Bí Pháp - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo (Ban Tốc-Ký TTTN)


LỜI-TỰA
Mỗi Tôn-Giáo đều có một sứ-mạng Thiêng-Liêng, một Giáo-Lý đặc biệt để đưa con người đến Chân-Thiện-Mỹ.
Tuy nhiên tùy theo không gian, thời gian, tùy theo trình độ của con người mà Giáo-Lý của mỗi Tôn-Giáo đều có một vai trò đặc biệt trong từng giai-đoạn. Ngày nay, các Giáo-Lý bí truyền của các Tôn-Giáo xa xưa không còn đủ khả-năng để hướng con người về nẻo thiện;
vì lý-do không còn hợp với thời đại, vì lý-do khó hiểu, nhất là khó có thể thực hiện được trong xã hội hiện tại và con người văn minh hiện nay chỉ biết tin tưởng vào khoa học, xem thường đời sống tâm linh.
Quyển BÍ-PHÁP ra đời để thực hiện cái Thiên-Trách của Đại Đạo, nhằm đưa con người đến cảnh Thiêng- Liêng Hằng-Sống.
Quyển BÍ-PHÁP là một Giáo Lý thiết thực hướng dẫn mọi người tiến trên đường Đạo; là một ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta thóat khỏi cảnh tối-tăm mê lầm.
Quyển Bí-Pháp là một Chơn Lý của nhân loại, một triết lý sống phù hợp với xã hội hiện đại, đã dung- hòa được các hệ thống tư tưởng của nhân loại và có thể đáp ứng được nhu cầu tiến-bộ của nhân loại về mọi mặt. Ngoài ra, quyển Bí-Pháp hiện là một dư âm đầy ưu-ái của Đức-Hộ-Pháp còn vọng lại trên cõi giả tạm này.



PHẦN THỨ NHỨT
THỂ-PHÁP & BÍ-PHÁP

1. - Bí-pháp đơn-sơ của các Tôn-giáo , không còn phù-hợp với lương-tri lương-năng của con người ngày nay.
 Đức Hộ Pháp Thuyết về BÍ-PHÁP tại Đền-Thánh.
đêm 05-04 Năm Kỷ-Sửu (1949).

BÍ-PHÁP ĐƠN-SƠ CỦA CÁC TÔN-GIÁO
KHÔNG CÒN PHÙ HỢP VỚI
LƯƠNG-TRI LƯƠNG-NĂNG CỦA CON NGƯỜI NGÀY NAY

Kể từ đêm nay Bần-Đạo khởi tiếp về Bí-Pháp Chơn-Truyền của Đức-Chí-Tôn.
Ấy là một thuyết-pháp trọng yếu khó khăn hơn hết, toàn cả Thánh Thể Đức-Chí-Tôn tức nhiên Chức- Sắc Thiên-Phong đều biết rằng: Các nền Tôn Giáo đương-nhiên bây giờ nếu gọi là thất chơn truyền thì thất chơn truyền do nơi đâu ? Do tại Bí-Pháp không đúng theo lương-tri lương năng của loài người.
Lương-tri lương-năng của mỗi người đương thời buổi này, đã đạt đến một mức cao thượng, trọng hệ là những triết lý đơn-sơ buổi nọ, của các nền Tôn-Giáo để tại mặt thế này, hồi buổi thượng cổ, không cầm được quyền năng cầm tâm-lý của nhân loại trong khuôn khổ đạo-đức tinh thần nữa.
Đối với các triết lý Bí-Pháp buổi nọ, bây giờ nhân loại tăng tiến quá lẽ, thành thử các vị Giáo-Chủ đã lập luật-pháp, nhưng luật pháp đơn sơ ấy, ngày nay không có đủ quyền năng trị tâm thiên hạ nữa.
Bởi thế cho nên nền Tôn-Giáo mới hơn các nền Tôn-Giáo khác có mặt tại Địa-Cầu này là nền Thiên-Chúa-Giáo, vị giáo chủ sáng suốt, vị Giáo Chủ ngôn- ngữ hoạt bát, tinh thần minh hoạt hơn hết, là Đức-Chúa Jésus-Christ, nhưng hại thay trong thể pháp Ngài đủ quyền-năng đem đủ Giáo Lý của Ngài, đặng làm nền tảng tâm lý của nhơn loại. Nhưng về mặt Bí-Pháp Chơn-Truyền, Ngài chỉ có nói một điều các Môn-Đêï nhứt là các vị Thánh Tông-Đồ: "có nhiều lý lẽ cao siêu" ta chưa có thể nói với các ngươi đặng, dầu ta có nói các ngươi cũng chưa hiểu.
Vì cớ cho nên Bí-Pháp Chơn-Truyền của Công-Giáo không có, không có thể có; bởi theo Bí-Pháp, theo lời Đức Chúa Jésus-Christ thì buổi nọ Bí-Pháp Chơn-Truyền của Ngài chưa có thể gì nói cho thiên hạ nghe đặng.
Ngày nay Đức-Chí-Tôn đã đến, đem nền Tôn-Giáo của Ngài để tại mặt thế nầy, đặng chỉnh đốn đạo-đức tinh- thần từ thượng cổ đến giờ, bằng huyền diệu cơ bút. Ngài đến không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem cơ bí-mật huyền vi Tạo-Đoan giáo-hóa con cái của Ngài.
Nền Tôn-Giáo xưa khác, còn nền Tôn-Giáo của Đức-Chí-Tôn ngày nay khác.
Vã chăng mỗi cơ quan đã tượng-hình nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ ngày giờ này có hai mặt luật.
1. - Luật hữu vi, tức nhiên luật định tướng định hình gọi là Thể-Pháp.
2. - Luật vô hình là định luật bí-ẩn của nhân- loại gọi là Bí-Pháp.
Đạo-Giáo trọng-hệ nhứt là Bí-Pháp, vì do nơi Bí-Pháp mà người ta mới tìm-tàng được trong cơ-quan Tạo-Đoan.
Cơ quan đó, tìm tàng Bí-Pháp ấy do Cách-Vật Trí-Tri nếu ta dịch ra pháp văn " la raison renverra toute la chose" Cách-Vật Tri-Tri, ta ngó thấy Đạo-Nho đã có một khoa tối cổ đó vậy.
Các Đạo-Giáo đương quyền tức nhiên cơ-quan Tạo-đoan vạn-vật, Đạo phải có luật Hữu-Hình và Vô-Hình.
Đạo-Giáo của Đức-Chí-Tôn hay các nền Tôn-Giáo khác cũng vậy, Đạo là gì ? Đạo là Huyền-Vi Bí mật cơ-quan Tạo-Đoan trọn cả cơ quan tạo-đoan ở trong hai khuôn luật Hữu-Hình và Vô-Hình của nó.
Khuôn-luật Vô-Hình tức nhiên cơ quan bí mật huyền-vi. Tìm hiểu đặng chi? Phải tìm hiểu đặng, mới biết cái định luật về phần hữu vi.
Trong hữu hình ấy, nếu ta lấy Cách-vật Trí-Tri cuả nó mà tầm vô-hình vô-ảnh của nó.
Luật Hữu-Hình tức nhiên là Thể pháp.
Luật Vô-Hình tức nhiên là Bí-Pháp.
Bây giờ chúng ta lấy một cái thí dụ, nếu nấu một nồi cơm muốn cho chín, cho ngon, ta phải làm thế nào ? Muốn cho nồi cơm trắng thì phải giã gạo, trước khi nấu để gạo vào nồi ta phải vo cho sạch cám, vo rồi bắt lên nấu, nấu không đổ nước thì thành gạo rang còn gì, nếu đổ nước nhiều thì nhão, nhão quá thành cháo ngô, nên phải đổ nước cho vừa chừng với gạo, cơm cạn rồi cần phải bới lửa ra chỉ hông lấy hơi cho chín thì gạo mới thành cơm. Nồi cơm bây giờ đem ra, ta phải tìm cái bí mật của nó tại sao cơm nhão ? Tại sao cơm khô? Tại sao có cơm cháy ? Tại sao cơm sống. Nếu từ thử đến giờ Quốc-Dân Việt-Nam không biết nấu cơm thì ăn gạo sống sao ? Định-Luật chỉ có một chứ không có hai ! Một cái thí dụ nữa: Như làm bánh bông-lan chúng ta ngó thấy muốn làm cần phải có bột, có đường, có trứng gà tất cả là ba món. Bây giờ phải làm sao cho Bánh Bông-Lan nổi tầm phồng. Chúng ta thấy phải đánh trứng gà cho nổi bong-bóng đều lên, để đường vô đánh nữa, đánh cho nổi tầm phỏng, rồi mới để bột vào đánh nữa, đánh cho đều , bột, đường, trứng gà đánh cho nổi thật đều, nổi chừng nào tốt chừng nấy tới chừng hấp phải để hơi lửa vô cho nóng cho chín thành ra bánh Bông-Lan tầm phỏng, nếu bánh không nổi thì thành bánh xệp. Nhận định, rồi mình ngó thấy Bột, Đường, Trứng, Gà, là thể pháp nướng chín và nổi thuộc về Bí-Pháp, cái bí ẩn vô biên là để lưả nướng chín. Cho nó chín, cho nó tầm phỏng đó mình không thể định được.
Bây giờ cơ quan Tạo đoan cũng vậy, nó có cái lý do của nó, nó có cái định luật của nó, nó có từ mức của nó. Tức nhiên hình luật, chúng ta có thể quan sát được là thể pháp, còn mức bí ẩn chúng ta không thể lấy trí định được tức-nhiên Bí-Pháp.
Ấy là một điều rất trọng yếu các nền Tôn-Giáo tại mặt địa cầu nầy, được trường cửu hay chăng là do luật Bí-Pháp. Đức-Chí-Tôn để cả hai triết lý cho nhơn loại biết sự thật. Bởi cớ cho nên Đức-Chí-Tôn đến. Ngài đến đặng Ngài giải một triết lý, một công lý hiện- hữu tại mặt thế-gian này.
Sự chơn thật Ngài đã giải sự chơn thật.
Ấy vậy từ đây đến sau, Bần Đạo giảng tiếp Thể-Pháp cho biết Thể-Pháp rồi mới thấu đáo Bí-Pháp. Có một điều Bần-Đạo khuyên đừng có bơ-bơ nữa, điều khó khăn phải để tinh-thần trí-não tìm hiểu cho lắm, khó lắm phải rán học mới có thể đoạt-pháp đặng.
Điều rất khó khăn là phải viết sách, nhưng Bần-Đạo muốn lấy ngôn ngữ làm thế nào cho mau hiểu.
Kỳ tới Bần-Đạo giảng tiếp, Từ đây đến sau phải rán nghe đặng họ

*  *  *

2. - Thể-pháp là cơ-quan giải-khổ, Bí-pháp là cơ-quan giải-thoát.
 Đức Hộ Pháp Thuyết đạo tại Đền Thánh
đêm 9 tháng 4 Năm Kỷ Sửu (1949)

THỂ-PHÁP LÀ CƠ-QUAN GIẢI-KHỔ
BÍ-PHÁP LÀ CƠ-QUAN GIẢI-THOÁT

Kỳ trước Bần-Đạo giảng tại sao gọi là Thể-Pháp và Bí-Pháp của khuôn luật Tạo-Đoan Càn-khôn vũ-trụ nầy. Nay Bần-Đạo giảng tiếp do nơi học thuyết nào sản xuất ra chữ Đạo.
Vả chăng, cơ Tạo-Đoan hiển nhiên trước mắt, chúng ta thấy là định một khuôn luật, ngó thấy cả vạn vật đặng sống trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, nó có nghĩa lý sống cuả nó, cũng như mình biết mình có nghĩa lý sống của mình. Cái nghĩa lý sống ấy có phần hiển-nhiên ta định được, ta thấu đáo được, gọi là Đời, còn bí-mật huyền-vi chúng ta lấy lương tri lương-năng định đoạt không được, thuộc về bí-ẩnhuyền-vi cơ-tạo, nhứt là cái Sống và cái Linh là trọng yếu của cơ-quan Tạo-đoan hơn hết, nó giục tinh-thần nhơn-loại buộc phải tìm tàng khảo-cứu cho ra hình-tướng, phần ấy gọi là Đạo.
Vì cớ cho nên sách vở để lại, thiên hạ đã thú thật rằng không phương đoạt được, phần định được chỉ nói "Cường-Danh Viết-Đạo".
Cái sống và cái linh chia ra làm hai hạng:
· Hạng khảo cứu về Vật.·
- Hạng khảo cứu về Thần.
Vật thì xu hướng theo bản năng của cơ Tạo-Đoan hiện hữu, lấy vật lý làm căn bản, mà lấy vật-lý làm căn-bản thì họ hướng về xã-hội nhơn quần, hay là định-sống của xã-hội, định sống của xã-hội tức là định-sống của vật. Định-sống của vật tức nhiên là đời.
Bây giờ, bí-ẩn huyền-vi của cơ Tạo-Đoan để trước mắt có nhiều lý lẽ bất-công, họ khảo-cứu về Tinh-Thần Đạo-Đức. Những lẽ bất-công đó, buộc họ tiềm-tàng cao-siêu hơn nữa đặng cho thấu-đáo cả bí-mật huyền-vi cơ Tạo-Đoan ấy.
Lẽ cố nhiên, con nguời cũng đồng sống với vạn-vật, thấy mình linh hơn vạn vật, biết mình có bản-năng đặc-sắc hơn nhờ cái Linh đó. Linh ấy đáng lẽ nó phải tồn-tại, nhưng cơ bí-mật Tạo-Đoan, có chết thì có sống, giục con nguời đi trong con đường hiểu biết, tiềm tàng cho thấu-đáo, tại sao mình sống, sống duy-chủ thân-thể mình, mình chết cái Linh ấy, cái sống ấy nó đi đâu ? Vì cớ mà đời đã sản xuất các triết-lý Đạo-Giáo, các vị Giáo-Chủ từ trước đến giờ đến thế-gian này tạo Đạo, đã để hai khuôn khổ, định về chủ hướng ấy.
Sống về vật hình là dìu-dẫn sự sống của huyền-linh, họ thuyên về một đường vô-hình. Sự sống chết họ thấu-đáo cái hư-không tiêu-diệt và cái tồn tại hiển-hách của nó.
Bây giờ cả hành-tàng bất-công do chỗ nào sản xuất ra trong cửa Đạo.?
Đời chúng ta ngó thấy cái sống về vật-hình chia hẳn nó ra, thì cái sống về vật-hình là bóng dáng mơ hồ. Trong cái sống vật-hình, thi-hài thể-chất, chúng ta nhận thấy nó không tồn tại, mà trái ngược lại nó vẫn là cơ quan tạo-khổ cho ta mà thôi. Đã là cơ quan tạo khổ, thì cái sống này có hữu ích gì đâu ? Chẳng lẽ cơ bí-mật Tạo-Đoan tạo ra vật-hình, mà loài nguời ngó thấy đây để ảnh hưởng đến chơn tánh cao-thượng, Tạo-Đoan ra không phải để chịu thống khổ mà thôi, phải có nguyên do gì chớ ? Bởi nguyên do phải có chủ hướng, vì lẽ đó mà nó giục nhân-loại tìm-tàng chí-hướng của con nguời sống để làm gì , là tìm hiểu đặng định phận của mình, liên-quan như thế nào trong cái sống, tức nhiên là thấu-đáo bản năng của mình, định-phần tương-lai giữa càn-khôn Vũ-trụ trong vạn-vật đó vậy.Tương-lai của sự sống tức nhiên tương lai của loài người. Tương-lai của loài người tức-nhiên tương-lai của Đạo. Con người đứng trước vạn-vật, thú cũng đồng thú, khác bởi người là Đạo, trong người Chí-Tôn đã để Đạo, Đạo khác với thú là vì trong loài thú Đức-Chí-Tôn không có để Tánh-Linh như Đức-Chí-Tôn đã định tánh cho loài người, đặng loài người làm chúa vạn-vật. Vật phải dựa vào trong tay loài người đặng duy-chủ đó vậy.
Ấy vậy Bần-Đạo nói: Có Thể-Pháp thì có Bí-Pháp .
Các vị Giáo-chủ cũng phải tùng theo khuôn-luật đó, một nền chơn-giáo có thể-pháp là cơ-quan giải-khổ cho chúng-sanh tức-nhiên phải có Bí-pháp đặng làm cơ quan giải thoát cho chúng-sanh. Hễ độ phần xác tức-nhiên phải độ phần Hồn cho toàn vẹn.
Một nền Tôn-Giáo nào đã xuất-hiện tại thế gian này dầu Thể-pháp cao-siêu bao nhiêu đi nữa, nếu không có Bí-pháp làm tướng-diện căn-bản, thì nền Tôn-Giáo ấy chỉ là Bàn-Môn Tả-Đạo mà Thôi. Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng-tiếp Thể-pháp và Bí-pháp.

*  *  *

3. - Sống là Đời thuộc Thể-pháp, Linh là Đạo thuộc Bí-pháp.
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 13 tháng 04 Năm Kỷ-Sửu (1949)

SỐNG LÀ ĐỜI THUỘC THỂ-PHÁP
LINH LÀ ÐẠO THUỘC BÍ-PHÁP

Trước khi giảng tiếp Bí-pháp và Thể-pháp của Đạo, Bần-Đạo nhắc lại một lần nữa, kỳ rồi Bần-Đạo đã tỏ cho cả thảy đều biết, nhơn-loại đến giữa cơ Tạo-Đoan Càn Khôn Vũ Trụ huyền vi bí mật Tạo-Đoan đã cho một tánh-chất ly-kỳ bí mật , là khôn-ngoan hơn Vạn-Vật, do khôn-ngoan ấy mà tìm hiểu rằng cả cơ thể Tạo-Đoan có hai đặc-điểm trọng-yếu:
- Một là Sống
- Hai là Linh
Biết được hai đặc-điểm ấy, thấy nhơn-loại có hai chủ-hướng: Một là nương với cái sống của mình, cho cái sống là hệ-trọng tức-nhiên là học-thuyết cơ-thể Taọ-Đoan của đời, hai là nương theo tinh-thần nhơn-loại, nương theo triết-lý nầy cho cái Linh là trọng-hệ, vì cớ nên xu-hướng theo phần hồn là Tinh-Thần thường tại.
Bây giờ chia theo hai lẽ ấy.
1. - Sống tức là Đời
2. - Linh tức là Đạo
Hai lẽ sống chia nhơn-loại ra hai đường căn-bản, đứng trung-tâm-điểm cũng do nơi trí-thức tinh-thần, mà trí thức tinh-thần ấy xu-hướng:
1. Theo học thuyết Đời tức là xu-hướng theo cái Sống.
2. Theo học thuyết Đạo, tức là xu-hướng theo Linh.
Cả hai tinh-thần ta thấy không có lầm-lạc, nhứt là đàng nào cũng có nguyên-lý của nấy. Đời xu-hướng theo cơ-quan sống tức-nhiên cơ-quan Đời họ cũng có Bí-pháp và Thể pháp, xu-hướng theo Đạo cũng có Bí-Pháp và Thể Pháp. Nhưng hai lý-thuyết tương-đương như phản-trắc. Về phần Đạo, thì trí-thức tinh-thần nhơn-loại nhìn nơi vô biên biết càn khôn vũ-trụ tức là cơ Tạo-Đoan, nó định luật cho khối người, thành ra pháp chủ Luật, tức là Pháp trước Luật sau, còn cơ-quan đời tức là cơ-quan xu hướng theo cái sống, định luật được rồi, mới tìm-tàng pháp đặng thi-hành luật, thành ra Luật trước Pháp sau. Bây giờ Bần Đạo nói về thuyết Đạo-Giáo trước rồi mới giảng thuyết Thế-Đạo sau.
Kỳ rồi Bần-Đạo hứa thuyết về Đạo-pháp tức-nhiên là Bí Pháp, Bần Đạo đã nói có hai chủ hướng :
1. - Sống tức nhiên là Thể-Pháp.
2. - Linh tức là Đạo thuộc Bí-Pháp.
Chia rẽ rõ-ràng như vậy, rồi không còn bợ-ngợ gì mà không quyết-định.
Ấy vậy trong Đạo Pháp có hai thuyết:
Thể Pháp là xu hướng theo sống, cái sống của vạn-loại tức là đồng sống với nhơn-loại, rồi do cái sống ấy tìm tàng Thể-Pháp trong tinh thần Đạo-Giáo, đặng bảo-thủ cho tồn-tại cái Linh, tức là bảo-thủ tồn-tại cái khôn-ngoan trí-thức của mình; buổi sống thế nào vẫn còn mãi-mãi đến buổi chết. Trái ngược lại dầu cho cơ-quan chết ấy do cái Linh ấy không có đại-diện của nó, ít nữa Linh ấy cũng để lại trong máu mủ chúng ta, tức là để lại cho nhơn loại tương lai còn tồn-tại đặng. Chúng ta không thể chối cãi được, tại sao chúng ta thấy hiện tượng trên mặt địa-cầu này con nguời có đặc điểm riêng, dầu cho kẻ sơ-sinh cũng sống với cái sống của con vật, mà con vật ấy cũng sanh như những con vật khác, có điều ta nhận thấy nó khôn ngoan hơn tức là Linh hơn vạn-vật. Linh ấy do nơi Linh của nhơn loại đoạt được với tinh thần Đạo-Giáo đặng truyền lại (droit d' hérédité) nếu Linh ấy nhơn-loại đọat được là do Cha Mẹ đã đoạt được trước, vì trẻ sơ sinh kể như con thú kia lấy gì khôn-ngoan hơn con thú được, nếu không nhờ cái Linh truyền thống lại chúng ta ngó thấy Bí-Pháp ở giữa Thể-Pháp ta thấy nó bán thế, bán-lý, ấy là do sự truyền- thống của tinh thần loài nguời ta chưa thấy một sắc dân nào đã tiến-triển, tức đã tiến bước trên đường văn- minh hay là đã tiến bước trên con đường trí-thức tinh-thần mà thối bước trở lại. Nhơn-loại mãi tiến tới không bao giờ thối.
Chúng ta ngó thấy nữa: Mặt địa cầu nầy có nhiều sắc dân, sắc dân nào đã khôn ngoan thì họ truyền tử lưu tôn, khôn-ngoan đặc-biệt, điều ấy không ai chối đặng. Aáy vậy cái Linh của chúng ta không ngó thấy mà biết rằng có cái truyền thống cũng như Bí-Pháp là cơ-quan bí-mật ta không ngó thấy, không có gì tượng trưng cho nó nơi mặt địa cầu nầy, nhưng ta biết rõ nó vẫn tiến triển mãi.
Nhìn cao hơn chút nữa, giữa nhơn-loại đối-với cá-nhân hay đối với dân-tộc, chúng ta thấy trước sau đặc biệt không thể gì chối cãi được nữa, ta không thể nói mặt địa-cầu này, giờ phút này, có một nguời nào làm người như Đức-Phật Thích-Ca, như Đức Lão-Tử, Đức Chúa Jésus- Christ đã làm người. Ta không thấy nguời nào dám nói la ø nguời, có đủ sức đối thủ với các Đấng ấy, chưa có đặc-điểm gì khác. Các Đấng ấy cũng là nguời như ta, tại sao lại được hơn ta vậy. ? Tại khối Linh của họ đoạt-được muôn-muôn kiếp sanh, ta không đoán biết đặng đã lập vị cho họ đến đặc-điểm mà ta chưa hề biết tới, chúng ta đang còn ở hồi sau, khối Linh ấy định phận trong tinh-thần Đạo-Đức, định phẩm cho họ làm Giáo-Chủ nhơn- loại.
Hai đặc-điểm Bần-Đạo vừa nói thuộc về Bí-Pháp.
Bây giờ nói Thể-Pháp tức là nói xu hướng của cái sống. Các người đã tiềm-tàng học thuyết về cái sống mà họ có tinh-thần xu hướng về cái Linh của họ. Họ đã làm thế nào tìm ra khuôn-luật, Bần-Đạo đã nói, họ tìm khuôn-luật cho hạp với cơ Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ- Trụ tức nhiên cái sống của họ phải thế nào cho phù-hợp với chơn-lý của vạn- vật trước họ đặng đồng sống với vạn vật , đồng sống thì ta thấy có khuôn-luật đặc điểm như thế nào ? Tại sao vậy ?
Tại Luật Thiên-Nhiên định cho họ bảo-thủ cái sống (Instinct de conservation) luật thiên-nhiên cho bảo-thủ cái sống là khuôn-luật định phận làm người giữa nhơn-loại vậy. Rồi đến bảo-thủ cái Linh cho tồn-tại tức-nhiên là bảo-thủ khôn-ngoan, cái khôn hơn vạn vật. Trước phải cung kỉnh cái sống ấy tồn-tại mãi, cái sống ấy vẫn còn về tương-lai Đạo-Đức tinh-thần của nhơn-loại để định phận cho nhơn-loại. Nhơn-Loại đã tìm-tòi và hiểu rằng: trên một triệu năm khi nhơn-loại để chơn nơi mặt thế này, cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại, tại thế này có thể thêm chớ không có bớt là do khôn-ngoan, biết bảo thủ cái sống tại mặt địa-cầu này thay-thế cho Đấng Chí-Linh mà sửa cải, tô-điểm các cơ-quan hữu-hình cho đặng tận-thiện tận-mỹ như Đấng Chí Linh đã định, họ theo khuôn-luật của mỗi ngày đi tới nơi, mỗi kiếp mỗi mới mãi thôi "Nhựt Nhựt Tân Hựu Nhựt Tân" ngày nay mới, càng ngày càng mới là lời Tiên-Nho của chúng ta để lại, đổi mới là khuôn-luật thiên-nhiên chỉ định cho họ mỗi ngày phải mới tùng theo khuôn-luật tấn hóa của vạn loại trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này vậy. Muốn bảo-thủ cho cái sống tồn-tại, Đạo-Giáo lập ra cái thuyết " Ái Truất Thương Sanh" làm căn-bản. Họ lấy yêu ái mà định-luật cho cơ-quan bảo-thủcái sống tồn tại đến ngày nay, là do nơi đó mà tinh-thần của con-nguời định quyết rằng; khuôn-luật Tạo-Đoan có bảo-thủ mạng sống với khuôn-luật: Ái- truất quần-sanh của họ đặng thi-thố định con đường, rồi họ quả quyết đi đến, tức nhiên sẽ đến cảnh Linh của họ giữa vạn-vật, họ sẽ thấy đặc-điểm của họ để làm chủ Vạn linh ấy. Giờ phút nào họ thấy được thì họ có quyền vi-chủ Vạn-linh. Đương- nhiên họ sống với hình xác thịt mà họ đã quả-quyết định quyền vi-chủ của họ giữa Vạn-linh được, buổi thoát xác tức là buổi lìa khỏi căn-bản nguyên sanh của họ, họ sẽ tới được cảnh giới Chí-Linh; Ấy là Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn để tại mặt địa-cầu này vậy.
Kỳ rồi Bần-Đạo đã thuyết một nền Tôn-Giáo nào có đủ cái Linh tại thế giữa loài người, làm cho loài người biết ra một nền chơn-giáo có đủ bằng cớ là Huyền-Linh, đặng bảo-thủ phần hồn của loài người là căn-bản của loài người. Còn nền Tôn-Giáo nào không có cái Linh ấy, Bần-Đạo đã nói chỉ là Tả-Đạo Bàn-Môn mà thôi, bởi không có đủ quyền- năng siêu- độ chơn-hồn của vạn-loại. Phải có cái Linh đủ năng lực độ hồn nhơn-loại, bằng không, Bần-Đạo nói lại, chỉ là Tả-Đạo Bàn-Môn đó thôi.
Chúng ta thấy các nền Tôn-Giáo từ trước đến giờ dầu cho Linh ấy không ra tướng-diện từ buổi có loài người vẫn chạy theo Linh ấy. Các nền Tôn-Giáo tại mặt địa-cầu này và các vị Giáo-Chủ tạo Đạo vẫn tìm cách làm cho cái Linh ấy được ra tướng-diện. Bần-Đạo không cần tả nhiều e thiên hạ nói của mình trọng hơn của thiên hạ. Đạo Cao-Đài có đủ quyền- năng hiển-hách anh-linh của nó, không có nền Tôn-Giáo nào tại thế này khả dĩ đối thủ được cả thảy, tức nhiên Bí-Pháp của đạo Cao-Đài giờ phút này không có kẻ nào dám cả gan nói Bí-Pháp ấy do tay phàm hay do một vị Giáo-chủ mang xác phàm cầm nó mà chính trong tay của Đức-Chí-Tôn là Đấng tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ, chúa cả vạn-vật, cầm Bí-Pháp trong tay đặng độ rỗi phần-hồn nhơn-loại, tức nhiên không có nền Tôn-Giáo nào dám đối thủ với Đạo Cao-Đài cho bằng đặng.
*  *  *
4. - Thể-pháp của Thế Đạo là Bảo-toàn sự sống của Nhơn-loại.
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 12 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu(1949)

THỂ-PHÁP CỦA THẾ-ÐẠO LÀ SỰ
BẢO-TOÀN SỰ SỐNG CỦA NHƠN-LOẠI

Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thế-Đạo. Mấy kỳ trước Bần-Đạo đã trình bày đại cương Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo; bây giờ Bần-Đạo khởi tách ra từ chi tiết của nó.
Bần-Đạo đã chán biết, có nhiều người ham nghe Bí-Pháp của Đạo lắm, nhưng Bần-Đạo phất ngọn lên đó để đặng cho họ theo đặng họ đi cúng, nếu không họ làm biếng đi cúng họ ngủ hết.
Bần-Đạo khởi thuyết Thể-Pháp của Đời.
Vả chăng Bần-Đạo đã nói rằng: do hai chủ yếu làm cho con người xu-hướng theo hai lẽ.
1. - Yếu tố thứ nhứt: sống đeo đuổi theo sống, theo yếu-tố sống tức nhiên theo Đời.
2. - Yếu tố thứ nhì: đeo đuổi theo Linh tức-nhiên theo Đạo.
Trước Bần-Đạo đã thuyết sống của Đời, chúng ta đã thấy luật định sống của con người. Bần-Đạo nói: muốn định sống cho có trật tự, cho có đẳng cấp, thì họ có hai cái hòa bình và tranh sống với nhau; cái khổ Thể-Pháp của Đời là vậy. Chúng ta thấy Thể-Pháp của Đời để đặng bảo toàn sự sống chung của nhơn loại.
Chúng ta thấy trước mặt không cần kiếm.
Muốn bảo-toàn sanh-mạng của loài người chúng ta thấy buổi Thượng-Cổ lúc còn ăn huyết ở hang chưa biết cất nhà cửa lầu đài đặng ở, phương sống của họ khó- khăn lắm.
Chung quanh họ bao vây toàn những cơ quan tiêu-diệt họ là thú dữ thiên-tai mộc-ách.
Họ muốn bảo toàn mạng sống, tức họ phải kiếm phương thế tự-an tự-lập.
Chỉ có hai bàn tay không thì làm sao kiếm cho ra sắt đặng làm binh khí tự vệ lấy mình; vì buổi ấy thú dữ mạnh hơn người.
Người Mường-Mán tự-vệ bảo toàn sinh-mạng buổi đó cho còn tồn tại cho đến ngày nay không phải dễ.
Chưa biết cất nhà, họ phải chun vô hang hố đặng bảo trọng lấy họ, rồi một người chiến đấu với thú mạnh-mẽ không nổi họ phải chung hiệp với nhau, tức-nhiên thành Mường-Mán như chúng ta ngó thấy Mọi miền Cao Sơn của chúng ta vậy.
Mường Mán ấy chẳng phải để chiến đấu với thú dữ, chiến đấu với thiên tai mộc ách mà thôi, họ còn phải chiến đấu với các cơ quan làm hại họ, tức-nhiên Mường Mán này muốn đè lên Mường Mán khác, buộc họ phải chiến-đấu đặng giành quyền tự chủ của mình.
Muốn chiến đấu cho đắc thắng họ phải chung hiệp lại đại-đa số hơn, thành ra một Quốc-Gia một Xã-Hội. Trong một Quốc-Gia chúng ta thấy nhiều số nhơn-sanh là vậy.
Ngày nay định sống của họ cho có trật tự thì khổ lắm, bởi vì ai cũng muốn bảo-tồn mạng sống của mình trước đã. Nhiều khi mình muốn bảo-tồn mạng- sống của mình chẳng kể mạng sống của kẻ khác; khổ là chỗ đó.
Muốn cho sống có trật-tự thì phải định luật tức-nhiên họ phải bảo-vệ sanh-mạng của dân, đặng buộc người đồng sống trong khuôn khổ tự hữu của mình; muốn cho được vững chắc thì phải đặt ra luật pháp, có luật pháp thì phải có Viên-Quan Vua-Chúa.
Định luật xã-hội phải như thế mà thi hành rất khó-khăn lắm, lúc tâm-lý nhơn-sanh còn đơn giản, thi-hành là muốn cho thiên-hạ bảo-vệ sự sống của dân trong một Quốc-Gia mà thôi, rồi lần-lần họ khôn ngoan, họ lấy khôn-ngoan của mình đặng chiến-đấu với các cơ-quan nào làm cho mình mất tự do làm cho mình không được tự chủ.
Nhơn-loại bây giờ cũng thế, họ phá rối luật-pháp buộc ràng họ bằng mọi cách gián tiếp hay trực tiếp. Bởi vậy ngày nay một luật-định xã-hội bảo-toàn sanh mạng cho nhơn-loại đương nhiên bâygiờ khó khăn đáo-để.
Đầu tiên khởi ra Mường-Mán chiến-đấu với nhau, Mường-Mán đó tiêu-diệt sang qua Xã-Hội Quốc-Gia, Quốc-Gia bao giờ cũng muốn cường quốc đông dân số, như các nước mạnh kia vậy. Cũng như thể Trung-Hoa dân số có lối bảy trăm mấy chục triệu dân-tộc hiện tại thành thử họ thường-thường tương tranh với nhau luôn-luôn, khuôn-khổ kia xét lại đến ngày nay các liệt cường Quốc-Gia liên-minh của mặt địa-cầu này, muốn bảo toàn mạng sống khó-khăn lắm.
Bần-Đạo nói cho mấy người nghe đặng mấy người theo, rán theo sau Bần-Đạo đặng hiểu Bí-Pháp của Đạo.
Bần-Đạo cho biết rằng: Bí-Pháp của Đạo và Thể-Pháp của Đời có liên quan với nhau, nếu làm biếng không nghe Đời không thể gì biết đến Đạo.
Bần-Đạo nói rằng: về Thể-Pháp, dù Thể-Pháp, dù Bí-Pháp nào nói rõ Thể-Pháp một Quốc-Gia nào, một dân-tộc nào, mà phù hợp với tinh thần tiến triển của dân-sanh nước ấy, tức-nhiên phù-hạp với tinh thần hữu-nghị của họ, thì nó tồn-tại bằng trái ngược lụng lại tinh-thần của dân tức-nhiên dùng cường quyền ép bức mà thôi.
Bần-Đạo đã nói từ hồi nào đến giờ, con người bao giờ cũng chiến-thắng với các trở lực làm mất tự-do, mất quyền vi-chủ của mình, tức nhiên tâm lý nhơn-sanh không buổi nào chịu thua một cuỡng bức nào làm cho họ đã mất quyền vi-chủ, họ chiến-đấu mãi thôi.
Ngày giờ nào còn quyền áp bức dân-tộc này, ép-bức dân-tộc khác, dùng quyền tàn sát đặng bảo-thủ sanh-mạng của họ, thì giờ phút đó chưa có hòa-bình trên mặt địa-cầu này. Không hòa-bình là Tả-Đạo, là giả-pháp, không đúng với tâm-lý nhơn-sanh.
Ấy vậy, chúng ta thấy những quyền luật nào lập ra tại mặt địa-cầu này mà không trái với tâm-lý của nhơn-loại thì nó sẽ tiến-triển theo sự tấn hóa của nhơn-loại, đặng bảo- tồn sinh-mạng của nhân-loại cho được vĩnh-viễn và hạnh-phúc.
Ấy thế Đạo của Đời chơn chánh đó vậy.
*  *  *

5. - Bí-pháp của Thế-Đạo là sự lưu-danh hậu thế.
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 22 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu.

BÍ-PHÁP CỦA THẾÙ-ÐẠO LÀ SỰ
LƯU-DANH HẬU-THẾ

Đêm nay Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp của Thế-Đạo,vì kỳ trước Bần-Đạo đã thuyết Thể-Pháp của Thế-Đạo.
Nay Bần-Đạo phải thuyết Bí-Pháp đặng cho toàn thể con cái Đức-Chí-Tôn biết định phận chơn với giả. Người ta tưởng Thế-Đạokhông có Bí-Pháp; có chớ, tại Đời không đem ra để cho toàn thể nhơn-sanh hiểu biết.
Có Bí-Pháp chớ; bởi những hạng vĩ-nhân tạo thời cải thế, đã lập công-trạng đối với nhơn-loại, nơi mặt địa-cầu này. Chủ hướng của họ tùy theo khuôn luật, khuôn pháp nào đặng họ tạo nên cơ nghiệp vĩ-đại nơi mặt địa-cầu này ?
Thể-Pháp của họ chúng ta thấy họ mơ-ước một điều: trước khi quá vãng (chết) được nêu danh ư hậu thế hay là để lại một trang sử tốt đẹp cho đoàn hậu tấn của nhơn-loại.
Xem ấy mà định-hướng chủ-tâm của mình hay định tương-lai của mình, tức nhiên thế-gian người ta thường gọi "Lưu-danh ư hậu-thế" để danh lụng-lại cho kẻ sau đó vậy.
Lưu-danh ư-hậu-thế, họ đã dùng phương thế nào ; họ đã dùng chánh thuyết nào đặng họ phụng-sự cho thiên-hạ trong một nước, nếu họ không phụng-sự cho Tổ-Quốc ?
Đối với Quốc-dân họ phụng-sự cho Quốc-dân, đối với toàn nhơn sanh nơi mặt địa-cầu này, họ có đủ chủ-hướng phụng-sự cho nhơn-loại. Đã định tâm phụng-sự tức nhiên nơi này là nơi bí-yếu hơn hết. Xin để ý.
Hể quyết tâm phụng-sự tức-nhiên họ phải lấy chánh tâm làm căn-bản, do chánh tâm ấy họ bước vô khuôn-khổ của Đạo, tương-liên với Đạo, chánh-tâm ấy để giá trị cho Quốc-dân. Thiên-hạ bước vô đường chánh tâm rồi tức-nhiên có liên-hệ với Đạo, họ phụng sự cho thiên hạ là chỗ liên hệ sự Đạo-Đức tinh-thần của toàn nhơn sanh đó vậy. Chúng ta đã thấy rằng lời của Đức-Chí-Tôn đã nói: "Đạo không Đời không sức mà Đời không Đạo không quyền", cả hai tinh thần ấy phải tương-liên mật-thiết cùng nhau không thể gì rời-rãvới nhau đặng. Chúng ta đã thấy nhiều lý thuyết họ đã tiềm-tàng họ muốn thế nào Đời thoát-ly với Đạo mà như thể chúng ta ngó thấy các nền Tôn-Giáo như bên Thiên-Chúa-Giáo như Care Litaire muốn thoát ly ra khỏi Công-Giáo Gia-Tô mà họ chẳng hề thoát ly đặng. Họ muốn thoát-ly Công-Giáo, thoát-ly Công-Giáo tức nhiên họ tiềm-tàng đáo để họ kiếm phương-thế giải-thoát ra khỏi Đạo nhưng cũng không đặng.
Giờ phút này chúng ta ngó thấy Nga-sô Viết lấy thuyết Cộng-Sản làm căn-bản, thuyết Cộng-Sản tức-nhiên thuyết Duy-Vật lấy vật-chất làm căn-bản, mà chối bỏ linh-hồn.
Về thuyết vật hình, tức nhiên nghịch hẳn với tinh thần Đạo-Đức. Vật-chất họ phải đề xướng: " Tam vô" là vô thần đứng đầu hơn hết, nó phải đánh đổ tinh-thần Đạo-Đức đặng nó đi trọn con đường vật-chất. Phải chiến-đấu để vật-chật thắng tinh-thần.      Giờ phút này nước Nga cũng chưa hề thoát-ly Đạo-Đức được phải đem Đạo-Đức làm căn-bản mà thôi.
Tại Nga-Sô lúc Cộng-Sản chiến thắng đánh-đổ chánh-quyền rồi, tức-nhiên Staline không còn nhìn Đạo-Giáo nữa, không còn nhìn quyền Hội-Thánh La-Mã nữa.
Ngày đánh đổ chánh-quyền khám-phá quyền-lực của nhà thờ, chỉ trích quyền-lực của Nhà Thờ, nhưng rốt cuộc ngày nay phải đem Đạo-Giáo đem Công-Giáo, tái lập các Đền-Thờ trở lại.
Tuy vẫn không tùng quyền Ông Giáo-Hoàng La-Mã mà nó vẫn tùng quyền Ông " Got Oann" như Ông Giáo-Hoàng của nhà Thờ mà thôi.
Còn nhiều nữa, nếu chúng ta quan sát từ thượng-cổ, bao giờ Đời cũng kiếm phương-thế thoát-lý Đạo, chiến-đấu để thoát-ly Đạo.
Họ biết không tùng theo nó thì họ không quyền mà hể tùng theo nó thì mất tự-do tự-chủ của họ, nó mất thì nó chẳng khi nào mà trị thiên hạ được. ?
Từ thượng-cổ đến giờ không một Quốc-Gia Xã-Hội nào nơi mặt địa-hoàn này vô Đạo mà cầm quyền thiên-hạ được, không thể có.
Vì cớ cho nên cổ nhơn tức-nhiên Tổ-Phụ nòi giống Việt Nam trị dân vi đạo " Dĩ-đạo Vi-tiên" tức-nhiên trị Đạo chớ không phải trị dân đó vậy.
Có một điều Bần-Đạo chỉ chỗ chính giữa, muốn phụng-sự Quốc-dân hay Quốc-Gia cho đắc lực, phải có thành ý, rồi Chánh tâm; muốn cóchánh tâm thì mình phải Tề-gia Trị-Quốc rồi mới đến Bình Thiên-hạ nghĩa là: tu thân, tức-nhiên nhơn-đạo đó vậy. Chính thiên-hạ có liên-quan mật thiết với Đạo mà lưu lại thanh- sử, nhưng cũng chưa đủ.
Chúng ta ngó thấy họ muốn thoát-ly Đạo-Giáo, nói gần hơn nữa, ở cõi Á-Đông chúng ta thấy gì ? Như nhà Vua các công-thần " Vị-quốc vong-thân" nhà Nam ta có phong-thần nên buộc các Làng các Tổng, các Huyện, các Phủ, phải lập Đền Thờ, thờ các Đấng ấy, là Đình của chúng ta đó vậy.
Thoát-ly, họ muốn thoát-ly Đạo, đặng họ lập khuôn-khổ riêng tư của họ, họ càng lập càng đội Đạo-Giáo trên đầu thêm nặng nữa.
Bên Âu-châu chúng ta thấy gì ? họ muốn thoát ly Đạo-Giáo mà những công-thần ấy họ dựng hình để chỗ nào đông dân chúng, tùy theo công-nghiệp của mỗi người họ định chỗ dựng hình ảnh của họ để lưu lại cho hậu thế, dựng hình-ảnh ấy là gì ? Ấy là Bí-Pháp của họ đó vậy.
Họ tưởng thoát-ly Đạo-Giáo là dễ nhưng mà hình cốt dựng lên họ để cả bài học cho hậu tấn; những cái hình ảnh còn tồn-tại đây, xác-thịt xương-máu của những kẻ ấy được lưu hình-ảnh tại mặt thế này là những Đấng để cả tâm-đức phụng sự cho Quốc-Gia và nhơn-loại đó vậy.
Làm cho đặng họ ham lắm.
Giờ phút này các Vị cầm quyền trị-thế trong một xã-hội nhơn-quần nào, cũng mơ-ước một điều là phải lưu danh hậu-thế mà thôi, lưu cả hình ảnh tôn-nghiêm của họ để hậu thế nữa.
Vì cớ cho nên nhiều người nhiều khi khổ hạnh phải cực-khổ trong trường tranh-đấu vì Quốc-Gia Xã-Hội nhơn-quần khổ-não về tinh-thần nhọc-nhằn biết mấy. Có nhiều người thối chí mà nhờ cái năng lực và quyền-lực lưu danh ư-hậu-thế ấy buộc họ phải làm nữa, trong con đường phụng sự Quốc-Gia cho đến cùng. Vì thế phải có một tấm lòng chơn thật mới quyết-định được.
Ấy vậy, Bần-Đạo lập lại một lần nữa, để lại một trang lịch sử tốt đẹp cho hậu-thế, để hình-ảnh tôn-nghiêm cho hậu-thế ấy là Bí-Pháp của Thế-Đạo.
Còn nữa, ngoài ra nữa, còn có cái này; cái này không hình trạng mà đáng sợ hơn hết là miệng lưỡi của thế-gian. Có nhiều việc không để nơi trang lịch sử được, nhiều khi bất công của nhà Vua hay của nhơn-quần họ không để nơi trang sử được, họ chỉ để nơi miệng lưỡi thế gian mà thôi, đáng sợ hay chăng là chỗ đó. Hoặc là vì sự bất chánh yểm cả công-nghiệp công-thần của mình; nhưng công nghiệpấy họ để nơi miệng lưỡi của dân, của thiên-hạ. Bí-Pháp ấy mới cao-thượng, mới bền bỉ, Bí-Pháp mà Đức-Chí-Tôn dành để đặng ban thưởng cho những kẻ vì Đạo nhơn-luân của con người biết quên mình vì Đạo. Vì Đạo mà tạo tinh-thần cho quần chúng đó, Bí-Pháp ấy cao-thượng hơn hết.
*  *  *

6. - Chìa khoá tinh-thần của Thể-pháp và Bí-pháp Thiên-Đạo.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh .
đêm 26 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu.

CHÌA KHOÁ TINH-THẦN CỦA
THỂ-PHÁP VÀ BÍ PHÁP THIÊN-ÐẠO

Kể từ hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thiên-Đạo.
Trước khi Bần-Đạo giảng một cái triết-lý trọng-yếu ấy Bần-Đạo muốn cho cả thảy chúng ta mỗi người đều để tinh-thần trí não của mình tự xét lại coi đương nhiên chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào.... ? Chúng ta làm gì nơi cõi thế này ? Cái lập trương của kiếp sống ta đối với vạn-vật hữu-hình mà Đức-Chí-Tôn gọi là Vạn-linh ấy thế nào ?
Mỗi người tự soát, tự soát đặng mới có thể hiểu đặng huyền vi bí-mật của Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thiên-Đạo ấy là cái chìa khóa của chúng ta mỗi đứa mở lấy cái nguyên-linh của chúng ta vậy.
Bần-Đạo rủ cả thảy con cái Đức-Chí-Tôn cầm chìa khóa nơi tay, đặng mở cả huyền vi bí-mật ấy cho thấu đáo; thấu đáo cho đặng rồi mới có thể biết được cơ-quan giải-thoát của mình.
Bần-Đạo lấy của Bần-Đạo trước đã, Bần-Đạo tự mình, quan-sát của Bần-Đạo coi cái sống của Đời và cái Linh của Đạo tức-nhiên trí hóa khôn ngoan vô-đối của chúng ta thuộc về Đạo, như thế nào ?
Linh ấy sống với phương pháp nào cho còn tồn-tại ? Tại sao chúng ta vào cửa Đạo, chúng ta vào đây chúng ta ngồi, tại sao chúng ta chung hiệp với nhau vô Đền-Thánh này mỗi đêm phải cầu-nguyện kinh-kệ với Đấng mà chúng ta gọi là Đấng Tạo-Đoan cả Vạn Linh tức-nhiên Đấng Chí-Linh đó vậy? Chúng ta tôn sùng Đấng ấy để làm gì ? Đấng ấy có hữu ích gì cho chúng ta hay chăng mà chúng ta phải phụng sự những điều chí thiết ấy ? Nên tìm tàng cái nguyên-lý của nó cho thấu đáo mới gọi rằng tu mà muốn tu phải biết huyền vi bí-mật ấy mới tu, còn không biết bất quá vô Đền-Thánh hát chơi vậy thôi.
Hễ khi nào làm biếng không đi cúng rồi đổ thừa có chuyện này chuyện kia, tại mình không biết giá-trị của sự đi cúng, phải biết trong đó cái đã.
Bần-Đạo biểu tự soát mình coi, tại sao vô Đạo Cao-Đài, Đấng đã chung hiệp với con cái của Ngài là Đấng Chí-Linh tức-nhiên là Đức-Chí-Tôn chúng ta đang chiêm-ngưỡng tại Đền-Thánh này. Phải biết giá trị đó mới dám can-đảm thí thân cho Đạo mới có thể cương-quyết đặng chung sống với con cái của Ngài. Chớ không lẽ ngồi đó tu theo họ mà không biết chơn-lý ở đâu.
Các nền Tôn-Giáo, chúng ta đã thấy chán-chường trước mắt vì lẽ đó mà vong phế.
Bần-Đạo thuyết, bây giờ Bần-Đạo khai rõ cả tâm-lý của Bần-Đạo rồi cả thảy con cái Đức-Chí-Tôn cũng vậy tự mình cung chiêu của mình đi.
Bần-Đạo theo Đạo Cao-Đài do lẽ này: kiếp sống của Bần-Đạo không có biết tin gì hết nhứt là đầu óc chỉ lấy triết lý học-thức làm căn-bản, không ai nhồi sọ đặng, nhứt định không để chủ quyền tinh-thần mình không bị ai lừa gạt, dầu cho Bần-Đạo đã theo Thiên-Chúa-giáo.
Hồi thuở nhỏ nghe ra bị khó nuôi rồi Ông già Bà già sanh ra mấy người đều chết hết, đến nóng lạnh cũng chết, đến đổi thiên hạ sợ, tới phiên tôi Ông già Bà già bồng đem tôi đến Nhà Thờ Thiên-Chúa cho Ộng Cha làm con nuôi ông ấy.
Tôi lớn lên đi học trường mà cũng đi theo làm đồng nhi bên Thiên-Chúa-Giáo cũng như ai kia vậy; nhưng trước khi đi học Bà già cho vô trường học Nho trước, học chừng một năm ruỡi rồi cho vô trường Pháp nên không biết thêm gì hết, xét mình tự nhỏ đến lớnkỳ khôi hơn ai hết.
Cái gì cũng muốn biết mà thôi, cho đến lúc khôn-ngoan trí-thức cũng vậy, cả cơ-quan của Đời tìm-tàng cho thấu đáo mọi điều, tìm cho hiểu, mỗi sự chi cũng tìm cho biết mà không biết được thì không ăn không ngủ.
Khó lòng lắm, khó lòng quá, khó-khăn lắm, vậy phải tìm qua cho đặng hay biết cho đặng mọi việc ở Đời.
Suốt một thời-gian, vẫn giục thúc tới chỗ bí- mật huyền vi của Càn-Khôn Vũ-Trụ, giục thúc Bần-Đạo một điều làm cho tinh-thần Bần-Đạo xốn-xang biết bao.
Bần-Đạo thấy chung quanh các bạn đồng-sanh của Bần-Đạo dầu cho chí thân hay ngoại-tộc cũng vậy họ đương dung-rủi trên con đường quanh co khúc-khuỷu của Đời. Bần-Đạo cũng sống theo với họ trong con đường dục tấn, con đường ấy tức-nhiên chạy theo quan chức mỗi bước, mỗi ngày tình trạng khổ não, khó-khăn lắm, không biết họ làm cho tinh-thần đặng hạnh-phúc hay đau-khổ ! Không thấy hạnh-phúc gì hết; qua mỗi khoảng đường day lụng lại kẻ thương yêu của mình dầu lớn dầu nhỏ họ đã té quị theo dọc đường ấy nghĩa là họ chết.
Những kẻ thương yêu Bần-Đạo, Bần-Đạo dòm lại một lần nữa họ đều chết hết dầu chí thân hay ngoại thân cũng vậy. Tức tối thay cho quyền-năng vô-đối của vô hình kia tại sao phải từ bỏ ? Không sanh sống cho vẹn toàn con người già hay trẻ đều lần lượt chết hết biết bao nhiêu giọt lệ của Bần-Đạo đã khóc với thân già và biết bao nhiêu giọt thảm của Bần-Đạo đã rưới trên thân trẻ. Tình trạng đau-khổ giục-thúc Bần-Đạo tìm hiểu coi cái phương pháp giải-kiết, phương-pháp giải-nạn coi có nơi nào hay chăng. Thử tự soát mình, tự xét nghĩ mình cũng một mạng sống cũng như mấy ngàn triệu mạng sống nơi mặt địa-cầu này, không kể các Vạn-Linh bao phủ, chung quanh họ, thấy họ khổ trong con đường sống ấy lắm.
Có nhiều khi muốn bảo thủ mạng-sống họ mà họ phải tận diệt mạng sống khác. Các mạng sống bị tận-diệt thì họ phải chịu đau-khổ thống thiết vô ngần vô-đối; trường đau khổ ấy trải trước mặt Bần-Đạo.
Đối với vạn-vật thấy tình-trạng mạnh hiếp yếu, dữ ăn hiền, đối với loài người thì ngó thấy họ không kính nể mạng-sống đồng loại đồng chủng với nhau. Một tấn tuồng bất công trải trước mặt, muốn kiếm phương an ủi thấy mình cũng một kiếp sống như các người kia vậy.
Mỗi chúng ta kiếm con đường hữu ích, cái hữu ích cho bạn đồng sanh của mình, hễ thấy mình ăn thì bạn mình mất ăn; mình mặc thì bạn mình mất mặc, tức-nhiên chính mình, mình cũng giành sống với họ. Xét đoán mình không có hữu ích chi đối với họ cả, mà trái ngược lại mình làm tội ác, mình làm khổ-não cho họ mà thôi. Bởi vì mình giành giựt cái sống họ để bảo thủ cái sống của mình, mình phải dành cái sống của họ kia kìa thành ra mình không hữu ích gì hết.
Kiếm thế an ủi, có thể nào làm nô-lệ cho họ tôi không ăn mà tôi sống không, nói đến cái đó thì rất khó muốn làm cho đặng trọn trong con đường sống tức-nhiên tôi không thể làm được. Muốn kiếm giải-pháp ấy cho được thì tôi gởi cả tâm-hồn tôi vào tay một Đấng vô-hình, nương theo cái quyền-năng vô-hình làm Chúa của các mạng sống ấy đặng kiếm thế bảo-thủ mạng-sống của thiên-hạ. Triết lý ấy kiếm coi ở đâu, như bên Phật-Giáo biểu vô chùa mà tu, tụng kinh gõ mõ đặng ăn mà sống, sống riêng cho cá-nhân, như vậy thì còn tội ác hơn hết thảy bởi vì biểu họ bố thí cho mình ăn để mình sống, còn họ thì thiếu sống. Các nơi khác nữa, ngồi đó duy chủ cái quyền sống như các nền Tôn-Giáo khác họ giành cái sống ấy còn mạnh-mẽ hơn các thứ quyền giành sống khác nữa. Nếu tới một vài cửa khác họ lại giành sống xảo-trá còn tồi-tệ hơn nữa. Kiếm phương thế giúp sống cho đồng sanh mà kiếm không ra.
May thay trong buổi khuẩn-bách tinh-thần ấy, có Đấng Huyền-Linh đem lại với một phương-pháp vô-hình, không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà làm cho chúng ta nghe là Đức Cao-Đài Thượng-Đế, nhờ đó mà Bần-Đạo khỏi đi đâu hết. Nếu không có Đấng ấy thì có lẽ Bần-Đạo điên đi mà chớ; điên vì cái khổ não của Đời, điên vì gớm ghiết cái cơ-quan tranh sống của nó.
Ban sơ Bần-Đạo chưa biết Ổng mà Ổng cho Bần-Đạo làm Hộ-Pháp. Bần-Đạo không biết gì hết, Bần-Đạo nhắm mắt Bần-Đạo theo.
Tại sao Đấng ấy làm thiên-hạ nghe, thiên-hạ theo, chính mình cũng vậy. Lý lẽ của Ổng , Ổng đem đến cho thấy rằng: giúp sống chớ không phải giành sống. Các bạn của mình họ đùa họ theo; em út của mính dĩ-chí cho đến bạn đồng niên mình họ đùa họ theo họ nghĩ rằng tôi gơỉ tâm-hồn tôi cho Ổng, một mình tôi, tôi thấy rằng không đủ Đấng tạo Đạo không phải gọi một mình tôi mà chính gom-góp đại đa số tâm-hồn như tôi và có thể đem gởi cả đôi triệu tâm-hồn khác nữa vì vậy tôi có thể theo Đấng này được. Đấng đó tôi nên theo, theo có hai lẽ.
1. - Về phần Đời tôi khỏi cái bệnh đau thảm của tôi.
2. - Về phần Đạo tôi khỏi côi cút lẻ loi.
Tôi có một đám người biết tình ái vô hạn của tôi, có một đám người cùng tôi gánh khổ của đời tức-nhiên họ chịu nhiều khổ đặng họ giải khổ cho thiên hạ.
Nói đó là nói của tôi, để tâm hồn theo Ổng về mặt Đời và về mặt Đạo mà thôi, tôi chỉ nghĩ có bao nhiêu ngoài ra tôi không biết gì nữa.
Bây giờ Đạo Cao-Đài không biết chánh hay là tà, tôi chỉ biết Đấng ấy có thể gom-góp đôi triệu tâm-hồn vào tay Đấng ấy là Đấng Chí-Linh.
Bây giờ tôi không tin Đấng ấy nữa mà tôi chỉ tin một điều là ngày giờ nào cái linh hồn tôi thoát xác ra đi bỏ cái địa hoàn này, tôi sẽ gặp các bạn chí thân từ trước của tôi, Tổ-Phụ Ông Bà của tôi. Tôi không biết cảnh hư linh như thế nào mà nếu tôi gặp được họ thì tôi mới chắc.
Ngày giờ nào tôi về cảnh Thiêng-Liêng kia, quả nhiên linh-hồn tôi còn tồn tại chớ không phải tiêu-diệt như nhiều triết-lý vô-thần, nhiều nhà Duy-vật đã thuyết nơi mặt địa-cầu này.
Giờ phút nào tôi thoát xác tôi về vơi hư-linh mà tôi được một vài triệu linh hồn về cảnh Thiêng-Liêng Hằng-sống thì tôi không còn hạnh phúc nào hơn chỗ đó nữa. Tôi không biết giá-trị, không biết quyền-năng ra sao, nhưng tôi ngó thấy Ổng có thể làm cho tôi làm bạn với cả trăm, cả triệu chơn linh trên cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống, vì cớ cho nên tôi phải vào Đạo Cao-Đài đặng tôi phụng sự cho Ổng tức nhiên tôi phụng-sự cho con cái của Ổng. Tôi nghĩ có bao nhiêu đó mà tôi theo cho đến ngày nay. Tôi đứng giữa tòa-giảng này để ngửa cái triết-lý ấy đặng cho toàn thể con cái của Đức-Chí-Tôn rõ biết đặng suy xét.
Đó tôi lấy chìa khóa mở tinh-thần của tôi rồi đó còn mấy bạn lấy chìa khóa mở tinh-thần mấy bạn đi rồi tôi tiếp tục giảng Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo Cao-Đài.

*  *  *

7.-Thể-pháp Thiên-Đạo của Cao-Đài-giáo là cứu khổ.
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 29 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu.

THỂ-PHÁP THIÊN-ÐẠO CAO-ĐÀI GIÁO LÀ CỨU KHỔ

Đêm nay Bần-Đạo thuyết Thể-Pháp Thiên-Đạo Cao-Đài. Kỳ trước Bần-Đạo và toàn con cái Đức-Chí-Tôn đã rủ nhau tự-soát cái kiếp sống của mình đặng thấu đáo hành- tàng cả chơn tướng của mình, phải thế nào đối với Càn-Khôn Vũ-Trụ, đối vơi kiếp sống.
Tưởng cả mỗi người chúng ta đều có trí định cái nguyên do căn-bản của sự sống mình, cũng như Bần-Đạo đã tự soát nơi giảng đài này bữa hôm trước đó vậy.
Chúng ta đã thấu đáo cả chơn truyền của Đức-Chí-Tôn các huyền vi bí-mật cơ tạo-đoan càn-khôn vũ trụ, nó có ba điều trọng yếu là:
1. - Cái kiếp sanh của ta theo như chơn truyền Đức-Chí-Tôn các chơn linh đến tại mặt thế này hay là các địa giới trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, cốt để trả quả kiếp của mình, hoặc mình đã tạo căn quả, vì trong con đường tấn hóa chơn-linh của mình không đủ mực thước để điều khiển khối nguơn-linh yếu ớt, không đủ quyền duy chủ mà phải phạm thêm tội tình oan-nghiệt.
2. - Đến đặng tìm tàng cái học lực của mình, học lực của mình là điều mình muốn biết cả kiếp căn của mình, nếu không biết cũng đeo đuổi theo tìm tàng theo cho biết cả cơ quan bí mật tạo đoan.
3. - Là nên lập vị cao thăng hơn nữa tức-nhiên theo cơ Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ về hữu-hình cốt yếu để giúp cho các chơn linh tấn-triển trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo có cho toàn thể chúng ta thấy căn sống của mình chẳng phải nơi trái địa-cầu 68 này mà thôi, mà các mặt địa cầu khác trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng đều một khuôn-luật ấy.
Có nhiều trái địa-cầu tấn triển cao hơn khuôn -khổ kiếp sống của con người, có thể giảm bớt tội nhưng khuôn-luật vẫn một mà thôi không có chi sửa đổi.
Chúng ta đã thấy mình sống, kiếp sống của mình như thế; Bần-Đạo đã cho toàn thể con cái của Đức-Chí-Tôn tự-soát mình lại không có hạnh-phúc chút nào hết. Thật sự ra đề mục chúng ta phải đi trong khóa học này của Đức-Chí-Tôn, đến đặng mở khoa mục cho nhơn loại buổi này. Hay là mỗi lần các Đấng chơn linh cao-siêu hơn nữa đến tạo Đạo, cốt yếu đến mở khoa mục cho các chơn linh thì khi chúng ta đã ngó thấy khóa này là khóa đầu tiên hết thảy trong đề mục. Khóa ấy riêng từ mức, mới khởi mức số một, chơn linh kia trong vật-loại dĩ-chí đến Phật vị; đề mục ấy chưa có vị Phật nào đoạt vị dầu cao siêu đi nữa cũng chưa giải-quyết được. Chính mình các vị trong các vị Chí-Linh Hằng Sống chỉ có một Đấng giải quyết đặng đề mục "khổ sanh" của chúng ta tấn-triển là duy có Đức-Chí-Tôn mà thôi. Ngoài ra nữa không có vị Phật nào giải quyết đặng. Đức Phật Thích-Ca lập vị cầm quyền chưởng giáo nơi Cực-Lạc Thế-Giái, chính mình Ngài đem thuyết Tứ-Khổ mà thôi, chính mình Ngài cũng không giải quyết được, chính mình Ngài không duy chủ cái khổ ấy đặng.
Ấy vậy, đề mục khổ là khổ Sanh, trước là khổ Sanh, rồi tới Lão, Bịnh, Tử. Sanh trước là sanh sống, sống là khổ, hễ cái pháp luật nào làm giảm khổ của chúng sanh nó là chơn; cái pháp luật nào nó làm cho thống khổ chúng sanh là giả.
Pháp-Luật Đạo-Giáo nào mà không hữu-ích gì cho cái khổ sanh của chúng ta thì không có giá trị gì hết.
Chúng ta quan sát coi các nền Tôn-Giáo đã có phương giải-khổ cho chúng sanh hay chăng ?
Tại sao chơn, tại sao giả, chính mình Đức-Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng cũng như chúng ta thấy các cơ-quan trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt yếu là phải phụng sự cho nhơn-loại, cho Vạn Linh.
Trái lại họ không phụng-sự cho Vạn Vạn-Linh mà lợi dụng Vạn-Linh chớ không phải làm tôi tớ cho Vạn-Linh. Hễ lợi dụng là không phải phương-pháp giải-khổ tức nhiên là giả pháp.
Quan sát lụng lại các nền Tôn-Giáo hết, chúng ta thấy không có phương-pháp để giải-khổ chúng sanh, bất quá là một lý -thuyết mơ-mộng mà thôi.
Giải-khổ cái sống cái đã.
Chúng ta thấy các nền Tôn-Giáo đương-nhiên bây giờ có nền Tôn-Giáo nào phụng-sự cho chúng sanh không ? Có nền Tôn-Giáo nào làm tôi-tớ cho chúng sanh đặng giải khổ cho chúng sanh hay chăng ? Quan sát coi. Chưa có !
Chúng ta ngó thấy, chúng ta có một điều tức cười hơn hết là họ ngồi gõ mõ đánh chuông mà họ nói giải-khổ cho chúng sanh.
Sanh trước cái đã, là mực thước đi từ khuôn-khổ của nó nếu nói phi lý không quan sát được, không thể công nhận được, nhưng đương nhiên chúng ta đã thấy gì ?
Bần-Đạo đã thuyết kỳ rồi cái pháp-luật của Thiên-hạ là họ đã xu hướng theo "Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích Ca; họ dong-rủi theo Tứ-Diệu-Đề để giải khổ cho chúng sanh là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Họ thi hành trong khuôn-khổ quyền pháp của họ mà thôi.
1/- Sanh, họ lập nhà Bảo-Sanh đặng giải khổ cho sự sống.
2/- Lão, họ lập ra cơ-quan Dưỡng-Lão để nuôi kẻ già, kẻ yếu.
3/- Bịnh, họ lập ra nhà thương khắp nơi cả thảy trên mặt địa-cầu này biết bao nhiêu nhà thương để chữa bịnh cho đời.
4/- Tử, họ cũng làm Âm-công, cũng bố-thí, cũng làm phước vậy, nhưng có một điều là họ bố thí chớ không phải phụng-sự. Họ lấy của người này đem cho người kia chớ không phải phụng sự cho nhơn-loại.
Còn Đạo Cao-Đài Đức-Chí-Tôn đến biểu chúng ta làm gì ? Biểu chúng ta dùng cả xác thịt, trí-não, tâm-hồn, làm Thánh-Thể cho Ổng, làm đầy tớ cho cả con cái của Ổng, đó mới là thuyết giải khổ vậy.
Chính mình Bần-Đạo cầm quyền Hội-Thánh đem vào khuôn-khổ luật-pháp ấy thế nào ?
Buổi ban sơ Bần-Đạo lấy cả pháp-luật làm chuẩn thằng, chỉnh đốn cả cơ-quan chính-trị của đời là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Bần-Đạo lập nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà bảo sanh là cốt yếu chỉnh đốn thân sống trong khuôn-khổ mực thước, tức nhiên họ giúp cho nhau trong khuôn-khổ Đạo-Đức. Tức nhiên họ có cả cơ quan làm cho buổi thống khổ loạn-lạc phải tiêu hủy.
Cơ-quan Đạo Cao-Đài cốt-yếu chỉnh đốn nhơn-quần xã-hội tăng-tiến trong khuôn-khổ nhơn-luân, nhơn đạo để trong tâm não họ đặng họ tương-trợ nhau họ xúm nhau trong một nhà để giúp nhau về mặt tinh thần.
Bây giờ Bịnh, Tử cũng thế, về mặt xác thịt chuyển cả cơ-quan Thế-Đạo, cốt yếu để giải-khổ chúng sanh về sự sống đối với Sanh, Lão thì chúng ta đã lập thành đại gia-đình; như thân nầy khi già rồi còn em, còn bạn, còn con, còn cháu, một đại gia đình càng ngày càng lớn hơn nữa.
Giờ phút này có hai triệu người chứ không phải như trong buổi tạo Đạo; chúng ta dầu sống đi nữa cũng không phải cô độc mà khi chúng ta phụng sự trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tức nhiên phụng sự cho Ngài, tuổi già chớ tinh-thần không già, không buổi nào chúng ta già hơn Đức-Chí-Tôn, nhỏ làm tôi mọi cho nhỏ, lớn làm tôi mọi cho lớn, già làm tôi mọi cho già.
Không buổi nào thấy cái già cái khổ cho chúng ta tức-nhiên giải-khổ rồi đó vậy.
Sanh, Lão không phải khổ chúng ta, mà nó là một cơ-quan giúp cho đời được lịch duyệt. Bịnh, Tử không phải khổ của chúng ta, mà nó là cơ-quan giúp ta đoạt Thiêng-Liêng vị. Bịnh-Tử, bịnh chúng ta làm gì chúng ta bịnh, tại số chết của chúng ta, tại khối sanh quang của ta hết lực mà thôi.
Kiếp sanh này làm tôi cho người, dầu cho có bỏ xác hay chết là cùng. Mạng sống kiếp sanh của mình do quyền Đức-Chí-Tôn định liệu, thì sợ gì cái chết; trái ngược lại thiên hạ sợ chết là khổ mới chết, còn chúng ta không sợ chết vì chết là cơ-quan giải-thoát đó vậy.
Giờ phút này người tu là đem thân làm nô lệ cho nhơn-loại, rồi có vui sướng gì với kiếp sanh mà cần sống, giá trị cái sống của ta khác hẳn hơn thiên hạ tưởng-tượng, mà tưởng tượng cái chết của ta là buổi nghỉ-ngơi, buổi hết cực; cái chết ấy chẳng phải do mình mà do nơi Đức-Chí-Tôn định là tới buổi Đức-Chí-Tôn nói các con đã làm xong phận sự, Thầy cho con về.
Giờ phút này chúng ta đương ở Đền-Thánh của Ngài đây, đương phụng sự cho Ngài đây, thì cái sống chết của chúng ta không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa, và trong Tứ-Khổ không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy, "Tứ-diệu-đề" tức nhiên bài học, bài thi, của đề mục khổ duy có Đạo Cao-Đài giải quyết nó, đánh mất nó, làm cho nó không còn giá trị chi nữa, tức-nhiên chính mình và toàn cả con cái của Đức-Chí-Tôn hay tương lai tôi nữa cũng vậy.
Chúng ta trọn hiến thân làm Thánh-Thể cho Ngài mà ta sống cho mình chớ không phải sống cho Ngài là không đúng; sống không phải sống cho mình mà chính là sống cho Ngài vì chính mình đem trọn cái sống ấy dưng nạp cho Ngài, mà tưởng tượng ta khổ thì tức nhiên Đức-Chí-Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà lại sống vinh diệu quá, ta lại gặp thời kỳ này may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường, sống về Thánh-chất, sống về Thiêng-Liêng, sống về Càn-Khôn Vũ-Trụ, sống về Trời Đất, sống dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.
Ấy vậy, Chơn-Pháp thuộc về Thể-Pháp của Thiên-Đạo Cao-Đài ngày nay có lẽ phù hợp với tinh-thần nhơn-loại hơn các nền Tôn-Giáo khác; có lẽ, nhưng chúng ta đừng ỷ mình.
Mỗi ngày thường tự hỏi mình coi làm vừa sức của ta chưa ? Làm vừa sức của Đức-Chí-Tôn biểu mình làm hay chưa ? Sống của mình có vừa với cái sống của Đức-Chí-Tôn hay chưa ? Nếu chúng ta đủ tinh-thần, đủ trí não và đủ năng lực để thay thế cái sống của Đức-Chí-Tôn thì " Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca để tại mặt thế-gian này không có nghĩa-lý gì và giá trị gì đối với chúng ta hết.
Thể-Pháp của Đạo Cao-Đài chủ về sống mà đánh tiêu cả sự khổ tức-nhiên đánh tiêu cả Thể-Pháp. Thể-Pháp đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí-Pháp được.

*  *  *

8. - Sự liên-hệ giữa Thể-pháp với Bí-pháp là Phụng-sự vạn-linh, thì đạt vị Thần Thánh Tiên Phật Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh đêm 4 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu.

SỰ LIÊN-HỆ GIỮA THỂ-PHÁP VỚI BÍ-PHÁP LÀ
PHỤNG-SỰ VẠN-LINH, THÌ ÐẠT-VỊ
THẦN THÁNH TIÊN PHẬT

Đêm nay Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp có liên quan đến Thể-Pháp, nói rõ là cái luật Đạo có liên quan đến luật Đời đó vậy.
Vả chăng chúng ta đã ngó thấy cái cơ-quan Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ là cơ-quan Đức-Chí-Tôn để phụng-sựỳ cho Vạn-Linh, cái chơn-pháp nó vẫn vậy.
Bần-Đạo có thuyết về thuyết ấy, Bần-Đạo nói đất phải hy-sinh đặng phụng sự cho cây, tức-nhiên là thảo-mộc. Cây phải hy sinh đặng phụng sự cho thú, tức nhiên nó phải hy sinh đặng nuôi thú, mà loài người đứng đầu trong loài thú chớ không có chi khác nữa.
Vì cớ cho nên cổ-luật lại buộc thú phải hy-sinh phụng sự cho người, phụng sự không đi quá sức, hy sinh đặng nuôi loài người. Bởi vì lẽ lầm hiểu về chơn-pháp ấy mà nhơn-sanh đã thực nhục (ăn thịt).
Giờ tới một mức nữa người phải hy sinh đặng phụng sự cho Trời. Chắc là cả thảy đều nhớ cổ-luật của Thượng-Cổ khi tế Trời họ đem người ra họ giết, rồi họ thiêu như con thú kia vậy. Con người có luật ấy một thời hạn cũng khá lâu. Khi dùng người làm tế-vật đặng hiến cho Đức-Chí-Tôn nếu Bần-Đạo hiểu theo các Đạo-Sử thì đã có gần 40.000 năm về pháp-luật ấy; thử nghĩ coi các nhơn mạng buổi nọ đã đem làm con vật hiến cho Đức-Chí-Tôn nhiều lắm rồi vậy. Mới đây chừng lối 6.000 năm đời của Jacob trước 6.000 năm, theo Đạo-Luật của Hébreu tức nhiên luật của Do-Thái phải giết vật để tế Đức Chúa Trời, luật đó tới nay có lẽ vẫn còn đó vậy.
Đức-Chí-Tôn có đòi hỏi chăng ? Không, tôi dám chắc không, vì chính mình Ngài tạo cho Vạn-Linh, chính mình Ngài làm tôi tớ cho Vạn-Linh và phụng sự cho Vạn-Linh, có lẽ đâu Ngài đòi nhơn-loại phải làm con Tế-vật tế cho Ngài.
Bao giờ chúng ta cũng thấy luật phụng-sự cho Vạn-linh đi từ vật-loại đến nhơn-loại.
Chúng ta thấy việc của con Ong, con Mối, con Ong chúa thật sự ra phụng sự đầy dẫy hơn hết, đứng đầu hơn hết, vì làm chúa nên phải có nhiều phụng-sự, nó phải chịu sanh sản, làm giống nòi nó sanh sản mãi mà thôi cũng như thượng-cổ trước lối 150 ngàn năm và trước nữa thì loài người cũng vậy. Đạo-Pháp trong Phật-Giáo để lụng lại các Đấng duy-chủ của các sắc dân, chủng-tộc do tiếng Phạn gọi là "Ma-Nu" cũng một kiểu vở con Ong, con Mối. Con Mối chúa phụng-sự cho cả một ổ Mối hơn ai hết, bởi vì chính mình con Mối Chúa đã sản-xuất chủng tộc của loài Mối.
Chúng ta thấy lụng lại một triều chính của xã-hội nhơn-quần đã lập quốc, tức-nhiên lập một nền chính trị tương-liên, một quốc-gia vô trong một khuôn-khổ của một quốc thể, một văn-hiến đều chịu một luật pháp ấy, mà luật-pháp ấy muốn thi hành thì phải có triều-chính. Thật sự ra triều-chính nhà Vua phải phụng-sự cho quần-linh, tức-nhiên phụng-sự cho lê-dân. Một mình Ổng phụng-sự cho toàn thể lê-dân không thể được nên phải lập triều chính, từ Tể-Tướng, dĩ-chí cho tới bực hạ-quan. Chánh-trị một quốc-gia là thay thế hình ảnh cho Vua đặng phụng-sự cho lê-dân mà thôi.
Chúng ta ngó thấy trong vật loại như con Mối Chúa, con Ong Chúa cũng làm chúa, cũng phụng sự, trong phụng sự kia cũng lập một triều-chính đặng có phương-pháp phụng-sự cho nó. Nhà Vua cũng vậy, lập triều chính đặng biến thân cho muôn ngàn triệu, đặng phụng-sự cho toàn thể lê dân. Mối Chúa cũng vậy.
Bây giờ Đức-Chí-Tôn Ngài phụng-sự cho Vạn-Linh toàn cả trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, Ngài đã dùng cái gì ? Ngài dùng phương-pháp phụng-sự Vạn-Linh là lấy Đời, lấy Vạn-Linh phụng-sự cho Vạn-Linh.
Chúng ta ngó thấy Đức-Chí-Tôn nuôi cây, nuôi thú; thú để phụng-sự cho người. Ngài dùng căn-bản đó để phụng-sự cho Đời, cũng như Nhà Vua dùng lê-dân lập triều-chính đặng phụng-sự cho lê-dân. Đức-Chí-Tôn ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng-sự cho cả toàn nhơn-sanh mặt địa-cầu 68 này, Ngài phải làm thế nào ? Ngài cũng phải mượn loài người phụng-sự cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng làm Thánh-Thể cho Ngài là lập triều-chính của Ngài. Chúng ta ngó thấy Đức-Chí-Tôn đến lập Đạo; lập Đạo phải lập Hội-Thánh đặng phụng-sự cho Vạn-Linh trên mặt địa-cầu 68 này. Chúng ta ngó thấy cái quyền rồi, ban cho cái quyền luật định phụng-sự, vì phụng-sự ấy mới làm Chúa như con Ong kia, con Mối kia vì phụng-sự mới làm Chúa. Ông Vua cũng vì phụng-sự cho dân mới làm Vua; Bây giờ Đức-Chí-Tôn vì phụng-sự cho Vạn-Linh mới làm Trời.
Ngài phải lập Hội-Thánh tức-nhiên Ngài lập Thánh-Thể của Ngài. Triều-chính tức-nhiên Thánh-Thể của Ngài chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội-Thánh cầm quyền thống-trị đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, Ngài phải lập triều-chính, triều chính là ngôi Thần, Tiên, Thánh,Phật đó vậy. Ngài lập Thánh-Thể cũng như thế ấy; vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tức-nhiên Hội-Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế này.
Không có cái chi mà chúng ta cầu muốn hay là dùng công- nghiệp mà người không trả không bồi thường, vì Ngài đã mượn chúng ta làm Thánh-Thể cho Ngài đặng Ngài phụng-sự cho Vạn-Linh thì Ngài phải trả, phải bồi thường; nếu muốn cho người ta theo thì phải lập vị cho họ, thì họ mới theo.
Đức-Chí-Tôn Ngài đến ký hòa ước với loài người nhứt là dân-tộc Việt-Nam trước cái đã; mấy người làm Thánh-Thể cho tôi, đặng tôi phụng sự cho Vạn-Linh, thì tôi sẽ lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật lại cho mấy người. Nếu các người chịu thì ký hòa-ước với tôi, kế các người làm tôi cho con cái của tôi cho vừa sức của tôi muốn, hay vừa ý của tôi định thì tôi sẽ trả lụng lại là lập ngôi vị cho mấy người trong Thánh-Thể ấy, tôi đã định phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập vị sẵn cho mấy người, mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô-hình tôi không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi chúng ta phụng-sự cho Vạn-Linh tại mặt thế này nữa là khác.
*  *  *

9. - Bí-pháp Thiên-đạo của Cao-đài giáo là giải-thoát.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 8 tháng 06 Năm Kỹ-Sửu

BÍ-PHÁP CỦA CAO ĐÀI GIÁO LÀ GIẢI-THOÁT

Đêm nay trước khi Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp chơn-truyền của Đạo, tương-liên Thể-Pháp của Đạo thế nào, trước khi thuyết Bần-Đạo nhắc lại nữa, nhắc một điều cần yếu cho cả thảy đều nhớ, nhớ để đi theo.
Trước khi trong tinh-thần Đạo-Đức kia chỉ dẫn chơn-pháp Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt định cho loài người có hiện-diện tại nơi thế này đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, mà cũng là dẫn đạo cho Vạn-Linh.
Phụng-sự đặng dẫn đạo cho Vạn-Linh, ấy vậy chơn-pháp có ảnh-hưởng là quyết-định thiệt phận của loài người là phải phụng-sự mà thôi. Hễ không phụng sự tức-nhiên là vô Đạo, mà vô Đạo thì không thể gì đoạt được cơ giải-thoát hết.
Bần-Đạo đã chỉ rõ tương quan của luật-pháp Đời cốt yếu nương theo" Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ, đặng rồi thiên-hạ dầu Quốc-Gia xã-hội nào cũng kiếm phương bợ đở tinh-thần loài người hay là toàn dân trong nước đặng lập vị của mình.
Thật sự ra, nói rằng: Họ đã tạo dựng Đạo-Giáo đặng phụng-sự cho dân, nhưng thật sự đi trong đường nào ? Lấy tinh-thần cứu khổ của Đạo-Giáo mà kỳ trung họ không phụng-sự Quốc dân, chỉ tạo quyền cho họ mà thôi, tức nhiên họ không phải vì sở định cứu khổ mà đến để lập quyền cho vững chắc. Nhưng Đạo-Giáo chúng ta thì khác.
Đạo-Giáo chúng ta buộc phải định phận mình là giải-khổ tức-nhiên phải làm thế nào cứu vớt quần linh cho khỏi " Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ của kiếp sanh đó vậy. Hai cái tinh thần ấy dầu trong hành tàng cũng vậy, vẫn khác hẳn với nhau vì cớ cho nên Đạo với Đời không có bao giờ tương đắc với nhau đặng. Bần-Đạo nói Đạo không phải giành quyền, mà chỉ tạo Đạo đặng định phận mà thôi.
Bên kia họ cho rằng: Đạo giành quyền của họ, trái hẳn chúng ta vẫn thường thấy, chính mình Đức-Phật Thích-Ca đến khi Ngài có quyền, chính cha của Ngài còn tranh giành cái quyền ấy. Về quyền hành có điều khó giải quyết hơn hết là; cả tinh thần chúng sanh, cả thảy đều biết rằng Đạo phải phụng-sự cho nhơn-loại, vì đấy mà bên Đời dầu thế nào đi nữa bất quá là lòe con mắt đặng cho người ta theo, chớ không phải như bên Đạo phải phụng sự.
Bởi cớ cho nên mới dục ra tấn-tuồng giành quyền với nhau là vì chỗ đó.
À ! Bây giờ Bần-Đạo nói rõ phải ra phụng sự đặng giải khổ tức-nhiên giải quyết "Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca đã để nơi mặt địa-cầu này.
Bần-Đạo thuyết cả Bí-Pháp Đạo-Giáo có liên-quan mật thiết với Thể-Pháp rồi cả thảy đều nghĩ từ thử đến giờ, Bần-Đạo buộc phải đi cúng, phải hành Đạo là thế nào, không phải buộc mấy người mà Bần-Đạo hưởng một quyền lợi gì riêng hết, mấy người suy đoán chơn-pháp rồi mấy người mới biết. Bần-Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức-Chí-Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi.
Vả chăng trong chơn-pháp, con người nơi mặt thế này có ba điều.
1. - Hoặc là phải trả quả kiếp xuống tại mặt địa-cầu này để trả.
2. - Hoặc muốn học hỏi thêm, muốn tấn hóa tới nữa về phương lược địa vị tinh-thần của mình còn thiếu kém, học thì đến mặt địa-cầu này đặng học.
3. - Các vị đã được địa vị cao siêu nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống đến mặt địa-cầu này đặng lập vị mình thêm cho đặng cao trọng.
Ba điều ấy muốn đoạt được thì phải phụng-sự Vạn-Linh mới được. Bần-Đạo thuyết tới con cái của Đức-Chí-Tôn sẽ ngó thấy Đức-Chí-Tôn không dùng quyền Chí Tôn của Ngài. Ngài đến đặng lập quyền cho con cái của Ngài mà thôi, không phải đến lập quyền hành hoặc bảo-vệ con cái của Ngài, Ngài không thế gì để cho con cái Đức-Chí-Tôn lạm quyền đặng.
Cơ quan giải-thoát là phụng sự, dầu cho quả kiếp mà đến cũng vậy; dầu cho vì học hỏi mà đến cũng vậy; dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng ta phải phụng sự cho Vạn-Linh mới được, trong phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả kiếp nơi nào, người nào, nhưng nhờ phụng sự ấy mà mình gặp được người mình muốn trả nợ tiền-khiên, biết đâu nhờ hồng ân Đức-Chí-Tôn định cho mình gặp đúng người để đặng trả. Tóm lại, cũng phải phụng sự mới có.
Bây giờ về học hỏi thì chúng ta muốn gì ? Muốn biết mọi điều về huyền vi cơ-tạo, muốn biết cho đặng thì phải phụng sự cho Vạn-Linh mà thôi; rồi trong phụng-sự ấy nó sẽ chỉ điều cho chúng ta muốn biết mà lập vị, và có gì hơn thay thế cho Đức-Chí-Tôn mà phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thế gì ai chối cãi được.
Muốn làm cho đặng như Đức-Chí-Tôn đã làm ta phải làm gì ? Ngài biểu chúng ta hiến ba món báu trong mình chúng ta là Tam-Bửu.
1. - Xác thịt
2. - Trí não
3. - Linh hồn
Tức nhiên thân thể và phàm thể của chúng ta, Đức-Chí-Tôn biểu ta hiến cho Ngài đặng Ngài phụng sự cho Vạn-Linh.
Chúng ta thấy gì ? Mỗi ngày ta kêu Đức-Chí-Tôn làm chứng, kêu Tam-Giáo làm chứng, giờ phút này con nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy đặng Thầy làm lợi khí mà phụng sự cho Vạn-linh. Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có trả nợ tiền khiên chớ không có tạo nữa; nếu có tạo mà giờ phút này mình đến Đền-Thánh này đây, ngồi trong lòng của Đức-Chí-Tôn đứng trong phần tử Thánh-Thể của Ngài tình cờ mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình không biết duy chủ nữa mà chính Đức-Chí-Tôn duy chủ, vì mình giao cả thân-thể mình nơi tay Đức-Chí-Tôn thì mình không còn biết gì nữa.      Ngày kia mình có thể nói mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao cả trong tay Đại-Từ-Phụ, quyền hạn xử định do nơi tay Thầy chớ con không biết.
Mình giao cả hình hài đó cho Ngài xử dụng, nếu sự thật có gì không hay xảy tới cho mình, mình không hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức-Chí-Tôn đặng Đức-Chí-Tôn phụng sự cho vạn linh quyền xử dụng ấy do Đức-Chí-Tôn quyết định, mình đừng làm trái với mặt luật của Ngài định.
Ấy vậy, mỗi ngày từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya tới sáng, mình vô Đền-Thánh kêu Đức-Chí-Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng-liêng mà phân chứng trước. Thân tôi không còn của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức-Chí-Tôn làm tôi tớ cho Vạn-Linh thay thế cho Đức-Chí-Tôn, giờ phút đó chúng ta không biết tội nào chúng ta đã làm dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt không thể gì định tội được. Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta; mà chúng ta không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta tức nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát, quyền ấy chính của ta chớ không phải của Đức-Chí-Tôn. Lấy quyền của ta mà cho ta, mình đã định quyền cho mình, chớ không phải Ngài định; Ngài định cho có quyền giải thoát, quyền Thiêng-Liêng không có tạo, chính ta tạo quyền giải thoát đó do nơi ta mà thôi.
*  *  *

10. - Thánh-thể là gì ? Tại sao lấy Tam-bửu làm Thánh-thể ?
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh .
đêm 11 tháng 6 Năm Kỷ-Sửu.

THÁNH-THỂ LÀ GÌ ?
TẠI SAO LẤY TAM-BỬU LÀM THÁNH-THỂ ?

Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự liên quan Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo. Trước khi Bần-Đạo giảng tại sao Đức-Chí-Tôn lập hình thể hữu-hình đặng Ngài tạo Đạo.
Đêm nay Bần-Đạo giảng đặng cho cả thảy đều hiểu rõ Thánh-Thể làgì ? Tại sao lấy Tam Bửu ấy là trong người của ta để làm Thánh thể, cả thảy Tam bửu là có một, mà một do ba người hiệp nhứt, cũng như Càn-Khôn Vũ-Trụ sản xuất ba quyền Phật, Pháp, Tăng trong đó có ba người, nhưng trong ba người chỉ có một là Đức Chí Tôn mà thôi.
- Người thứ nhứt là ta hay là thể chất tức-nhiên thân-thể của ta đây.
- Người thứ nhì là chơn-thần tức là trí-não của ta hay là pháp thân; Pháp thân ấy do nơi Kim-Bàn phát hiện, tức nhiên do nơi Phật-Mẫu sanh đẻ ra đó vậy.
- Người thứ ba là chơn linh tức linh-hồn của ta hay linh-thể của chúng ta do nơi Đức-Chí-Tôn sản-xuất, ba món ấy hiệp lại mới thành người. Linh thể của chúng ta từ trước Đạo-Giáo của nhà Phật do Ấn-Độ sản-xuất, tức-nhiên Đức-Phật Thích-Ca đã minh tỏa thể-chất có ba người, Ngài gọi nguyên chất là ( Égo ) người thiệt của chúng ta, tới chừng đem qua Bắc Tông rồi, tức-nhiên họ qua Nho Giáo. Nho-Giáo không có tên mới đặt linh-thể ấy là Tâm lấy tâm đặt tên chơn-thể, chữ tâm ấy do tướng-hình Thiên Lương vi bổn.
Một vật hễ sản-xuất tại mặt địa-cầu nầy đứng trong khuôn-khổ Đạo-Giáo tức nhiên Thiên-Lương của mình, Thiên Lương ấy không tướng hình nên để chữ Tâm. Ấy vậy, chữ Tâm ở bên Bắc-Tông Phật-Giáo tỏa hình Linh-Thể của chúng ta đó vậy, tức nhiên tỏa hình chơn linh của chúng ta, do nơi Đức-Chí-Tôn sản xuất. Ấy vậy ba người trong thân thể chúng ta đang gánh chịu đó; khi được hình rồi, có hiện tượng tại mặt thế này rồi thì chúng ta ngó thấy chúng ta có ba mối nợ.
Mối nợ của cha mẹ thân sanh ra ta, sản xuất ra ta, là mối nợ trước phải trả. Nếu khi ta đoạt kiếp được, lập vị Thiêng-liêng của mình đặng vô cửa Thiêng-liêng Hằng Sống mà đàng sau lưng của mình có mang ba mối nợ thì vô cửa ai cho, phải trả cho rồi mới vô đặng.
Vì cớ cho nên Đức-Chí-Tôn biểu mình phụng-sự cho Vạn-Linh, đặng trả nợ thi hài của mình, tức nhiên trả nợ máu thịt của mình, nợ ấy ta nhận là công chánh hay oan khúc cho ta ? Thì chúng ta ngó thấy nó rất công-chánh, một giọt Máu, một điểm Tinh của chúng ta thọ nơi phụ mẫu chúng ta, rồi cha mẹ của ta đã thọ của người trên trước nữa, cũng một giọt Máu, cũng một điểm Tinh mà tạo nên thi hài. Cha mẹ đã thọ nơi Ông Bà Tổ Phụ của chúng ta, rồi giọt Máu, điểm Tinh ấy truyền thống cho chúng ta, ta phải chịu khi ấy phải trả, mà trả thì phải khổ cho ta lắm, nếu chạy thì cha mẹ chúng ta phải trả.
Rồi khi cha mẹ sanh ra ta, ta phải nhờ ai mà sống, nhờ ai mà nên người, nhờ ai mà có. Chúng ta sản xuất tại mặt thế gian này tức nhiên nhờ xã-hội nhơn-quần, nhờ ăn mới sống thi-hài thân-thể mới giữ đặng giọt Máu, điểm Tinh, để truyền thống ? Trả đủ nợ ấy cho xã-hội nhơn-quần mới về cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống được. Quả nhiên chúng ta thiếu nợ hay là Tổ Phụ Ông Bà chúng ta thiếu nợ nên chúng ta phải trả; muốn trả phải phụng-sự cho xã-hội nhơn-quần. Đức-Chí-Tôn coi trọng hệ nhứt, nên Ngài mới lập trường công quả này đây. Chỉ có làm công quả nơi của Đạo Cao-Đài nầy mới trả hết số nợ đó mà thôi.
Tiếp sau đây Bần-Đạo sẽ giảng tại sao có mở trường công-quả trong thời buổi này ? Ấy là nơi để chúng ta tạo công, rồi lấy công trả nợ máu thịt mà trả nợ máu thịt tức trả cho xã-hội nhơn-quần đó vậy.
Phụng thờ Tổ-Tiên Ông Bà và Song Thân đó, do Đạo Nhơn Luân Vi Bổn. Mang nợ máu thịt ấy phải trả tức-nhiên làm công quả để lấy công quả trả nợ máu thịt đó vậy.
Xã-hội chúng ta vẫn thấy từ thử đến giờ, chúng sanh vẫn chạy nợ, dầu muốn dầu không họ vẫn trốn nợ bất kỳ là nợ gì ? Cho nên Đức-Chí-Tôn vi chứng rằng: Bây phải trả nợ mà bây đã vay từ trước. Ngài truyền tức nhiên Ngài truyền cho xã-hội nhơn-quần, vì trong Thiên Tánh của Ngài định cho chúng ta trả nợ, mà muốn cho ta dể trả nợ Ngài bảo chúng ta phải làm thế nào ? Chúng ta duy có phụng sự mà thôi. Vì cớ cho nên Ngài lập Đạo là vậy. Trả nợ nhơn-quần xã-hội rồi mới chỉ có một mối, còn hai mối nợ nữa phải trả chớ, nợ của người sản-xuất ra chơn-thần, là Mẹ đẻ pháp thân tức nhiên Phật Mẫu đó vậy.
Bây giờ Đức-Chí-Tôn Ngài đến đặng Ngài nhìn nhận con cái của Ngài. Đức-Chí-Tôn bảo Đức Phật-Mẫu bà là chủ nợ Bà phải đòi, kêu chúng nó đến trước mặt Bà mà trả cho Bà. Bà đừng để cho nó thiếu nợ mà nó giải thoát không đặng. Ngài đến mở Đạo nhìn chúng ta là con cái; con cái của Ngài nhìn chủ nợ là Bà, thì chúng ta phải trả, vì cớ cho nên chúng ta thờ phượng Phật-Mẫu là vậy. Chúng ta đến bái lạy Ngài thì chúng ta cũng nguyện dâng cả thi hài, chơn-thần và chơn-linh của ta đặng làm môi giới cho Ngài tạo Đạo, cũng như Đức-Chí-Tôn vậy. Chúng ta trả nợ Đức-Chí-Tôn ra sao thì đối với Phật-Mẫu cũng như thế ấy.
Còn nợ thứ ba nữa là: Nợ đối với Đức-Chí-Tôn. Ngài đã ban cho ta một điểm Chơn Linh của Ngài, tức nhiên chúng ta do nơi Ngài mà sản xuất. Linh Tánh của chúng ta Linh hơn vạn-vật, vì có tánh Trời ở trổng.
Bần-Đạo thuyết minh rằng: Con thú này có Ông Trời ở trổng. Oång đồng sống với nó. Có Ông Trời đồng sống trong Tánh Linh ấy, mà muốn trả nợ với Đức-Chí-Tôn do nhứt điểm chơn-linh của Ngài sản-xuất thì chúng ta phải làm như Ngài đã làm, đặng kế nghiệp cho Ngài, mà làm như điều của Ngài đã làm. Ở chúng ta không thể gì định được sự trả nợ của các Ngài, sự làm của Ngài có ảnh hưởng thanh túy, tức nhiên là hy-sinh Vạn-Linh mà phụng-sự Vạn-Linh. Chúng ta phải học ở Ngài, cái tánh chất mà Ngài đã làm để chúng ta phụng sự cho Vạn-Linh, như Ngài đã phụng-sự chúng ta thấy trước mặt không thể gì chối cải đặng. Chúng ta thiếu nợ Nhứt Điểm Linh, chúng ta muốn trả nợ phải trả như Ngài; mà muốn trả nợ Vạn linh Ngài phải làm tôi tớ cho Vạn-Linh. Chúng ta vẫn ngó thấy, chúng ta muốn trả nợ cho Ngài thì chúng ta phải làm tôi-tớ cho Vạn-Linh như Ngài đã làm. Chúng ta phải làm Thầy Vạn-Linh như Ngài đã làm Thầy của Vạn-Linh.
Chúng ta trả ba món nợ ấy được rồi, tới ngày chúng ta giải thể của chúng ta, trở về cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống nhập vô Niết-Bàn-Cảnh, không còn ai níu lưng nữa. Phải trả nợ ấy rồi mới vô bởi vì chúng ta đã trả rồi.
*  *  *
11. - Sự phản-khắc giữa Đạo và Đời .
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh .
đêm 18 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu.

SỰ PHẢN-KHẮC GIỮA ÐẠO & ĐỜI

Trước khi Bần-Đạo thuyết về Bí-Pháp chơn truyền của Đạo, Bần-Đạo đã kết luận cái phản khắc Đạo-Pháp, Thể-Pháp, tức nhiên sự phản khắc của Đời và Đạo. Sự phản khắc ấy do nơi Nguyên-khí mà ra, không phải vì Nguyên-khí trong Vạn-Linh mà thôi, Nguyên-khí của vạn loại nữa. Chính Nguyên-khí ấy trong mình của chúng ta đã chuyển xuất ra vậy.
Bần-Đạo cần thuyết cái thi-hài này lấy triết-lý chớ không phải lấy bí-truyền mà luận, thì thi-hài chúng ta đã có nơi mặt địa-cầu này, do nơi nguyên-căn vật dục xuất hiện ra, tức nhiên trong Thất tình nó đi đến cái tình chót hết là tình quyết-định, tình duy chủ, cả mối tình kia thường phản-khắc nhau còn cái tình Dục cốt-yếu duy-chủ định hướng của nó mà thôi.
Chúng ta ngó thấy trong Vạn-Linh nó chia ra hai phần chơn hồn: Tiểu-Chơn-Hồn và Đại-Chơn-Hồn. Tiểu-Chơn-Hồn chia ra làm ba thuyết, mà Tối-Tiểu là Vật-Chất-Hồn, Thảo-Mộc-Hồn và Thú-Cầm-Hồn nó thuộc Tiểu-Hồn.
Nhơn-Hồn thì có thứ Tiểu và có Đại tức-nhiên tình dục định phận nó, muốn Tiểu thì Tiểu, muốn Đại thì Đại.
Đại-Hồn là Thần, Thánh, Tiên, Phật bốn cái Đại-Hồn định Thiêng-Liêng vị cho cả Vạn-Linh. Chúng ta ngó thấy trong mình chúng ta có Thần, có Thú; vì cớ cho nên triết-lý Thất-Tình định duy-chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo tình dục của nó. Bây giờ trong thân thể của chúng ta, trong nguyên-bổn của chúng ta, vẫn thường chiến đấu, Phật chiến đấu với thú, thú chiến đấu với Phật.
Hai hình-trạng của Đời và Đạo, Đạo xu-hướng theo Phật, Đời xu hướng theo Thú. Hai tương-quan phản-khắc ngang nhau, vì cớ cho nên thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật nó hay tương-đối với nhau. Tình-dục duy-bổn thì thấy trong mình nếu chúng ta muốn thành Phật thì chúng ta làm đặng, muốn đi theo Phật lập-vị mình thì trong Đại-Hồn giúp ta làm đặng. Hay là tình dục ấy muốn đi theo đám Tiểu-Hồn, vì ảnh hưởng trong cá nhân ta mà ảnh hưởng ấy chẳng phải của chúng ta mà thôi. ! Chúng ta ngó thấy trong Vạn-Linh nó có hai con đường đi đặc biệt, không thế gì chối cãi được, thành thử cái phản-khắc tương liên của Đời và Đạo nó đi từ trong cá-nhân của chúng ta mà ra cho tới xã-hội nhơn-quần. Nhân-loại phản-khắc ấy không thể gì tưởng được. Từ thử tới giờ lập-vị Phật như Đức-Phật Thích-Ca cũng chưa giải quyết được; Đức-Chí-Tôn đến kỳ này chúng ta thử hỏi giải quyết hay không ? Cũng phải giải quyết chớ, Ổng đến vạch ra lẽ Phật với Thú ấy để chán chường trước mắt. Con cái của Ổng, Ổng biểu lấy trí khôn-ngoan, lấy huệ khiếu của mình làm môi giới, tùng theo Nguơn Linh làm căn-bản.
Định Phật, muốn Phật, sẵn được Phật; muốn thú được thú, Ông chỉ hai con đường rõ rệt để cho con cái của Ổng quyết-định cho mình. Sự tương-tranh tương-đấu bây giờ trong các xã-hội nhơn-quần trong mặt địa-cầu này, đương nhiên bây giờ cũng tấn tuồng ấy làm hình trạng của nó ra lớn vĩ-đại, chúng ta không để ý mà thôi. Muốn tìm tàng chơn-lý thì rõ-rệt không có gì lạ lùng hết.
May sao, giờ phút này nhơn-loại đương bị trong thảm cảnh khốn-khổ không biết chừng nào; thảm cảnh ấy xô đến cảnh diệt vong của họ nữa mà chưa giải quyết được, vì cả tinh thần bên Phật yếu ớt bên Thú đương tráng kiện, hùng hổ dữ tợn, mà bên Phật thì yếu ớt quá. Đạo Phật truyền tại mặt địa-cầu này đương nhiên bây giờ vô giá trị; mà hể Đạo hết quyền tức nhiên con vật kia không có kỷ cương muốn chạy đâu thì chạy, muốn làm gì thì làm; muốn làm ngần nào thì đặng ngần ấy; nếu không duy chủ đặng nó, tánh đức không mực thước, không chuẩn thằng, không biết định phận mình thì sẽ xô đẩy đến cảnh diệt vong chớ không có gì lạ hết.
Bởi vậy cho nên Đức-Chí-Tôn đến kêu gọi cả toàn nhơn-loại chỉ con đường diệt vong trước mắt, khôn thì dừng bước lại để biết lấy phận mình đứng mực nào, rồi mình mới phân định được. Bí-Pháp chơn-truyền Bần-Đạo thuyết không gì khác hơn là chỉ đường, biết giá trị mỗi cá nhân, mình biết mình. Nếu vị Hoàng Tử con của Ông Vua kia lên ngôi Cửu-ngũ trị vì thiên hạ mà không biết giá trị tương lai làm Chúa thì tưởng lại họ như kẻ thường dân hèn-hạ, họ tập thành theo tánh đĩ thõa, điếm-đàng buông lung, thì chẳng khi nào làm Vị Đế Vương xứng đáng đặng. Mình phải biết địa vị mình thế nào, rồi mới thi-hành theo khuôn-luật định của mình, Bí-Pháp chơn truyền là vậy.
Ngày giờ nào cả con cái Đức-Chí-Tôn biết đoạt Pháp, biết mình, biết định phận cho mình, biết ngôi vị của mình, biết giá trị của mình là giờ ấy trật tự an ninh trong cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống Đức-Chí-Tôn để tại mặt thế này, tức nhiên trong cửa Đạo đây mới thiệt giá trị.
Giờ phút này ngó thấy tấn tuồng hỗn độn, con người họ tưởng Đạo Cao-Đài như Thầy Chùa, Thầy Pháp, Bóng-Chàng, nói cái nào cũng được, vì cớ mới có Đảng-Phái dám cả gan bày ra Tả-Đạo Bàn-Môn…Nếu biết đâu dám làm, vì họ lầm tướng diện của họcho nên ngày nay mới có cái cảnh tương tàn đánh sát họ kia kìa,bằng đi tới nữa thì không còn chơn tướng nào tồn-tại được.
Ấy vậy, Bần-Đạo đã nói rõ, bây giờ có một điều trọng yếu không lẽ trong cái Bí-Pháp chơn-truyền nói cho mấy người nghe mà thôi, mấy người được đặc ân gì mà hưởng riêng như vậy.
Kể từ đây đến sau, họa may Bần-Đạo có thuyết, là thuyết trong ngày Sóc-Vọng mà thôi, hễ đi cúng nhiều thì nói, bằng không thì thôi. Còn nữa, nếu con cái Đức-Chí-Tôn còn làm biếng đi cúng nữa thì vô nhà tịnh rồi sẽ hay chớ không thuyết nưã.

*  *  *

12. - Sự vận-chuyển không ngừng của Bí-pháp tạo dựng Vũ-trụ và Con người.
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh.
đêm 29 tháng 07 Năm Kỷ-Sửu.

SỰ VẬN-CHUYỂN KHÔNG NGỪNG CỦA BÍ-PHÁP
TẠO-DỰNG VŨ-TRỤ & CON NGƯỜI

Đêm hôm nay Bần-Đạo khởi giảng tiếp Bí-Pháp chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn.
Trước khi chúng ta muốn hiểu, cái huyền vi của Bí-Pháp ấy thì chúng ta phải tìm coi con người của ta đây có chịu ảnh hưởng với Thể-Pháp ấy thế nào, và ta là gì trước đã.
Ta là gì ? Và có trọng hệ trong cơ-quan bí-mật, Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ, và tạo hình thể chúng ta có tại mặt thế này, nguyên do đâu sản-xuất ? Chúng ta đã ngó thấy Đức-Chí-Tôn đến Ngài để trước mặt chúng ta một cái huyền-bí tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bần-Đạo thuyết về " Tam-Bửu" tức nhiên là:
1/- Thi-Hài
2/- Chơn-Thần
3/- Chơn- Linh.
Đức-Chí-Tôn gọi chung là xác thân. Chơn-thần và chơn-linh, Bần-Đạo xin nói quả-quyết rằng: không có một vật-loại nào trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này mà không do quyền năng vô-tận của Đức-Chí-Tôn sản-xuất. Cái nguyên do thế nào chúng ta đã ngó thấy; vạn-vật trong Càn-khôn Vũ-Trụ này phải hoạt động mãi thôi không ngừng, nó nhờ hoạt động chuyển luân mà tấn hóa mãi mãi.
Vạn-vật trong Càn-Khôn Vũ-Trụ dù trái địa-cầu thấy trước mắt hay địa cầu chúng ta đương cư ngụ đây, phải vận hành luôn; ngưng là chết mà cả vạn-vật loài người cũng phải vậy. Nó có lưu động là nhờ khí nổ Thái-Cực buổi nọ, Thái-Cực nổ thành khối lửa; khối lửa nổ trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hiện ra muôn muôn triệu triệu ức quả địa-cầu trong Càn-khôn Vũ-Trụ. Quả cầu ấy nguội lại thành địa-cầu chúng ta đương ở đây, là quả địa-cầu 68. Quả cầu ấy là vậy.
Bần-Đạo nói thật không có vật loại nào, chúng ta nam nữ cũng vậy, cũng đồng trong khối chất ấy mà biến ra; Bần-Đạo đứng giữa tòa giảng này, nói tất cả đều chịu ảnh-hưởng Thái-Cực đó định mà có. Ngày giờ chúng ta chết, chúng ta trở về Nguơn khí vô cùng vô-biên ấy, cũng do nơi quyền-năng vận-chuyển của Thái Cực. Cái Nguơn-Linh của chúng ta cũng do quyền năng Thái-Cực mà nó nắm cả Nguơn-linh tạo nghiệp ấy trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Cả cơ-quan hữu-hình, nó tạo Bí-Pháp vô-biên là chuyển luân trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hoặc là chuyển luân hình thể, hoặc là chuyển luân Ngươn khí, hay chuyển luân Bí-Pháp Thiêng-Liêng của Ngài.
Ấy vậy, Bần-Đạo khởi giảng trong ba món bửu-bối chúng ta là gì? Thi-hài chúng ta đồng mạng như sống theo vạn-vật hữu-hình là vật thú; thật sự nó vậy chớ không gì khác hết; nếu chúng ta kiếm theo cái phương pháp " Cách vật Trí-tri " chúng ta đã ngó thấy quả quyết rằng: con người chúng ta không có gì khác hơn con Khỉ, con Chó, con Bò, con Trâu, thật sự nó vậy.
Duy có một điều trọng hệ hơn hết là do nơi quyền năng Tạo-Đoan của Đức-Phật-Mẫu đã tạo chơn-thần chúng ta và hình thể chúng ta, khi con người mới thai-bào. Con tinh trùng (spermatozoaire) ở trong Nguơn khí Cha nhập vào lâm bồn của Me,ï kết hợp với noản châu (ovule) của Mẹ; dương trùng của cha tạo biến thành hình hài xương cốt chúng ta, còn noản châu của Mẹ chúng ta biến ra máu thịt của chúng ta đó vậy; hai vật ấy phối hợp lại với nhau thành tượng biến hình hài.
Hai cái tinh trùng và noản châu hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng tinh-trùng đơn-sơ, khi nhập vào làm một. Cái buổi tượng hình của chúng ta thì chơn-thần của chúng ta còn ở ngoài thân, ngoài cốt hài của hài chúng ta; nó vơ-vẩn hoặc là quanh theo bà Mẹ chúng ta ở dựa bên, nhứt là bà Mẹ đi nơi nào nó đều theo nơi đó. Chơn-thần đến theo người Mẹ có chửa, nếu người Mẹ có Đạo-Đức dám chắc đi đâu chưa có sự gì rủi ro đến đổi thiệt-hại, bởi cớ cho nên đứa con theo mãi, theo cho đến khi tượng hình chúng ta ra khỏi lòng bà Mẹ, chơn-thần ấy mới nhập vô ảnh-hài đó làm khuôn-viên cho ảnh-hài đó.
Tượng hình khuôn-khổ chơn-thần Đức Phật-Mẫu đã tạo cho nó đi bực Tiểu-Hồi nó đi trong thú chất không có chơn-thần nào tạo nhứt phẩm liên-hoa mình cho trọn vẹn.
Họ có can-đảm dám đầu kiếp từ vật-loại đi lên, tạo đến Phật-Vị đặng tạo nhứt phẩm liên-hoa. Phật-Mẫu tạo ra họ buộc họ phải quên cả kiếp trước, bỏ cái cũ nhập vô cái mới đi từ Tiểu-Hồi Vật-hồi đến Nhơn-Loại. Chơn-Linh ấy biết làm người rồi đó, làm cũng như khuôn-khổ chúng ta biết vậy. Ngộ-nghĩnh thay nếu chúng ta ngó thấy tinh-thần chúng ta đầy-đủ Đạo-Đức chừng nào thì chơn-thần ảnh-hài càng ngày càng đẹp càng tăng tiến.
Bởi thế Tiên-Nho chúng ta có nói: rủi sanh chỗ bất phước: Tiên-Nho ta cho rằng: kiếp tu không có dễ dàng, ít có người tu thiệt tâm-tu, nếu tinh-thần đầy đủ là kiếp sanh mình tạo đầy đủ Đạo-Đức, mỗi kiếp tu của chúng ta mỹ-miều đẹp-đẽ lắm.
Hại thay !!! Chúng ta đã ngó thấy trong nhà Phật, chúng ta quả quyết rằng: những chơn-thần nào bị tội đọa xuống phong-đô trong Kim-Bồn Phật-Mẫu xuất hiện thế nào mà bị đọa xuống cửa Địa-ngục rồi hại thay! Quả kiếp ấy Quỉ-quái thì thành Quỉ-quái không thoát.
Cả tinh thần ấy biến tướng do Nguơn-linh mà ra, vì Nguơn-linh không đủ quyền năng tạo dựng. Tạo dựng Nguơn-linh ấy phát động thế nào, thì Nguơn-linh biến động ra thế ấy. Loài người ở tới chừng nào đoạt-được Đạo nơi mặt đia-cầu này mới thôi.
Kể từ ngày có nhơn-loại nơi mặt địa-cầu - này đến nay chừng một ngàn năm trăm triệu năm nếu đoạt được phẩm vị, đó là nhơn-phẩm chớ không phải là giả-nhơn; chịu trong phẩm giả-nhơn ít nữa một trăm triệu năm, xác thịt họ mới có phương thế dung-nạp nguơn linh Đức-Chí-Tôn.
Chơn-Thần Phật-Mẫu đến theo loài người từ buổi mới tạo ra loài người, còn Nguơn-Linh Đức-Chí-Tôn đến loài người chừng năm chục triệu năm Nguơn linh có trong thân thể của loài người. Đức-Chí-Tôn đến sau chớ không đến trước như Đức Phật-Mẫu. Khi mẹ chúng ta sanh ta ra, nuôi gần năm sáu tuổi cũng chưa biết cha là gì; chưa biết theo cha, nghe hiểu nhìn cha là gì; bảy, tám, chín, mười tuổi mới biết. Buổi ban sơ loài người cũng thế đó.
Phật-Mẫu sanh ra chỉ biết nuôi nấng theo bực Tiểu-Hồi, chớ Đại-Hồi chưa có. Ngày giờ có Đại-Hồi là Đức-Chí-Tôn giáng linh trong thân-thể loài người.
Thánh-Giáo Gia-Tô nói: hình-hài người là đất, Ngài nắn Ngài thổi ra mới biến người. Không phải vậy đâu; nếu nói thân-thể con người thú chất là đúng, duy có Đức-Chí-Tôn đến ở cùng nó mới là Thánh thôi.
Đức-Chí-Tôn ở cùng nó thì là Đại-Hồi (Ego) chớ không phải Tiểu-Hồi (Monad).
Bây giờ ta sống với cái Nguơn-linh mà cái Nguơn-linh xác thịt ấy là Phật và thú; chơn-thần chúng ta làm trung-gian cho thi hài, làm trung gian cơ cũng như làm thông ngôn cho Chơn-linh và xác thịt chúng ta vậy.
Bần-Đạo lấy cái thí-dụ trắng như: cái máy bay, cánh đuôi và mình là xác thịt, cái chong-chóng quây đi được đó là chơn-thần. Người cầm lái điều khiển cho vận hành là cái linh-tánh định cái sống đặc biệt nó là Ngươn-linh.
Bần-Đạo nói lại nữa: cái máy bay, mình, đuôi nó chẳng khác chi như xác chúng ta, chong-chóng quây chạy đó là chơn-thần; người cầm máy làm cho máy bay vận hành theo ý người muốn là Nguơn-linh đó vậy.
Muốn hiểu Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn thì xem cái xác thịt của chúng ta và chơn-thần của chúng ta phải chịu ảnh-hưởng thế nào thì cái Bí-Pháp thế ấy. Linh-hồn trúng là chơn-pháp, trật là giả-pháp.
Kỳ tới Bần-Đạo kết vô Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn.

*  *  *

13. - Bí-pháp Hội Yến Diêu-Trì Kim-Mẫu
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 15 tháng 08 Năm Kỷ-Sửu , Lễ Hội-yến Diêu-Trì Kim-Mẫu.

BÍ-PHÁP HỘI-YẾN DIÊU-TRÌ KIM-MẪU

Hôm nay là ngày Lễ kỷ-niệm Bí-Pháp, Bí-Pháp Hội-Yến Diêu-Trì. Đức-Chí-Tôn đã lập trong nền chơn-giáo của Ngài, Bần-Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức-Chí-Tôn hiểu rõ cái huyền-vi bí-mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ-quan đoạt Đạo chúng ta tại mặt thế-gian này. Hơn nữa Bần-Đạo có phương-tiện tỏ ra một đức-tin dị thường của một Đấng yêu-ái, một Đấng tạo Càn-khôn Vũ-Trụ, Đấng Tự-Hữu Hằng-Hữu , Đấng quyền-năng Vô-tận vô-biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái tâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đoạt-đặng đức-tin phi-thường ấy, năm Ất-Sửu tức-nhiên năm một ngàn chín trăm hai mươi lăm (1925), Đức-Chí-Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần-Đạo không dám nói. Ngài đến cũng làm bạn Thượng-Phẫm và Hộ-Pháp. Tháng 2 năm ấy Ngài dùng cơ bút huyền-diệu của Ngài, Ngài dạy vọng Thiên-Bàn Cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể tưởng tượng đây là một cử chỉ ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải để một dấu hỏi; hỏi tại sao buổi ấy Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp có một đức-tin vững-vàng nghe theo lời Ngài vọng Thiên-Bàn Cầu-Đạo. Điều mà chúng ta không thể tưởng-tượng, đây là một cử-chỉ chung chớ không phải cá-nhân Thượng-Phẩm hay Hộ-Pháp mà lời huấn-giáo của Ngài cốt-yếu để cho toàn thể nhân-loại nơi mặt địa-cầu này nhứt hơn hết là nòi giốngViệt-Nam chúng ta.
Bần-Đạo nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương-Hiếu là người bạn Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để, một đức-tin vững-vàng làm sao đâu ? Không thể sợ đặng; không còn biết vị-kỷ nhục-nhã chi hết; giữa khoảng đường nơi Châu Thành Sài-gòn thiên-hạ tấp-nập mà Đức-Chí-Tôn buộc phải quỳ ngoài đường dựa bên lề ấy, quỳ đặng cầu-nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay !!! Ngài thử thách cho đến nước thoảng như mình quỳ đó mà thiên hạ không hiểu mình quỳ làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng có thể quỳ, còn làm mà người biết thì nhột-nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức-Chí-Tôn phải rán mà làm.
Ngoài ra có Ông bạn ai cũng đều biết danh của người là nhà thi sĩ danh tiếng; Bần-Đạo dám chắc nội trong Nam-Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nổi danh thi sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi-phú của Đức-Chí-Tôn quá chừng quá đổi, đến nước người thuộc lòng thi-phú của Đức-Chí-Tôn rồi người họa lại với Đức Chí Tôn, người làm như mê-man vậy. Bần-Đạo thì nhột-nhạt, duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi-hành, quyền giáo-hóa của Đức-Chí-Tôn, còn người " Thi sĩ Bồng-Dinh" họa theo đó mà ngâm, thiên-hạ thấy tấn-tuồng dị-hộm tụ lại xem đông lắm. Trước để một cái bàn vọng thiên cầu Đạo, ngay chính giữa coi bộ dị-hộm lắm, Bần-Đạo mới gát hai tay lên cho đở mắc cỡ, vừa gát tay lên thì cái bàn quây gõ nói chuyện.
Các Đấng Thiêng-Liêng đến không biết bao nhiêu, đến các Vị Giáo-Chủ cũng xuống giảng dạy chúng ta và làm nhiều kiểu lạ lắm: cũng lúc này Đức-Chí-Tôn đã giáo hóa khá lâu, các Đấng Thiêng-Liêng cũng đến cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp, tuy mới mà đủ đầu óc có một đức-tin vững-vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: tuy buổi ban sơ mà dường như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi; nên Đức-Chí-Tôn mới ra lệnh biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình; đãi 10 người: Đức Phật-Mẫu và Cửu-Vị Tiên-Nương. Phần hữu-hình có 3 người Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu vâng mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật-Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đải người hữu-hình vậy; duy có 3 người có xác thịt là Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp. Bần-Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì ? Ngài nói là Hội-yến Diêu-Trì, Bần-Đạo nghe nói vậy thì hay vậy chớ không biết giá trị Hội-Yến là gì cả. Nghĩ chắc cũng có ảnh-hưởng gì cần-yếu đến tương-lai của Đạo mà vâng lịnh thôi. Chớ không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.
Ba người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Phối-Sư Hương-Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức-Phật-Mẫu cũng như người sống kia vậy.
Bần-Đạo còn nhớ một chuyện lạ-lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết, giờ biết Đạo mới hiểu Đức-Chí-Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần-Đạo; bây giờ Bần-Đạo không dám nói lại, Ngài đến làm bạn cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp.
Chừng Hội-Yến Diêu-Trì rồi các Đấng Thiêng-Liêng và các Vị Giáo-Chủ ra từ giã (thăng) kế Đức-Chí-Tôn đến nhập cơ. Thượng-Phẩm và Bần-Đạo tọc-mạch hỏi:
- Khi nãy Diêu-Trì-Cung đến có Ngài đến ở đó không?
Đức-Chí-Tôn trả lời:
- Có chớ, ta ở đây từ khi ban-sơ đến giờ.
- Ngài có thấy Diêu-Trì đến không ?
- Có chớ, chính mình ta tiếp đãi !
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Diêu-Trì-Cung ngó thấy Ngài không ?
- Không ngó thấy.
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Sao vậy ?
Ngài trả lời:
- Ngài dùng phép ẩn thân.
Bần-Đạo tọc mạch hỏi tiếp:
- Như đứa em của tôi là Thất-Nương Diêu-Trì có thể đoạt đặng chăng?
- Đoạt đặng chớ !
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Phải làm sao ?
Ngài nói:
- Phải tu, bằng không tu thì chẳng đoạt đặng.
Bần-Đạo hỏi:
- Tu chừng bao lâu mới đoạt đặng ?
Cái đó Ngài làm thinh. Bần-Đạo hỏi một năm, năm năm, một ngàn năm, mười ngàn năm, một trăm ngàn năm…,Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đoạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các Vị Nữ Phái rán nhớ Diêu-Trì-Cung, Bần-Đạo có giải nghĩa Hội-Yến Diêu-Trì là gì rồi đó.
Toàn Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn và con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Đạo bị bế Ngọc-Hư-Cung bác Luật, Cực-Lạc Thế-Giái thì đóng cửa nên chúng sanh toàn cả Càn-Khôn Vũ-Trụ có tu mà thành thì rất ít, bởi phương-pháp khó-khăn lắm, muốn đoạt Pháp không phải dễ.
Cổ-Pháp định cho các chơn-hồn về nơi Diêu-Trì-Cung hưởng được Hội-Yến Bàn-Đào tức nhiên hưởng được Hội-Yến Diêu-Trì, ăn được quả Đào-Tiên, uống được Tiên-Tửu mới nhập vô cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi ! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.
Giờ phút này Đức-Chí-Tôn quyết-định tận độ con cái của Ngài thay vì Bí-Pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim-Bàn Phật-Mẫu đặng hưởng đặc ân Thiêng-Liêng của Đức-Chí-Tôn.
Đức-Chí-Tôn buộc Phật-Mẫu phải đến tại mặt thế gian này để Bí-Pháp Hội-Yến Diêu Trì tại cửa Đạo này cho con cái của Ngài giải-thoát, ấy là một Bí-Pháp Thiêng-Liêng duy có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.
Hôm nay là ngày Phật-Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn Vạn-linh sanh chúng; Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm nay ngày Lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo; xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần-Đạo cũng để ý đến Lễ của Ngài hơn hết; từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ này, Ngài đến tại mặt địa-cầu 68 này đặng tận-độ con cái của Ngài.
Chúng ta phải chiêm-ngưỡng ơn vô-biên vô-tận của Ngài. Chúng ta phải chiêm-nghiệm Lễ này để làm mật-niệm cám ơn Đức-Chí-Tôn và Phật-Mẫu ấy là Bí-Pháp của chúng ta đó vậy.
*  *  *

14. - Tại sao Đức Chí-Tôn chỉ giáng bút truyền Bí-pháp cho Hộ-Pháp ?
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 1 tháng 09 Năm Kỷ-Sửu.

TẠI SAO ĐỨC CHÍ-TÔN CHỈ GIÁNG BÚT
TRUYỀN BÍ-PHÁP CHO HỘ-PHÁP

Bần-Đạo hứa mỗi kỳ Sóc-Vọng thì thuyết Bí-Pháp. Hôm nay Bần-Đạo khởi thuyết về Bí-Pháp. Có nhiều yếu tố Bần-Đạo phải minh bạch ra cho toàn con cái của Đức-Chí-Tôn hiểu cái sơ-yếu của Bí-Pháp đối với ta và đối với Đức-Chí-Tôn.
Bần-Đạo khởi giảng cho hiểu tại sao Đức-Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là mở Cơ-quan tận độ chúng sanh ? Đức-Chí-Tôn sai Hộ-Pháp giáng thế; tại sao Ngài không dùng cơ bút để truyền Bí-Pháp cho con cái của Ngài; Ngài chỉ giáng bút truyền cho Hộ-Pháp mà thôi. Vì cớ cho nên bạn của Bần-Đạo nơi Hiệp-Thiên-Đài có lắm người thắc mắc về vụ đó. Không có lạ chi; mở cơ-quan tận độ chúng-sanh tức nhiên là lập một khoa thi sang Tam Chuyển tái phục Thiêng-Liêng vị nơi cảnh vô hình; mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa-mục của các Đẳng Chơn-hồn cần phải thi đặng đoạt vị: Thăng hoặc Đọa.
Bởi cớ cho nên Đức-Chí-Tôn gọi là trường thi công-quả là vậy. Đức-Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí-Pháp ấy đặng cho Vạn-Linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức-Chí-Tôn buổi mới sơ khai chưa tạo thiên lập địa, Ngài muốn cho Vạn-linh đặng hiệp cùng Nhứt-Linh của Ngài do quyền-năng sở-hữu của quyền hạn Thần-Linh.
Ngài vừa khởi trong mình quyết-định thi-hành điều ấy thì Ngài nắm cái Pháp. Trước Ngài chỉ là Pháp, vì cớ cho nên ta để Phật tức nhiên là Ngài; kế thứ nhì là Pháp hễ nắm Pháp rồi Ngài phán-đoán vạn-vật thành hình; Ngài muốn vạn-vật thành hình tức nhiên Tăng, cả Vạn-Linh đều đứng trong Tăng. Ấy vậy, Pháp là chủ của Vạn-Linh. Bởi do nơi Pháp, Vạn-Linh mới chủ tướng biến hình do nơi Pháp, mới sản xuất Vạn-Linh; Cả huyền-vi hữu-hình Đức-Chí-Tôn tạo Đạo do nơi Pháp. Chúng ta biết Pháp thuộc về hình-thể của Vạn-Linh, vì cớ cho nên Đạo-Giáo minh tỏa rõ-rệt Tam Châu Bát-Bộ thuộc về quyền Hộ-Pháp. (Tam-Châu Bát-Bộ Hộ-Pháp Thiên-Tôn).
Tại sao gọi Tam-Châu Bát-Bộ là: Đông Thắng Thần-Châu, Tây-Ngưu Hóa-Châu, Nam Thiện Bộ-Châu, đều thuộc quyền hạn của Hộ-Pháp, còn Bắc-cù Lưu-Châu để cho các phẩm chơn hồn Quỷ vị nó định phận tại nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền năng vô định chẳng cần chỉ giáo; để đặc biệt một Châu cho Quỷ vị ăn năn tu học đặng đoạt vị; ba Bộ-Châu kia thuộc quyền hạn Hộ-Pháp giáo-hóa, duy có Bắc-Châu Ngài không thường ngó tới lắm, để cho nó tự-do làm gì thì làm, khôn nhờ dại chịu. Bát-Bộ là gì ? là nơi Bát Phẩm chơn-hồn chớ có chi đâu; Tám hồn là gì: là Vật-Chất hồn, Thảo-Mộc hồn, Thú-Cầm hồn, Nhơn-hồn dĩ chí cho đến Thần, Thánh, Tiên, Phật. Tám bộ ấy thuộc về quyền hạn Hộ-Pháp thiên vị nơi Đức-Chí-Tôn gọi đến tạo cơ-quan tận độ chúng-sanh không còn ai khác hơn Hộ-Pháp, chính Hộ-Pháp trách-nhiệm ấy.
Hạnh-phúc thay cho nhơn-loại! Hạnh phúc thay cho Vạn-Linh! Đức-Chí-Tôn đã đem một hồng-ân tối đại để nơi mặt địa-cầu 68 này. Tại sao Đức-Chí-Tôn giao cho Hộ-Pháp ? Bần-Đạo nói thật giờ phút nào Bí-Pháp duy-chủ quyền Đạo là giả tướng mà thôi, không có chơn thật gì hết. Nếu chúng ta tu mà không đoạt Pháp được tức nhiên chúng ta không giải thoát đặng, thì kiếp tu chúng ta không hữu-ích chi hết.
Hộ-Pháp đến cốt yếu đem Bát-Phẩm chơn-hồn Thăng vị: nhiều hoặc ít, có thể một đẳng cấp từ Vật-Chất Hộ-Pháp đem lên Thảo-Mộc, Thảo-mộc đem lên Thú-Cầm, Thú cầm đem lên Nhơn-loại dĩ chí Phật vị, Hộ-Pháp có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền ấy Đức-Chí-Tôn nói trọng quyền thì trọng phạt. Quyền hành nắm chẳng phải nơi mặt thế gian này mà thôi, Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân, không phải quyền tại thế gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao-Đài này, cũng không phải tại đây nữa. Bần-Đạo nói đây là quyền Đạo Cao-Đài cả Thiêng-Liêng Hằng Sống.
Cao-Đài Đại-Đạo cảnh vô hình kia y như lời Tiên-tri của Công-Giáo tức nhiên Thiên-Chúa-Giáo nói: Trên nước Thiêng-Liêng Hằng Sống kia Đức-Chí-Tôn gần đến và đã đến, đến thời buổi này; ấy vậy, bây giờ chúng ta tìm coi cái tương-liên chúng ta đối với Đức-Chí-Tôn, Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta làm gì, và chúng ta đã làm gì ?
Đức-Chí-Tôn muốn ta làm Thi-Hài Hữu-Hình của Ngài, tức-nhiên Ngài đến lập Thánh-Thể của Ngài là Hội-Thánh. Hội-Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài. Muốn thay hình ảnh cho Ngài thì phải đổi cho Ngài cái gì ? Ông đem cơ giải thoát, đem phẩm vị Thiêng-Liêng cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng chúng ta định vị; rồi Oång đòi chúng ta đổi chọn cái gì ? Ổng đòi chúng ta đem đổi ba món Báu là " Tam-Bửu" là Tinh, Khí, Thần. Cái liên-quan mật thiết Tinh, Khí, Thần là gì ? Đối với thi-hài chúng ta nó bảo-trọng thế nào mà Đức-Chí-Tôn đòi đó mà thôi ? Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức-Chí-Tôn tạo thành Thánh-Thể của Ngài đặng. Ngài lấy ba cái vật tỷ như: ba món báu trong mình chúng ta; Hoa, Ngài tỷ như thân-thể chúng ta; Rượu, Ngài tỷ như trí-thức tinh-thần khôn-ngoan của chúng ta; Trà, Ngài tỷ như linh-hồn của chúng ta, mà thật ra trong mình của chúng ta có ba món ấy là báu mà thôi.
Ngộ-nghĩnh thay chúng ta nên để ý điều này. Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta mỗi ngày phải dâng ba món ấy: ba món trọng hệ hơn hết là Tinh, Khí, Thần. Thường ngày chúng ta chỉ lấy Khí, Thần dâng mà thôi, còn Tinh thì Tiểu-Đàn hay Đại-Đàn mới có. Ngài chán biết thi-hài của chúng ta chẳng phải chúng ta làm chủ nếu đòi quả-quyết nó thì nó đi đặng phụng-sự cho Vạn-Linh thì không có làm gì được, nên Oång không buộc mà để cho nó có quyền tự-do định-phận của nó. Nội bao nhiêu đó chúng ta cũng ngó thấy cái lòng Đại-Từ Đại-Bi của Ngài đến thế nào. Thể-chất kia mà Ngài không ràng buộc không ép bức để cho nó định phận, tưởng coi ai có nhân từ đến mức đó không ?.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng tiếp về trí-não và tâm-hồn như thế nào.

*  *  *

15. - Chúng ta phải giữ công-chánh dung-hoà giữa Duy-tâm và Duy-vật .
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 30 tháng 10 Năm Kỷ-Sửu

CHÚNG TA PHẢI GIỮ CÔNG-CHÁNH DUNG-HOÀ
GIỮA DUY-TÂM VÀ DUY-VẬT
(TÂM VẬT BÌNH HÀNH)

Hôm nay Bần-Đạo đình thuyết Bí-Pháp; cái nguyên do như thế nào Bần-Đạo xin biện ra. Vả chăng chúng ta ở trong hoàn-cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật đương chiến-đấu với nhau. Chúng ta dầu Chức-Sắc Thiên-Phong hay là mấy em Nam Nữ Lưỡng-Phái cũng thế. Là một phần tử trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn, Ngài đã tạo tinh-thần cho chúng ta vì sự thương yêu của Ngài nên Ngài lập Thiên-vị tại mặt thế này cho con cái thương yêu của Ngài. Ngài biểu chúng ta ký hòa-ước với Ngài để thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ-bi công chánh của Ngài đối đãi với Vạn-Linh tức nhiên chúng ta phải thay thế hình-ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn-Linh hiệp với Chí-Linh, tức nhiên Ngài cho chúng ta cái sứ-mạng để dung-hòa Đời với Đạo .
Cái lý thuyết Duy-Vật, là cái lý thuyết sống của Đời, còn cái lý-thuyết Duy-Tâm phải chăng là cái sống của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt Duy-Tâm thì phải ? Bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay-thế duy-chủ của Duy-Tâm tức nhiên chúng ta phải ngã bên mé Duy-tâm hơn hết. Vì đã có ký hòa ước với Đấng Chí-Linh kia giữ công-chánh đặng dung hòa tinh-thần Đời và Đạo, vì mức sống ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.
Chúng ta tìm-tàng, chúng ta định ngược lại là có cái lý do này Đạo Cao-Đài không cần dùng mê-tín dị-đoan làm cho sự tín-ngưỡng được mạnh-mẽ của nó, không cần !!! Trái ngược lụng lại đem hết triết-lý chơn thật để tại mặt thế này mà thôi. Bởi vì dối-trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối-trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo-Đoan nghiêng-ngửa; chúng ta không cần xu-hướng theo cái dối trá thường tình nữa, chúng ta phải tiêu-diệt cái sự dối trá. Lại nữa, trong hoàn-cảnh chúng ta đương làm trung-gian dung-hòa cho Đạo và Đời chúng ta chẳng nên mượn thế-lực mê-tín dị-đoan để làm khiếp phục, đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh-thần loài người điên-đảo. Một trường ngôn luận xì-xào đã kiếm thế hèn tiện của thiên-hạ đặng tính tạo thành một phản động lực đặng làm mất giá trị một nền Tôn-Giáo của Đức-Chí-Tôn.
Bần-Đạo nói thật muốn đánh tiêu cả sự dối-trá gian-ngược ấy chẳng phải dễ. Người có thể làm cho thiên hạ mê tín dị-đoan được là Bần-Đạo mà Bần-Đạo không làm, bởi vì Bần-Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô Đạo-Đức. Bần-Đạo chỉ lấy một cái triết lý chơn thật của Đức-Chí-Tôn để giáo Đạo cho con cái của Ngài mà thôi. Bần-Đạo duy muốn làm bạn với con cái của Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Đức-Chí-Tôn để cho Bần-Đạo mà Bần-Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy, mê-tín dị-đoan trong cửa Đạo Cao-Đài không có và không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại, đình Bí-Pháp Chơn-truyền nếu thuyết ra là lấy cái quyền-năng mê-tín dị-đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát nên Bần-Đạo không dùng. Bần-Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa cho con cái của Đức-Chí-Tôn mà thôi.
Bây giờ Bần-Đạo xin thuyết ý-vị và cái nghĩa lý sống của con người; vả chăng chúng đến với một phần xác ở tại thế này, chúng ta phải biết cái sống của nó ý vị gì ? Đã sanh đứng làm người tại mặt thế này, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị cái sống ấy và nghĩa lý của nó có thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng-cổ đến giờ tinh-thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng các hình-tượng, các nền Đạo, các Tôn-Giáo.
Chúng ta quan-sát cả triết lý cái sống phải có lý do nào ? Sống đương nhiên của chúng ta có hai sống:
1/ - Sống về vật-chất mà nói rõ ra là sống về phương-pháp thú chất.
2/ - Sống về tinh-thần tức-nhiên sống về cái phương-pháp hiển-háchanh-linh của nó.
Chúng ta thấy hai cái quyền-năng ấy nó tương tranh với nhau mãi mãi mà thôi, vì cớ cho nên mới nảy sanh ra hai thuyết: Duy-Tâm và Duy-Vật. Chúng ta thử giở lịch-sử của loài người thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải " Connais toi, toi même" nghĩa là người biết người hơn hết. Mình biết mình đặng chi ? Đặng tìm tàng cho thấu đáo cái nghĩa-lý sống của mình.
Chúng ta ngó thấy Thượng-Cổ, bực cổ-nhân là hàng vĩ-nhân, dân Âu-châu thì có "Socrate" cũng do thời đại nhơn-sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng Chí-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cái thuyết làm cho các phản động-lực coi Ngài như kẻ thù-nghịch, đến nước cái quyền năng buổi nọ mạnh-mẽ thế nào tử-hình Ngài cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự-tử. Khi giam Ngài trong ngục Ngài có phương-thế hội-đàm với các nhà triết-học. Tới giờ chót chúng đem chén thuốc-độc đưa trong tay của Ngài biểu Ngài uống; Ngài bưng chén thuốc-độc ấy để từ giả các bạn của Ngài mà Ngài nói như nói chơi vậy. Ngài nói tôi biết rằng: Ngoài cơ-thể Tạo-Đoan này của Đời này, nó còn các cơ-quan vô-hình tối-trọng kia, tôi quả-quyết rằng có, thì cái chết ta mong lắm chớ !!! Giờ phút ta cầm chén "Suré" này ta uống, thì ta sẽ được hội hiệp với các vị hiền-triết, được làm bạn với họ thì có gì hơn. Nói rồi Ngài bưng chén "Suré" Ngài uống.
Giờ chết của Ngài, giờ ngặc mình của Ngài, thì môn-đệ của Ngài hỏi: "Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi đâu hay sẽ làm gì ? Ngài cười nói: ta chưa biết ta sẽ làm Chúa cả cơ-thể Tạo-Đoan này để điều-đình cả cơ-quan vĩ-đại của Càn-Khôn Vũ-Trụ hay ta sẽ làm chân của con châu-chấu ? Dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì thì ta làm cái nấy. Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.
Đức Lão-Tử khi đoạt được bí-mật của Bát-Quái-Đồ rồi Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn-Lôn-Sơn mà an nghỉ. Môn-đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn-Lôn-Sơn để làm gì ? Có hạnh-phúc hay không ? Ngài trả lời duy có cái biết cuả ta mà đã làm cho ta có thú vị sống đặc-biệt, không cần nói rõ hạnh-phúc ấy ra thế nào, nhưng ta chỉ nói rằng: cái biết cuả ta nó làm cho ta hưởng thú-vị an vui của cái sống ấy.
Đức Khổng-Phu-Tữ từ giả quan-trường về giáo-đạo dạy các môn-đệ của Ngài; thiên-hạ gọi là vô-phước mà cảnh thiệt vô-phước của Ngài là lúc Ngài làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên và lúc châu-lưu trong Lục-Quốc.
Bây giờ sống với Thất-Thập Nhị-Hiền, Tam-Thiên Đồ-Đệ của Ngài, là Ngài hạnh-phúc hơn hết, vì Ngài biết cái thú vị cái sống của Ngài thế nào; cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi. Giờ trái ngược lụng lại sống, chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần-Thủy-Hoàng, sống của Sở-Bá-Vương hai tay trắng lập nên nghiệp đế đè nén cả tinh-thần dân chúng buổi nọ, vị chúa của họ sanh-sát tàn ác không có điều gì mà họ không làm, quyền hành của họ tàn ác lắm.
Cái sống của Tần-Thủy-Hoàng thế nào, dòm lụng lại cái chết rồi Ngài than: Các tài tình thâu nghiệp để ta thắng được duy có cái chết ta thắng không được. Vì thế mới cho người đi kiếm thuốc trường-sanh bất-tử, mê-tín đến nước người ta cho ăn " dương khí ngựa " (nước dái con ngựa) mà cũng ăn nữa, ăn đặng sống mà anh ta cũng chết.
Nã-Phá-Luân đã được cơ-hội làm nên nghiệp-đế, hồi buổi đó làm cho toàn cõi Âu-Châu các nước chư-hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Ile de Saint Hélène.
Ông Vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis XIV (Louis 14) thiên hạ thế-kỷ đó cho là Ông Vua Trời (Le Roi Soleil) cả thiên-hạ đều tùng-phục kính-trọng, kiêng-nể. Âu-Châu buổi nọ có thể nói Ngài là một vị bá-chủ của thiên-hạ không có cái gì mà anh ta không có "Tứ-Hải Phú-Hữu" sang trọng vô-biên có một điều là đền Vua của Ngài "Palais Louis 14" quân lính canh tuần bảy vòng mà ngăn cấm cái chết vô trong hoàng gia của Ngài không đặng; chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong hoàng-gia, rốt chuyện Ngài truyền Ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi.
Ngài than: Hại thay ! hoàng thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặc mà nó không cản được cái chết đến nhà ta .
Chức-vị sang trọng của mình sống như con cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ mà chúng cũng kiên cũng sợ nhưng chúng chưa biết thương; sống như con cá Ông không ai thấy mà chiếc ghe nào chìm thì có người ta đỡ. Cái sống con cọp không có ai thờ, còn cái sống của con cá Ông có người ta thờ.
Hai cái sống đặc biệt ấy là cái sống Duy-Vật và cái sống Duy-Tâm. Bần-Đạo tả ra cho con cái của Ngài lấy đó mà suy gẫm.

1. - Đức Chí-Tôn chọn Hoa, Rượu, Trà tượng trưng Tinh, Khi, Thần
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm Rằm tháng 2 Năm Đinh-Hợi (1947)

ĐỨC CHÍ-TÔN CHỌN HOA, RƯỢU, TRÀ
TƯỢNG
TRƯNG TINH, KHÍ, THẦN

Phàm con người có 3 xác thân:
Một là Tinh: là xác thân của cha mẹ sanh ra.
Hai là Khí: là hơi (corps astral), liên-quan tới xác thân nó tiếp xúc liên-quan bảo-trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh-quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có.
Ba là Thần : là linh hồn của Chí-Tôn ban cho mà có, cả Ba liên-quan với nhau thành một, một thành ba gọi là Tam-Bửu: TINH, KHÍ, THẦN.

Chí-Tôn lại chọn lựa vật quý báu là bông (tinh), rượu (khí), trà (thần) là ý nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái Ngài những món quý mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.

Muốn cho khỏi phụ lòng Chí-Tôn thì ta phải đào-luyện cho đệ nhị xác thân ấy được tinh khiết nhẹ-nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai-giới, chỉnh-tu cho cái đệ-nhị xác thân được tráng-kiện, hoạt-bát, tùng khuôn-viên thiện-đức. Đệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo-hộ về sanh-quang, tiếp với đệ tam xác thân là linh-hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu-hoại thì nó trực tiếp ngay với linh-hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng có nghiệp ác thì nó phải dính-líu với cái xác thúi hôi này mà phải chịu lìa xa cái linh-hồn, thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí-Tôn ban cho ta cái Bí-Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan-nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh-hồn tức là hằng sống vậy.

Loài người quá xảo-quyệt, khôn-khéo tiềm tàng sự sung-sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thành sầu, quỉ khốc, chiến-tranh không ngớt là do nơi lòng tham-lam tiến-triển, văn-minh cơ-khí tối-tân như là bom nguyên tử để giết người. Hiện tại nơi Mỹ-Châu, Cổ-tàng-viện của họ có đến 200 triệu quyển sách. Cứ đổ đồng một ngày xem một quyển thì sống đến mấy đời mới đọc hết được.

Chí-Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc, tự-tôn chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh-thần, nên Chí-Tôn đến khai-Đạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận-thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thế giới này những điều tinh-ma quỉ-quái sẽ tiêu-diệt, thần-tử không hề đến ta được.

Nếu ta thấy được cõi hư-linh kia cái tinh của các vạn-loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, triệu chực chờ thù ghét vì vậy mà nó có vay trả luân-hồi mãi mãi đọa đày bất-năng thoát tục.

Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan-nghiệt ấy mà truyền bá cái huờn thuốc linh-đơn nầy là đạo-đức của Chí-Tôn, để cứu vớt quần-sanh thoát vòng đọa lạc.

Hoàn toàn cả thế-gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm-lý mà tập-quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.

Vậy thánh ý của Đức-Chí-Tôn khai mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Tam-giáo qui-nguyên, Ngũ-chi phục nhất là muốn dung hòa tâm-lý cả toàn con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên-nhân, vì thế mà bị sa-đọa nơi đây. Chí-Tôn đã đại-từ đại-bi chỉ rõ căn-nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đoạt ngôi vị là phải trau luyện cho TINH hiệp với KHÍ, tinh khí huờn THẦN là cơ huyền-bí để mà đắc đạo vậy.

Trọng giá của Tam-Bửu mà Chí-Tôn ưa chuộng để dâng đại-lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm đứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan-nghiệt cho toàn thế-giới.

Ấy vậy muốn duy-trì sự hòa biết đại-đồng nầy cũng do nơi gốc Bí-Pháp đó mà thôi. Dầu triết-lý thâm-uyên đạo-đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; Mà nếu không đoạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô-trược tội tình thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu-diệt mà chớ.
*  *  *

2. - Nguyên-do con người là gì ?- Tam-bửu tạo nên con người.
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
sau giờ Tý ngày 15 tháng Hai nhuần Năm Đinh-Hợi (1947)

NGUYÊN-DO CON NGƯỜI LÀ GÌ?
TAM-BỬU TẠO NÊN CON NGƯỜI

Hôm nay Bần-Đạo giảng nối về Tam-Bửu, Bần-Đạo lần lượt giảng Tam-Bửu trước là vì Đức-Chí-Tôn lấy bông, rượu, trà mà tượng hình ba thể-chất tạo nên vạn-loại.
Chơn-linh mới thiệt là ta, còn chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hình. Chơn-linh ta mượn cơ-quan hữu-hình để thân-mật cùng cả cơ-quan tạo-đoan vũ-trụ.

Ta đến mang mảnh hình hài như thế nầy đặng chi ? Nguyên do nơi nào mà đến ? Rồi Bần-Đạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải tu ? Tu có ích gì, do nguyên lý nào mà phải tu ?.

Bần-Đạo sẽ giảng nguyên-do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu-thiên khai-hóa, Đức Chí-Tôn tạo Bát-Quái-Đài là gì ?

Bây giờ Bần-Đạo giảng về Tam-Bửu, 3 cơ-quan tạo nên hình thể con người; Chơn-linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên-thiên-khí; Chơn-thần do Hậu-thiên-khí kết-thành; còn xác thịt thì do vật-chất mà nên.

Hỏi vậy ta sống đây do cơ-quan nào ? Ấy là nhờ chơn-linh mới có sự sống, chơn-linh có một quyền năng vô-đoán, chưa có khoa-học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền năng của nó là của Đức Chí-Tôn ban cho. Quyền năng của chơn-linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn-loại, của xác hình. Chơn-thần là Hậu-thiên-khí, nó bảo trọng vật-chất-khí.

Trong 3 khí-chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, Chơn-linh là nhứt-điểm linh-quang do Chí-Tôn mà có, để bảo trọng cái sanh mạng, cái sống của thi-hài. Đến ngày giờ nào niên-kỷ đã định hết khối-sinh-quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử.

Ấy vậy, ta thử kiếm coi Tiên-thiên-khí, Hậu-thiên-khí và vật-chất-khí là gì? Chúng ta đã thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có 3 thể-chất.
- Vật-chất thì mắt ta thấy.
- Mùi vị là Hậu-thiên-khí.
- Năng lực là Tiên-thiên-khí.

Ba khí-chất nầy tượng ra hình hài cuả con người, vật-chất, mùi-vị, năng-lực thế nào thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm ăn vào để lấy cái tinh ba của nó là Hậu-thiên-khí phục nguyên, khối sinh-quang của ta được tồn tại.

Tinh ba của vật-chất nó vào mình làm cho xác hài có năng-lực tráng-kiện. Ta thấy khi đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh-khí đó vậy.

Chơn-thần là Hậu-thiên-khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có. Ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh-vật nầy. Ta biết có mà khó thấy được. Chơn-thần chúng ta thiên-hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có.

Người hay sợ ma là tại sao ? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng-minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy nên làm cho họ sợ.

Một khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gũi đặng họ thì họ sẽ thương yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy.

Kẻ phàm mang xác hài đây có thất-tình, lục-dục, nên có sự phâncách về thể-chất hữu-vi làm cho ta thiếu sự thương yêu vì ta sợ.

Ngày nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo-đoan, chừng đó ta mới biết Đạo là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên-lơn dạy dỗ và giục-thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên đường tấn-hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh-vực chớ không ai đặng mưu-hại giục hư.

Bần-Đạo giảng về cõi hư-linh, nếu ta đoạt pháp xuất-ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi vô-hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh-chất phàm tâm tưởng-tượng.

Cõi Hư-linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết-thực nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng-sinh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những dịp để an ủi tâm-hồn chúng-sanh, hằng giờ, hằng buổi không thiếu tình thương.

Chúng ta đến làm người, cốt yếu đoạt cho được cơ tạo-đoan, trở nên Chí-linh, Chí thánh; một kiếp học thêm một bực; để ngày kia mong mỏi làm Trời.

Các bạn biết Phật Thích-Ca xưng là Bổn-sư, người tu gọi là thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được, gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái.

Ở thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường đi trước kia dầu ai phàm, dầu ai lạc-hậu cũng tới sau, họ chỉ biết có một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đoạt lên Phật-vị.

Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi, mà đối với tất cả vạn loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc-hậu đó vậy.

Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô-tội không phương bảo vệ; ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc-hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó mà cười và nói: Xưa kia Đức Phật có ăn tôi một lần. Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay .

Chưa có ai nhẫn tâm giết người đặng ăn thịt thì cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc-hậu ấy để ăn.

Ta đến đây làm bạn cùng vạn-vật chúng-sanh, vạn-vật giúp ta học cho thấu-đáo huyền vi cơ đạo, tạo Chí-linh nối nghiệp Đức Chí-Tôn.

Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia-nghiệp phẩm-vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ. Đại Từ-Phụ mà không tin sao ? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương-hỏa.

Một điều là Ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ, phương-pháp nhỏ theo phàm. Còn Ông Cha Thiêng Liêng không lẽ thua ông cha phàm. Thầy nói, Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần-Đạo tưởng nhứt là phái nam thanh-niên võ-chức, nếu mấy em biết cơ-quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình vì Chí-Tôn. Bần-Đạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì Hộ-Pháp hứa sẽ tái kiếp luân-hồi bồi thường cho đủ.

Vì những kẻ dám đem mình làm tế-vật cho Thầy để lập nên một quốc gia thiên-định tại thế nầy, Bần-Đạo chắc quốc-gia ấy phải thành. Đức Chí-Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần-Đạo chắc rằng những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn tới. Nếu chúng ta có con mắt thiêng-liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các đấng dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn-linh cao-trọng cũng phải cúi đầu. Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Đức Chí-Tôn trả một cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. (xin cho toàn Đạo nam nữ sao lục nguyên-văn để phổ-thông chơn-lý).

*  *  *

3. - Nho lấy nhơn-nghĩa, Đạo lấy công-chánh, Thích lấy bác-ái, làm căn-bản
 Đức Hộ Pháp Giảng tại Đền-Thánh
đêm 15 tháng 03 năm Đinh-Hợi (dl 1947)

NHO LẤY NHƠN-NGHĨA,
ÐẠO LẤY CÔNG-CHÁNH,
THÍCH LẤY BÁC-ÁI LÀM CĂN-BẢN

Hôm nay nhơn Bần-Đạo làm phép giải-oan cho một người anh em của chúng ta là Hồ-tấn-Khoa nên Bần-Đạo giảng tiếp về Tam-Bửu. Giảng tiếp vấn đề ấy lại, Bần-Đạo tuyên-bố cho toàn nam nữ và chư Chức-sắc thiên phong Nhị Hữu-hình-Đài được nghe rõ. Đối với cơ-quan đời biến chuyển, từ ngày Bần-Đạo đồ-lưu hải-ngoại đến khi về tới nay tính lại đã gần 8 tháng, Bần-Đạo thấy tình hình quốc gia của chúng ta mà cả thảy ai ai cũng biết chẳng cần phải lập lại, vì Bần-Đạo đã thuyết minh nhiều lần rồi. Bây giờ thử hỏi chơn-truyền của Đức Chí-Tôn mở Đạo là một nền Chánh Giáo. Tôn-chỉ bảo chúng ta làm gì ? Và Đạo Cao-Đài phải đi theo con đường nào ? Chúng ta thấy Đại-Từ-Phụ lấy ba Tôn-Giáo: Nho, Thích, Đạo làm cơ-quan duy nhất, dầu về phần thiêng-liêng hay hữu-hình cũng vậy để làm bí-mật chơn-truyền dìu-dắt linh-hồn và thi-hài của chúng ta và là một phương-pháp đoạt kiếp giải-thoát linh hồn. Nho lấy nhơn nghĩa làm căn-bản. Đạo lấy công-chánh làm căn-bản. Thích lấy bác-ái từ-bi làm căn-bản. Ba triết-lý ấy hiệp lại vừa lo phần Đời và phần Đạo, xác hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Đức-Chí-Tôn đứng chờ đợi các con cái hiệp một cùng Người.
Nhơn nghĩa là gì ? Người có nhơn thì không oán, nghĩa thì không bạc. Công-chánh là gì ? Có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật được; còn có từ-bi thì có khoan-hồng dung-thứ, có bác-ái mới có thể bảo thủ và thân mến toàn thiên-hạ; nếu chiếu theo chơn truyền của Đức-Chí-Tôn khuyên bảo chúng ta thế nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải khoan-hồng, tha-thứ, biết yêu ái, phải có công-bình chánh lý, chúng ta giữ được cả chơn-truyền ấy thì không ghét ai, oán ai. Trái lại, Đại Từ-Phụ buộc chúng ta phải thương yêu kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa.

Chiếu theo chơn-truyền ấy, đối với đời, với quốc gia, chủng-tộc toàn Đạo phải xử thế nào ? Chẳng lẽ Đạo Cao-Đài phải nhượng bộ hạ mình trước đảng phái, vì cái tinh thần của Đạo còn chẳng nhượng ai, huống phải hạ mình làm nô-lệ cho đảng-phái. Quyền tự chủ ấy là quyền của Chí-Tôn ban cho. Thầy đã không àm tớ ai, nên quyền Đạo nó chỉ làm Thầy.

Nó tự có một năng-lực, mà cái năng lực ấy không tùng năng lực của ai cả. Nó có một quyền-hành sở-hữu chớ không tùng ai và không theo đảng phái nào. Nó phải lập quyền yêu ái, công chánh, từ-bi. Nó có phận sự tạo nghiệp cho đời chớ không phải làm tôi mọi cho đời. Đời đang phải chịu vòng nô-lệ thì con cái của Đức-Chí-Tôn bây giờ phải theo tôn-chỉ nào ? Phải biết rằng có thiên-mạng con cái của Chí-Tôn là Thánh thể, ông Trời tại thế nầy. Trời đã không nhường ai, không làm tôi tớ ai, thì con cái của Chí-Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương của con Ngài. Vì thiên-lương ấy là căn-bản tạo quyền cho thiên hạ. Là con cái của Ngài lẽ đương nhiên, chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã-hội của chúng ta đang ở trong tình thế bại hoại. Chúng ta chỉ biết nhìn một quyền "Dân Việt-Nam" mà thôi. Thời buổi loạn lạc dân không có quyền, trong nước đảng nầy phái kia, chia năm, chia bảy, nên buộc chúng ta phải kiếm một cái quyền của nhà Vua. Vua và dân hai quyền ấy nó tương-liên với vận mạng nước Việt-Nam, tìm cái kia không phải tìm cái nọ, cái quyền sở hữu nào chúng ta thấy thì chúng ta phải cầm lấy, giúp Vua để lập quyền cho nước, cho quốc gia, cho xã-hội.

Vì vậy, chúng ta phải đem nhà Vua lại để lập quyền cho dân. Quyền là chánh sách Đạo Cao-Đài giúp Quân chủ tạo Dân-quyền. Bởi thế Bần-Đạo đã công khai cùng chánh phủ rồi. Bần-Đạo sẽ công-khai cho toàn thiên hạ biết rằng: "Chúng ta sẽ hướng ra Quân-chủ Dân-quyền" để tạo tương lai cho quốc vận.

Chúng ta không thấy còn con đường nào khác nữa, chỉ một con đường duy-nhất cao-thượng nầy mà Đạo phải làm cho thành tựu. Bần-Đạo xin cả thảy nghe và tìm hiểu chơn-lý ấy rồi hằng đêm cầu nguyện để quyết định tương lai vận mạng nòi giống cuả chúng ta.

*  *  *

4. - Cái chơn-nghĩa của chử Đạo
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 29 tháng 03 Đinh Hợi (1947)

CÁI CHƠN-NGHĨA CỦA CHỬ ÐẠO

Hôm nay Bần-Đạo giảng về Tam-Bửu, nguyên thỉ tạo thành càn-khôn thế-giái.
Từ trước đến giờ thiên hạ thường nói là có Đạo, tin Đạo, nhưng Bần-Đạo tưởng chắc chưa có ai hiểu Đạo là gì cả, nên Bần-Đạo lần lượt giảng cái chơn nghĩa của chữ Đạo, giãi rõ cái liên quan giữa Đạo và con người cùng vạn vật do nơi đâu mà có, rồi sẽ giảng về nguyên căn của Tam-bửu, là một nguyên căn, là một bổn nguyên Tinh, Khí, Thần. Đức-Chí-Tôn là Đấng tự-hữu hằng-hữu mà từ thử đến giờ bất kỳ một Đấng thiêng liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn của Người đặng.

Theo lời Đức Nguyệt Tâm Chơn-Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiểu rõ nguyên căn của Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền năng vô-đối của Người mà thôi. Bần-Đạo đã vấn nạn Đức Chưởng Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị Giáo-Chủ nào đã hỏi như Bần-Đạo. Bần-Đạo hỏi nguyên căn của Chí-Tôn và quyền năng của Người thì Đức Chưởng-Đạo có tả một bài văn chữ Pháp dịch ra Quốc-ngữ; nhưng chính Đức Nguyệt-Tâm cũng đã thú-thật rằng: Không biết nguyên do của Chí-Tôn là thế nào, chỉ biết quyền năng vô-đối của Người mà thôi.

Nay thuyết về vấn đề ấy, Bần-Đạo chỉ nói Đấng Chí-linh hằng-hữu ấy là Đức-Chí-Tôn, là cha cả chơn linh van-vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy, khối linh ấy thế nào hơn hết. Biết bao nhiêu Đấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh-tâm cao-trọng hơn cả vạn-vật ? Tiềm tàng với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Đạo. Nhìn biết và hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét có vật tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì ? từ trước đến giờ loài người tìm kiếm mãi nguyên-docủa nó.

Tiếp khai các nền Tôn-Giáo hiện hữu không một nền Tôn-Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao siêu hơn là Phật-Giáo nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa xôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm-linh, chúng ta có quan-sát cả chơn-lý của Phật-giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng: Chúng ta có một Tôn-Giáo mà tôn giáo ấy là chúa tể cả các nền tôn-giáo khác. Vì bởi nó là nguyên căn của Tôn-giáo và chính nó là một tôn-giáo tự-hữu, từ buổi trời đất biến sanh đã có. Cái khối chơn-linh ấy là cha của chơn-linh, cha của nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ trước Đức-Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn-vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa ai hiểu rõ cái nguyên căn ấy. Phật giáo nói: Cái khối linh ấy phân-tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là Civa chủ về Pháp. Đức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo-đoan. Pháp vận hành mà sanh khí, nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là khí; Vậy khí là gì ? Khí là khối sanh quang vạn-vật, nhờ thở sanh-khí ấy mà sống; cho nên chữ khí là sự sống của vạn-vật, do khí là pháp biến-tướng ra vạn-vật. Nên Đấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2e Logos" thuộc âm ấy là Phật-Mẫu chưởng quản cả cơ-quan tạo-đoan nầy vậy.

Như chúng ta thấy cơ-quan sanh hóa vạn-vật và loài người là do âm dương phối hợp mà biến tướng. Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc âm, là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí-mật ấy là khi âm dương phối-hiệp biến hình mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi nầy. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí chúng ta không thể thấy được. Khi biến ra hữu-tướng là nước, lửa, gió; rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn-vật, đi từ Hỗn-nguơn-khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật tức là Huyền-ảnh-khí biến ra nhơn hình vậy. Khí ấy nhà khoa-học gọi là nguyên-tử-khí (Atome) . Nguyên-tử-khí có năng lực vô-biên mà loài người đã đoạt được để dùng chớ không biết nguyên-căn và nguyên-tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và cùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thể sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà quy nguyên Thánh-thể. Thử hỏi Đức-Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên-tử-khí ấy để làm chi ? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dầu cho Đạo giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử-khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử huờn-sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa-vị trường-sanh bất-tử.

Vì bởi nguyên-tử-khí là căn-nguyên sự sống của vạn-loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận-hành tạo ra hữu-hình là vạn-vật; vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy càn khôn làm Đại thiên-địa và lấy con người mà làm Tiểu thiên-điạ. Mạng sanh của con người đồng thể cùng càn-khôn, tức là sự sống phải tương-liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyền năng vô-đối.

Hỏi vậy Chí-Tôn tạo ra cái đại nghiệp ấy để cho ai ? Để cho vạn-linh, mà đứng đầu vạn-linh lại là loài người; mà loài người có hưởng được thì Đức-Chí-Tôn mới dành cho. Nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa hưởng được cái quyền năng ấy. Đức-Chí-Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng muốn chúng ta làm được như Ngài, tức là đem tiểu-thiên-địa đến đại-thiên-địa.

Ấy vậy, về cơ-quan đoạt lấy đại nghiệp, Chí-Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng "TU". Tu cho hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế-gian còn dữ quá thì chừng nào mới đoạt đặng.
*  *  *
5. - Lời nguyện khi dâng Tam-bửu
 Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
thời Tý đêm 1 tháng 12 năm Đinh-Hợi

LỜI NGUYỆN KHI DÂNG TAM-BỬU

Bần-Đạo xin nhắc lại một phen nữa khi vào hành lễ lúc dâng Tam-Bửu. Hễ dâng bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta tức là tượng-hình xác thịt của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí-Tôn: "Con xin dâng mảnh hình-hài của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng"
Khi dâng rượu cầu nguyện: "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng".
Khi dâng trà cầu nguyện: "Con xin dâng cả linh-hồn con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng".

Câu chót nếu chúng ta khôn ngoan nguyện như vầy: "Cả linh-hồn, cả trí-não, cả hình hài con Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định". Đó, ta cầu nguyện như vậy với Chí-Tôn.

Bần-Đạo đã giảng Tam-Bửu tại sao Chí-Tôn lấy bông tượng trưng hình-hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông.

Ngài lấy rượu là muốn tinh-thần của loài người cường-liệt như rượu mạnh vậy.
Ngài lấy trà là muốn chơn-linh ta điều hòa như trà vậy. Ngài lựa 3 món đó cốt yếu là vậy.

Ngày nay Bần-Đạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Đức-Chí-Tôn. Cả thảy mỗi phen vào Đền-Thánh nắm sanh-khí ấy tạo cả cơ-quan hữu-hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú vật, vạn-linh, hữu-tướng, thuộc về tăng.
Đứng đầu tiên hết Chí-Tôn tức là Phật nắm cả cơ-quan bí-mật tạo thành Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Đạo nầy luật thế nầy, Đạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật-Giáo.
Giả-thí như Thánh-giáo Gia-Tô cũng có ba ngôi (La triniteõ) Le Père, Le fils et Le Saint Esprit (Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh-Thần) Đức Chúa Cha là Phật, Đức Chúa Con là Pháp, Đức Chúa Thánh Thần là Tăng.

Không Đạo-Giáo nào thuyết minh rõ ràng cơ tạo-đoan, lấy thuyết hỗn-độn sơ-khai phân chia: Khí chi khinh thanh, thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng-trược hạ ngưng giả vi Địa (Hễ khí thanh thì lên trời, khí trược thì hạ xuống đất).

Cả vật-loại hữu-tướng nầy có hai quyền-năng sản-xuất.
1) Ngôi Chí-Tôn.
2) Đức Mẹ.
Người ta không nói, trên lấy cơ-quan hữu-hình nói bóng dáng thôi.

Luật thiên nhiên tối thiểu, tối đại vẫn có một luật mà thôi, biết đâu Chí-Tôn và Phật-Mẫu theo lời Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn-nhơn đã thuyết minh ra là người hữu-sanh, hữu-tử. Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, Chí-Tôn và Phật-Mẫu cũng là hai vợ chồng như ai vậy. Cả quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền-năng Chí-Tôn cũng đào-tạo thế ấy; mà Bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền-năng vô-tận của Phật-Mẫu dùng đặng đào-tạo càn-khôn thế-giái. Chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.

Chí-Tôn là Phật, Phật-Mẫu là Pháp, càn-khôn là Tăng, mặt địa-cầu nầy đến ba ngàn thế-giái cũng là Tăng.

Nắm quyền trị thế là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên chính quyền năng Chí-Tôn định, địa-cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt trời nầy không có mặt trời khác, trong hai mươi bốn giờ có một ngày, Đấng làm chủ cầm quyền trong pháp-giới là Hư-Vô Cao-Thiên vâng mạng lịnh Hạo-Nhiên Pháp-Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương-tàn với nhau. Địa-Cầu nầy nếu không mặt luật Đạo-đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.

Bây giờ chúng ta quan-sát Hỗn-Nguơn Thượng-Thiên; Ngày nay Đức Phật Di-Lạc ở nơi Hỗn-Nguơn Thượng-Thiên cầm cả hành tàng Càn-Khôn Vũ-Trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vật loại.

Trước khi nguyện lấy dấu và niệm Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ.

Ngày nay Bần-Đạo giảng: Phật là gì ? Phật là một Đấng toàn tri toàn năng, người ta lầm lạc tưởng không thấy hình-dạng là không có người, thế-gian lầm lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ có khác hơn chúng ta là không có thi hài mà thôi. Đấng toàn tri toàn năng ấy là Đấng đầu tiên hiệp lại với Chí-Tôn.

Bần-Đạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc-biệt:
1) - Hạo-Nhiên Pháp-Thiên tương-liên hiệp một cùng Đức-Chí-Tôn.
2) - Hư-Vô Cao-Thiên thuộc về Pháp-giới cầm cả luật thiên-điều.
3) - Hỗn Nguơn Thượng-Thiên thuộc Tạo hóa thuộc Tăng; Phật-vị có ba đẳng-cấp ấy đặng nắm cả quyền-năng Càn-Khôn thế-giái.
Phi-Tưởng Diệu-Thiên nắm quyền-hành tạo-đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật.

Tạo-Hóa Huyền-Thiên thuộc Pháp và có ba quyền tạo-đoan thế-giái hữu-hình nầy vô cùng tận. Tạo-hóa cầm sanh khí để tạo sanh-vật.

Phi-Tưởng Diệu-Thiên, Tạo-Hóa Huyền-Thiên, Bây giờ tới Phi-Tưởng Diệu-Thiên lãnh phận sự nơi Đức-Chí-Tôn cầm nguơn khí của con người giữ sanh-mạng vạn-vật kêu là vạn-linh.

Tới Tạo-Hóa Huyền-Thiên, Phật-Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh-hóa không cùng tận. Cả loài người, cây cỏ, sắt đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Đức Phật-Mẫu nắm pháp biến xuất. Cả thi-hài, chơn-linh, trí não pháp-thân luân chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của Tạo-hóa trong các cơ-thể ấy, loài người học làm đặng biết đặng chi ? Đặng tạo pháp thân huyền-diệu được toàn thiện, toàn mỹ, toàn tri, toàn năng như Phật-Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo pháp-thân do quyền lực thuộc pháp, hình hài xác-thịt thuộc Tăng; thây chúng ta thay đổi lăn-lóc trên đường sanh sanh tử tử cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí-Tôn là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên. Các Đấng ấy hữu sanh hữu tử tri-khổ nghiệp-chướng vạn-linh năng du ta bà thế-giái độ tận vạn-linh đắc qui Phật-vị.

Các Đấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn-tri toàn-năng; họ đi trước mình đi sau, họ cao mình thấp thôi, con đường họ đi mình cũng sẽ tới. Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt thế này chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo-Nhiên Pháp-Thiên một vị Phật cao trọng toàn tri toàn năng gần như Đức-Chí-Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học bài học khổ, dám làm kẻ ngu dốt lắm.

Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâgarouth là một vị chí Phật như Đức Sakya Mouni đến thế gian bưng bình bát-du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế gian như vậy mà nơi cửa Hư-không lại có quyền năng vô-tận vô-đối. Đến Đức Chúa Jésus Christ là một vị Chrisna Vichnou đệ nhị kiếp Chí-Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hèn khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng nuôi kẻ đói khó. Đó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.

Đấng Tạo-Đoan đưa tay xin cho loài người ăn đó là người cầm quyền năng nuôi khắp toàn vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết. Kỳ sau Bần-Đạo sẽ giảng tiếp.
*  *  *
6. - Ý-nghĩa chử Tu và phương Tu.
 Đức Hộ Pháp
Giảng về hình-thức và định-nghĩa chữ tu ý-nghĩa của Tam-Bửu

Ý - NGHĨA CHỬ TU VÀ PHƯƠNG TU

Chữ Tu ý-nghĩa rộng sâu thế nào, kinh điển đều có dấu vết quan-trọng. Chẳng phải đứng trên giảng đài trong giây phút mà giảng cho cùng lý, Bần-Đạo chỉ lấy cái tinh túy của nó, diễn-giải ra đây dầu không được trọn vẹn nhưng con cái Đức-Chí-Tôn có thể lãnh hội dễ dàng.
Theo tiếng Phạn: Tu gọi là Dyann người Miên (Tần-Nhơn) gọi trại lại là Xáxơna, tiếng Pháp hay là tiếng Âu định-nghĩa là "Se perfectionner" hay là "Se rendre parfait ou plus parfait" (làm cho mình đặng tận-thiện, tận-mỹ).

Luật thiên-nhiên của tạo-hóa buộc các đẳng linh-hồn, dầu vật-loại cũng phải trau mình đặng đoạt đến nhơn phẩm. Khi được địa vị làm người còn phải tự giồi trau để từ từ đi đến cảnh siêu-thoát (Phật-vị).

Sanh ra làm người, bất-luận là giai cấp nào, chịu nhiều thử-thách, rồi chết, rồi tái sanh v.v... Cứ xây vần mãi như thế thoát ra khỏi vòng lẩn-quẩn nầy hoặc hiểu được ý-nhị của nó để được tiến hóa thêm phần nào thì không ngoài chữ Tu. Tu là gìn nhân-phẩm hạn-chế dục-vọng, thực hành theo lý tưởng bác-ái để bước lên thiêng-liêng vị. Trái lại là mua chác đau phiền, chận đường tiến hóa về mọi hình-thức và vô-tình đi đến cảnh suy-vong.

Thế-gian loài người đều có tu cả song có phần-tử bất-hảo vô-tình không nhìn nhận. Tu có nhiều thể thức khác nhau tùy theo giai cấp và sự tiến-hóa của mỗi cá nhân mau hay chậm.

Đứa trẻ sơ-sanh không biết nói, chưa có trí-khôn, lúc khát sữa nó khóc là tìm phương cho mẹ nó hiểu, gọi là tu; vừa lớn biết thương cha mến mẹ, khi có em biết thương em gọi là tu; lớn hơn lên đến trường, khi nó chăm chú học, và rán được giỏi hơn bạn nó gọi là tu; khi vừa biết khôn-ngoan nó hiểu rằng phải học cho hay hơn thiên hạ, và còn tìm phương thế đương đầu tranh sống cùng xã-hội gọi là tu; đến khi thành nhân nó biết lựa chọn người bạn trăm năm đặng lập gia đình gọi là tu; Nó còn tầm sự hay thêm mãi để có một địa vị ... trong xã-hội gọi là tu; khi có địa-vị rồi, nó muốn lập công-nghiệp vĩ-đại hơn và làm cách nào cho nhơn-loại được hạnh-phúc gọi là tu. Tóm lại nó vận dụng mọi sự hiểu biết, vì tùy mỗi giai-đoạn tự-nhiên trong phạm vi nhơn-đạo đặng làm theo, là nó tu thân vậy.

Về phương tu trong chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn thờ phượng và dâng Tam-Bửu mỗi ngày chúng ta cầu nguyện Đức-Chí-Tôn đặng dâng ba của báu ấy là Tinh, Khí, Thần.

Tu về tinh, khí, thần, con người sanh nơi đây Đức-Chí-Tôn ban cho cái ân đặc-biệt là khi đầu sanh, tinh thần tự thiên-nhiên đã có quyền-năng muốn đoạt cho được mọi sự hiểu biết của nhơn loại. Tinh là báu đầu tiên của mình, là thân thể mình (ám chỉ xác thân). Khí là trí não khôn-ngoan hiển-hách của mình. Thần là lương năng "Tri" hay là hồn, liên-quan với xác thân. Đành rằng Tinh và Thần phản đối nhau, song lắm khi trí lay động quá thường biến sanh sự khủng-hoảng về tinh-thần cũng như một kẻ kia tự biết là ngu là khùng, khi ta điểm mặt nó nói nó điên, khùng thì nó tỏ ý giận dữ và tức tối lắm. Sự giận dữ ấy trong tinh thần của nó có khuôn luật thiên-nhiên bảo nó phải tu, đừng để nó ngu, mà ai nói nó ngu tức nhiên làm cho nó phạm luật thiên nhiên nên nó không chịu và tức giận.

Từ khi loài người đã có nơi mặt thế, đều muốn thoát-ly thú tánh, đặng họ sẽ định tâm sáng suốt thành một vị Thánh ở thế gian. Chúng ta đã biết bao vị Thánh sống xuất-hiện trong loài người mà huyền bí vô biên của Tạo-công vẫn là đó cả.

Ấy vậy khuôn luật thiên-nhiên phải buộc ta phải tu trí; nếu trí ngu-xuẩn mê-muội thì phải chịu lệ thuộc cho kiếp sống thừa. Chúng ta vẫn thấy một đứa trẻ còn kiếm phương để hiểu những điều hiểu biết của thiên hạ; nó không biết nó hỏi và vấn nạn để hiểu, ấy là phương tu trí. Được khôn ngoan là nhờ tu trí, tu hạnh đức (hay hạnh kiểm) rồi mới tu ngôn ngữ. Tu trí đặng lập ngôn, tức nhiên là tu khí.

Khi Đạo ta được đủ trí và thức thời, tâm ta trở nên sáng suốt, biết kiếp sống là mộng ảo thì cái thiệt của xác thân khác nào con vật. Như thế ta phải tìm gì, nếu không tìm cái chi chắc vững hơn. Người ta không quên tìm cái Thiên lương, cái linh hồn, cái chơn linh bất di bất dịch, sống mãi mãi nơi cõi Hằng Sống. Biết được sống ấy là Hằng Sống thì còn đợi gì không tô điểm và giữ nó được trường tồn đẹp đẽ.

Trước các tôn giáo (nhứt là Phật Giáo) chưa có định chữ Thiên lương; Thiên hạ lấy chữ Tâm mà tượng trưng cho linh hồn, mà linh hồn là bóng dáng chớ chưa thiệt tướng. Đề cập đến cái Tâm là bất quá nói cái trí do tinh thần làm căn bản, nên lấy chữ Tâm thay thế cho tinh thần chớ chưa thật tướng tinh thần.

Qua giai đoạn tu trí đến tu tâm. Tâm buộc ta quan sát cả hành tàng kiếp sống của các bậc Thánh Hiền Tiên Phật đã lưu lại trên mặt thế. Ta nương lấy nó (tâm) làm căn bản để kiếm một phương pháp thích dụng đặt mình vào làm phương tu cho mình. Tu tâm chẳng những gieo mối tình cảm cùng vạn vật, nhân loại mà còn đưa ta đi mãi trên con đường vô tận, vô biên. Càn khôn vũ trụ của nó là nhà, là phương tu là căn bản. Còn Trí đối với Tâm vẫn thiên lệch vì danh của Tâm còn vô tận vô biên hơn. Cảnh vô hình thế nào, Tâm như thế ấy. Chưa ai biết rõ Đức Chí Tôn do cái Tâm mà để tình yêu ái và tình thương, áùi-tình nầy hình trạng thay thế cho chữ Tâm. Ngoài ra nó còn liên quan với tánh thiêng liêng, đến con đường có liên hệ với Thiên tánh, Phật tánh, phải qua cái cửa mà thiên hạ đi chưa tới, gọi là cửa hư vô tịch diệt trong cảnh thiêng liêng kia.

Đạo Cao Đài giờ phút nào còn thiếu cái đó là còn thiếu tu tâm "ái truất thương sanh" là tu Tâm. Thánh thể của Ngài phụng sự cho vạn linh là tu tâm. Cái Tâm khó tả cho đầy đủ mà kiếp sanh của chúng sanh ít có năng lực để tạo ra nó. Nếu chưa thì con đường thực hiện của chúng ta còn xa vời hơn nữa. Đức Chí Tôn đã nói: Biết phụng sự vạn linh các con mới bước vào con đường tu tâm của các con. Còn chưa tu Tâm các con vẫn có từ bi bác ái và công chánh thế nào cũng chưa đủ gì. Có tu Tâm mới có phương thế lập Đức. Đức Chí Tôn đã dạy chúng ta phụng sự vạn linh là cốt yếu bảo chúng ta phải tu Tâm mới đối lại cái quyền năng tinh thần của tâm lý, đặng lập Đức và Tam lập vậy, vì nó có liên hệ với nhau. Những lời Bần- Đạo thuyết tự nãy giờ có thể viết ra một quyển sách đầy ý vị, con cái Đức Chí Tôn lưu tâm kiếm hiểu.
CHUNG
Home      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét