Lời Trình Dẫn
Đấng CHÍ TÔN giáng cơ lập
Đạo mục đích là để cứu Đời .
Từ ngày nền Đại Đạo hoằng
khai, Tín Hữu chúng ta vẫn không lúc nào ngừng đi tiền phong trong mọi công
cuộc vận động tranh thủ Độc Lập Tự Do cho Tổ Quốc và Dân Tộc.
Tuy nhiên, ngót 25 năm hy
sinh chiến đấu, Dân tộc ta chỉ thoát khỏi gông cùm Pháp thuộc đ
ể lại rơi vào
một cuộc chiến ghê tởm và tàn nhẫn hơn, đó là cuộc tương tàn tương sát giữa
người Việt với người Việt. Khí giới ngoại quốc đã được viện trợ tối đa để người
Việt giết lẫn nhau . Kỹ thuật tân kỳ và phương tiện tuyệt đối đã được tận dụng
tại Việt Nam, được lựa làm bãi chiến trường thí nghiệm, để sẽ đưa lại hậu quả
chắc chắn là sự diệt chủng hoàn toàn.
Nhân dân không còn chỗ nào trú ẩn để có thể tránh né được những tai họa khủng
khiếp của chiến tranh. Cuộc tàn sát không chỉ giới hạn nơi bãi chiến, mà tiếp
diễn cả ở xóm làng, nơi trường học, nhà thương và ngay cả nơi tu hành Thờ
phượng. Thường dân vô tội, người già cả, kẻ tật nguyền, trẻ thơ, thiếu phụ mang
thai, từng tập thể bị xô vào những cuộc thảm sát rùng rợn và man rợ.
Đứng về mặt chiến tranh mà
xét thì không bên nào có thể diệt được bên kia, cho đến ngày Nga và Mỹ thanh
toán nhau xong trong một trận chiến Thế Giới Lần Thứ Ba. Nghĩa là cuộc tranh
chấp nầy, ở Việt Nam cũng như trên Thế giới, chỉ có thể đưa tới sự tiêu diệt
của tất cả mọi phe, của toàn thể nhơn loại trong một cuộc chiến tranh nguyên tử
mà thôi .
Nhưng nhân loại không thể
ngồi yên, chờ bị xô đẩy tới ngày Tận thế, cũng như dân tộc Việt Nam không thể khoanh
tay để nòi giống điêu tàn.
Ngay từ trong lúc chiến
tranh Việt Pháp còn đang độ gay go (1949), Đức Giáo Chủ Phạm Hộ Pháp, nhận ra
âm mưu dùng người Việt giết người Việt của Thực dân Pháp, đã ra lịnh hưu binh
cho toàn thể chiến sĩ Cao Đài; lực lượng Cao Đài từ đó chỉ còn sử dụng để bảo
vệ an ninh cho Tín đồ và làm hậu thuẫn cho cuộc tranh đấu với Pháp để dành Độc
lập .
Năm 1954, Đức Ngài đã vô
cùng mãnh liệt khi phản đối Hiệp Định Genève, trông thấy ở sự chia cắt Việt Nam
cái mầm mống của một cuộc chiến tranh thảm khốc giữa 2 Miền Nam Bắc.
Trước mối nguy cơ lớn lao cho dân tộc, Đức
Ngài phát khởi công cuộc vận động chính sách Hòa Bình Chung Sống, mục đích là
Hòa Giải Dân Tộc, tránh cuộc tương tàn tương sát, tiến tới Thống Nhất đất nước
.
Một điểm căn bản trong
chính sách ấy là lập quyền Dân: Nhân Dân phải được bảo đảm về những quyền tự do
căn bản, và chính Nhân Dân sẽ quyết định thể chế và đường lối Quốc Gia .
Tánh chất trọng yếu của kế
hoạch đề ra là sự giải quyết tổng quát cho cả 2 Miền Nam Bắc để xích lại gần
nhau dần dần tiến tới Thống Nhất, chớ không phải chỉ giải quyết tình trạng một
Miền Nam hay Bắc. Chừng nào còn có 2 nước Việt Nam xu hướng theo 2 khối Quốc tế
đối địch nhau thì ngày ấy hiểm họa nội chiến vẫn còn nguyên; chỉ có sự từ bỏ xu
hướng ấy, đồng theo một đường lối Trung lập Quốc tế mới đưa Việt Nam tới sự hòa
giải thật sự, sự Thống Nhất và Hòa Bình vĩnh cửu .
Như vậy chánh sách Hòa
Bình Chung Sống không phải là một chủ trương đầu hàng mà trái lại chính là cuộc
vận động tích cực và tiến bộ, đòi hỏi sự hy sinh của cả 2 phía từ bỏ những lý
tưởng riêng rẽ, những quyền lợi phe phái để chỉ còn lại một mục đích phụng sự
Dân Tộc . Chánh sách Hòa Bình Chung Sống chỉ có thể là nỗ lực lớn lao và sự
thành công vẻ vang của lực lượng nhân dân đã trưởng thành, đoàn kết và chiến
đấu hy sinh .
Năm 1955, để bảo đảm cho
tính chất Trung Lập không thiên vị của chủ trương Hòa Bình Chung Sống và cũng
để tránh những áp lực của chế độ độc tài họ Ngô, Đức Ngài đã tự ý lưu vong sang
đất Cao Miên và từ đó xúc tiến cuộc vận động . Đối ngoại thì kêu gọi sự hưởng
ứng và hỗ trợ của các Cường Quốc, liên lạc với các chánh khách Quốc tế cùng một
chủ trương. Đối nội thì kêu gọi chánh phủ 2 Miền, kêu gọi các Tôn Giáo hãy hiệp
tác đứng làm trung gian điều giải, kêu gọi Quốc dân ý thức hiểm họa nội chiến,
tổ chức những phong trào phản chiến như “Thương
phế binh toàn quốc vận động Hòa Bình” những phong trào thống nhất như “Đoàn xung phong phá vĩ tuyến 17” những phong trào
Liên Tôn như “Hòa Bình Giáo Hội” .
Tiếc thay, cho đến ngày
sức cùng lực kiệt, vì lao tư, vì tuổi già sức yếu, Đức Ngài đã qui tiên nơi đất
khách (1959) mà chưa thấy thực hiện những lý tưởng, vì nó mà Người đã hy sinh
cả cuộc đời.
Trong lời di ngôn, Đức
Ngài định rằng thi hài của Người chỉ được di về Cố Quốc khi Nước Nhà đã được
Thống Nhất trong sự Chung Sống Hòa Bình .
Cao quí thay cái khí tiết
của nhà Chí Sĩ! Nhưng cũng xót xa đau đớn thay cho toàn thể Tín đồ chúng ta,
cho hết thảy những ai đồng một nỗi ưu tư cho hạnh phúc của Nhân Dân, cho sự tồn
vong của Giống Nòi.
Tuy Đức Ngài không còn tại
thế nữa nhưng những tư tưởng cao thượng, những chủ trương đúng đắn của người
vẫn mạnh mẽ nẩy nở trong dân gian, để giờ đây trở thành những ý lực mạnh mẽ phổ
quát trong mọi từng lớp nhân dân muốn chấm dứt chiến tranh bằng hòa giải các
phe lâm chiến.
Thế nhưng hòa bình chỉ
đến, hòa bình chân chính và bền vững, nếu nhân dân Việt Nam thực sự giác ngộ
được vai trò quyết định của mình, cương quyết bảo vệ quyền Dân chủ, mặt trong
thì điều giải công bằng các phe phái và quyền lợi, đặt chánh sách Quốc gia trên
đường hướng cách mạng và tiến bộ, mặt ngoài thì kiên trì một vị trí Trung Lập,
không tham gia cùng các phe Quốc tế đối địch mà chỉ góp phần xây dựng sự hòa
hợp và cộng tác trong Thế Giới .
Đó là căn cốt của những
bức thông điệp cao thượng và thiết tha mà Đức Ngài còn để lại cho chúng ta.
Chúng tôi nay, thâu thập
những tài liệu cũ, phần mất mát, phần hư hoại, trải qua bao cuộc bắt bớ tịch
thâu, cống hiến chư Tín hữu và Đồng bào tập sách nhỏ này, chỉ có một sở nguyện
là mau chóng được thấy ngày Hòa Bình của Dân tộc, ngày nước Việt Nam Thống Nhất
với chánh sách Hòa Bình Chung Sống điều giải được các phe đối địch trên Thế
Giới đưa đến Hòa Bình toàn Thế Giới trong một Hội Long Hoa vinh hiển, xây dựng
một nền Văn Minh mới cho nhân loại căn bản trên Công Bình và Bác Ái.
NAM MÔ CAO ĐÀI
TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Thánh Địa ngày 21
tháng 3 Kỷ Dậu (dl 7/ 5/ 1969)
NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
DÂN BIỂU
Cẩn Chí
* * *
Thơ gởi: CỤ NGUYỄN ÁI QUỐC
Thưa Cụ,
Bần Đạo lấy
cử chỉ tự nhiên của mình, chẳng có chịu ảnh hưởng một quyền năng nào,
kính gởi bức Tâm Thơ nầy cho Cụ nhưng cũng vì không biết địa chỉ
nơi nào nên phải cậy mặt báo cùng Vô tuyến truyền thanh đặng đệ đến thấu tai Cụ.
Vì nghĩa
đồng tình và đồng chí hướng và cũng chịu đau khổ cùng giống nòi với Tổ Quốc
Giang san trong 80 năm lệ thuộc, Bần Đạo cũng như Cụ phải chịu gian lao vào tù
ra khám sống chết đã giao định mạng trong tay người .
Giờ phút
nầy, Cụ đã đặng hạnh phúc làm Cách Mạng Thành Công thì Cụ cũng cho Bần Đạo
hưởng đặng mảy may hạnh phúc bảo vệ sanh mạng và tài sản của đồng bào tránh cho
được nạn tương tàn tương sát lẫn nhau đặng chút nào hay chút nấy, vì giá trị
mua chuộc Hoàng đồ Tổ Quốc giang san chúng ta đã trả với một giá rất mắc mỏ là
mua chuộc với xương máu của Đồng bào. Thực ra Cụ cũng như Tôi, mục đích của chúng ta là
thâu hoạch cho kỳ được Độc Lập và Thống Nhất Hoàng đồ sau 80 năm bị chia rẽ .
Thưa Cụ, ngày hôm nay
chúng ta đã đoạt vọng là trước mắt Quốc tế làm chứng, nước Pháp đã trả trọn vẹn
Độc Lập cho ta rồi, chỉ còn nạn chia rẽ giống nòi ta đó, chịu ảnh hưởng của hai
khối Nga- Mỹ mà giúp thêm cho kẻ ngoại nhân toan mưu xẻ hai Hoàng đồ của ta
đặng cố gây họa diệt chủng cũng như nhị chúa Nguyễn Trịnh buổi nọ.
Khi đồ lưu nơi Hải ngoại
trở về Bần Đạo lấy làm cảm kích nếu không nói rằng vui mừng thấy lập trường
tranh đấu của Cụ, cũng chủ trương Thống Nhất Hoàng đồ và tranh đấu cho hoàn
toàn độc lập. Chẳng lẽ hôm nay đã đoạt đến mục đích, mà Cụ lại để cho kẻ ngoại
nhân đồ mưu phá tiêu cả công nghiệp vĩ đại của cuộc tranh đấu toàn quốc và sự
hy sinh vô bờ bến của Đồng bào.
Cụ tranh đấu, Bần Đạo
thương thuyết, hai ngọn cờ giải ách lệ thuộc của giống nòi là Cụ và Đức Quốc
Trưởng Bảo Đại, cả hai đã thành công và toàn quốc Đồng bào không chối cải ơn
nặng của hai người đã giải ách đô hộ cho họ, chỉ còn một nỗi khắc khe lưu lại
là tình thế hai đảng Quốc Cộng.
Ước mong Cụ đừng quên ngày
hiệp tác ban sơ của Cụ và Đức Quốc Trưởng Bảo Đại mà tái hợp cùng nhau tất hòa
tâm đặng định vận mạng tương lai bền vững cho nòi giống và Tổ Quốc.
Nếu lời kêu gọi nầy mà
đặng hưởng ứng đôi bên thì rất nên may mắn và hạnh phúc cho Dân Nước Việt.
Tòa Thánh, ngày 29
tháng 3 Giáp Ngọ (dl 1/ 5/ 19
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG
TẮC
* * *
BỨC THƠ
XUÂN
Gởi cho toàn thể
Đồng Bào Việt Nam.
đầu năm Ất Mùi
(1955)
Cùng toàn thể Quốc dân
Đồng bào Việt Nam,
Nhơn dịp ngày Xuân năm Ất
Mùi, Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Đức CHÍ TÔN chan rưới hồng ân cho toàn dân
nước Việt đặng mau thoát khỏi ly loạn tương tàn.
Sau nữa, Bần Đạo có mấy
lời thống thiết ngỏ cùng tòan thể Quốc dân:
Trót 10 năm quật cường
giải ách lệ thuộc, thâu hoạch độc lập cho Tổ Quốc giống nòi thì toàn thể đồng
bào đã góp vào biết bao xương máu và đau khổ. Lập trường tranh đấu thâu hoạch
cho kỳ đặng hạnh phúc tự do cơm áo của nòi giống sau 80 năm đô hộ, đã khiến cho
lòng ái quốc nồng nàn của mỗi công dân Việt Nam để tâm vào một chí hướng là Độc
Lập và Thống Nhất non sông. Hại thay! Cơ
cấu tranh đấu cho kỳ đặng ấy nó đã chia rẽ dân tộc ra nhiều phương pháp và
nhiều chí hướng: Việt Minh là gì? Mà Quốc Gia là gì?
Thì cũng là Đồng Bào Việt
Nam tìm phương tranh đấu. Nhưng các danh từ và nhãn hiệu ấy chẳng lẽ có năng
lực đặng chia rẽ con cái của một nước, một chủng tộc và xem lẫn nhau như kẻ tử
thù ? Đau đớn thay nạn tương tàn tương sát đã xảy ra cũng do nơi định nghĩa bất
đồng của các phương pháp và danh từ tranh đấu .
Từ ngày mùng 9 tháng 3 năm
1945 Dương lịch, cuộc giải phóng dân tộc đã khởi đầu. Các biện pháp đem thắng
lợi cho nước nhà hôm nay cũng chưa thâu hoạch đặng trọn vẹn, lại còn gây thêm
nạn phân qua lãnh thổ: Từ vĩ tuyến 17 đổ vô là của khối Quốc gia còn từ vĩ
tuyến 17 đổ ra là của Việt Minh làm Chủ. Nạn Nhị Chúa phân tranh ngày xưa đã
biểu diễn lại.
Bần Đạo thử hỏi cuộc tranh
đấu giải ách lệ thuộc đặng đem hạnh phúc đó lại cho ai .?
Phải chăng cho Tổ Quốc và
cho toàn thể đồng bào thì lý ra chẳng có một nguyên cớ nào làm cho nòi giống
Việt này chia phân cho đặng . Chủng tộc duy có một, Hoàng đồ chỉ có một .Rồi ta
lại thử hỏi: Ai đã gây nên nỗi loạn, ly tán giống nòi? Phải chăng vì năng lực
ngoại bang đã gây ra nạn phân chia chủng tộc.
Hai chí hướng đương nhiên
của quốc tế là lý thuyết Dân chủ xã hội và Cộng sản xã hội. Hai lý thuyết ấy
đều hứa hẹn rằng nhân loại phải duy tân và cải tổ xã hội vì tổ chức xã hội
đương nhiên đã gây thất vọng cho nhân loại quá nhiều, nên đem lại cho họ nhiều
đau thảm hơn là hạnh phúc .Đôi bên đều hứa hẹn tìm phương sửa chữa đặng tìm cái
hay trừ cái dở. Lời hứa hẹn ấy đã thấm nhuần trong trí não đau khổ của nhân
loại nhất là hạng bần dân và các quốc gia lạc hậu mong ước chóng được thực hiện
điều ấy.
Hai triết lý xã hội mới mẽ
kia đương tranh đấu đặng thâu hoạch tín nhiệm của toàn thể nhân loại trên mặt
địa cầu nầy. Cuộc tranh đua của họ đã hiển nhiên kịch liệt và hỗn độn nhưng họ
cũng đã đủ năng lực phân chia nhân loại làm đôi chí hướng.
Hại nỗi, hạnh phúc đâu
chẳng thấy, chỉ gây cho nhân loại một tấm thảm kịch tương sát, tương tàn . Ta
nên để đức tin cho thời gian và không gian định nên hư của họ, nhưng hiển nhiên
hôm nay ta chịu biết bao nhiêu đau khổ. Ta muốn cho vay đặng hưởng lợi, mà lợi
đâu chẳng thấy, vì hứa hẹn ấy chỉ với lổ miệng, không bảo kê, không chứng chắc
mà giờ phút nầy ta bị lỗ vốn một cách đau đớn và oan uổng.
Cuộc chạy theo bóng bỏ
hình của nòi giống Việt Nam từ xưa đã vậy nó đã làm nên bịnh của chủng tộc,
đồng bào sẽ hỏi Bần Đạo dùng phương pháp nào để trừ hại thì Bần Đạo chỉ trả lời
một cách đơn giản như thế nầy:
-Ngày nào cả chủng tộc
Việt Nam đặng định tỉnh trong quốc hồn của họ thì họ mới có thể cố thủ và bảo
vệ sanh tồn của họ.
-Ngày nào lòng ái quốc
nồng nàn của nước Việt Nam thóat khỏi lợi dụng đặng biến thành một ngọn lửa
thiêng dâng trọn lên bàn thờ Tổ quốc của họ thì họ mới bảo thủ được trọn vẹn
Hoàng đồ cùng Tộc chủng.
-Ngày nào đầu óc của cả
khối Quốc Dân biết trọng dĩ vãng lịch sử của mình rồi định phận cho mình xứng
đáng là một nước đủ hùng cường, đủ uy tín hầu đối diện cùng quốc tế rồi chủ
định số phận của mình, do năng lực của mìmh, không ỷ lại nơi một ngoại bang nào
thì ngày ấy mới giải ách lệ thuộc về tinh thần lẫn vật chất của mình đặng.
Tình thế đương nhiên là
Bắc Việt đã bị lệ thuộc vào Trung Cộng, còn Nam thì bị sống gởi nơi tay người,
thì kiếp số tương lai của ta chưa biết nương nơi đâu mà an đặng. Nếu tình thế
này mà kéo dài mãi thì hòa bình của họ đã hứa hẹn cùng ta chỉ là ảo mộng.
Bần Đạo ước mong và cầu
xin cho cả toàn thể Đồng bào sáng suốt hơn đặng tự định số mạng và tương lai
của mình. Bần Đạo để lời chào mừng toàn thể Đồng bào và cầu chúc cho các gia
đình đều hạnh phúc.
TÒA THÁNH TÂY NINH,
Ngày 27 tháng Chạp Giáp Ngọ (dl 20/ 1/ 1955)
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG
TẮC
* * *
THƯ
GỞI CHỦ TỊCH LIÊN HIỆP QUỐC và
THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ CÁC CƯỜNG QUỐC
Kính quý Ngài,
Sau 82 năm bị đô hộ dưới
quyền Pháp thuộc, ngày 9- 3- 1945, toàn cả quốc dân Việt Nam quật cường giải
ách nô lệ.
Việc trọng đại ấy đã có
tiếng dội khắp cả thế giới và các liệt cường quốc tế đều hiểu rõ.
Đã 11 năm tranh đấu không
ngừng để định vững chủ quyền độc lập cho Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã chịu bao
nhiêu thống khổ, tang tóc về tài sản cũng như sinh mạng, lại thêm bị hai ngoại
quyền Cộng sản và Tư bản xen vào nội bộ, chia Quốc dân Việt Nam làm hai xu
hướng.
Kể từ ngày quân đội Pháp
thất trận ở Điện Biên Phủ lại thêm một tai hại lớn lao hơn nữa trồng lên đầu
dân Việt Nam . Thật vậy 9 nước ở Hội Nghị Genève với hảo ý đem hòa bình lại cho
xứ Việt Nam và chấm dứt chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh đã vô tình mà không
nhận định sự tai hại cho Việt Nam là thế nào, nên đã ký một hiệp định chia đôi
lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 rồi lại định cho Việt Nam phải tự tìm phương
thống nhất.
Chúng ta nên nhớ rằng khi
ký hiệp định Genève thì vĩ tuyến 17 chỉ có nghĩa là để chia đôi Quân đội của
hai bên ra để tránh sự đụng chạm, nhưng về sau thì vĩ tuyến 17 đã biến thành
một cách thực tế ranh giới chia hẳn 2 Miền Nam Bắc, miền Bắc thì do Cụ Hồ Chí
Minh với Chính phủ thân Nga và miền Nam thì Cụ Ngô Đình Diệm với Chánh phủ thân
Mỹ.
Là nạn nhân của thời cuộc
và của sự tranh chấp chủ nghĩa quốc tế, dân tộc vô phúc này thay vì đặng giúp
đỡ và an ủi, phải thêm một vết đau thương do 9 nước đã vô tình xâm phạm quyền
dân tộc tự quyết của họ.
Tình trạng đã hiển nhiên
và không một ai có thể nào chối cãi. Việc cốt yếu hiện nay là phải tầm một diệu
dược để cứu chữa bịnh trạng ấy.
Bần Đạo rất hài lòng nhận
nơi đây hảo ý và sự cố gắng dẻo dai của các cường quốc Trung Lập để tìm một
giải pháp hòa bình mong giải quyết vấn đề Việt Nam.
Là Giáo Chủ một Tôn giáo
tượng trưng tinh thần của một dân tộc đủ phong tục, đủ văn hiến do một nền văn
minh tối cổ Khổng giáo, Bần Đạo không thể ngồi yên đặng nhìn sự thống khổ của
họ vì lẽ bất công của xã hội nhơn quần.
Vì cớ nên Bần Đạo định góp
sức mọn mình với sự cố gắng của các liệt cường để tìm phương pháp cứu vãn tình
thế, giải nạn cho chủng tộc Việt Nam đặng bảo vệ hòa bình và hạnh phúc cho họ.
Hôm nay Bần Đạo phải xuất
ngoại cốt yếu để bảo thủ tự do của cá nhân hầu có đủ phương tiện kêu gọi lòng
nhân đạo của các liệt cường giúp sức cho Bần Đạo đủ phương hòa giải hầu tránh
nạn cốt nhục tương tàn của sắc dân Việt sắp gây nội chiến vì đôi ảnh hưởng.
Nhơn đó Bần Đạo xin gửi
theo đây một chương trình tối thiểu mà đại ý là một đường lối chung sống lập
thành tại nước Việt Nam một Chính phủ Liên bang hầu có thể thực thi Thống Nhất
theo như Hiệp định Genève đã đề nghị.
Chương trình này Bần Đạo
đã định rõ trong bức Điện Văn gởi cho Tứ Cường trong buổi hội nghị Genève kỳ
nhì vào ngày 21 tháng 7 năm 1955 và đã nhờ Thủ tướng EDGAR FAUREC chuyển đệ.
Bần Đạo chỉ xin Liên Hiệp
Quốc và các liệt cường thật tâm ủng hộ và cương quyết bảo đảm cho Bần Đạo được
tự do tuyên truyền giải pháp nầy khỏi sự khủng bố của hai Chính phủ đương quyền
Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm trong khi Bần Đạo thật hành sứ mạng hòa bình nầy.
Bần Đạo quả quyết rằng:
Đồng bào Việt Nam luôn luôn yêu chuộng Hòa bình sẽ hưởng ứng nhiệt liệt phong
trào này nếu họ được tự do phát biểu ý chí của họ.
Bần Đạo tỏ lòng tri ân Quý
Vị .
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG
TẮC
* * *
CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG
DO DÂN - PHỤC VỤ DÂN - LẬP QUYỀN DÂN
Đề nghị của
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo Chủ Đạo Cao Đài gởi cho Liên Hiệp Quốc, các Cường quốc và Chánh
phủ hai Miền Nam và Bắc Việt Nam .
CƯƠNG- LĨNH
1 - Thống nhất lãnh thổ và
khối dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa.
2 - Tránh mọi xâm phạm nội
quyền Việt Nam.
3 - Xây dựng Hòa bình,
Hạnh phúc và Tự do Dân chủ cho Toàn dân.
I .
Thống nhất lãnh thổ và khối dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa.
A . Giai đoạn thứ nhứt:
1 / Để hai chính phủ địa
phương tạm giữ nguyên vẹn nền tự trị nội bộ mỗi Miền theo ranh giới vĩ tuyến
17.
2 / Thành lập một “Ủy ban hòa giải Dân tộc” gồm có các
nhân sĩ Trung Lập và một số đại diện bằng nhau của Chính phủ 2 Miền để tìm
những điểm dung hợp giữa 2 miền.
3 / Tổ chức nước Việt Nam
thống nhất thành chế độ Liên Bang Trung Lập gồm có 2 phần liên kết (Nam và Bắc)
theo hình thức Thụy Sĩ với một Chính phủ Liên Bang lâm thời, để điều hòa nền
kinh tế trong nước và để thay mặt cho nước Việt Nam thống nhất đối với Quốc Tế
và Liên Hiệp Quốc.
4 / Bãi bỏ bức rào vĩ tuyến
17. Dân chúng được bảo đảm sự lưu thông tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam để so
sánh và chọn lựa chế độ sở thích mà định cư.
B . Giai đoạn thứ nhì:
1 / Đánh thức tinh thần
dân tộc đến mức trưởng thành, đủ sức đảm nhiệm công việc nước theo nhịp tiến
triển của thế giới trong khuôn khổ tự do và dân chủ .
2 / Khi dân tộc đã trưởng
thành và khối tinh thần đã thống nhất thì toàn dân Việt Nam sẽ tự giải quyết
thể chế thiệt thọ theo nguyên tắc tự quyết bằng cách mở các cuộc Tổng Tuyển Cử
thể theo hiệp định Genève tháng 7/ 1954, để thành lập Quốc hội duy nhất cho
nước Việt Nam. Cuộc Tổng Tuyển Cử này sẽ tổ chức dưới sự kiểm soát và trách
nhiệm trọn quyền của Liên Hiệp Quốc để ngăn ngừa điều áp bức dân chúng .
3 / Quốc hội này sẽ định
thể chế thiệt thọ và thành lập một chánh phủ trung ương nắm trọn quyền trong
nước Việt Nam .
II . Tránh mọi xâm phạm nội quyền Việt Nam.
1 / Hữu dụng nền độc lập
của mỗi Miền đã thu hồi do hai khối đã nhìn nhận (chính phủ Hồ chí Minh ở miền
Bắc và chính phủ Ngô đình Diệm ở miền Nam).
2 / Nương vào các nước
Trung lập như: Ấn Độ, Anh, Miến Điện, A Phú Hãn.., để mở một đường lối thứ ba,
gọi là “đường lối dân tộc” căn cứ
trên khối dân tộc để làm trung gian dung hòahai chế độ .
3 / Tránh mọi hướng dẫn
ảnh hưởng hoặc can thiệp của một khối nào trong hai khối đối lập Nga Mỹ, vì đó
là nguyên căn một cuộc tương tàn có thể gây nên trận Thế Giới Chiến Tranh Thứ 3
.Gia nhập vào một trong hai khối Nga hoặc Mỹ tức là chịu làm chư hầu cho khối
ấy và tự nhiên là thù địch của khối kia. Như thế chánh sách “Hòa Bình Chung Sống” không thể thực
hiện đặng; bằng chứng là tình trạng của Đức, Áo, Trung Hoa, Triều Tiên và Việt
Nam hiện tại .
III . Xây dựng hòa bình hạnh
phúc và tự do cho toàn dân
1 / Kích thích và thúc đẩy
cuộc “ Thi đua Nhơn Nghĩa”, giữa 2 miền Bắc và Nam để thực hiện hạnh phúc cho
nhân dân trong cảnh hòa bình xây dựng trên nguyên tắc bác ái, công bình và nhơn
đạo .
2 / Áp dụng và thực hiện
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, thực hiện tự do dân chủ trên toàn
lãnh thổ Việt Nam .
3 / Thâu thập tất cả mọi ý
kiến, phát huy do tinh thần hiền triết cổ truyền của chủng tộc đưa lên và giao
lại cho Liên Hiệp Quốc hòa giải để thi hành cho dân chúng nhờ .
4 / Dùng tất cả các biện
pháp để thống nhất tinh thần dân tộc trong việc xây dựng hạnh phúc với điều hay
lẽ đẹp trên căn bản hy sinh và phụng sự.
5 / Hai miền phải thành
thật bãi bỏ mọi tuyên truyền ngụy biện và xuyên tạc lẫn nhau. Phải để cho nhân
dân đứng trước sự thật tế mà nhận xét sự hành động của đôi bên rồi lần lần sẽ
đi đền chỗ thống nhất ý kiến.
6 / Sự thực hiện “ Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống” trên
đây sẽ đặng thi hành dưới sự ủng hộ và kiểm soát thường trực của Liên Hiệp Quốc
và các phần tử Trung Lập trong nước và ngoài nước, hầu ngăn ngừa mọi áp bức
nhân dân do nơi quyền độc tài của địa phương hay do áp lực của ngoại quyền xúi
giục .
Nam Vang, ngày 26-
3- 1956
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG TẮC
* * *
BẢN TUYÊN NGÔN
Gởi cho Toàn thể Chức Sắc
Thiên Phong Hội Thánh Nam Nữ Hiệp Thiên,
Cửu Trùng Phước Thiện và
Phạm Môn,
cùng cả con cái Đức CHÍ
TÔN Nam Nữ Lưỡng phái .
Trong lúc lưu vong nương
náu nơi nước người đặng thi hành mục đích Thiêng Liêng cứu dân cứu nước, Bần
Đạo rất ân hận buộc mình phải phế vong phận sự đối với Đại Gia Đình Thiêng
Liêng của Đại Từ Phụ đã giao phó. Bần Đạo chỉ cầu nguyện Ơn Trên ban bố hồng ân
cho cả con cái của Đạo biết trọng Danh Đạo của mình trong khuôn luật của Đức
CHÍ TÔN đã lập giáo là “Bác Ái và Công
Bình” .
Nền Giáo lý cao siêu của
Đức CHÍ TÔN chính tay đã lập là ngọn cờ cứu khổ của Đời thì những hành vi nào
phi ân bội nghĩa là lẽ dĩ nhiên nghịch hẳn với Thánh Ý của Người, các phần tử
của Đại Gia đình Thiêng liêng ấy, dầu đôi ba triệu người, phải làm thế nào như
một mới đảm nhiệm được phận sự tối yếu, tối trọng của Người đã giao phó là cứu
Thế độ Đời.
Ta thử nghĩ, nếu trên
không thuận dưới, dưới chẳng hòa trên thì số mạng của nền Chơn giáo của Người
mới ra sao dưới mắt thế gian dòm ngó.
Cái hại thường tình của
một gia đình thì táng gia, của một nước thì táng quốc, của nền Đạo thì suy vi,
do bởi phân tâm nghịch ý . Nạn bội phản của Đạo đã lắm phen làm cho chinh
nghiêng Pháp chánh; ô uế Chơn Truyền mà ta xem kỷ lại coi đã có phen nào làm
cho mất uy danh của Đạo chăng? Bất quá là một luồng gió thoảng qua giữa càn
khôn vũ trụ vậy thôi.
Bần Đạo đã để trọn tín
nhiệm nơi toàn con cái của Đạo đủ khôn ngoan, sáng suốt, nhận định thời thế,
thế nào để liệu phương xoay trở vậy thôi.
Bần Đạo lấy làm đau đớn để
lời thống thiết yêu cầu toàn con cái của Đạo nếu biết trọng danh giá của mình,
phải biết trọng tinh thần danh giá của Đạo.
Chủ quyền của Đạo còn thì
Đạo mới còn, chủ quyền của Đạo mất thì Đạo phải mất . Đức CHÍ TÔN đến để lập
Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh, cốt để thay hồn thay xác của Ngài đặng làm
Anh, làm Cha, làm Thầy của toàn con cái yêu dấu của Ngài, thì quyền hành ấy
phải đặng tôn kính mới bảo thủ sanh tồn của Đạo; ngược lại là ta vô tâm đeo đuổi
uy quyền tìm phương diệt Đạo.
Nếu cả mấy bạn, mấy em,
mấy con từ trên xuống dưới, biết thương Bần Đạo là một kẻ tượng trưng cái khối
ưu ái vô biên của Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu thì Bần Đạo gởi cả sự ưu ái ấy nơi
lòng của mỗi người hầu hòa thuận cùng nhau đặng đủ phương bảo tồn luật Đạo.
Trong khi vắng mặt, Bần
Đạo đã phú thác toàn quyền cho Hội Thánh thì ai phạm tới quyền ấy, tức nhiên
một cách gián tiếp phạm đến quyền của Bần Đạo, mà quyền ấy chỉ là quyền hành ưu
ái vô biên của Bần Đạo đó mà thôi.
Thiếu Tướng Văn Thành Cao
phải tiếp tục thi hành phận sự mà Bần Đạo đã giao phó.
Toàn ba Hội Thánh Nam Nữ Lưỡng phái phải triệt
để thi hành phận sự của Bần Đạo đã giao cho đến ngày Bần Đạo trở về Cố Quốc.
Cả Tín đồ Nam Nữ Lưỡng
phái phải nhứt tâm nhứt đức tôn trọng chủ quyền của Đạo mới có thể giúp sức Bần
Đạo trong phận sự cứu vãn tình thế nước nhà .
Sự trở về ấy mau hay chậm
là do Đại Gia Đình Thiêng Liêng của Bần Đạo quyết định .
Kiêm Biên, Ngày
12- 2 Bính Thân ( 23/ 3/ 1956)
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG TẮC
TB: Hội Thánh phải ấn hành
gởi Toàn Đạo.
* * *
THƯ GỞI cho CỤ HỒ CHÍ MINH Chủ Tịch CP Việt Nam
DCCH
và CỤ NGÔ ĐÌNH DIỆM Tổng Thống Chánh Phủ Cộng Hòa
Việt Nam
Kính hai Cụ,
Cũng như Bần Đạo, có lẽ
hai Cụ hiểu rõ hơn Bần Đạo nữa về tình thế nguy ngập cho Tổ Quốc và giống nòi Việt Nam ta đã trót
chịu hơn 11 năm tang tóc vì cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt.
Cái tai họa ấy do đâu?
Phải chăng vì đồng bào ta
vô ý thức mà trở thành nạn nhơn của hai ảnh hưởng ngoại quyền gây loạn ? Tình
thế ấy phải chấm dứt mới thiệt hiện đặng phương pháp giải ách lệ thuộc ngoại
bang và thâu hồi độc lập thật sự .
Bần Đạo đã có dịp viết thơ
tỏ nỗi niềm nguy hại nếu hai Chánh phủ chẳng tìm phương thoát khỏi ngoại quyền
xúi giục, thì nội chiến Nam Bắc sẽ phải không tránh khỏi.
Thoảng như tai hại ấy vẫn
tiếp tục gây nạn cốt nhục tương tàn thì năng lực tranh đấu cách mạng giải phóng
dân tộc sẽ tiêu hao mà trở thành bánh vẽ.
Vì khi phong trào cách
mạng đã kiệt lực thì ách lệ thuộc sẽ tròng vào đầu cổ dân tộc còn nguy hại hơn
Pháp thuộc nữa mà chớ.
Hội nghị Genève buổi nọ đã
sanh sản ra Hiệp định 20/ 7/ 1954, là món độc dược để đầu độc cho Quốc Dân ta
đi đến cảnh chết vô phương cứu chửa, là giam hãm ta vào giữa cuộc tranh đấu của
hai ảnh hưởng quốc tế. Ta muốn thoát ly tức là ta tìm một giải pháp bảo thủ nội
quyền đặng định vận mạng tương lai do nơi tay ta đào tạo, chớ chẳng chịu ngoại
quyền nào làm chủ nội bộ của ta . Muốn đặng như thế, Bần Đạo xin gởi theo đây
một chương trình thống nhất Tổ quốc giang sơn cho hai Cụ để trọn tâm nghiên cứu
và tìm thêm những giải pháp hay, khéo bổ cứu vào mọi mặt khuyết điểm hầu có thể
thi hành đặng y theo ước vọng thống nhất và hòa bình của dân tộc.
Bần Đạo đã lưu vong nơi nước ngoài,
chỉ có mục đích là bảo thủ trọn vẹn tinh thần trung lập của Bần Đạo đặng kêu
gọi tinh thần ái quốc chân chính nồng nàn của hai Cụ . Mong ước hai Cụ bỏ tư
hiềm và thành kiến đặng đủ phương cứu quốc.
Bần Đạo, trân trọng gởi
lời yêu mến kính phục của Bần Đạo luôn dịp gởi cả vận mạng số kiếp của Tổ quốc
và Giống nòi cho hai Cụ định liệu.
Phnom Penh, ngày
28 - 3 - 1965
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG TẮC
* * *
THƯ GỞI
- CỤ NGÔ ĐÌNH DIỆM, Tổng Thống Chánh Phủ
Việt Nam (Sài Gòn)
- CỤ
HỒ CHÍ MINH, CHủ Tịch Chánh Phủ Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam (Hà Nội)
Kính hai
CỤ,
Từ ngày Bần Đạo kính gởi đến hai Cụ bức tâm thư
số 21/ HP.H.N, đề ngày 28- 8- 1956 thì Bần Đạo rất vui mừng nhận thấy hai Cụ đã
tỏ thiện chí muốn xây dựng hòa bình và thống nhất lãnh thổ nước Việt Nam yêu
quí của ta bằng biện pháp ôn hòa .
Phương ngôn Tổ phụ lưu truyền có nói: “ Vạn sự khởi đầu nan” và phương ngôn
Pháp có câu: “Chỉ bước đầu là khó” thế mà hai Cụ hiện nay đã khởi bước một bước đầu tiên rồi. Thật là may mắn cho dân
tộc Việt Nam.
Vậy Bần Đạo ước mong sao
hai Cụ lần lượt tiến dần tới chỗ gặp gỡ và thỏa thuận để tự giải quyết vấn đề
nội bộ giữa người Việt với người Việt, khỏi phải gây cảnh lưu huyết đau khổ cho
giống nòi và khỏi để cho ngoại quyền bỉ xử.
Theo Bần Đạo nhận xét điều
hiện tình khó giải quyết là vấn đề tín nhiệm giữa Chính Phủ hai Miền. Đài vô
tuyến truyền thanh của đôi bên hằng ngày chỉ trích chánh sách độc tài tức là
không có Tự Do Dân Chủ ở miền kia. Gần đây Cụ Ngô Tổng Thống và Cụ Đại Sứ Trần Văn
Chương lại còn tuyên bố đòi hỏi cho có Tự Do Dân Chủ ở Bắc Việt mới mở cuộc
Tổng Tuyển Cử được.
Nếu bầu không khí bất hòa
ấy không giải quyết thì khó mà tiến đến bước thứ nhì cho đặng.
Bần Đạo vẫn biết thiện chí
và lòng yêu nước thành thật nồng nàn của hai Cụ, nên Bần Đạo thiết tha yêu cầu
hai Cụ long trọng tuyên bố rằng: Hai Cụ bằng lòng tôn trọng và thật hành các
quyền Tự do Dân Chủ, nhứt là quyền Tự Do Ngôn Luận trong vùng đất dưới Chánh
quyền cai trị của Cụ, cho phép báo chí hai Miền đặng lưu thông toàn quốc, đặng
vậy thì hữu phước cho dân tộc Việt Nam biết bao nhiêu!
Bần Đạo tin tưởng quả
quyết rằng lời yêu cầu nầy sẽ đặng hai Cụ vui lòng chấp thuận và cho ban hành.
Bần Đạo thân ái kính chào
hai Cụ và kính cẩn xin hai Cụ nhận nơi đây lòng tri ân của Bần Đạo.
Phnom Phenh, ngày
18 tháng 3 Bính Thân (dl 28- 4- 1956)
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG
TẮC
* * *
BẢN TUYÊN NGÔN
Trót 10 năm
khi trở về nước, sau 5 năm 2 tháng bị đồ lưu nơi hải ngoại, Bần Đạo đã để hết
sức lực và tâm não đặng nghiên cứu và thi hành các phương pháp bảo vệ phong
trào Cách Mạng và giải ách lệ thuộc của Tổ quốc và Giống nòi, lại tìm
phương
hay bảo thủ tinh thần dân tộc hầu đủ phương Thống Nhất Hoàng Đồ, tránh nạn Nam
Bắc phân tranh nồi da xáo thịt.
Rủi thay! Khi trở về nước
Bần Đạo đã bị ở trong một cảnh ngộ khó khăn là sự chia rẽ của hai Miền: Nam thì
Quốc Gia, Bắc thì Cộng Sản. Trong cuộc tranh đấu họ đã gây thù, kết oán với
nhau rất nhiều mà khối Quân Lực của Cao Đài lại là tay mở màn Cách Mạng đả đảo
chánh quyền Pháp Quốc. Bần Đạo, khi ấy không có ý định gìn giữ tồn tại Quân Lực
Cao Đài, nhưng vì trường hợp tranh đấu đã gây hấn quá kịch liệt giữa khối Quốc
Gia và Cộng Sản, nên cả Tín Đồ của Đạo đã bị khủng bố, tàn sát quá thê thảm và
quá nhiều, vì hai lằn tên mũi đạn của Pháp và Việt Minh, nên buộc lòng Bần Đạo
phải chấp thuận cho Quân Lực ấy còn tồn tại, vì nó đã đứng trong hàng ngũ của
khối Quốc Gia và trong phận sự thiêng liêng tranh đấu đặng thực hiện Độc Lập.
Sau cuộc hội đàm cùng Bảo
Đại và định cho Đức Ngài lãnh phận sự làm trung gian hòa giải đặng đem Hòa Bình
và Hạnh Phúc lại cho nước nhà trong cuộc Hội Nghị tại Hồng Kông năm 1949, thì
khi Đức Ngài về nước chính mình Bần Đạo đã giao trọn quyền sử dụng Quân Đội Cao
Đài cho Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ Quân Lực Quốc Gia . Kịp khi Đức Ngài
đi Pháp mới tạm giao Quân Lực ấy lại cho Bần Đạo, trong lúc vắng mặt, Đức Ngài
đã ra lịnh cho hai Chánh phủ của Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành
hợp pháp “Quốc Gia hóa Quân Đội Cao Đài”,
nhưng sự thi hành ấy vẫn kéo dài cho tới ngày Chánh Phủ Ngô Đình Diệm thọ phong
toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần Đạo buộc phải nhắc nhở và cầu cho Chánh
Phủ Ngô Đình Diệm Quốc Gia hóa Quân Đội Cao Đài một cách hợp pháp .
Cốt ý Bần Đạo nói ra đây
đặng tỏ cho cả toàn Quốc Dân hiểu biết rằng Bần Đạo không buổi nào muốn giải
quyết vận mạng nước nhà với Quân Lực, mà chỉ dùng phương pháp Đạo Đức đặng đem
Hòa Bình Hạnh Phúc lại cho giống nòi mà thôi.
Giai đoạn thứ nhất đã qua,
đến giai đọan thứ nhì nầy, Bần Đạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do
cá nhân của Bần Đạo, hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thể thống nhất Hoàng Đồ
và Chủng Tộc là phương pháp Hòa Bình và Chung Sống.
Vì cớ cho nên cả Quân lực
nào ngoài Quân lực Quân Đội Quốc Gia chánh qui chẳng còn hữu ích chi trong cuộc
tranh đấu mới mẻ của Bần Đạo đã đề xướng là phong trào tranh đấu Chánh trị quốc
tế mà thôi.
“Từ đây bất kỳ
khối Quân lực nào mượn danh Bần Đạo đặng tổ chức đều là giả dối” .
Vậy toàn cả Tín Đồ của Đạo
và Toàn Quốc Dân Việt Nam chú ý cho lắm, kẻo bị kẻ vô tâm mưu mô gạt gẫm . Bần
Đạo cầu nguyện Đức CHÍ TÔN ban hồng ân cho toàn Đạo và toàn Quốc Dân đủ sáng
suốt nhận định thời cuộc.
Bần Đạo để lời ưu ái nồng
nàn cầu Hòa Bình và cầu Hạnh Phúc cho Đồng Bào và Tổ Quốc .
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG
TẮC
* * *
THƯ GỞI CHƯ ĐẠI ĐỨC toàn thể các TÔN GIÁO
Kính bạch Chư Đại Đức.
Tiêm nhiễm các Đạo Giáo,
Tổ Phụ ta từ trước bao phen đã chịu thống khổ vì kính trọng tôn sùng Tự Do Tín
Ngưỡng, nếu không nói rằng: Chủng tộc của ta đã bị làm nạn nhân của tư tưởng
Đạo Giáo hơn là củng cố vận mạng Tổ quốc Giống Nòi nghĩa là ta đã chịu không
biết bao phen Ngoại bang đã dùng Tín Ngưỡng ấy lệ thuộc Tổ Quốc và Giống Nòi.
Vì cớ mà Đạo Cao Đài từ buổi xuất hiện thọ hưởng di truyền của Tổ Phụ để lại trong
nền văn minh tối cổ của ta là Đạo Khổng Mạnh, nên các đối phương coi Đạo Cao
Đài như kẻ thù địch, bởi cho rằng phương pháp phục cựu. Hại nỗi khi nó mới sản
xuất nên hình thì thời cuộc lại biến thiên làm cho nó phải tùng thế tùy thời
bảo trọng tinh thần quốc hữu đặng gìn giữ Đại nghiệp của Tổ Phụ ta đã để lại về
phần vật chất lẫn tinh thần.
Thời cuộc hôm nay lại đến
một giai đoạn rất nên khắt khe và nguy hiểm cho tương lai số phận của Việt Nam
là nước phân đôi chia hai chủng tộc dưới ảnh hưởng của hai khối đặng gây cuộc
Nam Bắc phân tranh cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Họ đã muốn lợi dụng
xương máu của nòi giống ta đặng định quyền bá chủ của họ. Hiển nhiên giờ phút
nầy, Đồng Bào ta đang bị lệ thuộc của hai khối chớ không Tự Do Độc Lập chi cả.
Đây rồi nội chiến sẽ vì ngoại bang mà bùng nổ, mà ta không thể đề phòng.
Chúng ta là người tu hành,
Chư Vị Đại Đức cũng thế, mà Bần Đạo đây cũng thế, không lẽ khoanh tay ngồi đợi
và thấy cái thảm trạng ấy. Bởi chiều theo Thiên Ý, chúng ta phải tìm một phương
pháp hay, chấm dứt cuộc tương tàn tương sát.
Đương nhiên thật ra ta là
nạn nhân của hai tư tưởng, của hai quyền lực, đồng bào ta toàn quốc bị tiêm
nhiễm mà xu thời theo hai Chánh Sách, dân tâm bất nhứt.
Bản CƯƠNG LĨNH của giải
pháp HÒA BÌNH CHUNG SỐNG của Bần Đạo cốt để giác ngộ Quốc dân đặng họ biết
thiệt dụng quyền hành của họ. Bởi cớ có ba mục tiêu chánh yếu là: VÌ DÂN, PHỤC
VỤ DÂN, LẬP QUYỀN DÂN, chỉ do nơi Dân mới cứu vãn đặng tình thế nguy hại cho
tương lai Tổ Quốc và Giống Nòi. Chúng ta phải làm thế nào bền vững Hòa bình
Hạnh phúc dầu cho các nước liệt cường của Quốc tế biến thiên thay đổi thế nào.
Nếu ta không khôn ngoan mà chung hợp, nhứt tâm, nhứt trí bảo vệ toàn vẹn Hòa
bình Quốc Nội của ta thì khi Đại Chiến Thứ Ba bùng nổ thì chủng tộc sẽ bị làm
con vật hy sinh xương máu cho Ngoại bang tranh quyền bá chủ của Thế Giới.
Xin Chư Đại Đức vì Đạo
Tâm, vì lòng ái truất thương sanh, vì nước nhà nguy biến, chung sức bảo vệ Hòa
Bình Hạnh Phúc cho Tổ Quốc Giống Nòi, dầu ta phải chịu muôn cay ngàn đắng, như
thế mới là Đạo.
Xin kính trọng chào Chư
Đại Đức niệm tình suy đoán.
KIÊM BIÊN, ngày 1
tháng 10 Bính Thân (dl 3- 11- 1956)
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG
TẮC
* * *
BẢN DI NGÔN
GỞI HOÀNG THÂN NORODOM SIHANOUK
Thưa Điện Hạ,
Bần Đạo gởi những dòng chữ nầy
đến Điện Hạ trên giường bịnh của Bần Đạo (bịnh viện Calmette). Sức khỏe của Bần Đạo càng ngày
càng suy giảm và Bần Đạo nghĩ không còn sống bao lâu nữa.
Vậy Bần Đạo gởi lời cuối
cùng đến Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên tất cả lời cảm tạ chân thành
về sự khoản đãi rộng rãi của Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia dành cho Bần Đạo
với Đoàn tùy tùng và cho tất cả Tín Đồ của Bần Đạo.
Bần Đạo thành tâm cầu
nguyện THƯỢNG ĐẾ CAO ĐÀI và PHẬT TỔ ban hồng ân che chở Vương Quốc Cao Miên và
cho Điện Hạ để chóng thực hiện và nhất là thành công vẻ vang chánh sách Hòa
Bình Trung Lập và Chung Sống Hòa Bình, chánh sách đặc biệt ưu ái của Bần Đạo và
vì nó mà Bần Đạo phải hao tổn sức khỏe và cuộc đời của Bần Đạo mà không thể
thực hiện được.
Bần Đạo thành tâm ước mong
rằng Tổ Quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam, có thể đeo đuổi chánh sách
ấy trong một ngày gần đây, tay bắt tay cùng đi với nước Cao Miên trong đường
lối thương yêu và cộng đồng giữa các sắc dân và nhất là giữa hai Dân Tộc Miên-
Việt.
Bần Đạo sẽ hoàn toàn sung
sướng được yết kiến lần cuối cùng với Điện Hạ để tỏ bày tất cả những lời cám ơn
của Bần Đạo nhưng Bần Đạo không biết sức khỏe của Bần Đạo còn chờ được hay
không ngày về của Điện Hạ.
Dầu sao tình thân hữu thâm
niên của chúng ta, nhơn danh lòng yêu thương và tình Huynh Đệ giữa hai Dân Tộc
Cao Miên và Việt Nam và nhứt là nhơn danh tương lai bất khả phân ly của hai
nước chúng ta, Cao Miên và Việt Nam, Bần Đạo cung kính xin Điện Hạ như một ân
huệ đặc biệt và cuối cùng cho Thánh Thất chúng tôi khỏi chịu dưới lịnh phá hủy,
để giữ kỷ niệm độc nhất của Bần Đạo nơi đất Miên.
Để giúp Điện Hạ có một ý
niệm đúng đắn về tình hình qua, Bần Đạo trân trọng gởi đến Điện Hạ một bản sao
đơn khẩn cầu của Bần Đạo vừa chuyển đến Hoàng Thượng .
Bần Đạo phải thoát kiếp
nơi đây, Bần Đạo xin thỉnh cầu Điện Hạ cho phép Bần Đạo tạm gởi thi hài ở nơi
đất Miên dưới sự bảo vệ tối cao của Hoàng Gia Cao Miên . Ngày nào Tổ Quốc thân
yêu của chúng tôi là nước Việt Nam đã thống nhứt, [hoặc] sẽ theo chánh sách Hòa
Bình Trung Lập, mục phiêu đời sống của Bần Đạo, Tín Đồ của chúng tôi sẽ di thi
hài về Tòa Thánh Tây Ninh.
Bần Đạo khẩn cầu Điện Hạ
và Chính Phủ Hoàng Gia, sau khi Bần Đạo thoát xác, dành cho Đoàn tùy tùng và cả
Thiện Nam Tín Nữ của Bần Đạo, sự khoản đãi rộng rải và các sự dễ dãi như trước
để Tu Hành theo Tôn Giáo của chúng tôi.
Biết rằng Điện Hạ sẽ chiếu
cố đến đơn thỉnh cầu này, Bần Đạo sẽ thanh thản nhắm mắt đem theo cái kỷ niệm
dịu dàng nhất trong đời của Bần Đạo, cung kính xin Điện Hạ chấp thuận lòng tri
ân vĩnh viễn của Bần Đạo.
NAM VANG, ngày 14- 5- 1959
HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG TẮC
Home
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét