VĂN TỊCH PHÁP NHƠN CHI ĐẠO của
HỒ TẤN KHOA (19-5-1984)
Vâng lịnh của Đức Hộ-Pháp và Đức Lý
Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn Oai Nghiêm Kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tịch
Đạo Thanh Hương truyển dạy đệ tử phải lập Văn Pháp Đạo Tịch gồm đủ tiết mục
nguyên nhơn luân vận chuyển ngày nay được thọ giáo vào hàng môn đệ chơn vị chơn
quân nguyên do của Đấng Chí-Tôn Đại Từ Phụ. Xét trọn lỗi phàm tế vi còn lẫn lộn
nơi Thánh chất từ khi thọ kiếp sanh đến nay.
Vì thể xác
phàm trần của đệ tử ngày giờ này quá suy nhược nhứt là cập nhãn quang của đệ tử
không còn cho phép Đệ Tử đọc chữ đặng nữa, còn viết thì viết mù rất khó khăn
nên hàng ngũ không đặng chỉnh tề đâm lên đâm xuống và lắm khi không tiếp liền
nhau nên không đặng trọn lễ, cầu xin Ơn Trên thương xót tha thứ tội tình.
Đệ tử cảm đội
ân đức Đức Ngài tha thứ.
Đệ tử Hồ Tấn
Khoa sanh năm Kỹ Hợi (1899) tại làng Lạc Bình Tổng An Vinh Hạ, tỉnh Tân An, nay
là Long An, vào lối tháng 11 âm lịch không biết ngày giờ được ra chào đời.
Cha xác thịt
là Hồ Tấn Giêng lúc đó đang lãnh chức thơ ký (thơ lại) ở Tòa Hành Chánh (Tòa
bố) tỉnh Tân An hiện nay đổi lại là Long An dưới trào Pháp thuộc.
– Cha: Hồ Tấn Giêng sanh năm Đinh Mão (1867)
– Mẹ: Huỳnh Thị Tiền sanh năm Mậu Thìn (1868)
Cha mẹ phần xác thịt của Đệ Tử sanh tất cả 7
người con, 3 trai và 4 gái như sau:
1 . Hồ Thị Lập sanh năm Mậu Tý (1888)
2 . Hồ Thị Nghiệp sanh năm Canh Dần (1890)
3 . Hồ Thị Cứ sanh năm Nhâm Thìn (1892)
4 . Hồ Tấn Bửu sanh năm Ất Mùi (1895)
5 . Hồ Tấn Khoa sanh năm Kỹ Hợi (1899)
6 . Hồ Thị Tràn sanh năm Nhâm Dần (1902)
7 . Hồ Nhơn Nghĩa sanh năm Kỹ Dậu (1909)
Ba chị lớn đã chết, còn sống hiện tại là 3 trai
và một gái. Lúc đệ tử mới sanh ra thì thân phụ về phần xác có làm tờ cho vị
Chánh Lục Bộ ghi vào Bộ Sanh, nhưng không rõ lý do nào mà vị chức việc này quên
gài vô bộ. Cho đến ngày 1/6/1900 là năm Canh Tý mới gài vào hai Bộ Sanh. Có lẽ
đây cúng là do Thiên ý vì nhờ vậy nên đệ tử mới còn tuổi để thi vào trung học
sau này.
Từ khi mẹ xác thịt của đệ tử thọ thai cho đến
khi sanh đệ tử thì không có điều gì đáng kể. Đến năm đệ tử đặng 5 tuổi theo lời
đệ tử nghe thuật lại thì cha xác thịt của có bắn chết một con chim lạ đến ăn
trái cây sộp gần chỗ căn phố mướn ở, một ít lâu sau đó cha xác thịt của đệ tử
phát bịnh, đau một con mắt, sưng nhức có mấy ngày rồi mù luôn. Mẹ con của đệ tử
lo chạy thầy, chạy thuốc đủ thứ hết nhưng rốt cuộc tiền mất tật còn – gia đình
suy sụp nghèo túng phải trả căn phố mướn trở về quê nội ở làng Lạc Bình ở chung
với bà nội của đệ tử và mấy chị em gái. Còn anh trai của đệ tử là Hồ Tấn Bửu
thì nhờ bà chủ phố – một nhà từ thiện có đạo Ki Tô Giáo – là bà Tổng Thận làm
phước nuôi cho ăn học.
Sau khi bà nội chết, cha mẹ đệ tử thấy ở đồng
không phương sanh sống, nên dời nhà về Châu Thành, Tân An, nhờ bà Tổng Thận chủ
phố trước cho phép cất nhà trên một phần đất của bà, cách chợ không xa. Nhờ lúc
ở đồng có sẵn cối xay và cối giả, lúc đó trong nhà có đặng 50 giạ lúa nên cho
con hợp nhau xay giả ra gạo trắng cho chị thứ hai mỗi ngày gánh ra chợ bán đắp
đổi qua ngày nuôi con đến khi khôn lớn.
Khi đó đệ tử đẵ 8, 9 tuổi gì rồi mới bắt đầu đi
học. Không rõ thân phụ của Đệ Tử làm đơn xin với nhà nước Pháp cách nào mà
người anh của Đệ Tử là Hồ Tấn Bửu và đệ tử đều được cấp cho học bổng nội trú ở
trường Mỹ Tho.
Lúc đó Đệ Tử 11 tuổi thì ra khỏi gia đình, rồi
từ đó cho đến nay vì phải du học, nên lớn lên đi làm việc thì thuyên chuyển đi
nơi này nơi khác, nên đệ tử không biết rõ về bà con dòng họ thân tộc.
Vì đi học trể lại phải vượt nhảy bỏ lớp mới vào
nội trú được, nên đệ tử phải mất nhiều năm mới theo kịp bạn khác và đến năm
1915 đệ tử mới thi vào trung học kịp thời. Không có khai sanh lộn ngày thì đệ
tử đã quá tuổi không đặng vào trung học ắt phải chịu dốt luôn.
Lúc đệ tử vào lối 13, 14 tuổi, tuổi ở cấp tiểu
học nhiều lần xem tự điển lại tự nhận giống Victo Hugo, mấy nét nhăn nơi trán.
Anh của đệ tử là Hồ Tấn Bửu, sau khi thi đỗ
bằng tiểu học thì nghỉ học để thi vào làm Thư Ký địa hạt ở Tân An tiếp phụ gia
đình còn nghèo để cho đệ tử tiếp tục học.
Học trung học 4 năm rồi ra đại học Hà Nội 4 năm
nữa ra trường vào năm 1924, cưới vợ và thuyên bổ làm việc ở Bạc Liêu, đến
Baria–Cần Thơ, Hồng Ngự (Châu Đốc), Biên Hòa và cuối cùng trở lại Châu Thành
Châu Đốc thì mãng hạn nghiệp quan trường để chuyển lần qua nghiệp Đạo.
Lúc đệ tử dự bị xin vào đại học thì tâm tính đệ
tử không muốn học những môn ngày sau ra làm quan cho có danh tiếng như ra làm
huyện phủ hay là bác sĩ mà chỉ muốn học môn dược để cứu giúp bệnh nhân hay là
học thú y để sống hèn hạ mà miệng thế buổi đó gọi là thầy thuốc chó, thầy thuốc
trâu. Nhưng gia đình thì lại muốn cho đệ tử học y khoa bác sĩ hay trường luật
pháp hành chánh để về làm huyện phủ với người ta cho có danh dự.
Vì chổ bất đồng ý kiến đó cho nên Đệ tử đành
thi vào ngạch thư ký quản hạt làm việc đặng hơn một tháng thì chánh quyền Pháp
ra một nghị quyết bãi bỏ hẳn danh từ huyện phủ và chỉ gọi là commis tức là phụ
tá mà thôi. Ngày Đệ tử đưa các bạn đồng học lên tàu ra Bắc (Hà Nội) tựu trường
làm cho Đệ tử nôn nao muốn đặng ra Bắc một phen.
Với sự bãi bỏ danh từ huyện phủ để thay vào
danh từ commis là một chức vụ làm việc văn phòng chớ không có tánh cách cai trị
như huyện phủ và lời hứa của ông quan Thống Đốc cho phép những thư ký trẻ tuổi
muốn ra học đại học luật thì sẽ giúp cho dể dàng. Nên Đệ tử về nạp đơn xin đi
học và một tuần lễ sau có công điện phải xuống tàu Orénoque đang đậu bến Sài
Gòn sắp sửa ra Bắc trong vòng 3 ngày.
Đặng tin quá đột ngột, gia đình chỉ tom gom cho
Đệ tử 50 đồng bạc để ra Hà Nội may sắm đồ ấm để chịu đựng mùa lạnh ngoài ấy.
Thế là lòng không muốn học đại học luật pháp mà
rốt cuộc cũng đi không khỏi trường đó và lòng không muốn làm huyện phủ củng
phải mang danh phủ huyện, vì sau khi đổ đạt ra làm việc với danh từ commis thì
hai năm sau chánh quyền Pháp lại bãi bỏ danh từ commis và phục hồi danh từ phủ
huyện lại.
Lạ lùng trong kiếp sanh của Đệ tử từ ở mặt thế
và cả mặt Đạo thì những điều mà Đệ tử chẳng những không ước vọng mà còn muốn
tránh thì lại bị khép vào khuôn không tài nào tránh khỏi.
Sau khi đỗ đạt ở Hà Nội về thì thân phụ và thân
mẫu đệ tử cho đệ tử kết hôn với cô Trần Thị Vàng, sanh năm Bính Ngọ (1906). Là
con gái út của ông Trần Văn Sửu, Đốc Phủ Sứ hồi hưu, Bà Võ Thị Bàng là bạn học
và cũng là bạn thơ lại với nhau lúc thân phụ đệ tử chưa thọ bịnh mù, mướn phố ở
cạnh nhau.
Trong lúc cô Trần Thị Vàng thọ thai thì một hôm
thỏ thẻ với đệ tử yêu cầu sau khi sanh con trai thì cho đặt tên là Bạch. Đệ tử
vui vẻ hỏi tại sao biết sanh con trai và tại sao lại xin đặt tên là Bạch,
thoảng sanh con gái thì sao?
Trần Thị Vàng thỏ thẻ rằng: “Tôi chắc sanh
con trai vì lúc thọ thai nằm mộng thấy một ông già râu tóc bạc phúc hậu, bận áo
rộng giống như hình vẽ ông Phước, Lộc, Thọ đem cho và trao trong tay em một vật
tròn bằng cái chén ăn cơm trong sáng lạ thường và dặn em rằng gìn giữ về sau mà
nhờ”. Khi đó chúng đệ tử đang đứng gần nhau không rõ do đâu mà đệ tử tỏ dấu
mừng rỡ, ôm cô Trần Thị Vàng và nói rằng: “Nên mừng đi vì là Thái Bạch Kim
Tinh giáng phàm đó”. Rồi cũng không rõ tại sao đệ tử vẫn cương quyết đặt
tên là Hồ Thái Bạch, con trai trưởng nam của đệ tử, mặc dầu thân mẫu của đệ tử
bảo là không nên và sợ mang tội. Khi du học ở ngoài Hà Nội thấy ngoài ấy gọi
con trưởng là thứ cả nên gọi Bạch là Cả, tới nay bạn bè hay em út đều gọi là Cả
Bạch hay Anh Cả.
Vì sanh con đầu tiên nên cha mẹ bên chồng cũng
như bên vợ đều đồng ý dạy đệ tử phải cho vợ về sanh ở Tân An, đến 3 tháng mới
đưa về với đệ tử ở Bạc Liêu. Lúc đệ tử đưa cô Trần Thị Vàng về ở Tân An đi tàu
canot từ Bạc Liêu về Mỹ Tho, khi tàu từ trong kinh đi tới vàm sông lớn Mê Kông
thì gặp sóng to gió lớn, làm cho tàu nghiên lắc, sóng chụp đổ lên boong tàu
tưởng chừng như không tránh khỏi tai nạn. Nhưng may mắn, sau ba bốn lượn sóng
to rồi thì êm luôn, may hồn cho tất cả bộ hành.
Thế là Hồ Thái Bạch ra mặt chào đời vào đêm
mùng 7 rạng mùng 8 tháng 4 năm Bính Dần, rất khuya nhưng không rõ là giờ nào
nhưng vẫn chưa qua giờ Tý. Anh tư của đệ tử là Hồ Tấn Bửu đứng khai sanh để
ngày mùng 7 tháng 4 Bính Dần, đến sau nầy đệ tử mới rõ là ngày Khai Đạo Cao
Đài.
Trong lúc đang thọ thai thì Trần Trần Thị Vàng
có thỏ thẻ xin đệ tử mua cho một giàn máy may thứ quay tay, đệ tử hỏi sao không
mua máy đạp thì nói rằng, mang bụng nặng nề sợ đạp máy động thai nên muốn có
máy quay tay, có em nhỏ đứng quay giúp để may đồ cần thiết cho em nhỏ sắp sanh.
Nghe vậy đệ tử ra chợ mua cho một cái máy may kiểu đạp hiệu Singer có kèm theo
cái đồ quay tay, khi nào cần quay tay sẽ ráp vào để quay.
Có điều lạ là lúc đệ tử đem cái máy may về cho
Trần thị Vàng thì không hiểu sao đệ tử lại nghiêm chỉnh bảo: Em ráng giữ gìn
cái máy may này cho kỹ, vì ngày sau mặc dù chúng ta có tạo sắm đặng sự nghiệp
tài sản bao nhiêu cũng điều bị tiêu hủy hết, chỉ còn chiếc máy may này để may
mướn ăn mà thôi.
Không hiểu tại sao đệ tử đang ở ngưỡng cửa một
tương lai đầy hứa hẹn sẽ đặng thăng quan tấn tước, giàu có sang trọng, vinh
diệu của một ông quan lớn chủ quận, có lính hầu, kẻ thưa người dạ, mà lại có
những ý nghĩ đen tối như vậy, nhưng hình như tâm linh của đệ tử lúc nào cũng
làm cho đệ tử tin rằng, trong kiếp sanh của đệ tử sẽ có loạn lạc chiến tranh
nghèo khổ nên luôn luôn nhắc nhở và kềm chế tiểu gia đình của đệ tử trong nếp
sống tiết kiệm, đơn giản đã quen, không có rượu trà trầu thuốc, cà phê và các
xa xí phẩm, cùng là hủy hoại của Trời cho mặc dầu là đệ tử buổi đó chưa có một
tín ngưỡng nào rõ rệt chỉ quen biết lúc còn bé thơ, có nhiều khi theo bà dì hay
thân mẫu vào chùa Phật, thấy các sư, sãi cúng, lạy ngồi liều, đốt ba liều thuốc
cháy bỏng da đầu mà vẫn tụng niệm.
Có điều khó hiểu là đệ tử có một ám ảnh kỳ lạ
là đang sống trong cảnh quan trường sung sướng mà lại cứ nói với vợ là đến 50
tuổi đệ tử sẽ giao trách vụ gia đình cho vợ để ra đi: Hỏi đi đâu thì đệ tử nói
chẳng biết đi đâu mà chỉ đi ta bà với một cây gậy, cái bị và bầu nước, sống
cảnh hạ tiện của những người cùng khổ, cho biết họ sống như thế nào. Ban đầu
thì bà vợ của đệ tử còn rầy rà bảo sao đệ tử nói khùng, đang sống yên vui với
vợ con mà đòi đi đâu không biết, nhưng đệ tử vẫn nhắc đi nhắc lại về việc lãnh trách
nhiệm gia đình cho khỏi cần nói nữa.
Thế là đúng 50 tuổi quyền vô hình đưa đệ tử về
Tây-Ninh một cách phi thường, mặc dù đệ tử chưa có Đạo Cao-Đài và từ đó đệ tử
mới hiểu rằng ý nghĩa mang bầu quãy gậy là đi Tu mà cũng do đó mà bạn đời của
đệ tử lãnh đảm bảo trách vụ gia đình không một lời gì than thở.
Khi đệ tử trên 30 tuổi mới để ý suy nghĩ đến
tín ngưỡng Đạo Phật vì thấy người chị Hai của đệ tử là Hồ Thị Lập phát tâm qui
y thọ giáo chùa Phật, ăn chay trường và thuộc kinh rất nhiều, tụng đọc cho đệ
tử nghe, nhưng vẫn không lưu tâm đến nhiều về ý nghĩa.
Lắm lần đệ tử suy nghĩ Cực lạc là ở đâu mà bao
nhiêu người say mê theo đạo để về Cực lạc. Đệ tử rất thương tâm về bà chị Hai
của đệ tử là người hết sức hiền lành, tu niệm trường trai lại sanh ra một bầy
con trai quá hoang đàng. Không lo học, lại trốn học tập võ theo du đáng, gây gỗ
đánh nhau, bị mắng vốn lu bù.
Có lần đệ tử xin nghĩ phép về thăm nhà thì thấy
thân mẫu của đệ tử là bà ngoại của đám đó, đang bắt trói bốn cậu, mỗi cậu vào
một cột nhà. Hỏi nguyên do thì thân mẫu của đệ tử cho biết: Chị Hai mầy tu hành
mà sao lại sanh bầy quĩ này để đi phá xóm theo du đãng, nên bắt về phạt tội.
Khi ấy đệ tử lại ứng khẩu bảo: Má ơi, hơi đâu mà rầy la đánh đập đám này, vì
nó đầu thai đây để lớn lên đi đánh giặc. Chừng đó má già yếu chạy đâu không nổi,
nó sẽ cổng má chạy.
Thật vậy về sau mấy đứa con của chị Hai, chị Tư
và chú Năm của đệ tử hầu hết theo kháng chiến, có đứa hy sinh, có đứa còn sống
trở về làm việc với nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Người chị Ba chết sớm không có con. Riêng phần
đệ tử về với Đạo Cao Đài nên cả tiểu gia đình đệ tử đều về với Đạo Cao Đài; còn
hai đứa em của đệ tử thì không có đứa con nào theo cách mạng kháng chiến.
Có lần đệ tử cũng nghĩ phép về thăm nhà, luôn
tiện đáp tàu canot về thăm nhạc mẫu của đệ tử làm ruộng ở vùng Mộc Hóa (Tân
An), đến nơi đã xế trưa, nhạc mẫu của đệ tử sau khi cho ăn cơm trưa thì cho dọn
ghe, định cùng đi với đệ tử về thăm nhà. Chiếc ghe lườn nhỏ không mui, chỉ có
nhạc mẫu ngồi khoang giữa, đệ tử ngồi trước mũi còn sau lái cho chú chèo ghe mà
thôi. Khi ghe về gần tới Tân An thì đêm đã khuya, sương xuống lạnh, trời trong,
sao tỏ, mà không có trăng, đêm thanh vắng lặng, chỉ nghe tiếng mái chèo đều đều
quạt nước, đến một khúc quanh, đệ tử nghe tiếng chuông mõ và tụng kinh đều đều
của một sư sãi đang công phu. Hoàn cảnh làm xúc động tâm linh đệ tử âm thầm suy
nghĩ: Không biết Trời Phật có hay không mà vị sư sãi kia quá tin tưởng, nên
đêm khuya lạnh lẽo mà vẫn hằng bửa công phu không nghỉ, nếu quả thật có Trời
Phật xin cho tôi thấy ấn chứng rõ rệt đủ đức tin thì khi tôi lớn tuổi sẽ đi tu.
Đệ tử vẫn âm thầm suy nghĩ như thế thì thoạt nhiên ngôi sao Bắc Đẩu ở trước mặt
đệ tử phực sáng lên một vùng ngang độ ba bốn tấc tây, sổ dài sáu bảy tất tây,
sáng tỏ như vậy độ 5 phút đồng hồ mới lu dần và lặn mờ luôn.
Đệ tử hết sức kinh động trước cảnh tượng cho
đến bây giờ nhắc lại đệ tử vẫn còn xúc động vô cùng. Bà Nhạc Mẫu thì niệm kinh
cứu khổ liên tu, còn chú chèo ghe cũng ngừng chèo, nhưng mỗi người âm thầm có
cảm giác và cảm tưởng riêng mình chớ không ai dám nói tiếng nào. Cảnh tượng đó
đánh mạnh vào tâm linh của đệ tử nhưng tuổi trẻ hay lãng quên trước cảnh phồn
hoa náo nhiệt của đời sống vật chất.
Đến khi phong trào Cộng Sản lớn mạnh, chiếm
phân nữa lãnh thổ Âu Châu và gần phần ba lãnh thổ Á Châu làm cho đệ tử phân vân
suy nghĩ đến câu: Một ngày ở Thiên Đàn bằng một năm ở thế gian, không lẻ xứ
Cộng Sản là Thiên Đàng hay sao? Vì ở bên xứ Nga, mặt trời mọc trên sáu tháng
rồi lặn đi sáu tháng mới mọc lại.
Sống giữa hai luồng tư tưởng, một đàng là đời
sống vật chất, với bao nhiêu ấn chứng, thật tế trước mắt còn một đàng về tín
ngưỡng Đạo giáo với ảo tưởng mong lung trừu tượng làm cho đệ tử nhiều lúc phải
phân vân, nhưng cũng không sao đánh đổi nổi tinh thần tín ngưỡng đã tiêm nhiễm
tận xương tủy từ bao nhiêu thế kỷ.
Thời gian trôi qua rất lẹ, ngày 9/3/1945 Nhựt
Bổn đảo chánh Pháp, lúc đó đệ tử đã thăng tiến đến phẩm Đốc Phủ Sứ là tột đỉnh
con đường hoạn lộ, đệ tử lãnh phận sự chủ quản Châu Thành Châu Đốc.
Vị sĩ quan Nhựt Bổn cho dời đệ tử đến văn phòng
yêu cầu đệ tử lãnh chức vụ Tỉnh Trưởng Châu Đốc thay thế cho người Pháp. Đệ tử
mấy phen từ chối, hỏi sao Nhựt Bổn không chọn người trong Đạo Cao Đài hay Hòa
Hảo đã có công hợp tác với Nhựt lại chọn tôi là người làm việc cho Pháp, không
sợ tôi phản lại Nhựt Bổn hay sao?
Những lời đáp ứng của đệ tử đã làm cho vị thông
dịch viên lắm lúc ngập ngừng, không dám dịch hết lời, nhưng đệ tử vẫn bình
tỉnh, thản nhiên yêu cầu cứ dịch hết. Vị sĩ quan Nhựt bảo rằng: Người của
Đạo Cao Đài và Hòa Hảo không thạo hành chánh nên cần đệ tử là vị quan hành
chánh người Việt cao cấp nhứt trong tỉnh. Đệ tử vẫn từ chối bảo rằng, khả
năng của tôi chỉ cai trị một quận mà thôi chớ không đủ sức cai trị cả một tỉnh,
và yêu cầu vị sĩ quan Nhựt chọn trong hàng kỹ sư, bác sĩ, trạng sư, dược sĩ
đang có văn phòng làm việc tại Châu Thành Châu Đốc.
Vì vậy mà cả tuần lễ qua mà không chọn đặng
người Việt thay thế cho tỉnh trưởng người Pháp. Rốt cuộc vị sĩ quan Nhựt phải
nhờ ông Phủ dưới đệ tử một bực, làm việc ở Tòa Bố Châu Đốc lập danh sách mời
tất cả các thân hào nhân sĩ và công chức, các sở, các ty họp tại văn phòng Tòa
Bố (Tòa hành chánh) để công cử người cầm quyền tỉnh trưởng.
Sau cuộc bỏ thăm kín thì hầu hết các phiếu đều
cử đệ tử. Vị sĩ quan Nhựt tỏ vẻ đắc thắng hỏi đệ tử còn từ chối nữa hay không?
Nắm đặng hậu thuẩn vững chắc tín nhiệm của nhân
dân. Đệ tử để lời cảm ơn lòng tín nhiệm của anh em và yêu cầu vị sĩ quan Nhựt
chấp nhận các điều kiện sau đây thì đệ tử mới chấp nhận nhiệm vụ Tỉnh Trưởng:
1 . Với nhiệm vụ Tỉnh Trưởng, tôi phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm trật tự, an ninh trong trong tỉnh, quân đội Nhựt không
đặng xâm phạm vào.
2 . Để có phương tiện đảm trách nhiệm vụ Tỉnh
Trưởng, yêu cầu quân lực Nhựt giao hết số võ khí của tỉnh theo thông qui còn
lưu trữ ở văn phòng hành chánh.
3 . Quân nhân Nhựt ra đường không đặng hiếp đáp
nhân dân, cướp đoạt tài sản, hay ăn uống mua sắm vật gì
mà không trả tiền.
4 . An ninh trật tự do lính cận vệ (Garde
Civile) của tỉnh dưới quyền lãnh đạo chỉ huy của Tỉnh Trưởng đảm trách, trường
hợp có cuộc bạo hành lớn, Tỉnh Trưởng cần quân lực yểm trợ thì vị sĩ quan Nhựt
phải giúp.
5 . Giữ nguyên vẹn tất cả công chức các ty, các
sở, các ngành làm việc như thường, lương tháng vẫn trả đủ, cả hệ thống hành
chánh từ tỉnh, quận, tổng, làng đều giữ nguyên vẹn không gì thay đổi.
Các khoản yêu cầu của đệ tử đều được toàn thể
hội trường hoan nghinh nên vị sĩ quan Nhựt không sao từ chối đặng nên phải chấp
nhận toàn bộ, chỉ yêu cầu hoản việc giao võ khí, viện lý do là người Pháp rút
lui thì họ đã mang tất cả võ khí theo, còn thứ nào bỏ lại thì đã như phá hủy,
để chờ trình lên thượng cấp Nhựt giải quyết sau.
Một hôm đệ tử không nhớ rõ ngày tháng nào, vị
Tổng Tư Lịnh Thống Đốc toàn bộ quân lực Nhựt ở Đông Dương kiêm Thống Đốc Toàn
Quyền Hành Chánh thay vị Gouverneur Génénal của Pháp đến viếng Miền Tây Nam Kỳ,
nên có công điện triệu tập tất cả Tỉnh Trưởng Hậu Giang như Châu Đốc, Long
Xuyên, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu họp tại dinh hành chánh
Cần Thơ là một gian phòng rộng lớn, bên trong ngó ra để một ghế bành cho vị
Thống Chế Toàn Quyền ngồi, hai bên các quan văn võ Nhựt ngồi, bên ngoài làm
việc đối diện với vị Thống Chế Toàn Quyền để một cái ghế đai, đầu ngoài có sắp
một hàng ghế cho các vị Tỉnh Trưởng người Việt ngồi.
Khởi đầu vị Thống Chế Toàn Quyền Nhựt mời các vị
Tỉnh Trưởng người Việt tuần tự từng vị lên ngồi chổ ghế đai đối diện với Thống
Chế để báo cáo tình hình trong tỉnh mình hoặc trả lời những câu hỏi của Thống
Chế.
Khi các vị Tỉnh Trưởng người Việt đã báo cáo
xong và sắp sửa bãi hội thì đệ tử là người trẻ tuổi hơn hết đưa tay xin phép
cho hỏi lại Thống Chế vài vấn đề. Đặng chấp thuận đệ tử trở lên ngồi đối diện
với vị Thống Chế Nhựt.
Bao nhiêu con mắt của quan văn võ Nhựt cũng như
các vị Tỉnh Trưởng kia và quần chúng đông đảo bao quanh hội trường chờ xem coi
vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nầy hỏi gì? Lúc đó đệ tử mới có 47 tuổi.
Vị Thống Chế Nhựt khởi hỏi đệ tử muốn gì?
Đệ tử xin lỗi cho phép hỏi:
Tôi thấy nhơn viên nhà nước Nhựt dán khắp nẽo
đường lời bố cáo của vua Thiên Hoàng Nhựt cho biết quân lực Nhựt đảo chánh Pháp
không có ý định chiếm đoạt đất nước Việt Nam. Vậy điều đó có quả thực vậy
chăng?
Vị Thống Chế Nhựt trả lời bằng tiếng Pháp rất
rành là đúng thật vậy, vì hiện nay chánh phủ Nhật đã giao cho quí vị là người
Việt để cai trị người Việt rồi đó.
Đệ tử xin lỗi vị Thống Chế và đáp lại rằng: “Đó
là một việc ở địa phương chớ cả nước tôi đâu có thấy một chánh phủ Việt Nam nào
thành lập đâu. Thêm nữa tại tiền chúng tôi thấy ông đây là một Tổng Đốc Toàn
Quyền ở Đông Dương (Gouverneur Général de I’Indochine) như người Pháp, còn ông
Minoda Thống Đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) và các văn võ hiện diện
hôm nay đều là thay thế cho các quan văn võ Pháp.
Vị Thống Chế Toàn Quyền Nhựt cười đáp: “Tình
trạng nầy tạm thời để ổn định tình hình trong nước, rồi ngày gần đây sẽ có một
chánh phủ của người Việt Nam ra đời”.
Đệ tử tiếp xin cám ơn ông Thống Chế và đặt trọn
niềm tin nơi lời hứa long trọng của Thống Chế và tiện đây tôi xin trình bày
tình trạng Tỉnh Trưởng của chúng tôi rất là phức tạp.
Vị Thống Chế Nhựt hỏi phức tạp như thế nào?
Đệ tử đáp phức tạp ở chổ chúng tôi thuộc ngạch
Quận Trưởng, trách nhiệm một quận nhỏ hẹp và lãnh lương Quận Trưởng, ngày nay
chính quyền Nhựt bắt chúng tôi lãnh trách vụ Tỉnh Trưởng, trách nhiệm nặng nề
gắp mười của Quận Trưởng mà vẫn phải ngạch Quận Trưởng, lãnh lương Quận Trưởng,
lại bị quân lực Nhựt tước hết khí giới mà đặng thăng lên ngạch Tỉnh Trưởng,
hưởng lương Tỉnh Trưởng.
Nghe vậy vị Thống Chế Nhựt quay lại hỏi ông
Minoda Thống Đốc Nam Kỳ: “Việc này ra sao?”.
Ông Minoda bối rối trả lời chưa kịp cứu xét.
nên rút sổ tay ghi chú để về cứu xét và giải quyết.
Đến đây đệ tử không còn hỏi gì.
Vị Thống Chế Nhựt lấy một danh thiếp biên vào
mấy chữ giao cho đệ tử và dặn trước khi trở về tỉnh, ghé lại võ phòng Cần Thơ
lãnh số súng cần thiết cho tỉnh và lấy một danh thiếp khác biên mấy chữ và có
đóng dấu ấn tín, dặn đệ tử ngày sau đi đâu, cần dùng việc gì ghé võ phòng Nhựt
sẽ giúp đỡ cho.
Trong lúc đó các vị Tỉnh Trưởng kia không có ai
lên tiếng yêu cầu gì hết, khi đệ tử lãnh đặng súng thì xin chia bớt.
Rất tiếc kỳ đó đệ tử chỉ có 2 xe du lịch nhỏ để
chở đầy dập hết chỗ ngồi.
Khi bãi hội ra gặp bác sĩ Lê Văn Hoạch, lúc ấy
lãnh phận sự cảnh sát trưởng Cần Thơ, ôm ngang eo ếch đệ tử dở hổng lên và la
lớn: “Khoa, Toa ngon lắm”.
Chánh quyền Nhựt chưa kịp thi thố lời hứa thì
bị hai quả bom nguyên tử phải đầu hàng.
Chánh phủ Trần Trọng Kim chết trong trứng nước,
để phong trào nhân dân cho Cộng Sản Việt Minh lãnh đạo nổi lên cướp chánh
quyền, Trần Văn Giàu nắm Chủ Tịch Nam Bộ.
Ở tất cả các tỉnh Nam Kỳ, Cộng Sản Việt Minh
đều cướp chánh quyền. Các vị Tỉnh Trưởng người Việt, kẻ chạy khỏi, kẻ bị bắt
hay bị giết cả. Ở Châu Đốc bọn Cộng Sản Hồng Cẩm Hòa không bạo hành được vì uy
thế và uy lực của đệ tử. Mặt khác đệ tử đã kịp thời đứng lên lãnh đạo nhơn dân
tranh thủ độc lập nước nhà. Không đảo chánh cướp chánh quyền. Hồng Cẩm Hòa cậy
ông Đốc Công Cường là bạn thân của đệ tử, dẫn đến gặp đệ tử, yêu cầu cho tổ
chức cuộc đảo chánh cướp chánh quyền giả, nhưng đệ tử không chấp nhận, trả lời:
Không tranh quyền cố vị, vẫn nhìn nhận chánh quyền Trần Văn Giàu. Nếu Hồng
Cẩm Hòa muốn thay đệ tử thì cứ đi xuống Sài Gòn xin lịnh, Trung Ương bảo tôi
giao quyền thì tôi giao ngay.
Tình trạng này kéo dài cho đến khi Ung Văn
Khiêm, Uỷ Viên Nội Vụ ở Sài Gòn và ông Nguyễn Văn Tây, Thanh Tra Chính Trị Miền
Tây, đến Châu Đốc sắp xếp lại và vẫn giữ đệ tử làm Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Chánh,
còn Hồng Cẩm Hòa lãnh Uỷ Ban Kháng Chiến. Thế là toàn bộ vũ khí của Châu Đốc
gồm khoảng 100 khẩu súng trường, hai khẩu súng tiểu liên với 70 súng lục rulô
cỡ lớn gọi là giò heo, một số lựu đạn và thuốc đạn đầy đủ đã về tay Hồng Cẩm
Hòa, nên Hòa định âm mưu bắt hoặc ám hại đệ tử. Nhưng rất hữu phúc, lúc đó có
một Đảng viên cao cấp ở Hà Nội vào, có ủy nhiệm thư của Hồ Chủ Tịch cho vô làm
Đại Sứ bên cạnh chánh phủ Cách Mạng Cao Miên tên là Võ Văn Tín đến ở chung với
đệ tử tại dinh tỉnh trưởng. Vì khi đến Châu Đốc thì quân lực đồng minh đã đưa
Pháp chiếm Cao Miên lại rồi nên đành phải ở luôn Châu Đốc với đệ tử, gần gũi
nhau, hiểu biết tánh tình nhau, rồi mến nhau nên nhờ người bao che nên bọn Cộng
Sản địa phương Hồng Cẩm Hòa không ám hại đặng.
Buổi đó tình hình rất hổn độn, Việt Kiều ở Cao
Miên chạy về Châu Đốc có số ngàn, các chính trị phạm Đảng viên Cộng Sản từ Côn
Đảo về cũng đông, đệ tử đều lo chu toàn mọi lẽ.
Khi đặng tin Pháp trở lại chiếm Châu Đốc thì
Ban Khán Chiến ra lịnh tản cư Uỷ Ban Nhân Dân tức hành chánh dời vô núi Sam, Uỷ
Ban Khán Chiến ở thủ Châu Đốc cho đến khi thất thủ thì Uỷ Ban Kháng Chiến rút
về phía Sài Gòn còn Uỷ Ban Nhân Dân rút về Xà Tón (Tri Tôn).
Khi rời khỏi Châu Đốc, đệ tử mới thấy vai tuồng
của đệ tử rất khó, vì bao nhiêu vàng bạc buổi trước để tủ sắc nay vào thùng
mang theo, nặng nề phức tạp mà lại càn nguy hiểm cho tính mạng, nên đệ tử mấy
phen yêu cầu giao cho người khác mà mấy ông Cộng Sản không chịu bảo rằng không
tín nhiệm ai bằng đệ tử.
Khi vào Tri Tôn đệ tử đề nghị một ổ kháng chiến
ở núi Cấm, đặng đồng ý, nên một hôm đệ tử lên núi Cấm xem địa thế.
Bắt đầu từ đây con đường về với Đạo Cao Đài hé
mở dần và đưa đẩy đệ tử đi từ phương trời Miền Tây về tới Tây Ninh ở góc trời
Miền Đông Nam Kỳ.
Lần đầu tiên đệ tử lên núi Cấm ghé vào Cao Đài
Tự, một Thánh Thất nhỏ, cây ván lợp ngói, ông Giáo Sư Gồng một chức sắc phái
Tiên Thiên trụ trì. đệ tử thấy ông Giáo Sư Gồng sắp đặt chổ an nghỉ cho đệ tử
rất chu đáo. Ngạc nhiênđệ tử hỏi sao ông ấy biết trước thì ông nói rằng: “Ông
Tuần Quân báo tin có người lớn lên chùa”, ông nói rằng tưởng đâu là ông Hội
Đồng Hoài hay anh lớn nào trong Đạo lên chớ không dè là đệ tử. Lúc đó trời đã
xế chiều, mặt trời đã khuất xuống ngọn cây, ngoài sân mát mẻ, đệ tử mới hỏi:
Ông Tuần Quân là ai mà biết tôi lên để báo tin trước. Ông Giáo Sư Gồng hạ giọng
nói nhỏ cho đệ tử nghe là Ông Cọp. Tánh hiếu kỳ, đệ tử cất giọng nói lớn: “Ông
Tuần Quân có lòng tốt báo tin tôi lên tôi cám ơn Ông Tuần Quân”. Vừa dứt
tiếng thì trong rừng gần đó, một tiếng Béo vang dội. Ông Giáo Sư Gồng nói: Ông
Tuần Quân trả lời đó. Hỏi sao lại kêu ông Cọp là Ông Tuần Quân. Ông Gồng
bảo lúc cầu cơ thì các Đấng phong làm Tuần Quân, nghĩa là quân canh tuần ở vùng
nầy. Có một lần bọn cướp định lên phá bị mấy ông Tuần Quân rượt chạy một trận
không dám trở lại.
Câu chuyện xây qua cơ bút, Ông kể từ lúc mới
cất chùa và kể bao nhiêu huyền diệu cho đệ tử nghe. Cuối cùng ông hỏi đệ tử có
biết Đạo Cao Đài và có hầu đàn lần nào không? Nghe đệ tử nói chưa, Ông đề nghị
khuya sau khi cúng thời Tý lập đàn cho đệ tử hầu.
Đêm đó vì mới leo núi lần đầu nên đệ tử mệt mõi
ngủ say mê, đến khi cúng đàn xong, Ông Giáo Sư Gồng đánh thức, lấy quần áo cúng
của ông cho đệ tử mặc và dẫn lên Thánh Thất. đệ tử thấy Thiên Bàn nhang đèn
nghiêm trang, bên dưới có một cái bàn nhỏ, có một Đồng Tử khăn áo trắng ngồi
ngó mặt lên Thiên Bàn. Bên ngoài có lối mười mấy hai chục môn đệ quỳ hầu.
Ông Giáo Sư Gồng đưa đệ tử vào quì trên hết,
phía sau lưng vị Đồng Tử còn ông thì quì phía sau lưng đệ tử.
Bắt đầu, toàn thể bổn Đạo đọc kinh cầu, độ 5
phút thì Đồng Tử tay cầm cây bút bằng cây quây quây trên bàn rồi ứng khẩu nói:
Về cơ xưng danh Đức Lý Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn
Oai Nghiêm – gõ bút mạnh gọi “Chỉnh đàn”. Ông Giáo Sư Gồng kéo nhẹ vạt
áo đệ tử và nói quì thẳng gối lên. Đệ tử quay đầu lại thấy cả thảy quì thẳng
gối chỉ một mình đệ tử thiếu hiểu biết nên quì bẹp mông lên gối. Thấy vậy, đệ
tử quì thẳng gối lên. Đức Đại Tiên kêu danh đệ tử dạy phải lo tu hành vì cơ tận
diệt đã đến. Đệ tử vẫn làm thinh thì ông Giáo Sư Gồng phía sau kéo nhẹ áo đệ tử
bảo “chịu đi”. Đệ tử lại còn sinh nghi. Mấy ông nầy dụ mình theo Đạo Cao
Đài nên càng không chịu. Trọn kỳ đàn nầy Đức Lý Đại Tiên chỉ nói chuyện với đệ
tử hơn nữa tiếng đồng hồ.
Đức Lý Đại Tiên hỏi từ trước đến giờ Hiền làm
việc với Pháp bây giờ ra sao?
Đệ tử đáp luôn “Là cũng thả trôi theo dòng
nước”.
– Đức Lý Đại Tiên đập cơ mạnh nói: “Đã biết
vậy mà còn theo đuổi làm chi?”
Mỗi lần Đức Lý Đại Tiên Trưởng bảo đệ tử lo tu
thì ông Giáo Sư Gồng đều kêu nhỏ đệ tử bảo “Chịu” làm cho đệ tử càng
nghi ông nầy dụ mình theo Đạo Cao Đài. Lại nữa trong số người hầu đàn không
biết ai xu hướng phe nào nên không thể thố lộ tâm tình, chỉ xin với Đức Lý Đại
Tiên rằng Thánh Hiền xưa có dạy: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Không lẻ lúc nước nhà nguy biến không tìm phương gỡ rối lại đàn ngồi gõ mỏ
tụng kinh cho yên thân phận mình, mặt tình bên ngoài tàn sát lẫn nhau cho đành.
Khuyên nhũ mấy lần không đặng, rốt cuộc Đức Lý
Đại Tiên bảo đệ tử cứ lo tích thảo dồn lương để sau nầy binh rồng tướng cọp của
Đức Ngài về ăn. Và kết thúc có cho đệ tử Khoa một bài thơ tám câu, mà lúc đó
một mặt chưa hiểu Đạo, mặt khác còn say mê quốc sự nên đệ tử để lạc mất, không
sao tìm lại được.
Sau khi bãi đàn, ai nấy đều an giấc, một mình
đệ tử vẫn trằn trọc bán tín bán nghi, nên một mình lén đẩy cửa ngoài, quỳ nơi
gộp đá giữa trời, mặc tình sương xuống lạnh buốt cả người và mặc tình cọp beo
đầy rừng bên cạnh.
Đệ tử thành tâm cầu nguyện thật lâu, xin Ơn
Trên báo mộng cho đệ tử hay là có ấn chứng gì trực tiếp cho đệ tử có đủ đức
tin. Quỳ như vậy cho đến khi quá mõi mệt và quá lạnh, đệ tử mới vào nghỉ nhưng
chẳng thấy ứng mộng gì cả.
Một tuần lễ sau trong Đảng cho đệ tử hợp với
một việt kiều thường gọi là ông Nghĩa Hiệp thạo về nữ trang bằng vàng để nấu
hết số nữ trang thâu thập được trong lúc đệ tử tổ chức “Tuần lễ vàng” và
của tịch thâu ở tiệm cầm đồ. Sau khi nấu được thành cây, cân đặng 10kg vàng,
sắp gọn vào cái hộp sắt có khóa chắc, thì trong Đảng cho đệ tử biết số vàng đó
giao cho 2 đồng chí qua Xiêm mua võ khí, tổ chức đội quân hải ngoại đầu tiên để
chống Pháp. Nếu đệ tử nhớ không lầm hai đồng chí ở Côn Đảo mới về là Lê Duẩn và
Phạm Hùng là hai nhân vật quan trọng nhất trong chế độ Cộng Sản hiện nay. Còn
số bạc khoảng gần 1.000.000 thì giao cho ông Nghĩa Hiệp trách nhiệm bảo thủ.
Đó là ấn chứng đầu tiên linh diệu của Đức Lý
Đại Tiên ban cho đệ tử để cởi mở một gánh nặng mà nhiều phen đệ tử xin giao lại
cho người khác mà không đặng.
Đinh ninh rằng nếu thất thủ Tri Tôn thì sẽ lên
núi Cấm cố thủ, nên đệ tử đem hết gia đình vợ con lên ở trước. Đến chừng quân
Pháp chiếm Châu Đốc núi Sam, Nhà Bàn rồi sắp sữa tấn công vào Tri Tôn thì trong
một phiên họp đêm trong bản quyết định bỏ Tri Tôn rồi ra lịnh tản cư mỗi người
mỗi ngã, chớ không còn sống tập thể nữa. Không còn làm việc công khai nữa mà
phải làm việc bí mật, đệ tử có ý kiến là thuở nay không làm cách mạng không
biết làm việc bí mật thế nào nên yêu cầu cho đi theo nhờ mấy anh dìu dắt cho,
nhưng họ không chấp nhận, có lẻ họ chưa đủ tin đệ tử vì mấy phen họ rũ đệ tử vô
Đảng mà đệ tử không chịu ứng cử đại biểu quốc hội.
Trước tình thế đó, nữa đêm đệ tử phải lên núi
Cấm rước vợ con xuống để sáng ngày phải tản cư. Về đến Tri Tôn trời sáng, người
ta xôn xao, mạnh ai nấy lo tản cư. Riêng phần đệ tử quá đột ngột, không biết
phương tiện nào để tản cư thì may gặp anh Nghĩa Hiệp cho quá giang ghe của anh
qua Rạch Giá rồi sẽ tính. Qua Rạch Giá trước khi chia tay mỗi người một ngã thì
anh Võ Văn Tín đề nghị chia mỗi người hai ngàn đồng bạc để hộ thân, còn số lớn
thì giao hết cho anh Nguyễn Văn Tây, Thanh Tra Chánh Trị ở Hậu Giang. Mặc dù
hết tiền nhưng đệ tử vẫn từ chối không lẻ lấy của công, nhưng anh Võ Văn Tín
nài ép, nên đệ tử không nhận thì không ai dám nhận rồi lấy đâu mà sống, ai cũng
không còn tiền nên đệ tử phải nhận 2000 đồng.
Khi chia tay nhau, đệ tử đề nghị với anh Nghĩa
Hiệp qua Xiêm, mới cùng nhau sẵn ghe thẳng ra bến Lình Huynh thuê thuyền đánh
cá biển đưa đi Xiêm, nhưng đến nơi thấy thuyền đánh cá rầm rầm chạy trở vô, hỏi
ra thì có tàu binh Pháp đón bên ngoài, buộc lòng phải thối lại Rạch Giá. Anh
Nghĩa Hiệp định tách đi riêng, may lúc đó gặp ghe của ông Kim Chung, người
Miên, gốc ở Tri Tôn, làm tỉnh trưởng Kompongcham ở Cao Miên chạy về, nay định
tản cư về quê vợ ở Giồng Đá (Tràm Chọt) mà đệ tử đã quen biết làm việc ở Tri
Tôn nên rũ đệ tử về quê vợ cho biết, đệ tử rất mừng theo về ở Giồng Đá.
Từ đây gia đình vợ con tạm ở yên nơi Giồng Đá,
còn đệ tử mỗi ngày đi dọ nghe tin tức và tìm một lối đi theo chí hướng buổi đó
là giải phóng nước nhà, nhưng đi đâu cũng toàn người xa lạ, không tỏ tâm sự
cùng ai đặng mà chỉ nghe ban tuyên truyền của Việt Minh cộng sản kêu ống loa và
yết bản ở chổ đông người cho biết hạm đội Nga đã qua tới và chiếm đóng ngoài
biển, còn Giải Phóng Quân Hà Nội vô tới Sài Gòn và đang đánh nhau theo đường
phố ở vùng Gia Định–Đakao. Còn quân Bến tre hằng ngày đánh phá Mỹ Tho. Mặt khác
nghe tin sư đoàn Đệ Tam của Nguyễn Hòa Hiệp đang đóng ở Cao Lãnh nên đệ tử định
gởi gia đình ở lại Giồng Đá, còn đệ tử nhứt định ra đi tìm nơi gia nhập để phục
vụ. Cũng may gặp 3 vị giáo viên có quen biết trước, tính hồi cư về Sa Đéc và Mỹ
Tho nên đệ tử xin quá giang đến Sa Đéc tìm phương qua Cao Lảnh, để lại 1500
đồng cho gia đình, còn 500 đồng đệ tử hộ thân.
Khi ghe đi gần tới Sa Đéc thì gặp một đồn lính
Hòa Hảo đón lại không cho đi tới, bảo rằng phía trước đây có đồn lính Pháp, đi
qua không đặng, khuyên trở lại tìm đường khác mà đi.
Lúc đó đã gần tối nên xin nghỉ tạm một đêm gần
đồn, đến sáng ngày bàn tính nhau mới trở lại đi ngã kinh Lắp Vò qua sông Tiền
Giang, thả theo sông cái xuống Mỹ Tho, dịp thuật tiện có thể đệ tử qua Cao Lãnh
ở sông bên kia, không dè lúc qua ghe đi gần tới nơi thì đại bác và súng nổ vang
rền bên Cao Lãnh, dân chúng đang tản cư qua bờ sông bên nầy, hỏi ra thì quân
lực Pháp đang tấn công, Đệ Tam Sư Đoàn phải rút lui khỏi Cao Lãnh không biết đi
đâu.
Không qua Cao Lãnh đặng mà trời cũng xế chiều,
mấy vị giáo viên nói có quen một ông cụ làm Hương Cả trong làng nên tìm ghé
thăm và tá túc một đêm. Ghe vào ngọn rạch nhỏ quanh co một lúc đến nhà ông cụ,
ghé bến, mấy vị giáo viên rũ nhau lên nhà, một mình đệ tử ở lại coi ghe, ngồi
trước mũi trong lòng lo nghĩ không ra kế thì bổng có một con chim cú, từ đâu
không biết bay lại đậu trên cây bần trước mũi ghe kêu mấy tiếng lạnh lùng làm
cho đệ tử kêu vái: “Chim linh ơi! Nếu mi đến báo tai nạn cho ta thì kêu thêm
mấy tiếng, còn không phải xin bay đi kẻo ta quá sợ”. Tức thì chim linh bay
đi đệ tử nhẹ thở. Kế thấy mấy vị giáo viên cùng ông cụ già xuống mời đệ tử lên
nhà chơi, đệ tử theo lên. Cụ già bảo ở đây thuộc tỉnh Sa Đéc do ông Đốc Phủ Tâm
làm Tỉnh Trưởng lập an ninh và bố cáo kêu gọi chiêu hồi nên khuyên nội bọn sáng
ngày nên ra tỉnh trình diện không có sao đâu. Mấy vị tỏ vẻ đồng ý sáng mai ra
chợ ăn một bửa, cà phê, xíu mại, hủ tiếu thèm khát trong lúc tản cư, rồi đi
trình diện luôn. Nghe vậy, khi trở lại ghe, đệ tử khuyên mọi người không nên đi
vì đệ tử biết ông Đốc Phủ Tâm khó lắm, lại có con chim cú báo tin bất lành,
nhưng mấy vị không nghe định sáng ngày mai đi Sa Đéc trình diện.
Ba vị giáo viên đi một ngày một trưa mà không
có tin tức gì, ở ghe chỉ còn một mình em học sinh, em cháu gì của một trong ba
vị, và đệ tử. Đến gần 12 giờ, một trong ba vị hơ hải chạy về bảo hai vị kia đã
bị bắt đem lại mật thám Pháp điều tra, còn y dè dặt chờ xem thời thế ra sao sẽ
trình diện sau nên thoát khỏi. Nghe vậy đệ tử đề nghị phải lui ghe liền, nếu để
hai người kia khai ra thì chúng sẽ lên tóm cổ hết.
Tốt hơn về tỉnh nhà báo tin cho thân nhân lo
chạy chọt lãnh ra thì hơn. Nghe hữu lý nên gấp rút lui ghe liền. Đường đi suông
sẽ tới Mỹ Tho vào lúc hừng sáng, kẻ mua người bán tấp nập không có vẻ gì chiến
tranh như loa tuyên truyền ở Tràm Chọt và các nơi vùng Rạch Giá.
Tới đây chia
tay, ai lo phận nấy. Đệ tử lẫn thẩn một mình định tìm xe đi Sài Gòn, bổng có
người phía sau gọi: “Quan lớn” làm cho đệ tử giựt mình quay lại, thì ra
thầy thư ký làm việc cho ông Cò (Commissaire de poilice) ở Biên Hòa có quen lúc
trước. Hỏi đệ tử ở đâu đi đây, nghe nói tản cư mới về y nói: Ông Phó Tham Biện
lúc trước ở Biên Hòa có làm việc chung với đệ tử, đang làm việc ở Mỹ Tho, nên
khuyên đệ tử vô gặp ông trình diện dễ hơn.
Vì còn tin
tưởng có giải phóng quân Hà Nội đang đánh phá ở Sài Gòn nên đệ tử nói để về Sài
Gòn trình diện và nhờ đưa đến bến xe dùm. Tới bến xe thì chỉ có một chiếc kiểu
chở hàng hóa mui bít bùng, có một cái cửa ở phía sau mà thôi, bộ hành ngồi trệt
ở thùng sau chớ không có ghế ngồi, rất hạp với tâm lý đệ tử buổi đó, không muốn
có ai thấy biết mình, nên vô tuốt phía trong ngồi gần một người Tàu. Xe đến Chợ
Lớn đổ bến chớ không ra tới Sài Gòn, hỏi người Tàu có xe gì đi Sài Gòn, thì y
nói cũng đi Sài Gòn và cùng rũ đệ tử lại bến xe thổ mộ cùng đi xe ra đến bến
bùng binh chợ mới Sài Gòn, đậu gần gara xe lửa Mỹ Tho, xuống xe đứng một mình,
đường xá còn vắng tanh ít người qua lại, chẳng nghe tiếng súng giải phóng quân
nào hết, nhớ là ngang gara xe lửa Mỹ Tho có tiệm cơm chay Vạn Lộc của một người
bạn quen là Trần Quang Vạn, đệ tử đi ngay lại đó thì thấy có vợ con người bạn
đang bận dội nước rửa nhà lăng xăng. Vì quen thuộc trong nhà và cũng không muốn
nhìn nhau chào hỏi lăng xăng chổ đông người nên đệ tử đi thẳng một mạch lên lầu
không nói tới ai. Cả nhà chưa kịp nhìn biết, tưởng ai lạ chạy theo lên gặp nhau
mừng rỡ, cho biết anh Vạn đã chết, vợ con tản cư mới về ngày trước, nay dọn
tiệm lại làm ăn. Nhứt là mấy đứa con quyến luyến nói: Ba con chết rồi, bác ở
đây với tụi con như ba con vậy.
Thế là quyền
Thiêng-Liêng khéo sắp đặt đi đường Rạch Giá xa xôi về đến Sài-Gòn, đúng lúc gia
đình anh Vạn vừa về mới có chỗ ngủ đêm đó, nếu không phải lêu bêu ngoài đường
thế nào cũng bị bắt, lúc đó là vào đầu năm 1946.
Ở đó vài hôm
thấy bất tiện vì là tiệm ăn, khách hàng tới lui tối ngày, nhứt là bọn lính Lê
Dương (Lé gionnaire) chẳng còn hi vọng gì đâu nữa nên viết một bức thơ nhờ
người con trai anh Vạn đi Tân An cho người anh và người em gái đệ tử hay.
Khi biết tin
đệ tử ở tiệm Vạn Lộc thì anh năm và cô bảy em gái đệ tử lên kiếm và dời đệ tử
về ở chung với người con rễ của anh năm đệ tử làm giáo viên dạy học trường Chợ
Đuổi có nhà ở gần nhà thờ. Ở đó nhằm vùng dân cư đông đảo nên thường có những
cuộc bố ráp không thể ở yên lâu ngày. Đã vậy được biết ông Phủ Đương trước kia
làm Phó cho đệ tử bị bắt ở Châu Đốc, khai đỗ hết tội lỗi cho đệ tử vì bị tra
khảo đánh đập thậm tệ nên vị Tỉnh trưởng Pháp cho mật thám đi tìm bắt đệ tử ở
Sài-Gòn và ở Tân An.
Không thể
trốn lánh mãi đặng, đệ tử nhờ người cháu rễ, con của anh năm dọ coi ông Tỉnh
trưởng Biên Hòa hồi trước bây giờ ở đâu thì may ra ông ở Sài-Gòn làm Tổng Giám
Đốc về kinh tế. Ông lại vui vẻ tiếp nhận chúng đệ tử đặng làm việc với ông, cho
giấy chứng nhận chính thức, nhưng dễ dàng không bắt buộc phải thường trực làm
việc.
Hay tin đệ
tử ở Sài-Gòn, Thầy Bảy Lê Thiện Lộc là em ruột của ông Bảo Thế Lê Thiện Phước ở
Tòa-Thánh Tây-Ninh lại là bạn cột chèo với em út của đệ tử; Thầy Bảy Lộc cưới
người em, còn người em út đệ tử thì cưới người chị, có đến thăm đệ tử ở Chợ
Đuổi và mời đệ tử về ở căn phố tiệm sửa radio gần chợ Tân Định, ngang nhà thờ
Công giáo. – Thầy Bảy Lộc này cũng có Đạo Cao-Đài về phái Chiếu Minh.
Trong lúc đệ
tử ở đây thì em gái đệ tử mướn ghe theo sự chỉ dẫn đường đi xuống Tràm Vẹt vô
Giồng Đá kiếm gặp vợ con đệ tử rước hết về Tân An. Trên con đường về lúc qua
giữa sông, ghe nhỏ người rất đông, rất khẩm Hồ Thái Bạch ngồi ở mũi ghe, còn
bao nhiêu ở trong mui ghe, qua đến nửa sông thình lình nổi giông, mấy ngọn sóng
thần chụp lên tưởng không khỏi chết. Trong ghe niệm kinh Cứu Khổ vang dậy,
phước Trời ban cho qua ba ngọn sống rồi êm luôn thoát chết.
Phần đệ tử ở
nhà Thầy Bảy Lộc có gặp cuốn sách quẻ Phật Quan Âm, xin một quẻ như sau:
Sóng gió
chưa tan lại họa tai
Dây thuyền
phăng dứt thẳng dòng trôi
May có thần
nhơn đâu ủng hộ
Mình tuy khỏi
hại của không hồi
Trong lúc ở
nhà Thầy Bảy Lộc, đệ tử đặng gần gũi bà mẫu của Thầy Bảy – bà rất mến đệ tử và
đệ tử rất trọng kính bà.
Thời gian
qua rất lẹ, Đức Hộ-Pháp từ đảo Madagascar đặng đưa về Tòa-Thánh, ông Bảo Thế
theo về Tây-Ninh làm việc, rước bà mẫu về Tây-Ninh luôn và một thời gian sau bà
qui vị, chôn cất ở Tây-Ninh luôn, rủi ngày đó con đường Tây-Ninh bị ngăn chặn,
không có convoi đi nên Thầy Bảy Lộc không lên Tây-Ninh đặng để thọ tang thân
mẫu.
Phần của đệ
tử, vị Tỉnh trưởng Châu Đốc đặng biết đệ tử đã ra mặt công khai, không thể cho
người bắt ngang đặng, nên đưa nội vụ qua Tòa án Châu Đốc, kết tội biển thủ vàng
bạc ở tiệm cầm đồ và kho bạc Châu Đốc. Được biết Châu Đốc ra trát đòi đệ tử về
xử tội nên đệ tử xin vào nằm bịnh viện Grall, xin đình vụ hầu tòa lại.
Trong lúc ở
bịnh viện, một hôm Thầy Bảy Lộc ghé thăm và cho biết tối đêm đó có lập đàn cầu
các Đấng ở tư gia và mời đệ tử về hầu đàn. Vì đang ở trong tình thế khó khăn
không dám rời bịnh viện, nên có dâng tờ cầu hỏi về thời cuộc, Đức Lý Nhứt Trấn
Oai Nghiêm về cơ có cho một bài thi như sau:
Giáng đàn
cảm thấy chữ Thiên Bàn
Hồ vấn lạc
lầm ngã vấn an
Đạo đức
chiêu theo đường thế cuộc
Không suy
không nghiệm tưởng không nhàn
Dưỡng nhàn
một thời gian ở bịnh viện, khi xuất viện đường Tây-Ninh đặng thông, Thầy Bảy
Lộc định đi Tây-Ninh thọ tang và viếng mộ thân mẫu, đệ tử tháp tùng theo để
thăm mộ bà cụ và luôn dịp kiến diện Đức Hộ-Pháp cho biết, nhờ đó đặng hầu
chuyện với Đức Hộ-Pháp một đêm, thông cảm tâm tính nhau phần nào.
Khi về đặng
tin trát tòa đòi nhưng cũng tìm lý lẽ để đình đặng mấy kỳ.
Biết không
thể nào ở Sài-Gòn đặng nữa, đệ tử nhắn tin vào trong khu do Ung Văn Khiêm và
Nguyễn Văn Tây tổ chức ở Đồng Tháp xin xho liên lạc rước vô, nhưng đợi mãi
không thấy tin gì, ngày giục thúc, đệ tử nhắn tin thứ nhì, thì có liên lạc có
thơ trả lời: Ngày toàn quốc kháng chiến đã đến, trong khi cần tay đánh giặc
còn phần tri thức nếu ở thành đặng thì nên chờ thời gian, nếu liệu lặn
bưng nổi thì vô lặn bưng với anh em. Đặng tin như vậy đệ tử cho là có ý khi
dễ nên buồn lòng không muốn đi. Kịp đâu lúc đó có anh Đốc Công Bính là bạn
tranh đấu ở Châu Đốc vừa đến – Hỏi đi đâu thì anh nói “Bị Tây bố quá kiếm
liên lạc đi khu” sẵn dịp mới đưa anh Đốc Công đi thay cho tôi.
Vì bực bội
cho rằng mình bị khi dễ nên không đi, nhưng bây giờ không biết đi đâu, nên vào
Lăng Ông Tả Quân ở Bà Chiểu xin một cây xâm như vầy:
Trung tâm
hữu sự vô nhơn hội
Bán tại
ngoại hề bán tại nội
Triều giao
lục giáp khước thành song
Nội ngoại kỳ
tài cu bất muội
Trong bữa đó
về nhà ăn cơm, trong lòng buồn bã lo nghĩ, Thầy Bảy Lộc để ý hỏi anh sao định
đi khu chắc có tin không vui hay sao mà có vẻ buồn. Đệ tử thuật lại chuyện buổi
sáng và có ý lo ngại không biết phải đi đâu chớ không thể ở Sài-Gòn, Thầy Bảy
nói nếu không đi khu thì anh đi Tòa-Thánh đi – Đệ tử nói rằng không có Đạo
Cao-Đài làm sao về Tòa-Thánh đặng. Thầy Bảy nói trên đó có anh hai tôi là anh
Bảo Thế là người phụ trách chánh của Đức Hộ-Pháp thì anh lo gì về không đặng.
Nghe vậy đệ
tử kêu mẹ sắp con đệ tử lúc đó đã đi Sài-Gòn ở đậu nhà cháu gái gần đó để cùng
nhau bàn tính. Cả nhà đều đồng ý cho đệ tử đi Tòa-Thánh nhưng với tánh dè dặt,
đệ tử nghĩ muốn vậy thì phải có ai lên gặp Đức Hộ-Pháp, coi ý định Đức Ngài thế
nào sẽ liệu sau.
Người em dâu
của đệ tử là chị vợ của Thầy Bảy có mặt lúc đó lãnh mạng đi Tây-Ninh như vậy
thì để chị sáu cùng đi với thím – Trước khi đi đệ tử có dặn kỹ lưỡng, bảo có
hoàn cảnh đang có tội với nhà nước, nếuĐức Hộ-Pháp vui vẻ chấp nhận thì đưa
giấy thế thân của anh bạn mà đệ tử cần phải lấy tên để xin chứng giấy đạo cho
đệ tử đi đường, còn nếu Đức Hộ-Pháp còn ngần ngại thì kiếm chuyện thối thác ra
về sẽ tính kế khác.
Đêm đó hai
chị em sửa soạn khuya lại ra đón convoi đi Tòa-Thánh, đến cửa Hòa Viện đã hơn
mười một giờ trưa, hai bà lại xin vô thì Bảo thể không cho vô, vì không có giấy
đạo – thất bại trong lòng buồn bực trở ra thì chiếc xe khi lên đã rút chạy ra
bến Tây-Ninh nên phải chờ chiếc xe convoi sau đó sẽ có giang ra Tây-Ninh kiếm
chõ ngũ, chớ trước mặt cửa Hòa Viện là rừng già đầy thú dữ không có nhà nào để
xin ở ngụ. Chuyện bất ngờ là sau khi chiếc xe ra tới thì hai chị em chực để quá
giang đi ra Tây-Ninh thì hai bạn đời của anh Báo Thế không hẹn nhau mà cũng
định đem đồ tiếp tế cho anh Bảo Thế. Gặp nhau mừng rỡ, chị hai hỏi hai thím đi
đâu, khi nghe rõ câu chuyện mới biểu hai bà đừng đi Tây-Ninh ở đó chị vào đó
nói với anh Bảo Thế viết giấy ra cho vào. Đúng vậy khoảng 12 giờ Bảo thể kêu
cho hai bà vô dẫn đến gặp anh Bảo Thế. Nghe rõ câu chuyện anh thấy rõ việc cấp
thiết nhưng không rõ giờ quá trưa, không biết Đức Hộ-Pháp đã nghỉ trưa chưa nên
dặn mấy bà ở chơi, để anh qua Hộ-Pháp-Đường thăm dọ trước, thì ra Đức Hộ-Pháp
còn nằm chơi chớ chưa ngủ, nghe tin có mấy bà lên Đức Hộ-Pháp kêu qua liền.
Nhờ vậy nên
anh Bảo Thế gấp rút làm giấy chứng nhận theo tên Trần Quang Vạn, cho hai bà kịp
thời trở ra Tây-Ninh tìm chỗ ngủ khuya lại đón convoi trở về Sài-Gòn là 7 giờ
tối nội đêm đó, mấy bà thức may cho đệ tử đồ trắng để khuya đi Tây-Ninh, còn đồ
đi khu thì bỏ lại hết.
Riêng Thầy
Bảy với đệ tử bàn tính với nhau, nếu đệ tử đi mất thì công an mật thám, sẽ làm
khó dễ cho Thầy Bảy nên định khuya lại ra bến xe Châu Đốc mua một cái giấy tên
thiệt là Hồ Tấn Khoa có ghi vào sổ bộ hành đầy đủ, nhưng bỏ giấy không đi lại
quay ra bến xe Tây-Ninh mua giấy với tên Trần Quang Vạn.
Thế là từ
đây quyền vô hình đã cản ngăn không cho đi khu mà đến khi đi Tòa-Thánh lại gấp
rút thâu vô không trể một giây phút nào.
Về Tòa-Thánh
ngày mùng 1 tháng chạp năm Bính Tuất là năm có Hội-Nhơn-Sanh đầu tiên ở
Tòa-Thánh.
Ngày hầu tòa
Hồ Tấn Khoa vắng mặt nên Tòa đánh công điện tập nã về Sài-Gòn, công an mật thám
đến nhà Thầy Bảy tra xét thì Thầy bảo chính Thầy đã đưa Hồ Tấn Khoa ra xe đò đi
Châu Đốc, có bằng cớ rõ ràng, ghi danh sách Hồ Tấn Khoa trong sổ bộ hành đi
Châu Đốc. Tới đây đầy đủ bằng cớ công an mật thám không bắt tội đặng nhưng vẫn
giam giữ ở bót đến 10 giờ đêm mới cho về nhà.
Từ đây tên
Hồ Tấn Khoa lặn mất một thời gian chỉ còn tên Trần Quang Vạn mà thôi. Có điều
đáng chú ý là quyền vô hình làm cách nào không rõ, nhưng người liên lạc do ông
Ung Văn Khiêm cho người ra rước theo bức thư thứ nhất của đệ tử, lại không gặp
đệ tử, đến chừng đệ tử đi Tòa-Thánh rồi thì tìm gặp bà Sáu, thúc giục bà kêu đệ
tử về đi khu, nhưng Bà Sáu trả lời ông đi đâu không biết.
Về Tòa-Thánh
Đức Hộ-Pháp cho ở chung một phòng với ông Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, văn phòng
Hiệp-Thiên-Đài bằng tranh tạm cất nơi sau này xây cất cho chỗ Bà Tám Phối Sư và
cô Tư Tranh ở bây giờ trong vòng rào Hộ-Pháp-Đường.
Đặng biết
sắp thành lập quân đội Cao-Đài nhưng thật danh quân lực bổ túc của đạo quân
viễn chinh Pháp, thì Đệ tử có bàn với Đức Hộ-Pháp trình bày kinh nghiệm của đệ
tử ở Châu Đốc, xin Đức Hộ-Pháp không nên thành lập quân đội. Vì lẽ quân phiệt
đời nào, lúc nào, nước nào, xứ nào cũng là quân phiệt: khi họ còn yếu thì cần
có người nâng đỡ, mà khi thế lực và võ lực mạnh rồi thì hay phản loạn khó
tránh, thêm nữa trong cửa Đạo không nên có quân đội, thì Đức Hộ-Pháp có thanh
minh rằng Ngài bị đặt trước một việc đã sắp đặt trước rồi, do ông Trần Quang
Vinh đã ký hợp đồng với Pháp nên Ngài không thể từ chối đặng. Còn việc phản
loạn thì không lẽ có vì người Đạo Cao-Đài đã đặng tiêm nhiễm tinh thần đạo đức
và kỷ luật nên không đến nỗi.
Thế là ngày
29 tháng chạp năm Bính Tuất, ban liên lạc giữa quân lực Pháp và Cao-Đài đem
giao vũ khí đầy đủ cho quân đội Cao-Đài vừa thành lập. Qua đêm sau 30 tháng
chạp, Việt Minh tấn công Tòa-Thánh, tiếng súng nổ rền vang mà quân lực Pháp ở
Tây-Ninh điềm nhiên không tiếp viện, cho đến khuya lắm quân Việt Minh mới rút
đi. Sáng ngày kiểm điểm lại thì Cao-Đài có bảy vị Chức Việc và đạo hữu tử nạn,
còn quân nhân vô hại. Phía Việt Minh không rõ thiệt hại bao nhiêu, nhưng có
nhiều viết máu trong rừng.
Sáng ngày
bọn sĩ quan Pháp nghe êm suôi mới vào xem thấy bảy thây chết, giả bộ chia buồn
chớ trong thâm tâm là đắc ý, cho rằng cá đã ăn câu. Mối thù giữa Cao-Đài và
Việt Minh đã hẳn, không còn sợ Cao-Đài phản loạn lại Pháp. – Âm mưu sâu độc của
thực đân Pháp không sao lường.
Buồn rầu lo
không biết có phương nào làm cho Việt Minh Cộng Sản và Cao-Đài thông cảm nhau
để tránh bớt nạn người Việt sát hại người Việt để cho thực dân Pháp hưởng phần
thắng lợi.
Dịp may đưa
đến nghe đặng tin Dương Minh Châu, Việt kiều ở Cao Miên về hợp tác với đệ tử
trong cuộc kháng chiến chống Pháp buổi đầu, nay lại là Chủ Tịch Ủy Ban Kháng
Chiến tỉnh Tây-Ninh, trình bày ý kiến với Đức Hộ-Pháp cho phép đệ tử qua gặp
Dương Minh Châu để tìm phương tránh bớt việc xô sát nhau giữa Việt Minh và
Cao-Đài. – Đặng lịnh Đức Hộ-Pháp, đệ tử viết một bức thơ nhờ Đức Hộ-Pháp cho
người đem qua cho Dương Minh Châu – Đặng thơ đệ tử, Dương Minh Châu mừng rỡ,
một mặt trả lời mời đệ tử qua mật khu, có liên lạc rước, mặt khác cấp tốc cho
liên lạc báo tin Ung Văn Khiêm ở Nam Bộ hay, vì từ ngày đệ tử bặt tin tới nay,
Nam bộ cho kiếm mà không ra tông tích – Nay bất ngờ được biết đệ tử ở Tây-Ninh
nên Ung Văn Khiêm lập tức viết một bức thơ mời đệ tử vô Nam bộ cho liên lạc đem
trả về liền cho Dương Minh Châu trao cho đệ tử ngày đệ tử qua tới mật khu.
Đặng thơ
mời, Đức Hộ-Pháp cử một phái đoàn ba người, gồm có Ông Bảy là anh ruột của Đức
Hộ-Pháp, ông Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ và đệ tử ra đi, Qua đến mật khu vào ngày
11 tháng Giêng Đinh Hợi (1947) vào lúc xế chiều. Trước khi đi Đức Hộ-Pháp căn
dặn làm thế nào mời cho đặng Dương Minh Châu qua gặp Đức Hộ-Pháp, vì Dương Minh
Châu là con của thầy dạy học của Đức
Hộ-Pháp lúc
nhỏ và anh ruột của Dương Minh Châu là bạn thân của Đức Hộ-Pháp hồi buổi trước,
nay đã chết. Đức Hộ-Pháp có dặn đệ tử nói tên người anh cho Dương Minh Châu
biết nhưng nay đệ tử quên.
Gặp nhau
mừng rỡ kể lại hành trình của mỗi người từ đâu mà ngày nay đều về Tây-Ninh,
nhưng người ở với Việt Minh, người nay lại ở với Cao-Đài – Dương Minh Châu Minh
Châu trao thơ của Ung văn Khiêm, nhưng đệ tử từ chối bảo đã lỡ về với Đạo
Cao-Đài, không lẽ bỏ đi – thêm nữa ở Nam bộ không thiếu nhân tài, đệ tử có về
đó thì cũng không giúp ích gì bao nhiêu – Dầu sao trong hiện tình Việt Minh và
Cao-Đài có vẻ mỗi bên đi một ngã, nhưng cả hai đều có một tinh thần ái quốc
thương dân nồng nàn, có ngày cũng phải hiệp nhau, nên việc đệ tử ở lại Cao-Đài
có lợi hơn, vì đệ tử sẽ là nhịp cầu luôn luôn sẵn có để cho đôi bên gặp nhau
khi cần thiết.
Trong lúc
hội thảo với nhau, có đủ mặt anh trong khu là Dương Minh Châu, Chủ Tịch – Tư
Đẩu, Ủy viên quân sự – Thiếu tá Ngọ sau này trở về Cao-Đài, Ủy viên xã hội –
với một anh chánh trị viên người Bắc kỳ – đệ tử có cho hay rằng đệ tử đặng tin
quân đội Pháp hiệp với quân đội Cao-Đài tấn công vào mật khu ngày gần đây, nên
đề nghị nếu đủ sức đánh thì dự bị phục kích đánh một trận lấy tiếng, còn nếu
không đủ sức thì nên sắp đặt rút lui trước, đừng để bị đánh bất ngời và còn
nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Ở mật khu
ngày 12 và 13 tháng 1 Đinh Hợi đến xế chiều 13 đi đêm trở về Tòa-Thánh đến 5
giờ chiều 14 đến Ngã năm ngoại ô có quân đội Cao-Đài do Đức Hộ-Pháp cho hay đón
tiếp. Bên Việt Minh cũng có phái đoàn 3 người gồm có Dương Minh Châu, Tư Đẩu và
anh chánh trị viên Bắc kỳ.
Trước khi
khởi hành về Tòa-Thánh đệ tử còn nhắc vụ Pháp sắp tấn công, mỗi lần đều có anh
Chánh trị viên Bắc kỳ nghe rõ.
Vì thời Tý
đêm 14 cúng Đại Đàn 15 tháng Giêng nên Đức Hộ-Pháp không tiếp liền phái đoàn
Việt Minh đặng, phải tạm nghĩ ở Ngã năm một đêm sáng ngày vào lối 7 giờ 30 thì
Đức Hộ-Pháp tiếp một mình Dương Minh Châu tại Hộ-Pháp-Đường và giữ lại ăn cơm
với Đức Hộ-Pháp đến tối 15 mới ra về. Đức Hộ-Pháp cho một vị Thiếu úy còn trẻ
tuổi, hinh như là Thiếu úy Hồng sau này lên cấp tá đưa về. Lo sợ mấy ông quân
đội Cao-Đài làm điều bất chánh nên đệ tử xin Đức Hộ-Pháp cho đệ tử theo đưa tới
nơi tới chỗ. Đi đường rừng quanh co đêm tối chẳng biết lối nào mà khi gần sáng
đến một ngọn rạch gọi là Rạch Rễ, có xuồng đón rước phái đoàn Việt Minh trở về
mật khu.
Khi từ giã,
đệ tử hỏi Dương Minh Châu tới đây mấy anh đi đặng an toàn không thì Dương Minh
Châu bảo đã an toàn đệ tử khỏi phải lo. Trước khi xuống xuồng đệ tử còn nhắc
anh Chánh trị viên nên lưu ý lo việc sắp đặt mật khu. Vị thiếu úy và đệ tử trở
về báo tin Đức Hộ-Pháp hay phái đoàn Việt Minh đã trở về.
Tưởng đâu
như vậy là tạm yên một bề, sau cuộc đàm thoại đặc biệt giữa Đức Hộ-Pháp và
Dương Minh Châu, không dè vào đêm 18 tháng 1 Đinh Hợi, đệ tử nằm mơ trong giấc
ngủ, nghe tiếng có chim gì kêu đều đều, vía đệ tử lấy làm lạ, chổi dậy đẩy của
ra ngoài, vẫn nghe tiếng kêu đều đều. Lần dò đến một tòa nhà thấy trên nóc có một
người hình dáng giống Dương Minh Châu mặc một bộ đồ đen mà khi đệ tử đến thấy
quay mặt chỗ khác. Đệ tử đi vòng qua để nhìn mặt thì người đó quay lại chỗ khác
nữa. Đệ tử lần dò quanh theo, mắt cứ ngó theo người đứng trên nóc nhà, chơn vấp
phải cái gì không biết giựt mình thức giấc thì ra bên Thánh-Thất tạm buổi đó
còn xây cất chỗ nền Báo Ân Từ hiện nay, đang cúng thời Tý, mấy anh em đồng nhi
đang gõ nhịp đều đều dể đọc kinh – không rõ lành dữ thế nào mà cũng không giải
thích điềm mộng, nên sáng ngày đệ tử ưu tư đi thơ thẩn một mình ở sân Hộ-Pháp-Đường,
Đức Hộ-Pháp trông thấy kêu hỏi – đệ tử thuật điềm mộng – chừng đó Đức Hộ-Pháp
mới tỏ vẻ buồn bã bảo chú thấy đó là Dương Minh Châu, vì bên quân đội Cao-Đài
có cho Đức Hộ-Pháp hay rằng hôm quân đội Pháp tấn công mật khu đã bắn chết
Dương Minh Châu rồi – Đức Hộ-Pháp than tiếc một người trẻ tuổi, học thức cao
(Cử nhân luật) đầy nhiệt huyết, ái quốc cao độ lại chết sớm rất uổng – riêng
phần đệ tử không nói ra chớ lo nghĩ đến hậu quả vụ Dương Minh Châu chết, các
bạn bên kháng chiến định giá con người đệ tử thế nào và có lên án đệ tử chỉ lối
cho quân Pháp tấn công mật khu hay không? – Thời gian trôi qua không nghe Việt
Minh Cộng Sản lên án đệ tử cũng yên tâm, đến sau này Thiếu tá Ngọ là Ủy viên xã
hội trở về quân đội Cao-Đài thuật lại nói rõ chi tiết như sau:
Anh em Việt
Minh tin tưởng nơi lời căn dặn có vẻ thiết tha của đệ tử, nên trước khi đi qua
hội kiến với Đức Hộ-Pháp thì Dương Minh Châu đã có lệnh cho các ban, bộ rút lui
hết rồi. Sáng ngày 16 tháng 1 Đinh Hợi về vùng rồi, thay vì về ngay mật khu thì
Dương Minh Châu và nội bọn còn đi quan sát các nơi, coi có thi hành chu
đáo hay không. Đến xế chiều ngày 16
tháng 1 Đinh Hợi mới về tới mật khu, gặp người vợ ở ngoài Tây-Ninh ẩm đứa con
độ hai đến ba tuổi vào chờ thăm. Vợ chồng, cha con gặp nhau mừng rỡ, chừng nói
chuyện thì quá trễ, gần tối không về Tây-Ninh kịp, nhưng tin tưởng nơi các hầm
bí mật, không ai phát giác đặng nên để vợ con ở lại nghỉ đêm ở mật khu đến sáng
sẽ đưa về. Không dè nội đêm đó quân Pháp vô tới không hay, vì các trạm gác bên ngoài
đã cho rút hết rồi, không ai báo tin. Đến chừng bọn Pháp vô gần tới thì mạnh ai
nấy chạy trốn, theo nhiều hầm bí mật đã đào sẵn – Rủi cho Dương Minh Châu lúc
chạy trốn lại ẳm đứa nhỏ theo, còn vợ thì chạy hầm khác. Khi bọn Pháp vô tới
nơi không thấy ai hết, nên bắn súng la hét om sòm làm cho em nhỏ hoảng sợ, phát
khóc. Do đó quân Pháp truy ra chỗ Dương Minh Châu ẩn núp lôi ra bắn chết bỏ
thây tại chỗ và bắt em nhỏ đêm về Tây-Ninh, kiếm không đặng ai nữa quân Pháp
mới rút đi hết. Chừng đó anh em trở ra mới hay Dương Minh Châu đã chết. Nếu
không có vợ con qua và nhứt là cậu bé khóc thì quân Pháp không tài nào tìm ra
có hầm bí mật khác.
Sáng mùng 5
tháng Giêng Đinh Hợi (26/1/1947 ) Đức Quyền
Giáo-Tông giáng cơ ở văn phòng Hiệp-Thiên-Đài có dạy:
Còn em Phủ! Em
cũng rán trì chí đợi cơ hội. Em hữu phước chư Thần đưa em về đây bởi tiền định.
Thôi qua để lời mừng em – Chi chi, không lẽ Đạo không linh sao em.
Lúc đó gồm
có một số giáo sư, giáo viên dạy học như ông Nguyễn Bửu Tài, Trần văn Quế, Giáo
Thọ Thiện Tịnh… thuộc phái Đạo Tiên Thiên về hiệp ở Tòa-Thánh. Đức Hộ-Pháp cho
mở một cơ quan gọi là Quốc sự vụ và cho đệ tử qua ở chung. Do đó, đệ tử thường
có đi hầu đàn theo phái Thiên Thiên nơi Tâm Lý Mật Truyền (nhà ông họa đồ Oanh
ở ngoại ô). Đêm 1 rạng 10 tháng 3 Đinh Hợi (29–30/4/1947) Đức Lý Thái Bạch
giáng dạy:
Lý đạo muôn
thu vẫn rạng ngời
Thái minh lý
thuyết giúp con Trời
Bạch Minh[1]
chơn lý tìm cho thấu
Giáng chỉ
đàn trung hiểu tận lời
Nhưng còn
hiền sĩ chích chiu
Xa xăm bước
tới để nêu tên lành
Khoa lý thuyết
thâm canh vận chuyển
Chụp thần
quang Lão chuyển vô vi
Cho hiền đạt
lý cao tri
Bước đi đến
chốn trường thi cận kề
Lúc nguy
hiểm mọi bề Lão tả
Ban hồng ân
đủ cả gia đình
Cho Hiền
thấy rõ huyền linh
Giáo Tông Lý
Bạch phân minh hiện tường
Kêu tới Lão
mọi đường Lão chứng
Dầu gian
nguy Lão dựng thành yên
Căn Hiền với
Lão tiền duyên
Khiến nên
nhắc nhở liên miên Lão hoài[2]
[1] Sau nầy
mới biết Bạch Minh là Thánh Danh Ơn Trên ban cho Hồ Thái Bạch.
[2] (2) Từ
ngày Đức Lý Đại Tiên dạy ở núi Cấm. Đệ tử đủ lòng tin tưởn nơi Đức Ngài, nên
con đường phiêu lưu lúc tản cư, Đệ tử có hai đồng xu để xin quẻ nhờ Đức Ngài
mách bảo – hễ quẻ tốt đi tới, còn xấu thì dừng lại nên Đức Ngài mới bảo rằng
nhắc nhở Đức Ngài liên miên.
Lão ứng hóa
trong ngoài vận chuyển
An tấm thân
có biến muôn chiều
Nhưng nay
Hiền lại mỹ miều
Dọn mình
bước kịp xế chiều Hiền ôi!
Lòng thiện
cảm khúc nôi đòi đoạn
Nghĩ càng
thương cho hẳn càng yêu
Về Tòa-Thánh
ngày mùng 1 tháng Chạp Bính Tuất, nghiền ngẫm nghiên cứu Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,
Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, kinh sách Đạo và hầu đàn mấy kỳ đủ đức tin rồi đến
mùng 8 tháng 4 Đinh Hợi mới xin nhập môn do Đức Hộ-Pháp chứng minh thệ và giải
oan. Vì nghĩ rằng đối với người phàm còn không đặng thất hứa huống hồ đối với
Thiêng Liêng một lời thệ khấn hứa không phải dễ.
Mặc dầu thế
mà đầu óc chính trị chưa cởi mở và lòng vẫn giận tức thù ghét thực dân Pháp còn
âm mưu thống trị mãi dân Việt, nên thời Tý ngày 5 tháng 5 Đinh Hợi (23–6–47)
Đức Vân Trung Tử giáng cơ dạy:
Vâng chiếu
chỉ Vua Trời phán định
Trung thừa
vâng thửa lịnh Phụ Hoàng
Tử đồ cố
gắng dạ loan
Giáng lâm
trần trược xốn sang tấc lòng
Khoa thơ
thới bình sanh anh kiệt
Dốc một lòng
mài miệt trung dung
Tìm câu văn
phủ Cửu Trùng
Ban truyền
hậu thế liền liền roi theo
Khen cho
Hiền chí keo gắn phết
Ráng nghe
Hiền nền nếp tu tâm
Tu là phải giữ hằng năm
Bỏ điều ái ố xa xăm dặn trường
Thủ Hiền đã nhiều chương chia tạc
Rõ thông qua Hiền lạc vào đâu
Hay chăng ái ố cao sâu
Bỏ đi bộ hẳn ví dầu nghịch ta
Thăng
Nhờ những lời dặn trên Đệ tử thức tỉnh và cởi
mỡ lòng thù ghét để mở rộng tình thương cho đến hôm nay, nương theo đức háo
sanh của Thượng Đế, đệ tử không còn thù ghét hay giận hờn bất cứ ai, dầu cá
thể, tập thể, đoàn thẻ quốc gia chủng tộc hay sắc tộc nào.
Cũng kỳ đàn nầy có tái cầu, Đức Ngọc-Hoàng-Thượng-Đế
giáng cho một bài như sau:
Ngọc trắng tinh vi mới thiệt màu
Hoàng đồ đến mức lập công cao
Thượng tâm trọn đạo cơ Thầy chuyển
Đế đạo dàn ra độ ngũ Châu
Khoa sắp sĩ Hiền giúp bạn
Chí tâm thành chẳng hạn mốt mai
Con ôi kiếp số anh tài
Vào sanh ra tử bao nài tấm thân
Vẫn tâm trung số phần đã định
Dẫu cường quyền hung tặc chớ nao
Nhìn qua kim cổ phong trào
Con tường máy tạo chớ nao tấc lòng
Vai con gánh sớt chia cùng Quế
Việc cứu đời dành để hậu lai
Con tua gắng
chí dũa mài
Ngày giờ vội
giục nhơn tài giúp công
Thăng
Đây là một đàn tư tiếp đặng ở Tâm Lí Mật Truyền
vào đêm 5 tháng 5 Đinh Hợi (23–6–47) nên đệ tử lưỡng lự không biết nghĩ sao, vì
nhập môn Tòa-Thánh tùng lệnh Đức Hộ-Pháp, không có lệnh Đức Ngài thì làm sao đi
Sài-Gòn giúp Trần văn Quế, Chủ Tịch Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, đã vậy ông Quế
vẫn còn ở Tòa-Thánh như đệ tử nên chỉ làm thinh chờ coi ra sao. Thì ra ba ngày
sau (26–6–1947) có đám cầu siêu ở Báo-Ân-Từ, Đức Hộ-Pháp và các Chức-Sắc cao
cấp qua dự ở hậu điện Báo-Ân-Từ, với thân phận đạo hữu, đệ tử chỉ lấp ló bên
ngoài, bổng thình lình đặng Đức Hộ-Pháp kêu lại, ra lịnh đệ tử và Truyền Trạng
Ngọ phải sửa soạn đi Sài-Gòn giúp cho Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Vũ Tam Anh
đang tổ chức và dạy ông Bảo Thế nội ngày lập lịnh cho Đức Hộ-Pháp ký tên sáng
hôm sau đi Sài-Gòn liền.
Ngồi xe đò từ Tây-Ninh xuống tới Gò Dầu Hạ vừa
trưa gặp xe Convoi Sài-Gòn–Cao Miên lên tới, có ông Thuộc là hội viên Mặt Trận
Quốc Gia Liên Hiệp đi Tây-Ninh để rước ông Quế. Gặp nhau mừng rỡ hỏi han thì
ông Thuộc bảo đêm rồi các Đấng có giảng dạy phải đi Tây-Ninh rước ông Quế. Anh
em có hỏi trước kia Ơn Trên có dạy khi lập Mặt trận xong thì có ông Khoa đến
giúp, nay sao không rước ông Khoa lại rước một mình ông Quế thì các Đấng dạy
rằng: Khoa đã xuống rồi, anh em phân vân nói xuống rồi mà sao không thấy lại
Mặt trận mà còn đi đâu, không ngờ các Đấng nói vậy là vì ngày hôm qua đã có
lệnh Đức Hộ-Pháp cho đi rồi, bữa nay mới xuống gặp nhau ở giữa đường.
Xuống Sài-Gòn đặng 3 ngày thì có mật thám lên
Tây-Ninh tìm bắt, vì khi đệ tử bỏ đi Tây-Ninh không có hầu tòa thì Tòa Châu Đốc
kêu án hai năm tù ở.
Xuống Sài-Gòn với Mặt Trận Quốc gia Liên hiệp
mấy tháng trường chẳng thấy công việc gì làm khác hơn là cúng tứ thời tại nơi
gọi là văn phòng Mặt trận, còn mấy người đi đâu không biết, tối ngày đến chiều
về nói chuyện đâu đâu.
Ban đầu thì còn cơm ăn đầy đủ, đến sau bữa cháu
bữa cơm, đồ ăn chỉ có nước tương, bữa nào có một hột vịt luột dầm với nước
tương là ngon lành rồi. Buộc lòng đệ tử đến người cháu làm giáo viên hỏi một
chiếc xe đạp cũ để làm chưn, chớ muốn đi đâu không có tiền bạc gì cả.
Nghe nói nhà ông Ách Nhàn ở Phú Thuận có thờ
Thầy, mỗi kỳ Sóc Vọng đều có lập đàn các Đấng đến dạy, đệ tử đạp xe lên ở đêm
đến thời Tý hầu đàn cho an ủi.
Đến đêm thời Tý Rằm tháng Tám Đinh Hợi (28–9–1947)
Đức Chí-Tôn về, giáng cho một bài như sau:
Ngọc còn noi dấu để chờ con
Hoàng Thượng rơi châu lẽ mất còn
Thượng chí ân để con sửa nghiệp
Đế ban cứu quốc gắng lòng son
Khoa đến Khoa lo câu hội hiệp
Thầy thân con giao tiếp chỉ hành
Cơ hành
Hội-Thánh em anh
Thỉ chung
cho trọn dạ đành nghĩa sâu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét