì người cầm quyền sẽ đem tai họa cho mình và cho nước.

Những Ðấng Minh-Quân đời trước, thương dân như con đỏ, hằng chịu lao tâm tiêu tứ, để lo gầy tạo hạnh-phúc cho dân. Người trong nước không kể sang hèn, hễ ai có tài có đức, thì đưọc cất nhắc lên làm quan giúp nước trị dân. Vua với quan đều lấy sự ích nước lợi dân mà làm chủ đích.

Trên thân dưới như tay chơn đối với lòng dạ, dưới thân trên như con trẻ đối với mẹ lành, vì sự thương yêu lẫn nhau mà mối nước được vững bền, muôn dân âu-ca lạc-nghiệp.

Kết-luận, người cầm quyền chánh-trị cần phải có đạo-đức, nếu không thật-hành theo đạo-đức, thì tức nhiên là chánh-trị hà khắc bạo tàn, làm cho lòng dân ly tán vận nước khuynh nguy, dầu có lập hình-pháp nghiêm trị thế nào, cũng không khắc phục được lòng dân.

Ðời nay văn-minh tấn bộ, nền văn-hóa mới lan tràn trong nước, dường như phe tân-học quá thuyên về đường vật-chất, nên phần nhiều người cầm giềng mối chánh-trị, chỉ biết quyền-hành chớ không muốn biết đến nghĩa-nhơn đạo-đức.

Giữa xã-hội người ta thấy bao nhiêu sự bất-bình bực tức, mạnh lấn yếu, chúng hiếp cô, vì lẽ thế lực kim tiền được tôn thờ sùng kính.

Cái khổ của dân vì đó càng ngày chồng-chất thêm mãi, mà chẳng biết kêu ca vào đâu, phải cam chịu phận thiệt-thòi mãn kiếp.

Cái thuyết cao-siêu của Ðức Mạnh-Tử là: "Dân vi quí, xã-tắc thứ chi, quân vi khinh". Ngày nào mà thuyết ấy được thật-hành trên mặt địa-cầu nầy, thì thế-giới sẽ đặng hòa-bình đại-đồng nhơn-loại.


LUẬT THƯƠNG-YÊU, QUYỀN CÔNG-CHÁNH

Ðức Chí-Tôn đã định luật thương-yêu và quyền công-chánh tại mặt thế nầy, để cho những người nắm luật cai-trị chúng dân, phải có lòng thương-yêu giáo-hóa chúng dân làm lành lánh dữ, như vậy trong nước mới được thái-bình.

Còn người có quyền phải giữ phép công-bình chánh-trực trong sự thưởng phạt phải cho được thông-minh (*1), thì đời mới đặng lạc-nghiệp âu ca, chúng dân cọng hưởng huệ-ân hạnh-phúc.

Trái lại, người hành luật thì giam hãm chúng sanh trong vòng thống khổ, kẻ cầm quyền lại hà khắc con dân thảm sầu ta thán.

Vì cớ mới nảy sanh phong-trào cách mạng, gây nên đời loạn-lạc chiến tranh, ấy là tại những người cầm-quyền, hành luật không tùng thiên-lý, chẳng thuận nhơn tâm, nên mới có tai nạn đao binh lan tràn khắp xứ.

Ngày nào luật thương-yêu và quyền công-chánh được thật hành châu đáo, thì đời sẽ trở lại hòa-bình, phục hồi Nghiêu thiên Thuấn nhựt. (Bài nầy Ðức Hộ-Pháp giảng)

(*1) Còn người có quyền phải giữ phép công-bình chánh-trực trong sự thưởng phạt phải cho được công-minh (?),... ...

GIÁ-TRỊ CỦA CON NGƯỜI

Con người sanh ra tại thế nầy, từ ngôi Thiên-tử xuống tới hàng thứ-dân, giá-trị của mỗi người được cao trọng, hay là thấp hèn, là do nơi sở-hành của người đào tạo. Hễ làm việc có đạo-đức nhơn nghĩa, biết giữ lẽ công-bình, trên thuận tùng thiên-lý, dưới được lòng tín-nhiệm của chúng dân, thì giá-trị đặng tôn-nghiêm cao trọng.

Còn làm những điều gì mà hại nhân ích-kỷ, độc ác gian tham lương-tâm tán tận, vụ lợi bỏ nghĩa, thì danh thể giá-trị của con người thấp hèn đê tiện.

Ðời xưa vua Nghiêu, vua Thuấn trị bình thiên-hạ là nhờ giữ chánh tâm, thiệt hành bác-ái, khoan-dung đại độ, thưởng phạt phân minh, cố tạo hạnh-phúc cho dân cọng hưởng.

Nghiêu Thuấn không lập luật hình, Võ Thang chẳng tạo khám đường ngục thất, đời vô vi nhi trị thiên-hạ thái-bình do sở hành đạo-đức nghĩa nhơn, mà giá-trị của vua Nghiêu, vua Thuấn sánh cùng Trời Ðất....

Còn vua Kiệt, vua Trụ cũng thời làm vua trong một nước, vì bởi hành tàng bạo ngược sát hại trung lương, làm cho nhân tâm ly tán, không kiêng luật Thiên-điều, cho nên thiên-hạ phê-bình là hôn quân vô đạo, giá-trị thấp hèn cả chư-hầu đều khinh bỉ.

Luận qua các bậc văn thần võ tướng đời xưa, tên tuổi vẫn còn nêu vào truyện sử, thì ai cũng được biết rõ: Quan-Công Hầu, Nhạc-Phi, Bàng-Cử, Ðịch Vương-thân, Tiết Hiền-thần cùng các bậc tiền-vãng trong nước Việt-Nam giá-trị cao thượng thế nào? Chẳng cần biện-bạch mà người đời hoài-cảm ca tụng thương tiếc vô cùng.

Còn như Bàng-Hồng, Tôn-Tú, Tần-Cối, Trương-Huờn giá-trị đê tiện ra sao, chẳng luận minh tả thì nhơn-sanh cũng chán biết đủ điều.

Trong buổi hiện tại nầy, những mày trung mặt nịnh đã biểu lộ trên sân khấu của đời. Người thì tận tâm trung thành hy-sanh vì Tổ-quốc, kẻ thì gian xảo bán nước hại dân, trải qua thời kỳ lệ-thuộc trên mười (*1) năm, người chánh kẻ tà, lành dữ trắng đen, Việt-sử cũng còn ghi chép rõ, để cho đoàn hậu-tấn so-sánh điều hay lẽ phải mà làm phương-châm tự lập thể thống giá-trị của mỗi người, cho đặng tiến-hóa lên cao thượng, mới xứng đáng một kiếp sanh trong vũ-trụ.

Trong nền Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ của Ðức Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, hoằng khai trong nước Việt-Nam, trải qua trên bốn mươi năm, Chức-sắc hành đạo giá-trị Thánh-danh cao thấp, cũng do nơi mỗi vị đào tạo, để lưu truyền cho đàn hậu-tấn khen hay chê.

(*1) Chúng tôi nghĩ là 80 năm thì đúng hơn.

TRÍCH LỤC NHO-GIÁO
YẾU-ÐIỂM TRONG NGŨ-KINH

Ngũ-Kinh là: Kinh Thi, Kinh Thơ, Kinh Diệc, Kinh Lễ, Kinh Xuân-Thu.

Mỗi một bộ kinh Ðức Thánh dạy, cốt yếu trong một câu hay là một chữ, ta có thể do theo đó mà làm phương-pháp thật hành, thì cũng như học suốt thông một bộ sách vậy.

1- Kinh Thi cốt yếu có một câu: "Thi, Tam bá thiên nhứt ngôn dĩ tế chi, viết tư vô tà". Nghĩa là trong Kinh Thi có ba trăm bài, gồm lại một điều chủ tâm đừng suy nghĩ những sự vạy tà sái quấy....

2- Kinh Thơ có 58 thiên cốt yếu là tại hai chữ chấp-trung, nghĩa là ta làm việc chi từ lúc khởi đầu cho đến khi kết cuộc, phải giữ một mực thường, thỉ chung như nhứt chẳng vì sự khó khăn mà thối chí ngã lòng, bán đồ nhi phế mọi việc làm cần phải giữ bậc trung-dung, không thái quá mà cũng không bất cập, thì sớm muộn sẽ được thành công.

Ðức Khổng-Tử: "Ngô Ðạo nhứt dĩ quán chi". Ðạo của ta từ đầu suốt đến đuôi chỉ có một là thuận thiên-lý.

3- Kinh Diệc có 348 hào cần yếu là một chữ thời, thời là tùy thời mà thuận theo, hay là chống lại.... và do theo thời thế biến đổi cho phù-hạp thiên-lý, cùng thuận nhân tâm.

4- Kinh Lễ có 48 thiên chỉ dùng ba chữ: "Vô Bất Kỉnh". Bởi lễ là chủ ư kỉnh, dầu ngồi trong nhà kín hay là ở dưới hang sâu, lúc nào cũng xem như có các Ðấng Thiêng-Liêng ở trên đầu, đã thấy rõ mọi sự hành-động của mỗi người lành hay dữ. Cho nên ta phải thành kỉnh luôn luôn, ấy là người biết giữ Lễ.

Ðức Khổng-Tử nói: Lễ giả thiên địa chi tự giả, nhạc giả thiên địa chi hòa giả. Lễ là trật-tự của Trời Ðất, còn nhạc là sự điều hòa của Trời Ðất....

5- Kinh Xuân-Thu chép việc 242 năm, tóm lại là: khuyến thiện, răn ác.

Ðức Khổng-Tử tác thành Kinh Xuân-Thu biên chép việc đời hai trăm bốn mươi hai năm để lưu-truyền hậu thế.

Những điều lành sự dữ của các nhà vua, cùng các bậc chư-hầu, khanh-tể, chỉ rõ hai điều: thưởng phạt, khen chê.

"Nhứt tự chi bao vinh ư hoa cổn,
Nhứt tự chi biếm nhục ư phủ việt".

Một lời khen thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, còn một tiếng chê nhục hơn bị tội xử bằng rìu búa.

Kinh Xuân-Thu, cốt-yếu là để dạy đời, khen đời và chê đời.

Ðạo Cao-Ðài gọi là Nho-Tông chuyển thế, thì cần phải thật hành theo giáo-lý của Ðức Khổng-Tử trong Ngũ-Kinh. Nếu mỗi người mà giữ đặng các điều cần-thiết kể trên cho được vẹn toàn, thì danh-thể giá-trị sẽ tiến lên cao thượng, để làm gương soi-sáng cho bước đường của đàn hậu-tấn noi theo.

Ðạo Cao-Ðài hoằng khai từ năm Bính-Dần cho đến ngày nay, trong hàng Chức-Sắc, Chức-việc và Ðạo-hữu nam nữ, cũng có nhiều người trọn tâm trung thành với Hội-Thánh, dám chịu khổ-hạnh hy-sinh vì Ðạo. Mà cũng có kẻ lợi dụng danh Ðạo, tạo gia-nghiệp riêng về phần cá-nhân, bất tùng luật-pháp, phản loạn chơn-truyền, thất thệ nghịch Thầy phá Ðạo.

Hai lẽ chánh tà, trung nịnh, vẫn còn chép ghi vào Sử-Ðạo để lưu-truyền thất ức dư niên. Cũng như bộ sách Xuân-Thu của Ðức Khổng-Tử lưu-truyền từ cổ chí kim.

Thì những người đạo-đức nhơn-nghĩa, chánh-trực công-bình, vì nước vì dân, vì Ðạo làm hữu-ích chung cho nhơn-loại được hưởng nhờ, để làm gương cho đời hậu tấn, noi bước hành trình, và tránh những thói mị tà gian tham xảo-trá đặng khỏi mang tại họa tội tình hành-phạt vi xủ vạn niên.

Trong Kinh Xuân-Thu phân biệt trắng đen, chánh tà, phước họa đều rõ lý, để cho con người chọn lựa mà thật hành, làm thế nào cho được danh thơm tiếng tốt lưu truyền, vạn đại thiên-thu mới xứng đáng một kiếp sanh hữu duyên gặp Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ.

NHƠN-NGHĨA ÐẠO-ÐỨC
Thầy Mạnh-Tử yếu dụng hai chữ nhơn-nghĩa không nói đến việc lợi, Ngài đi tới nước nào cũng giảng đạo-đức, thuyết nhơn-nghĩa.

Ngài nói: Tiên nghĩa hậu lợi là chánh, còn vụ lợi bỏ nghĩa ấy là mị tà.

"Nhơn, nhân chi an trạch dã,
Nghĩa, nhân chi chánh lộ dã".

Ðiều nhơn là cái nhà yên ổn của người ta vậy, điều nghĩa là cái đường chánh đại quang-minh của người ta vậy. "Khoáng an trạch nhi phất cư, xá chánh lộ nhi bất do ai tai".

Ðể không cái nhà yên ổn, mà chẳng ở, bỏ cái đường chánh mà không noi theo, khá thương thay!

Hai chữ Nhơn-Nghĩa đại-ý:
* Nhơn là từ-bi, bác-ái,
* Nghĩa là công-bình, chánh-trực.

Ngày nào nhơn-sanh hiệp nhứt tâm thật hành nhơn-nghĩa cho được hoàn toàn, thì mới thấy tinh-vi hiệu quả.

ÐẠO-ÐỨC
Ðạo lẽ phải nhứt định, ấy là một con đường cái người ta phải do theo đó mà đi, Ðạo giả đại lộ dã.
Ðức là làm theo lẽ phải mà đặng vừa lòng thích ý tất cả mọi người.
Ðạo-đức là căn bản của con người. Do theo sách Trung-Dung nói chữ Ðạo là: Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo, tùng đạo chi vị giáo, đạo giả dã bất khả tu du lỵ giả, lỵ giả phi đạo dã. Nghĩa là: Trời ban cho con người một cái tánh lành, đem sự lành thi thố ra gọi là đạo, do theo đạo-lý mà dạy người, gọi là giáo-hóa nhơn-sanh.

Ðạo chẳng rời trong tâm giây phút nào, nếu để cho đạo lìa xa lòng người, thì chẳng phải đạo mà cũng chẳng nên người. Làm việc gì thuận thiên-lý là có đạo, còn trái với thiên-lý là phi đạo dã.

Ðức là nguồn cội của con người, có đức dày thì bền vững trường tồn, nếu thất đức thì chinh nghiêng xiêu đổ. Ví như cây có rễ nhiều thì đứng vững chẳng sợ gió giông, còn cây không rễ lúc bảo tố tự nhiên phải trốc gốc.

Lập đức là thi ân tế chúng cứu độ sinh-linh, làm việc gì có lợi-ích chung cho nhân-quần xã-hội, thiên-hạ được vui mừng là có đức. Còn làm việc chi lợi riêng cho mình, mà hại người, sanh chúng bất bình kêu ca thán-oán, ấy là điều tổn đức bất nhơn vô đạo.

Ðạo-đức là sở hành của người quân-tử, nếu không có chí quân-tử, thì chẳng thế nào vẹn toàn đạo-đức.

ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ

ÐẠI-ÐẠO là nền Ðạo lớn Trời khai kỳ thứ ba, phô bày chơn-lý độ rỗi nhơn-sanh khắp cả thế-giới.

Ðại-Ðạo là một con đường "Thiên-Linh" để cho các phẩm chơn hồn nguyên-nhân hạ trần, do theo đó mà phục hồi cựu-vị, và các bậc hóa-nhân cũng noi theo con đường ấy mà tiến lên đạt thành địa-vị cao thấp là tùy nơi công-nghiệp.

Luận về thường thức, Ðại-Ðạo là: "Ðại lộ giả nhân sở cọng do". Ðạo là con đường rộng lớn, để cho mỗi người đều đi trên con đường ấy mà tiến-hóa lên cao thượng.

TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ
Nhứt-Kỳ Phổ-Ðộ: Tý Hội Thượng-Nguơn Khai Ðạo.
Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ: Sửu Hội Trung-Nguơn Khai Ðạo.
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ: Dần Hội Hạ-Nguơn Khai Ðạo.

Ðạo Cao-Ðài hoằng-khai năm Bính Dần 1926, gọi là Hạ-Nguơn tái tạo, phục hồi Thượng-cổ.

Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ hồi đời nào? Mà ngày nay Ðạo Cao-Ðài xưng rằng Tam-Kỳ Phổ-Ðộ?

■ Nhứt-Kỳ Phổ-Ðộ từ đời Bàn-Cổ, Văn-Tuyên Ðế-Quân lập Ðạo Thánh tại Trung-quốc. Qua đời Ngũ-Ðế Ðức Thái-Thượng Ðạo-Tổ lập Tiên-giáo tại Trung-Nguyên.

Ðức Nhiên-Ðăng Cổ-Phật lập Phật-Giáo cũng tại Trung-Nguyên.

■ Trải qua tới Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ, Ðức Lão-Tử lập Tiên-giáo tại Trung-Hoa, giáng-sanh vào đời nhà Thương, vua Võ Ðinh năm Dậu, ngày 15 tháng 2.

Ðức Thích-Ca lập Phật-Giáo tại Ấn-Ðộ Tây Thiên-Trước, giáng sanh vào đời nhà Châu, vua Chiêu-Vương, năm thứ 24 tháng 4 ngày mồng 8.

Ðức Khổng-Phu-Tử lập Nho-Giáo tại Trung-Huê, giáng sanh vào đời nhà Châu, vua Linh-Vương, năm Kỷ-Dậu, ngày 15 tháng 9.

Còn Gia-Tô Giáo-Chủ cũng mở Ðạo Thánh bên Thái-Tây, ấy là Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ. Cũng lậpTam-giáo Nho, Thích, Ðạo dạy nhơn-sanh làm phải làm lành tu tâm dưỡng tánh.

■ Nay đến buổi Hạ-Nguơn hầu mãn, Ðức CHÍ-TÔN dùng huyền diệu cơ-bút khai Ðạo Cao-Ðài, chuyển Tam-Giáo qui nguyên, Ngũ-Chi phục nhứt cho theo lẽ tuần-huờn của Tạo-hóa, gọi là Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Ðức CHÍ-TÔN tuyển chọn 3 vị Phật, Tiên, Thánh thay mặt cho Tam-giáo, cầm quyền Tam-Trấn Oai-Nghiêm:

1 . Thường cư Nam-hải Quan-Âm Như-Lai.
2 . Lý Ðại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ.
3 . Hiệp-Thiên Ðại-Ðế Quan-Thánh Ðế-Quân.

Bởi ba Ðấng Phật, Tiên, Thánh trong thời-kỳ cận đại mà toàn thể nhơn-sanh đều rõ biết hạnh-đức từ-bi quảng đại Linh-Quan Thế-Âm Bồ-Tát cứu khổ cứu nạn. Ðức Lý Ðại-Tiên cầm quyền thưởng phạt phân minh, thừa hành mạng lịnh Ðức CHÍ-TÔN xây cơ chuyển thế.

Ðức Quan-Thánh Ðế-Quân, trung cang nghĩa khí, chánh-trực công-bình, Ngài chú trọng bộ Xuân-Thu nối chí của Ðức Văn-Tuyên Khổng-Thánh.

Ba vị kể trên tài đức hoàn toàn, đủ phương-diện độ đời đáng roi gương cho thiện nam tín nữ.

Ðức CHÍ-TÔN hoằng-khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, là một nền Tôn-giáo trong kỳ thứ ba, phổ truyền chánh-pháp độ tận 92 ức nguyên-nhân phục hồi cựu-vị, và cứu vớt chúng sanh thoát khỏi chốn trầm luân khổ hải, lập đời minh-đức tân-dân chỉ ư chí-thiện.

TÔN-CHỈ ÐẠO CAO-ÐÀI
Là qui Tam-giáo, hiệp Ngũ-Chi.
Tam-giáo là: Nho, Thích, Ðạo.
Ngũ-chi là: Nhơn-Ðạo, Thần-Ðạo, Thánh-Ðạo, Tiên-Ðạo, Phật-Ðạo.

ÐỨC-TIN

Ðức-tin con người chia ra làm ba phương-diện:

1-Tự-tín, 2- Tha-tín, 3- Thiên-tín.

Tự-tín là: mình tin nơi sở-hành và năng-lực của mình có thể bảo-đảm cái đời sống cùng giá-trị của mình được vững bền trường-cửu.

Con người từ ấu thơ cho đến trưởng thành những lời của cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho tới sự ở đời giao-thiệp với nhơn-quần xã-hội thì việc nào phải, trái nên hư, lợi, hại cha mẹ đều chỉ vẽ phân-minh. Ta do theo đó mà làm bài học vỡ lòng, và ghi nhớ lời giáo-hóa của cha mẹ để làm căn bản.

Ngoài ra sở-hành của ta làm những điều gì có đạo-đức nhơn nghĩa, mà được thiên-hạ ngợi khen và thương yêu kính mến thì ta noi theo đó mà làm phương-pháp thực hành. Còn điều nào của ta làm mà quần chúng cười chê, khinh bỉ, thì ta phải chừa bỏ ra liền, được như vậy thì đủ đức-tin rằng: sở hành của ta sẽ bảo tồn. Giá-trị của ta được cao trọng, ấy là tự-tín.

Tha-tín là: tin nơi người khác, trước là tin ông thầy dạy ta học, những kinh sách của Thánh-Hiền lưu lại ta noi theo đó mà lập thân cho nên người hiền-lương đạo-đức. Lại nữa ta phải Quang tiền dũ hậu là vẻ-vang được sự-nghiệp người xưa dành để cho đời sau đầy-đủ trong xã-hội, chẳng phải họ cố ý dạy ta. Nhưng ta suy-xét công việc của họ làm những điều gì có nghĩa có nhơn được nhiều phước đức, thiên-hạ hoài cảm ca tụng hoan-nghinh, thì ta học theo các điều ấy mà làm. Còn họ làm việc chi hại nhơn ích kỷ bất nghĩa vô lương phạm tội với luật đời, sanh chúng nghịch thù oán ghét, thì ta truất bỏ các điều tình tệ ấy ra không nạp dụng, làm người mà biết suy độ như thế, gọi là có kiến-thức ấy là tha-tín.

Tự-tín và tha-tín chưa đủ, cần phải có thiên-tín, thì mọi sự mới được hoàn-toàn.

Thiên-tín là: trọn tin nơi Trời là một Ðấng CHÍ-TÔN chủ-tể Càn-khôn Thế-giới, có đủ quyền linh mầu-nhiệm bảo hộ sanh mạng của nhơn-loại trong vũ-trụ, những người biết thuận tùng thiên-lý thì hằng còn.

Trời cầm luật công-bình lành thưởng dữ răn. Còn người có đủ đức-tin nơi Trời, thì đọc hai câu trong bài Ngọc-Hoàng Kinh rõ biết:

Càn-kiện cao-minh vạn-loại thiện ác tất kiến,
Huyền phạm quảng đại nhứt toán họa phước lập phân.

Nho-giáo có câu: Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu. Lưới Trời lồng-lộng thưa mà chằng lọt. Những người được hiểu quyền linh của Trời thì không bao giờ dám làm một điều gì trái với nhơn-tâm.... Mọi hành-vi phải thuận tùng Thiên-lý, noi theo đức háo sanh là từ-bi bác-ái chánh-trực công-bình, dụng đạo-đức nhơn-nghĩa mà làm phương-châm thực hành, thì Trời ban cho ân-huệ được vẹn toàn hạnh-phúc.

Hoàng thiện bất thân duy đức thị phụ. Ngày nào chư đạo-hữu và tất cả nhơn-sanh, làm y theo ba phương diện: tự-tín, tha-tín, và thiên-tín cho đặng châu đáo thì con người sẽ trở nên chí-thiện, đời phục hồi trật-tự an-ninh, nhơn-loại chung hưởng hồng-phước của Trời ban cho, trong thế-giới sẽ được thái-bình trường cửu.

BỔN-PHẬN TÍN-ÐỒ

Bổn phận ngưòi tín-đồ trong nền Ðạo, phải có đủ đức-tin và trọn tâm trung thành với Ðạo. Mọi việc hành-vi phải đồ y theo khuôn viên luật-pháp của các Ðấng Thiêng-Liêng và Hội-Thánh truyền dạy, chẳng nên canh cải chơn-lý của Ðạo, cần phải giữ lời minh-thệ khi mới nhập-môn, trước sau như một không đổi dạ thay lòng, tin theo giáo-lý mà thật hành, chẳng vì khổ-hạnh mà thối chí ngã lòng nửa đường bỏ Ðạo.

Ví như một người học trò vào trường thì phải tín-nhiệm và cung kỉnh vâng lời của vị giáo-sư chỉ dạy. Chuyên lo học tập cần mẫn, thức khuya dậy sớm, nấu sử xôi kinh trải qua mười năm công-phu cực nhọc, mới có thể thi đậu cấp bằng tốt nghiệp ra làm việc giúp ích cho nước nhà lập nên danh phận hiển Tổ vinh Tông.

Còn những người nhập-môn theo Ðạo Cao-Ðài, thì gọi tín-đồ, tức là môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN, phải giữ tâm thành đức vẹn, nhứt là tuân theo Thánh-giáo, và luật-pháp Chơn-truyền của Ðạo mà thi-hành cho tròn bổn-phận. Ngoài ra còn phải siêng năng lập công-quả cho đầy-đủ và học hỏi cho được lảu thông kinh sám, thì mới có thể tiến-hóa lên vào hàng Chức-việc cùng Chức-Sắc.

Trái lại kẻ học sanh vào trường mà không tuân theo lời dạy của thầy thì dầu học kể cho nhiều năm cũng không thế thi đậu cấp-bằng cao đẳng. Người nhập-môn vào hàng tín-đồ của Tôn-giáo mà chẳng thiệt hành theo khuôn viên của Ðạo thì tu đến trọn đời cũng khó mong đắc Ðạo. Ngày nào toàn thể chư môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN mà cố tâm thực-hành cho được vuông tròn bổn phận hai chữ tín-đồ thì nền Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ sẽ tiến triển cao siêu vô đối.
Khuyên giữ cho tròn phận tín-đồ,
Ðêm ngày khá niệm chữ Nam-Mô.
Trước sau như một không dời đổi,
Giữa biển chờ khi gặp Lão-Tô.

GIẢNG-ÐÀI TÒA-THÁNH

Chức-Sắc Thiên-phong Thuyết Ðạo trên giảng đài Tòa-Thánh, trải qua mười lăm năm giải thích đủ các đề-tài nào là đạo-đức nhơn nghĩa, từ-bi, bác-ái, chánh-trực, công-bình, thương-yêu, liên-lạc, thuận-hòa, khiêm-cung, nhẫn-nại, vân vân.

Kể ra phương châm giáo-hóa cũng đầy-đủ lắm rồi. Nhưng tiếc vì chư đạo-hữu thật hành chưa được châu đáo theo các đề-mục kể trên.

Hôm nay xin ôn lại hai điều cần:
Một là: Ngôn cố hành.
Hai là: Hành cố ngôn.

Lời nói phải đoái lại việc làm, mà việc làm cho đúng lời nói.

Ví-dụ: nói tôi là người tu, thì phải làm thế nào cho ra vẻ người hiền-lương đạo-đức, ngôn từ hòa-nhã, hạnh-kiểm trang hoàng, đủ tư-cách là người ở trong nền Tôn-giáo, mới xứng đáng gương mẫu cho đàn hậu tấn noi theo.

Nếu nói rằng: tôi là người tu, mà còn tranh danh vụ lợi xu-hướng theo thói thường tình, không chừa bỏ tánh tham, sân, si, cử chỉ thắc-mắc, khó-khăn thiếu lòng bác-ái công-bình thì trái ngược với bổn phận của người tu, ấy là việc làm không y theo lời nói, thì tự nhiên mất cả uy-tín làm cho người đời khinh bỉ cười chê.

Nên giữ lời nói với việc làm phải phù hạp cùng nhau, mới có đủ tư-cách làm người cao thượng.

Hiện nay có một ít người cũng tự xưng là tín-đồ trong Ðạo Cao-Ðài, mà sở-hành chẳng noi theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN, không giữ theo luật-pháp chơn-truyền của Ðại-Ðạo, ấy là nói một đường mà làm một ngã, không nhớ khi quì trước Thiên-Bàn lập thệ rằng: Hiệp đồng chư môn-đệ, gìn luật-lệ Cao-Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục.

Chư Ðạo-hữu nên ôn lại sở-hành của mình có giữ theo luật-lệ của Ðạo hay không? Xin ghi nhớ đại-cương trong Tân-Luật dạy: những người nhập-môn phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày là bực chót.

Còn lễ sóc vọng mỗi tháng hai kỳ ngoại trừ khi có bận việc hoặc là đau ốm thì được chế giảm như thế chẳng phải khó-khăn gì mà làm không đặng.

Nếu chẳng thật-hành cho trọn lời minh-thệ, thì tức nhiên là kẻ giả dối với Ðức CHÍ-TÔN, kết cuộc phải chịu luật Thiên-điều trừng-trị, chừng ấy dầu có ăn-năn hối-hận thì đã muộn rồi, đáng tiếc cho một kiếp sanh làm người hữu duyên ngộ Ðạo, mà không được chung hưởng ân huệ của Trời Phật ban cho, là tại bởi sở-hành chẳng y theo lời nói.

Tóm lại: Chư Ðạo-hữu bất luận làm những việc gì cần phải suy-xét, coi có y theo Chánh-giáo của CHÍ-TÔN và luật-pháp chơn-truyền của Ðạo hay không, nếu nhận thấy sở-hành của mình còn sai suyển, thì nên sửa cải liền, đừng để cho người chỉ trích mà phải chạm lòng tự-ái, có khi nảy sanh câu chuyện không hay.

Nhứt là lời nói đối với việc làm phải tương-liên mật thiết cùng nhau thì mọi sự được thành công kết quả khỏi mang câu: Năng thuyết bất năng hành./.

CHUNG

GIẢNG ĐẠO CHƠN NGÔN
Soạn giả THÁI ĐẾN THANH
Ấn hành năm Tân Hợi 1971

In tại nhà in LÊ THÀNH - LONG HOA TÂY NINH
Chủ nhân NGUYỄN THỊ Ý
Home                   1 ]  [ 2 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét