Văn Tịch Pháp Nhơn Chi Đạo - 2 / 2 (B.Đ - Hồ Tấn Khoa)


Tin là Thầy dạy trở về với Hội-Thánh, nhưng trong ‍
lưng không có đồng ten lấy đâu mua vé xe mà về, thành phải đành chịu lỳ.
Tuy có lệnh dạy về Tòa-Thánh nhưng không có tiền xe về nên đành chịu lỳ, qua đến kỳ đàn sau, nhằm mùng 1 tháng 9 Đinh Hợi (13–10–1947) cũng đi hầu đàn như thường lệ, kỳ này gặp liên lạc
của cụ Cao Triều Phát cho mời anh em đạo vào khu hợp phiên đại hội tổ chức Cao-Đài Thống Nhứt 12 phái,
mọi phương tiện di chuyển có người lo – Khuyên rũ đệ tử cũng muốn đi nhưng chưa chánh thức nhận lời thì Đức Thượng Đế lại cho thêm mấy bài như sau:
Ngọc câu vô lượng để roi truyền
Hoàng chánh tâm minh hưởng lộc yên
Thượng chỉ qui nguyên cơn sửa lập
Đế hòa cộng hưởng phước ân Thiên
Gần đây khó nối biển nên cồn
Sắc mạng Thầy ban cứu thiện tôn
Lo đạo vững hành Thầy dẫn nẽo
Đưa người lương thiện bảo sanh tồn
Khoa kỳ gần đến ớ con ôi
Lo học vô vi rõ lý rồi
Gặp đặng thiên cơ lo nhứt mạch
Đua tài lặn lội chẳng nên bồn

Biết Ơn Trên không đồng ý nên đệ tử từ chối không đi dự hội, nhưng cũng không giải quyết đặng vấn đề tiền xe để về Tòa-Thánh, chỉ ôm tâm sự một mình chớ chẳng thố lộ cùng ai – Tuy biết vợ con đang ở Sài-Gòn nhưng xét mình mãng lo việc xã hội mà không lo tròn bổn phận làm chồng làm cha nên không thể mang đến xin tiền cho đặng.‍

Quyền Thiêng-Liêng vô hình thấy rõ nên giải quyết giúp vào kỳ đàn sau nhằm ngày 15 tháng 9 Đinh Hợi (27–10–1947) là khi đệ tử đến Phú Nhuận thì vừa ngạc nhiên vừa vui mừng thấy có mặt ông Thiện Tịnh ở Tây-Ninh nơi đó. Hỏi ra mới biết ông Thiện Tịnh vừa xuống tới hồi xế trưa, đặng biết tối có lập đàn và cũng có mặt đệ tử đến hầu nên ông ở lại để gặp nhau. Ông bảo anh em ở Tòa-Thánh nhớ đệ tử quá, sao lâu rồi mà không về. Đệ tử bảo là có lệnh cho về mà không có tiền thì ông Thiện Tịnh bảo sẵn ông xuống theo về, ông giúp tiền xe 15 đồng cho – mừng rỡ hai anh em hàn huyên mọi lẽ đến khuya hầu đàn, chẳng có chi khác lạ. Đến sáng ông Thiện Tịnh định đi chợ Thái Bình lo công chuyện, nghĩ nhà quen nơi đó, sáng vô sẽ về Tây-Ninh và đề nghị đệ tử lo sắp xếp việc của đệ tử xong đến trưa hay chiều xuống nhà quen ngủ đêm nơi đó, khuya sẽ ra xe Convoi về Tòa-Thánh.
Ăn cháo sáng xong hai anh em từ giả ông Ách Nhàn rồi chia tay nhau ai lo phần nấy. Đệ tử về đến nhà thấy có một mình ông Giáo-Sư Trần văn Quế còn mấy người kia đi đâu vắng hết. Đệ tử vô sắp xếp quần áo vào giỏ xách định đi thì ông Quế hỏi anh tính đi đâu? Đệ tử bảo nhớ Tòa-Thánh quá nên về Tòa-Thánh. Ông Quế bảo chờ anh em về đủ cho hay rồi sẽ đi. Đệ tử biết chắc nếu có mặt mấy người kia thì không đi đặng nên bảo thôi nhờ anh nói lại giùm cũng đặng, rồi nhứt quyết ra đi, ông Quế không cản đặng.

Xuống đến chợ Thái Bình tìm đặng nhà quen của ông Thiện Tịnh gởi đồ nơi đó đem trả chiếc xe đạp rồi thả bộ về nghỉ với ông Thiện Tịnh đến khuya thì về Tòa-Thánh.
Không ngờ ba ngày sau có mật thám đến xét nhà ‍

Mặt trận kiếm bắt đệ tử mà không có, lại gặp ông Quế là dân Côn Đảo về, có lẽ giấy tờ không hợp pháp hay sao mà chúng bắt ông giam hết mấy ngày, nhờ anh em chạy cậy ông Lê Văn Hoạch lúc đó cầm quyền Thủ Tướng can thiệp mới đặng trả tự do.
Anh em trong Mặt trận và nhứt là ông Quế sau này trách đệ tử là có hay biết trước nên ra đi kịp thì mà không báo trước cho anh em hay, nhưng đệ tử cũng thật thà bảo là chẳng biết gì hết.
Xét kỹ thì cả sự việc xảy ra Thiêng-Liêng đưa đệ tử đi Mặt trận rồi cũng gọi đệ tử về Tòa-Thánh là để tránh cho đệ tử khỏi bị lâm vào vòng lao lý, có cực xác đôi chút nhưng được tự do.

Thậm chí có lịnh về Tòa-Thánh mà không về đặng thì vô hình lại chuyển cho ông Thiện Tịnh xuống đem về kịp giờ khỏi bị bắt. Như thế có lý do gì chối cải cho rằng không có quyền năng vô hình của các Đấng Thiêng-Liêng.
Về Tòa-Thánh an nghỉ thời gian, nhưng đầu óc vẫn còn nặng cơ đời qua loạn lạc chết chóc.
Có một lần bà Bát Nương cho một bài thi, kêu gọi Chức-Sắc lớn nhỏ họa thi với bà – cả thảy lớn nhỏ từ Đức Hộ-Pháp, chư vị Thời Quân và nhiều Chức-Sắc mỗi người đều có làm thi mà Bác Nương dạy mỗi người tự ngâm bài thi của mình cho Bà nghe. Bài thi của Bà Bát Nương như sau:
Hễ muốn làm sư phải hược trò
Vụn may thường đổ lỗi người đo
Nháy duyên Tây tử cười môi méo
Đoạt điệu Đường phi bước trẹo giò
Bắt Nguyệt lại mò Trăng đáy nước
Theo Tây bợ ngợ viết nhà nho
Vui chi hơn gặp tay tài tử
Vải lưới chòm cây có cứt cò

Trong lúc đang quá bực bội nên đệ tử có họa lại một bài thi có phần thất lễ với Bà Bát-Nương như sau:
Thế sự hôm nay diễn lắm trò
Lòng người nham hiểm thước nào đo
Bởi đâu nhơn loại chia hai khối
Mới khiến lê dân chạy rã giò
Trong lúc giết nhau thây tợ núi
Lẽ đâu ngâm vịnh lối đồ nho
Ai ôi có thế tìm tân thuyết
Cứu vớt nhơn sanh thoát bẫy cò

Kịp thời suy nghĩ thấy Bà Bát-Nương vì thương đa số Chức-Sắc buổi ấy cũng bực bội như đệ tử mà không lối ra, nên mới bày ra họa thi làm lãng khuây nỗi lòng đôi lúc, nên đệ tử biết lỗi ăn năn mới hòa thêm một bài thứ hai như sau, nhờ Bà Bát-Nương tha tội:
Hiểu đạo rồi nay mới nhận trò
Cơ Trời mầu nhiệm dễ gì đo
Chí Linh vi diệu đưa chơn bước
Nhơn loại muội ngu khá nối giò
Đạo đức dìu đời cơ chuyển thế
Nghĩa nhân giúp đạo phép tông nho
Cao-Đài Đại Đạo ban truyền khắp
Đệ tử năm châu trắng tợ cò

Một hôm tình cờ con cả của đệ tử đang ở trong khu bỗng nhiên đến gặp đệ tử, hỏi qua mấy cửa có ai xét hỏi gì không thì nói không có ai xét hỏi – Thì ra các anh lớn trong Nam Bộ cho về phải rước cho được đệ tử vô khu một chuyến – Đệ tử trình lên Đức Hộ-Pháp hay thì Đức Ngài khuyên không nên đi, sợ vô khu rồi không trở ra đặng. Riêng đệ tử thì cũng chưa nhứt quyết nên lưu con ở lại với đệ tử một lúc. Cũng lạ là ở khu nhiễm theo khu, nay về chùa cũng nhiễm chùa, ăn chay trường với đệ tử, chớ có gì mặn đâu mà ăn.
Một thời gian đệ tử chưa nhứt quyết nên cậu ta xin đi Sài-Gòn thăm mẹ và chú thiếm. Xuống Sài-Gòn bà thiếm Tám thấy tội nghiệp, vì ở khu ăn uống cực khổ, về chùa lại ăn chay nên làm cho một bữa ăn ngon lành gọi là bồi dưỡng. Cậu ta thích thú ăn một bữa ngon lành, nhưng sau đó một lát bị ói mữa ra hết mà còn mệt đừ. Từ đó thất kinh không dám ăn mặn nữa và chay trường luôn, nhưng đôi khi gặp dịp cũng còn pha quả trứng và tôm khô chút đỉnh.

Ở Sài-Gòn vài hôm rồi trở về Tòa-Thánh với đệ tử.
Trong lúc đó quyền vô hình Đức Lý Đại Tiên giáng cơ nơi Tâm Lý Mật Truyền như sau: Vào ngày 22 tháng 9 Đinh Hợi (4–11-47)
Lý cả nghĩa chung đáng giữ đầu
Thái hòa lan rộng đôi nhịp cầu
Bạch tranh mây phủ tương đồ cạnh
Giáng chiếu Nam Bang diệu diệu mầu
Ai là người nghĩa sĩ, kẻ thượng phu đứng ra gánh vác trong ngoài cho hòa nhã xinh tươi dù tu không đủ thao lược để thực hành nhưng biết đâu tấm lòng mộ chủng sẽ kết thắng mai sau.
Khi vận phục hóa Nam triều của Bộ Trung đã gieo hạt giống từ lành trong một miếng đất phì nhiêu sẽ gặp tiết mà đơm bông trổ trái gần ngày để phỉ chí bấy lâu nay.
Nghĩa quân ôi! Khi mà nghĩa quân trong chốn rừng xanh cùng nơi lẫn lút đã bao lần tìm phương cứu vãng giọt máu của bao người dưới phía được phần cao thăng thì phải nhớ lại lúc đó là dầu có vào cảnh nào đi nữa thì ta cũng có lấy cái chí vận trù đừng để cho tương sát tương thù thì mới là một bước đi một khoảng đường khéo léo với trí lược phân hành, cứ rắp tâm thiện nguyện tận sức làm việc phải. Âu là ngày thiện khí cơ siêu sẽ lược thấm cho người chí tâm chí chánh hưởng đạo truyền.
Dòng máu đỏ còn đây ta đó
Ớ ai ơi dầu khó nghĩ phương
Kiếm tìm đủ chỗ đủ chương
Đủ làm chấm dứt đủ nương đường lành
Ngày trù định cao xanh không mấy
Ớ ai ơi! Ta thấy cũng mầu
Khá khen đạo đức thanh cao
Tài cơ dũng khí đem vào hôm nay
Thuận thảo chí trong ngoài liên hiệp
Khéo đi đi cho kịp vẽ thành
Vẽ thành đặt chỗ hùng anh
Nước non khí số nên đành lầm than

Theo lịnh dạy thì phải tìm đủ chỗ đủ chương để làm cho trong ngoài thuận thảo liên hiệp cùng nhau và cũng hối khéo đi cho kịp lúc.
Mặc dù đệ tử có hứa với Đức Hộ-Pháp là đệ tử đi rồi có trở về nhưng Đức Hộ-Pháp vẫn sợ đệ tử trở về không đặng mà đệ tử cũng không dám cho Đức Ngài biết là Đức Lý Đại Tiên có giáng ở Tâm Lý Mật Truyền dạy đệ tử nên đi vì ở Tòa-Thánh không nhìn nhận, thành thử đệ tử còn giải đãi, thì qua ngày 29/9/Đinh Hợi (ngày 10–11-1947) Đức Quan Thánh ở Tâm Lý Mật Truyền nhắc lại và thúc giục hối đi như sau:
Quan tâm chấm dứt cuộc thù nhau
Vân chỉ Nam bang phải đường nào
Trường nhảy níu nhau hòa huyết mạch
Giáng lâm chung trí cả một màu
Nhịn trần ai đôi lời Lão tỏ
Ở nghĩa nhân cạn rõ lời thành
Để mà bước tới chỗ quanh
Để mà sắp dặt cho rành tương lai
Nhìn lòng dạ hôm nay Lão chứng
Nơi đàn này sở dựng hiểu xa
Coi xem chơn bước đi ra
Vê thăm quê cũ mà đặng không?
Ta vững trí trong lòng nghĩa hiệp
Đời của ta nương dịp phải làm

Thấy Ơn Trên giục thúc thì cũng nóng lòng muốn đi nhưng thấy Đức Hộ-Pháp không vừa nên không dám đề cập tới.

Đến ngày 15 tháng 10 Đinh Hợi (25–11-47) Đức Chí-Tôn giáng cho bài thơ sau:
Thầy các con!
Thầy hạ trần mừng các con
Khoa bước tới lập trường chớ trễ
Lãnh văn nho tiếng để đời sau
Bản thiên đường thầy gạnh tuổi cao
Thầy cho trẻ bước vào hàng ngũ
Con thức tỉnh một hồi cũng đủ
Bời vì đâu chẳng phải vị tình
Bởi căn để con đủ dư nghìn
Thầy hiểu trước chẳng cần bắt bẻ
Kẻ dầy công khó lẹ như con
Bước thang tiên lãnh phận cho tròn
Tròn bổn phận tên con bia tạc
Thăng

Ngày tháng trôi qua không còn nhắc tới nên Đức Hộ-Pháp lãng quên, cho đến đầu tháng 11 Đinh Hợi có liên lạc thúc giục nên đệ tử đành phải nói dối với Đức Hộ-Pháp xin cho phép đi Sài-Gòn vài bữa thăm gia đình. Đức Hộ-Pháp vui vẻ cho đi nhưng một khi xuống Sài-Gòn viết thư về chịu tội với Đức Hộ-Pháp và trình với Đức Hộ-Pháp đệ tử đi Nam bộ một thời gian rồi về. Có lẽ đặng tin đó Đức Hộ-Pháp kể như đệ tử đi không trở lại.

Ngày 16 tháng 11 Đinh Hợi (27–12–1947) liên lạc đưa đi Nam bộ ở trong đến ngày 2 tháng 1 Mậu Tý (11–02–1948) trở về tới Tòa-Thánh một cách bất ngờ không ai biết trước. Trong cuộc hành trình có con cả đệ tử cùng đi và cùng về Tòa-Thánh.

Hành trình đi có xe nhỏ đưa tới khoảng vắng vùng An Lạc, ngừng xe cho xuống rồi xe chạy luôn. Người liên lạc dẫn băng qua một khoảng ruộng trống lối non cây số tới xóm. Vô xóm ghé trình bót công an Việt Minh xét giấy thấy tên Trần Quang Vạn hỏi đệ tử có bà con với Trần Quang Vinh trả lời có bà con cũng đặng mà không cũng đặng. Nghe trả lời hơi ngang ngạnh vị công an cự nự làm dữ làm anh liên lạc phải lôi ra ngoài năn nỉ thế nào giây lâu mới cho đi, nhưng cho một người lính mang súng theo giữ cho tới trạm trong gọi là Saigon Mới gần bờ kinh, gặp các bạn quen trong đó có Đốc Công Bính đã thay đệ tử đi Nam bộ lúc trước nhận lãnh đệ tử xong, người lính mới trở về vị trí.

Vào đó bữa trước qua bữa sau có tin báo động, Tây tấn công vô Vườn Thơm nên có lịnh tản cư. Dân chúng có cơ sở làm ăn như che đạp mía hay thứ gì quý, đều tháo gỡ thả chìm dưới kinh. Còn anh em nồng cốt thì họ quen thuộc đường xá mạnh ai nấy lánh mặt. Rủi cho đệ tử lúc đó đi chơi một mình, không biết đâu mà chạy, gặp một em trẻ quen bạn của con cả dẫn chạy vô bưng trốn. Vì không quen lội bưng lại lúc đó cũng năm mươi tuổi nên theo không kịp bọn trẻ nên em nhỏ và một em khác phải cặp nách lôi đi. Buồn cười là chơn đệ tử lúng sình sâu rút lên không kịp để chạy theo sự lôi kéo nên chỉ có hai đầu gối bơi bơi theo sức kéo của hai em. Nhớ lại lúc nhỏ coi hát bội thấy vai tuồng của anh Tiêu Đình Quý, mỗi lần có giặc tới gắp, anh ta chạy bằng hai đầu gối thì đệ tử tức cười nôn ruột. Trên đầu máy bay quần, dưới nầy mấy em lo sợ lôi kéo đệ tử muốn bết mà đệ tử thì cười, làm mấy em vừa bực vừa lạ lùng hỏi: Bác làm gì cười dữ vậy?

Chừng vô tới chỗ an toàn, đệ tử kể lại vụ chạy bằng hai đầu gối lúc nãy thì ai nấy cũng cười. Kiếm đặng một cái gò nhỏ cho đệ tử ngồi nghỉ thì đệ tử lại nghẻo xuống nằm ngủ một giấc ngon lành cho đến khi máy bay rút đi hết ai nấy trở về xóm, mấy em đánh thức đệ tử trở về tới xóm, gặp lại anh em hỏi chạy đâu mà kiếm không đặng. Đệ tử kể lại vụ lội bưng bằng hai đầu gối thì xúm nhau cười một bữa.

Chiều bữa đó qua trận bất ngờ anh em vời đệ tử đi một nơi cách đó vài cây số để nghỉ ở an toàn hai ba ngày, cho đến khi có tin Tây rút hết rồi mới trở lại sửa soạn để đi Nam bộ. Lúc đó có một người bạn quen về thành mà không có dép đi, đệ tử cởi đôi dép đang mang cho, đệ tử đi chân không như anh em khác. Đệ tử không ngờ sự hi sinh nhỏ mọn của đệ tử làm cho đệ tử rất khổ thân vì đi chơn không không quen, phần đất ruộng trưa nắng rất nóng làm cho hai bàn chân của đệ tử phồng lên nhiều cục đi rất đau. Anh em bảo không sao, vài bữa sẽ hết. Vì vậy đau thì đau thì cứ vẫn đi, chừng mấy cục phồng xẹp xuống, chai cứng mới đi tự nhiên đặng.

Ông Đốc Công Bính dẫn đi ngã Vườn Thơm, cho xem sự tàn phá của chiến tranh, rồi dẫn đi qua ngã Đức Hòa, tới một cái sông có lẽ là sông Vàm Cỏ Đông, có xuồng đưa qua sông, đến một cái chợ nhỏ bị tàn phá nặng gọi là chợ Ngã Tắc, ngủ đó một đêm sáng đi qua một cánh đồng ruộng rộng lớn, một cái mã xây gạch tử tế còn mới. Ông Đốc Công Bình cho biết là mã của anh Võ văn Tín, lúc ở Châu Đốc hồi trước vì bệnh lao phổi mà chết, chiều tối đến một xóm trước kia có vẻ phong phú, vì nhà tường có, nhà cây nền đúc lớn lao có, mà nay bị tàn phá rất nặng là xóm Cần Dè hay Cần Xé gì đó. Ngủ đó một đêm, sáng ngày đó đến trưa, đến chỗ Ông Đốc Công Bính ở, có vẻ nghèo hơn nhưng thanh tịnh mát mẻ gần một rạch nhỏ. Ở đó chơi một ngày qua ngày sau ông Đốc Công Bính đưa đệ tử vô thăm Nguyễn Bình đóng ở Giồng Dinh một ngày. Qua ngày, người liên lạc đi rước đệ tử định đưa đệ tử vô Nam bộ đóng ở Kinh Gảy vùng Mộc Hóa. Ông Đốc Công Bính còn ở lại với tướng Nguyễn Bình vài ngày sau mới vô Nam bộ.

Về tới Nam bộ thì ông Ung Văn Khiêm, Ủy Viên Nội Vụ đi công tác vắng – đệ tử và con cả đều ở tại văn phòng cụ Cao Triều Phát là một cái nhà tranh, rộng rãi khoảng khoác. Ở căn giữa có thờ Thầy rất nghiêm trang, một gian nhà dưới, nối liền với văn phòng theo hình chữ đinh vừa làm nhà bếp vừa làm nhà ăn.
Phục vụ nơi văn phòng có ông Cao Huệ Chương, cháu Cụ Cao Quỳnh Diêu, Bảo Văn Pháp Quân, sau ngày giải phóng 1954 trở về Tòa-Thánh dạy học ở Đạo Đức Học Đường, anh Nhựt sau năm 1954 về ở Tòa-Thánh Minh Tân Cao-Đài Hiệp Nhứt đến nay, hai vợ chồng anh Đại lo phòng trù, cô Bảy thường đi liên lạc ra thành, sau nầy cũng về Tòa-Thánh hết, và một cụ già ở làm công quả. Nơi đó giữ thập trai, mấy ngày mặn, cụ già có một chiếc xuồng đi chày cá về cung cấp cho phòng trù. Đệ tử và em cả trường trai thì nhờ chị Đại chăm lo đầy đủ. Bên chánh quyền Nam bộ có phái qua đó một nữ y tá gọi Cô Tư để chăm sóc sức khỏe cho nhân viên.

Riêng phần Cụ Cao Triều Phát thì ở một nhà riêng gần đó với một ông bạn già là Cụ Cao Hải Để. Việc ăn uống của Cụ và Cụ Cao Hải Để có người lo riêng.
Khi vô khu thì em Cả mua hai tấm đệm may thành hai cái nốp, hai cha con mỗi người một cái. Ban ngày xếp thành như một cái túi có dây đai mang sau lưng, đi đứng rất gọn gàng, ban đêm lật ra thành nốp vô trong ngủ thay cho cả mùng mền, gói quần áo gối đầu nằm thay gối. Vì lúc đệ tử ra đi không có sự đồng ý của Đức Hộ-Pháp nên không có ủy nhiệm thư gì của Đức Ngài do đó mọi việc gì đề cập tới đều có tính cách bàn thảo suông thôi chứ không có quyết định gì rõ rệt. Thêm nữa, đệ tử chỉ là một đạo hữu mới nên Cụ Cao Triều Phát cũng không có đủ tín nhiệm nơi đệ tử.

Trong lúc rỗi đệ tử hỏi thăm gặp đặng người con rễ con người thứ năm của đệ tử là giáo viên theo kháng chiến ở xóm đó, nên dẫn đi chơi làm quen mấy nhà có Đạo Cao-Đài đều đặng tự do thờ cúng, có Thiên Bàn đàng hoàn thì đệ tử rất mừng. Nhờ có sự bao che của Cụ Cao Triều Phát đã lập thành Cao Đài Cứu Quốc thống nhất 12 phái.

Một tuần lễ sau, anh Ung văn Khiêm công tác mới về, gặp đệ tử mừng rỡ nhưng khi biết đệ tử không có ý định ở luôn trong khu thì không đặng vui.

Anh Ung văn Khiêm có triệu tập một phiên họp, anh em các nơi qui về đông đủ phần lớn, cũng đều là bạn bè quen biết với đệ tử từ trước, cũng đủ hạng tài trí: Thạc sĩ có, Bác sĩ có, Kỹ sư đủ hạng về cầu cống, nông lâm súc, hóa học… giáo sư và giáo viên đủ hạng rất đông đủ khả năng xây dựng một chánh quyền vững chắc. Điều đáng để ý là các bậc học thức cao ấy đều kính phục anh Khiêm. Đối với cái tuổi trẻ học lực kém nhưng vì tinh thần yêu nước cao độ, đức tánh trầm tĩnh, hy sinh, khắc khổ, nghiêm nghị quyết đoán của anh.
Sau khi quân lực Pháp núp bóng Đồng minh tái chiếm Sài-Gòn và Trần văn Giàu bỏ chạy qua Xiêm thì năng lực kháng chiến ở Nam bộ rời hết do một số anh em cá nhân còn chịu đựng nơi địa phương nhỏ hẹp của mình. Nếu không có tay của Ung văn Khiêm khéo léo gom góp lập thành hệ thống tạo cho Nam bộ kháng chiến vững vàng, được dông đảo nhơn sĩ, tướng sĩ không phải là đảng viên Cộng Sản nhưng vì lòng yêu nước tích cực đóng góp, thì các vị anh hùng địa phương ấy lần hồi sẽ bị bẻ gảy hết, y như các anh hùng địa phương, buổi trước lúc Pháp mới qua xâm lược Việt-Nam.

Sau những ngày và đêm bàn thảo sâu rộng với Ung văn Khiêm thì đệ tử nhận thấy khó dung hòa tâm lý đặng, vì lập trường của Cộng Sản là phải đánh cho địch chịu thua trao trả đất nước thì cuộc độc lập mới vẻ vang và muốn đặng vậy thì phải cùng nhau đi một con đường, nghe một tiếng chớ không thể đi hàng hai và dung hòa tạm bợ.

Điều khó giải quyết là người Cộng Sản có một đức tính sắt đá không ai lay chuyển đặng đối với chủ nghĩa của họ cũng như người Cao-Đài có một đức tin sắt đá không gì lay chuyển nổi đối với quyền năng vô hình của Thượng Đế và các Đấng Thiêng-Liêng. Rốt cuộc đệ tử đành phải nói với Ung văn Khiêm rằng “Tôi không thể nào lay chuyển nổi đức tính của anh, cũng như không thể nào lay chuyển đức tính của tôi, nhưng dầu sao chúng ta vẫn là đồng máu thịt người Việt với nhau, không lẽ đang tay sát hại lẫn nhau, thôi thì việc nào không tránh khỏi thì phải chịu vậy còn việc nào mà Đạo Cao-Đài giúp đỡ cho mấy anh đặng thì chúng tôi sẵn sàng thi thố. Tuy là một lời hứa của cá nhân tôi, nhưng toàn Đạo Cao-Đài vẫn luôn thi thố.
Ngoại trừ cuộc sinh hoạt của quân đội dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Pháp có đụng chạm với Việt Minh, chứ phía tôn giáo thì tất cả Chức-Sắc, Chức Việc, Đạo-Hữu tùy khả năng mỗi người đều tích cực giúp đỡ Việt Minh về mọi mặt: Lãnh những người Việt Minh bị bắt để rồi lần lượt trả tự do, tiếp tế lương thực, thuốc men che dấu và nuôi dưỡng các cán bộ nằm vùng, nuôi và che dấu thanh niên trốn quân dịch…

Đệ tử có nói với Ung văn Khiêm là đệ tử có ở lại khu thì chẳng khác nào một giọt nước thêm vào cả tô nước đối với số nhân sĩ, nhân tài hiện hữu đang ở bên cạnh anh, còn đệ tử ở ngoài thì ngày giờ nào cần bàn thảo gì với Cao-Đài thì đệ tử là viên gạch nối liền khó kiếm.

Tuy là nói vậy chớ đệ tử cũng có giúp ý kiến cho ông Ung văn Khiêm giải quyết vấn đề tiền tệ của Nam bộ còn lệ thuộc đồng bạc của Pháp làm cho anh bức rứt khó chịu – Đệ tử bảo rằng chúng ta có một vùng tự do rộng lớn do nông thôn vao vây thành thị, sao không tạo một hệ thống tiền tệ đặc biệt cho mình với những phòng hối đoái ở những nơi cần thiết. Anh Ung văn Khiêm không tỏ dấu gì đồng ý nhưng sau khi đệ tử về Đạo thì nghe lại anh đã sử dụng đồng bạc Hồ Chí Minh. Vậy mới thấy rõ con người kín đáo của anh.

Có một lần đệ tử gặp anh em đông đảo nói chuyện vui chơi với nhau lại có anh Nguyễn Van Tây tự Thanh Sơn, Thanh Tra Chính trị Miền Tây nói với đệ tử một câu rất nguy hiểm cho anh như sau: Nếu Đạo Cao-Đài đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt-Nam thì tôi cũng theo Đạo Cao-Đài với anh. Đối với cha mẹ tôi là bậc trưởng thượng, tôi không đề cập đến, chớ nếu tôi về Đạo Cao-Đài thì con tôi cũng về Đạo Cao-Đài với tôi. Khi đó đệ tử có đứng lên vỗ vai Nguyễn Văn Tây và nói: "Lời nói của anh có các Đấng chứng minh không thể quên đặng".‍

Câu chuyện thấu tai Ung văn Khiêm quyết định thanh toán anh Nguyễn Văn Tây làm cho các nhơn sĩ phải gớm tay của Khiêm. Hay đặng tin đó đệ tử phải đích thân đến gặp Ung Văn Khiêm và đính chánh câu nói của anh Nguyễn Văn Tây là có ý nói khích đệ tử để dụng ý lưu đệ tử ở lại khu chớ không có ý gì khác. Chừng đó anh Khiêm mới dịu bớt nộ khí.

Thời gian trôi qua mau, lật đật thì đã đến Tết mà anh Ung Văn Khiêm cũng chưa định cho đệ tử trở về. Một hôm vào tối 24–25 Tết thì cụ Cao Triều Phát và tất cả các cơ sở khác được lệnh gấp rút di chuyển đi nơi khác, không rõ đi đâu, chừng đó mới chấp nhận, đưa đệ tử lại Sở Giao thông liên lạc sắp đặt. Nơi đây làm việc rất tấp nập vì nơi trạm trung ương phân phối đi khắp cả Nam bộ, rất có hệ thống.

Cũng may là đệ tử đến đó gặp anh Tổng Giám Đốc giao liên là một bạn quen lúc đệ tử còn làm việc ở phòng Biên Hòa trào Pháp thuộc – Gặp đệ tử mừng rỡ hỏi đi đâu thì đệ tử nói về Tây-Ninh và yêu cầu cho đệ tử đi con đường về thẳng Tây-Ninh chứ không ra Thủ Thừa rồi tự tiện về Tây-Ninh, vì đệ tử có ý nghĩ đệ tử vắng mặt trót đã một tháng rưởi rồi, không biết rõ bên ngoài có xảy ra việc gì không. Nếu ra Thủ Thừa phải qua Sài-Gòn mới về Tây-Ninh thì có phần nguy hiểm.

Anh Tổng Giám Đốc vui vẻ cấp giấy và đưa đệ tử giao giáp mặt anh liên lạc căn dặn kỹ lưỡng, đến trạm giao liên tới đây phải giao rành lại đưa đi cho kỹ và chu đáo cho tới Tây-Ninh mới thôi.

Thì ra bận vô đệ tử và em Cả do liên lạc đặc biệt rước tử Sài-Gòn và đưa luôn cho tới Nam bộ, còn bận về thì đệ tử và em Cả phải đi theo hệ thống thường thức, qua nhiều tạm giao liên, mỗi giao liên chỉ biết có một khoảng đường của mình mà thôi chớ không biết khoảng kia đi ngã nào và cũng không biết anh liên lạc ở đâu lại. Sau một đêm và một ngày ngồi xuồng vô bụi dấu kín còn người lên bờ có những hầm núp cá nhân đào sẵn, xuống núp đến khi không còn thấy dạng máy bay mới trở xuống xuồng đi nữa. Qua hai trạm giao liên mới tới trạm kinh Trà Cú Thượng ghé ngủ nhà một bà cụ cho ăn với đọt bầu luộc, chấm nước muối, có chút dấm chua chua, ngon còn hơn cả cao lương mỹ vị – Tới đây đổi giao liên đi theo con kinh Trà Cú Thượng mà lúc vô đệ tử đã có đi qua, nhưng kỳ này đi ngược lại, quá đêm mút đầu kinh thì tới chỗ gọi là Cần Vè hay Cần Xé gì đó – xuồng đi chỗ ông Đốc Công Bính thì thấy ông đang ngồi nghỉ mát trên cầu, chào nhau và từ giả nhau luôn.

Tới đây không theo đường cũ mà lại đưa xuồng vô tới ngọn rạch cùng đường cho lên bộ giao cho liên lạc dẫn đi bộ băng qua nhiều cánh đồng ruộng khá rộng mà thường gọi là những giòng như Giòng Thổ Địa… vì nơi đây toàn là bưng lầy, nơi nào cao ráo làm ruộng đặng thì gọi là giòng.

Sau hai ngày đường bộ đến chỗ ngọn cùng của con rạch gọi là Rạch Tràm, nghỉ ngơi cơm nước nơi đó rồi có người đưa xuồng ra ngoài Vàm gặp một xóm dân cư khá đông đúc, có một cái chợ bị phá tan hoang nhưng phố phường vẫn còn – vào ngày 30 Tết, chỗ này thuộc khu độc lập nên cán bộ tự do sinh hoạt tới lui đông đảo vì đêm 30 Tết này có tổ chức lễ kỷ niệm năm thứ nhất ngày Dương Minh Châu đã hy sinh. Tính theo ngày Dương lịch, cuộc lễ tổ chức rầm rộ tại sân vận động có diễn đàn phát thanh ra các ống loa, có thêm chớp bóng diễn kịch, người đi dự có trên ngàn, cho dân ngoài thành đặng mời vô dự, vợ con của Dương Minh Châu cũng có mặt. Anh em có đề nghị đệ tử lên diễn đàn để lời cảm tưởng nhưng đệ tử từ chối, vì lẽ còn ra ngoài làm việc e ra bất tiện. Anh em cũng thông cảm chấp nhận, nhưng đệ tử vẫn bùi ngùi âm thầm dự lễ tưởng nhớ đến một người bạn quý đã sớm hi sinh cho tổ quốc.

Theo sự sắp đặt anh em cho liên lạc đưa đệ tử và em cả theo đường thủy sông Vàm Cỏ Đông, canh giờ thế nào cho tới Gò Dầu Hạ lối hừng sáng mùng 2 Tết. Thay vì đi theo sông lớn nhiều khúc quanh co, liên lạc đưa theo đường kinh đào băng qua sở ruộng gọi là Sở Bà Đầm, tắt đường hơn. Đến tối thì ghé lại nhà ở cạnh bờ sông mà liên lạc thường nghỉ đêm để khuya lại thức sớm đưa lên tới Gò Dầu Hạ vừa hừng sáng. Còn cách khoảng độ năm bảy trăm thước nữa mới tới cầu bắt qua sông đường đi Nam Vang, thấy có lính gác thì xuồng ghé vào xóm cho lên bờ đi bộ, ra Tòa-Thánh đón xe camion của quân đội có giang về Tòa-Thánh trưa mùng 2 Tết một cách bất ngờ, ngoài sự tưởng tượng của mọi người.
Nhóm ông Đốc Tài và Đức Hộ-Pháp là mừng hơn hết và cho biết rằng Đức Ngài kể như đệ tử không thể nào trở lại, nhưng đệ tử cũng tươi cười đáp rằng: "Tôi hứa với Đức Hộ-Pháp là tôi trở lại thì tôi phải giữ lời".

Cả sự việc dài dòng này kết cuộc một cách ngộ nghĩnh làm anh em trong khu định cho con cả đệ tử về bắt cho đặng đệ tử vô khu mà rốt cuộc chú cả nầy bị thâu về cửa Đạo – Âu cũng là Thiên ý và Thiên thơ dĩ định.

Lúc đệ tử về ở Tòa-Thánh thì vợ con ở Sài-Gòn có phần vất vả nên trong khi đệ tử vì bận đi Nam bộ thì người anh vợ đệ tử là kỷ sư Nam đang làm Trưởng Ty Công chánh ở Sóc Trăng, chuyên lo bồi bổ sủa chữa cầu đường từ Cần Thơ đến Sóc Trăng qua Bạc Liêu lên Sài-Gòn rước hết gia đình đệ tử đem về Sóc Trăng đùm bọc giúp đỡ. Kịp thời trong lúc đó ông Trần Quang Vinh hiện là Tổng Trưởng Quốc Phòng đi kinh lược ở Sóc Trăng, gặp gia đình đệ tử đang ở nhà kỹ sư Nam, hơn nữa đặng nghe tiếng kỹ sư Nam có tài sửa chữa đường lộ, cầu kỳ nên một công hai việc ông Trần Quang Vinh xin di chuyển Nam về Tây-Ninh giúp sữa chữa con đường lộ từ Tây-Ninh đi Sài-Gòn thường bị phá hủy, sửa chữa không nổi nên bị gián đoạn luôn.

Do đó kỹ sư Nam đổi về Tây-Ninh và đem luôn gia đình đệ tử về ở Tòa-Thánh nhập môn theo Đạo và giữ trường trai cho đến ngày nay – Âu cũng là Thiên ý sắp đặt mọi chuyện cho tiện bề cho đệ tử đặng yên tâm theo Đạo.

Từ đây cha con ở yên nơi Tòa-Thánh cho đến ngày 1 tháng 3 Kỷ Sửu, Đức Lý Giáo-Tông mới giáng cơ nơi Đền-Thánh cho một bài thi như sau:
Việt thường hữu phước xuất thiên quân
Chuyển thế Chí-Tôn dĩ định tuần
Trị loạn Nam Thiên trừ mãnh hổ
Thừa bình Bắc địa kiến kỳ lân
Hoàng triều hậu nhật nghi tùng cổ
Văn hiến tương lai khả hoán tân
Thánh Chúa hiền thần phò tổ nghiệp
Khải ca định vận tại thu phân
Hiền-Hữu nói với Tài cà các bạn khác rằng Lão chuẩn
y phẩm vị nhưng phải đem cả tín đồ của họ về Tòa-Thánh mới đặng nghe à.
Còn Khoa chờ Cao Thượng Phẩm định liệu.
Thăng.

Ngày 3 tháng 1 Kỷ Sửu, Tý thời Đức Lý Thiết Quả giáng đàn ở Tâm Lý Mật Truyền Tây-Ninh:
Lý mật phân minnh giáng giáo truyền
Thiết đầu sơn thượng xuất chơn Tiên
Quả âu lo lãnh Thiên hoàng sắc
Hạ bút triết cô diệu bí truyền
Khoa hiểu nghiệm đây hiểu tấc lòng
Nhìn đời hiền có tủi buồn không
Biết đây Lão dạy mà truy lý
Khá nghiệm cho ra rõ đục trong
Bửu lý bảy năm mà thượng trí
Ẩn nơi sông Vị cũng đầu công
Lưu Bang biết thế an lòng chúng
Hạng Võ cậy tài cũng mạng vong
Thăng.
Thiên Linh, Tý thời 12–8–Kỹ Sửu (3–10–1949)

Lý đạo hoằng khai tự bấy giờ
Thái thừa dẫn dắt nỡ đành ngơ
Bạch tâm hầu hỏi cơ qui nhứt
Kim chỉ tầm phương nghiệm xét chờ
Tinh chắc Trời Cha đà sắp định
Giáng phân cạn tỏ dụng thành cơ
Thượng lưu ai hỡi tầm châu đáo
Hạ trí nghiệm suy trúng nước cờ
Khoa học trí ráng nhồi kinh sử
Đạo qui nguyên học chữ lý chơn
Cao-Đài giải khóa chẳng sờn
Quyết lòng khôi phục non sông phỉ nguyền
Chí quân tử ba giềng năm mối
Thì vẹn gìn gốc cội tầm phăng
Nghiệm suy rồi mới hiểu rằng
Cao-Đài tế độ an bằng dạo nhiên
Thăng.
Thiên Linh Đàn 14–8–Kỹ Sửu (5–10–1949) Tuất thời

Quang cảnh trần ai luống nhọc nhằn
Thánh truyền giáo lý nắm tầm phăng
Đế nương bút ngọc dìu đồng chủng
Quân mạng điểm tô nghiệm xét rằng
Khoa đại khoa giựt giành công quả
Đắc vị ngôi hiền khá tiến lên
Nguyên căn tá thế tua bền
Dắt dìu huynh đệ tuổi tên rạnh đề
Thăng.
Báo-Ân-Từ 7–1–Canh Dần (20–2–1950) 2 giờ khuya

CAO THƯỢNG PHẨM
Cám ơn bạn… Cười…
Bần Đạo cốt đến đặng cậy Hộ-Pháp ngày Rằm tới đây phò loan giùm cho Bảo Đạo đến về vụ ông Khoa.
Theo ý của Ca Bảo Đạo thì người nói rằng tốt hơn để
cho Khoa tu luyện nữa là 5–10 năm – chí mới đủ đạo đức tài tình thật mà chống cự cùng cơ khảo. Nếu đức tin chưa vững e cho phải thối tâm rất nên oan uổng.
Bần Đạo căn dặn mấy em nam nữ có mặt nơi đây điều này: xâm tức là cơ bản. Mấy em cầu xin vái nguyện lang mang không thể nào xâm trả lời cho đủ. Vậy chi thì chăm chỉ vái nguyện một điều, rồi điều khác xin tiếp. Mấy cô Diêu-Trì-Cung than dài điều ấy. Cười…
Thăng.
Báo-Ân-Từ 15–1 Canh Dần (2/3/1950) 21 giờ 30

CAO THƯỢNG PHẨM
Chào các bạn và mấy em nam nữ. Có Ca Bảo Đạo đến vậy mời bạn qua chuyện vãn với người.
BẢO ĐẠO
Chào mừng mấy anh em, cả mấy anh nghe:
Mây nước chia đôi đã mấy chầy
Tưởng tình cố hữu khó làm khuây
Đường trần cõi Thánh dầu không hiệp
Tương hội may ra cũng có ngày
Bạn Khoa nghe:
Trước đã có lời hẹn với nhau
Thì ơn tri ngộ đã dường nào
Cửa Thiêng đưa bạn vào chơn vị
Cầm vững đạo mầu mới giúp nhau

Thưa Đức Hộ-Pháp! Bần Đạo xin Ngài dìu dắt dạy dỗ dùm cho đến ngày đệ đến giao quyền Bảo Đạo lại cho Khoa. Thầy đã chấp thuận vì có Thiên thi tiền định. Cái thiệt phận của Khoa, Người đã hiểu biết.
Vậy ngày nào người chịu khảo dượt không nổi thì Ngài nhắc rằng cửa chứa Chơn tinh, cho xứng giá mới đặng. Bạn Khoa đủ đạo đức mà làm tròn sứ mạng.
Bần Đạo xin để lời cảm ơn Hộ-Pháp, các bạn Hiệp-Thiên-Đài mới về cũng buồn lắm đó. Đâu ai nghĩ tình phò loan thường đặng vui vầy với nhau chút nghe! Cười…
Thăng.
Nam Thành Thánh-Thất Sài-Gòn 29–01–Canh Dần (16–03–1950)

Thi
Hiệp đồng tô điểm Đạo hoằng khai
Thiên định qui nguyên thế giới tài
Đại nghĩa tế đời danh hữu tạc
Đế lâm đời loạn sửa an bày
Quang minh chiếu diệu khuyên nhơn thiện
Thánh đức lâm trần cứu thế tai
Đế Đạo vun bồi nền văn hóa
Quần thần phụng sự mới râu mày
Cười… Lão cũng chứng lời nguyện vái của Khoa.
Vậy nghe thi:
Khoa kỳ gặp vận tiến chơn đi
Vun quén nền nhân Đạo đức bì
Ơn nghĩa gieo lần dân chúng hưởng
Từ tâm mở rộng bước lần đi
Làm sao rỡ tiếng Cao-Đài tế
Mới rạng bảo khai đạo đến kỳ
Nhơn thế do cơ Trời sở định
Bước lần tế thế bước lần đi.
Thăng.
Tâm Lý Mật Truyền Sài-Gòn, 8–2–Canh Dần (25_3_1950)

Thi
Long kỳ chiến đấu buổi đời nguy
Hoa chúc thiều minh chiếu hiếu kỳ
Chưởng đức hóa nhân hòa nhứt thiện
Hội kỳ tô điểm chiếu huyền thi
Thái Triều tam bửu qui thần dược
Thượng đãng hồi tri hộ phép kỳ
Lâm bút dìu trò cơn khổ trí
Đàn tiền hành kỹ kiến huyền vi

Khoa! Bần Đạo chứng lời nguyện của Hiền đệ, vậy Hiền dệ khá học bài thi đàn rồi đã chỉ tham thiền trong tam nhựt Tý thời sẽ được kiến đắc ý nghĩa đàng hoàng.
Vậy Bần Đạo cho một bài vần thi kỷ niệm:
Đạo đức nguyện tròn độ nước non
Hòa liên các phái giữ danh còn
Mưu đường hạnh phúc cho nhơn loại
Bảo Đạo giao kề giữ son
Sắc son lời lẽ tường không?
Chi phái hiệp qui chí đại đồng
Vun sửa nhơn sanh hồi loạn lạc
Dìu nên đạo cả tri hanh thông
Vậy Hiền đệ suy học giữ lòng. Bần Đạo nhắc sơ về bước hành đạo của Hiền dệ cần phải liên giao chi phái lo cơ hiệp nhứt tới đây do lịnh Thầy chuyển đạt.
Hiền đệ ôn trước sẽ hiểu phận hành sau.
Vậy Bần Đạo ban ơn lành cho chư hiền đệ, hiền muội nội ngoại đàn tiền.
Thăng.

Thời gian trôi qua, thỉnh thoảng các Đấng nhắc nhở nhiệm vụ Thiêng-Liêng giao phó ngày 30–2–Canh Dần (16–4–1950) Đức Quan Thánh có dạy:
Biết đạo, biết ta, biết có Trời
Biết rằng tổ quốc chớ nên rời
Tinh thần gồm cả đồng sanh chúng
Đại chí chớ nên lắm với đời
Lão thành lương đống của Đài Cao
Một thuở thành công tợ trái đào
Tươi tốt chung lo hồi trợ giúp
Kiếp sanh chẳng hổ phận anh hào
Khoa thi mở cửa đó trò ơi
Trợ giúp non sông sửa bại tồi
Bước tới tầm tòi câu chánh lý
Mới rằng đúng bực chí làm tôi
Vậy Lão ban ơn đàn nội.
Thăng.
Ngày 15–5-Canh Dần (29–6–1950) Thầy có dạy:
Khoa con! Ráng hiệp cùng
Đạo đức cần lo chung
Thời cơ toan biến chuyển
Nhơn loại phải hãi hùng
Thiên
Linh Đài ngày 26–7–Canh Dần (8–9–1950)
Thầy linh hồn các con nam nữ
Cao chơn lý chánh cứu nhơn sanh
Đài chuyển năm Châu sắc lệnh rành
Thượng lệnh ban truyền con ấu trĩ
Đế phân giáo hóa đạo chơn thành
Cứu nguy phục quốc trong thời sự
Thế giáo quy nguyên tạo mối manh
Kỳ hội cộng đồng ban bố nhuận
Ba khai chơn điển tỏa Hương Thanh
Thầy hân hạnh các con! Thầy ân xá các con tọa thiền đàn trung.
Khoa con ôi! Xuồng thuyền bác nhã
Giúp cho đời trợ cả chúng sanh
Thầy khuyên con trẻ hiểu rành
Cơ quan trọng yếu tạo thành với nhau
Con hỡi con! Đài Cao ban bố
Đạo vi huyền đã lố phô trương
Phô trương chủ nghĩa mối dường
Đem nền Quốc Đạo thanh bường vạn dân
Con hỡi con! Đem thân giúp Đạo
Giúp cho Thầy chơn giáo phát khai
Liên giây đoàn thể Cao-Đài
Cao-Đài biến chuyển là ngày Long Hoa
Thầy ban ơn các con nam nữ.
Thăng.
  
   Ơn Trên có ban Thánh danh cho gia đình:‍
   Khoa = Bạch Linh
   Vàng = Thanh Nguyệt
   Bạch = Bạch Minh
Bạch chí đại đồng nghĩa bốn phương
Linh tài hiệp bạn trổi trên đường
Danh hùng trọng trách quy sanh chúng
Thánh bảng tinh thần Đạo hiển vang

   Ngày 4/1/Quý Tỵ – Đức Chí-Tôn dạy:
Ngọc quý Thầy giao cõi Việt bang
Hoàng Thiên độ trẻ kíp lên đàng
Thượng dìu nhơn loại qua bờ ngạn
Đế dẫn con thơ đến Niết Bàn
Bạch Linh con hùng anh ớ trẻ
Đem gan vàng tầm lẽ độ nhơn
Trăm ngàn cay đắng chớ sờn
Râu mài vẹn phận vi nhơn cõi đời
   Hườn Cung Đàn (Minh Tân) ngày 1–11–Quý Tỵ gởi cho.

Bạch Linh con tường thông đạo lý
Tấm lòng thành nghiệm kỹ đoán phân
Giữ cơ cứu độ thế trần
Chung cùng bạn đạo chơn lần non Tiên
Cao Minh Điện – Bạc Liêu gửi cho ngày 1–7–Quý Tỵ (ngày 9–8–1953)

Bạch Linh trẻ Thầy khuyên đó nhớ
Việc Đạo mấy con chớ bỏ qua
Chung tâm hiệp trí kia là
Dựng xây cơ đạo cảnh nhà Thánh Tiên
Giáo Tông Đường 15–8–Quý Thầy (22–9–1953)
Phò loan: Hộ-Pháp – Khai Pháp

CAO THƯỢNG PHẨM
Chào mừng bạn. Cười…
Hồ Hiền đệ! Bạn nên biết rằng Chí-Tôn dành để cho mỗi đứa ta một phận sự, mà phận sự chẳng hề đồng đều. Bạn nên biết rằng có mình mới có Trời. Ai đã ngồi chờ Thiên mạng mà đặng nên. Ban đã tự hiểu sứ mạng Thiêng-Liêng mình thì tự mình định liệu bằng chẳng vậy ngôi vị tạo thành mới xứng đáng vào đâu?
Ca Bảo Đạo đã cầu khẩn cho Hiền hữu nơi Ngọc-Hư-Cung định vị thì Hiền hữu cứ tuân lời chẳng nên từ khước mà phạm Thiên Điều.
Khoa Bạch: Xin cho thống nhứt đất nước và thống nhứt nghiệp Đạo.
Phải biết Thiên thơ không luật phàm nào sửa cải. Ta mong muốn như thế nhưng nghịch Thiên Điều thì dầu oai quyền như Cổ Phật cũng không sửa cải nổi. Hiền hữu nên biết điều ấy. Chi chi cũng do Đức Chí-Tôn định liệu.
Ngoài ra Hiền-Hữu còn có phận sự dìu đỡ một Chơn-Linh Chí-Tôn phú thác, liệu đặng định phận mình đừng lo bao hàm mà thất phần chánh đáng.
Tái cầu:
CA BẢO ĐẠO

Chào các bạn. Hèn lâu mới có dịp gặp nau cũng nhớ lắm. Cười…
Hộ-Pháp, Hiền-Huynh làm ơn giùm một việc là ban quyền cho Hồ đệ thay thế cho tôi nơi phẩm vị Bảo Đạo Chơn Quân y như Chí-Tôn đã khẳng định. Làm lễ ban quyền cho long trọng cho đủ ký tín phẩm vị Thiêng-Liêng, vì trách nhiệm rất nên yếu trọng.
Phải đủ mặt lưỡng đài đặng nhìn quyền Bảo Đạo tùy ý Hộ-Pháp sắp đặt làm lễ ban quyền tại Đền-Thánh. Phằn minh thệ đủ lễ theo Thập Nhị Thời Quân và cầu sắc lịnh.
Hồ đệ tuân lời – chi chi có qua giúp sức – sở hành đôi ta sẽ đoạt vọng, chớ hiền đệ đừng ái ngại lo lắng vô ích.
Lời dạy như thế nhưng đến ngày 9 tháng 1 Giáp Ngũ mới làm lễ ban quyền ở Đền-Thánh.
Nguyệt Ẩn Đàn, ngày 8 tháng 9 Quý Tỵ, Ngọ thời:

Thi
Đông tây nam bắc chung trời,
Phương pháp vi nhân phải thức thời
Chưởng phước tu thân bồi đức cả
Quản bao khó nhọc mới con Trời
Bần đạo mừng chư hiền nam nữ đàn nội Nguyệt Ẩn Đàn – Ngọ thời ngự bút:
Dạy đàn trung tứ chúc cỏn con
Vi nhân bổn phận lo tròn
Trên đường đạo đức lòng son nhặt gìn
Buổi kỳ ba nhơn sinh thống khổ
Cơn loạn ly tìm chỗ dung thân
Cao-Đài khai phát cõi trần
Tam Kỳ hầu độ chúng nhân thoát nàn
Bạch Linh hiền lo toan mọi việc
Phận sự tròn nhiệt liệt thi hành
Ngày kia hầu độ quần sanh
Thiêng-Liêng giao phó lập thành quả công
Bạch Linh hiền non sông nghiêng ngửa
Tìm phương nào cứu chữa sanh linh
Thì hành Chính Sách Hòa Bình
Vị tha vong kỹ hy sinh cứu đời
Thanh Nguyệt hiền vừa qua lịnh dạy
Sắc Thiên ban lẽ phải thi hành
Lo tròn bổn phận phù sanh
Lập công bồi đức phước dành tương lai
Nữ nam ôi! Hôm nay chỉ rõ
Gắng tiến lên hầu có giúp đời
Nguyên nhân ưu thế mẫn thời
Hy sinh tánh mạng con Trời có ai?
Thi vô vị
Người sanh ba vạn sáu ngàn ngày
Hỏi ai tròn bổn phận học Cao-Đài
(Chiết ra như sau)
Người sanh ba vạn sáu ngàn ngày
Ba vạn sáu ngàn ngày hỏi có ai
Ngài hỏi có ai tròn bổn phận
Ai tròn bổn phận học Cao-Đài.
Văn phòng Pháp Chánh ngày 18 tháng 10 năm Quý Tỵ (24–11-1953)
Phò loan: Khai Đạo – Tiếp Pháp

BẢO ĐẠO CHƠN QUÂN

Hèn lâu mới có dịp hội ngộ cùng các bạn hầu cùng nhau bàn luận việc Đạo. Kẻ ở hư vô người cư trần thế hiệp với nhau trao đổi văn từ cùng lời đạo đức có lẽ ngộ nghĩnh lắm há?
Quý bạn có lòng tưởng đến tệ tăng rất cảm xúc lắm. Cũng nhờ các bạn mà ngày nay có cuộc lễ này. Trước kính cảm ơn Đức Hộ-Pháp sau các vị lớn nhỏ cả Hiệp-Thiên-Đài.

Hiền hữu Khoa! Hiền-Hữu có mạng lịnh thay thế cho tệ tăng nơi đây. Trước là cần phải có đủ nghị lực để đối phó với các kỳ khảo đảo: Hiền-Hữu cũng rõ trồng giống nào hái giống nấy – nên buổi ban đầu thì khó, chớ đến sau cũng như ai, miễn là Hiền-Hữu chớ thối chí lúc phôi thai. Nhưng Hiền-Hữu cũng phải rõ hễ trọng quyền thì trọng phạt nghe! Tệ tăng đã lựa chọn đã lâu.

Đạo một ngày một cao mà hễ cao thượng thì quý báu vô cùng. Khi đã tỏ ra Quốc Đạo thì chừng đó chúng ta cũng phải theo trình độ mà tiến triển. Nếu chúng ta theo không kịp trào lưu thì chừng đó chúng ta chịu lạc hậu. Đạo càng quý thì chúng ta phải dọn mình cho xứng đáng với phẩm hạnh của chúng ta.
Tệ tăng cũng mách miệng cho biết rằng tất cả năm Châu đều kiếm hiểu cho rõ cơ mầu nhiệm của Chí-Tôn về mặt Đạo, còn về mặt Đời thì chúng ta kiếm hiểu coi Đạo có thể chuyển xây hòa bình thế giới được chăng? Chúng ta
nên mừng vì chúng ta nhờ ơn Đại Từ Phụ dìu dẫn cho ta bước một bước rất dài có đủ điều kiện.
Theo ý tệ tăng muốn lâu lâu quý bạn nâng loan cho tệ tăng đến hầu chuyện cho vui. Tệ tăng kính lời cảm ơn Đức Hộ-Pháp cùng quý bạn.
Xin kính chào.
ThăngVăn phòng Pháp Chánh 2–12–Quye Tỵ (6–1–1954)

BÁT-NƯƠNG
Xin chào anh Tiếp Pháp và mấy em.
Tưởng lại công trình học hỏi anh và mấy em cũng đã được phần hưởng chút ít rồi nên thiếp và ca ca rất đổi vui mừng.
Nè anh Tiếp Pháp đã hiểu trọng trách nơi mình thế nào rồi chớ! Nói cho mà biết, anh phải dìu dẫn Bảo Đạo cho lắm mới được nghe! Coi còn bơ thờ như gái mới về nhà chồng. Nhờ có khó khăn và ông ta chưa tìm ra chơn lý đa nghe. Kể cũng là tại quả khiên ông cần chịu lắm khảo dượt. Anh ráng dìu dắt cho người lo tròn trách vụ. Chính nhị ca thấy vậy chưa dám trao quyền cho người.
Thăng.
Thiêng Liêng Đài 3–11_Quý Tỵ (18/12/1953)

Thi
Hậu tấn Nam bang tự xét lòng
Quân thần vẹn phận đáp non sông
văn huấn luyện cho hoàn bị
Tánh lập nhơn sanh chí đại đồng
Bạch Linh hiền, kìa nền Đại Đạo
Phận sự lo hoài bảo nhơn sanh
Thiên cơ chỉ định rành rành
Khuyên hiền phải gắng cho thành quả công
ThăngVăn Phòng Pháp Chánh 1–11–Quý Tỵ (6–12–1955)

BÁT-NƯƠNG
Biển tục luyện thần một cái không
Thay giềng Bảo Đạo hiểu chưa ông
Long tu kết quạt đưa đường lạc
Phất chủ liền tay quét nẽo thông
Rửa sạch bợn trần nhờ Pháp giới
Đánh tan tục khí có Thiên Bồng
Biết phần cửa Đạo vùa chơn lý
Nảy nét công từ định quả công
Thoát khỏi dục tình đến quả không
Thời quân chi Đạo ấy là ông
Dìu đường tục khổ theo đường Thánh
Giúp Đạo trần gian thoát bụi hồng
Đạo đức dẩy trăng an thế giới
Chánh chơn bủa khắp sánh Tiên bồng
Từ bi phương giúp vùa sanh chúng
Tạo vị nên đời mới thật công
Xin anh Bảo Đạo họa lại
Họa nguyên vận
Trần ai tuy ở cũng như không
Cực trí vì người lại gọi ông
Trước vướng nợ đời đành phải trả
Nay mong về Đạo lánh trần hồng
Dè đâu còn lãnh mang Thiên tước
Có phải nghiệp xưa chốn Đảo Bồng
Phẩm vị ban cho nghe quá lớn
Biết mình có xứng lập nên công
Có không, không có, có như không
Ông lớn ham chi những chức ông
Lớn chức lo quyền nhiều tội lỗi
Cao ngôi trọng tước khổ trần hồng
Sao bằng học hỏi trường Tiên Phật
Chi quí thanh cao cõi nhược hồng
Hữu phước gặp kỳ khai Đại Đạo
Ráng sao góp nhặt một phần công
Hồ Tấn KhoaVăn Phòng Pháp Chánh, 2–1–Giáp Ngọ (1954)

BÁT-NƯƠNG
Giáp Ngọ tân Xuân mở cửa thần
Thiên khai phổ hóa rưới hồng ân
Một đường vinh diệu nhờ tâm phúc
Tột nẽo quang minh bởi chí bần
Hành pháp thay Trời nương thể xác
Định linh rửa tục cậy phàm thân
Tế an thiên hạ tiên Nam quốc
Bóng Đạo tình Trời tạo Việt chân
Đồ mưu hại chúng thiệt là Tây
Mưu thế xuất quân Cộng hiệp bầy
Chánh thể Quốc gia ra mặt cáo
Xây lưng chịu đấm hỏi ai tài?
Anh Tiếp Pháp dâng thơ mừng Bà Bát-Nương, có đệ tử phụ họa.
Tân nhựt kính dâng lễ chúc bà
Xuân về thêm tuổi tác không già
Kính Nương Phật nữ lâm phàm cảnh
Chúc thọ Tiên Nương giáng dạy ta
Bát nhã rước đưa đò lục độ
Nương mây dạo khắp cõi ta bà
Thăng cao giáng thấp dường như chớp
Vị Phật quả Tiên dễ lắm là
Huỳnh Quang Tử

Tân niên khai bút kính niên Bà
Xuân đến người người trẻ chí già
Kính nguyện Cao-Đài qui vạn chủng
Chúc cầu nhơn loại hiệp cùng ta
Bát phương huynh đệ gầy nhân ái
Nương sách đại đồng cậy sức Bà
Thăng giáng cuộc đời ôi mộng ảo
Vị tha vong kỹ nước Ma Ha
Hồ Tấn Khoa

Xuân Giáp Ngọ 1954

Đầu cành oanh hót mách tân Xuân
Đoái lại trăm hoa sắc sảo mừng
Mĩm miệng đào thơ cười cợt gió
Nghiêng mình liễu yếu đón chào trăng‍84
Non thần hạt múa Nghê thường khúc
Nước chi thi ngâm điệu tháp trần
Cảnh vật nghiêng mình sang giáp ngũ
Riêng ta hồn xác sạch lâng lâng
Huỳnh Quang Tử

Chẳng phải Xuân này mới thấy Xuân
Vì chưng ngọc lộ mới nên mừng
Cung đoài gác bóng hồn non nước
Cửa khảm rời thân nghiệp thấu chăng
Định vững trí thành nên đẹp thể
Dìu an tâm đức mới xinh trần
Giữ phương Pháp Chánh trau Thiên thể
Cực lạc phàm gian sẽ kiến lân
Bát-Nương

Xuân này hai chín đó ai ôi
Xuân đã qua rồi rẻ mãi thôi
Xuân đến qui nguyên lòng toại chí
Xuân lui hiệp nhứt phỉ nguyền rồi
Xuần về an giấc nhà hoan lạc
Xuân tới trúng mùa gạo cứng nồi
Xuân đặng như nguyền xin khấn hứa
Hăm ba Xuân nữa cúng chè xôi
Hồ Tấn Khoa

Đồng bầu đạo đức sợ chi ôi
Định phép hằng tâm quả được thôi
Nợ thế cùng Xuân cùng nợ mãi
Duyên thiên dầu hạ cũng duyên rồi
Trải thân cậy trúc Ma Ha nước
Rửa thế nhờ nơi tịnh thủy nồi
Xuân đến đầy lòng vui đạo đức
Chúc ông Bảo Đạo đặng ăn xôi

Bát-NươngĐại Điện Đền-Thánh 9–1–Giáp Ngọ (11–2–1954) Tý thời

CA MINH CHƯƠNG

Chào Hộ-Pháp Thiên Tôn cùng chư vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài.
Cùng các bạn!
Thưa Đại Huynh Hộ-Pháp Thiên Tôn – Đệ xin giao nơi tay Ngài ủy quyền Bảo Đạo đặng Ngài ban lại cho bạn Hồ Tấn Khoa và lập Thánh Lịnh.
Bổn quân Bảo Đạo Ca Minh Chương tuân mạng lịnh của Chí-Tôn và quyền Ngọc Hư phê chuẩn giao chức tước quyền hành Bảo Đạo cho Hồ Tấn Khoa thi hành nơi thế về hữu vi nhi trị, còn phần thiêng liêng về phần bổn quân nắm giữ.
Hồ Hiền Hữu! Bổn quân lấy làm hữu hạnh đặng Hiền-Hữu kế nghiệp thì chí mong một điều trọng hệ hơn hết là trách vụ khó khăn cực nhọc ấy Hiền-Hữu hữu cáng đáng kham tất.
Vậy Hiền-Hữu nên nhớ rằng nghiệp Thiêng liêng hằng tồn tại mãi còn quán tục là thừa.
Hiền-Hữu nên nhớ mãi lời ký thác của bổn quân hầu ngày sau vui gặp nhau cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bổn quân xin nhượng cơ cho Cao Thượng Phẩm.
Thăng.
CAO THƯỢNG PHẨM
Chào Hộ-Pháp và các bạn. Hộ-Pháp làm ơn trấn thần Thiên phục và ban phép giải thể cho Hồ Bảo Đạo, còn Khai Pháp lập minh thệ cho người, còn bần tăng chứng giám.
Thăng

Ông Khai Pháp chứng minh cho đệ tử ngày 9 tháng Giêng Giáp Ngọ qua đến ngày 22 tháng Giêng Giáp Ngọ thì qui vị một cách bất ngờ.

Đaị-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
Nhị Thập Cửu Niên
Tòa-Thánh Tây-Ninh
Minh Thệ
Tôi là Hồ Tấn Khoa, 56 tuổi, sanh năm Kỹ Hợi, Bảo Đạo Hiệp-Thiên-Đài, thề rằng luôn luôn trung thành với Đạo và giữ dạ vô tư hành sự.
Nếu tôi phạm lời minh thệ nầy sẽ bị các Đắng Thiêng-Liêng hành pháp, tận đọa tam đồ bất năng thoát tục.
Tòa-Thánh Tây-Ninh, 9 tháng Giêng Giáp Ngọ (11–2–1954)
Bảo Đạo
Hổ Tấn Khoa
Ký tên

Chứng giám vô vi Chứng đàn
Cao Thượng Phẩm Khai Pháp Hiệp-Thiên-Đài
(Ký tên đóng ấn)
Trần Duy Nghĩa

            Hiệp-Thiên-Đài                          Đaị-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
            Bộ Pháp Chánh                                  Nhị Thập Cửu Niên
               Số 03–PC                                   Tòa-Thánh Tây-Ninh
Home                            1 ]  [ 2 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét