ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Tứ Thập Ngũ Niên
TÒA THÁNH TÂY NINH
HIỆP THIÊN ĐÀI
V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Tham chiếu : Quý Thánh Thơ
số 15/ DS ngày 12-6-1970
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo
tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn
để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14
tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
LỜI TỰA.
Những bài
Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH
chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy.
Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành
cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các
nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ vào Thư-Viện nầy để chư
độc giả đến xem.
Đức HỘ-PHÁP là một trong
các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ
thuyết Tam-Lập : "Lập Đức, Lập Công,
Lập Ngôn".
Về lập đức: thì Đức Ngài
là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho
toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC- CHÍ - TÔN (NGỌC - HOÀNG -THƯỢNG
- ĐẾ ).
Về lập công: thì Đức Ngài
vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt
gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là
một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!
Về lập ngôn: thì Đức Ngài
lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng
thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn
Đạo nên lưu ý .
Nhơn danh Hiến-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý
độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính
chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT.
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần
thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử: những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch
đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua
các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện
chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau
thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập
những tài liệu này.
Chúng tôi nghĩ rằng: “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung
tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến
cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn
trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng
thay Trời dạy Đạo.
Nếu một may thay thời cuộc
lại biến thiên, có thể các cuộc phần
thư lại tái diễn, thì thiết tưởng trong
số tài liệu này vẫn còn có nhiều người
nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn
Đây không phải là việc làm
của một cá nhân hay một đoàn thể, nhưng
là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình
để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển
tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công
việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.
Việc làm của chúng tôi
không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo
trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU
ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng
trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt
sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức
HỘ PHÁP.
Từ đây bản quyền sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để
cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu
ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta
trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ
LỜI CHÚ CỦA NGƯỜI SOẠN
Kính thưa: Chư Huynh, Tỷ,
Muội cùng các bạn đồng môn.
ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
lúc còn sanh tiền Ngài đã để lại nhiều lời vàng tiếng ngọc dạy dỗ chúng sanh
qua các buổi thuyết Đạo.
Nay kẻ hậu sinh được may
duyên học Đạo với Đấng Thiên Tôn qua các bài Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI
( từ năm 1946 đến năm 1955 do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây
Ninh ấn hành ), trong những bài giảng nầy, Đức Ngài đã giáo hóa rất nhiều chủ
đề về Đấng Thượng Đế, Tôn Giáo, Nhân Loại... theo dòng thời gian của từng thời
kỳ lịch sử.
Với lòng tôn kính Đức Tôn
Sư, con xin được sắp xếp các bài giảng theo từng chủ đề để con và các bạn đồng
môn dễ dàng sưu khảo trên đường tu học.
Thành kính cầu nguyện Đức
Tôn Sư luôn luôn dẫn dắt chúng con trên đường phụng sự.
Kỉnh bút.
* * *
Nghe đọc lại lời Thuyết
Đạo của Đ.H.P.
1. - Đức Hộ Pháp Thuyết
Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 18 tháng 2 năm Nhâm
Thìn ( 1952 )
Vía Ðức Phật Quan Âm
Ðức Hộ Pháp Hành Pháp
Trong Thời Cúng Ðàn.
Con Người Ði Tìm Ðạo Hay
Ðạo Ði Tìm Người.
Mỗi kỳ Ðại Ðàn kể từ 12
giờ cho đến 2 giờ, trong hai tiếng đồng hồ nếu mấy người mặc bộ đồ võ phục như
vầy, có buộc dây như tôi, chịu thử như tôi coi ra sao mấy người biết. Từ lúc
mới vô dĩ chí cho tới mãn lễ, không có lúc nào ở không, luôn luôn Hành Pháp
không nghĩ cho tới lúc cúng xong lại lên giảng đài giáo đạo cho con cái Ðức Chí
Tôn, nếu ngày kia có tuổi thêm chút nữa chắc làm không nỗi, không thể đứng nỗi,
chịu không nỗi nữa.
Hạng nhứt nhìn trở lại
thấy họ làm biếng đi cúng, thấy nó não nề làm sao, thối chí làm sao, Bần Ðạo
cho hay lần nầy là lần chót, ngày giờ nào có Ðại Lễ như vầy, Bần Ðạo ngó thấy
trước mắt nếu còn sự biếng nhác của con cái Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo không thuyết
Ðạo nữa, lần nầy là lần chót.
Ðêm nay Bần Ðạo thuyết cái
đề trọng yếu là: Con người đi tìm Ðạo hay Ðạo đi tìm người ?
Từ thượng cổ đến giờ lắm
người tự nhiên biết rằng : Cả cái khuôn luật thiên nhiên của tạo đoan thế nào
là Thánh Ý của Ðức Ðại Từ Phụ cũng đã định vậy. Luật thiên nhiên của tạo đoan
buộc chúng ta phải nhìn nhận cái khuôn luật tối yếu, tối trọng của Ngài. Trong
vạn vật hữu sinh chúng ta thấy chúng ta đứng đầu hơn hết vì chúng ta linh hơn
vạn vật, vì cớ cho nên khi chúng ta còn thiếu niên chúng ta chưa đủ trí thức,
chúng ta vẫn thường theo một khuôn luật là tìm sống thôi. Bởi phương bảo vệ cái
sống của mình là khuôn luật thiên nhiên đã định vậy, hễ khi nào chúng ta tìm
sống tức nhiên chúng ta làm thế nào cho chúng ta sống được, tức nhiên chúng ta
không chịu nhịn sống cho ai hết, nói rõ ra cái tấn tuồng tranh sống mà Bần Ðạo
đã thuyết cái yếu lý của toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, để định vận
mạng tương lai của họ, cái yếu lý ấy trọng hệ hơn hết. Hễ nhượng sống thì còn
tồn tại với nhau mà tranh sống thì tức nhiên tự diệt với nhau vậy.
Ấy vậy chúng ta tìm Ðạo là
gì ? Là chúng ta thoát ly cho đặng cái thú tánh để bảo tồn cái thiên mạng của
mình. Dầu cá nhân của chúng ta, dầu toàn thể nhơn loại cũng vậy, duy chịu có
khuôn luật ấy mà thôi.
Kỳ trước Bần Ðạo đã thuyết
hai cái cơ thể : Nhục thể và Linh Hồn của chúng ta tức nhiên là cái nguơn linh
của chúng ta vậy, nó phải tương liên mật thiết với nhau, đặng nó điều độ dìu
dẫn trên con đường tu, tức nhiên trong con đường Ðạo của chúng ta là tánh và
mạng phải song tu, ta phải biết cái tánh của ta vẫn còn cái thú tánh của nó,
trong xác thịt thú nầy ta tìm phương nào cho thoát ly nó, đừng chịu quyền năng
của nó ràng buộc, ta phải đạt cho được cái tinh thần thiêng liêng vô đối đó.
Chúng ta đồng thể cùng Ðấng Chí Linh tức nhiên đồng thể cùng Ðạo.
Ðạo là cơ quan mà toàn thể
nhơn loại từ thượng cổ đến giờ tìm kiếm đó vậy. Họ tìm Ðạo là tìm gì ? Họ tìm
Ðạo đặng đạt được Chơn Pháp giải thoát kiếp sinh của họ. Nhà Phật tìm phương
chước đặng diệt quả kiếp của mình, đặng đạt cơ siêu thoát. Ðạt cơ siêu thoát
đặng làm gì ? Ðặng lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và có phương thế đồng thể
cùng Ðức Chí Tôn đặng cầm quyền tạo đoan của càn khôn vũ trụ, ấy là mơ vọng của
toàn thể nhơn loại từ xưa đến nay, đi tìm Ðạo là vậy đấy.
Hỏi từ trước đến giờ họ đã
tìm đặng hay chăng ? Ta để dấu hỏi mơ hồ. Những Ðấng đã đạt Ðạo chúng ta chắc
hay không, duy mấy vị giáo chủ mà thôi, còn các môn đệ của các Ngài, sau khi
các Ngài đã qui liễu, chúng ta để dấu hỏi họ đã đạt vị được như vậy hay chăng ?
Chắc cả thảy đều để dấu hỏi mơ hồ hết. Giờ phút nầy chính mình Bần Ðạo đứng tại
giảng đài nầy, là người để đức tin vững chắc hơn toàn thể nhơn loại, mà chính
mình Bần Ðạo phải để dấu hỏi mơ hồ nầy thì tưởng chưa có ai đạt cơ siêu thoát
đặng.
Ấy vậy, đạt cơ siêu thoát
đặng chi ? Ðặng đạt phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và cả phẩm vị Trời nữa, có
phải như vậy chăng ? Hết thảy đều nhìn nhận là phải vậy, mà giờ phút nầy Ðấng
cầm quyền cả càn khôn vũ trụ, làm Chúa cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngài đến
cùng ta đem cái địa vị của Ngài để trong mình của mỗi đứa, tức là ngôi chí
Thánh của Ngài.
Ngài đến lấy cả hình xác
của chúng ta đặng làm phần tử Thánh Thể của Ngài. Phải chăng nếu chúng ta lấy
cái triết lý chơn lý ấy tìm tòi, chúng ta thấy rằng : Ông Trời đến ở cùng ta,
ta là ông trời tại thế nầy, cửu phẩm Thần Tiên ở trong Thánh Thể của Ngài,
Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngài đem để trong tay của chúng ta cả thảy, lý do là
Ðạo đến tìm ta chớ ta không có tìm Ðạo. Thượng cổ không biết chừng nhiều Ðấng
đã muốn trông thấy như ta đã trông thấy và họ muốn đặng như ta đã đặng hôm nay,
nhưng họ chưa đặng mà chúng ta đã đặng.
Ấy vậy Bần Ðạo quả quyết
rằng xưa kia thiên hạ tìm Ðạo một cách khó khăn mà giờ phút nầy ta lại thấy Ðạo
đến tìm ta.
Hồi chiều mấy anh em chúng
tôi có ngồi luận Ðạo với nhau, đặng nhắc Ngài, Ðức Chí Tôn mới đến Ngài có than
rằng :
Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy.
Ông thấy con mình tội tình
quá lẽ, nhơn loại, con cái của Ông đã sa ngã, đã tội chướng quá nhiều, chính
mình Ông cầm cây gậy đến ở cùng con cái của Ông.
- Một là tìm phương giải
tội cho nó.
- Hai là tìm phương đem
huyền pháp cơ quan siêu thoát đến trong tay nó.
Nếu toàn thể con cái từ
tín đồ dĩ chí Thiên Phong chức sắc không có đạt vị đặng, dám chắc khi trở về
cõi Thiêng Liêng Hằng Sống cái hổ nhục chẳng thế gì chúng ta thấy đặng các bạn
của chúng ta đặng tiếp chúng ta nơi cửa Hư Linh đó vậy, và lẽ vì sao đạt không
đặng, không có gì tệ mạt hơn. (Thuyết Ðạo QV/ tr11)
* * *
2. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền ThánhThời
Tý,
19 tháng 2
năm Mậu Tý ( 29-3-1948 )
Thiên Cung
Của Mỗi Con Cái Ðức Chí Tôn.
Ngày hôm nay
Bần Ðạo giảng vềThiên Cung của mỗi con cái Ðức Chí Tôn. Thiên Cung ấy, Chí Tôn
có nói rằng: " Gia tài của các con,
Thầy đã sắm sẵn."
Gia tài ấy
tức là Thiên Cung vậy, Bần Ðạo nhớ lại buổi nọ Ðức Chí Tôn biểu chư Ðại Thiên
Phong, nhứt là những môn đệ đầu tiên của Ngài bên Cửu Trùng Ðài, nên ta kể
những vị ấy như là Thánh Tông Ðồ của Ðạo Cao Ðài vậy: như là Trung, Trang, Tương,
Thơ, Nương, Ca. Ðó là những vị đến lúc ban sơ khởi thể của nền Ðạo, Chí Tôn biểu:
"Các con phải lập họ hàng của mình" tức là biểu lập
Thiên Cung tại thế. Thảm thay ! Hồng ân ấy, Chí Tôn liệng trong tay mà không
biết nắm, tức nhiên họ làm mất đạo nghiệp của họ vậy.
Thiên Cung của chúng ta mà
Ðại Từ Phụ gọi gia tài dành để cho chúng ta, trừ ra đứa nào chê bỏ Thầy mới đem
cho đứa khác. Thiên Cung ấy là gì?
Là các nguyên căn của Ðức
Chí Tôn, là cơ tạo đoan càn khôn vũ trụ. Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
nói rằng: Ðức Chí Tôn buổi nọ có Thiên Cung riêng, Ngài dứt cả toàn Thiên Cung
đó đến một chỗ chẳng có vật chi, rồi Ngài lấy dương quang đặng Ngài biến tướng
ra và ban cho mỗi con vật một điểm linh tính tiếng Phạn gọi là Monade, còn ta
gọi là nhứt điểm linh, điểm linh ấy tấn hóa vô biên vô giới, đi từ vật chất đến
Phật vị, thì trong con người đi biết bao nhiêu kiếp sống liên quan mật thiết
cùng nhau, do mỗi kiếp sống để tạo thành một gia tộc. Chúng ta sanh ở thế kỷ
nầy có ông bà, cha mẹ, anh em bạn tác, vợ chồng. con cái, cả các cơ nghiệp hữu
hình của chúng ta tạo tại thế nầy sẽ trở nên cơ nghiệp nơi cảnh vô vi kia đặng làm
Thiên Cung của chúng ta.
Vậy Thiên Cung là gì ? Nếu chúng ta gọi là gia tộc vô hình thì
phải gọi là xã hội do đại nghiệp căn bản của chúng ta lập thành. Nếu chúng ta tưởng tượng trở lại
do lời của Ðức Chưởng Ðạo nói, thì Ðức Chí Tôn cũng vô một khuôn luật
ấy, nhưng Ngài đạt Pháp, nắm cả bí mật vô biên đặng tạo càn khôn vũ trụ riêng,
chẳng khác như ta thấy tấn tuồng hữu vi nơi mặt thế nầy, cũng làm con, làm cha,
mà ta thấy cha ta tạo nghiệp thế nào, thì ta cũng bắt chước như thế ấy. Hình trạng Ðức Chí Tôn đã làm thì ta
sẽ làm theo, hay là ta đã làm rồi nơi cảnh vô hình, Ðức Chí Tôn đã dành để cho
ta mà ta chưa hề biết như vậy, ta chỉ biết giờ nầy mà thôi, đến khi bỏ xác thú
rồi trở lại cảnh vô hình mới biết ta có một đại nghiệp.
Bởi vậy cho nên buổi sanh tiền
trong kiếp sống của ta đây: ăn để sống, tranh giành để nuôi con thú tức là thú
hình của ta mà quên lãng cả đại nghiệp. Không có thảm trạng nào hơn là ta quên
mình hiểm nguy, nên Chí Tôn rất thảm khổ thấy ta chìm đắm trong trường đời. Ta
thử tưởng tượng như ta làm cha mẹ đang giữ đại nghiệp cho con, phần hương hỏa
đó rất vĩ đại, trong thời buổi còn niên thiếu cho nó đi ra ngoại quốc du học
rồi lúc nó ở ngoại quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia nghiệp ấy nó chưa
được hưởng mà không ai giúp đỡ tự nó tìm kế làm thuê làm mướn với tài hay mà
sống. Nếu nó sống được với nghề hay nghiệp giỏi, với cái thiệt tài của nó thì
không nói gì, ngặt một nỗi nó không sống được theo phương pháp quân tử, nó phải
hạ mình xuống đi ăn trộm ăn cướp bạo tàn, điếm đàng, lường dối, làm đủ mọi tội
lỗi với phương sống đê hèn đó của đứa tiểu nhơn, thì ta thử hỏi ông cha hay bà
mẹ cầm cái đại nghiệp ấy sẽ đau đớn thương tâm như thế nào chớ ?
Thật ra Ðức Chí Tôn cũng
dường đó, một đám nhơn sanh như chúng ta đây, Ông đã nói : Của mỗi đứa con Ông
còn giữ một đại nghiệp, đại nghiệp ấy không phải của Ông cho, mà là của tự mình
chúng ta tạo dựng nhưng chúng ta lại nỡ quên phứt nó đi, để cho thân thể ra hèn
tiện, khổ não, truân chuyên, mà cái đại nghiệp kia ta không thể bảo trọng được.
Nếu đương đầu với mạng sống mà ta không tự tỉnh, kiếm phương pháp sống cho chí
thành, rủi tìm cái sống theo quỉ pháp, thử hỏi Ðức Chí Tôn sẽ đau đớn như thế
nào nữa ? Thầy đã nói: "Gia tài của
các con Thầy không bao giờ lấy cho kẻ khác, kỳ dư kẻ nào chê bỏ."
Nếu chúng ta thất nghiệp
cả của cải phụ ấm do nơi ta đào tạo ấy mà ta trở bước hưởng lại không được là
tại nơi ta từ chối, tự ta quên mình mà từ bỏ cái đại nghiệp ấy. Ta sống một
trăm tuổi có nghĩa gì đâu ? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, thì dường
như người quá cố nhắc nhở ta một điều gì ? Người chết ấy nói với ta rằng: "Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, nơi quí
ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe !" Phải sáng suốt đặng phân thiệt
giả mới bền giữ cơ nghiệp Thiêng Liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hãi
đa nghe !
Nhơn loại bao giờ mới tỉnh
cơn mơ mộng tàn ác mà tìm cho được cái sống thánh đức cao siêu ? Vì cớ cho nên
mỗi đứa chúng ta, dầu lao khổ, truân chuyên, dầu nhiều phen bị khảo đảo khổ
hạnh, mà dường như tinh thần ta thấy khoái lạc hơn nữa, là tại sao vậy ? Tại ta
biết rằng sự khảo đảo hình xác nầy không phương gì mà động chạm đến phạm vi đại
nghiệp của ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi, mà hễ không động đến được
thì ta biết rằng ta có thể bảo thủ được, không mất của thiêng liêng ta đã sẵn
có.
Nếu cả mấy em biết nghe
theo chơn lý vô cùng vô tận của Thiêng Liêng Hằng Sống ấy, bảo trọng được cái
cảnh thiệt tướng ấy thì hay hơn là trọng cái sống của thế tình mơ mộng. Mấy em
chỉ nên sợ một người mà thôi, ngoài ra dưới thế gian nầy không còn sợ ai hết.
Kẻ nào có quyền thế thì chỉ có giết chết thân ta là hết chuyện, còn các em, các
con phải sợ người mà chẳng những giết thi hài của mấy em, mấy con, mà còn tận
đọa tam đồ chi khổ, lại còn truất cả đại nghiệp của mấy em và mấy con nữa.
Người ấy là Ðại Từ Phụ vậy. (Thuyết Ðạo QII / tr37)
* * *
3. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ngày 30 tháng 8 năm Tân
Mão ( 1951 )
Lẽ chơn giả trong các đạo
giáo.
Ðêm nay Bần Ðạo mời cả
Thánh Thể của Ðức Chí Tôn và con cái của Ngài nam nữ hiệp trí lại đặng tìm coi
cái lẽ chơn giả của các Ðạo giáo từ thử đến giờ, cả trí não con người đã tầm
Ðạo phân vân bất nhứt.
Bao giờ cũng vậy, từ
thượng cổ đến giờ những tinh thần mộ Ðạo, lẽ thường người ta nói tầm chơn, cái
chơn ở đâu ? mà giả thế nào ? Họ lấy phương tiện nào phân biệt được cái chơn mà
họ tầm chơn.
Vả chăng luật tương đối
của vạn vật hữu hình nó khó phân biệt lẽ tương đối của nó. Thảng như chúng ta
không ngó thấy cái chơn thì chúng ta không thể gì nói đến cái giả. Chúng ta
không ngó thấy cái chơn thì chúng ta không thể gì nói đến cái thiệt. Luật tương
đối ấy vẫn một mà thôi.
Chúng ta thử đoán xét từ
cái thử coi, tỷ như Nho Giáo của Ðức Khổng Thánh tạo thành mà người ta còn
trích điểm cái chơn cái giả, miệng lưỡi và đầu óc nhơn sanh bao giờ cũng thế.
Luận người ta có thể nói Ngài sanh ra trong nước Lỗ, Ngài là một vị Giáo Chủ
của Nho Tông, tức nhiên Giáo Chủ của nhơn luân chi Ðạo mà tại sao Ðạo của Ngài
không thể gì cứu nước Lỗ cho còn tồn tại đến ngày nay ? Ấy vậy Ðạo của Ngài bất
lực.
Ðạo của Ngài sản xuất ra
hồi buổi Ðông Châu Liệt Quốc, thiên hạ thống khổ đảo huyền, nếu nói rằng : Nhơn
luân chi Ðạo của Ngài đủ năng lực có thể đem hòa bình cho thiên hạ buổi đó,
trái lại Ðông Châu Liệt Quốc đã loạn và vì loạn ấy mới sản xuất nhơn luân chi
Ðạo của Ngài, trong tam cang ngũ thường của Ngài bị đạo chích (tên trộm) công
kích triệt để. Thử nắm quyền hành của Ngài và kiếm lý luận điều đó, trích điểm
điều đó, chúng ta khó định được cái phải cái quấy chỗ ấy.
Ðức Khương Tử Nha khi Ông
lãnh lịnh lập bảng Phong Thần, đi giữa đường còn bị Thân Công Báo trích điểm,
chính người sau lên án Ðức Khương Tử Nha phản Trụ đầu Châu, so sánh Ðức Khương
Tử Nha với Bá Di Thúc Tề, người ta trích điểm một cách kịch liệt, người ta cho
Ngài đã thất nhơn luân chi Ðạo của Ngài, như thế thì đầu óc trí não của chúng
ta khó suy nghĩ lắm.
Nói đến Jésus-Christ giờ
phút nầy Do Thái vẫn chờ Chúa Cứu Thế, họ không nhìn nhận Ðức Jésus Christ là
Chúa Cứu Thế, vì lý do gì ? Vì lý do không theo đúng trong tiên tri đã định.
Dân Do Thái vẫn chờ Chúa Cứu Thế mà thôi.
Ðức Phật
Thích Ca khi lên núi, bốn người môn đệ của Ngài ngồi dưới chân núi mà đợi Ngài,
Ngài hành Ðạo sáu năm trường ép xác mãi mà không đạt pháp gì hết, Ngài xuống núi bốn
môn đệ của Ngài bỏ Ngài cho Ngài là giả không có chơn.
Còn nữa, còn Ðạo Brama tức
là Ðạo Bà La Môn cho rằng thuyết giải thoát của Ngài là thuyết do nhiên chứ
không có gì hết, sau chính mình Ngài tạo phẩm vị đi từ nhơn vị, Tiên vị lên đến
Phật vị, ai cũng có thể đi đến được hết. Luật giải thoát của Ngài do nhiên chứ
không có chi lạ.
Những lý lẽ ấy làm cho đầu
óc con người tầm chơn càng suy nghĩ càng khó quyết định được. Ta tự hỏi, thế
nào gọi là chơn ? Thế nào gọi là giả ? Theo lý trí của con người có lẽ nầy 'Tầm
chơn là đúng sự thật hơn hết.'
Vả thân tôi đang sống về
phần hồn, nhưng phần hồn đã đau khổ, nếu làm thế nào cho tâm hồn an ủi được,
tầm chơn hạnh phúc được, có thể nương nơi nào mà tôi gởi tâm hồn tôi được an
ủi, chỗ đó là chơn.
Bần Ðạo có luận với mấy
người bạn bên Hiệp Thiên Ðài, không thế gì luận cái chơn cái giả được.
Buổi Trương Vĩnh Ký còn
sinh tiền, ông học tiếng Chàm, người đó các thứ tiếng đều học đủ hết, người đời
đã cho ông là vị Trạng cũng không quá đáng. Khi Ngài học tiếng Chàm, theo Ngài
học thì phải cần chuyện vãn với người Chàm, đặng đạt cho được cái giọng nói của
họ mới đúng, khi đi có ba người, một Ông Cha và người vú đỡ của Bần Ðạo cùng có
theo năm người nữa dắt nhau vô xóm Chàm đặng thí nghiệm sự học hỏi của Ông, khi
vô Ông hỏi trong xóm Chàm, ở đây người Chàm có đạo đức chi chăng ? Cách thờ
phượng thế nào ? Người ta trả lời ở đây không có thờ phượng chi hết, Ông trọng
yếu là tìm Ðạo đặng biết cái sự thờ phượng của người Chàm mà định sự tiến bộ về
tinh thần của họ. Ông hỏi nữa, chí quyết tìm xóm nầy coi có anh em nào biết về
đạo đức dân Chàm hay không ? Có thờ phượng chi chăng, thì có người nói: Ở đây
không có ai đạo đức và cũng không thờ phượng gì hết, người đó chỉ ở trên kia có
Bà già đó, Bà đạo đức hiền lương lắm, Bà ở góa từ hồi nào tới giờ, ở vậy mà
thôi, Bà thờ phượng hình cốt.
Ông Trương Vĩnh Ký cùng
năm người nữa dẫn nhau lại chỗ Bà già Chàm, đến nơi thì thấy Bà đang quì lạy,
xoay lưng ra ngòai cửa, ở mé trong có một cái tượng cốt một Ông Chàm mà chỉ có
cái đầu không mà thôi, còn chân tay mình đều không có, chỉ một khúc cây còn vỏ
mà thôi.
Năm người tới đứng đàng
sau lưng Bà, ngó thấy Bà già thờ cúng một cách đạo đức, tưởng ra không có Ðạo
nào được cung kính như thế, năm người đợi Bà làm lễ xong vừa xoay mình ra đến
cung kính hỏi chuyện Bà.
Bà ở đây với ai ? Tới
chừng đó bà mới nói :
- Tôi có hai đứa con, đã
nên gia thất hết rồi, chỉ ở một mình tôi mà thôi.
Ông Trương Vĩnh Ký tọc
mạch hỏi nữa :
- Hình Ông gì mà Bà thờ đó
?
- Hình đó là hình chồng
tôi.
- Tại sao có cái đầu
không, còn cái mình ở dưới còn cây nguyên vậy ?
- Cái cây nầy là cây của
ông chồng tôi, lúc trước ông trồng mà vì ông cưng nó lắm, cho nên tới chừng ông
khoảng (chết) tôi mướn thợ chạm cái hình Ổng đặng tôi thờ . Nhưng thợ làm được
cái đầu, còn mình và tay chân thì không làm được nên tôi để vậy tôi thờ mà thôi.
- Vậy Bà không có thờ ai
nữa sao ?
- Tôi chỉ biết thờ chồng
tôi, chứ không biết thờ ai hết. Từ thử đến giờ tôi thương có một mình ổng, tôi
biết có một mình ổng mà thôi.
Ông Trương Vĩnh Ký day lại
nói : Tôi đố với ba ông, ba ông làm thế nào độ được người nầy theo Thiên Chúa
Giáo.
Nếu ai đem hình nào khác
hơn ông chồng của bà thì bà không biết, bà chỉ biết ông chồng của bà là ông
Trời của bà, nếu ai đem hình nào khác hơn ông chồng của bà thì bà không chịu
đâu, không Ðạo chi hơn là Ðạo thờ chồng của bà. Hỏi vậy có ai chối cái chơn của
bà không ? Cái chơn của bà là bà chỉ biết một ông chồng của bà và chỉ biết thờ
ông chồng của bà như một ông Thần sống, như một ông Trời tại thế này mà thôi.
Trong thế gian nầy, không ai chơn, không ai giả và cũng không phân biệt thế nào
là chơn với giả được, chỉ có trí óc của mình nhận biết được, suy đoán được, chớ
chẳng hề khi nào ngôn ngữ nói ra được.
Ấy vậy từ thử đến giờ có
người tầm chơn mà không biết đặng chơn ở đâu. Ðạo Cao Ðài mà chúng ta đã theo,
chúng ta đã gởi tâm hồn xác thịt cho Ðấng Tạo Ðoan rồi có ai kiêu ngạo là giả,
chúng ta cứ tưởng chơn mà thôi.
Ngoài Ðấng Tạo Ðoan ra,
không ai sanh mình ra được, mình cứ tưởng Ông đó là chơn, ngoài ra ai nói cái
gì cũng thây kệ. (Thuyết Ðạo
QIV / tr57).
* * *
4. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 15 tháng 5 năm Ðinh Hợi ( 1947 )
Luật công
bình thiêng liêng.
Trên năm (5)
năm Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, khi trở về bổn xứ Bần Ðạo nhìn thấy vận
mạng nước nhà, thấy sự tấn hóa của toàn thể quốc dân trong hai lẽ buồn vui, nhưng
có một điều làm cho Bần Ðạo ngạc nhiên hơn hết là trong nhơn loại tấn bộ văn minh trên mặt
địa cầu, lại có một hạng người chém giết đồng bào một cách tàn nhẫn, nếu lấy ý trí mà
quyết đóan thì ta chẳng biết mục đích của họ định cho tương lai vận mạng nước
nhà thế nào ?
Theo Bần Ðạo
tưởng
chẳng có một cơ quan nào mà chúng ta thấy trong hoàn cầu hiện nay chấp nhận sự
sanh sát trước mắt loài người và cũng biết bao nhiêu liệt cường hơn thế nữa. Kẻ
tính làm bá chủ hoàn cầu để lập thành một lực lượng với cái phương pháp tàn sát
đã kết liễu thế nào, chúng ta thấy rõ. Hại thay ! Nòi giống Việt Nam cũng có số
người tạo thành một nhóm tự xưng là trí thức tinh thần có lực lượng mạnh mẽ
mong giết hại đồng chủng của mình mà độc tài lập vị.
Dân tàn bạo ấy tưởng là
khôn ngoan hơn hết, dùng chánh sách cường quyền áp bức đồng bào, Bần Ðạo thử
hỏi đặng hay chăng : - Xin trả lời, không hề khi nào đặng.
Bần Ðạo thấy cái tàn ác
động lòng Chí Tôn, nên đã đến tạo ra một đạo Thiên binh để bảo trọng cái mạng
của đồng bào, cái ác nghiệt của họ làm động lòng từ bi của Ngài, nói cho chánh
lý, nếu là một đạo Thiên binh mà đã đứng ra bãi chiến trường chém tướng đoạt cờ
bảo tồn quốc vận, ấy là tướng quân tạo thời cải thế đã đành còn những kẻ tàn
hại dân lành với phương tàn ác tức là quân cường đồ cướp đảng.
Bần Ðạo xét đoán cái tình
thế nước nhà về hữu hình và hiện diện của Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo suy nghĩ đến cái
triết lý đạo đức của càn khôn thế giái nầy là một cái ơn công bình thiêng liêng
đã định, tức nhiên hễ có vay phải có trả chúng ta cũng không chối đặng, chúng
ta đã thấy hiện tượng một cơ quan bất công, tại sao mặt thế người ngu, kẻ trí,
kẻ làm cha, người làm tôi..v.v..
Một khuôn luật công bình
vô biên vô tận tấn hóa văn minh khoa học giết hại cả sanh mạng loài người ở thế
gian nầy mà không có công bình thì loài người ví như con vật, mạnh đặng yếu
thua, khôn còn dại mất, cái thuyết đương nhiên của thiên hạ tranh đấu, chúng ta
thấy nếu còn duy trì thì loài người sẽ tận diệt, chỉ nhờ luật nhơn quả ấy nên
chúng ta nói không có ai tiêu diệt loài người được, họ tưởng giết là tiêu diệt.
Ấy là ngu muội.
Giết người không phải
tuyệt sanh mạng của loài người như đốn cây chẳng là giết chết cây, mà là làm
cho nó sanh chồi nẩy tược, kẻ làm ác nó tưởng giết là hết, không thể như thế
được, chúng ta sẽ còn thấy tấn tuồng nhơn quả.
Nước Việt Nam ta đã từng
chịu luật nhơn quả trả vay, cựu trào đã tàn sát Ngụy Khôi. Mã Ngụy hiện còn di
tích tại Trường Ðua bây giờ, 80 năm nô lệ do đó mà ra.
Kẻ tàn bạo ấy ngày nay nó
tưởng giết Ðạo là hết, nước Nam phải chăng đã thiếu Chúa cho nên tính giết
người mà tạo Chúa, đặng ngày sau họ sẽ quì lụy tôn sùng, nếu không quả có vậy
thì luật công bình thiêng liêng về đạo đức cũng không hề có. (Thuyết Ðạo QI /
tr 49)
* * *
5. - Đức Hộ Pháp Thuyết
Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 23 tháng11 năm Mậu Tý
( 1948 )
Bác ái công
bình.
Ngày nay
chúng ta đình bộ nơi cung Hiệp Thiên Hành Hóa đặng quan sát cuộc thiệt chiến, chẳng khác nào
như Gia Cát qua Ngô, quan sát quân Ngô vậy.
Từ hôm trước tới nay, Bần
Ðạo thuyết minh những điều vấn nạn của các chơn linh siêu thoát nhưng thiếu đạo
đức tinh thần, kiếm tìm cho đủ triết lý đặng học, đặng để phổ độ họ. Chúng ta
ngó thấy các Ðấng trọn lành nơi cung Hiệp Thiên Hành Hóa chưa dễ thắng họ đặng,
cho nên đêm nay tưởng lại kỳ nầy là kỳ chót, kỳ nầy trọng yếu hơn hết, bởi họ
vấn nạn về quyền năng của tín ngưỡng và luật điều của các vị Giáo Chủ để tại
thế gian nầy. Vấn nạn kịch liệt. Chúng ta nên để ý, nhứt là chư chức sắc Thiên
Phong nam nữ càng phải để ý cho lắm.
Kỳ trước Bần Ðạo đã giảng,
tại chỗ nhiều tôn giáo làm cho nhơn tâm bất nhứt, hôm nay họ công kích về luật
điều. Họ hỏi : Nếu Tôn Giáo có khuôn hữu định, chiếu theo khuôn khổ thiên định,
trái lại các vị giáo chủ lập Giáo bất đồng tánh cách nhau, vị nầy nói vầy vị
kia nói khác, phản khắc nhau biểu sao tâm lý nhơn sanh không chia rẽ ? Bởi
không thống nhứt mà ra. Ta thử quan sát lại coi đạo pháp, đạo luật mấy vị giáo
chủ ấy vẫn có một phương pháp kích bác nhau, phản đối nhau, không đồng tâm đồng
nhứt nhau, không đồng tánh, không đồng tư tưởng đạo đức tinh thần, biểu sao
nhơn loại không chia rẽ, mà chia rẽ tức nhiên giục loạn, làm cho mặt đời loạn
lạc, sự loạn lạc ngày nay cũng vì lẽ ấy.
Các Ðấng ở cung Hiệp Thiên
Hành Hóa cười nói :
"Các Ngài nghĩ thử coi tánh đức của các chủng tộc
trên mặt địa cầu nầy không giống tâm lý tinh thần. Ðừng nói chi vạn quốc, trong
một quốc gia, một nòi giống, tánh đức nhơn sanh còn không đồng thay. Không gì
khác lạ, các Ngài buộc Phật Thích Ca Mâu Ni người Ấn Ðộ lập giáo tại xứ sở Ấn
Ðộ của Ngài, thì Ngài có đồng tánh đồng tâm với sắc dân nào khác với Ngài được,
nhưng Ðạo Phật vẫn truyền bá làm chủ tinh thần khắp Á Ðông, hỏi do đâu ? Do nơi
bác ái và công bình. Những phương pháp của các vị giáo chủ lập pháp luật trong
các tôn giáo, cốt yếu mở đường chỉ nẻo cho nhơn loại đi lên hiệp cùng chơn
tướng và chơn pháp của Ðạo Giáo tức nhiên là tín ngưỡng, thờ người và thờ Trời,
luật pháp duy có bác ái công bình mà thôi. Ðức Phật Thích Ca nếu nói Ngài không
bác ái công bình thì Ðạo Giáo không công bình sao ? Nếu giờ nầy chúng ta không
thành Phật thì Ðạo Phật không thành sao ? Hỏi Ðấng ấy lập giáo trên nền tảng
nào ? Có phải nền tảng bác ái chăng ? Nếu không bác ái công bình, Phật chưa hề
đem triết lý cao siêu làm chủ tinh thần nhơn loại đặng. Chúng ta đây ai lo phận
sự nấy, lại còn giành hơn thua nữa có đâu ép mình như Phật. Nếu không vì chúng
sanh, nếu không công bình tâm lý, nếu không lòng thương yêu đầy dẫy Phật chưa
hề hạ mình nâng đỡ tinh thần nhơn loại dường ấy."
Ðức Lão Tử thấy loài người
không biết địa điểm tinh thần mình, không biết chơn tướng tinh thần để nơi nào
định vị cho có giá trị. Ngài sanh tại Trung Hoa tâm lý nhơn sanh không biết
phẩm giá tinh thần của con người là gì, đến đỗi tâm lý loài người buổi ấy sa
đọa không biết phẩm vị mình nơi nào, không biết tôn trọng phẩm vị đó nên đọa
xuống thú chất vật loại, nếu không vì bác ái từ bi thức tỉnh nhơn loại cho biết
phẩm vị tối cao của họ, đừng làm con vật nữa. Nếu không phải vì tâm bác ái công
bình thì Ngài không hề lập giáo dường ấy. Ngày nay không phải nơi dân Á Ðông
nầy thôi mà cả Âu Châu cũng vậy, biết rõ triết lý đạo đức cao siêu của Ngài,
người ta theo chẳng biết bao nhiêu.
Các Ngài xét định về mặt
tinh thần, lấy cả tinh thần siêu thoát của các Ngài ngó lại coi có phải tinh
thần luật pháp của Tiên Giáo chỉ do bác ái công bình mà lập đặng chăng ? Phương
pháp tạo ra có hình tướng ấy cốt yếu nâng đỡ tinh thần nhơn loại đến mục đích
cao thượng là bác ái công bình vậy.
Ðạo Nho do
Ðức Khổng Tử lập tại Trung Hoa. Tại sao có Ðạo Nho ?
Tại Ngài
thấy nhơn luân buổi nọ điên đảo cũng như Ðức Lão Tử thấy nhơn phẩm suy đồi, không còn giá trị.
Tâm lý nhơn sanh buổi ấy mất hẳn cái giá trị nhơn loại, nên tự mình xuống
làm vật loại đem Nho Giáo định luật pháp xã hội trị Ðạo nhơn luân làm căn bản. Hễ
mình biết mình tức nhiên biết Thiên đạo, biết Thiên đạo mới tùng thiên lý, tức
nhiên tùng Thiêng Liêng vô hình, Ngài không nói danh Chí Tôn là ngôi chủ tể, là
phẩm tối cao tối trọng của Ðạo, chỉ lấy mặt luật bác ái và pháp công bình đặng
định sống cho nhơn loại, định sống cho cả nhơn quần xã hội, định sống cho cả
các chủng tộc nơi mặt địa cầu nầy dầu luật pháp của Ngài trái hẳn phong hóa
nhơn loại một đôi nơi trên mặt địa cầu, nhưng nhờ tinh thần đạo đức làm môi
giới, từ giờ nầy toàn vạn quốc lưu ý lấy đó đặng chỉnh đốn quốc thể mình. Vì cớ
cho nên lập Ðạo Cao Ðài, Chí Tôn tiên tri rằng :- Ðạo Cao Ðài là cơ báo hiệu
cho vạn quốc hay trước rằng thời kỳ Nho Tông chuyển thế đã đến.
Nói tới Ðạo Thánh của Ðấng
Christ tức Công Giáo, nếu Người không bác ái từ bi, không hề đem xác thịt mình
làm con tế vật dâng hiến cho Chí Tôn đặng cầu siêu rỗi, xin tha thứ tội tình
cho loài người, đó là Người đến đem lòng thương yêu của mình ra làm tiêu chuẩn
cho đời bắt chước. Vì cớ cho nên Công Giáo làm chủ tinh thần một phần lớn nhơn
loại là đáng lắm vậy.
Nếu như các Ngài còn chối
cãi, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẻo mà các Ngài chối không tùng con đường của
nhơn loại đi, là con đường tín ngưỡng Trời và người đặng dìu dắt nhơn loại
trong luật thương yêu và pháp công chánh, đến trước mặt Tòa Tam Giáo đặng cầu
rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng, dầu có cượng lý bao nhiêu các
Ngài cũng không chối sự chơn thật đó đặng. Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để
bằng cớ hiển nhiên là Ðạo Cao Ðài đã xuất hiện, Ðức Chí Tôn đã đến, chính mình
Ngài đến mở Ðạo 24 năm trường nay.
Ngài đã ký kết với nhơn
loại bản hòa ước thứ ba. Hai hòa ước kỳ trước nhơn loại đã phản bội, không giữ
sở tín của mình vì cớ cho nên phải thất Ðạo, nhơn loại đi trong con đường diệt
vong tương tranh, tương sát nhau. Vì lòng bác ái từ bi Chí Tôn đến ký hòa ước
thứ ba nữa để trong luật điều, chúng ta thấy các Ðấng Thiêng Liêng chỉ tấm
tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín ngưỡng: THIÊN THƯỢNG, THIÊN HẠ ( DIEU ET
HUMANITÉ ).
Về luật có bác ái, pháp có
công bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng Hội Thánh Cao Ðài dìu
dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là luật bác ái và vô một
nền chơn pháp tối trọng là pháp công bình.
Luật pháp của Ðạo Cao Ðài,
ngoài luật bác ái và pháp công bình, tất cả luật điều khác đều là phương pháp
lấy giả tạo chơn mà thôi.
Kỳ tới Bần Ðạo sẽ giảng về
quyền năng hiệu nghiệm của luật bác ái và pháp công bình.
( Thuyết Ðạo QII / tr159.)
* * *
6. - Đức Hộ Pháp Thuyết
Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 6 năm Quí Tỵ
( 1953 )
Quyền năng Thiêng Liêng
đối với hành vi Kiếp Sống.
Ðêm nay Bần
Ðạo giảng về cái năng lực của tinh thần đối với hình thể, hay nói về năng lực
của tâm hồn đối với xác thịt muốn nói rõ ra hơn nữa là Quyền Năng
Thiêng Liêng Ðối Với Hành Vi Kiếp Sống.
Chúng ta đã
ngó thấy trước kia Công Giáo tức nhiên Ðạo Thiên Chúa hay Ðạo Gia Tô bị Judas đè nén
một cái quyền mạnh mẽ biết bao nhiêu. Nó đã bắt Ðạo, giết Ðạo hồi Ðạo mới phôi
thay, tưởng rằng nền Tôn Giáo hôm nay có quyền làm bá chủ của tâm hồn thiên hạ.
Cái chết vì Ðạo nên cả Ðền Thờ sang trọng của Thánh Giáo Gia Tô hôm nay chúng
ta thấy trước mắt, nó đã xây dựng bằng xương máu của các Thánh Tử Ðạo đó vậy.
Hồi Ðạo Phật xuất thế. Ðạo
Bà La Môn ỷ nắm quyền Ðạo trong tay bắt buộc làm cho thống khổ không thế gì tả
được, vì dân Nava, mà hôm nay Ðạo Phật đã lan tràn khắp Ngũ Châu thì cái mạnh
của Ðạo Phật sẽ còn tồn tại mãi mãi mà chớ !
Còn Ðạo Cao Ðài chúng ta
đã thấy, nền Chơn Giáo của Ðức Chí Tôn hồi buổi phôi thay thế nào, họ đã dụng
quyền lực mưu chước, quỉ quyệt xảo trá, cáo gian, cái tâm vô nhơn đạo họ đã đối
với ta, tức nhiên họ muốn liệu phương thế nào tiêu diệt Ðạo Cao Ðài trong buổi
mới phôi thay cho rồi.
Ngộ nghĩnh thay ! Cũng
thế, không có quyền lực nào đè nén lệ thuộc tinh thần của Ðạo được, nên hôm nay
Ðạo Cao Ðài vẫn còn tồn tại và Bần Ðạo quả quyết rằng :
Nó sẽ tiến mãi đến cực
điểm danh dự đặng cứu khổ thiên hạ. Trái ngược lại, nếu thiên hạ còn thống khổ
đau đớn chưa có cơ quan nào an ủi chia sớt cho họ. Thật sự ra cái năng lực hình
thể mạnh mẽ buộc thiên hạ múa men trước mắt kia không chắc chắn vì cái quyền
năng tinh thần vẫn làm chủ của nó . (Thuyết Ðạo QV / tr161)
* * *
7. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 30 tháng 4 năm Tân Mão
( 1951 )
Huyền diệu Cơ Bút.
Ðêm nay Bần Ðạo thuyết về
huyền diệu cơ bút, cả Thánh Thể Ðức Chí Tôn, cả con cái của Người nam nữ cũng vậy đã biết về
huyền diệu cơ bút, nó là vấn đề chúng ta không thể gì lấy trí khôn, tưởng tượng của
chúng ta mà định cái chơn giả của nó đặng.
Tại sao ? Trong cái huyền
diệu thiêng liêng ấy nó gồm cả bí mật huyền vi của cơ thể tạo đoan hữu hình và
vô vi của càn khôn vũ trụ, chúng ta thử nghĩ các bậc chơn tu đắc pháp họ chỉ
tìm đặng hiểu vô vi cảnh, đặng lập Giáo là khó khăn thể nào, từ thử đến giờ
biết bao nhiêu kẻ tu mà tính lại coi bao nhiêu người đắc Pháp đắc Ðạo ?
Tìm thấu đáo cho đặng cái
bí mật huyền vi vô định của càn khôn vũ trụ nó lại khó khăn quá lẽ, chẳng hề
khi nào chúng ta lấy trí khôn định quyết đặng, định nó chỉ có chúng ta tìm hiểu
lấy trí thức mình, đặng định cái chơn tướng của vạn vật hữu hình, tức nhiên
chúng ta chỉ học phương pháp cách vật trí tri. Chúng ta đã thấy cái trở lực,
biết bao nhiêu khó khăn, huống chi các việc trong cơ bút thống hiệp cả sự khó
khăn của Huyền Vi Cảnh với Hữu Hình Cảnh nữa, nó khó lắm, nếu luận điều ấy Bần
Ðạo phải ngồi viết không biết bao nhiêu sách mới có thể tả ra mảy may được, lên
tại giảng đài nầy 15 phút hay nửa giờ thuyết về cơ bút chẳng khác nào chúng ta
cầm ly nước đổ xuống biển.
Ấy vậy, Bần Ðạo chỉ lấy
cái đại cương của nó, nói cho Thánh Thể Ðức Chí Tôn và toàn cả con cái của Ngài
nam nữ thấu đáo mảy may chút ít, đặng khỏi bị cơ bút làm cho đức tin tàn phá
tiêu diệt mà chớ.
Bần Ðạo buộc mới đây phải
lập Thánh Lịnh định khuôn luật của cơ bút, có nhiều lẽ Bần Ðạo khoan dung. Khoan
dung ấy làm cho phiền lòng Ðức Lý, cho nên Ðức Lý trách Bần Ðạo cầm quyền Hộ
Pháp trong tay điều trị điều ấy mà không định luật của nó để rối loạn cơ bút,
nên Bần Ðạo lập Thánh Lịnh đó, cùng chẳng đã mới lập Thánh Lịnh, vì từ trước
đến giờ Bần Ðạo để cho cơ bút tự do, Bần Ðạo nói thật tại giảng đài nầy, Bần
Ðạo thấu đáo được thánh ý Ðức Chí Tôn, Ngài lấy cái giả đặng lập cái thiệt, chỉ
có tay Ông Trời làm được mà thôi chớ không có ai làm đặng hết.
Chính mình Ðại Từ Phụ hồi
mới ban sơ đến đề 4 câu thi như vầy :
Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô.
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ.
Lấy cái giả của đời, Ngài
tạo cái thiệt của Ngài, duy có Ông Trời làm được mà thôi. Cái giả mà Ngài làm
được. Chính Bần Ðạo có thí nghiệm, Bần Ðạo có người bạn thiết ở ngoài đời, thi
giỏi văn hay, bạn đồng chí với nhau biết tài lực nhau, người ấy nghĩ rằng cả cơ
bút trong cửa Ðạo xuất hiện ra do đầu óc của Cao Thượng Phẩm và Bần Ðạo, người
ấy cho rằng văn Cao Thượng Phẩm cũng hay, chính mình Bần Ðạo thì cũng giỏi,
người ấy cho rằng cả Thánh Giáo ấy do Cao Thượng Phẩm và Bần Ðạo xuất hiện.
Bần Ðạo thấy cái nghi ấy,
bây giờ muốn độ người Bần Ðạo phải làm thế nào ?
Muốn thử giả thiệt đặng
biết Ông Trời là ai, bạn làm ơn cầm cây viết đây, bạn là nhà văn muốn viết chi
thì viết còn Bần Ðạo sẽ dâng sớ với Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo làm một bài thi tứ
tuyệt cầu xin với Ðức Chí Tôn cho biết sự chơn giả các quyền năng của Ngài đặng
độ bạn.
Người bạn ấy cầm cây viết,
viết ra 4 câu thi tứ tuyệt, chừng viết rồi Bần Ðạo đưa 4 câu thi Bần Ðạo đã làm
để trong bao thơ, chừng xé ra coi họa đúng với 4 câu thi của bạn Bần Ðạo hỏi.
Bần Ðạo chỉ đầu óc phàm, trí khôn của ta là khí cụ của Ðấng Chí Linh kia cho
bạn ngó thấy.
Ðấng Chí Linh kia lấy cái
giả của bạn làm cái thiệt đó vậy. Người bạn ấy tỉnh giấc lại, tự mình theo Ðạo,
sự thật vậy.
Ôi ! Huyền diệu cơ bút,
chúng ta không thể gì tả cho được, trong càn khôn vũ trụ có hai ông chủ:
Ông chủ vô hình của càn
khôn vũ trụ , ông chủ vô hình trên cảnh thiêng liêng hằng sống, ấy là Ðấng Tạo
Ðoan, là Ðấng Chí Linh, là Ðấng Ðại Từ Phụ.
Ông chủ thứ nhì là người
tối linh trong vạn vật, tối linh trong vạn vật cốt yếu của Ðức Chí Tôn sanh ra
loài người đặng lấy quyền của Ngài cầm quyền vạn linh hữu hình là cầm quyền vạn
linh vô hình của Ngài đó vậy.
Bởi vậy Tiên Nho chúng ta
nhìn nhận :
THIÊN THƯỢNG, THIÊN HẠ
Thiên Thượng là Ðức Chí
Tôn, Thiên Hạ là loài người. Muốn đặng thấu đáo càn khôn vũ trụ tinh thông
trong vạn vật, Ðức Chí Tôn dùng cơ bút, Ngài nói rằng :- Một phần của con và
một phần của Thầy hiệp nhứt mới thấu đáo càn khôn vũ trụ tinh thông vạn vật.
Hai người chủ quyền ấy,
một người về hữu hình, một người về vô hình hiệp lại với nhau làm chủ cơ thể
càn khôn vũ trụ có lạ chi ? Lạ chăng là cây cơ của chúng ta đưa lên hợp lực hai
quyền năng ấy, trong đó có cây cơ đưa lên là lấy hai cái sống của hai ông chủ
làm chủ cái sống duy nhứt, đặng phục lịnh quyền hành Thiêng Liêng Ðức Chí Tôn
xử dụng mà thôi, thì nó là cây viết Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn đó vậy.
Khéo, chúng ta phải khéo,
cảnh vô vi Hữu Tử Thiên lại cũng có Vô Tử Thiên, chừng nào vô hàng phẩm đứng
địa vị Vô Tử Thiên, tánh chất của họ cao siêu không còn phàm chất của họ. Các
Ðấng Thiêng Liêng còn ở trong Hữu Tử Thiên họ cũng như ta vậy, cũng có quân tử
tiểu nhơn, cũng cá nhân cá tánh như ta vậy. Các Ðấng ấy thế nào ta thế đó, có
nhiều hàng phẩm ta không luận cùng, cũng có kẻ thì thân với ta, mà cũng có kẻ
thù nghịch đáo để với chúng ta, không thể gì chúng ta hòa giải họ đặng. Chúng
ta đã ngó thấy Ðạo pháp nếu có Phật thì có Ma, có Trời thì có Quỉ, chúng ta
chịu hai cửa, một là cửa thua hai là cửa ăn.
Các chơn linh, từ bậc Hữu
Tử Thiên trở xuống biết bao nhiêu mà nói. Họ không đáng gì là Thầy ta mà họ mơ
vọng dạy ta, biểu ta làm học trò họ, đám chơn linh đó nhứt là ở trong Ðại Hải
Chúng, đệ nhứt nguy hiểm hơn hết là Kim Quang Sứ tự là Quỉ Vương, nếu chúng ta
đã tu rủi lầm nghe người thì làm đầy tớ cho người, làm môn sanh của người.
Có một điều Bần Ðạo thấy
hiển nhiên trước mắt, khi Ðạo mới mở, Thánh Thể Ðức Chí Tôn còn thương yêu hòa
ái với nhau, chưa đến đỗi chia rẽ, chưa đến nỗi thù địch, kế người đến, Kim
Quang Sứ đến cầm cơ viết câu nầy :
- Cửu phẩm Thần Tiên nể
mặt ta.
Ông Giáo Sư B ở Kiêm Biên
nói: ' Ông nào đây, chắc lớn lắm, bước ra quì xuống lạy. Cơ viết luôn :
- Thích ca dầu trọng khó
giao hòa.
Kế ông C bước ra quì xuống
lạy nữa. Cơ viết tiếp :
- Lấy chơn thay giả tô
Thiên vị.
- Thắng bại phàm tâm liệu
thế à ?
Tới chừng ký tên Kim Quang
Sứ mới biết là quỉ vương, là Tà Giáo. Hai người nầy đã theo nó, bằng cớ hiển
nhiên các bạn ngó thấy, các bạn của ta đã lầm cái thiệt ra cái giả. Nếu không
giải quyết được cái hư thiệt chúng ta phải theo Tà Giáo mà chớ. Duy có Ðức Chí
Tôn lấy cái giả làm cái chơn được.
Kỳ tới Bần Ðạo giảng về Bí
Pháp nhập Tịnh Ðường. (Thuyết Ðạo QIV / tr26)
* * *
8. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Thời Tý - Mồng 1 tháng 11 năm Mậu Tý
(01-12-1948 ).
Ðạo là món ăn của Linh Hồn.
Kỳ nầy Bần
Ðạo đình thuyết về sự dục tấn của các linh hồn chúng ta trên con đường Thiêng
Liêng Hằng Sống đặng thuyết về một vấn đề cần yếu nhứt có ảnh hưởng trọng yếu
đến phần hồn chúng ta.
Thời gian
Bần Ðạo để chơn trở về Ðền Thánh, Bần Ðạo chú trọng một điều, chẳng những chú
trọng mà thôi mà còn buộc cả chức sắc phải đi cúng tại Ðền Thánh. Lý do ấy như thế nào Bần Ðạo xin
thuyết minh cho toàn cả hiểu biết, rồi mới rõ cái huyền vi bí mật phương tu của mình hầu gắng
công lo tu thêm nữa.
Ai cũng thường nói mình tìm Ðạo,
Ðạo đã để trước mắt mình, nói quả quyết hơn Ðạo để nơi mình, của mình. Ấy vậy là vật Chí Tôn
đem đến để trong tay của kẻ làm chủ quyền sở hữu nó.
Bần Ðạo nhớ
khi nền Ðạo mới phôi thay, buổi ban sơ xuống tại Thủ Ðức ở trót 7 tháng trường, nhờ ơn đức
của Giáo Tông dìu dắt, giáng bút giáo hóa, buổi chưa rõ thông chơn lý của Ðạo,
còn mập mờ tìm hiểu, nhiều khi vì sự ham muốn biết đã vấn nạn Ngài nhiều điều
quá đáng, như ngày hôm nay và tương lai nếu ai xúi hỏi nữa chắc Bần Ðạo không
dám.
Có một phen
Ngài đến dạy Bần Ðạo, Ngài than: Cái tâm lý nhơn loại đương nhiên đã khiếm
khuyết đạo đức tinh thần, vì cớ trường đời hỗn loạn, hàng trí thức hoặc tu niệm tiềm
tàng thấu đáo muốn tìm phương hay sửa chữa, cứu vãn tình thế của đời.
Hại thay, buổi ấy Ðạo giáo lu mờ, thiên lương hết tồn tại, làm thế nào mà nhơn loại biết chủ
định quyền hành mình đặng tự lập tự trị lấy mình. Cả thảy chỉ biết tự
lập tự trị mình thì mới mong hiểu được huyền vi bí mật. Tự sửa mình mỗi cá nhân
đến xã hội, đến cả nhơn loại biết tự trọng mình được thì cứu vãn tình thế nguy
ngập tàn diệt nầy được.
Hại thay !
Tấn tuồng ta thấy trước mắt, thiên hạ bị nạn chiến tranh tàn diệt do nguyên lý
của nó là tinh thần nhơn loại thiếu đạo đức, vì thiếu đạo đức nên vật
dục mới xô đẩy họ tìm phương sống, tìm hạnh phúc trong phương sống ấy. Hạnh phúc
không có hình dáng, tạo hạnh phúc chỉ tưởng đâu diệt nhau đặng bảo thủ phương
sống của mình, chẳng khác nào như con vật chỉ biết giành sống với nhau, ngoài
ra tranh giành đặng bảo thủ mạng sống không còn biết đạo đức nhơn nghĩa gì hết.
Giờ phút nầy đương nhiên tấn tuồng nguy khốn cả toàn nhơn loại do nguyên lý
tinh thần đạo đức không tồn tại, chẳng phải không tồn tại mà thôi họ lại còn từ
chối cái tinh thần đạo đức nên không còn có giá trị đối với họ. Vì cớ Chí Tôn
đến tạo Ðạo.
Bần Ðạo nhận thấy cả sự
bạc nhược tinh thần, đang thế kỷ hai mươi nầy, văn minh khoa học giục thúc nhơn
loại mở cả tinh thần trí não đến cực điểm, họ tưởng có thể vi chủ cả sanh mạng
họ mà chớ. Cũng có kẻ dầu có học thức như Phan Thanh Giản hồi đi sứ sang Pháp
Triều, thấy cả nền văn minh phát khởi đến huyền vi tư tưởng, Ngài là người văn
học trí sĩ của nước Nam ta, đến cũng phải sợ sệt, nhận rằng nền văn minh đã đến
mức cao cực độ. Ngài dâng sớ cho nhà vua, nói một câu nói dường nầy quá lẽ:
- Dĩ nghề tề thiên địa.
- Chỉ nhượng tử sanh Tạo
Hóa quyền.
Ngài nói rằng : Cái quyền
hành vi chủ, duy vật chẳng nhượng quyền Tạo Hóa, chỉ có chết sống mới nhượng
cho quyền Tạo Hóa mà thôi. Thành thử mình thấy văn chương khoa học đương nhiên
làm chủ tư tưởng con người.
Hại thay ! Nếu khoa học mà
dìu dắt tâm lý nhân sanh đến đạo đức tinh thần thì may biết bao, trái ngược lại
văn minh ấy chỉ giục thúc phương sống vật chất, họ tìm hạnh phúc trong cái sống
vật hình, vì cớ Ðạo Giáo mất quyền. Bần Ðạo tưởng người khác hơn Bần Ðạo cũng
lưu ý đến điều ấy nên đã vấn nạn Ðức Lý Giáo Tông, hỏi rằng : Ðương thế kỷ hai
mươi nầy văn minh cực điểm đã đi quá cao rồi, đem đạo đức tinh thần làm thuyết
cứu thế, sợ e chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ
nhơn loại còn bảo thủ được khối thiên lương biết xu hướng đạo đức, tinh thần
đạo đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiều phân nên hột giống mới
mọc đặng, còn thế kỷ hai mươi nầy là thời kỳ văn minh vật chất, nếu đem đạo đức
ra làm môi giới, cứu vãn tình thế cho đời, e vô hiệu quả.
Ngài than ! Nói quyết đoán
rằng: "Theo lẽ Hiền Hữu nói nhơn
loại ngày giờ nầy không cần đạo đức có phải.'"
Bần Ðạo trả lời : "Thật vậy, nhơn loại buổi nầy không cần
đạo đức, chỉ tìm hạnh phúc nơi văn minh khoa học, cũng có thể được chớ ?"
Ngài cười : "Văn minh khoa học chỉ nuôi phần xác
thịt họ mà thôi, còn phần linh hồn dám chắc họ sẽ đói."
Bần Ðạo vấn nạn : "Tại sao Ngài nói linh hồn đói, linh
hồn có ăn sao mà đói ?"
- Phải, phải có vật thực
đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy, nếu không vật thực nó sẽ tiều tụy rồi chết
mà chớ.
Luôn đó Ngài lấy triết lý
cao siêu mà dạy Bần Ðạo, trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn và
bảy vía gọi là thất phách, liên hệ mật thiết cùng nhau. Ðương nhiên trong thân
thể của mỗi người có ba xác thân ấy cần bảo dưỡng mới tồn tại được. Vì cớ Ðức
Chí Tôn cho biết, trí thức và linh hồn trọng yếu do căn nguyên của sự sanh hoạt
của nó định cái ngã tướng cho ta. Ba xác thân ấy phải nuôi mới sống, mới tồn
tại như xác thịt thể hình ta vậy.
Ðạo Giáo là Tinh, phải ẩm
thực tinh mới sống, xác thịt giữa là xác thân trí thức tinh thần, ta thấy con
người chẳng phải tìm món ngon vật lạ đặng bảo thủ xác thân, còn coi hát, nhảy
đầm, vui chơi, cờ bạc, hút xách, tưởng là tìm món ăn cho trí thức đặng bảo
dưỡng mà không biết rằng đó là hại cho trí thức.
Bây giờ tới linh hồn, cũng
phải có vật thực cho nó chớ. Vật thực là cả triết lý cao siêu tồn tại đấy. Ðệ
nhị xác thân gọi là khí, Chí Tôn gọi là chơn thần, nó làm trung gian cho xác và
hồn, hễ lương năng thì nó bảo thủ xác thịt thể hình, còn lương tri nó tìm vật
thực nuôi linh hồn. Ta nuôi linh hồn bằng gì ? Vật thực nuôi sống cho xác thịt,
còn linh hồn sống đặng là nhờ đạo đức tinh thần đó vậy.
Ta tu tức là ta tìm phương
bảo trọng cho tồn tại đạo đức tinh thần đặng nuôi linh hồn hầu đạt vị Thần,
Thánh, Tiên, Phật dìu dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực lượng quyền năng giong
ruỗi trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.
Ðạo đức tìm nơi đâu mà có
đặng ? Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mới có, mà tìm nơi cửa
Thiêng Liêng tức là cửa Ðạo, buổi ăn của linh hồn là buổi ta vô Ðền Thờ cúng
đấy. Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Ðền Thờ là bị luật
buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh hồn ăn vậy. Bần Ðạo tưởng thấy
trong trí cần phải buộc cả thảy đi cúng, vì trong thâm tâm Bần Ðạo định cho mấy
người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê, đưa cho gói bánh nói thứ ăn
chẳng đặng, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo cả quần mà mua ăn.
Giờ phút nầy phái nữ chưa
biết mùi ngon của món ăn cho linh hồn. Ngày giờ nào cả thảy biết mùi của nó,
ngày giờ ấy có đến ít nữa với những kẻ biết hoặc đói khát dữ tợn kia mới biết
ăn ngon, phàm đói cho nhiều ăn mới ngon. Nhưng coi chừng Bần Ðạo khuyên một
điều, đừng để quá đói mà chết đa!
Hại thay, vật ăn của linh
hồn có quyền năng thiêng liêng vô tận, giúp ta giải bày cái ác như là cổi áo,
chớ không phải mặc chật như dính vào da, rồi ngày giờ thoát xác, tinh thần thế
quyền Thiêng Liêng lột từ miếng đau đớn linh hồn chẳng biết bao nhiêu, chừng đó
có ăn năn rồi mới biết sợ.
Không có một điều gì mà
Chí Tôn định trong chơn giáo của Ngài, dầu Bí Pháp, dầu Thể Pháp mà vô ích đâu.
Ðấng ấy là Ðấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều gì không
cần ích mà con của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa !
Từ ngày Khai Ðạo, kinh kệ,
lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo đức cũng chính Chí Tôn tạo thành, không phải do
các Ðấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó, Ngài mới
buộc. Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần Ðạo bó buộc nghiêm khắc có lẽ những kẻ
biếng nhác cũng phàn nàn lén lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần Ðạo nơi
Thiêng Liêng, Bần Ðạo sẽ hỏi các bạn coi khi còn ở thế Bần Ðạo buộc cả thảy đi
cúng là có tội hay có công. Công hay tội ngày giờ ấy Bần Ðạo hỏi rồi chúng ta
sẽ có một tấn tuồng tâm lý ngộ nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết
lẽ nên hư.
Ngày nay, giờ phút nầy,
Bần Ðạo đứng tại giảng đài nầy để lời khuyên nhủ : Còn biếng nhác quá ! Xác
thịt đã hư rồi đến linh hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn năn quá
muộn. (Thuyết Ðạo QII / tr 149)
* * *
9. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Trí Huệ Cung.
Ngày 16
tháng 12 năm Canh Dần ( 1950 )
Ðức Chí Tôn
mở con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.
Bần Ðạo để
lời cám ơn toàn thể con cái Ðức Chí Tôn nam nữ nhứt là Thánh Thể của Ngài.
Ngày hôm nay
nếu chúng ta biết đặng hồng ân của Ðức Chí Tôn ban thưởng thế nào, thì đây là một
ngày vui không thế gì tả đặng. Bởi giờ phút nầy, sau khi 20 năm chúng ta chịu
khổ hạnh vì Ðạo mà lăn lóc, cực nhọc về phần xác lẫn phần hồn.
Ngày nay Ðức
Chí Tôn đã mở cho chúng ta một con đường Thiêng Liêng Hằng Sống và Bần Ðạo đã
vâng mạng lịnh Ðức Ngài tạo dựng một bến giải thoát cho toàn thể nhơn loại trên mặt
địa cầu nầy.
Bần Ðạo nói: 'Từ đây, kể
từ ngày nay cửa Thiêng Liêng của Ðạo đã mở rộng, Bần Ðạo kêu toàn thể con cái
Ðức Chí Tôn, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm Cửu Nhị Ức Nguyên Nhân (92
ức nguyên nhân ) hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Ðức Chí Tôn.'
Cửa nầy là cửa của các
người đến đoạt Pháp, đặng giải thoát lấy mình đến trong lòng Ðức Chí Tôn, vì
Ðức Chí Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến
thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong Ðô. Giờ phút ấy không còn trách Ðức
Chí Tôn rằng không thương yêu con cái của Người, không đem cơ quan tận độ chúng
sanh để nơi mặt địa cầu nầy cứu vớt nữa.
Bần Ðạo để lời cám ơn toàn
thể con cái Ðức Chí Tôn một phen nữa. (Thuyết Ðạo QIII / tr 11)
* * *
10. - Đức Hộ Pháp Thuyết
Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 9 tháng 7 năm Mậu Tý (
1949 )
Chơn Thật và Giả Dối.
Cái hay của
sự chơn thật đối với cái dở của sự giả dối, làm thế nào phân biệt ?
Trước khi giảng, muốn nói
rõ hơn Bần Ðạo mời tất cả đi theo Bần Ðạo dùng phép hồi quang phản chiếu đem
thần trí ra ngoài thể xác đặng quan sát lại mình và hành tàng của thế nhân ra
sao, mới quyết định điều hay lẽ dở của nó, giống như đám Thiên Quân Ngự Mã
Quân, ngồi trên lưng ngựa chiến đấu về tinh thần với mặt thế.
Theo sau xe của Chí Tôn,
chúng ta gò cương đứng lại bình tỉnh, nghỉ ngơi, giữa cảnh náo nhiệt của nhơn
loại sắp diễn và xuống ngựa xem rõ lại sự sanh hoạt ấy đương nhiên ở vào mức độ
nào. Rồi ngẫm lại ta ở vào cảnh hư hay thiệt. Ta đàm luận vui vẻ cùng nhau
sống, nhảy lên lưng ngựa nắm vững cương, thúc nó chạy theo kịp bước của Ðức Chí
Tôn.
Phép hồi quang phản chiếu
mà Bần Ðạo nói đây là tinh thần thoát ra khỏi thể xác, để quan sát trở lại hình
trạng thi thể của nó. Ta thấy gì ? Khởi đoan ta thấy ta sanh ra tại mặt thế,
mang mảnh thi hài ( nguyên căn của sự sống vật thể ) lắm khi làm cho ta khó
phân biệt được sự phải quấy, hoặc điều hòa tâm lý.
Vừa lọt khỏi lòng mẹ, chúng
ta thấy miếng cơm vú sữa của bà mẹ, biết rằng bà sanh ta ra, nhận biết như vậy
ta tự nhiên phải nương nơi bà mà sống, nếu ta không được bà nuôi dưỡng ắt ta
phải chết, biết rõ như vậy nên đối với mẹ ta có tình yêu ái tự nhiên về luật
Thiêng Liêng đã định, nên khi vắng mẹ thì ta nhớ, sự thương yêu đối với mẹ là
chơn.
Lớn lên chút nữa, hiểu
rằng nếu không cha và mẹ thì không có ta và cũng không biết tại sao mà biết ổng
là cha, dầu trí khôn chưa đủ, ông chạy bữa cho mẹ nuôi thì ta hiểu ngay rằng
nếu không có ổng thì mẹ ta không đẻ ta được. Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi
nấng ẵm bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha, ta cũng
trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.
Thảng có kẻ nào nói má bạn
tự nhiên đẻ bạn ra, đừng kính trọng ổng, hoặc nói bạn ở dưới đất nẻ chun lên,
đó là giả, còn bảo đừng nhìn ổng đó là dối.
Lớn lên nữa, thấy mẹ đẻ em
ra, cũng nhờ có ông cha ta kia, ta chia nhau một mảnh chiếu, đấp nhau một mảnh
mền, nhịn nhau từ hột muối, từ ngọn rau, tình cảnh ấy không cần tả, có điều ta
thấy hẳn nó kết cấu khối tình ái thiên nhiên. Ngoài ra nếu cha khó, mẹ nghèo,
anh em lao khổ, lại chia đau khổ cùng nhau và biết chắc rằng cả thảy do mẹ sanh
ra, biết nhau đồng chung máu thịt đó là chơn.
Bây giờ có ai nói, anh em
của bạn không bằng tôi, tôi đối với bạn nhơn nghĩa đầy đủ, tình cảm đặc biệt
tôi đối với bạn, tình anh em bạn không có, đó là giả, biểu phản nghịch lại anh
em đừng nhìn nhau, nhà bạn bạn ở, cơm bạn bạn ăn, đó là dối. Lớn chút nữa, cha
đem đến trường, mình đang dốt lấy làm lạ, chữ viết cong queo mà nghĩa lý thâm
thúy, mình không biết đọc sao ông thầy giỏi hơn mình mà tự biết mình bơ vơ rồi
nhờ ông đó mà mình trí hóa mở mang bỗng sanh ra thương mến, thầy dạy mình biết
nhiều quá nên phải kính trọng thương yêu ấy là chơn.
Thảng có kẻ nào nói : Cái
ông đó mà biết cái gì, ổng nhồi sọ mình cho ngu cho dại cho điên cuồng, không
phải dạy khôn bạn đâu mà bạn kính trọng, đó là giả. Nếu biểu phản nghịch và nói
nay bạn giỏi hơn thầy đa, bạn hỏi thì thầy bí ngay, đừng kính trọng làm gì đó
là dối.
Tới nữa, ngoài cha mẹ và
thầy, ta thấy cha mình không có dệt vải mà có áo mặc, hỏi ra thì cha làm ra
tiền mà may cho mình, nhà mình không có rèn mà mình có dao chặt củi, biết rằng
cha mình làm ra tiền mẹ mình mua, thấy không làm ruộng mà mình có cơm ăn, đó là
cha mình làm mướn lấy tiền mua gạo.
Ấy vậy, ta mới biết rằng
ta sống đây phải nương vào xã hội, có những vật không phải mình làm được, đã có
kẻ khác làm, mình làm công lấy tiền mua sắm, sự sống có liên quan mật thiết lạ
lùng với chung quanh mình, với những bạn đồng chung sống, nên cả quốc dân yêu
mến nhau, rồi quyết định rằng bao nhiêu người làm việc kia nuôi mình, người ta
canh gác giữ trộm cho mình yên ổn, người ta đốn cây tạo nhà cho mình ở, cả thâm
ân đó giục ta yêu ái, kính mến coi cả thảy toàn quốc dân là phần tử thân mến
của mình, đó là chơn.
Bây giờ có kẻ nói, nếu
không có họ bạn sẽ ăn nhiều hơn, tại có họ bạn bớt ăn lại mà còn phải thiếu,
nhà bạn thì bạn ở nếu không có họ giành cây không chừng bạn sẽ cất lâu đài. Có
họ không ích gì, trái lại họ còn giành ăn với bạn, nói như vậy là dối, biểu
nghịch họ và diệt họ thì mình sẽ sống hạnh phúc hơn, đó là giả.
Tới nữa ta thấy luật gia
đình ở trong nước, một gia đình không thể trọn trong hoàng đồ được, phải nhiều
gia đình hợp lại gọi là bá tánh, mà nhiều gia đình chung hợp thì đất đai sẽ
được mở mang rộng hơn, nước giàu dân mạnh. Vậy làm chủ đặng giữ gìn đại nghiệp
đó cho trọn vẹn phải ai mới được ? Một gia đình không đủ, phải cả một triều
chánh, trên triều chánh có một vị chúa làm chủ đặng bảo trọng đại nghiệp ấy
được vững tồn, cho nên vị chúa ấy hay là vua hoặc tổng thống làm chủ cả nước
đặng gìn giữ quốc thể giống nòi của mình.
Thảng như hoàng đồ nầy bị
tiêu hủy thì mình sẽ ra thế nào ? Mình sẽ giống như Mán Mọi, nay ở chỗ nầy mai
đi chỗ khác, tàn sát nhau, xô đuổi nhau như dân tộc Do Thái ngày xưa, không quê
hương, không tổ quốc, ăn nhờ ở đậu trên khắp mặt địa cầu. Vậy chúng ta phải bảo
thủ hoàng đồ của tổ phụ ta đó là chơn. Bây giờ có kẻ hỏi : Tổ phụ bạn đâu phải
ở mặt đất nầy, tổ phụ bạn không phải nội đây, cả địa cầu nầy cũng là tổ quốc
bạn được. Họ xúi mình đừng nhìn tổ quốc mình là giả. Nếu nói rằng : Cả chủng
tộc nầy là kẻ thù địch của bạn, họ đày đọa bạn vào cảnh khổ, họ sung sướng tấm
thân họ, đó là dối.
Cao hơn nữa ta thấy trên mặt
địa cầu nầy, nòi giống nầy khác màu da với nòi giống kia và có những chủng tộc
bất đồng ngôn ngữ, song cái cười cái khóc vốn như nhau, trạng hình đều giống,
mà tiếng nói có đó chỉ là định ngôn đặng để hiểu nhau mà thôi. Không phải duy
có điều đó mà buộc mình đừng nhìn nhơn loại đồng căn bản, phải coi nhau là bạn
đồng sanh đặng kính trọng lẫn nhau.
Hễ là bạn đồng sanh tức
nhiên liên quan mật thiết nhau như trong gia đình vậy. Một gia đình nào rân
rát, sanh sản con cháu đông đảo và có phương sống đầy đủ gia đình, đó là vui
vẻ. Nếu trong gia đình nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết thì trông thấy ai
bi lạ lùng, một ông cha vì con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô
đối. Ta kính trọng mạng sanh của tất cả dị nghĩa đồng sanh, rồi ta suy nghĩ cho
thấu đáo thấy bổn phận của ta là bảo trọng mạng sanh anh em của ta khỏi phải đổ
nước mắt, phận sự ta đối với cảnh tượng đó là chơn.
Bây giờ có kẻ nói cả sanh
mạng trên mặt địa cầu nầy không quan trọng, bạn có thể làm chủ được thì đoạt
quyền làm chủ, giá trị mạng sanh không có nghĩa gì đâu. Cả sanh mạng ấy là lợi
khí để bạn dùng làm bá chủ thiên hạ chẳng có tình cảm gì cả, đó là giả dối.
Ðứng về mặt tinh thần, mặc
tình tấn tuồng giả dối và chơn thật, hiện tại diễn ra, nếu ta biết lấy tâm linh
tự chủ mà quyết đoán, quan sát trong kiếp sống của xã hội nhơn quần thì không
ai gạt gẫm ta đặng. Ta phân biệt được cái dở và cái hay thì ta sẽ làm chủ nó
đặng.
Bây giờ nói rằng tinh thần
đã biết phân biệt hình trạng vật thể, mà lại nói cả thế gian duy nhờ sự giả dối
mà sống như Tào Tháo đoạt nghiệp Hớn cũng nhờ giả dối. Khổng Minh thắng Châu
Công Cẩn cũng nhờ giả dối, đó là Á Ðông. Còn bên Âu Châu nói nhờ Machiavel giả
dối mà nước Ý mới tồn tại, đó là mộng mị, không phải chơn thật không một người
nào, một cơ nghiệp nào sản xuất trong sự giả dối mà tồn tại được.
Trí ta sáng suốt sẽ thấy
và hiểu như vậy, thảng như những người mà thiên hạ cho rằng : Nhờ sự giả dối
mới làm nên đại nghiệp nơi mặt địa cầu nầy thì Bần Ðạo nói có lẽ như Hoàng
nghiệp Romain (?) hay Tần Thủy Hoàng ngày nay đã còn chi nói thử ? Nếu quả
nhiên sự giả dối tạo nên những sự nghiệp đó thì quyết định chẳng còn tồn tại
bởi sự nghiệp đó do sự giả dối xô ngã, Ðài Tần, Ðảnh Hớn ngày nay lưu lại những
gì ? Nếu cơ nghiệp vĩ đại tạo thành nhờ trí óc xảo trá thì nó cũng theo sự xảo
trá ấy mà tiêu diệt.
Xem lại tinh thần các Ðạo
giáo như Gia Tô, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, không dùng một lưỡi gươm một ngọn
súng mà cầm chắc qui nghiệp, dầu không làm được bá chủ cả địa cầu trọn vẹn, mà
qui nghiệp ấy vẫn còn tồn tại là sao ? Là tại thực hiện được sự chơn thật và
nương sự chơn thật ấy mà tạo nghiệp, thì nghiệp ấy mới được vĩnh cửu trường
tồn.
Trong Ðạo Cao Ðài ngày nay
cũng vậy, tại sao Bần Ðạo còn dám ngồi tại đây làm tôi tớ cho con cái của Ðức
Chí Tôn, để tạo nghiệp cho họ mà Bần Ðạo quả quyết làm đặng ? Là vì biết trong
cảnh nguy vong kia, họ tưởng nhảy ra với quyền năng của Ðạo nầy có thể diệt trở
lại Bần Ðạo, họ quên nơi đây là Tòa Thánh, là nơi Ðức Chí Tôn đến nhứt định lập
ngôi vị của Ngài trong mọi sự cố gắng của con cái Ngài, tượng nên khối tinh
thần vững chắc thì ai có đủ quyền năng nào mà diệt được. Bởi thế họ không diệt
được nên dầu khổ não thế nào Bần Ðạo quyết chóng xem ngày tàn cuộc.
Họ làm thử, ít nữa phải
dòm ngược lại coi, khi họ lấy năng lực của Ðạo ra làm năng lực riêng của mình
có tồn tại được chăng ? Chắc chắn rằng không. Bởi vậy trong buổi loạn Ðạo,
người nầy người nọ tìm đủ phương thế diệt trừ đảng phái, Bần Ðạo đã nhận định
được nên mới biểu họ cứ việc làm đi, rồi sẽ thấy cái ngày của sự chơn giả xuất
hiện. Tấn tuồng đó đã rõ rệt lắm, Bần Ðạo nói thật rằng : Năng lực mà họ đem ra
ngày nay thi thố với Tòa Thánh, ngày kia mấy em và mấy con sẽ đắc thắng. Họ sẽ
làm mọi không cơm cho mấy em và mấy em vì lẽ sống của họ thiếu sự bảo trọng cho
chơn thật thì chết rồi cũng buông rơi sự nghiệp vào tay mấy em mà thôi.
Sự chơn thật của Chí Tôn
bao giờ cũng tồn tại, sự chơn là một năng lực tinh thần, không tinh thần nào
đối chọi đặng.
Ngày giờ nào Thánh Thể của
Ðức Chí Tôn biết bảo trọng sự chơn thật cho toàn Ðạo thì không có năng lực nào
thắng nổi quyền hành Thánh Thể của Ngài đặng. (Thuyết Ðạo QII / tr 113)
* * *
11. - Đức Hộ Pháp Thuyết
Đạo Tại Ðền Thánh .
Ðêm 29 tháng 6 năm Quí Tỵ
( 1953 )
Luận về CHƠN và GIẢ.
Ðêm nay Bần Ðạo luận về
hai chữ CHƠN và GIẢ.
Hễ gọi là Chơn thế nào
cũng gọi là Chánh, nhứt là về Ðạo thuyết, còn Giả gọi là Tà. Hai tiếng biện
luận từ thử đến giờ nhứt là phần đông kẻ tu hành ra nơi miệng thường khoe mình
tâm chơn. Bởi cái chơn ấy chúng ta phải mượn tiếng của người Pháp Le Vrai Est
Enrapport Avec La Realité, nó phù hạp với chí lý. Le vrai est en rapport avec le bon raisnnement.
Giải nghĩa là Chơn, chơn ấy làm thế nào cho chí chơn, Le vrai est en rapport. Cái chơn ấy
nó phải ăn hiệp với tánh chất của chơn lý.
Hai chữ Chơn, chữ Giả để
cho mặt đời luận biện không biết bao nhiêu mực viết, họ muốn tâm chơn ở bên duy
vật : Matérialisme tức nhiên là thuyết chỉ lấy cái sống làm căn bản, cái sống
ấy nó hiện ở trong con vật của đương nhiên bây giờ ở thế gian nầy, ta sống giờ
nầy đây phải tìm phương pháp nào để bảo tồn được cái sống ấy dầu cho nó vô nhân
đạo, tàn ác, cả hành vi bất chánh thế nào miễn bảo vệ cái sống còn tồn tại của
họ. Họ chỉ bảo vệ sao cho được hơn cái sống của kẻ khác, họ cho là chơn của họ.
Phần nhiều cái lý thuyết ấy ở nơi miệng của kẻ giục tấn ở đường đời của họ hơn
hết thảy.
Ở mặt thế gian nơi giữa
thế kỷ nầy cái thuyết ấy nó đã làm cho thiên hạ mùi mẫn mê theo. Cái chơn lý
của họ gọi là lý thuyết độc đoán, thật vậy !.
Sống giữa thế kỷ nầy một
nền văn minh phát triển máy móc nếu sống mà không có trường hợp tranh đấu đặng
bảo vệ sanh mạng, thì thấy cái sống của con người ta khó khăn không biết thế
nào, vì lẽ khó khăn ấy trong trường hợp tranh đấu không có đủ năng lực, nên
dường như con người bị đào thải ra khỏi xã hội nhơn quần. Vì cớ cho nên họ
tranh đấu đặng sống cho lấy đặng, có khi trong trường tranh đấu họ đắc thế, họ
làm chúa các sanh mạng trong tay họ để đoạt cái sở năng ấy rồi thì họ gọi là
chơn lý, gọi là hay hơn hết là chơn thật chánh đáng hơn hết. Ðó là luận theo
cái thói tục của đời.
Còn luận theo Ðạo các vị
giáo chủ trước khi đạt Pháp đặng thì họ ngó thấy ngoài ra tâm hồn của họ với
họ, ngoài ra họ với họ, không có cái nào chơn thật tại mặt thế gian nầy. Bởi cớ
cho nên họ đi kiếm cái ngã tướng của họ, biết lấy họ mà thôi, cái thuyết ấy ở
bên Âu Châu Ông Pythagore và các nhà triết học Âu Châu đã tìm được chơn lý ấy,
tiếng Pháp gọi là : Conscience, là chỉ người tìm biết lấy ý thức lương tâm
người thôi. Họ thử nghĩ cái đường lối sanh sống với bạn đồng sanh của họ là một
trường hợp giả dối không có cái gì thiệt trước mắt họ hết. Chính mình cái sống
của họ cũng giả với họ, tức nhiên họ biết cái mảnh thân của họ dối gạt họ.
Muốn tìm cho biết cái chơn
được thì họ phải tìm trong cái chơn trong tinh thần với tâm hồn của họ mà thôi,
lấy tâm hồn họ đối với tinh thần, lấy ngã tướng chơn thật của họ chớ không phải
với ai.
Vì cớ cho nên cái thuyết
của Tiên gia 'Lánh tục tầm Tiên' vì lẽ đó. Ta thử để dấu hỏi ? Một thuyết Duy
Vật thế đó, còn một thuyết Duy Tâm thế đó, hỏi chớ cái nào thiệt ?
May thay Bần Ðạo hồi ở tại
Thủ Ðức nhờ Ðức Chí Tôn cho Ðức Lý Giáo Tông đến giáo hóa thì hai đứa luận biện
về lý thuyết ấy rất đáo để.
Ðức Lý Giáo Tông mới lấy
thuyết ấy nói rằng :Sự thật làm thế nào mình biết mình thật mới ra thật, chưa
làm gì thật chưa biết mình là thật, mình muốn tìm đặng biết là chữ thật, thì đã
ngó thấy cái sống của mình, nó biết mình không có cái gì thật hơn là phải chia
cái sống đặng đồng sống.
Trong khi ta đã thọ một
điểm tinh ở cha, đã thọ một huyết bổn của mẹ đặng tượng hình của ta, thì ta đã
thiếu nợ máu thịt, thiếu nợ sống của ta rồi đó, nếu ta bỏ cái nợ đó, ta gọi là
chơn thì phi lý.
Bây giờ ta sống nhờ có xã
hội nhơn quần tức nhiên kẻ đồng sống cùng ta, giúp ta sống, họ chia từ hột cơm,
manh quần tấm áo, ta sống ta chia sớt với họ phương nào ? Không thể cho ta hết,
trong khi ta đã nhờ kẻ nào mà ta đã sống ?
Ấy vậy, theo cái thuyết
của Ðức Chí Tôn đã nói rằng :'Cái sự chơn thật của các con thì các con phải
thùy từ mẫn khổ. Giờ phút nào các con thấy trước mắt các con đầy những sự khổ
não mà thiên hạ họ không có phương nào giải khổ cứu khổ ấy đặng, các con cũng
không an ủi nâng đỡ cho họ bớt khổ, thì các con không khi nào đạt chánh giáo
đặng.'
Chúng ta đã thấy, Ðức Chúa Jésus đã chia từ
miếng bánh mì, chia từ miếng cá cho kẻ nghèo. Ta thấy Ðức Thích Ca đi hành khất
đem về cấp Cô Ðộc Viện để nuôi kẻ nghèo đói. Ta thấy Ðức Lão Tử, là một vị quan
nhà Châu mà Ngài còn bỏ quan đi theo dạy một người học trò là ông Doãn Hỉ vì lẽ
bất công của xã hội nhơn quần, bất công của cả cái sống ở thế gian, nên cái
phương an ủi tâm hồn ta ngó thấy từ trước đến giờ không có vị giáo chủ nào
không lấy căn bản thùy từ mẫn khổ làm chơn thật.
Ấy vậy, nền Chơn Giáo nào
mà không theo thuyết của Ðức Chí Tôn và Ðức Lý đã dạy, dầu cho cái thuyết họ
cao siêu thế nào, nhưng họ chưa có thể chia khổ cùng nhơn loại, tức nhiên chúng
ta để dấu hỏi. Mơ hồ không phải là Chánh Giáo. (Thuyết Ðạo Q.V / tr 165).
CHUNG
Home
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét