LỜI-TỰA
Mỗi Tôn-Giáo đều có một
sứ-mạng Thiêng-Liêng, một Giáo-Lý đặc biệt để đưa con người đến Chân-Thiện-Mỹ.
Tuy nhiên tùy theo không
gian, thời gian, tùy theo trình độ của con người mà Giáo-Lý của mỗi Tôn-Giáo
đều có một vai trò đặc biệt trong từng giai-đoạn. Ngày nay, các Giáo-Lý bí
truyền của các Tôn-Giáo xa xưa không còn đủ khả-năng để hướng con người về nẻo
thiện;
vì lý-do không còn hợp với thời đại, vì lý-do khó hiểu, nhất là khó có
thể thực hiện được trong xã hội hiện tại và con người văn minh hiện nay chỉ
biết tin tưởng vào khoa học, xem thường đời sống tâm linh.
Quyển BÍ-PHÁP ra đời để
thực hiện cái Thiên-Trách của Đại Đạo, nhằm đưa con người đến cảnh Thiêng-
Liêng Hằng-Sống.
Quyển BÍ-PHÁP là một Giáo
Lý thiết thực hướng dẫn mọi người tiến trên đường Đạo; là một ngọn đuốc soi
sáng cho chúng ta thóat khỏi cảnh tối-tăm mê lầm.
Quyển Bí-Pháp là một Chơn
Lý của nhân loại, một triết lý sống phù hợp với xã hội hiện đại, đã dung- hòa
được các hệ thống tư tưởng của nhân loại và có thể đáp ứng được nhu cầu tiến-bộ
của nhân loại về mọi mặt. Ngoài ra, quyển Bí-Pháp hiện là một dư âm đầy ưu-ái
của Đức-Hộ-Pháp còn vọng lại trên cõi giả tạm này.
PHẦN THỨ NHỨT
THỂ-PHÁP & BÍ-PHÁP
1. - Bí-pháp đơn-sơ của
các Tôn-giáo , không còn phù-hợp với lương-tri lương-năng của con người ngày
nay.
Đức Hộ Pháp Thuyết về BÍ-PHÁP tại Đền-Thánh.
đêm 05-04 Năm Kỷ-Sửu
(1949).
BÍ-PHÁP ĐƠN-SƠ CỦA
CÁC TÔN-GIÁO
KHÔNG CÒN PHÙ HỢP
VỚI
LƯƠNG-TRI
LƯƠNG-NĂNG CỦA CON NGƯỜI NGÀY NAY
Kể từ đêm nay Bần-Đạo khởi
tiếp về Bí-Pháp Chơn-Truyền của Đức-Chí-Tôn.
Ấy là một thuyết-pháp
trọng yếu khó khăn hơn hết, toàn cả Thánh Thể Đức-Chí-Tôn tức nhiên Chức- Sắc
Thiên-Phong đều biết rằng: Các nền Tôn Giáo đương-nhiên bây giờ nếu gọi là thất
chơn truyền thì thất chơn truyền do nơi đâu ? Do tại Bí-Pháp không đúng theo
lương-tri lương năng của loài người.
Lương-tri lương-năng của
mỗi người đương thời buổi này, đã đạt đến một mức cao thượng, trọng hệ là những
triết lý đơn-sơ buổi nọ, của các nền Tôn-Giáo để tại mặt thế này, hồi buổi
thượng cổ, không cầm được quyền năng cầm tâm-lý của nhân loại trong khuôn khổ
đạo-đức tinh thần nữa.
Đối với các triết lý
Bí-Pháp buổi nọ, bây giờ nhân loại tăng tiến quá lẽ, thành thử các vị Giáo-Chủ
đã lập luật-pháp, nhưng luật pháp đơn sơ ấy, ngày nay không có đủ quyền năng
trị tâm thiên hạ nữa.
Bởi thế cho nên nền
Tôn-Giáo mới hơn các nền Tôn-Giáo khác có mặt tại Địa-Cầu này là nền
Thiên-Chúa-Giáo, vị giáo chủ sáng suốt, vị Giáo Chủ ngôn- ngữ hoạt bát, tinh
thần minh hoạt hơn hết, là Đức-Chúa Jésus-Christ, nhưng hại thay trong thể pháp
Ngài đủ quyền-năng đem đủ Giáo Lý của Ngài, đặng làm nền tảng tâm lý của nhơn
loại. Nhưng về mặt Bí-Pháp Chơn-Truyền, Ngài chỉ có nói một điều các Môn-Đêï
nhứt là các vị Thánh Tông-Đồ: "có nhiều lý lẽ cao siêu" ta chưa có
thể nói với các ngươi đặng, dầu ta có nói các ngươi cũng chưa hiểu.
Vì cớ cho nên Bí-Pháp
Chơn-Truyền của Công-Giáo không có, không có thể có; bởi theo Bí-Pháp, theo lời
Đức Chúa Jésus-Christ thì buổi nọ Bí-Pháp Chơn-Truyền của Ngài chưa có thể gì
nói cho thiên hạ nghe đặng.
Ngày nay Đức-Chí-Tôn đã
đến, đem nền Tôn-Giáo của Ngài để tại mặt thế nầy, đặng chỉnh đốn đạo-đức tinh-
thần từ thượng cổ đến giờ, bằng huyền diệu cơ bút. Ngài đến không có quyền nào
ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem cơ bí-mật huyền vi
Tạo-Đoan giáo-hóa con cái của Ngài.
Nền Tôn-Giáo xưa khác, còn
nền Tôn-Giáo của Đức-Chí-Tôn ngày nay khác.
Vã chăng mỗi cơ quan đã
tượng-hình nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ ngày giờ này có hai mặt luật.
1. - Luật hữu vi, tức
nhiên luật định tướng định hình gọi là Thể-Pháp.
2. - Luật vô hình là định
luật bí-ẩn của nhân- loại gọi là Bí-Pháp.
Đạo-Giáo trọng-hệ nhứt là
Bí-Pháp, vì do nơi Bí-Pháp mà người ta mới tìm-tàng được trong cơ-quan
Tạo-Đoan.
Cơ quan đó, tìm tàng
Bí-Pháp ấy do Cách-Vật Trí-Tri nếu ta dịch ra pháp văn " la raison renverra toute la chose" Cách-Vật Tri-Tri, ta
ngó thấy Đạo-Nho đã có một khoa tối cổ đó vậy.
Các Đạo-Giáo đương quyền
tức nhiên cơ-quan Tạo-đoan vạn-vật, Đạo phải có luật Hữu-Hình và Vô-Hình.
Đạo-Giáo của Đức-Chí-Tôn
hay các nền Tôn-Giáo khác cũng vậy, Đạo là gì ? Đạo là Huyền-Vi Bí mật cơ-quan
Tạo-Đoan trọn cả cơ quan tạo-đoan ở trong hai khuôn luật Hữu-Hình và Vô-Hình
của nó.
Khuôn-luật Vô-Hình tức
nhiên cơ quan bí mật huyền-vi. Tìm hiểu đặng chi? Phải tìm hiểu đặng, mới biết
cái định luật về phần hữu vi.
Trong hữu hình ấy, nếu ta
lấy Cách-vật Trí-Tri cuả nó mà tầm vô-hình vô-ảnh của nó.
Luật Hữu-Hình tức nhiên là
Thể pháp.
Luật Vô-Hình tức nhiên là
Bí-Pháp.
Bây giờ chúng ta lấy một
cái thí dụ, nếu nấu một nồi cơm muốn cho chín, cho ngon, ta phải làm thế nào ?
Muốn cho nồi cơm trắng thì phải giã gạo, trước khi nấu để gạo vào nồi ta phải
vo cho sạch cám, vo rồi bắt lên nấu, nấu không đổ nước thì thành gạo rang còn
gì, nếu đổ nước nhiều thì nhão, nhão quá thành cháo ngô, nên phải đổ nước cho
vừa chừng với gạo, cơm cạn rồi cần phải bới lửa ra chỉ hông lấy hơi cho chín
thì gạo mới thành cơm. Nồi cơm bây giờ đem ra, ta phải tìm cái bí mật của nó
tại sao cơm nhão ? Tại sao cơm khô? Tại sao có cơm cháy ? Tại sao cơm sống. Nếu
từ thử đến giờ Quốc-Dân Việt-Nam không biết nấu cơm thì ăn gạo sống sao ?
Định-Luật chỉ có một chứ không có hai ! Một cái thí dụ nữa: Như làm bánh
bông-lan chúng ta ngó thấy muốn làm cần phải có bột, có đường, có trứng gà tất
cả là ba món. Bây giờ phải làm sao cho Bánh Bông-Lan nổi tầm phồng. Chúng ta
thấy phải đánh trứng gà cho nổi bong-bóng đều lên, để đường vô đánh nữa, đánh
cho nổi tầm phỏng, rồi mới để bột vào đánh nữa, đánh cho đều , bột, đường,
trứng gà đánh cho nổi thật đều, nổi chừng nào tốt chừng nấy tới chừng hấp phải
để hơi lửa vô cho nóng cho chín thành ra bánh Bông-Lan tầm phỏng, nếu bánh
không nổi thì thành bánh xệp. Nhận định, rồi mình ngó thấy Bột, Đường, Trứng,
Gà, là thể pháp nướng chín và nổi thuộc về Bí-Pháp, cái bí ẩn vô biên là để lưả
nướng chín. Cho nó chín, cho nó tầm phỏng đó mình không thể định được.
Bây giờ cơ quan Tạo đoan
cũng vậy, nó có cái lý do của nó, nó có cái định luật của nó, nó có từ mức của
nó. Tức nhiên hình luật, chúng ta có thể quan sát được là thể pháp, còn mức bí
ẩn chúng ta không thể lấy trí định được tức-nhiên Bí-Pháp.
Ấy là một điều rất trọng
yếu các nền Tôn-Giáo tại mặt địa cầu nầy, được trường cửu hay chăng là do luật
Bí-Pháp. Đức-Chí-Tôn để cả hai triết lý cho nhơn loại biết sự thật. Bởi cớ cho
nên Đức-Chí-Tôn đến. Ngài đến đặng Ngài giải một triết lý, một công lý hiện-
hữu tại mặt thế-gian này.
Sự chơn thật Ngài đã giải
sự chơn thật.
Ấy vậy từ đây đến sau, Bần
Đạo giảng tiếp Thể-Pháp cho biết Thể-Pháp rồi mới thấu đáo Bí-Pháp. Có một điều
Bần-Đạo khuyên đừng có bơ-bơ nữa, điều khó khăn phải để tinh-thần trí-não tìm
hiểu cho lắm, khó lắm phải rán học mới có thể đoạt-pháp đặng.
Điều rất khó khăn là phải
viết sách, nhưng Bần-Đạo muốn lấy ngôn ngữ làm thế nào cho mau hiểu.
Kỳ tới Bần-Đạo giảng tiếp,
Từ đây đến sau phải rán nghe đặng họ
* * *
2. - Thể-pháp là cơ-quan giải-khổ, Bí-pháp là cơ-quan
giải-thoát.
Đức Hộ Pháp Thuyết đạo tại Đền Thánh
đêm 9 tháng 4 Năm Kỷ Sửu
(1949)
THỂ-PHÁP LÀ CƠ-QUAN GIẢI-KHỔ
BÍ-PHÁP LÀ CƠ-QUAN GIẢI-THOÁT
Kỳ trước Bần-Đạo giảng tại
sao gọi là Thể-Pháp và Bí-Pháp của khuôn luật Tạo-Đoan Càn-khôn vũ-trụ nầy. Nay
Bần-Đạo giảng tiếp do nơi học thuyết nào sản xuất ra chữ Đạo.
Vả chăng, cơ Tạo-Đoan hiển
nhiên trước mắt, chúng ta thấy là định một khuôn luật, ngó thấy cả vạn vật đặng
sống trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, nó có nghĩa lý sống cuả nó, cũng như mình biết mình
có nghĩa lý sống của mình. Cái nghĩa lý sống ấy có phần hiển-nhiên ta định
được, ta thấu đáo được, gọi là Đời, còn bí-mật huyền-vi chúng ta lấy lương tri
lương-năng định đoạt không được, thuộc về bí-ẩnhuyền-vi cơ-tạo, nhứt là cái
Sống và cái Linh là trọng yếu của cơ-quan Tạo-đoan hơn hết, nó giục tinh-thần
nhơn-loại buộc phải tìm tàng khảo-cứu cho ra hình-tướng, phần ấy gọi là Đạo.
Vì cớ cho nên sách vở để
lại, thiên hạ đã thú thật rằng không phương đoạt được, phần định được chỉ nói
"Cường-Danh Viết-Đạo".
Cái sống và cái linh chia
ra làm hai hạng:
· Hạng khảo cứu về Vật.·
- Hạng khảo cứu về Thần.
Vật thì xu hướng theo bản
năng của cơ Tạo-Đoan hiện hữu, lấy vật lý làm căn bản, mà lấy vật-lý làm
căn-bản thì họ hướng về xã-hội nhơn quần, hay là định-sống của xã-hội, định
sống của xã-hội tức là định-sống của vật. Định-sống của vật tức nhiên là đời.
Bây giờ, bí-ẩn huyền-vi
của cơ Tạo-Đoan để trước mắt có nhiều lý lẽ bất-công, họ khảo-cứu về Tinh-Thần
Đạo-Đức. Những lẽ bất-công đó, buộc họ tiềm-tàng cao-siêu hơn nữa đặng cho
thấu-đáo cả bí-mật huyền-vi cơ Tạo-Đoan ấy.
Lẽ cố nhiên, con nguời
cũng đồng sống với vạn-vật, thấy mình linh hơn vạn vật, biết mình có bản-năng
đặc-sắc hơn nhờ cái Linh đó. Linh ấy đáng lẽ nó phải tồn-tại, nhưng cơ bí-mật
Tạo-Đoan, có chết thì có sống, giục con nguời đi trong con đường hiểu biết,
tiềm tàng cho thấu-đáo, tại sao mình sống, sống duy-chủ thân-thể mình, mình
chết cái Linh ấy, cái sống ấy nó đi đâu ? Vì cớ mà đời đã sản xuất các triết-lý
Đạo-Giáo, các vị Giáo-Chủ từ trước đến giờ đến thế-gian này tạo Đạo, đã để hai
khuôn khổ, định về chủ hướng ấy.
Sống về vật hình là
dìu-dẫn sự sống của huyền-linh, họ thuyên về một đường vô-hình. Sự sống chết họ
thấu-đáo cái hư-không tiêu-diệt và cái tồn tại hiển-hách của nó.
Bây giờ cả hành-tàng
bất-công do chỗ nào sản xuất ra trong cửa Đạo.?
Đời chúng ta ngó thấy cái
sống về vật-hình chia hẳn nó ra, thì cái sống về vật-hình là bóng dáng mơ hồ.
Trong cái sống vật-hình, thi-hài thể-chất, chúng ta nhận thấy nó không tồn tại,
mà trái ngược lại nó vẫn là cơ quan tạo-khổ cho ta mà thôi. Đã là cơ quan tạo
khổ, thì cái sống này có hữu ích gì đâu ? Chẳng lẽ cơ bí-mật Tạo-Đoan tạo ra
vật-hình, mà loài nguời ngó thấy đây để ảnh hưởng đến chơn tánh cao-thượng,
Tạo-Đoan ra không phải để chịu thống khổ mà thôi, phải có nguyên do gì chớ ?
Bởi nguyên do phải có chủ hướng, vì lẽ đó mà nó giục nhân-loại tìm-tàng
chí-hướng của con nguời sống để làm gì , là tìm hiểu đặng định phận của mình,
liên-quan như thế nào trong cái sống, tức nhiên là thấu-đáo bản năng của mình,
định-phần tương-lai giữa càn-khôn Vũ-trụ trong vạn-vật đó vậy.Tương-lai của sự
sống tức nhiên tương lai của loài người. Tương-lai của loài người tức-nhiên tương-lai
của Đạo. Con người đứng trước vạn-vật, thú cũng đồng thú, khác bởi người là
Đạo, trong người Chí-Tôn đã để Đạo, Đạo khác với thú là vì trong loài thú
Đức-Chí-Tôn không có để Tánh-Linh như Đức-Chí-Tôn đã định tánh cho loài người,
đặng loài người làm chúa vạn-vật. Vật phải dựa vào trong tay loài người đặng
duy-chủ đó vậy.
Ấy vậy Bần-Đạo nói: Có
Thể-Pháp thì có Bí-Pháp .
Các vị Giáo-chủ cũng phải
tùng theo khuôn-luật đó, một nền chơn-giáo có thể-pháp là cơ-quan giải-khổ cho
chúng-sanh tức-nhiên phải có Bí-pháp đặng làm cơ quan giải thoát cho
chúng-sanh. Hễ độ phần xác tức-nhiên phải độ phần Hồn cho toàn vẹn.
Một nền Tôn-Giáo nào đã
xuất-hiện tại thế gian này dầu Thể-pháp cao-siêu bao nhiêu đi nữa, nếu không có
Bí-pháp làm tướng-diện căn-bản, thì nền Tôn-Giáo ấy chỉ là Bàn-Môn Tả-Đạo mà
Thôi. Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng-tiếp Thể-pháp và Bí-pháp.
* * *
3. - Sống là Đời thuộc
Thể-pháp, Linh là Đạo thuộc Bí-pháp.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 13 tháng 04 Năm Kỷ-Sửu
(1949)
SỐNG LÀ ĐỜI THUỘC THỂ-PHÁP
LINH LÀ ÐẠO THUỘC BÍ-PHÁP
Trước khi giảng tiếp
Bí-pháp và Thể-pháp của Đạo, Bần-Đạo nhắc lại một lần nữa, kỳ rồi Bần-Đạo đã tỏ
cho cả thảy đều biết, nhơn-loại đến giữa cơ Tạo-Đoan Càn Khôn Vũ Trụ huyền vi
bí mật Tạo-Đoan đã cho một tánh-chất ly-kỳ bí mật , là khôn-ngoan hơn Vạn-Vật,
do khôn-ngoan ấy mà tìm hiểu rằng cả cơ thể Tạo-Đoan có hai đặc-điểm trọng-yếu:
- Một là Sống
- Hai là Linh
Biết được hai đặc-điểm ấy,
thấy nhơn-loại có hai chủ-hướng: Một là nương với cái sống của mình, cho cái
sống là hệ-trọng tức-nhiên là học-thuyết cơ-thể Taọ-Đoan của đời, hai là nương
theo tinh-thần nhơn-loại, nương theo triết-lý nầy cho cái Linh là trọng-hệ, vì
cớ nên xu-hướng theo phần hồn là Tinh-Thần thường tại.
Bây giờ chia theo hai lẽ
ấy.
1. - Sống tức là Đời
2. - Linh tức là Đạo
Hai lẽ sống chia nhơn-loại
ra hai đường căn-bản, đứng trung-tâm-điểm cũng do nơi trí-thức tinh-thần, mà
trí thức tinh-thần ấy xu-hướng:
1. Theo học thuyết Đời tức
là xu-hướng theo cái Sống.
2. Theo học thuyết Đạo,
tức là xu-hướng theo Linh.
Cả hai tinh-thần ta thấy
không có lầm-lạc, nhứt là đàng nào cũng có nguyên-lý của nấy. Đời xu-hướng theo
cơ-quan sống tức-nhiên cơ-quan Đời họ cũng có Bí-pháp và Thể pháp, xu-hướng
theo Đạo cũng có Bí-Pháp và Thể Pháp. Nhưng hai lý-thuyết tương-đương như
phản-trắc. Về phần Đạo, thì trí-thức tinh-thần nhơn-loại nhìn nơi vô biên biết
càn khôn vũ-trụ tức là cơ Tạo-Đoan, nó định luật cho khối người, thành ra pháp
chủ Luật, tức là Pháp trước Luật sau, còn cơ-quan đời tức là cơ-quan xu hướng
theo cái sống, định luật được rồi, mới tìm-tàng pháp đặng thi-hành luật, thành
ra Luật trước Pháp sau. Bây giờ Bần Đạo nói về thuyết Đạo-Giáo trước rồi mới
giảng thuyết Thế-Đạo sau.
Kỳ rồi Bần-Đạo hứa thuyết
về Đạo-pháp tức-nhiên là Bí Pháp, Bần Đạo đã nói có hai chủ hướng :
1. - Sống tức nhiên là
Thể-Pháp.
2. - Linh tức là Đạo thuộc
Bí-Pháp.
Chia rẽ rõ-ràng như vậy,
rồi không còn bợ-ngợ gì mà không quyết-định.
Ấy vậy trong Đạo Pháp có
hai thuyết:
Thể Pháp là xu hướng theo
sống, cái sống của vạn-loại tức là đồng sống với nhơn-loại, rồi do cái sống ấy
tìm tàng Thể-Pháp trong tinh thần Đạo-Giáo, đặng bảo-thủ cho tồn-tại cái Linh,
tức là bảo-thủ tồn-tại cái khôn-ngoan trí-thức của mình; buổi sống thế nào vẫn
còn mãi-mãi đến buổi chết. Trái ngược lại dầu cho cơ-quan chết ấy do cái Linh
ấy không có đại-diện của nó, ít nữa Linh ấy cũng để lại trong máu mủ chúng ta,
tức là để lại cho nhơn loại tương lai còn tồn-tại đặng. Chúng ta không thể chối
cãi được, tại sao chúng ta thấy hiện tượng trên mặt địa-cầu này con nguời có
đặc điểm riêng, dầu cho kẻ sơ-sinh cũng sống với cái sống của con vật, mà con
vật ấy cũng sanh như những con vật khác, có điều ta nhận thấy nó khôn ngoan hơn
tức là Linh hơn vạn-vật. Linh ấy do nơi Linh của nhơn loại đoạt được với tinh
thần Đạo-Giáo đặng truyền lại (droit d' hérédité) nếu Linh ấy nhơn-loại đọat
được là do Cha Mẹ đã đoạt được trước, vì trẻ sơ sinh kể như con thú kia lấy gì
khôn-ngoan hơn con thú được, nếu không nhờ cái Linh truyền thống lại chúng ta
ngó thấy Bí-Pháp ở giữa Thể-Pháp ta thấy nó bán thế, bán-lý, ấy là do sự
truyền- thống của tinh thần loài nguời ta chưa thấy một sắc dân nào đã
tiến-triển, tức đã tiến bước trên đường văn- minh hay là đã tiến bước trên con
đường trí-thức tinh-thần mà thối bước trở lại. Nhơn-loại mãi tiến tới không bao
giờ thối.
Chúng ta ngó thấy nữa: Mặt
địa cầu nầy có nhiều sắc dân, sắc dân nào đã khôn ngoan thì họ truyền tử lưu
tôn, khôn-ngoan đặc-biệt, điều ấy không ai chối đặng. Aáy vậy cái Linh của
chúng ta không ngó thấy mà biết rằng có cái truyền thống cũng như Bí-Pháp là
cơ-quan bí-mật ta không ngó thấy, không có gì tượng trưng cho nó nơi mặt địa
cầu nầy, nhưng ta biết rõ nó vẫn tiến triển mãi.
Nhìn cao hơn chút nữa,
giữa nhơn-loại đối-với cá-nhân hay đối với dân-tộc, chúng ta thấy trước sau đặc
biệt không thể gì chối cãi được nữa, ta không thể nói mặt địa-cầu này, giờ phút
này, có một nguời nào làm người như Đức-Phật Thích-Ca, như Đức Lão-Tử, Đức Chúa
Jésus- Christ đã làm người. Ta không thấy nguời nào dám nói la ø nguời, có đủ
sức đối thủ với các Đấng ấy, chưa có đặc-điểm gì khác. Các Đấng ấy cũng là
nguời như ta, tại sao lại được hơn ta vậy. ? Tại khối Linh của họ đoạt-được
muôn-muôn kiếp sanh, ta không đoán biết đặng đã lập vị cho họ đến đặc-điểm mà
ta chưa hề biết tới, chúng ta đang còn ở hồi sau, khối Linh ấy định phận trong
tinh-thần Đạo-Đức, định phẩm cho họ làm Giáo-Chủ nhơn- loại.
Hai đặc-điểm Bần-Đạo vừa
nói thuộc về Bí-Pháp.
Bây giờ nói Thể-Pháp tức
là nói xu hướng của cái sống. Các người đã tiềm-tàng học thuyết về cái sống mà
họ có tinh-thần xu hướng về cái Linh của họ. Họ đã làm thế nào tìm ra
khuôn-luật, Bần-Đạo đã nói, họ tìm khuôn-luật cho hạp với cơ Tạo-Đoan Càn-Khôn
Vũ- Trụ tức nhiên cái sống của họ phải thế nào cho phù-hợp với chơn-lý của vạn-
vật trước họ đặng đồng sống với vạn vật , đồng sống thì ta thấy có khuôn-luật
đặc điểm như thế nào ? Tại sao vậy ?
Tại Luật Thiên-Nhiên định
cho họ bảo-thủ cái sống (Instinct de conservation) luật thiên-nhiên cho bảo-thủ
cái sống là khuôn-luật định phận làm người giữa nhơn-loại vậy. Rồi đến bảo-thủ
cái Linh cho tồn-tại tức-nhiên là bảo-thủ khôn-ngoan, cái khôn hơn vạn vật.
Trước phải cung kỉnh cái sống ấy tồn-tại mãi, cái sống ấy vẫn còn về tương-lai
Đạo-Đức tinh-thần của nhơn-loại để định phận cho nhơn-loại. Nhơn-Loại đã
tìm-tòi và hiểu rằng: trên một triệu năm khi nhơn-loại để chơn nơi mặt thế này,
cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại, tại thế này có thể thêm chớ không có bớt là
do khôn-ngoan, biết bảo thủ cái sống tại mặt địa-cầu này thay-thế cho Đấng
Chí-Linh mà sửa cải, tô-điểm các cơ-quan hữu-hình cho đặng tận-thiện tận-mỹ như
Đấng Chí Linh đã định, họ theo khuôn-luật của mỗi ngày đi tới nơi, mỗi kiếp mỗi
mới mãi thôi "Nhựt Nhựt Tân Hựu Nhựt Tân" ngày nay mới, càng ngày
càng mới là lời Tiên-Nho của chúng ta để lại, đổi mới là khuôn-luật thiên-nhiên
chỉ định cho họ mỗi ngày phải mới tùng theo khuôn-luật tấn hóa của vạn loại
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này vậy. Muốn bảo-thủ cho cái sống tồn-tại, Đạo-Giáo lập
ra cái thuyết " Ái Truất Thương Sanh" làm căn-bản. Họ lấy yêu ái mà
định-luật cho cơ-quan bảo-thủcái sống tồn tại đến ngày nay, là do nơi đó mà
tinh-thần của con-nguời định quyết rằng; khuôn-luật Tạo-Đoan có bảo-thủ mạng
sống với khuôn-luật: Ái- truất quần-sanh của họ đặng thi-thố định con đường,
rồi họ quả quyết đi đến, tức nhiên sẽ đến cảnh Linh của họ giữa vạn-vật, họ sẽ
thấy đặc-điểm của họ để làm chủ Vạn linh ấy. Giờ phút nào họ thấy được thì họ
có quyền vi-chủ Vạn-linh. Đương- nhiên họ sống với hình xác thịt mà họ đã
quả-quyết định quyền vi-chủ của họ giữa Vạn-linh được, buổi thoát xác tức là
buổi lìa khỏi căn-bản nguyên sanh của họ, họ sẽ tới được cảnh giới Chí-Linh; Ấy
là Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn để tại mặt địa-cầu này vậy.
Kỳ rồi Bần-Đạo đã thuyết
một nền Tôn-Giáo nào có đủ cái Linh tại thế giữa loài người, làm cho loài người
biết ra một nền chơn-giáo có đủ bằng cớ là Huyền-Linh, đặng bảo-thủ phần hồn
của loài người là căn-bản của loài người. Còn nền Tôn-Giáo nào không có cái
Linh ấy, Bần-Đạo đã nói chỉ là Tả-Đạo Bàn-Môn mà thôi, bởi không có đủ quyền-
năng siêu- độ chơn-hồn của vạn-loại. Phải có cái Linh đủ năng lực độ hồn
nhơn-loại, bằng không, Bần-Đạo nói lại, chỉ là Tả-Đạo Bàn-Môn đó thôi.
Chúng ta thấy các nền
Tôn-Giáo từ trước đến giờ dầu cho Linh ấy không ra tướng-diện từ buổi có loài
người vẫn chạy theo Linh ấy. Các nền Tôn-Giáo tại mặt địa-cầu này và các vị
Giáo-Chủ tạo Đạo vẫn tìm cách làm cho cái Linh ấy được ra tướng-diện. Bần-Đạo
không cần tả nhiều e thiên hạ nói của mình trọng hơn của thiên hạ. Đạo Cao-Đài
có đủ quyền- năng hiển-hách anh-linh của nó, không có nền Tôn-Giáo nào tại thế
này khả dĩ đối thủ được cả thảy, tức nhiên Bí-Pháp của đạo Cao-Đài giờ phút này
không có kẻ nào dám cả gan nói Bí-Pháp ấy do tay phàm hay do một vị Giáo-chủ
mang xác phàm cầm nó mà chính trong tay của Đức-Chí-Tôn là Đấng tạo Càn-Khôn
Vũ-Trụ, chúa cả vạn-vật, cầm Bí-Pháp trong tay đặng độ rỗi phần-hồn nhơn-loại,
tức nhiên không có nền Tôn-Giáo nào dám đối thủ với Đạo Cao-Đài cho bằng đặng.
* * *
4. - Thể-pháp của Thế Đạo
là Bảo-toàn sự sống của Nhơn-loại.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 12 tháng 05 Năm
Kỷ-Sửu(1949)
THỂ-PHÁP CỦA THẾ-ÐẠO LÀ SỰ
BẢO-TOÀN SỰ SỐNG CỦA NHƠN-LOẠI
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp
Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thế-Đạo. Mấy kỳ trước Bần-Đạo đã trình bày đại cương
Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo; bây giờ Bần-Đạo khởi tách ra từ chi tiết của nó.
Bần-Đạo đã chán biết, có
nhiều người ham nghe Bí-Pháp của Đạo lắm, nhưng Bần-Đạo phất ngọn lên đó để
đặng cho họ theo đặng họ đi cúng, nếu không họ làm biếng đi cúng họ ngủ hết.
Bần-Đạo khởi thuyết
Thể-Pháp của Đời.
Vả chăng Bần-Đạo đã nói
rằng: do hai chủ yếu làm cho con người xu-hướng theo hai lẽ.
1. - Yếu tố thứ nhứt: sống
đeo đuổi theo sống, theo yếu-tố sống tức nhiên theo Đời.
2. - Yếu tố thứ nhì: đeo
đuổi theo Linh tức-nhiên theo Đạo.
Trước Bần-Đạo đã thuyết
sống của Đời, chúng ta đã thấy luật định sống của con người. Bần-Đạo nói: muốn
định sống cho có trật tự, cho có đẳng cấp, thì họ có hai cái hòa bình và tranh
sống với nhau; cái khổ Thể-Pháp của Đời là vậy. Chúng ta thấy Thể-Pháp của Đời
để đặng bảo toàn sự sống chung của nhơn loại.
Chúng ta thấy trước mặt không
cần kiếm.
Muốn bảo-toàn sanh-mạng
của loài người chúng ta thấy buổi Thượng-Cổ lúc còn ăn huyết ở hang chưa biết
cất nhà cửa lầu đài đặng ở, phương sống của họ khó- khăn lắm.
Chung quanh họ bao vây
toàn những cơ quan tiêu-diệt họ là thú dữ thiên-tai mộc-ách.
Họ muốn bảo toàn mạng
sống, tức họ phải kiếm phương thế tự-an tự-lập.
Chỉ có hai bàn tay không
thì làm sao kiếm cho ra sắt đặng làm binh khí tự vệ lấy mình; vì buổi ấy thú dữ
mạnh hơn người.
Người Mường-Mán tự-vệ bảo
toàn sinh-mạng buổi đó cho còn tồn tại cho đến ngày nay không phải dễ.
Chưa biết cất nhà, họ phải
chun vô hang hố đặng bảo trọng lấy họ, rồi một người chiến đấu với thú mạnh-mẽ
không nổi họ phải chung hiệp với nhau, tức-nhiên thành Mường-Mán như chúng ta
ngó thấy Mọi miền Cao Sơn của chúng ta vậy.
Mường Mán ấy chẳng phải để
chiến đấu với thú dữ, chiến đấu với thiên tai mộc ách mà thôi, họ còn phải
chiến đấu với các cơ quan làm hại họ, tức-nhiên Mường Mán này muốn đè lên Mường
Mán khác, buộc họ phải chiến-đấu đặng giành quyền tự chủ của mình.
Muốn chiến đấu cho đắc
thắng họ phải chung hiệp lại đại-đa số hơn, thành ra một Quốc-Gia một Xã-Hội.
Trong một Quốc-Gia chúng ta thấy nhiều số nhơn-sanh là vậy.
Ngày nay định sống của họ
cho có trật tự thì khổ lắm, bởi vì ai cũng muốn bảo-tồn mạng sống của mình
trước đã. Nhiều khi mình muốn bảo-tồn mạng- sống của mình chẳng kể mạng sống
của kẻ khác; khổ là chỗ đó.
Muốn cho sống có trật-tự
thì phải định luật tức-nhiên họ phải bảo-vệ sanh-mạng của dân, đặng buộc người
đồng sống trong khuôn khổ tự hữu của mình; muốn cho được vững chắc thì phải đặt
ra luật pháp, có luật pháp thì phải có Viên-Quan Vua-Chúa.
Định luật xã-hội phải như
thế mà thi hành rất khó-khăn lắm, lúc tâm-lý nhơn-sanh còn đơn giản, thi-hành
là muốn cho thiên-hạ bảo-vệ sự sống của dân trong một Quốc-Gia mà thôi, rồi
lần-lần họ khôn ngoan, họ lấy khôn-ngoan của mình đặng chiến-đấu với các
cơ-quan nào làm cho mình mất tự do làm cho mình không được tự chủ.
Nhơn-loại bây giờ cũng
thế, họ phá rối luật-pháp buộc ràng họ bằng mọi cách gián tiếp hay trực tiếp.
Bởi vậy ngày nay một luật-định xã-hội bảo-toàn sanh mạng cho nhơn-loại đương
nhiên bâygiờ khó khăn đáo-để.
Đầu tiên khởi ra Mường-Mán
chiến-đấu với nhau, Mường-Mán đó tiêu-diệt sang qua Xã-Hội Quốc-Gia, Quốc-Gia
bao giờ cũng muốn cường quốc đông dân số, như các nước mạnh kia vậy. Cũng như
thể Trung-Hoa dân số có lối bảy trăm mấy chục triệu dân-tộc hiện tại thành thử
họ thường-thường tương tranh với nhau luôn-luôn, khuôn-khổ kia xét lại đến ngày
nay các liệt cường Quốc-Gia liên-minh của mặt địa-cầu này, muốn bảo toàn mạng
sống khó-khăn lắm.
Bần-Đạo nói cho mấy người
nghe đặng mấy người theo, rán theo sau Bần-Đạo đặng hiểu Bí-Pháp của Đạo.
Bần-Đạo cho biết rằng:
Bí-Pháp của Đạo và Thể-Pháp của Đời có liên quan với nhau, nếu làm biếng không
nghe Đời không thể gì biết đến Đạo.
Bần-Đạo nói rằng: về
Thể-Pháp, dù Thể-Pháp, dù Bí-Pháp nào nói rõ Thể-Pháp một Quốc-Gia nào, một
dân-tộc nào, mà phù hợp với tinh thần tiến triển của dân-sanh nước ấy,
tức-nhiên phù-hạp với tinh thần hữu-nghị của họ, thì nó tồn-tại bằng trái ngược
lụng lại tinh-thần của dân tức-nhiên dùng cường quyền ép bức mà thôi.
Bần-Đạo đã nói từ hồi nào
đến giờ, con người bao giờ cũng chiến-thắng với các trở lực làm mất tự-do, mất
quyền vi-chủ của mình, tức nhiên tâm lý nhơn-sanh không buổi nào chịu thua một
cuỡng bức nào làm cho họ đã mất quyền vi-chủ, họ chiến-đấu mãi thôi.
Ngày giờ nào còn quyền áp
bức dân-tộc này, ép-bức dân-tộc khác, dùng quyền tàn sát đặng bảo-thủ sanh-mạng
của họ, thì giờ phút đó chưa có hòa-bình trên mặt địa-cầu này. Không hòa-bình
là Tả-Đạo, là giả-pháp, không đúng với tâm-lý nhơn-sanh.
Ấy vậy, chúng ta thấy
những quyền luật nào lập ra tại mặt địa-cầu này mà không trái với tâm-lý của
nhơn-loại thì nó sẽ tiến-triển theo sự tấn hóa của nhơn-loại, đặng bảo- tồn
sinh-mạng của nhân-loại cho được vĩnh-viễn và hạnh-phúc.
Ấy thế Đạo của Đời chơn
chánh đó vậy.
* * *
5. - Bí-pháp của Thế-Đạo
là sự lưu-danh hậu thế.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 22 tháng 05 Năm
Kỷ-Sửu.
BÍ-PHÁP CỦA THẾÙ-ÐẠO LÀ SỰ
LƯU-DANH HẬU-THẾ
Đêm nay Bần-Đạo thuyết
Bí-Pháp của Thế-Đạo,vì kỳ trước Bần-Đạo đã thuyết Thể-Pháp của Thế-Đạo.
Nay Bần-Đạo phải thuyết
Bí-Pháp đặng cho toàn thể con cái Đức-Chí-Tôn biết định phận chơn với giả.
Người ta tưởng Thế-Đạokhông có Bí-Pháp; có chớ, tại Đời không đem ra để cho
toàn thể nhơn-sanh hiểu biết.
Có Bí-Pháp chớ; bởi những
hạng vĩ-nhân tạo thời cải thế, đã lập công-trạng đối với nhơn-loại, nơi mặt
địa-cầu này. Chủ hướng của họ tùy theo khuôn luật, khuôn pháp nào đặng họ tạo
nên cơ nghiệp vĩ-đại nơi mặt địa-cầu này ?
Thể-Pháp của họ chúng ta
thấy họ mơ-ước một điều: trước khi quá vãng (chết) được nêu danh ư hậu thế hay
là để lại một trang sử tốt đẹp cho đoàn hậu tấn của nhơn-loại.
Xem ấy mà định-hướng
chủ-tâm của mình hay định tương-lai của mình, tức nhiên thế-gian người ta
thường gọi "Lưu-danh ư hậu-thế" để danh lụng-lại cho kẻ sau đó vậy.
Lưu-danh ư-hậu-thế, họ đã
dùng phương thế nào ; họ đã dùng chánh thuyết nào đặng họ phụng-sự cho thiên-hạ
trong một nước, nếu họ không phụng-sự cho Tổ-Quốc ?
Đối với Quốc-dân họ
phụng-sự cho Quốc-dân, đối với toàn nhơn sanh nơi mặt địa-cầu này, họ có đủ
chủ-hướng phụng-sự cho nhơn-loại. Đã định tâm phụng-sự tức nhiên nơi này là nơi
bí-yếu hơn hết. Xin để ý.
Hể quyết tâm phụng-sự
tức-nhiên họ phải lấy chánh tâm làm căn-bản, do chánh tâm ấy họ bước vô
khuôn-khổ của Đạo, tương-liên với Đạo, chánh-tâm ấy để giá trị cho Quốc-dân.
Thiên-hạ bước vô đường chánh tâm rồi tức-nhiên có liên-hệ với Đạo, họ phụng sự
cho thiên hạ là chỗ liên hệ sự Đạo-Đức tinh-thần của toàn nhơn sanh đó vậy.
Chúng ta đã thấy rằng lời của Đức-Chí-Tôn đã nói: "Đạo không Đời không sức
mà Đời không Đạo không quyền", cả hai tinh thần ấy phải tương-liên
mật-thiết cùng nhau không thể gì rời-rãvới nhau đặng. Chúng ta đã thấy nhiều lý
thuyết họ đã tiềm-tàng họ muốn thế nào Đời thoát-ly với Đạo mà như thể chúng ta
ngó thấy các nền Tôn-Giáo như bên Thiên-Chúa-Giáo như Care Litaire muốn thoát
ly ra khỏi Công-Giáo Gia-Tô mà họ chẳng hề thoát ly đặng. Họ muốn thoát-ly
Công-Giáo, thoát-ly Công-Giáo tức nhiên họ tiềm-tàng đáo để họ kiếm phương-thế
giải-thoát ra khỏi Đạo nhưng cũng không đặng.
Giờ phút này chúng ta ngó
thấy Nga-sô Viết lấy thuyết Cộng-Sản làm căn-bản, thuyết Cộng-Sản tức-nhiên
thuyết Duy-Vật lấy vật-chất làm căn-bản, mà chối bỏ linh-hồn.
Về thuyết vật hình, tức
nhiên nghịch hẳn với tinh thần Đạo-Đức. Vật-chất họ phải đề xướng: " Tam
vô" là vô thần đứng đầu hơn hết, nó phải đánh đổ tinh-thần Đạo-Đức đặng nó
đi trọn con đường vật-chất. Phải chiến-đấu để vật-chật thắng tinh-thần. Giờ phút này nước Nga cũng chưa hề
thoát-ly Đạo-Đức được phải đem Đạo-Đức làm căn-bản mà thôi.
Tại Nga-Sô lúc Cộng-Sản
chiến thắng đánh-đổ chánh-quyền rồi, tức-nhiên Staline không còn nhìn Đạo-Giáo
nữa, không còn nhìn quyền Hội-Thánh La-Mã nữa.
Ngày đánh đổ chánh-quyền
khám-phá quyền-lực của nhà thờ, chỉ trích quyền-lực của Nhà Thờ, nhưng rốt cuộc
ngày nay phải đem Đạo-Giáo đem Công-Giáo, tái lập các Đền-Thờ trở lại.
Tuy vẫn không tùng quyền
Ông Giáo-Hoàng La-Mã mà nó vẫn tùng quyền Ông " Got Oann" như Ông
Giáo-Hoàng của nhà Thờ mà thôi.
Còn nhiều nữa, nếu chúng
ta quan sát từ thượng-cổ, bao giờ Đời cũng kiếm phương-thế thoát-lý Đạo,
chiến-đấu để thoát-ly Đạo.
Họ biết không tùng theo nó
thì họ không quyền mà hể tùng theo nó thì mất tự-do tự-chủ của họ, nó mất thì
nó chẳng khi nào mà trị thiên hạ được. ?
Từ thượng-cổ đến giờ không
một Quốc-Gia Xã-Hội nào nơi mặt địa-hoàn này vô Đạo mà cầm quyền thiên-hạ được,
không thể có.
Vì cớ cho nên cổ nhơn
tức-nhiên Tổ-Phụ nòi giống Việt Nam trị dân vi đạo " Dĩ-đạo Vi-tiên"
tức-nhiên trị Đạo chớ không phải trị dân đó vậy.
Có một điều Bần-Đạo chỉ
chỗ chính giữa, muốn phụng-sự Quốc-dân hay Quốc-Gia cho đắc lực, phải có thành
ý, rồi Chánh tâm; muốn cóchánh tâm thì mình phải Tề-gia Trị-Quốc rồi mới đến
Bình Thiên-hạ nghĩa là: tu thân, tức-nhiên nhơn-đạo đó vậy. Chính thiên-hạ có
liên-quan mật thiết với Đạo mà lưu lại thanh- sử, nhưng cũng chưa đủ.
Chúng ta ngó thấy họ muốn
thoát-ly Đạo-Giáo, nói gần hơn nữa, ở cõi Á-Đông chúng ta thấy gì ? Như nhà Vua
các công-thần " Vị-quốc vong-thân" nhà Nam ta có phong-thần nên buộc
các Làng các Tổng, các Huyện, các Phủ, phải lập Đền Thờ, thờ các Đấng ấy, là
Đình của chúng ta đó vậy.
Thoát-ly, họ muốn thoát-ly
Đạo, đặng họ lập khuôn-khổ riêng tư của họ, họ càng lập càng đội Đạo-Giáo trên
đầu thêm nặng nữa.
Bên Âu-châu chúng ta thấy
gì ? họ muốn thoát ly Đạo-Giáo mà những công-thần ấy họ dựng hình để chỗ nào
đông dân chúng, tùy theo công-nghiệp của mỗi người họ định chỗ dựng hình ảnh
của họ để lưu lại cho hậu thế, dựng hình-ảnh ấy là gì ? Ấy là Bí-Pháp của họ đó
vậy.
Họ tưởng thoát-ly Đạo-Giáo
là dễ nhưng mà hình cốt dựng lên họ để cả bài học cho hậu tấn; những cái hình
ảnh còn tồn-tại đây, xác-thịt xương-máu của những kẻ ấy được lưu hình-ảnh tại
mặt thế này là những Đấng để cả tâm-đức phụng sự cho Quốc-Gia và nhơn-loại đó
vậy.
Làm cho đặng họ ham lắm.
Giờ phút này các Vị cầm
quyền trị-thế trong một xã-hội nhơn-quần nào, cũng mơ-ước một điều là phải lưu
danh hậu-thế mà thôi, lưu cả hình ảnh tôn-nghiêm của họ để hậu thế nữa.
Vì cớ cho nên nhiều người
nhiều khi khổ hạnh phải cực-khổ trong trường tranh-đấu vì Quốc-Gia Xã-Hội
nhơn-quần khổ-não về tinh-thần nhọc-nhằn biết mấy. Có nhiều người thối chí mà
nhờ cái năng lực và quyền-lực lưu danh ư-hậu-thế ấy buộc họ phải làm nữa, trong
con đường phụng sự Quốc-Gia cho đến cùng. Vì thế phải có một tấm lòng chơn thật
mới quyết-định được.
Ấy vậy, Bần-Đạo lập lại
một lần nữa, để lại một trang lịch sử tốt đẹp cho hậu-thế, để hình-ảnh
tôn-nghiêm cho hậu-thế ấy là Bí-Pháp của Thế-Đạo.
Còn nữa, ngoài ra nữa, còn
có cái này; cái này không hình trạng mà đáng sợ hơn hết là miệng lưỡi của
thế-gian. Có nhiều việc không để nơi trang lịch sử được, nhiều khi bất công của
nhà Vua hay của nhơn-quần họ không để nơi trang sử được, họ chỉ để nơi miệng
lưỡi thế gian mà thôi, đáng sợ hay chăng là chỗ đó. Hoặc là vì sự bất chánh yểm
cả công-nghiệp công-thần của mình; nhưng công nghiệpấy họ để nơi miệng lưỡi của
dân, của thiên-hạ. Bí-Pháp ấy mới cao-thượng, mới bền bỉ, Bí-Pháp mà
Đức-Chí-Tôn dành để đặng ban thưởng cho những kẻ vì Đạo nhơn-luân của con người
biết quên mình vì Đạo. Vì Đạo mà tạo tinh-thần cho quần chúng đó, Bí-Pháp ấy
cao-thượng hơn hết.
* * *
6. - Chìa khoá tinh-thần
của Thể-pháp và Bí-pháp Thiên-Đạo.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại
Đền Thánh .
đêm 26 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu.
CHÌA KHOÁ TINH-THẦN CỦA
THỂ-PHÁP VÀ BÍ PHÁP THIÊN-ÐẠO
Kể từ hôm nay Bần-Đạo
giảng tiếp Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thiên-Đạo.
Trước khi Bần-Đạo giảng
một cái triết-lý trọng-yếu ấy Bần-Đạo muốn cho cả thảy chúng ta mỗi người đều
để tinh-thần trí não của mình tự xét lại coi đương nhiên chúng ta đang sống
trong hoàn cảnh nào.... ? Chúng ta làm gì nơi cõi thế này ? Cái lập trương của
kiếp sống ta đối với vạn-vật hữu-hình mà Đức-Chí-Tôn gọi là Vạn-linh ấy thế nào
?
Mỗi người tự soát, tự soát
đặng mới có thể hiểu đặng huyền vi bí-mật của Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thiên-Đạo
ấy là cái chìa khóa của chúng ta mỗi đứa mở lấy cái nguyên-linh của chúng ta
vậy.
Bần-Đạo rủ cả thảy con cái
Đức-Chí-Tôn cầm chìa khóa nơi tay, đặng mở cả huyền vi bí-mật ấy cho thấu đáo;
thấu đáo cho đặng rồi mới có thể biết được cơ-quan giải-thoát của mình.
Bần-Đạo lấy của Bần-Đạo
trước đã, Bần-Đạo tự mình, quan-sát của Bần-Đạo coi cái sống của Đời và cái
Linh của Đạo tức-nhiên trí hóa khôn ngoan vô-đối của chúng ta thuộc về Đạo, như
thế nào ?
Linh ấy sống với phương
pháp nào cho còn tồn-tại ? Tại sao chúng ta vào cửa Đạo, chúng ta vào đây chúng
ta ngồi, tại sao chúng ta chung hiệp với nhau vô Đền-Thánh này mỗi đêm phải
cầu-nguyện kinh-kệ với Đấng mà chúng ta gọi là Đấng Tạo-Đoan cả Vạn Linh
tức-nhiên Đấng Chí-Linh đó vậy? Chúng ta tôn sùng Đấng ấy để làm gì ? Đấng ấy
có hữu ích gì cho chúng ta hay chăng mà chúng ta phải phụng sự những điều chí
thiết ấy ? Nên tìm tàng cái nguyên-lý của nó cho thấu đáo mới gọi rằng tu mà
muốn tu phải biết huyền vi bí-mật ấy mới tu, còn không biết bất quá vô
Đền-Thánh hát chơi vậy thôi.
Hễ khi nào làm biếng không
đi cúng rồi đổ thừa có chuyện này chuyện kia, tại mình không biết giá-trị của
sự đi cúng, phải biết trong đó cái đã.
Bần-Đạo biểu tự soát mình
coi, tại sao vô Đạo Cao-Đài, Đấng đã chung hiệp với con cái của Ngài là Đấng
Chí-Linh tức-nhiên là Đức-Chí-Tôn chúng ta đang chiêm-ngưỡng tại Đền-Thánh này.
Phải biết giá trị đó mới dám can-đảm thí thân cho Đạo mới có thể cương-quyết
đặng chung sống với con cái của Ngài. Chớ không lẽ ngồi đó tu theo họ mà không
biết chơn-lý ở đâu.
Các nền Tôn-Giáo, chúng ta
đã thấy chán-chường trước mắt vì lẽ đó mà vong phế.
Bần-Đạo thuyết, bây giờ
Bần-Đạo khai rõ cả tâm-lý của Bần-Đạo rồi cả thảy con cái Đức-Chí-Tôn cũng vậy
tự mình cung chiêu của mình đi.
Bần-Đạo theo Đạo Cao-Đài
do lẽ này: kiếp sống của Bần-Đạo không có biết tin gì hết nhứt là đầu óc chỉ
lấy triết lý học-thức làm căn-bản, không ai nhồi sọ đặng, nhứt định không để
chủ quyền tinh-thần mình không bị ai lừa gạt, dầu cho Bần-Đạo đã theo Thiên-Chúa-giáo.
Hồi thuở nhỏ nghe ra bị
khó nuôi rồi Ông già Bà già sanh ra mấy người đều chết hết, đến nóng lạnh cũng
chết, đến đổi thiên hạ sợ, tới phiên tôi Ông già Bà già bồng đem tôi đến Nhà
Thờ Thiên-Chúa cho Ộng Cha làm con nuôi ông ấy.
Tôi lớn lên đi học trường
mà cũng đi theo làm đồng nhi bên Thiên-Chúa-Giáo cũng như ai kia vậy; nhưng
trước khi đi học Bà già cho vô trường học Nho trước, học chừng một năm ruỡi rồi
cho vô trường Pháp nên không biết thêm gì hết, xét mình tự nhỏ đến lớnkỳ khôi
hơn ai hết.
Cái gì cũng muốn biết mà
thôi, cho đến lúc khôn-ngoan trí-thức cũng vậy, cả cơ-quan của Đời tìm-tàng cho
thấu đáo mọi điều, tìm cho hiểu, mỗi sự chi cũng tìm cho biết mà không biết
được thì không ăn không ngủ.
Khó lòng lắm, khó lòng
quá, khó-khăn lắm, vậy phải tìm qua cho đặng hay biết cho đặng mọi việc ở Đời.
Suốt một thời-gian, vẫn
giục thúc tới chỗ bí- mật huyền vi của Càn-Khôn Vũ-Trụ, giục thúc Bần-Đạo một
điều làm cho tinh-thần Bần-Đạo xốn-xang biết bao.
Bần-Đạo thấy chung quanh
các bạn đồng-sanh của Bần-Đạo dầu cho chí thân hay ngoại-tộc cũng vậy họ đương
dung-rủi trên con đường quanh co khúc-khuỷu của Đời. Bần-Đạo cũng sống theo với
họ trong con đường dục tấn, con đường ấy tức-nhiên chạy theo quan chức mỗi
bước, mỗi ngày tình trạng khổ não, khó-khăn lắm, không biết họ làm cho
tinh-thần đặng hạnh-phúc hay đau-khổ ! Không thấy hạnh-phúc gì hết; qua mỗi
khoảng đường day lụng lại kẻ thương yêu của mình dầu lớn dầu nhỏ họ đã té quị
theo dọc đường ấy nghĩa là họ chết.
Những kẻ thương yêu
Bần-Đạo, Bần-Đạo dòm lại một lần nữa họ đều chết hết dầu chí thân hay ngoại
thân cũng vậy. Tức tối thay cho quyền-năng vô-đối của vô hình kia tại sao phải
từ bỏ ? Không sanh sống cho vẹn toàn con người già hay trẻ đều lần lượt chết
hết biết bao nhiêu giọt lệ của Bần-Đạo đã khóc với thân già và biết bao nhiêu
giọt thảm của Bần-Đạo đã rưới trên thân trẻ. Tình trạng đau-khổ giục-thúc
Bần-Đạo tìm hiểu coi cái phương pháp giải-kiết, phương-pháp giải-nạn coi có nơi
nào hay chăng. Thử tự soát mình, tự xét nghĩ mình cũng một mạng sống cũng như
mấy ngàn triệu mạng sống nơi mặt địa-cầu này, không kể các Vạn-Linh bao phủ,
chung quanh họ, thấy họ khổ trong con đường sống ấy lắm.
Có nhiều khi muốn bảo thủ
mạng-sống họ mà họ phải tận diệt mạng sống khác. Các mạng sống bị tận-diệt thì
họ phải chịu đau-khổ thống thiết vô ngần vô-đối; trường đau khổ ấy trải trước
mặt Bần-Đạo.
Đối với vạn-vật thấy
tình-trạng mạnh hiếp yếu, dữ ăn hiền, đối với loài người thì ngó thấy họ không
kính nể mạng-sống đồng loại đồng chủng với nhau. Một tấn tuồng bất công trải trước
mặt, muốn kiếm phương an ủi thấy mình cũng một kiếp sống như các người kia vậy.
Mỗi chúng ta kiếm con
đường hữu ích, cái hữu ích cho bạn đồng sanh của mình, hễ thấy mình ăn thì bạn
mình mất ăn; mình mặc thì bạn mình mất mặc, tức-nhiên chính mình, mình cũng
giành sống với họ. Xét đoán mình không có hữu ích chi đối với họ cả, mà trái
ngược lại mình làm tội ác, mình làm khổ-não cho họ mà thôi. Bởi vì mình giành
giựt cái sống họ để bảo thủ cái sống của mình, mình phải dành cái sống của họ
kia kìa thành ra mình không hữu ích gì hết.
Kiếm thế an ủi, có thể nào
làm nô-lệ cho họ tôi không ăn mà tôi sống không, nói đến cái đó thì rất khó
muốn làm cho đặng trọn trong con đường sống tức-nhiên tôi không thể làm được.
Muốn kiếm giải-pháp ấy cho được thì tôi gởi cả tâm-hồn tôi vào tay một Đấng
vô-hình, nương theo cái quyền-năng vô-hình làm Chúa của các mạng sống ấy đặng
kiếm thế bảo-thủ mạng-sống của thiên-hạ. Triết lý ấy kiếm coi ở đâu, như bên
Phật-Giáo biểu vô chùa mà tu, tụng kinh gõ mõ đặng ăn mà sống, sống riêng cho
cá-nhân, như vậy thì còn tội ác hơn hết thảy bởi vì biểu họ bố thí cho mình ăn
để mình sống, còn họ thì thiếu sống. Các nơi khác nữa, ngồi đó duy chủ cái
quyền sống như các nền Tôn-Giáo khác họ giành cái sống ấy còn mạnh-mẽ hơn các
thứ quyền giành sống khác nữa. Nếu tới một vài cửa khác họ lại giành sống
xảo-trá còn tồi-tệ hơn nữa. Kiếm phương thế giúp sống cho đồng sanh mà kiếm
không ra.
May thay trong buổi
khuẩn-bách tinh-thần ấy, có Đấng Huyền-Linh đem lại với một phương-pháp
vô-hình, không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà làm cho chúng ta
nghe là Đức Cao-Đài Thượng-Đế, nhờ đó mà Bần-Đạo khỏi đi đâu hết. Nếu không có
Đấng ấy thì có lẽ Bần-Đạo điên đi mà chớ; điên vì cái khổ não của Đời, điên vì
gớm ghiết cái cơ-quan tranh sống của nó.
Ban sơ Bần-Đạo chưa biết
Ổng mà Ổng cho Bần-Đạo làm Hộ-Pháp. Bần-Đạo không biết gì hết, Bần-Đạo nhắm mắt
Bần-Đạo theo.
Tại sao Đấng ấy làm
thiên-hạ nghe, thiên-hạ theo, chính mình cũng vậy. Lý lẽ của Ổng , Ổng đem đến
cho thấy rằng: giúp sống chớ không phải giành sống. Các bạn của mình họ đùa họ
theo; em út của mính dĩ-chí cho đến bạn đồng niên mình họ đùa họ theo họ nghĩ
rằng tôi gơỉ tâm-hồn tôi cho Ổng, một mình tôi, tôi thấy rằng không đủ Đấng tạo
Đạo không phải gọi một mình tôi mà chính gom-góp đại đa số tâm-hồn như tôi và
có thể đem gởi cả đôi triệu tâm-hồn khác nữa vì vậy tôi có thể theo Đấng này
được. Đấng đó tôi nên theo, theo có hai lẽ.
1. - Về phần Đời tôi khỏi
cái bệnh đau thảm của tôi.
2. - Về phần Đạo tôi khỏi
côi cút lẻ loi.
Tôi có một đám người biết
tình ái vô hạn của tôi, có một đám người cùng tôi gánh khổ của đời tức-nhiên họ
chịu nhiều khổ đặng họ giải khổ cho thiên hạ.
Nói đó là nói của tôi, để
tâm hồn theo Ổng về mặt Đời và về mặt Đạo mà thôi, tôi chỉ nghĩ có bao nhiêu
ngoài ra tôi không biết gì nữa.
Bây giờ Đạo Cao-Đài không
biết chánh hay là tà, tôi chỉ biết Đấng ấy có thể gom-góp đôi triệu tâm-hồn vào
tay Đấng ấy là Đấng Chí-Linh.
Bây giờ tôi không tin Đấng
ấy nữa mà tôi chỉ tin một điều là ngày giờ nào cái linh hồn tôi thoát xác ra đi
bỏ cái địa hoàn này, tôi sẽ gặp các bạn chí thân từ trước của tôi, Tổ-Phụ Ông
Bà của tôi. Tôi không biết cảnh hư linh như thế nào mà nếu tôi gặp được họ thì
tôi mới chắc.
Ngày giờ nào tôi về cảnh
Thiêng-Liêng kia, quả nhiên linh-hồn tôi còn tồn tại chớ không phải tiêu-diệt
như nhiều triết-lý vô-thần, nhiều nhà Duy-vật đã thuyết nơi mặt địa-cầu này.
Giờ phút nào tôi thoát xác
tôi về vơi hư-linh mà tôi được một vài triệu linh hồn về cảnh Thiêng-Liêng
Hằng-sống thì tôi không còn hạnh phúc nào hơn chỗ đó nữa. Tôi không biết
giá-trị, không biết quyền-năng ra sao, nhưng tôi ngó thấy Ổng có thể làm cho
tôi làm bạn với cả trăm, cả triệu chơn linh trên cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống, vì
cớ cho nên tôi phải vào Đạo Cao-Đài đặng tôi phụng sự cho Ổng tức nhiên tôi
phụng-sự cho con cái của Ổng. Tôi nghĩ có bao nhiêu đó mà tôi theo cho đến ngày
nay. Tôi đứng giữa tòa-giảng này để ngửa cái triết-lý ấy đặng cho toàn thể con
cái của Đức-Chí-Tôn rõ biết đặng suy xét.
Đó tôi lấy chìa khóa mở
tinh-thần của tôi rồi đó còn mấy bạn lấy chìa khóa mở tinh-thần mấy bạn đi rồi
tôi tiếp tục giảng Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo Cao-Đài.
* * *
7.-Thể-pháp Thiên-Đạo của
Cao-Đài-giáo là cứu khổ.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 29 tháng 05 Năm
Kỷ-Sửu.
THỂ-PHÁP THIÊN-ÐẠO CAO-ĐÀI GIÁO LÀ CỨU KHỔ
Đêm nay Bần-Đạo thuyết
Thể-Pháp Thiên-Đạo Cao-Đài. Kỳ trước Bần-Đạo và toàn con cái Đức-Chí-Tôn đã rủ
nhau tự-soát cái kiếp sống của mình đặng thấu đáo hành- tàng cả chơn tướng của
mình, phải thế nào đối với Càn-Khôn Vũ-Trụ, đối vơi kiếp sống.
Tưởng cả mỗi người chúng
ta đều có trí định cái nguyên do căn-bản của sự sống mình, cũng như Bần-Đạo đã
tự soát nơi giảng đài này bữa hôm trước đó vậy.
Chúng ta đã thấu đáo cả
chơn truyền của Đức-Chí-Tôn các huyền vi bí-mật cơ tạo-đoan càn-khôn vũ trụ, nó
có ba điều trọng yếu là:
1. - Cái kiếp sanh của ta
theo như chơn truyền Đức-Chí-Tôn các chơn linh đến tại mặt thế này hay là các
địa giới trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, cốt để trả quả kiếp của mình, hoặc mình đã tạo
căn quả, vì trong con đường tấn hóa chơn-linh của mình không đủ mực thước để
điều khiển khối nguơn-linh yếu ớt, không đủ quyền duy chủ mà phải phạm thêm tội
tình oan-nghiệt.
2. - Đến đặng tìm tàng cái
học lực của mình, học lực của mình là điều mình muốn biết cả kiếp căn của mình,
nếu không biết cũng đeo đuổi theo tìm tàng theo cho biết cả cơ quan bí mật tạo
đoan.
3. - Là nên lập vị cao
thăng hơn nữa tức-nhiên theo cơ Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ về hữu-hình cốt yếu để
giúp cho các chơn linh tấn-triển trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo có cho toàn thể
chúng ta thấy căn sống của mình chẳng phải nơi trái địa-cầu 68 này mà thôi, mà
các mặt địa cầu khác trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng đều một khuôn-luật ấy.
Có nhiều trái địa-cầu tấn
triển cao hơn khuôn -khổ kiếp sống của con người, có thể giảm bớt tội nhưng khuôn-luật
vẫn một mà thôi không có chi sửa đổi.
Chúng ta đã thấy mình
sống, kiếp sống của mình như thế; Bần-Đạo đã cho toàn thể con cái của
Đức-Chí-Tôn tự-soát mình lại không có hạnh-phúc chút nào hết. Thật sự ra đề mục
chúng ta phải đi trong khóa học này của Đức-Chí-Tôn, đến đặng mở khoa mục cho
nhơn loại buổi này. Hay là mỗi lần các Đấng chơn linh cao-siêu hơn nữa đến tạo
Đạo, cốt yếu đến mở khoa mục cho các chơn linh thì khi chúng ta đã ngó thấy
khóa này là khóa đầu tiên hết thảy trong đề mục. Khóa ấy riêng từ mức, mới khởi
mức số một, chơn linh kia trong vật-loại dĩ-chí đến Phật vị; đề mục ấy chưa có
vị Phật nào đoạt vị dầu cao siêu đi nữa cũng chưa giải-quyết được. Chính mình
các vị trong các vị Chí-Linh Hằng Sống chỉ có một Đấng giải quyết đặng đề mục "khổ
sanh" của chúng ta tấn-triển là duy có Đức-Chí-Tôn mà thôi. Ngoài ra nữa
không có vị Phật nào giải quyết đặng. Đức Phật Thích-Ca lập vị cầm quyền chưởng
giáo nơi Cực-Lạc Thế-Giái, chính mình Ngài đem thuyết Tứ-Khổ mà thôi, chính
mình Ngài cũng không giải quyết được, chính mình Ngài không duy chủ cái khổ ấy
đặng.
Ấy vậy, đề mục khổ là khổ
Sanh, trước là khổ Sanh, rồi tới Lão, Bịnh, Tử. Sanh trước là sanh sống, sống
là khổ, hễ cái pháp luật nào làm giảm khổ của chúng sanh nó là chơn; cái pháp
luật nào nó làm cho thống khổ chúng sanh là giả.
Pháp-Luật Đạo-Giáo nào mà
không hữu-ích gì cho cái khổ sanh của chúng ta thì không có giá trị gì hết.
Chúng ta quan sát coi các
nền Tôn-Giáo đã có phương giải-khổ cho chúng sanh hay chăng ?
Tại sao chơn, tại sao giả,
chính mình Đức-Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng cũng như chúng ta thấy các
cơ-quan trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt yếu là phải phụng sự cho nhơn-loại, cho Vạn
Linh.
Trái lại họ không phụng-sự
cho Vạn Vạn-Linh mà lợi dụng Vạn-Linh chớ không phải làm tôi tớ cho Vạn-Linh.
Hễ lợi dụng là không phải phương-pháp giải-khổ tức nhiên là giả pháp.
Quan sát lụng lại các nền
Tôn-Giáo hết, chúng ta thấy không có phương-pháp để giải-khổ chúng sanh, bất
quá là một lý -thuyết mơ-mộng mà thôi.
Giải-khổ cái sống cái đã.
Chúng ta thấy các nền
Tôn-Giáo đương-nhiên bây giờ có nền Tôn-Giáo nào phụng-sự cho chúng sanh không
? Có nền Tôn-Giáo nào làm tôi-tớ cho chúng sanh đặng giải khổ cho chúng sanh
hay chăng ? Quan sát coi. Chưa có !
Chúng ta ngó thấy, chúng
ta có một điều tức cười hơn hết là họ ngồi gõ mõ đánh chuông mà họ nói giải-khổ
cho chúng sanh.
Sanh trước cái đã, là mực
thước đi từ khuôn-khổ của nó nếu nói phi lý không quan sát được, không thể công
nhận được, nhưng đương nhiên chúng ta đã thấy gì ?
Bần-Đạo đã thuyết kỳ rồi
cái pháp-luật của Thiên-hạ là họ đã xu hướng theo "Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích Ca; họ dong-rủi theo
Tứ-Diệu-Đề để giải khổ cho chúng sanh là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Họ thi hành
trong khuôn-khổ quyền pháp của họ mà thôi.
1/- Sanh, họ lập nhà
Bảo-Sanh đặng giải khổ cho sự sống.
2/- Lão, họ lập ra cơ-quan
Dưỡng-Lão để nuôi kẻ già, kẻ yếu.
3/- Bịnh, họ lập ra nhà
thương khắp nơi cả thảy trên mặt địa-cầu này biết bao nhiêu nhà thương để chữa
bịnh cho đời.
4/- Tử, họ cũng làm
Âm-công, cũng bố-thí, cũng làm phước vậy, nhưng có một điều là họ bố thí chớ
không phải phụng-sự. Họ lấy của người này đem cho người kia chớ không phải
phụng sự cho nhơn-loại.
Còn Đạo Cao-Đài
Đức-Chí-Tôn đến biểu chúng ta làm gì ? Biểu chúng ta dùng cả xác thịt, trí-não,
tâm-hồn, làm Thánh-Thể cho Ổng, làm đầy tớ cho cả con cái của Ổng, đó mới là
thuyết giải khổ vậy.
Chính mình Bần-Đạo cầm
quyền Hội-Thánh đem vào khuôn-khổ luật-pháp ấy thế nào ?
Buổi ban sơ Bần-Đạo lấy cả
pháp-luật làm chuẩn thằng, chỉnh đốn cả cơ-quan chính-trị của đời là: Sanh, Lão,
Bịnh, Tử. Bần-Đạo lập nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà bảo sanh là cốt yếu chỉnh
đốn thân sống trong khuôn-khổ mực thước, tức nhiên họ giúp cho nhau trong
khuôn-khổ Đạo-Đức. Tức nhiên họ có cả cơ quan làm cho buổi thống khổ loạn-lạc
phải tiêu hủy.
Cơ-quan Đạo Cao-Đài
cốt-yếu chỉnh đốn nhơn-quần xã-hội tăng-tiến trong khuôn-khổ nhơn-luân, nhơn
đạo để trong tâm não họ đặng họ tương-trợ nhau họ xúm nhau trong một nhà để
giúp nhau về mặt tinh thần.
Bây giờ Bịnh, Tử cũng thế,
về mặt xác thịt chuyển cả cơ-quan Thế-Đạo, cốt yếu để giải-khổ chúng sanh về sự
sống đối với Sanh, Lão thì chúng ta đã lập thành đại gia-đình; như thân nầy khi
già rồi còn em, còn bạn, còn con, còn cháu, một đại gia đình càng ngày càng lớn
hơn nữa.
Giờ phút này có hai triệu
người chứ không phải như trong buổi tạo Đạo; chúng ta dầu sống đi nữa cũng
không phải cô độc mà khi chúng ta phụng sự trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tức
nhiên phụng sự cho Ngài, tuổi già chớ tinh-thần không già, không buổi nào chúng
ta già hơn Đức-Chí-Tôn, nhỏ làm tôi mọi cho nhỏ, lớn làm tôi mọi cho lớn, già
làm tôi mọi cho già.
Không buổi nào thấy cái
già cái khổ cho chúng ta tức-nhiên giải-khổ rồi đó vậy.
Sanh, Lão không phải khổ
chúng ta, mà nó là một cơ-quan giúp cho đời được lịch duyệt. Bịnh, Tử không
phải khổ của chúng ta, mà nó là cơ-quan giúp ta đoạt Thiêng-Liêng vị. Bịnh-Tử,
bịnh chúng ta làm gì chúng ta bịnh, tại số chết của chúng ta, tại khối sanh
quang của ta hết lực mà thôi.
Kiếp sanh này làm tôi cho
người, dầu cho có bỏ xác hay chết là cùng. Mạng sống kiếp sanh của mình do
quyền Đức-Chí-Tôn định liệu, thì sợ gì cái chết; trái ngược lại thiên hạ sợ
chết là khổ mới chết, còn chúng ta không sợ chết vì chết là cơ-quan giải-thoát
đó vậy.
Giờ phút này người tu là
đem thân làm nô lệ cho nhơn-loại, rồi có vui sướng gì với kiếp sanh mà cần
sống, giá trị cái sống của ta khác hẳn hơn thiên hạ tưởng-tượng, mà tưởng tượng
cái chết của ta là buổi nghỉ-ngơi, buổi hết cực; cái chết ấy chẳng phải do mình
mà do nơi Đức-Chí-Tôn định là tới buổi Đức-Chí-Tôn nói các con đã làm xong phận
sự, Thầy cho con về.
Giờ phút này chúng ta
đương ở Đền-Thánh của Ngài đây, đương phụng sự cho Ngài đây, thì cái sống chết
của chúng ta không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa, và trong Tứ-Khổ không
còn giá trị gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy, "Tứ-diệu-đề" tức nhiên
bài học, bài thi, của đề mục khổ duy có Đạo Cao-Đài giải quyết nó, đánh mất nó,
làm cho nó không còn giá trị chi nữa, tức-nhiên chính mình và toàn cả con cái
của Đức-Chí-Tôn hay tương lai tôi nữa cũng vậy.
Chúng ta trọn hiến thân
làm Thánh-Thể cho Ngài mà ta sống cho mình chớ không phải sống cho Ngài là
không đúng; sống không phải sống cho mình mà chính là sống cho Ngài vì chính
mình đem trọn cái sống ấy dưng nạp cho Ngài, mà tưởng tượng ta khổ thì tức
nhiên Đức-Chí-Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà lại sống vinh diệu quá, ta
lại gặp thời kỳ này may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường, sống về
Thánh-chất, sống về Thiêng-Liêng, sống về Càn-Khôn Vũ-Trụ, sống về Trời Đất,
sống dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.
Ấy vậy, Chơn-Pháp thuộc về
Thể-Pháp của Thiên-Đạo Cao-Đài ngày nay có lẽ phù hợp với tinh-thần nhơn-loại
hơn các nền Tôn-Giáo khác; có lẽ, nhưng chúng ta đừng ỷ mình.
Mỗi ngày thường tự hỏi
mình coi làm vừa sức của ta chưa ? Làm vừa sức của Đức-Chí-Tôn biểu mình làm
hay chưa ? Sống của mình có vừa với cái sống của Đức-Chí-Tôn hay chưa ? Nếu
chúng ta đủ tinh-thần, đủ trí não và đủ năng lực để thay thế cái sống của
Đức-Chí-Tôn thì " Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca để tại mặt
thế-gian này không có nghĩa-lý gì và giá trị gì đối với chúng ta hết.
Thể-Pháp của Đạo Cao-Đài
chủ về sống mà đánh tiêu cả sự khổ tức-nhiên đánh tiêu cả Thể-Pháp. Thể-Pháp
đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí-Pháp được.
* * *
8. - Sự liên-hệ giữa Thể-pháp với Bí-pháp là Phụng-sự
vạn-linh, thì đạt vị Thần Thánh Tiên Phật Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 4 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu.
SỰ LIÊN-HỆ GIỮA THỂ-PHÁP VỚI BÍ-PHÁP LÀ
PHỤNG-SỰ VẠN-LINH, THÌ ÐẠT-VỊ
THẦN THÁNH TIÊN PHẬT
Đêm nay Bần-Đạo thuyết
Bí-Pháp có liên quan đến Thể-Pháp, nói rõ là cái luật Đạo có liên quan đến luật
Đời đó vậy.
Vả chăng chúng ta đã ngó
thấy cái cơ-quan Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ là cơ-quan Đức-Chí-Tôn để phụng-sựỳ
cho Vạn-Linh, cái chơn-pháp nó vẫn vậy.
Bần-Đạo có thuyết về
thuyết ấy, Bần-Đạo nói đất phải hy-sinh đặng phụng sự cho cây, tức-nhiên là
thảo-mộc. Cây phải hy sinh đặng phụng sự cho thú, tức nhiên nó phải hy sinh
đặng nuôi thú, mà loài người đứng đầu trong loài thú chớ không có chi khác nữa.
Vì cớ cho nên cổ-luật lại
buộc thú phải hy-sinh phụng sự cho người, phụng sự không đi quá sức, hy sinh
đặng nuôi loài người. Bởi vì lẽ lầm hiểu về chơn-pháp ấy mà nhơn-sanh đã thực
nhục (ăn thịt).
Giờ tới một mức nữa người
phải hy sinh đặng phụng sự cho Trời. Chắc là cả thảy đều nhớ cổ-luật của
Thượng-Cổ khi tế Trời họ đem người ra họ giết, rồi họ thiêu như con thú kia
vậy. Con người có luật ấy một thời hạn cũng khá lâu. Khi dùng người làm tế-vật
đặng hiến cho Đức-Chí-Tôn nếu Bần-Đạo hiểu theo các Đạo-Sử thì đã có gần 40.000
năm về pháp-luật ấy; thử nghĩ coi các nhơn mạng buổi nọ đã đem làm con vật hiến
cho Đức-Chí-Tôn nhiều lắm rồi vậy. Mới đây chừng lối 6.000 năm đời của Jacob
trước 6.000 năm, theo Đạo-Luật của Hébreu tức nhiên luật của Do-Thái phải giết
vật để tế Đức Chúa Trời, luật đó tới nay có lẽ vẫn còn đó vậy.
Đức-Chí-Tôn có đòi hỏi
chăng ? Không, tôi dám chắc không, vì chính mình Ngài tạo cho Vạn-Linh, chính
mình Ngài làm tôi tớ cho Vạn-Linh và phụng sự cho Vạn-Linh, có lẽ đâu Ngài đòi
nhơn-loại phải làm con Tế-vật tế cho Ngài.
Bao giờ chúng ta cũng thấy
luật phụng-sự cho Vạn-linh đi từ vật-loại đến nhơn-loại.
Chúng ta thấy việc của con
Ong, con Mối, con Ong chúa thật sự ra phụng sự đầy dẫy hơn hết, đứng đầu hơn
hết, vì làm chúa nên phải có nhiều phụng-sự, nó phải chịu sanh sản, làm giống
nòi nó sanh sản mãi mà thôi cũng như thượng-cổ trước lối 150 ngàn năm và trước
nữa thì loài người cũng vậy. Đạo-Pháp trong Phật-Giáo để lụng lại các Đấng
duy-chủ của các sắc dân, chủng-tộc do tiếng Phạn gọi là "Ma-Nu" cũng
một kiểu vở con Ong, con Mối. Con Mối chúa phụng-sự cho cả một ổ Mối hơn ai hết,
bởi vì chính mình con Mối Chúa đã sản-xuất chủng tộc của loài Mối.
Chúng ta thấy lụng lại một
triều chính của xã-hội nhơn-quần đã lập quốc, tức-nhiên lập một nền chính trị
tương-liên, một quốc-gia vô trong một khuôn-khổ của một quốc thể, một văn-hiến
đều chịu một luật pháp ấy, mà luật-pháp ấy muốn thi hành thì phải có
triều-chính. Thật sự ra triều-chính nhà Vua phải phụng-sự cho quần-linh,
tức-nhiên phụng-sự cho lê-dân. Một mình Ổng phụng-sự cho toàn thể lê-dân không
thể được nên phải lập triều chính, từ Tể-Tướng, dĩ-chí cho tới bực hạ-quan.
Chánh-trị một quốc-gia là thay thế hình ảnh cho Vua đặng phụng-sự cho lê-dân mà
thôi.
Chúng ta ngó thấy trong
vật loại như con Mối Chúa, con Ong Chúa cũng làm chúa, cũng phụng sự, trong
phụng sự kia cũng lập một triều-chính đặng có phương-pháp phụng-sự cho nó. Nhà
Vua cũng vậy, lập triều chính đặng biến thân cho muôn ngàn triệu, đặng phụng-sự
cho toàn thể lê dân. Mối Chúa cũng vậy.
Bây giờ Đức-Chí-Tôn Ngài
phụng-sự cho Vạn-Linh toàn cả trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, Ngài đã dùng cái gì ? Ngài
dùng phương-pháp phụng-sự Vạn-Linh là lấy Đời, lấy Vạn-Linh phụng-sự cho
Vạn-Linh.
Chúng ta ngó thấy
Đức-Chí-Tôn nuôi cây, nuôi thú; thú để phụng-sự cho người. Ngài dùng căn-bản đó
để phụng-sự cho Đời, cũng như Nhà Vua dùng lê-dân lập triều-chính đặng phụng-sự
cho lê-dân. Đức-Chí-Tôn ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng-sự cho cả toàn
nhơn-sanh mặt địa-cầu 68 này, Ngài phải làm thế nào ? Ngài cũng phải mượn loài
người phụng-sự cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng làm Thánh-Thể cho Ngài
là lập triều-chính của Ngài. Chúng ta ngó thấy Đức-Chí-Tôn đến lập Đạo; lập Đạo
phải lập Hội-Thánh đặng phụng-sự cho Vạn-Linh trên mặt địa-cầu 68 này. Chúng ta
ngó thấy cái quyền rồi, ban cho cái quyền luật định phụng-sự, vì phụng-sự ấy
mới làm Chúa như con Ong kia, con Mối kia vì phụng-sự mới làm Chúa. Ông Vua
cũng vì phụng-sự cho dân mới làm Vua; Bây giờ Đức-Chí-Tôn vì phụng-sự cho
Vạn-Linh mới làm Trời.
Ngài phải lập Hội-Thánh
tức-nhiên Ngài lập Thánh-Thể của Ngài. Triều-chính tức-nhiên Thánh-Thể của Ngài
chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội-Thánh cầm quyền thống-trị đặng phụng-sự cho
Vạn-Linh, Ngài phải lập triều-chính, triều chính là ngôi Thần, Tiên, Thánh,Phật
đó vậy. Ngài lập Thánh-Thể cũng như thế ấy; vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy
Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tức-nhiên Hội-Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên,
Phật tại thế này.
Không có cái chi mà chúng
ta cầu muốn hay là dùng công- nghiệp mà người không trả không bồi thường, vì
Ngài đã mượn chúng ta làm Thánh-Thể cho Ngài đặng Ngài phụng-sự cho Vạn-Linh
thì Ngài phải trả, phải bồi thường; nếu muốn cho người ta theo thì phải lập vị
cho họ, thì họ mới theo.
Đức-Chí-Tôn Ngài đến ký
hòa ước với loài người nhứt là dân-tộc Việt-Nam trước cái đã; mấy người làm
Thánh-Thể cho tôi, đặng tôi phụng sự cho Vạn-Linh, thì tôi sẽ lập vị Thần,
Thánh, Tiên, Phật lại cho mấy người. Nếu các người chịu thì ký hòa-ước với tôi,
kế các người làm tôi cho con cái của tôi cho vừa sức của tôi muốn, hay vừa ý
của tôi định thì tôi sẽ trả lụng lại là lập ngôi vị cho mấy người trong
Thánh-Thể ấy, tôi đã định phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập vị sẵn
cho mấy người, mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô-hình
tôi không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi chúng ta phụng-sự cho
Vạn-Linh tại mặt thế này nữa là khác.
* * *
9. - Bí-pháp Thiên-đạo của
Cao-đài giáo là giải-thoát.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại
Đền Thánh
đêm 8 tháng 06 Năm Kỹ-Sửu
BÍ-PHÁP CỦA CAO ĐÀI GIÁO LÀ GIẢI-THOÁT
Đêm nay trước khi Bần-Đạo
thuyết Bí-Pháp chơn-truyền của Đạo, tương-liên Thể-Pháp của Đạo thế nào, trước
khi thuyết Bần-Đạo nhắc lại nữa, nhắc một điều cần yếu cho cả thảy đều nhớ, nhớ
để đi theo.
Trước khi trong tinh-thần
Đạo-Đức kia chỉ dẫn chơn-pháp Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt định cho loài người có
hiện-diện tại nơi thế này đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, mà cũng là dẫn đạo cho
Vạn-Linh.
Phụng-sự đặng dẫn đạo cho
Vạn-Linh, ấy vậy chơn-pháp có ảnh-hưởng là quyết-định thiệt phận của loài người
là phải phụng-sự mà thôi. Hễ không phụng sự tức-nhiên là vô Đạo, mà vô Đạo thì
không thể gì đoạt được cơ giải-thoát hết.
Bần-Đạo đã chỉ rõ tương
quan của luật-pháp Đời cốt yếu nương theo" Tứ-diệu-đề" tức nhiên
Tứ-Khổ, đặng rồi thiên-hạ dầu Quốc-Gia xã-hội nào cũng kiếm phương bợ đở
tinh-thần loài người hay là toàn dân trong nước đặng lập vị của mình.
Thật sự ra, nói rằng: Họ
đã tạo dựng Đạo-Giáo đặng phụng-sự cho dân, nhưng thật sự đi trong đường nào ?
Lấy tinh-thần cứu khổ của Đạo-Giáo mà kỳ trung họ không phụng-sự Quốc dân, chỉ
tạo quyền cho họ mà thôi, tức nhiên họ không phải vì sở định cứu khổ mà đến để
lập quyền cho vững chắc. Nhưng Đạo-Giáo chúng ta thì khác.
Đạo-Giáo chúng ta buộc
phải định phận mình là giải-khổ tức-nhiên phải làm thế nào cứu vớt quần linh
cho khỏi " Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ của kiếp sanh đó vậy. Hai cái
tinh thần ấy dầu trong hành tàng cũng vậy, vẫn khác hẳn với nhau vì cớ cho nên
Đạo với Đời không có bao giờ tương đắc với nhau đặng. Bần-Đạo nói Đạo không
phải giành quyền, mà chỉ tạo Đạo đặng định phận mà thôi.
Bên kia họ cho rằng: Đạo
giành quyền của họ, trái hẳn chúng ta vẫn thường thấy, chính mình Đức-Phật
Thích-Ca đến khi Ngài có quyền, chính cha của Ngài còn tranh giành cái quyền
ấy. Về quyền hành có điều khó giải quyết hơn hết là; cả tinh thần chúng sanh,
cả thảy đều biết rằng Đạo phải phụng-sự cho nhơn-loại, vì đấy mà bên Đời dầu
thế nào đi nữa bất quá là lòe con mắt đặng cho người ta theo, chớ không phải
như bên Đạo phải phụng sự.
Bởi cớ cho nên mới dục ra
tấn-tuồng giành quyền với nhau là vì chỗ đó.
À ! Bây giờ Bần-Đạo nói rõ
phải ra phụng sự đặng giải khổ tức-nhiên giải quyết "Tứ-diệu-đề" của
Đức Phật Thích-Ca đã để nơi mặt địa-cầu này.
Bần-Đạo thuyết cả Bí-Pháp
Đạo-Giáo có liên-quan mật thiết với Thể-Pháp rồi cả thảy đều nghĩ từ thử đến
giờ, Bần-Đạo buộc phải đi cúng, phải hành Đạo là thế nào, không phải buộc mấy
người mà Bần-Đạo hưởng một quyền lợi gì riêng hết, mấy người suy đoán chơn-pháp
rồi mấy người mới biết. Bần-Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức-Chí-Tôn tạo
cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi.
Vả chăng trong chơn-pháp,
con người nơi mặt thế này có ba điều.
1. - Hoặc là phải trả quả
kiếp xuống tại mặt địa-cầu này để trả.
2. - Hoặc muốn học hỏi
thêm, muốn tấn hóa tới nữa về phương lược địa vị tinh-thần của mình còn thiếu
kém, học thì đến mặt địa-cầu này đặng học.
3. - Các vị đã được địa vị
cao siêu nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống đến mặt địa-cầu này đặng lập vị mình
thêm cho đặng cao trọng.
Ba điều ấy muốn đoạt được
thì phải phụng-sự Vạn-Linh mới được. Bần-Đạo thuyết tới con cái của Đức-Chí-Tôn
sẽ ngó thấy Đức-Chí-Tôn không dùng quyền Chí Tôn của Ngài. Ngài đến đặng lập
quyền cho con cái của Ngài mà thôi, không phải đến lập quyền hành hoặc bảo-vệ
con cái của Ngài, Ngài không thế gì để cho con cái Đức-Chí-Tôn lạm quyền đặng.
Cơ quan giải-thoát là
phụng sự, dầu cho quả kiếp mà đến cũng vậy; dầu cho vì học hỏi mà đến cũng vậy;
dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng ta phải phụng sự cho Vạn-Linh mới được,
trong phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả kiếp nơi nào, người nào,
nhưng nhờ phụng sự ấy mà mình gặp được người mình muốn trả nợ tiền-khiên, biết
đâu nhờ hồng ân Đức-Chí-Tôn định cho mình gặp đúng người để đặng trả. Tóm lại,
cũng phải phụng sự mới có.
Bây giờ về học hỏi thì
chúng ta muốn gì ? Muốn biết mọi điều về huyền vi cơ-tạo, muốn biết cho đặng
thì phải phụng sự cho Vạn-Linh mà thôi; rồi trong phụng-sự ấy nó sẽ chỉ điều
cho chúng ta muốn biết mà lập vị, và có gì hơn thay thế cho Đức-Chí-Tôn mà
phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thế gì ai chối cãi được.
Muốn làm cho đặng như
Đức-Chí-Tôn đã làm ta phải làm gì ? Ngài biểu chúng ta hiến ba món báu trong
mình chúng ta là Tam-Bửu.
1. - Xác thịt
2. - Trí não
3. - Linh hồn
Tức nhiên thân thể và phàm
thể của chúng ta, Đức-Chí-Tôn biểu ta hiến cho Ngài đặng Ngài phụng sự cho
Vạn-Linh.
Chúng ta thấy gì ? Mỗi
ngày ta kêu Đức-Chí-Tôn làm chứng, kêu Tam-Giáo làm chứng, giờ phút này con
nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy đặng Thầy làm lợi
khí mà phụng sự cho Vạn-linh. Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có trả nợ tiền
khiên chớ không có tạo nữa; nếu có tạo mà giờ phút này mình đến Đền-Thánh này đây,
ngồi trong lòng của Đức-Chí-Tôn đứng trong phần tử Thánh-Thể của Ngài tình cờ
mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình không biết duy
chủ nữa mà chính Đức-Chí-Tôn duy chủ, vì mình giao cả thân-thể mình nơi tay
Đức-Chí-Tôn thì mình không còn biết gì nữa.
Ngày kia mình có thể nói mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao
cả trong tay Đại-Từ-Phụ, quyền hạn xử định do nơi tay Thầy chớ con không biết.
Mình giao cả hình hài đó
cho Ngài xử dụng, nếu sự thật có gì không hay xảy tới cho mình, mình không
hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức-Chí-Tôn đặng Đức-Chí-Tôn phụng sự cho
vạn linh quyền xử dụng ấy do Đức-Chí-Tôn quyết định, mình đừng làm trái với mặt
luật của Ngài định.
Ấy vậy, mỗi ngày từ mơi
tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya tới sáng, mình vô Đền-Thánh
kêu Đức-Chí-Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng-liêng mà phân chứng trước.
Thân tôi không còn của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức-Chí-Tôn làm tôi tớ cho
Vạn-Linh thay thế cho Đức-Chí-Tôn, giờ phút đó chúng ta không biết tội nào
chúng ta đã làm dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp
ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt không thể gì định tội được.
Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta; mà chúng ta không phải là
chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta tức nhiên ta đã đoạt cơ
giải thoát, quyền ấy chính của ta chớ không phải của Đức-Chí-Tôn. Lấy quyền của
ta mà cho ta, mình đã định quyền cho mình, chớ không phải Ngài định; Ngài định
cho có quyền giải thoát, quyền Thiêng-Liêng không có tạo, chính ta tạo quyền
giải thoát đó do nơi ta mà thôi.
* * *
10. -
Thánh-thể là gì ? Tại sao lấy Tam-bửu làm Thánh-thể ?
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh .
đêm 11 tháng
6 Năm Kỷ-Sửu.
THÁNH-THỂ LÀ GÌ ?
TẠI SAO LẤY TAM-BỬU LÀM THÁNH-THỂ ?
Đêm nay
Bần-Đạo giảng tiếp sự liên quan Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo. Trước khi Bần-Đạo
giảng tại sao Đức-Chí-Tôn lập hình thể hữu-hình đặng Ngài tạo Đạo.
Đêm nay
Bần-Đạo giảng đặng cho cả thảy đều hiểu rõ Thánh-Thể làgì ? Tại sao lấy Tam Bửu
ấy là trong người của ta để làm Thánh thể, cả thảy Tam bửu là có một, mà một do ba người
hiệp nhứt, cũng như Càn-Khôn Vũ-Trụ sản xuất ba quyền Phật, Pháp, Tăng trong đó
có ba người, nhưng trong ba người chỉ có một là Đức Chí Tôn mà thôi.
- Người thứ nhứt là ta hay
là thể chất tức-nhiên thân-thể của ta đây.
- Người thứ nhì là
chơn-thần tức là trí-não của ta hay là pháp thân; Pháp thân ấy do nơi Kim-Bàn
phát hiện, tức nhiên do nơi Phật-Mẫu sanh đẻ ra đó vậy.
- Người thứ ba là chơn
linh tức linh-hồn của ta hay linh-thể của chúng ta do nơi Đức-Chí-Tôn sản-xuất,
ba món ấy hiệp lại mới thành người. Linh thể của chúng ta từ trước Đạo-Giáo của
nhà Phật do Ấn-Độ sản-xuất, tức-nhiên Đức-Phật Thích-Ca đã minh tỏa thể-chất có
ba người, Ngài gọi nguyên chất là ( Égo ) người thiệt của chúng ta, tới chừng
đem qua Bắc Tông rồi, tức-nhiên họ qua Nho Giáo. Nho-Giáo không có tên mới đặt
linh-thể ấy là Tâm lấy tâm đặt tên chơn-thể, chữ tâm ấy do tướng-hình Thiên
Lương vi bổn.
Một vật hễ sản-xuất tại
mặt địa-cầu nầy đứng trong khuôn-khổ Đạo-Giáo tức nhiên Thiên-Lương của mình,
Thiên Lương ấy không tướng hình nên để chữ Tâm. Ấy vậy, chữ Tâm ở bên Bắc-Tông
Phật-Giáo tỏa hình Linh-Thể của chúng ta đó vậy, tức nhiên tỏa hình chơn linh
của chúng ta, do nơi Đức-Chí-Tôn sản xuất. Ấy vậy ba người trong thân thể chúng
ta đang gánh chịu đó; khi được hình rồi, có hiện tượng tại mặt thế này rồi thì
chúng ta ngó thấy chúng ta có ba mối nợ.
Mối nợ của cha mẹ thân
sanh ra ta, sản xuất ra ta, là mối nợ trước phải trả. Nếu khi ta đoạt kiếp được,
lập vị Thiêng-liêng của mình đặng vô cửa Thiêng-liêng Hằng Sống mà đàng sau
lưng của mình có mang ba mối nợ thì vô cửa ai cho, phải trả cho rồi mới vô
đặng.
Vì cớ cho nên Đức-Chí-Tôn
biểu mình phụng-sự cho Vạn-Linh, đặng trả nợ thi hài của mình, tức nhiên trả nợ
máu thịt của mình, nợ ấy ta nhận là công chánh hay oan khúc cho ta ? Thì chúng
ta ngó thấy nó rất công-chánh, một giọt Máu, một điểm Tinh của chúng ta thọ nơi
phụ mẫu chúng ta, rồi cha mẹ của ta đã thọ của người trên trước nữa, cũng một
giọt Máu, cũng một điểm Tinh mà tạo nên thi hài. Cha mẹ đã thọ nơi Ông Bà Tổ
Phụ của chúng ta, rồi giọt Máu, điểm Tinh ấy truyền thống cho chúng ta, ta phải
chịu khi ấy phải trả, mà trả thì phải khổ cho ta lắm, nếu chạy thì cha mẹ chúng
ta phải trả.
Rồi khi cha mẹ sanh ra ta,
ta phải nhờ ai mà sống, nhờ ai mà nên người, nhờ ai mà có. Chúng ta sản xuất
tại mặt thế gian này tức nhiên nhờ xã-hội nhơn-quần, nhờ ăn mới sống thi-hài
thân-thể mới giữ đặng giọt Máu, điểm Tinh, để truyền thống ? Trả đủ nợ ấy cho
xã-hội nhơn-quần mới về cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống được. Quả nhiên chúng ta
thiếu nợ hay là Tổ Phụ Ông Bà chúng ta thiếu nợ nên chúng ta phải trả; muốn trả
phải phụng-sự cho xã-hội nhơn-quần. Đức-Chí-Tôn coi trọng hệ nhứt, nên Ngài mới
lập trường công quả này đây. Chỉ có làm công quả nơi của Đạo Cao-Đài nầy mới
trả hết số nợ đó mà thôi.
Tiếp sau đây Bần-Đạo sẽ
giảng tại sao có mở trường công-quả trong thời buổi này ? Ấy là nơi để chúng ta
tạo công, rồi lấy công trả nợ máu thịt mà trả nợ máu thịt tức trả cho xã-hội
nhơn-quần đó vậy.
Phụng thờ Tổ-Tiên Ông Bà
và Song Thân đó, do Đạo Nhơn Luân Vi Bổn. Mang nợ máu thịt ấy phải trả
tức-nhiên làm công quả để lấy công quả trả nợ máu thịt đó vậy.
Xã-hội chúng ta vẫn thấy
từ thử đến giờ, chúng sanh vẫn chạy nợ, dầu muốn dầu không họ vẫn trốn nợ bất
kỳ là nợ gì ? Cho nên Đức-Chí-Tôn vi chứng rằng: Bây phải trả nợ mà bây đã vay
từ trước. Ngài truyền tức nhiên Ngài truyền cho xã-hội nhơn-quần, vì trong
Thiên Tánh của Ngài định cho chúng ta trả nợ, mà muốn cho ta dể trả nợ Ngài bảo
chúng ta phải làm thế nào ? Chúng ta duy có phụng sự mà thôi. Vì cớ cho nên
Ngài lập Đạo là vậy. Trả nợ nhơn-quần xã-hội rồi mới chỉ có một mối, còn hai
mối nợ nữa phải trả chớ, nợ của người sản-xuất ra chơn-thần, là Mẹ đẻ pháp thân
tức nhiên Phật Mẫu đó vậy.
Bây giờ Đức-Chí-Tôn Ngài
đến đặng Ngài nhìn nhận con cái của Ngài. Đức-Chí-Tôn bảo Đức Phật-Mẫu bà là
chủ nợ Bà phải đòi, kêu chúng nó đến trước mặt Bà mà trả cho Bà. Bà đừng để cho
nó thiếu nợ mà nó giải thoát không đặng. Ngài đến mở Đạo nhìn chúng ta là con
cái; con cái của Ngài nhìn chủ nợ là Bà, thì chúng ta phải trả, vì cớ cho nên
chúng ta thờ phượng Phật-Mẫu là vậy. Chúng ta đến bái lạy Ngài thì chúng ta
cũng nguyện dâng cả thi hài, chơn-thần và chơn-linh của ta đặng làm môi giới
cho Ngài tạo Đạo, cũng như Đức-Chí-Tôn vậy. Chúng ta trả nợ Đức-Chí-Tôn ra sao
thì đối với Phật-Mẫu cũng như thế ấy.
Còn nợ thứ ba nữa là: Nợ
đối với Đức-Chí-Tôn. Ngài đã ban cho ta một điểm Chơn Linh của Ngài, tức nhiên
chúng ta do nơi Ngài mà sản xuất. Linh Tánh của chúng ta Linh hơn vạn-vật, vì
có tánh Trời ở trổng.
Bần-Đạo thuyết minh rằng:
Con thú này có Ông Trời ở trổng. Oång đồng sống với nó. Có Ông Trời đồng sống
trong Tánh Linh ấy, mà muốn trả nợ với Đức-Chí-Tôn do nhứt điểm chơn-linh của
Ngài sản-xuất thì chúng ta phải làm như Ngài đã làm, đặng kế nghiệp cho Ngài,
mà làm như điều của Ngài đã làm. Ở chúng ta không thể gì định được sự trả nợ
của các Ngài, sự làm của Ngài có ảnh hưởng thanh túy, tức nhiên là hy-sinh
Vạn-Linh mà phụng-sự Vạn-Linh. Chúng ta phải học ở Ngài, cái tánh chất mà Ngài
đã làm để chúng ta phụng sự cho Vạn-Linh, như Ngài đã phụng-sự chúng ta thấy
trước mặt không thể gì chối cải đặng. Chúng ta thiếu nợ Nhứt Điểm Linh, chúng
ta muốn trả nợ phải trả như Ngài; mà muốn trả nợ Vạn linh Ngài phải làm tôi tớ
cho Vạn-Linh. Chúng ta vẫn ngó thấy, chúng ta muốn trả nợ cho Ngài thì chúng ta
phải làm tôi-tớ cho Vạn-Linh như Ngài đã làm. Chúng ta phải làm Thầy Vạn-Linh
như Ngài đã làm Thầy của Vạn-Linh.
Chúng ta trả ba món nợ ấy
được rồi, tới ngày chúng ta giải thể của chúng ta, trở về cảnh Thiêng-Liêng
Hằng Sống nhập vô Niết-Bàn-Cảnh, không còn ai níu lưng nữa. Phải trả nợ ấy rồi
mới vô bởi vì chúng ta đã trả rồi.
* * *
11. - Sự phản-khắc giữa
Đạo và Đời .
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh .
đêm 18 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu.
SỰ PHẢN-KHẮC GIỮA ÐẠO & ĐỜI
Trước khi Bần-Đạo thuyết
về Bí-Pháp chơn truyền của Đạo, Bần-Đạo đã kết luận cái phản khắc Đạo-Pháp,
Thể-Pháp, tức nhiên sự phản khắc của Đời và Đạo. Sự phản khắc ấy do nơi
Nguyên-khí mà ra, không phải vì Nguyên-khí trong Vạn-Linh mà thôi, Nguyên-khí
của vạn loại nữa. Chính Nguyên-khí ấy trong mình của chúng ta đã chuyển xuất ra
vậy.
Bần-Đạo cần thuyết cái
thi-hài này lấy triết-lý chớ không phải lấy bí-truyền mà luận, thì thi-hài
chúng ta đã có nơi mặt địa-cầu này, do nơi nguyên-căn vật dục xuất hiện ra, tức
nhiên trong Thất tình nó đi đến cái tình chót hết là tình quyết-định, tình duy
chủ, cả mối tình kia thường phản-khắc nhau còn cái tình Dục cốt-yếu duy-chủ
định hướng của nó mà thôi.
Chúng ta ngó thấy trong
Vạn-Linh nó chia ra hai phần chơn hồn: Tiểu-Chơn-Hồn và Đại-Chơn-Hồn.
Tiểu-Chơn-Hồn chia ra làm ba thuyết, mà Tối-Tiểu là Vật-Chất-Hồn, Thảo-Mộc-Hồn
và Thú-Cầm-Hồn nó thuộc Tiểu-Hồn.
Nhơn-Hồn thì có thứ Tiểu
và có Đại tức-nhiên tình dục định phận nó, muốn Tiểu thì Tiểu, muốn Đại thì
Đại.
Đại-Hồn là Thần, Thánh,
Tiên, Phật bốn cái Đại-Hồn định Thiêng-Liêng vị cho cả Vạn-Linh. Chúng ta ngó
thấy trong mình chúng ta có Thần, có Thú; vì cớ cho nên triết-lý Thất-Tình định
duy-chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo tình dục
của nó. Bây giờ trong thân thể của chúng ta, trong nguyên-bổn của chúng ta, vẫn
thường chiến đấu, Phật chiến đấu với thú, thú chiến đấu với Phật.
Hai hình-trạng của Đời và
Đạo, Đạo xu-hướng theo Phật, Đời xu hướng theo Thú. Hai tương-quan phản-khắc
ngang nhau, vì cớ cho nên thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật nó hay tương-đối với nhau.
Tình-dục duy-bổn thì thấy trong mình nếu chúng ta muốn thành Phật thì chúng ta
làm đặng, muốn đi theo Phật lập-vị mình thì trong Đại-Hồn giúp ta làm đặng. Hay
là tình dục ấy muốn đi theo đám Tiểu-Hồn, vì ảnh hưởng trong cá nhân ta mà ảnh
hưởng ấy chẳng phải của chúng ta mà thôi. ! Chúng ta ngó thấy trong Vạn-Linh nó
có hai con đường đi đặc biệt, không thế gì chối cãi được, thành thử cái phản-khắc
tương liên của Đời và Đạo nó đi từ trong cá-nhân của chúng ta mà ra cho tới
xã-hội nhơn-quần. Nhân-loại phản-khắc ấy không thể gì tưởng được. Từ thử tới
giờ lập-vị Phật như Đức-Phật Thích-Ca cũng chưa giải quyết được; Đức-Chí-Tôn
đến kỳ này chúng ta thử hỏi giải quyết hay không ? Cũng phải giải quyết chớ,
Ổng đến vạch ra lẽ Phật với Thú ấy để chán chường trước mắt. Con cái của Ổng,
Ổng biểu lấy trí khôn-ngoan, lấy huệ khiếu của mình làm môi giới, tùng theo
Nguơn Linh làm căn-bản.
Định Phật, muốn Phật, sẵn được
Phật; muốn thú được thú, Ông chỉ hai con đường rõ rệt để cho con cái của Ổng
quyết-định cho mình. Sự tương-tranh tương-đấu bây giờ trong các xã-hội
nhơn-quần trong mặt địa-cầu này, đương nhiên bây giờ cũng tấn tuồng ấy làm hình
trạng của nó ra lớn vĩ-đại, chúng ta không để ý mà thôi. Muốn tìm tàng chơn-lý
thì rõ-rệt không có gì lạ lùng hết.
May sao, giờ phút này
nhơn-loại đương bị trong thảm cảnh khốn-khổ không biết chừng nào; thảm cảnh ấy
xô đến cảnh diệt vong của họ nữa mà chưa giải quyết được, vì cả tinh thần bên
Phật yếu ớt bên Thú đương tráng kiện, hùng hổ dữ tợn, mà bên Phật thì yếu ớt
quá. Đạo Phật truyền tại mặt địa-cầu này đương nhiên bây giờ vô giá trị; mà hể
Đạo hết quyền tức nhiên con vật kia không có kỷ cương muốn chạy đâu thì chạy,
muốn làm gì thì làm; muốn làm ngần nào thì đặng ngần ấy; nếu không duy chủ đặng
nó, tánh đức không mực thước, không chuẩn thằng, không biết định phận mình thì
sẽ xô đẩy đến cảnh diệt vong chớ không có gì lạ hết.
Bởi vậy cho nên
Đức-Chí-Tôn đến kêu gọi cả toàn nhơn-loại chỉ con đường diệt vong trước mắt,
khôn thì dừng bước lại để biết lấy phận mình đứng mực nào, rồi mình mới phân
định được. Bí-Pháp chơn-truyền Bần-Đạo thuyết không gì khác hơn là chỉ đường,
biết giá trị mỗi cá nhân, mình biết mình. Nếu vị Hoàng Tử con của Ông Vua kia
lên ngôi Cửu-ngũ trị vì thiên hạ mà không biết giá trị tương lai làm Chúa thì
tưởng lại họ như kẻ thường dân hèn-hạ, họ tập thành theo tánh đĩ thõa,
điếm-đàng buông lung, thì chẳng khi nào làm Vị Đế Vương xứng đáng đặng. Mình
phải biết địa vị mình thế nào, rồi mới thi-hành theo khuôn-luật định của mình,
Bí-Pháp chơn truyền là vậy.
Ngày giờ nào cả con cái
Đức-Chí-Tôn biết đoạt Pháp, biết mình, biết định phận cho mình, biết ngôi vị
của mình, biết giá trị của mình là giờ ấy trật tự an ninh trong cửa
Thiêng-Liêng Hằng-Sống Đức-Chí-Tôn để tại mặt thế này, tức nhiên trong cửa Đạo
đây mới thiệt giá trị.
Giờ phút này ngó thấy tấn
tuồng hỗn độn, con người họ tưởng Đạo Cao-Đài như Thầy Chùa, Thầy Pháp,
Bóng-Chàng, nói cái nào cũng được, vì cớ mới có Đảng-Phái dám cả gan bày ra
Tả-Đạo Bàn-Môn…Nếu biết đâu dám làm, vì họ lầm tướng diện của họcho nên ngày
nay mới có cái cảnh tương tàn đánh sát họ kia kìa,bằng đi tới nữa thì không còn
chơn tướng nào tồn-tại được.
Ấy vậy, Bần-Đạo đã nói rõ,
bây giờ có một điều trọng yếu không lẽ trong cái Bí-Pháp chơn-truyền nói cho
mấy người nghe mà thôi, mấy người được đặc ân gì mà hưởng riêng như vậy.
Kể từ đây đến sau, họa may
Bần-Đạo có thuyết, là thuyết trong ngày Sóc-Vọng mà thôi, hễ đi cúng nhiều thì
nói, bằng không thì thôi. Còn nữa, nếu con cái Đức-Chí-Tôn còn làm biếng đi
cúng nữa thì vô nhà tịnh rồi sẽ hay chớ không thuyết nưã.
* * *
12. - Sự vận-chuyển không ngừng của Bí-pháp tạo dựng
Vũ-trụ và Con người.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh.
đêm 29 tháng 07 Năm Kỷ-Sửu.
SỰ VẬN-CHUYỂN KHÔNG NGỪNG CỦA BÍ-PHÁP
TẠO-DỰNG VŨ-TRỤ & CON NGƯỜI
Đêm hôm nay Bần-Đạo khởi
giảng tiếp Bí-Pháp chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn.
Trước khi chúng ta muốn
hiểu, cái huyền vi của Bí-Pháp ấy thì chúng ta phải tìm coi con người của ta
đây có chịu ảnh hưởng với Thể-Pháp ấy thế nào, và ta là gì trước đã.
Ta là gì ? Và có trọng hệ
trong cơ-quan bí-mật, Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ, và tạo hình thể chúng ta có tại
mặt thế này, nguyên do đâu sản-xuất ? Chúng ta đã ngó thấy Đức-Chí-Tôn đến Ngài
để trước mặt chúng ta một cái huyền-bí tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bần-Đạo thuyết về "
Tam-Bửu" tức nhiên là:
1/- Thi-Hài
2/- Chơn-Thần
3/- Chơn- Linh.
Đức-Chí-Tôn gọi chung là
xác thân. Chơn-thần và chơn-linh, Bần-Đạo xin nói quả-quyết rằng: không có một
vật-loại nào trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này mà không do quyền năng vô-tận của
Đức-Chí-Tôn sản-xuất. Cái nguyên do thế nào chúng ta đã ngó thấy; vạn-vật trong
Càn-khôn Vũ-Trụ này phải hoạt động mãi thôi không ngừng, nó nhờ hoạt động
chuyển luân mà tấn hóa mãi mãi.
Vạn-vật trong Càn-Khôn
Vũ-Trụ dù trái địa-cầu thấy trước mắt hay địa cầu chúng ta đương cư ngụ đây,
phải vận hành luôn; ngưng là chết mà cả vạn-vật loài người cũng phải vậy. Nó có
lưu động là nhờ khí nổ Thái-Cực buổi nọ, Thái-Cực nổ thành khối lửa; khối lửa nổ
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hiện ra muôn muôn triệu triệu ức quả địa-cầu trong
Càn-khôn Vũ-Trụ. Quả cầu ấy nguội lại thành địa-cầu chúng ta đương ở đây, là
quả địa-cầu 68. Quả cầu ấy là vậy.
Bần-Đạo nói thật không có
vật loại nào, chúng ta nam nữ cũng vậy, cũng đồng trong khối chất ấy mà biến
ra; Bần-Đạo đứng giữa tòa giảng này, nói tất cả đều chịu ảnh-hưởng Thái-Cực đó
định mà có. Ngày giờ chúng ta chết, chúng ta trở về Nguơn khí vô cùng vô-biên
ấy, cũng do nơi quyền-năng vận-chuyển của Thái Cực. Cái Nguơn-Linh của chúng ta
cũng do quyền năng Thái-Cực mà nó nắm cả Nguơn-linh tạo nghiệp ấy trong
Càn-Khôn Vũ-Trụ. Cả cơ-quan hữu-hình, nó tạo Bí-Pháp vô-biên là chuyển luân
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hoặc là chuyển luân hình thể, hoặc là chuyển luân Ngươn
khí, hay chuyển luân Bí-Pháp Thiêng-Liêng của Ngài.
Ấy vậy, Bần-Đạo khởi giảng
trong ba món bửu-bối chúng ta là gì? Thi-hài chúng ta đồng mạng như sống theo
vạn-vật hữu-hình là vật thú; thật sự nó vậy chớ không gì khác hết; nếu chúng ta
kiếm theo cái phương pháp " Cách vật Trí-tri " chúng ta đã ngó thấy
quả quyết rằng: con người chúng ta không có gì khác hơn con Khỉ, con Chó, con
Bò, con Trâu, thật sự nó vậy.
Duy có một điều trọng hệ
hơn hết là do nơi quyền năng Tạo-Đoan của Đức-Phật-Mẫu đã tạo chơn-thần chúng
ta và hình thể chúng ta, khi con người mới thai-bào. Con tinh trùng
(spermatozoaire) ở trong Nguơn khí Cha nhập vào lâm bồn của Me,ï kết hợp với
noản châu (ovule) của Mẹ; dương trùng của cha tạo biến thành hình hài xương cốt
chúng ta, còn noản châu của Mẹ chúng ta biến ra máu thịt của chúng ta đó vậy;
hai vật ấy phối hợp lại với nhau thành tượng biến hình hài.
Hai cái tinh trùng và noản
châu hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng tinh-trùng đơn-sơ, khi nhập vào làm
một. Cái buổi tượng hình của chúng ta thì chơn-thần của chúng ta còn ở ngoài
thân, ngoài cốt hài của hài chúng ta; nó vơ-vẩn hoặc là quanh theo bà Mẹ chúng
ta ở dựa bên, nhứt là bà Mẹ đi nơi nào nó đều theo nơi đó. Chơn-thần đến theo
người Mẹ có chửa, nếu người Mẹ có Đạo-Đức dám chắc đi đâu chưa có sự gì rủi ro
đến đổi thiệt-hại, bởi cớ cho nên đứa con theo mãi, theo cho đến khi tượng hình
chúng ta ra khỏi lòng bà Mẹ, chơn-thần ấy mới nhập vô ảnh-hài đó làm khuôn-viên
cho ảnh-hài đó.
Tượng hình khuôn-khổ
chơn-thần Đức Phật-Mẫu đã tạo cho nó đi bực Tiểu-Hồi nó đi trong thú chất không
có chơn-thần nào tạo nhứt phẩm liên-hoa mình cho trọn vẹn.
Họ có can-đảm dám đầu kiếp
từ vật-loại đi lên, tạo đến Phật-Vị đặng tạo nhứt phẩm liên-hoa. Phật-Mẫu tạo
ra họ buộc họ phải quên cả kiếp trước, bỏ cái cũ nhập vô cái mới đi từ Tiểu-Hồi
Vật-hồi đến Nhơn-Loại. Chơn-Linh ấy biết làm người rồi đó, làm cũng như
khuôn-khổ chúng ta biết vậy. Ngộ-nghĩnh thay nếu chúng ta ngó thấy tinh-thần
chúng ta đầy-đủ Đạo-Đức chừng nào thì chơn-thần ảnh-hài càng ngày càng đẹp càng
tăng tiến.
Bởi thế Tiên-Nho chúng ta
có nói: rủi sanh chỗ bất phước: Tiên-Nho ta cho rằng: kiếp tu không có dễ dàng,
ít có người tu thiệt tâm-tu, nếu tinh-thần đầy đủ là kiếp sanh mình tạo đầy đủ
Đạo-Đức, mỗi kiếp tu của chúng ta mỹ-miều đẹp-đẽ lắm.
Hại thay !!! Chúng ta đã
ngó thấy trong nhà Phật, chúng ta quả quyết rằng: những chơn-thần nào bị tội
đọa xuống phong-đô trong Kim-Bồn Phật-Mẫu xuất hiện thế nào mà bị đọa xuống cửa
Địa-ngục rồi hại thay! Quả kiếp ấy Quỉ-quái thì thành Quỉ-quái không thoát.
Cả tinh thần ấy biến tướng
do Nguơn-linh mà ra, vì Nguơn-linh không đủ quyền năng tạo dựng. Tạo dựng
Nguơn-linh ấy phát động thế nào, thì Nguơn-linh biến động ra thế ấy. Loài người
ở tới chừng nào đoạt-được Đạo nơi mặt đia-cầu này mới thôi.
Kể từ ngày có nhơn-loại
nơi mặt địa-cầu - này đến nay chừng một ngàn năm trăm triệu năm nếu đoạt được
phẩm vị, đó là nhơn-phẩm chớ không phải là giả-nhơn; chịu trong phẩm giả-nhơn
ít nữa một trăm triệu năm, xác thịt họ mới có phương thế dung-nạp nguơn linh
Đức-Chí-Tôn.
Chơn-Thần Phật-Mẫu đến
theo loài người từ buổi mới tạo ra loài người, còn Nguơn-Linh Đức-Chí-Tôn đến
loài người chừng năm chục triệu năm Nguơn linh có trong thân thể của loài
người. Đức-Chí-Tôn đến sau chớ không đến trước như Đức Phật-Mẫu. Khi mẹ chúng
ta sanh ta ra, nuôi gần năm sáu tuổi cũng chưa biết cha là gì; chưa biết theo
cha, nghe hiểu nhìn cha là gì; bảy, tám, chín, mười tuổi mới biết. Buổi ban sơ
loài người cũng thế đó.
Phật-Mẫu sanh ra chỉ biết
nuôi nấng theo bực Tiểu-Hồi, chớ Đại-Hồi chưa có. Ngày giờ có Đại-Hồi là
Đức-Chí-Tôn giáng linh trong thân-thể loài người.
Thánh-Giáo Gia-Tô nói:
hình-hài người là đất, Ngài nắn Ngài thổi ra mới biến người. Không phải vậy
đâu; nếu nói thân-thể con người thú chất là đúng, duy có Đức-Chí-Tôn đến ở cùng
nó mới là Thánh thôi.
Đức-Chí-Tôn ở cùng nó thì
là Đại-Hồi (Ego) chớ không phải Tiểu-Hồi (Monad).
Bây giờ ta sống với cái
Nguơn-linh mà cái Nguơn-linh xác thịt ấy là Phật và thú; chơn-thần chúng ta làm
trung-gian cho thi hài, làm trung gian cơ cũng như làm thông ngôn cho Chơn-linh
và xác thịt chúng ta vậy.
Bần-Đạo lấy cái thí-dụ
trắng như: cái máy bay, cánh đuôi và mình là xác thịt, cái chong-chóng quây đi
được đó là chơn-thần. Người cầm lái điều khiển cho vận hành là cái linh-tánh
định cái sống đặc biệt nó là Ngươn-linh.
Bần-Đạo nói lại nữa: cái
máy bay, mình, đuôi nó chẳng khác chi như xác chúng ta, chong-chóng quây chạy
đó là chơn-thần; người cầm máy làm cho máy bay vận hành theo ý người muốn là
Nguơn-linh đó vậy.
Muốn hiểu Bí-Pháp
Đức-Chí-Tôn thì xem cái xác thịt của chúng ta và chơn-thần của chúng ta phải
chịu ảnh-hưởng thế nào thì cái Bí-Pháp thế ấy. Linh-hồn trúng là chơn-pháp,
trật là giả-pháp.
Kỳ tới Bần-Đạo kết vô
Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn.
* * *
13. - Bí-pháp Hội Yến Diêu-Trì Kim-Mẫu
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 15 tháng 08 Năm Kỷ-Sửu
, Lễ Hội-yến Diêu-Trì Kim-Mẫu.
BÍ-PHÁP HỘI-YẾN DIÊU-TRÌ KIM-MẪU
Hôm nay là ngày Lễ kỷ-niệm
Bí-Pháp, Bí-Pháp Hội-Yến Diêu-Trì. Đức-Chí-Tôn đã lập trong nền chơn-giáo của
Ngài, Bần-Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức-Chí-Tôn hiểu rõ
cái huyền-vi bí-mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ-quan đoạt Đạo chúng ta tại mặt
thế-gian này. Hơn nữa Bần-Đạo có phương-tiện tỏ ra một đức-tin dị thường của
một Đấng yêu-ái, một Đấng tạo Càn-khôn Vũ-Trụ, Đấng Tự-Hữu Hằng-Hữu , Đấng quyền-năng
Vô-tận vô-biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái tâm tình của Ngài đối
với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đoạt-đặng đức-tin
phi-thường ấy, năm Ất-Sửu tức-nhiên năm một ngàn chín trăm hai mươi lăm (1925),
Đức-Chí-Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình bạn mà thôi, đến với
một danh hiệu, giờ phút này Bần-Đạo không dám nói. Ngài đến cũng làm bạn
Thượng-Phẫm và Hộ-Pháp. Tháng 2 năm ấy Ngài dùng cơ bút huyền-diệu của Ngài,
Ngài dạy vọng Thiên-Bàn Cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể tưởng tượng đây là
một cử chỉ ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải để một dấu hỏi;
hỏi tại sao buổi ấy Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp có một đức-tin vững-vàng nghe theo
lời Ngài vọng Thiên-Bàn Cầu-Đạo. Điều mà chúng ta không thể tưởng-tượng, đây là
một cử-chỉ chung chớ không phải cá-nhân Thượng-Phẩm hay Hộ-Pháp mà lời
huấn-giáo của Ngài cốt-yếu để cho toàn thể nhân-loại nơi mặt địa-cầu này nhứt
hơn hết là nòi giốngViệt-Nam chúng ta.
Bần-Đạo nói đây: Còn có Bà
Nữ Chánh Phối Sư Hương-Hiếu là người bạn Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo buổi ban sơ
thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để, một đức-tin vững-vàng làm
sao đâu ? Không thể sợ đặng; không còn biết vị-kỷ nhục-nhã chi hết; giữa khoảng
đường nơi Châu Thành Sài-gòn thiên-hạ tấp-nập mà Đức-Chí-Tôn buộc phải quỳ
ngoài đường dựa bên lề ấy, quỳ đặng cầu-nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội
nghiệp thay !!! Ngài thử thách cho đến nước thoảng như mình quỳ đó mà thiên hạ
không hiểu mình quỳ làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng có thể quỳ, còn làm
mà người biết thì nhột-nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức-Chí-Tôn phải rán mà làm.
Ngoài ra có Ông bạn ai
cũng đều biết danh của người là nhà thi sĩ danh tiếng; Bần-Đạo dám chắc nội
trong Nam-Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nổi danh thi sĩ đứng đầu hết thảy là
người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi-phú của Đức-Chí-Tôn quá chừng
quá đổi, đến nước người thuộc lòng thi-phú của Đức-Chí-Tôn rồi người họa lại
với Đức Chí Tôn, người làm như mê-man vậy. Bần-Đạo thì nhột-nhạt, duy có sợ mà
vâng mạng lịnh thi-hành, quyền giáo-hóa của Đức-Chí-Tôn, còn người " Thi
sĩ Bồng-Dinh" họa theo đó mà ngâm, thiên-hạ thấy tấn-tuồng dị-hộm tụ lại
xem đông lắm. Trước để một cái bàn vọng thiên cầu Đạo, ngay chính giữa coi bộ
dị-hộm lắm, Bần-Đạo mới gát hai tay lên cho đở mắc cỡ, vừa gát tay lên thì cái
bàn quây gõ nói chuyện.
Các Đấng Thiêng-Liêng đến
không biết bao nhiêu, đến các Vị Giáo-Chủ cũng xuống giảng dạy chúng ta và làm
nhiều kiểu lạ lắm: cũng lúc này Đức-Chí-Tôn đã giáo hóa khá lâu, các Đấng
Thiêng-Liêng cũng đến cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp, tuy mới mà đủ đầu óc có một
đức-tin vững-vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: tuy buổi ban sơ mà dường như
khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi; nên Đức-Chí-Tôn mới ra lệnh biểu làm một cái
tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình; đãi 10 người: Đức
Phật-Mẫu và Cửu-Vị Tiên-Nương. Phần hữu-hình có 3 người Thượng-Sanh,
Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu vâng
mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật-Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng
như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đải
người hữu-hình vậy; duy có 3 người có xác thịt là Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm,
Hộ-Pháp. Bần-Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì ? Ngài nói là Hội-yến Diêu-Trì,
Bần-Đạo nghe nói vậy thì hay vậy chớ không biết giá trị Hội-Yến là gì cả. Nghĩ
chắc cũng có ảnh-hưởng gì cần-yếu đến tương-lai của Đạo mà vâng lịnh thôi. Chớ
không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.
Ba người sống đồng ngồi
ăn, còn Bà Phối-Sư Hương-Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ
cho Đức-Phật-Mẫu cũng như người sống kia vậy.
Bần-Đạo còn nhớ một chuyện
lạ-lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết, giờ biết Đạo mới hiểu
Đức-Chí-Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần-Đạo; bây giờ Bần-Đạo không
dám nói lại, Ngài đến làm bạn cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp.
Chừng Hội-Yến Diêu-Trì rồi
các Đấng Thiêng-Liêng và các Vị Giáo-Chủ ra từ giã (thăng) kế Đức-Chí-Tôn đến
nhập cơ. Thượng-Phẩm và Bần-Đạo tọc-mạch hỏi:
- Khi nãy Diêu-Trì-Cung
đến có Ngài đến ở đó không?
Đức-Chí-Tôn trả lời:
- Có chớ, ta ở đây từ khi
ban-sơ đến giờ.
- Ngài có thấy Diêu-Trì
đến không ?
- Có chớ, chính mình ta
tiếp đãi !
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Diêu-Trì-Cung ngó thấy
Ngài không ?
- Không ngó thấy.
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Sao vậy ?
Ngài trả lời:
- Ngài dùng phép ẩn thân.
Bần-Đạo tọc mạch hỏi tiếp:
- Như đứa em của tôi là
Thất-Nương Diêu-Trì có thể đoạt đặng chăng?
- Đoạt đặng chớ !
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Phải làm sao ?
Ngài nói:
- Phải tu, bằng không tu
thì chẳng đoạt đặng.
Bần-Đạo hỏi:
- Tu chừng bao lâu mới đoạt
đặng ?
Cái đó Ngài
làm thinh. Bần-Đạo hỏi một năm, năm năm, một ngàn năm, mười ngàn năm, một trăm
ngàn năm…,Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không
biết chừng nào mới đoạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các Vị Nữ Phái rán nhớ
Diêu-Trì-Cung, Bần-Đạo có giải nghĩa Hội-Yến Diêu-Trì là gì rồi đó.
Toàn Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn
và con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Đạo bị bế Ngọc-Hư-Cung bác Luật,
Cực-Lạc Thế-Giái thì đóng cửa nên chúng sanh toàn cả Càn-Khôn Vũ-Trụ có tu mà
thành thì rất ít, bởi phương-pháp khó-khăn lắm, muốn đoạt Pháp không phải dễ.
Cổ-Pháp định cho các
chơn-hồn về nơi Diêu-Trì-Cung hưởng được Hội-Yến Bàn-Đào tức nhiên hưởng được
Hội-Yến Diêu-Trì, ăn được quả Đào-Tiên, uống được Tiên-Tửu mới nhập vô cảnh
Thiêng-Liêng Hằng-Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi ! Từ thử đến giờ có ai đặng
hưởng, nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.
Giờ phút này Đức-Chí-Tôn
quyết-định tận độ con cái của Ngài thay vì Bí-Pháp ấy độ con cái của Ngài về
nơi Kim-Bàn Phật-Mẫu đặng hưởng đặc ân Thiêng-Liêng của Đức-Chí-Tôn.
Đức-Chí-Tôn buộc Phật-Mẫu
phải đến tại mặt thế gian này để Bí-Pháp Hội-Yến Diêu Trì tại cửa Đạo này cho
con cái của Ngài giải-thoát, ấy là một Bí-Pháp Thiêng-Liêng duy có tay Ngài
định pháp ấy mới đặng.
Hôm nay là ngày Phật-Mẫu
đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn Vạn-linh sanh chúng; Ngài
để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm nay ngày Lễ của Ngài
mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo; xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để
nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần-Đạo cũng để ý đến Lễ của Ngài hơn hết; từ tạo
thiên lập địa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ này, Ngài đến tại mặt
địa-cầu 68 này đặng tận-độ con cái của Ngài.
Chúng ta phải chiêm-ngưỡng
ơn vô-biên vô-tận của Ngài. Chúng ta phải chiêm-nghiệm Lễ này để làm mật-niệm
cám ơn Đức-Chí-Tôn và Phật-Mẫu ấy là Bí-Pháp của chúng ta đó vậy.
* * *
14. - Tại sao Đức Chí-Tôn chỉ giáng bút truyền Bí-pháp
cho Hộ-Pháp ?
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 1 tháng 09 Năm Kỷ-Sửu.
TẠI SAO ĐỨC CHÍ-TÔN CHỈ GIÁNG BÚT
TRUYỀN BÍ-PHÁP CHO HỘ-PHÁP
Bần-Đạo hứa mỗi kỳ
Sóc-Vọng thì thuyết Bí-Pháp. Hôm nay Bần-Đạo khởi thuyết về Bí-Pháp. Có nhiều
yếu tố Bần-Đạo phải minh bạch ra cho toàn con cái của Đức-Chí-Tôn hiểu cái
sơ-yếu của Bí-Pháp đối với ta và đối với Đức-Chí-Tôn.
Bần-Đạo khởi giảng cho
hiểu tại sao Đức-Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là mở Cơ-quan tận độ chúng sanh ?
Đức-Chí-Tôn sai Hộ-Pháp giáng thế; tại sao Ngài không dùng cơ bút để truyền
Bí-Pháp cho con cái của Ngài; Ngài chỉ giáng bút truyền cho Hộ-Pháp mà thôi. Vì
cớ cho nên bạn của Bần-Đạo nơi Hiệp-Thiên-Đài có lắm người thắc mắc về vụ đó.
Không có lạ chi; mở cơ-quan tận độ chúng-sanh tức nhiên là lập một khoa thi
sang Tam Chuyển tái phục Thiêng-Liêng vị nơi cảnh vô hình; mỗi chuyển tức nhiên
mỗi khoa-mục của các Đẳng Chơn-hồn cần phải thi đặng đoạt vị: Thăng hoặc Đọa.
Bởi cớ cho nên Đức-Chí-Tôn
gọi là trường thi công-quả là vậy. Đức-Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập-Nhị
Thời-Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí-Pháp ấy đặng cho Vạn-Linh đoạt vị. Cả thảy
đều hiểu rằng Đức-Chí-Tôn buổi mới sơ khai chưa tạo thiên lập địa, Ngài muốn
cho Vạn-linh đặng hiệp cùng Nhứt-Linh của Ngài do quyền-năng sở-hữu của quyền
hạn Thần-Linh.
Ngài vừa khởi trong mình
quyết-định thi-hành điều ấy thì Ngài nắm cái Pháp. Trước Ngài chỉ là Pháp, vì
cớ cho nên ta để Phật tức nhiên là Ngài; kế thứ nhì là Pháp hễ nắm Pháp rồi
Ngài phán-đoán vạn-vật thành hình; Ngài muốn vạn-vật thành hình tức nhiên Tăng,
cả Vạn-Linh đều đứng trong Tăng. Ấy vậy, Pháp là chủ của Vạn-Linh. Bởi do nơi
Pháp, Vạn-Linh mới chủ tướng biến hình do nơi Pháp, mới sản xuất Vạn-Linh; Cả
huyền-vi hữu-hình Đức-Chí-Tôn tạo Đạo do nơi Pháp. Chúng ta biết Pháp thuộc về
hình-thể của Vạn-Linh, vì cớ cho nên Đạo-Giáo minh tỏa rõ-rệt Tam Châu Bát-Bộ
thuộc về quyền Hộ-Pháp. (Tam-Châu Bát-Bộ Hộ-Pháp Thiên-Tôn).
Tại sao gọi Tam-Châu
Bát-Bộ là: Đông Thắng Thần-Châu, Tây-Ngưu Hóa-Châu, Nam Thiện Bộ-Châu, đều
thuộc quyền hạn của Hộ-Pháp, còn Bắc-cù Lưu-Châu để cho các phẩm chơn hồn Quỷ
vị nó định phận tại nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền năng vô
định chẳng cần chỉ giáo; để đặc biệt một Châu cho Quỷ vị ăn năn tu học đặng
đoạt vị; ba Bộ-Châu kia thuộc quyền hạn Hộ-Pháp giáo-hóa, duy có Bắc-Châu Ngài
không thường ngó tới lắm, để cho nó tự-do làm gì thì làm, khôn nhờ dại chịu.
Bát-Bộ là gì ? là nơi Bát Phẩm chơn-hồn chớ có chi đâu; Tám hồn là gì: là
Vật-Chất hồn, Thảo-Mộc hồn, Thú-Cầm hồn, Nhơn-hồn dĩ chí cho đến Thần, Thánh,
Tiên, Phật. Tám bộ ấy thuộc về quyền hạn Hộ-Pháp thiên vị nơi Đức-Chí-Tôn gọi
đến tạo cơ-quan tận độ chúng-sanh không còn ai khác hơn Hộ-Pháp, chính Hộ-Pháp
trách-nhiệm ấy.
Hạnh-phúc thay cho
nhơn-loại! Hạnh phúc thay cho Vạn-Linh! Đức-Chí-Tôn đã đem một hồng-ân tối đại
để nơi mặt địa-cầu 68 này. Tại sao Đức-Chí-Tôn giao cho Hộ-Pháp ? Bần-Đạo nói
thật giờ phút nào Bí-Pháp duy-chủ quyền Đạo là giả tướng mà thôi, không có chơn
thật gì hết. Nếu chúng ta tu mà không đoạt Pháp được tức nhiên chúng ta không
giải thoát đặng, thì kiếp tu chúng ta không hữu-ích chi hết.
Hộ-Pháp đến cốt yếu đem
Bát-Phẩm chơn-hồn Thăng vị: nhiều hoặc ít, có thể một đẳng cấp từ Vật-Chất
Hộ-Pháp đem lên Thảo-Mộc, Thảo-mộc đem lên Thú-Cầm, Thú cầm đem lên Nhơn-loại
dĩ chí Phật vị, Hộ-Pháp có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền ấy
Đức-Chí-Tôn nói trọng quyền thì trọng phạt. Quyền hành nắm chẳng phải nơi mặt
thế gian này mà thôi, Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân, không phải quyền tại thế
gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao-Đài này, cũng không phải tại đây nữa. Bần-Đạo
nói đây là quyền Đạo Cao-Đài cả Thiêng-Liêng Hằng Sống.
Cao-Đài Đại-Đạo cảnh vô
hình kia y như lời Tiên-tri của Công-Giáo tức nhiên Thiên-Chúa-Giáo nói: Trên
nước Thiêng-Liêng Hằng Sống kia Đức-Chí-Tôn gần đến và đã đến, đến thời buổi
này; ấy vậy, bây giờ chúng ta tìm coi cái tương-liên chúng ta đối với
Đức-Chí-Tôn, Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta làm gì, và chúng ta đã làm gì ?
Đức-Chí-Tôn muốn ta làm
Thi-Hài Hữu-Hình của Ngài, tức-nhiên Ngài đến lập Thánh-Thể của Ngài là
Hội-Thánh. Hội-Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài. Muốn thay hình ảnh cho
Ngài thì phải đổi cho Ngài cái gì ? Ông đem cơ giải thoát, đem phẩm vị
Thiêng-Liêng cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng chúng ta định vị;
rồi Oång đòi chúng ta đổi chọn cái gì ? Ổng đòi chúng ta đem đổi ba món Báu là
" Tam-Bửu" là Tinh, Khí, Thần. Cái liên-quan mật thiết Tinh, Khí, Thần
là gì ? Đối với thi-hài chúng ta nó bảo-trọng thế nào mà Đức-Chí-Tôn đòi đó mà
thôi ? Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức-Chí-Tôn tạo thành Thánh-Thể của
Ngài đặng. Ngài lấy ba cái vật tỷ như: ba món báu trong mình chúng ta; Hoa,
Ngài tỷ như thân-thể chúng ta; Rượu, Ngài tỷ như trí-thức tinh-thần khôn-ngoan
của chúng ta; Trà, Ngài tỷ như linh-hồn của chúng ta, mà thật ra trong mình của
chúng ta có ba món ấy là báu mà thôi.
Ngộ-nghĩnh thay chúng ta
nên để ý điều này. Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta mỗi ngày phải dâng ba món ấy: ba
món trọng hệ hơn hết là Tinh, Khí, Thần. Thường ngày chúng ta chỉ lấy Khí, Thần
dâng mà thôi, còn Tinh thì Tiểu-Đàn hay Đại-Đàn mới có. Ngài chán biết thi-hài
của chúng ta chẳng phải chúng ta làm chủ nếu đòi quả-quyết nó thì nó đi đặng
phụng-sự cho Vạn-Linh thì không có làm gì được, nên Oång không buộc mà để cho
nó có quyền tự-do định-phận của nó. Nội bao nhiêu đó chúng ta cũng ngó thấy cái
lòng Đại-Từ Đại-Bi của Ngài đến thế nào. Thể-chất kia mà Ngài không ràng buộc
không ép bức để cho nó định phận, tưởng coi ai có nhân từ đến mức đó không ?.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng
tiếp về trí-não và tâm-hồn như thế nào.
* * *
15. - Chúng ta phải giữ công-chánh dung-hoà giữa
Duy-tâm và Duy-vật .
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 30 tháng 10 Năm Kỷ-Sửu
CHÚNG TA PHẢI GIỮ CÔNG-CHÁNH DUNG-HOÀ
GIỮA DUY-TÂM VÀ DUY-VẬT
(TÂM VẬT BÌNH HÀNH)
Hôm nay Bần-Đạo đình
thuyết Bí-Pháp; cái nguyên do như thế nào Bần-Đạo xin biện ra. Vả chăng chúng
ta ở trong hoàn-cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật đương chiến-đấu
với nhau. Chúng ta dầu Chức-Sắc Thiên-Phong hay là mấy em Nam Nữ Lưỡng-Phái
cũng thế. Là một phần tử trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn, Ngài đã tạo tinh-thần cho
chúng ta vì sự thương yêu của Ngài nên Ngài lập Thiên-vị tại mặt thế này cho
con cái thương yêu của Ngài. Ngài biểu chúng ta ký hòa-ước với Ngài để thay thế
hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ-bi công chánh của Ngài đối đãi với
Vạn-Linh tức nhiên chúng ta phải thay thế hình-ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn-Linh
hiệp với Chí-Linh, tức nhiên Ngài cho chúng ta cái sứ-mạng để dung-hòa Đời với
Đạo .
Cái lý thuyết Duy-Vật, là
cái lý thuyết sống của Đời, còn cái lý-thuyết Duy-Tâm phải chăng là cái sống
của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt Duy-Tâm thì phải ? Bởi chính
mình chúng ta có sứ mạng thay-thế duy-chủ của Duy-Tâm tức nhiên chúng ta phải
ngã bên mé Duy-tâm hơn hết. Vì đã có ký hòa ước với Đấng Chí-Linh kia giữ
công-chánh đặng dung hòa tinh-thần Đời và Đạo, vì mức sống ấy chúng ta không
nên nghiêng đổ đó vậy.
Chúng ta tìm-tàng, chúng
ta định ngược lại là có cái lý do này Đạo Cao-Đài không cần dùng mê-tín dị-đoan
làm cho sự tín-ngưỡng được mạnh-mẽ của nó, không cần !!! Trái ngược lụng lại
đem hết triết-lý chơn thật để tại mặt thế này mà thôi. Bởi vì dối-trá dầu cho
Đạo hay Đời, trường dối-trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo-Đoan nghiêng-ngửa; chúng
ta không cần xu-hướng theo cái dối trá thường tình nữa, chúng ta phải tiêu-diệt
cái sự dối trá. Lại nữa, trong hoàn-cảnh chúng ta đương làm trung-gian dung-hòa
cho Đạo và Đời chúng ta chẳng nên mượn thế-lực mê-tín dị-đoan để làm khiếp
phục, đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh-thần loài người điên-đảo. Một
trường ngôn luận xì-xào đã kiếm thế hèn tiện của thiên-hạ đặng tính tạo thành
một phản động lực đặng làm mất giá trị một nền Tôn-Giáo của Đức-Chí-Tôn.
Bần-Đạo nói thật muốn đánh
tiêu cả sự dối-trá gian-ngược ấy chẳng phải dễ. Người có thể làm cho thiên hạ
mê tín dị-đoan được là Bần-Đạo mà Bần-Đạo không làm, bởi vì Bần-Đạo coi sự làm
ấy hèn tiện và vô Đạo-Đức. Bần-Đạo chỉ lấy một cái triết lý chơn thật của
Đức-Chí-Tôn để giáo Đạo cho con cái của Ngài mà thôi. Bần-Đạo duy muốn làm bạn
với con cái của Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Đức-Chí-Tôn để cho Bần-Đạo mà
Bần-Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy, mê-tín dị-đoan trong cửa Đạo Cao-Đài không có và
không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại, đình Bí-Pháp Chơn-truyền nếu
thuyết ra là lấy cái quyền-năng mê-tín dị-đoan mà thắng thiên hạ là một điều
hèn nhát nên Bần-Đạo không dùng. Bần-Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa cho con cái của
Đức-Chí-Tôn mà thôi.
Bây giờ Bần-Đạo xin thuyết
ý-vị và cái nghĩa lý sống của con người; vả chăng chúng đến với một phần xác ở
tại thế này, chúng ta phải biết cái sống của nó ý vị gì ? Đã sanh đứng làm
người tại mặt thế này, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị cái sống ấy
và nghĩa lý của nó có thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng-cổ đến giờ
tinh-thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng các
hình-tượng, các nền Đạo, các Tôn-Giáo.
Chúng ta quan-sát cả triết
lý cái sống phải có lý do nào ? Sống đương nhiên của chúng ta có hai sống:
1/ - Sống về vật-chất mà
nói rõ ra là sống về phương-pháp thú chất.
2/ - Sống về tinh-thần
tức-nhiên sống về cái phương-pháp hiển-háchanh-linh của nó.
Chúng ta thấy hai cái
quyền-năng ấy nó tương tranh với nhau mãi mãi mà thôi, vì cớ cho nên mới nảy
sanh ra hai thuyết: Duy-Tâm và Duy-Vật. Chúng ta thử giở lịch-sử của loài người
thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải " Connais
toi, toi même" nghĩa là người biết người hơn hết. Mình biết mình đặng chi
? Đặng tìm tàng cho thấu đáo cái nghĩa-lý sống của mình.
Chúng ta ngó thấy
Thượng-Cổ, bực cổ-nhân là hàng vĩ-nhân, dân Âu-châu thì có "Socrate"
cũng do thời đại nhơn-sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng Chí-Linh trong
Càn-Khôn Vũ-Trụ cái thuyết làm cho các phản động-lực coi Ngài như kẻ
thù-nghịch, đến nước cái quyền năng buổi nọ mạnh-mẽ thế nào tử-hình Ngài cho
Ngài lấy chén thuốc độc mà tự-tử. Khi giam Ngài trong ngục Ngài có phương-thế
hội-đàm với các nhà triết-học. Tới giờ chót chúng đem chén thuốc-độc đưa trong
tay của Ngài biểu Ngài uống; Ngài bưng chén thuốc-độc ấy để từ giả các bạn của
Ngài mà Ngài nói như nói chơi vậy. Ngài nói tôi biết rằng: Ngoài cơ-thể
Tạo-Đoan này của Đời này, nó còn các cơ-quan vô-hình tối-trọng kia, tôi
quả-quyết rằng có, thì cái chết ta mong lắm chớ !!! Giờ phút ta cầm chén
"Suré" này ta uống, thì ta sẽ được hội hiệp với các vị hiền-triết,
được làm bạn với họ thì có gì hơn. Nói rồi Ngài bưng chén "Suré" Ngài
uống.
Giờ chết của Ngài, giờ
ngặc mình của Ngài, thì môn-đệ của Ngài hỏi: "Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi
đâu hay sẽ làm gì ? Ngài cười nói: ta chưa biết ta sẽ làm Chúa cả cơ-thể
Tạo-Đoan này để điều-đình cả cơ-quan vĩ-đại của Càn-Khôn Vũ-Trụ hay ta sẽ làm
chân của con châu-chấu ? Dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm
cái gì thì ta làm cái nấy. Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.
Đức Lão-Tử khi đoạt được
bí-mật của Bát-Quái-Đồ rồi Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn-Lôn-Sơn mà an
nghỉ. Môn-đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn-Lôn-Sơn để làm gì ? Có hạnh-phúc hay
không ? Ngài trả lời duy có cái biết cuả ta mà đã làm cho ta có thú vị sống
đặc-biệt, không cần nói rõ hạnh-phúc ấy ra thế nào, nhưng ta chỉ nói rằng: cái
biết cuả ta nó làm cho ta hưởng thú-vị an vui của cái sống ấy.
Đức Khổng-Phu-Tữ từ giả
quan-trường về giáo-đạo dạy các môn-đệ của Ngài; thiên-hạ gọi là vô-phước mà
cảnh thiệt vô-phước của Ngài là lúc Ngài làm quan cho nhà Châu, làm quan cho
nước Tề, nước Yên và lúc châu-lưu trong Lục-Quốc.
Bây giờ sống với Thất-Thập
Nhị-Hiền, Tam-Thiên Đồ-Đệ của Ngài, là Ngài hạnh-phúc hơn hết, vì Ngài biết cái
thú vị cái sống của Ngài thế nào; cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi. Giờ
trái ngược lụng lại sống, chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần-Thủy-Hoàng,
sống của Sở-Bá-Vương hai tay trắng lập nên nghiệp đế đè nén cả tinh-thần dân
chúng buổi nọ, vị chúa của họ sanh-sát tàn ác không có điều gì mà họ không làm,
quyền hành của họ tàn ác lắm.
Cái sống của
Tần-Thủy-Hoàng thế nào, dòm lụng lại cái chết rồi Ngài than: Các tài tình thâu
nghiệp để ta thắng được duy có cái chết ta thắng không được. Vì thế mới cho
người đi kiếm thuốc trường-sanh bất-tử, mê-tín đến nước người ta cho ăn "
dương khí ngựa " (nước dái con ngựa) mà cũng ăn nữa, ăn đặng sống mà anh
ta cũng chết.
Nã-Phá-Luân đã được cơ-hội
làm nên nghiệp-đế, hồi buổi đó làm cho toàn cõi Âu-Châu các nước chư-hầu đều
cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Ile de Saint Hélène.
Ông Vua giàu có sang trọng
hơn hết là Louis XIV (Louis 14) thiên hạ thế-kỷ đó cho là Ông Vua Trời (Le Roi
Soleil) cả thiên-hạ đều tùng-phục kính-trọng, kiêng-nể. Âu-Châu buổi nọ có thể
nói Ngài là một vị bá-chủ của thiên-hạ không có cái gì mà anh ta không có
"Tứ-Hải Phú-Hữu" sang trọng vô-biên có một điều là đền Vua của Ngài
"Palais Louis 14" quân lính canh tuần bảy vòng mà ngăn cấm cái chết
vô trong hoàng gia của Ngài không đặng; chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi
gần hết trong hoàng-gia, rốt chuyện Ngài truyền Ngôi báu lại cho đứa cháu nội
mà thôi.
Ngài than: Hại thay !
hoàng thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặc mà nó không cản được cái chết đến
nhà ta .
Chức-vị sang trọng của
mình sống như con cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ mà chúng
cũng kiên cũng sợ nhưng chúng chưa biết thương; sống như con cá Ông không ai
thấy mà chiếc ghe nào chìm thì có người ta đỡ. Cái sống con cọp không có ai
thờ, còn cái sống của con cá Ông có người ta thờ.
Hai cái sống đặc biệt ấy
là cái sống Duy-Vật và cái sống Duy-Tâm. Bần-Đạo tả ra cho con cái của Ngài lấy
đó mà suy gẫm.
1. - Đức Chí-Tôn chọn Hoa,
Rượu, Trà tượng trưng Tinh, Khi, Thần
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại
Đền Thánh
đêm Rằm tháng 2 Năm
Đinh-Hợi (1947)
ĐỨC CHÍ-TÔN CHỌN HOA, RƯỢU, TRÀ
TƯỢNG
TRƯNG TINH, KHÍ, THẦN
Phàm con người có 3 xác
thân:
Một là Tinh: là xác thân
của cha mẹ sanh ra.
Hai là Khí: là hơi (corps
astral), liên-quan tới xác thân nó tiếp xúc liên-quan bảo-trọng sự sống. Sự
sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh-quang do nơi Phật Mẫu tạo mà
có.
Ba là Thần : là linh hồn
của Chí-Tôn ban cho mà có, cả Ba liên-quan với nhau thành một, một thành ba gọi
là Tam-Bửu: TINH, KHÍ, THẦN.
Chí-Tôn lại chọn lựa vật
quý báu là bông (tinh), rượu (khí), trà (thần) là ý nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con
cái Ngài những món quý mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn
con cái Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.
Muốn cho khỏi phụ lòng
Chí-Tôn thì ta phải đào-luyện cho đệ nhị xác thân ấy được tinh khiết nhẹ-nhàng.
Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai-giới, chỉnh-tu cho cái đệ-nhị
xác thân được tráng-kiện, hoạt-bát, tùng khuôn-viên thiện-đức. Đệ nhị xác thân
ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo-hộ về sanh-quang, tiếp với đệ tam xác thân
là linh-hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu-hoại thì nó trực tiếp ngay với
linh-hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng có nghiệp ác thì nó phải dính-líu với
cái xác thúi hôi này mà phải chịu lìa xa cái linh-hồn, thì thần tử sẽ rước đi
mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí-Tôn ban cho ta cái Bí-Pháp (phép xác) cắt đứt
dây oan-nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với
linh-hồn tức là hằng sống vậy.
Loài người quá xảo-quyệt,
khôn-khéo tiềm tàng sự sung-sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao
nhiêu thành sầu, quỉ khốc, chiến-tranh không ngớt là do nơi lòng tham-lam
tiến-triển, văn-minh cơ-khí tối-tân như là bom nguyên tử để giết người. Hiện
tại nơi Mỹ-Châu, Cổ-tàng-viện của họ có đến 200 triệu quyển sách. Cứ đổ đồng
một ngày xem một quyển thì sống đến mấy đời mới đọc hết được.
Chí-Tôn biết rõ loài người
tiến hóa tột bực mà tự đắc, tự-tôn chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không
chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh-thần, nên Chí-Tôn đến khai-Đạo là cố ý
giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người
tận-thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thế giới này
những điều tinh-ma quỉ-quái sẽ tiêu-diệt, thần-tử không hề đến ta được.
Nếu ta thấy được cõi
hư-linh kia cái tinh của các vạn-loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài
người kết oán thù thâm với nó, triệu chực chờ thù ghét vì vậy mà nó có vay trả
luân-hồi mãi mãi đọa đày bất-năng thoát tục.
Mong sao chúng ta từ đây
phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là
phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan-nghiệt ấy mà
truyền bá cái huờn thuốc linh-đơn nầy là đạo-đức của Chí-Tôn, để cứu vớt
quần-sanh thoát vòng đọa lạc.
Hoàn toàn cả thế-gian nầy
biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài
người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm-lý mà tập-quán của các nước, của
các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau,
mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.
Vậy thánh ý của
Đức-Chí-Tôn khai mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Tam-giáo qui-nguyên, Ngũ-chi phục
nhất là muốn dung hòa tâm-lý cả toàn con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức
nguyên-nhân, vì thế mà bị sa-đọa nơi đây. Chí-Tôn đã đại-từ đại-bi chỉ rõ
căn-nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đoạt ngôi vị là phải trau luyện
cho TINH hiệp với KHÍ, tinh khí huờn THẦN là cơ huyền-bí để mà đắc đạo vậy.
Trọng giá của Tam-Bửu mà
Chí-Tôn ưa chuộng để dâng đại-lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm đứt cái họa tranh
thù mà gây nên trường oan-nghiệt cho toàn thế-giới.
Ấy vậy muốn duy-trì sự hòa
biết đại-đồng nầy cũng do nơi gốc Bí-Pháp đó mà thôi. Dầu triết-lý thâm-uyên
đạo-đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; Mà nếu không đoạt được thì toàn
lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô-trược tội tình thì thế giới sẽ điêu tàn
tiêu-diệt mà chớ.
* * *
2. - Nguyên-do con người
là gì ?- Tam-bửu tạo nên con người.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
sau giờ Tý ngày 15 tháng
Hai nhuần Năm Đinh-Hợi (1947)
NGUYÊN-DO CON NGƯỜI LÀ GÌ?
TAM-BỬU TẠO NÊN CON NGƯỜI
Hôm nay Bần-Đạo giảng nối
về Tam-Bửu, Bần-Đạo lần lượt giảng Tam-Bửu trước là vì Đức-Chí-Tôn lấy bông,
rượu, trà mà tượng hình ba thể-chất tạo nên vạn-loại.
Chơn-linh mới thiệt là ta,
còn chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hình. Chơn-linh ta mượn cơ-quan
hữu-hình để thân-mật cùng cả cơ-quan tạo-đoan vũ-trụ.
Ta đến mang mảnh hình hài
như thế nầy đặng chi ? Nguyên do nơi nào mà đến ? Rồi Bần-Đạo lần lượt giảng vì
sao mà ta phải tu ? Tu có ích gì, do nguyên lý nào mà phải tu ?.
Bần-Đạo sẽ giảng nguyên-do
con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu-thiên khai-hóa, Đức Chí-Tôn tạo
Bát-Quái-Đài là gì ?
Bây giờ Bần-Đạo giảng về
Tam-Bửu, 3 cơ-quan tạo nên hình thể con người; Chơn-linh ta do nguyên khí mà
có, nguyên khí là Tiên-thiên-khí; Chơn-thần do Hậu-thiên-khí kết-thành; còn xác
thịt thì do vật-chất mà nên.
Hỏi vậy ta sống đây do
cơ-quan nào ? Ấy là nhờ chơn-linh mới có sự sống, chơn-linh có một quyền năng
vô-đoán, chưa có khoa-học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền năng của nó là
của Đức Chí-Tôn ban cho. Quyền năng của chơn-linh không giới hạn, nó là quyền
năng bảo trọng đường sống của vạn-loại, của xác hình. Chơn-thần là
Hậu-thiên-khí, nó bảo trọng vật-chất-khí.
Trong 3 khí-chất ấy, tạo
ra hình hài chúng ta, Chơn-linh là nhứt-điểm linh-quang do Chí-Tôn mà có, để
bảo trọng cái sanh mạng, cái sống của thi-hài. Đến ngày giờ nào niên-kỷ đã định
hết khối-sinh-quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác thì xác phải hoại,
chúng ta gọi là tử.
Ấy vậy, ta thử kiếm coi
Tiên-thiên-khí, Hậu-thiên-khí và vật-chất-khí là gì? Chúng ta đã thấy bất kỳ
vật hữu hình nào cũng có 3 thể-chất.
- Vật-chất thì mắt ta
thấy.
- Mùi vị là Hậu-thiên-khí.
- Năng lực là
Tiên-thiên-khí.
Ba khí-chất nầy tượng ra
hình hài cuả con người, vật-chất, mùi-vị, năng-lực thế nào thì loài người thế
ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm ăn vào để lấy cái tinh ba của nó
là Hậu-thiên-khí phục nguyên, khối sinh-quang của ta được tồn tại.
Tinh ba của vật-chất nó
vào mình làm cho xác hài có năng-lực tráng-kiện. Ta thấy khi đói bủn rủn tay
chơn là thiếu sanh-khí đó vậy.
Chơn-thần là
Hậu-thiên-khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có. Ta ăn hột cơm vào
bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh-vật nầy. Ta biết
có mà khó thấy được. Chơn-thần chúng ta thiên-hạ kêu là phách, vía cả thảy đều
có.
Người hay sợ ma là tại sao
? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng-minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện
ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy nên làm cho họ sợ.
Một khi ta thấy một vong
linh hiện hình mà ta có phước gần gũi đặng họ thì họ sẽ thương yêu mình hơn kẻ
phàm lắm vậy.
Kẻ phàm mang xác hài đây
có thất-tình, lục-dục, nên có sự phâncách về thể-chất hữu-vi làm cho ta thiếu
sự thương yêu vì ta sợ.
Ngày nào ta về cảnh vô
hình sống trong khối tạo-đoan, chừng đó ta mới biết Đạo là có phận sự bảo trọng
chúng sanh, khuyên-lơn dạy dỗ và giục-thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên
đường tấn-hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh-vực chớ không ai đặng mưu-hại
giục hư.
Bần-Đạo giảng về cõi
hư-linh, nếu ta đoạt pháp xuất-ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi
vô-hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh-chất phàm tâm tưởng-tượng.
Cõi Hư-linh các bậc cao
trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết-thực nhất một điều là làm thế nào
giúp ích cho chúng-sinh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những dịp để an ủi tâm-hồn
chúng-sanh, hằng giờ, hằng buổi không thiếu tình thương.
Chúng ta đến làm người,
cốt yếu đoạt cho được cơ tạo-đoan, trở nên Chí-linh, Chí thánh; một kiếp học
thêm một bực; để ngày kia mong mỏi làm Trời.
Các bạn biết Phật Thích-Ca
xưng là Bổn-sư, người tu gọi là thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được,
gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái.
Ở thế nầy dầu một vị Phật
cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường
đi trước kia dầu ai phàm, dầu ai lạc-hậu cũng tới sau, họ chỉ biết có một điều
là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đoạt lên Phật-vị.
Họ không dám chê ai, chẳng
phải đối với loài người mà thôi, mà đối với tất cả vạn loại, chúng sinh chỉ là
anh em còn lạc-hậu đó vậy.
Con vật mà ta thấy bị giết
được là vì nó vô-tội không phương bảo vệ; ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu
sau nầy các bạn lạc-hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp
nó bên mình, khi ấy nó ngó mà cười và nói: Xưa kia Đức Phật có ăn tôi một lần.
Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay .
Chưa có ai nhẫn tâm giết
người đặng ăn thịt thì cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc-hậu ấy để
ăn.
Ta đến đây làm bạn cùng
vạn-vật chúng-sanh, vạn-vật giúp ta học cho thấu-đáo huyền vi cơ đạo, tạo
Chí-linh nối nghiệp Đức Chí-Tôn.
Thầy có nói: Thầy dành sẵn
gia-nghiệp phẩm-vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ
bỏ. Đại Từ-Phụ mà không tin sao ? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi
nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương-hỏa.
Một điều là Ông cha phàm
làm với phạm vi nhỏ, phương-pháp nhỏ theo phàm. Còn Ông Cha Thiêng Liêng không
lẽ thua ông cha phàm. Thầy nói, Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không
quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần-Đạo tưởng nhứt là phái nam thanh-niên
võ-chức, nếu mấy em biết cơ-quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình
vì Chí-Tôn. Bần-Đạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên
mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì
Hộ-Pháp hứa sẽ tái kiếp luân-hồi bồi thường cho đủ.
Vì những kẻ dám đem mình
làm tế-vật cho Thầy để lập nên một quốc gia thiên-định tại thế nầy, Bần-Đạo
chắc quốc-gia ấy phải thành. Đức Chí-Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ
tuy khó đi mà Bần-Đạo chắc rằng những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng
nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn tới. Nếu chúng ta có con mắt
thiêng-liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các đấng dầu chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn-linh cao-trọng cũng phải cúi đầu. Thầy sẽ trả
bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào
Đức Chí-Tôn trả một cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. (xin cho toàn Đạo
nam nữ sao lục nguyên-văn để phổ-thông chơn-lý).
* * *
3. - Nho lấy nhơn-nghĩa, Đạo lấy công-chánh, Thích lấy
bác-ái, làm căn-bản
Đức Hộ Pháp Giảng tại Đền-Thánh
đêm 15 tháng 03 năm
Đinh-Hợi (dl 1947)
NHO LẤY NHƠN-NGHĨA,
ÐẠO LẤY CÔNG-CHÁNH,
THÍCH LẤY BÁC-ÁI LÀM CĂN-BẢN
Hôm nay nhơn Bần-Đạo làm
phép giải-oan cho một người anh em của chúng ta là Hồ-tấn-Khoa nên Bần-Đạo
giảng tiếp về Tam-Bửu. Giảng tiếp vấn đề ấy lại, Bần-Đạo tuyên-bố cho toàn nam
nữ và chư Chức-sắc thiên phong Nhị Hữu-hình-Đài được nghe rõ. Đối với cơ-quan
đời biến chuyển, từ ngày Bần-Đạo đồ-lưu hải-ngoại đến khi về tới nay tính lại
đã gần 8 tháng, Bần-Đạo thấy tình hình quốc gia của chúng ta mà cả thảy ai ai cũng
biết chẳng cần phải lập lại, vì Bần-Đạo đã thuyết minh nhiều lần rồi. Bây giờ
thử hỏi chơn-truyền của Đức Chí-Tôn mở Đạo là một nền Chánh Giáo. Tôn-chỉ bảo
chúng ta làm gì ? Và Đạo Cao-Đài phải đi theo con đường nào ? Chúng ta thấy
Đại-Từ-Phụ lấy ba Tôn-Giáo: Nho, Thích, Đạo làm cơ-quan duy nhất, dầu về phần
thiêng-liêng hay hữu-hình cũng vậy để làm bí-mật chơn-truyền dìu-dắt linh-hồn
và thi-hài của chúng ta và là một phương-pháp đoạt kiếp giải-thoát linh hồn.
Nho lấy nhơn nghĩa làm căn-bản. Đạo lấy công-chánh làm căn-bản. Thích lấy
bác-ái từ-bi làm căn-bản. Ba triết-lý ấy hiệp lại vừa lo phần Đời và phần Đạo,
xác hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Đức-Chí-Tôn đứng chờ đợi các con cái
hiệp một cùng Người.
Nhơn nghĩa là gì ? Người
có nhơn thì không oán, nghĩa thì không bạc. Công-chánh là gì ? Có công thì
không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật được; còn có
từ-bi thì có khoan-hồng dung-thứ, có bác-ái mới có thể bảo thủ và thân mến toàn
thiên-hạ; nếu chiếu theo chơn truyền của Đức-Chí-Tôn khuyên bảo chúng ta thế
nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải khoan-hồng, tha-thứ,
biết yêu ái, phải có công-bình chánh lý, chúng ta giữ được cả chơn-truyền ấy
thì không ghét ai, oán ai. Trái lại, Đại Từ-Phụ buộc chúng ta phải thương yêu
kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa.
Chiếu theo chơn-truyền ấy,
đối với đời, với quốc gia, chủng-tộc toàn Đạo phải xử thế nào ? Chẳng lẽ Đạo
Cao-Đài phải nhượng bộ hạ mình trước đảng phái, vì cái tinh thần của Đạo còn
chẳng nhượng ai, huống phải hạ mình làm nô-lệ cho đảng-phái. Quyền tự chủ ấy là
quyền của Chí-Tôn ban cho. Thầy đã không àm tớ ai, nên quyền Đạo nó chỉ làm
Thầy.
Nó tự có một năng-lực, mà
cái năng lực ấy không tùng năng lực của ai cả. Nó có một quyền-hành sở-hữu chớ
không tùng ai và không theo đảng phái nào. Nó phải lập quyền yêu ái, công
chánh, từ-bi. Nó có phận sự tạo nghiệp cho đời chớ không phải làm tôi mọi cho
đời. Đời đang phải chịu vòng nô-lệ thì con cái của Đức-Chí-Tôn bây giờ phải
theo tôn-chỉ nào ? Phải biết rằng có thiên-mạng con cái của Chí-Tôn là Thánh
thể, ông Trời tại thế nầy. Trời đã không nhường ai, không làm tôi tớ ai, thì
con cái của Chí-Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương của con Ngài. Vì
thiên-lương ấy là căn-bản tạo quyền cho thiên hạ. Là con cái của Ngài lẽ đương
nhiên, chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã-hội của chúng ta đang ở
trong tình thế bại hoại. Chúng ta chỉ biết nhìn một quyền "Dân
Việt-Nam" mà thôi. Thời buổi loạn lạc dân không có quyền, trong nước đảng
nầy phái kia, chia năm, chia bảy, nên buộc chúng ta phải kiếm một cái quyền của
nhà Vua. Vua và dân hai quyền ấy nó tương-liên với vận mạng nước Việt-Nam, tìm
cái kia không phải tìm cái nọ, cái quyền sở hữu nào chúng ta thấy thì chúng ta
phải cầm lấy, giúp Vua để lập quyền cho nước, cho quốc gia, cho xã-hội.
Vì vậy, chúng ta phải đem
nhà Vua lại để lập quyền cho dân. Quyền là chánh sách Đạo Cao-Đài giúp Quân chủ
tạo Dân-quyền. Bởi thế Bần-Đạo đã công khai cùng chánh phủ rồi. Bần-Đạo sẽ
công-khai cho toàn thiên hạ biết rằng: "Chúng ta sẽ hướng ra Quân-chủ
Dân-quyền" để tạo tương lai cho quốc vận.
Chúng ta không thấy còn
con đường nào khác nữa, chỉ một con đường duy-nhất cao-thượng nầy mà Đạo phải
làm cho thành tựu. Bần-Đạo xin cả thảy nghe và tìm hiểu chơn-lý ấy rồi hằng đêm
cầu nguyện để quyết định tương lai vận mạng nòi giống cuả chúng ta.
* * *
4. - Cái chơn-nghĩa của
chử Đạo
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 29 tháng 03 Đinh Hợi
(1947)
CÁI CHƠN-NGHĨA CỦA CHỬ ÐẠO
Hôm nay Bần-Đạo giảng về
Tam-Bửu, nguyên thỉ tạo thành càn-khôn thế-giái.
Từ trước đến giờ thiên hạ
thường nói là có Đạo, tin Đạo, nhưng Bần-Đạo tưởng chắc chưa có ai hiểu Đạo là
gì cả, nên Bần-Đạo lần lượt giảng cái chơn nghĩa của chữ Đạo, giãi rõ cái liên
quan giữa Đạo và con người cùng vạn vật do nơi đâu mà có, rồi sẽ giảng về
nguyên căn của Tam-bửu, là một nguyên căn, là một bổn nguyên Tinh, Khí, Thần.
Đức-Chí-Tôn là Đấng tự-hữu hằng-hữu mà từ thử đến giờ bất kỳ một Đấng thiêng
liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn của Người đặng.
Theo lời Đức Nguyệt Tâm
Chơn-Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiểu rõ nguyên căn của Chí-Tôn, chỉ
biết cái quyền năng vô-đối của Người mà thôi. Bần-Đạo đã vấn nạn Đức Chưởng Đạo
Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị
Giáo-Chủ nào đã hỏi như Bần-Đạo. Bần-Đạo hỏi nguyên căn của Chí-Tôn và quyền
năng của Người thì Đức Chưởng-Đạo có tả một bài văn chữ Pháp dịch ra Quốc-ngữ;
nhưng chính Đức Nguyệt-Tâm cũng đã thú-thật rằng: Không biết nguyên do của
Chí-Tôn là thế nào, chỉ biết quyền năng vô-đối của Người mà thôi.
Nay thuyết về vấn đề ấy,
Bần-Đạo chỉ nói Đấng Chí-linh hằng-hữu ấy là Đức-Chí-Tôn, là cha cả chơn linh
van-vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy, khối linh ấy
thế nào hơn hết. Biết bao nhiêu Đấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay
thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh-tâm cao-trọng hơn cả
vạn-vật ? Tiềm tàng với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và cũng
vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Đạo. Nhìn biết và hiểu
hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét có vật tối
linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì ? từ trước đến giờ loài người tìm kiếm
mãi nguyên-docủa nó.
Tiếp khai các nền Tôn-Giáo
hiện hữu không một nền Tôn-Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao siêu
hơn là Phật-Giáo nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa xôi làm chi,
chúng ta thấy hiểu con người có tâm-linh, chúng ta có quan-sát cả chơn-lý của
Phật-giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng: Chúng ta có một
Tôn-Giáo mà tôn giáo ấy là chúa tể cả các nền tôn-giáo khác. Vì bởi nó là
nguyên căn của Tôn-giáo và chính nó là một tôn-giáo tự-hữu, từ buổi trời đất
biến sanh đã có. Cái khối chơn-linh ấy là cha của chơn-linh, cha của nhứt điểm
linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ trước Đức-Chí-Tôn
dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh khí ấy mà biến
thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn-vật
nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã
nhiều, nhưng xét ra cũng chưa ai hiểu rõ cái nguyên căn ấy. Phật giáo nói: Cái
khối linh ấy phân-tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi
phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là
Civa chủ về Pháp. Đức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền
năng tạo-đoan. Pháp vận hành mà sanh khí, nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy
là khí; Vậy khí là gì ? Khí là khối sanh quang vạn-vật, nhờ thở sanh-khí ấy mà
sống; cho nên chữ khí là sự sống của vạn-vật, do khí là pháp biến-tướng ra
vạn-vật. Nên Đấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2e
Logos" thuộc âm ấy là Phật-Mẫu chưởng quản cả cơ-quan tạo-đoan nầy vậy.
Như chúng ta thấy cơ-quan
sanh hóa vạn-vật và loài người là do âm dương phối hợp mà biến tướng. Phật
chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc âm, là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta
không biết cái bí-mật ấy là khi âm dương phối-hiệp biến hình mà Phật-Mẫu dùng
gì để tạo nên cơ-quan hữu vi nầy. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang có năng
lực vận hành trong không khí chúng ta không thể thấy được. Khi biến ra
hữu-tướng là nước, lửa, gió; rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn-vật, đi từ
Hỗn-nguơn-khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật tức là
Huyền-ảnh-khí biến ra nhơn hình vậy. Khí ấy nhà khoa-học gọi là nguyên-tử-khí
(Atome) . Nguyên-tử-khí có năng lực vô-biên mà loài người đã đoạt được để dùng
chớ không biết nguyên-căn và nguyên-tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài
người tìm được nguyên-tử-chất và cùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh
của vũ-trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thể sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí
ấy mà quy nguyên Thánh-thể. Thử hỏi Đức-Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt
nguyên-tử-khí ấy để làm chi ? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy
mà dầu cho Đạo giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay
nguyên-tử-khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử
huờn-sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa-vị trường-sanh bất-tử.
Vì bởi nguyên-tử-khí là
căn-nguyên sự sống của vạn-loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm
sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận-hành tạo ra hữu-hình
là vạn-vật; vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan
cũng thế ấy, nên mới lấy càn khôn làm Đại thiên-địa và lấy con người mà làm
Tiểu thiên-điạ. Mạng sanh của con người đồng thể cùng càn-khôn, tức là sự sống
phải tương-liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyền năng vô-đối.
Hỏi vậy Chí-Tôn tạo ra cái
đại nghiệp ấy để cho ai ? Để cho vạn-linh, mà đứng đầu vạn-linh lại là loài
người; mà loài người có hưởng được thì Đức-Chí-Tôn mới dành cho. Nếu chúng ta
một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa hưởng được cái quyền
năng ấy. Đức-Chí-Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng muốn chúng ta làm được như
Ngài, tức là đem tiểu-thiên-địa đến đại-thiên-địa.
Ấy vậy, về cơ-quan đoạt
lấy đại nghiệp, Chí-Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng "TU". Tu cho
hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế-gian còn dữ quá thì chừng
nào mới đoạt đặng.
* * *
5. - Lời
nguyện khi dâng Tam-bửu
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
thời Tý đêm
1 tháng 12 năm Đinh-Hợi
LỜI NGUYỆN KHI DÂNG TAM-BỬU
Bần-Đạo xin
nhắc lại một phen nữa khi vào hành lễ lúc dâng Tam-Bửu. Hễ dâng bông lên là
dâng cái thể hình của chúng ta tức là tượng-hình xác thịt của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu
nguyện Chí-Tôn: "Con xin dâng mảnh hình-hài của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng"
Khi dâng rượu cầu nguyện: "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của
con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng".
Khi dâng trà
cầu nguyện: "Con xin dâng cả linh-hồn con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì
dùng".
Câu chót nếu
chúng ta khôn ngoan nguyện như vầy: "Cả
linh-hồn, cả trí-não, cả hình
hài con Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi
quyền hành độc đoán của Thầy định". Đó, ta cầu nguyện như
vậy với Chí-Tôn.
Bần-Đạo đã giảng Tam-Bửu
tại sao Chí-Tôn lấy bông tượng trưng hình-hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài
bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông.
Ngài lấy rượu là muốn
tinh-thần của loài người cường-liệt như rượu mạnh vậy.
Ngài lấy trà là muốn
chơn-linh ta điều hòa như trà vậy. Ngài lựa 3 món đó cốt yếu là vậy.
Ngày nay Bần-Đạo giảng ba
ngôi hiệp nhứt của Đức-Chí-Tôn. Cả thảy mỗi phen vào Đền-Thánh nắm sanh-khí ấy
tạo cả cơ-quan hữu-hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú vật, vạn-linh,
hữu-tướng, thuộc về tăng.
Đứng đầu tiên hết Chí-Tôn
tức là Phật nắm cả cơ-quan bí-mật tạo thành Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Đạo nầy luật thế nầy, Đạo
kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật-Giáo.
Giả-thí như Thánh-giáo
Gia-Tô cũng có ba ngôi (La triniteõ) Le Père, Le fils et Le Saint Esprit (Đức
Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh-Thần) Đức Chúa Cha là Phật, Đức Chúa
Con là Pháp, Đức Chúa Thánh Thần là Tăng.
Không Đạo-Giáo nào thuyết minh
rõ ràng cơ tạo-đoan, lấy thuyết hỗn-độn sơ-khai phân chia: Khí chi khinh thanh,
thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng-trược hạ ngưng giả vi Địa (Hễ khí thanh
thì lên trời, khí trược thì hạ xuống đất).
Cả vật-loại hữu-tướng nầy
có hai quyền-năng sản-xuất.
1) Ngôi Chí-Tôn.
2) Đức Mẹ.
Người ta không nói, trên
lấy cơ-quan hữu-hình nói bóng dáng thôi.
Luật thiên nhiên tối
thiểu, tối đại vẫn có một luật mà thôi, biết đâu Chí-Tôn và Phật-Mẫu theo lời
Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn-nhơn đã thuyết minh ra là người hữu-sanh,
hữu-tử. Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, Chí-Tôn và Phật-Mẫu cũng là hai vợ chồng như ai
vậy. Cả quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền-năng
Chí-Tôn cũng đào-tạo thế ấy; mà Bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không
khác nào quyền-năng vô-tận của Phật-Mẫu dùng đặng đào-tạo càn-khôn thế-giái.
Chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.
Chí-Tôn là Phật, Phật-Mẫu
là Pháp, càn-khôn là Tăng, mặt địa-cầu nầy đến ba ngàn thế-giái cũng là Tăng.
Nắm quyền trị thế là Hạo-Nhiên
Pháp-Thiên chính quyền năng Chí-Tôn định, địa-cầu nầy không định khác, chỉ có
một mặt trời nầy không có mặt trời khác, trong hai mươi bốn giờ có một ngày,
Đấng làm chủ cầm quyền trong pháp-giới là Hư-Vô Cao-Thiên vâng mạng lịnh
Hạo-Nhiên Pháp-Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương-tàn với nhau. Địa-Cầu nầy nếu
không mặt luật Đạo-đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.
Bây giờ chúng ta quan-sát
Hỗn-Nguơn Thượng-Thiên; Ngày nay Đức Phật Di-Lạc ở nơi Hỗn-Nguơn Thượng-Thiên
cầm cả hành tàng Càn-Khôn Vũ-Trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vật loại.
Trước khi nguyện lấy dấu
và niệm Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi
ấy chưa ai biết rõ.
Ngày nay Bần-Đạo giảng:
Phật là gì ? Phật là một Đấng toàn tri toàn năng, người ta lầm lạc tưởng không
thấy hình-dạng là không có người, thế-gian lầm lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là
người sống hiện tại chỉ có khác hơn chúng ta là không có thi hài mà thôi. Đấng
toàn tri toàn năng ấy là Đấng đầu tiên hiệp lại với Chí-Tôn.
Bần-Đạo đã giải nơi Phật
có ba cảnh đặc-biệt:
1) - Hạo-Nhiên Pháp-Thiên
tương-liên hiệp một cùng Đức-Chí-Tôn.
2) - Hư-Vô Cao-Thiên thuộc
về Pháp-giới cầm cả luật thiên-điều.
3) - Hỗn Nguơn
Thượng-Thiên thuộc Tạo hóa thuộc Tăng; Phật-vị có ba đẳng-cấp ấy đặng nắm cả
quyền-năng Càn-Khôn thế-giái.
Phi-Tưởng Diệu-Thiên nắm
quyền-hành tạo-đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật.
Tạo-Hóa Huyền-Thiên thuộc
Pháp và có ba quyền tạo-đoan thế-giái hữu-hình nầy vô cùng tận. Tạo-hóa cầm
sanh khí để tạo sanh-vật.
Phi-Tưởng Diệu-Thiên,
Tạo-Hóa Huyền-Thiên, Bây giờ tới Phi-Tưởng Diệu-Thiên lãnh phận sự nơi
Đức-Chí-Tôn cầm nguơn khí của con người giữ sanh-mạng vạn-vật kêu là vạn-linh.
Tới Tạo-Hóa Huyền-Thiên,
Phật-Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh-hóa không cùng tận. Cả loài người, cây cỏ, sắt
đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Đức Phật-Mẫu nắm pháp biến
xuất. Cả thi-hài, chơn-linh, trí não pháp-thân luân chuyển sanh sanh tử tử. Nợ
sanh tử ấy là bài học của Tạo-hóa trong các cơ-thể ấy, loài người học làm đặng
biết đặng chi ? Đặng tạo pháp thân huyền-diệu được toàn thiện, toàn mỹ, toàn
tri, toàn năng như Phật-Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo pháp-thân do quyền
lực thuộc pháp, hình hài xác-thịt thuộc Tăng; thây chúng ta thay đổi lăn-lóc
trên đường sanh sanh tử tử cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí-Tôn là
Hạo-Nhiên Pháp-Thiên. Các Đấng ấy hữu sanh hữu tử tri-khổ nghiệp-chướng
vạn-linh năng du ta bà thế-giái độ tận vạn-linh đắc qui Phật-vị.
Các Đấng ấy đã chịu như
chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn-tri toàn-năng; họ đi trước
mình đi sau, họ cao mình thấp thôi, con đường họ đi mình cũng sẽ tới. Một điều
ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt thế này chưa biết ai cao ai
thấp. Nơi Hạo-Nhiên Pháp-Thiên một vị Phật cao trọng toàn tri toàn năng gần như
Đức-Chí-Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học bài học khổ, dám làm kẻ ngu dốt
lắm.
Chúng ta thấy hình thể một
vị Phật Mahâgarouth là một vị chí Phật như Đức Sakya Mouni đến thế gian bưng
bình bát-du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế gian như vậy mà
nơi cửa Hư-không lại có quyền năng vô-tận vô-đối. Đến Đức Chúa Jésus Christ là
một vị Chrisna Vichnou đệ nhị kiếp Chí-Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hèn
khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng nuôi kẻ đói khó. Đó là bài
học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.
Đấng Tạo-Đoan đưa tay xin
cho loài người ăn đó là người cầm quyền năng nuôi khắp toàn vạn-vật Càn-Khôn
Vũ-Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết. Kỳ sau Bần-Đạo sẽ giảng tiếp.
* * *
6. - Ý-nghĩa chử Tu và phương Tu.
Đức Hộ Pháp
Giảng về hình-thức và
định-nghĩa chữ tu ý-nghĩa của Tam-Bửu
Ý - NGHĨA
CHỬ TU VÀ PHƯƠNG TU
Chữ Tu ý-nghĩa rộng sâu
thế nào, kinh điển đều có dấu vết quan-trọng. Chẳng phải đứng trên giảng đài
trong giây phút mà giảng cho cùng lý, Bần-Đạo chỉ lấy cái tinh túy của nó,
diễn-giải ra đây dầu không được trọn vẹn nhưng con cái Đức-Chí-Tôn có thể lãnh
hội dễ dàng.
Theo tiếng Phạn: Tu gọi là
Dyann người Miên (Tần-Nhơn) gọi trại lại là Xáxơna, tiếng Pháp hay là tiếng Âu
định-nghĩa là "Se perfectionner" hay là "Se rendre parfait ou
plus parfait" (làm cho mình đặng tận-thiện, tận-mỹ).
Luật thiên-nhiên của
tạo-hóa buộc các đẳng linh-hồn, dầu vật-loại cũng phải trau mình đặng đoạt đến
nhơn phẩm. Khi được địa vị làm người còn phải tự giồi trau để từ từ đi đến cảnh
siêu-thoát (Phật-vị).
Sanh ra làm người,
bất-luận là giai cấp nào, chịu nhiều thử-thách, rồi chết, rồi tái sanh v.v...
Cứ xây vần mãi như thế thoát ra khỏi vòng lẩn-quẩn nầy hoặc hiểu được ý-nhị của
nó để được tiến hóa thêm phần nào thì không ngoài chữ Tu. Tu là gìn nhân-phẩm
hạn-chế dục-vọng, thực hành theo lý tưởng bác-ái để bước lên thiêng-liêng vị.
Trái lại là mua chác đau phiền, chận đường tiến hóa về mọi hình-thức và vô-tình
đi đến cảnh suy-vong.
Thế-gian loài người đều có
tu cả song có phần-tử bất-hảo vô-tình không nhìn nhận. Tu có nhiều thể thức
khác nhau tùy theo giai cấp và sự tiến-hóa của mỗi cá nhân mau hay chậm.
Đứa trẻ sơ-sanh không biết
nói, chưa có trí-khôn, lúc khát sữa nó khóc là tìm phương cho mẹ nó hiểu, gọi
là tu; vừa lớn biết thương cha mến mẹ, khi có em biết thương em gọi là tu; lớn
hơn lên đến trường, khi nó chăm chú học, và rán được giỏi hơn bạn nó gọi là tu;
khi vừa biết khôn-ngoan nó hiểu rằng phải học cho hay hơn thiên hạ, và còn tìm
phương thế đương đầu tranh sống cùng xã-hội gọi là tu; đến khi thành nhân nó
biết lựa chọn người bạn trăm năm đặng lập gia đình gọi là tu; Nó còn tầm sự hay
thêm mãi để có một địa vị ... trong xã-hội gọi là tu; khi có địa-vị rồi, nó
muốn lập công-nghiệp vĩ-đại hơn và làm cách nào cho nhơn-loại được hạnh-phúc
gọi là tu. Tóm lại nó vận dụng mọi sự hiểu biết, vì tùy mỗi giai-đoạn tự-nhiên
trong phạm vi nhơn-đạo đặng làm theo, là nó tu thân vậy.
Về phương tu trong
chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn thờ phượng và dâng Tam-Bửu mỗi ngày chúng ta cầu nguyện
Đức-Chí-Tôn đặng dâng ba của báu ấy là Tinh, Khí, Thần.
Tu về tinh, khí, thần, con
người sanh nơi đây Đức-Chí-Tôn ban cho cái ân đặc-biệt là khi đầu sanh, tinh
thần tự thiên-nhiên đã có quyền-năng muốn đoạt cho được mọi sự hiểu biết của
nhơn loại. Tinh là báu đầu tiên của mình, là thân thể mình (ám chỉ xác thân).
Khí là trí não khôn-ngoan hiển-hách của mình. Thần là lương năng
"Tri" hay là hồn, liên-quan với xác thân. Đành rằng Tinh và Thần phản
đối nhau, song lắm khi trí lay động quá thường biến sanh sự khủng-hoảng về
tinh-thần cũng như một kẻ kia tự biết là ngu là khùng, khi ta điểm mặt nó nói
nó điên, khùng thì nó tỏ ý giận dữ và tức tối lắm. Sự giận dữ ấy trong tinh
thần của nó có khuôn luật thiên-nhiên bảo nó phải tu, đừng để nó ngu, mà ai nói
nó ngu tức nhiên làm cho nó phạm luật thiên nhiên nên nó không chịu và tức
giận.
Từ khi loài người đã có
nơi mặt thế, đều muốn thoát-ly thú tánh, đặng họ sẽ định tâm sáng suốt thành
một vị Thánh ở thế gian. Chúng ta đã biết bao vị Thánh sống xuất-hiện trong loài
người mà huyền bí vô biên của Tạo-công vẫn là đó cả.
Ấy vậy khuôn luật
thiên-nhiên phải buộc ta phải tu trí; nếu trí ngu-xuẩn mê-muội thì phải chịu lệ
thuộc cho kiếp sống thừa. Chúng ta vẫn thấy một đứa trẻ còn kiếm phương để hiểu
những điều hiểu biết của thiên hạ; nó không biết nó hỏi và vấn nạn để hiểu, ấy
là phương tu trí. Được khôn ngoan là nhờ tu trí, tu hạnh đức (hay hạnh kiểm)
rồi mới tu ngôn ngữ. Tu trí đặng lập ngôn, tức nhiên là tu khí.
Khi Đạo ta được đủ trí và
thức thời, tâm ta trở nên sáng suốt, biết kiếp sống là mộng ảo thì cái thiệt
của xác thân khác nào con vật. Như thế ta phải tìm gì, nếu không tìm cái chi
chắc vững hơn. Người ta không quên tìm cái Thiên lương, cái linh hồn, cái chơn
linh bất di bất dịch, sống mãi mãi nơi cõi Hằng Sống. Biết được sống ấy là Hằng
Sống thì còn đợi gì không tô điểm và giữ nó được trường tồn đẹp đẽ.
Trước các tôn giáo (nhứt
là Phật Giáo) chưa có định chữ Thiên lương; Thiên hạ lấy chữ Tâm mà tượng trưng
cho linh hồn, mà linh hồn là bóng dáng chớ chưa thiệt tướng. Đề cập đến cái Tâm
là bất quá nói cái trí do tinh thần làm căn bản, nên lấy chữ Tâm thay thế cho
tinh thần chớ chưa thật tướng tinh thần.
Qua giai đoạn tu trí đến
tu tâm. Tâm buộc ta quan sát cả hành tàng kiếp sống của các bậc Thánh Hiền Tiên
Phật đã lưu lại trên mặt thế. Ta nương lấy nó (tâm) làm căn bản để kiếm một
phương pháp thích dụng đặt mình vào làm phương tu cho mình. Tu tâm chẳng những
gieo mối tình cảm cùng vạn vật, nhân loại mà còn đưa ta đi mãi trên con đường
vô tận, vô biên. Càn khôn vũ trụ của nó là nhà, là phương tu là căn bản. Còn
Trí đối với Tâm vẫn thiên lệch vì danh của Tâm còn vô tận vô biên hơn. Cảnh vô
hình thế nào, Tâm như thế ấy. Chưa ai biết rõ Đức Chí Tôn do cái Tâm mà để tình
yêu ái và tình thương, áùi-tình nầy hình trạng thay thế cho chữ Tâm. Ngoài ra
nó còn liên quan với tánh thiêng liêng, đến con đường có liên hệ với Thiên
tánh, Phật tánh, phải qua cái cửa mà thiên hạ đi chưa tới, gọi là cửa hư vô
tịch diệt trong cảnh thiêng liêng kia.
Đạo Cao Đài giờ phút nào
còn thiếu cái đó là còn thiếu tu tâm "ái truất thương sanh" là tu
Tâm. Thánh thể của Ngài phụng sự cho vạn linh là tu tâm. Cái Tâm khó tả cho đầy
đủ mà kiếp sanh của chúng sanh ít có năng lực để tạo ra nó. Nếu chưa thì con
đường thực hiện của chúng ta còn xa vời hơn nữa. Đức Chí Tôn đã nói: Biết phụng
sự vạn linh các con mới bước vào con đường tu tâm của các con. Còn chưa tu Tâm
các con vẫn có từ bi bác ái và công chánh thế nào cũng chưa đủ gì. Có tu Tâm
mới có phương thế lập Đức. Đức Chí Tôn đã dạy chúng ta phụng sự vạn linh là cốt
yếu bảo chúng ta phải tu Tâm mới đối lại cái quyền năng tinh thần của tâm lý,
đặng lập Đức và Tam lập vậy, vì nó có liên hệ với nhau. Những lời Bần- Đạo
thuyết tự nãy giờ có thể viết ra một quyển sách đầy ý vị, con cái Đức Chí Tôn
lưu tâm kiếm hiểu.
CHUNG
Home
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét