Diễn Văn & Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp. Từ ngày 14 - 2 - Mậu Thìn (dl
5 - 3 - 1928) đến Canh Thìn (dl1940)
Hội Thánh là gì ? Đạo là gì ? Ngũ Chi - HTĐ - CTĐ -
BQĐ.
Diễn văn của ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC đọc tại Tòa
Thánh Tây Ninh.
Thưa cùng chư Chức sắc Thiên phong Cửu Trùng Đài và
Hiệp Thiên Đài.
Nay nhơn dịp nhóm Đại Hội, em xin vô lễ bày giải sơ
lược ra đây những đạo lý mà em đã thọ giáo nơi Đấng Chí Tôn cho mấy anh mấy chị
tường lãm, tưởng cũng không phải là một điều không bổ ích vậy.
Nhiều huyền vi mầu nhiệm trong Đạo của Đấng Chí Tôn
đã lập ra đều ẩn núp trong mấy bài thi của Thầy dạy dỗ, song vì nghĩa sâu xa bí
mật, chúng ta không thấu đáo đặng, kỳ dư một đôi điều vì trúng nhằm trách nhậm
của em, Thánh ý muốn em trọn phận sự nên giáng bút chỉ giáo.
Lẽ thì em phải giải rõ những điều em học hỏi ra sớm
mới phải, ngặt nỗi Thánh ý chưa định nên khiến cho em đi hành đạo Kim Biên trên
7 tháng mà ra trễ nãi.
Bắt đầu hết, em xin giải nghĩa Hội Thánh là gì ?
Hội
Thánh là gì ?
Trong bài phú của Thầy cho bà cụ di mẫu của chị
Phối Sư Hương Thanh có câu: "Thầy
dùng lương sanh mà cứu vớt quần sanh"
Hội Thánh tức là đám lương sanh của Thầy tom góp
lại làm một. Cả lương sanh ấy, Thầy đã dùng quyền thiêng liêng dạy dỗ, trước un
đúc nơi lòng một khiếu từ bi cho tâm địa có mảy mún tình ái vật ưu sanh theo
Thánh đức háo sanh của Thầy, dùng làm lợi khí phàm tục để độ rỗi người phàm
tục.
Những lương sanh ấy phải thế nào hội hiệp lại nhau
làm một, mà làm ra một xác thân phàm của Thầy thì Thầy mới có hình thể trong
lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy, hầu tránh cho khỏi phải hạ trần như mấy kỳ trước vậy.
Thầy mới dùng huyền diệu cơ bút dạy dỗ mỗi người
đặng tỏ ra rõ ràng có quả nhiên Thầy trước mắt, để đức tin vào lòng mỗi lương
sanh ấy rằng Thầy thật là Chí Tôn, Chúa Tể càn khôn thế giới, cầm cân công bình
thiêng liêng thưởng phạt, quyết đoán rằng chính mình Thầy đủ quyền bảo hộ con
cái của Thầy, dầu đương sanh tiền hay buổi chung qui cũng có Thầy trước mắt,
công thưởng tội trừng, tu thì thành, dữ thì đọa, chỉ rõ Niết Bàn Địa ngục đôi
đàng, đặng dẫn bước đường đời không lầm lạc.
Hứa rằng: lập ngôi nơi Bạch Ngọc Kinh, khai đường
vào Cực Lạc Thế Giới và đóng chặt cửa Phong Đô đặng độ tận chúng sanh, vớt 92
ức nguyên nhân trở về cựu vị.
Các lời hứa ấy, nếu chẳng phải Thầy thì chưa một vị
Phật nào dám gọi mình đủ quyền mà làm đặng.
Cả lương sanh Thầy lựa chọn so sánh quyền Chí Tôn
của Thầy và cân lời hứa ấy mà nhìn quả thật là Thầy, để đức tin mạnh mẽ mà
trông cậy nơi Thầy.
Cái đức tin ấy nó tràn khắp trong nhơn sanh mà gây
ra một khối lớn, tủa khắp cả hoàn cầu, sửa đời cải dữ. Cải dữ đặng thì phải tu,
tu thì phải thành, mà nếu cơ thành chánh quả chẳng để trước mắt người thì khó
mà làm cho nhơn sanh mến yêu mùi Đạo, nên buộc Thầy phải lập chánh thể, xây nền
Đạo tại đời cho cả chúng sanh đều nhìn nhận vì cớ hiển nhiên đặng giục lòng tu
niệm.
Đạo
là gì ?
Là cơ mầu nhiệm, mà cơ mầu nhiệm ấy phải làm ra thế
nào có hình thể như một con đường dẫn người ra khỏi chốn trầm luân khổ hải, lại
đặng phước siêu phàm nhập Thánh.
Muốn thoát khỏi luân hồi phải làm sao ?
Phải đoạt cho đặng cơ bí mật siêu phàm nhập Thánh.
Cơ bí mật ấy, nếu không phải Thầy cho thì chưa ắt xin ai mà đặng.
Ấy vậy, Đạo là cơ bí mật làm cho kẻ phàm có thể đoạt
đặng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy đến qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi để cho chúng
sanh hiểu cơ mầu nhiệm mà luyện tinh thần.
Thầy đã đến rồi, thoảng muốn lập riêng ra một tôn
giáo khác lại chẳng đặng sao ? lại qui Tam Giáo và hiệp Ngũ Chi mà làm gì ?
Nếu như kẻ ngoại giáo nói mình bắt chước đoạt cả
đạo của người ta mà làm của mình thì mới nói sao ?
Ai ai cũng hiểu rằng : Nhơn đạo dạy tu luyện phần
xác, Tiên đạo phần trí thức tinh thần, Phật đạo phần thiêng liêng hư vô tịch
diệt.
Qui
Tam Giáo là gì ?
Em xin giải quyết vì cớ nào mà qui Tam Giáo trước đã, lại luận đủ hình thể và tinh thần cho trọn
vẹn.
* Về hình thể :
Ai sanh ra dưới thế nầy cũng phải giữ đủ tôn chỉ của ba đạo: Nhơn đạo, Tiên đạo và Phật
đạo mới làm đặng hoàn toàn phận sự con người.
Tỉ như Nhơn đạo thì dạy mình vẹn giữ Tam cang Ngũ
thường, mới biết bổn phận mình đối với xã hội nhơn quần thế nào cho nhơn loại
cộng hưởng hòa bình, chẳng nghịch lẫn nhau, không tiêu diệt lẫn nhau mà phải
trái hẳn với đức háo sanh của Thượng Đế.
Muốn cho nhơn loại đặng lòng hữu ái mà kính mến lẫn
nhau thì Tiên đạo lại dạy ta phải lão luyện tinh thần cho đặng thông minh trí
hóa, hầu kiếm phương giúp đỡ binh vực lẫn nhau. Nơi địa cầu 68 nầy là nơi luyện
cảnh (monde expiatoire), chúng ta chẳng những bị ma hồn quỉ xác cám dỗ mà thôi,
mà chúng ta lại còn bị thiên tai mộc ách, chúng ta chẳng những phải đối địch
cùng sự hung bạo của đời mà thôi, mà ta lại còn phải đối địch cùng các nghiệt
bịnh của trời hành xác nữa.
Ôi ! Vì vậy mà nhiều bậc văn tài trí sĩ bên Âu Tây
cắm cúi cả đời tìm kiếm một phương hay mà sửa đời đặng binh vực nhơn sanh khỏi
điều tận diệt. Trí não phải tháo luyện đến đỗi nhiều vị đoạt đặng cơ bí mật của
Trời mà làm ra một khoa học, có nhiều phương hay và quá trí khôn của người, nên
ta coi các Đấng ấy như là Địa Tiên cũng phải.
Khi chúng ta đã đặng đủ khôn ngoan chiếm đoạt cơ bí
mật của Trời mà lập ra các cơ khí, nếu không có Phật giáo dạy ta giữ dạ từ bi
mà cứu độ nhơn sanh thì cái học thức khôn ngoan ấy nó trở lại hại nhơn sanh hơn
nữa.
Cái lý hữu nhân hữu quả, em xin để mấy anh mấy chị
thẩm nghĩ. Em chỉ tưởng lòng bác ái từ tâm thì buộc người phải có, bằng chẳng
vậy thì dầu cho toàn xã hội đều công chánh mà có một kẻ bất lương vụ ngã lộn
vào thì cũng đủ làm cho xã hội trở nên rối loạn. Biểu sao chúng ta không thấy
dưới mắt chúng ta đời chẳng khác nào một buổi chợ mơi : khôn ngoan thì đặng
hơn, thiệt thà thì bị ép.
Người biết Đạo người thì là trọng mình, mà trọng
mình thì phải giữ tinh thần cho tinh tấn. Tinh thần tinh tấn mới đủ tư cách dạy
đời làm lành lánh dữ. Ấy là Tam Giáo qui nhứt.
Nếu trong một xã hội mà mỗi người đặng vậy thì xã
hội đặng hưởng phước hạnh thái bình, còn ước như các xã hội trên mặt địa cầu
nầy đều đặng vậy thì đời mới nào ? Cái hạnh phước của toàn nhơn loại trên địa
cầu 68 nầy có ngày đặng vậy chăng ?
Coi lại tôn chỉ của Đạo thì anh em ta có lòng dám
tin chắc rằng sẽ đặng điều hạnh phước ấy không sai.
* Về
thiêng liêng :
Trước không có chi trong càn khôn thế giới là vô
vi. Thoạt nhiên, hai lằn không khí chẳng biết gốc nơi đâu, kêu là Hư Vô Chi Khí
đụng nhau mới có chơn linh của Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Trái lửa Thái Cực là cơ của hữu hình, vâng lịnh
Thầy mà phân ra Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, và biến Bát Quái, nhứt nhứt có trật tự :
Ấy là cơ Nhơn đạo. Rồi sanh ra vàn vàn muôn muôn Địa cầu cùng khắp trong càn
khôn thế giới và 72 trái Địa cầu có nhơn loại ở : Ấy là phép biến hóa của Tiên
đạo.
Khi chia mình ra mà lập càn khôn thế giới rồi thì
khối lửa Thái Cực của Thầy đã tiêu mất trở lại vô vi, tức là cơ mầu nhiệm của
Phật đạo đó vậy.
Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập ra các Địa cầu
trong càn khôn thế giới và vạn vật mà chúng ta thấy đặng dưới mắt rõ ràng đây.
Ấy là một cuộc hữu hình, mà trọn cuộc hữu hình nầy
dường như vâng mạng lịnh của một quyền hành Thầy rất lớn, không xâm phạm lẫn
nhau mà phải hại. Cơ mầu nhiệm Nhơn đạo rõ ràng đó vậy.
Mỗi trái Địa cầu có nhơn loại, tức là có chơn linh
ở, hằng ngày tô điểm sửa sang làm cho nó đặng đẹp. Hễ Địa cầu đẹp thì tinh thần
của các chơn linh phải tấn hóa thêm cao đến ngày cực điểm văn minh. Ấy là cơ
mầu nhiệm của Tiên đạo.
Chừng Địa cầu đặng toàn hảo, các chơn linh đặng cực
điểm văn minh rồi, dầu hưởng đặng lâu hay mau thì rồi phải bị tiêu diệt. Ấy là
cơ mầu nhiệm của Phật đạo.
Người lúc chưa vào thai bào thì là hư vô, khí Âm
Dương tương hiệp biến thai ra nhơn hình, tới lúc sanh ra cho đến khi trưởng
thành là cơ mầu nhiệm của Nhơn đạo.
Khi đã trưởng thành lại học tập tu luyện tinh thần
cho trí hóa trở nên khôn ngoan, là cơ mầu nhiệm của Tiên đạo.
Khi già rồi chết, thi hài bị tiêu diệt là cơ mầu
nhiệm của Phật đạo.
Luận
qua hiệp Ngũ Chi (theo hình thể) :
Ngũ Chi là : Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên
đạo và Phật đạo. Cả toàn địa cầu nầy, hễ làm người thì có Nhơn đạo nơi mình
rồi, mà mình nong nả làm ra người hữu dụng cho đời, tức nhiên mình đã hơn
người, ấy là Thần đạo đó vậy.
Hễ hữu dụng cho đời, tức là mình hơn đời, gọi là
quán thế, tức nhiên mình làm Thánh đạo đó vậy.
Mình hơn đời là nhờ cái khiếu thông minh nó hứng sự
thông suốt của đời dạy mình cho nhiều, rồi lại biến hóa ra thêm, trí hóa phù
hạp với cơ huyền vi mầu nhiệm của Trời Đất. Nếu đoạt đặng cơ mầu nhiệm ấy mà
làm của mình, rồi lại truyền bá cho cả nhơn loại học hiểu cái biết của mình mà
thật hành ra sự hữu ích cho đời, tức là mình làm Tiên đạo đó vậy.
Biết đời rồi biết mình, rồi biết đến tinh thần mình
là chủ tể của mình, mình biết đặng tinh thần mình rồi, hễ nhờ nó mà nhơn phẩm
mình đặng cao bao nhiêu thì lại càng yêu thương lại nó bấy nhiêu, nên buộc phải
lo cho nó đặng thanh tịnh nghỉ ngơi đôi lúc mà đợi ngày thoát xác, tức là làm
Phật đạo đó vậy.
Với các Nguyên nhân thì Ngũ Chi tỉ như một cái
thang 5 nấc, bắc cho mình leo lên một địa vị ngang bực cùng Thầy, tức là Phật
đó vậy.
Chưa ai nhảy một nhảy mà lên cho tới một từng lầu 5
thước bề cao, mà như ai đã để sẵn một cái thang 5 nấc, mình có thể lần hồi mà
leo lên đặng.
Thầy hiệp Ngũ Chi đặng làm một trường học năm lớp
cho mình tu luyện, chẳng khác một trường học phàm kia vậy, lần lần bước đến
đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi đặng phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy,
chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn nhận cho đặng.
Mình là người tức là có sẵn Nhơn phẩm, mình mới
luyện Nhơn hồn theo gương của chư Thần mà chúng ta thờ phụng đó, thì tức nhiên
cũng đoạt đặng đức tánh của chư Thần mà làm Thần vị của mình.
Đặng Thần vị rồi, lại xem gương của các Thánh mà tu
luyện Thần hồn mình cho đặng Thánh đức, tức nhiên cũng đoạt đặng Thánh vị vậy.
Đặng Thánh vị rồi, cũng luyện Thánh hồn mình theo
tánh đức của chư Tiên mà đoạt cho đặng Tiên vị.
Khi biết mình đã vững nơi Tiên vị rồi thì mình cũng
cứ đào luyện Tiên hồn theo gương chư Phật mà gấm ghé vào Phật vị.
Thoảng như có kẻ hỏi : Thần, Thánh, Tiên, Phật xa
cách với người như Trời với đất, khác nhau kẻ tục người thanh, thì thế nào
người phàm mà mong mỏi leo lên phẩm vị ấy cho xứng đáng ?
Ta lại đáp như vầy : Dầu cho hạnh Hóa nhân đi nữa
thì là :
- Những Vật chất hồn có một điểm Thảo mộc hồn như
bông đá (Éponge) đó vậy.
- Thảo mộc có một điểm Thú hồn như cây mắc cở
(Sensitive).
- Thú hồn có một điểm Nhơn hồn như loài cầm điểu
thì là : két, quạ, cưỡng, nhồng; như tẩu thú thì là: chó, ngựa, khỉ; như ngư
thì là cá ông đó vậy.
- Nhơn hồn có Thần hồn, đã đành chẳng cần phải
giải.
- Thần hồn có Thánh hồn, Thánh hồn có Tiên hồn,
Tiên hồn có Phật hồn.
Ấy vậy, nơi mình chúng ta đã có sẵn một điểm Thần,
Thánh, Tiên, Phật hồn. Nếu ta biết làm cho chơn hồn tăng tiến lên hoài cho tới
phẩm vị Tiên Phật thì phải tập luyện tu hành và đắc kỳ truyền mới đặng.
Muốn tu ắt phải có Đạo, vì vậy nên Thầy mới lập
Đạo.
Đạo thì hữu hình, nếu có kẻ hỏi : Đạo vốn vô vi mà
lấy hữu hình lập thành thì thế nào đắc đạo vô vi cho đặng ?
Ta lại đáp rằng: Không hữu hình, vô vi cũng khó có;
mà chẳng có vô vi thì hữu hình vốn không bền vững, tỉ như hồn với xác ta đây
vậy. Không hồn thì xác phải tiêu diệt, mà có xác không hồn cũng không cơ khí mà
lập thành nên đạo người vẹn vẻ. Hai đàng phải tương hiệp nhau mới đặng hoàn
toàn.
Ấy vậy, có vô vi ắt có hữu hình. Chánh pháp và Hội
Thánh là hữu hình, mà hữu hình ấy nó phù hạp với luật lệ Thiên điều và đối
chiếu với Cửu Thiên Khai Hóa. Luật đạo ấy là Thiên điều, còn Hội Thánh là chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế đó vậy.
Sao
lại dám sánh Luật đạo của chúng ta hội nhau lập thành với Thiên điều ?
Thầy đã dạy rằng: Từ khi có Thầy, rồi dựng nên càn
khôn thế giới, hóa sanh nhơn loại thì Thầy chưa hề biết hành phạt chúng ta bao
giờ, vì lòng quá yêu nên Thầy không nỡ nào hành phạt.
Thầy lại nói : Dầu Thiên điều thì cũng do nơi chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lập để định tội của nhau hầu gìn giữ lẫn nhau đó
thôi, chớ Thầy chưa hề biết đến. Mà hễ lập rồi dâng cho Thầy thì chính mình
Thầy cũng không quyền sửa cải.
Như Tân Luật ngày nọ thì Lý Giáo Tông hội cùng chư
Thánh mà lập thành, chớ Thầy chưa hề biết đến, chỉ ngày nào đã dâng lên cho
Thầy thì nó thành Thiên luật mà thôi.
Hễ Thiên luật thì phải vô tư, tỉ như Thiên điều,
dầu cho chính mình Thầy là Chí Tôn cũng chẳng vị tình. Bởi cớ ấy mà khi lập
Pháp Chánh Truyền, Thầy không lập Hiệp Thiên Đài một lượt với Cửu Trùng Đài, e
cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài ra ngoại luật. Thầy lại để cho các Chức sắc ấy
dự hội lập luật cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài thì phàm thân của họ cũng phải
dưới quyền luật lệ như mọi người vậy.
Hội Thánh hiệp nhau lập Tân Luật cũng như cả Thập
nhị Khai Thiên lập luật.
Thập nhị Khai Thiên lập luật giao lại cho Thầy, còn
Hội Thánh lập Luật cũng giao lại cho Thầy.
Vậy thì Tân Luật với Thiên điều cũng đồng giá trị.
Dầu Hộ Pháp phạm luật cũng bị đòi đến Toà Tam Giáo
bên Cửu Trùng Đài thì Thiên phẩm mình dường như không có, kể như một người Đạo
hữu kia vậy.
Còn Giáo Tông nếu phạm tội cũng phải bị đòi đến Tòa
Hiệp Thiên Đài thì cũng chẳng khác một người tín đồ kia vậy.
Hội Thánh hiệp nhau lập Luật đạo thì cũng như chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lập Thiên điều.
Vậy thì Hội Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
cũng đồng một thể.
Luôn dịp, em cũng xin bày giải cách sắp đặt Hội
Thánh của Thầy lập ra nơi thế nầy ra sao mà dám đối hàm cùng chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật ?
Hội Thánh chia ra làm 3 phần, hiệp cả chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật cùng Người, cho hiệp cơ mầu nhiệm chánh trị của càn khôn thế
giới thì mới ra lẽ Đạo đặng.
1 -
Bát Quái Đài là tòa ngự của cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mà Thầy làm chủ.
2 -
Cửu Trùng Đài là tòa ngự của chư Chức sắc Thiên phong, đối hàm với chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật tại thế, mà Giáo Tông chưởng quản.
3 -
Hiệp Thiên Đài là nơi chuyên về Đạo pháp, bảo hộ luật Đời và luật Đạo, như Ngọc Hư Cung
nắm Thiên điều, tức là Ngọc Hư Cung tại thế mà Hộ Pháp chưởng quản.
HIỆP
THIÊN ĐÀI
Hiệp Thiên Đài (HTĐ) là cửa Trời đó vậy. Hiệp là
chung với, Thiên là Trời : Hiệp cùng Trời tức là cửa vào Trời, là cái thang bắc
cho phàm đến cùng Trời.
Trong Hiệp Thiên Đài có : Hộ Pháp, Thượng Phẩm,
Thượng Sanh và Thập nhị Thời Quân.
* Thập nhị Thời Quân là ai ?
Thập nhị Thời Quân đối với Thập nhị Thời Thần. Các
chơn linh, dầu đến bực nào cũng phải tại nơi ấy mà xuất hiện, như Thầy nắm trọn
Thập nhị Thời Thần vào tay rồi mới khai Thiên lập Địa.
Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần.
Các chơn linh dầu nguyên nhân hay hóa nhân, hễ chịu
hữu sanh thì đều nơi tay Thập nhị Thời Quân mà siêu đọa, cũng như Thần, Thánh,
Tiên, Phật nhờ Thập nhị Thời Thần mà thăng giáng.
Thập nhị Thời Quân tức là Thập nhị Thời Thần tại
thế đó vậy.
Thập nhị Thời Quân chia làm ba chi : Pháp, Đạo, Thế
: 4 vị về Pháp, 4 vị về Đạo, 4 vị về Thế.
*
Thượng Sanh là gì ?
Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu
sanh, nhơn loại hữu sanh tức là chúng sanh.
Trong chúng sanh có nguyên sanh và hóa sanh.
Nguyên sanh là gốc từ khai Thiên đã có.
Hóa sanh là khai Thiên rồi mới biến hóa ra.
Tỉ như Nguyên nhân là khi khai Thiên rồi thì đã có
các chơn linh ấy. Còn Hóa nhân là chơn linh vật loại đoạt đến phẩm vị nhơn
loại.
Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao
hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh.
Lập Tam Kỳ Phổ Độ, Thầy đem các chơn linh, dầu
nguyên sanh hay hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn nghĩa câu phổ độ.
Chơn linh các Nguyên nhân bị đọa trần hay là của
Hóa nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi. Ấy là Thế độ, nên Thượng Sanh
làm chủ của Thế đạo, nắm Thế luật nơi tay mà dìu dắt cả chúng sanh vào đường
Đạo. Ai làm cho cản bước đường tu của thế gian thì Thượng Sanh đặng quyền kiện
cùng Tòa Thánh. Chư Chức sắc phạm luật làm cho chúng sanh phải xa lánh Đạo thì
người có quyền xin trị tội tức thì. Ấy là chủ phòng Cáo Luật.
Dưới quyền người có bốn vị Thời Quân : Bảo Thế,
Hiến Thế, Khai Thế và Tiếp Thế.
*
Thượng Phẩm là gì ?
Hễ bước chơn vào cửa Đạo thì là có Thiên phẩm, mà
hễ có phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho tới Thượng Phẩm mới trọn câu phổ độ.
Các chơn linh nguyên nhân hay hóa nhân, nhờ Thượng
Phẩm gìn giữ binh vực cho ngồi đặng an ổn địa vị của mình, giúp đỡ cho đức hạnh
trổi thêm cao, khỏi phạm nhằm luật lệ, xem sóc ngôi thứ chẳng cho giành giựt
lẫn nhau, giữ cho Cửu Trùng Đài đặng hòa nhã êm đềm, khép cửa Thiên môn, cấm
đường chẳng cho các chơn linh thối bước.
Phẩm trật nhờ người mà đặng thăng lên hay là bị
người mà phải hạ. Người nắm luật Đạo nơi tay mà binh vực cả chư Chức sắc Thiên
phong và các tín đồ chẳng cho ai phạm luật, vùa lo cho người đạo hạnh lên tột
phẩm vị của mình. Thượng Phẩm làm chủ phòng Cãi Luật, làm trạng sư của tín đồ.
Dưới quyền người có bốn vị Thời Quân là : Bảo Đạo,
Hiến Đạo, Khai Đạo và Tiếp Đạo.
* Hộ
Pháp là gì ?
Huyền vi mầu nhiệm của Đạo có Bí pháp, cũng như Đời
có luật pháp. Hộ Pháp là người nắm cơ mầu nhiệm của Đạo, nắm luật của Đời, xử
đoán chư Chức sắc Thiên phong và cả tín đồ, cùng là xin ban thưởng, công thưởng
tội trừng của Đạo nơi thế nầy.
Hễ có phàm trị mới khỏi Thiên trị, phải chiếu luật
Đạo cho toàn cả tín đồ khỏi bị Thiên điều, giữ phẩm vị thiêng liêng mỗi Chức
sắc, ắt phải gìn giữ đạo đức của mỗi người. Dùng hình phàm làm cho giảm tội
thiêng liêng. Nắm cơ mầu nhiệm công bình mà đưa các chơn hồn vào Bát Quái Đài,
hiệp cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người nắm trọn cả luật Đạo và luật đời
vào tay đặng xử đoán, làm chủ phòng Xử đoán. (Khi nào Toà Tam Giáo Cửu Trùng
Đài xử đoán rồi mà bị cáo còn uất ức thì mới kêu nài đến Hiệp Thiên Đài).
Dưới quyền người có bốn vị Thời Quân là : Bảo Pháp,
Hiến Pháp, Khai Pháp và Tiếp Pháp.
Hiệp Thiên Đài là hình trạng của Ngọc Hư Cung tại
thế. Ấy là cửa mở cho các chơn linh vào đặng đi đến Tam thập lục Thiên, Cực Lạc
Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh, là nơi chúng ta hội hiệp cùng Thầy, hay là chỗ ải
địa đầu ngăn cản các chơn linh chẳng cho xông phạm đến đường Tiên nẻo Phật.
Lòng từ bi của Thầy để cho có kẻ rước là Thượng
Sanh, người đưa là Thượng Phẩm và người dẫn nẻo mở đường cứu độ là Hộ Pháp,
đặng đem cả con cái của Thầy về giao lại cho Thầy, kẻo Thầy hằng ngày trông
đợi.
Còn luận theo hình chất thì HTĐ là một cái tòa lựa
chọn người lương sanh đem vào hiệp làm một với Cửu Trùng Đài, lập vị cho cả tín
đồ, phần xác phù hạp với phần thiêng liêng, un đúc giữ gìn cho các lương sanh
ấy nhờ cựu phẩm mình, hầu buổi chung qui, Hộ Pháp mở cửa Bát Quái Đài đem tên
tuổi ấy vào thờ cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, cho xứng phận. Hễ Đạo còn ắt
tên tuổi cũng còn, cái cơ đắc đạo tại thế cũng do nơi đó vậy.
CỬU
TRÙNG ĐÀI.
Cửu Trùng Đài là hình trạng của Cửu Thiên Khai Hóa,
lại hiệp với Cửu phẩm Thần Tiên. Để chơn vào Đạo tức là vào các địa vị ấy.
Cửu phẩm Thần Tiên cầm quyền trị thế thì Cửu Trùng
Đài cũng cầm quyền chánh trị của Đạo nơi tay, cứu độ nhơn sanh, dìu dắt lấy
nhau trở lại cùng Thầy.
Cái Tòa Tam Giáo Thầy lập nơi CTĐ là quyền hành thưởng
phạt Thầy ban cho Cửu phẩm Thần Tiên hành chánh, điều đình trọn cả càn khôn thế
giới đó.
Lập Pháp Chánh Truyền đã tỏ đủ quyền hành của Chức
sắc Thiên phong.
Em xin kể sơ qua cửu vị của nó phù hạp với Cửu
Thiên làm sao :
1 - Thần vị :
- Người không đạo mà mộ đạo, lại giữ đặng vẹn vẻ
đạo người, hữu căn hữu kiếp, có thể đắc vị đối với Địa Thần.
- Kẻ tín đồ biết Đạo và giữ Đạo đối với Nhơn Thần.
- Lễ Sanh đối với Thiên Thần.
2 - Thánh vị :
- Giáo Hữu đối với Địa Thánh.
- Giáo Sư đối với Nhơn Thánh.
- Phối Sư đối với Thiên Thánh.
3 - Tiên vị :
- Đầu Sư đối với Địa Tiên.
- Chưởng Pháp đối với Nhơn Tiên.
- Giáo Tông đối với Thiên Tiên.
Em chỉ nói các Chức sắc đối hàm mà thôi, chớ còn
chiếu y như Thánh ngôn thì Thầy nói Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy thì Thầy lựa
chọn : nhứt Phật, tam Tiên, tam thập lục Thánh, thất thập nhị Hiền, tam thiên
Đồ đệ, là Thầy nói Thầy đến hiệp các Đấng mà Thầy đã sai đến trước lại làm một
mà làm hình thể của Thầy hầu mở Tam Kỳ Phổ Độ. Ấy là Cửu Trùng Đài.
. Còn nhứt Phật, nhị Tiên, thập nhị Thánh tại Hiệp
Thiên Đài thì là các Đấng hầu hạ bên Thầy lúc trước, nay tuy xuống thế cũng cứ
giữ phận hầu Thầy mà thôi.
Em đã chỉ rõ một đường các chơn linh đối hàm, một
đường các chơn linh xuống thế, mà mở Đạo.
Biết bao nhiêu bậc Thánh Hiền ấy còn lẫn lộn theo
hàng tín đồ, Thầy đương dạy dỗ un đúc đặng ngày kia ra gánh vác cho xứng đáng
phận sự của mình.
Còn Tam Trấm Oai Nghiêm, Thầy lập đặng thay mặt cho
Thầy nơi Cửu Trùng Đài cầm quyền chánh trị, là Phật đó vậy.
Cửu Trùng Đài phù hạp với Cửu Trùng Thiên thì dầu
cho cả chơn linh trong càn khôn thế giới cũng phải vào nơi đó đoạt cho đặng các
phẩm vị giả trạng ấy, mới mong lập Thiên vị mình.
Chẳng vào cửa Đạo hiệp cùng Cửu Trùng Đài thì chẳng
đi đường nào mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng.
BÁT
QUÁI ĐÀI.
Bát Quái Đài là nơi để thờ phượng chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật và chư tín đồ, chư Chức sắc Thiên phong qui vị, mới trọn phép Trời
Người hiệp một.
Cái cơ mầu nhiệm của Thầy chỉ mở cửa Bát Quái Đài
đặng đem các chơn linh đã leo lên tột phẩm Cửu Trùng Đài đem cho hiệp một cùng
Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cái phẩm chót của Cửu Trùng Đài chỉ cách Bát Quái
Đài có một cái cửa. Vậy Niết Bàn cách phàm tục có một xác thân. Cái cửa Niết
Bàn ấy mở đặng thì cơ đắc đạo tại thế cũng khai ra đặng.
Em xin kết luận :
- Hiệp Thiên Đài là Thiên môn mở ra, có kẻ mời
người đưa rước, kêu cả nguyên sanh trở lại cựu vị mình, đặng hiệp làm một cùng
Thầy, hay là mời cả hóa sanh đến đối diện, tranh đoạt phẩm vị đến ngang bực
cùng Thầy. Ấy là cái ngõ hiệp các chơn hồn toàn trong thế giới.
- Cửu Trùng Đài là ngôi vị Thần, Thánh, Tiên, Phật,
Thầy sắm sẵn tại thế. Nó là cái không khí biểu (baromètre) để chỉ trước Thiên
vị của mình.
- Bát Quái Đài là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Thảm thay, phần nhiều anh em chúng ta chẳng biết trọng
phẩm vị của mình, lại còn làm ô uế nền Đạo thì mới đắc tội cùng Thiên đình thể
nào ?
Cái màn bí mật của Đạo đã mở trọn rồi, Thầy dạy
ráng mở mắt đặng xem mà mình cứ nhắm mắt không muốn ngó đến thì làm sao thoát
cho đặng cửa luân hồi.
Đạo vốn là Đạo, mình thâu phục đặng chúng sanh chỉ
nhờ Đạo. Mà có Đạo phải có Đức, có Đức phải có Hạnh, hoàn toàn Đức Hạnh mới
phải mặt cầm mối Đạo của Thầy, nhưng xét kỹ lại thì anh em chúng ta thiếu kém
đức hạnh rất nhiều.
Chúng ta hằng bị Đức Giáo Tông chê rằng, Thầy quá
thương mà lựa chọn chớ chẳng xứng đáng một chút nào.
Mỗi phen em nhớ đến lời nói là mỗi lần em thẹn
thuồng cho mảnh xác thịt nầy chẳng đủ trí lực mà làm phận sự. Ráng cho lắm bất
quá cũng như lửa đôm đốm lúc ban đêm, chớ đâu đáng mặt đèn soi mà dẫn đường
người đạo đức.
Bởi vậy em hằng nghĩ rằng : Hễ Thầy thương thì anh
em chúng ta phải gắng trau giồi đạo đức đặng thêm nhiều, phẩm càng trọng thì
hạnh kia gìn chặt chịa. Bấy nhiêu đó, họa may đền đáp ơn thương tưởng của Thầy
trong muôn một, chớ cái cơ thoát tục siêu phàm đâu mong vọng tưởng, chỉ nhờ
lòng từ bi của Thầy định sao chịu vậy.
Chúng ta nên trông cậy nơi Thầy, thờ phụng Thầy cho
hết lòng hết sức, hằng ngày tặng ơn Thầy.
Em đã thấy có một hình phạt sẵn dành cho anh em
mình, vậy chúng ta nên đồng lòng ăn năn sám hối, họa may có thoát khỏi đặng
chăng ?
Ngày
28 -11-1928 - Ngũ Chi Đại Đạo
BÀI
DIỄN VĂN của ĐỨC HỘ PHÁP
(In sau quyển Pháp Chánh
Truyền Chú Giải)
Chư Hiền Huynh và chư Hiền
Tỷ
Ai là người đã mang mảnh xác thịt ở trong vòng võ
trụ nầy, cũng nhìn rằng đã thọ ân của hai Đấng Tạo Công.
Đấng thứ nhứt, là Trời.
Ban cho ta một điểm linh tâm; chúng ta nhờ nương theo nó mà khôn ngoan hơn vạn vật, hầu
thay thế cho Trời, mà trau giồi cơ hữu hình của đời, cho ra tận thiện tận mỹ; chung qui rồi thì cả sự hay khéo của
cá nhân, lại hiệp cộng vào khối trí thức tinh thần của toàn nhơn loại, đặng lưu
lại làm chương trình học vấn của
hậu tấn, lập nên phương thế cho kẻ trước dắt người sau, người sau nương kẻ trước; lẽ Trời định
vậy.
Chúng ta nhờ tìm mà hay, nhờ học mà hiểu, đào luyện
trí lự; đặng nối chí của người tiền nhơn. Trước qua, sau tới, nong nã cho trí
lự tăng tiến thêm hoài; tưởng khi đến ngày tận thế, thì có lẽ nhơn loại sẽ đạt
đặng biết bao sự bí mật huyền vi cơ tạo.
Ấy là cớ chỉ rõ và chứng chắc rằng, quả có Đấng Chí
Linh đưa tay thúc giục cả vạn loại vào đường tấn hóa trí thức tinh thần.
Đấng thứ nhì, là Cha Mẹ chúng ta.
Ban cho chúng ta mảnh hình hài nầy, nhờ nuôi mới sống, nhờ dạy mới khôn;
chịu nơi vòng hữu định của trí lự và
phận sự làm người; nặng mang mối Đạo Quân, Sư, Phụ nơi mình, tam cang, ngũ thường vai oằn oại, cái khó khăn của phận làm người, ai
không ghê sợ; ngặt ghê sợ mà vong phế, lại chẳng trọn đạo làm người. Hại nỗi!
Cái khó đời lại còn gây thêm lắm điều tăng khổ; đời càng khó, phận càng gay,
đời càng hay, càng sanh nỗi khó; nếu chúng ta không khảo dượt tận tâm cái vấn
đề cơ sanh hoá chúng ta, mà quyết định lấy một chương trình, hầu nương theo mà
điều độ cái hành vi thân thể, thì là tránh sao cho khỏi hại bởi lạc lầm, vì vụng
trí.
Cái chương trình ấy là những cơ chỉ sanh ra bởi các
tư tưởng của cả Tôn Giáo đã lập thành nên Đạo. Chữ Đạo là đường đặt ra bởi đó,
đặng dìu dắt nhơn sanh khỏi bước đời gay trở; cốt yếu là lập mục đích, định
chuẩn thằng cho kẻ trước hiệp người sau, kẻ kim hòa người cổ, tóm cả trí lự của
nhơn loại, đặng làm ngọn huệ quang soi rọi khắp nhơn gian, mượn cả sự tội tình
sầu thảm của thế, mà tạo Bát Nhã thuyền đặng vớt người nơi khổ hải.
Phật, vì thương đời, mà tìm cơ giải khổ.
Tiên, vì thương đời, mà bày cơ thoát khổ.
Thánh, vì thương đời, mà dạy cơ thọ khổ.
Thần, vì thương đời, mà lập cơ thắng khổ.
Hiền, vì thương đời, mà đạt cơ tùng khổ.
Chữ khổ là đề mục của khoa học trường đời, phẩm vị
Hiền, Thần, Thánh, Tiên, Phật, là ngôi vị của trang đắc cử.
Hễ có vay thì có trả, có thỉ ắt có chung, có gầy tự
nhiên có lập (tuote cause a son effet); trong trường hỗn độn nầy, đã sanh biết
bao oan nghiệt tội tình, làm cho các đẳng linh hồn, dầu cho còn giữ nguyên
linh, biết tự trọng, tự bảo mình đi nữa, vì trược nhiễm, cũng khó mong thoát
đặng dễ dàng khỏi cửa luân hồi chuyển kiếp.
Đã tấn, ắt có thối, đã dở phải tìm hay, đã tà thì
tìm chánh, đã dữ ắt tìm lành; (la loi des réparations), nỗi cuộc tranh đua đã
gây biết bao oan gia; trái chủ, buộc các Đấng Thiêng Liêng, dầu cho đặng cao
thăng, biết dưỡng chí, tu tâm đi nữa, cũng bởi lẩn truất thương sanh, mà phải
phế hủy kiếp duyên, chịu đọa đày nơi trần tục.
Cái cơ tấn hóa Thiêng Liêng vẫn thế, chẳng khác nào
như có một quyền hành mạnh mẽ buộc các đẳng linh hồn phải thuận tùng mà lập
thành địa vị, đẳng cấp, cho đến ngang bậc cùng Trời, dầu cho Cổ Phật cũng khó
toan tránh khỏi.
Có hữu hình thì chắc có vô vi, công bình tạo đoan
đã định, tại thế nầy thể nào, thì trên cõi hư linh cũng vậy, chẳng khác nào đã
có mặt luật nhiệm mầu, giục cả nhơn sanh tự tỉnh, lấy trí thức mà lánh dữ tìm
lành, theo gương chư Hiền, Thần, Thánh, Tiên, Phật, dầu cho Đức Chí Tôn, cũng
phải chiều theo phép mà tạo thời, cải thế.
Phép của Trời có một, là thương khắp cả chúng sanh,
nên định cho phẩm vị hữu hình và Thiêng Liêng có một, nghĩa là phải tương đắc
cùng nhau, đặng định quyết phép công bình lành thăng, dữ đọa.
Máy tạo bởi chữ hòa mà có, thì thế giái càn khôn
cũng phải hòa mới vĩnh cửu. Địa cầu nầy cũng phải hòa mới toàn hảo, nhơn loại
cũng phải hòa mới trường tồn, chẳng khác nào xác thịt phải hòa thuận cùng linh
hồn mới mong đạt Đạo.
Lấy lớn mà định nhỏ, xem nhỏ mà tìm lớn, thi hài
nầy nhờ hòa khí mà thành hình, thì linh hồn cũng phải tùng theo phép âm dương
hòa hiệp mới qui hồi cựu bổn; linh hồn bởi chữ hòa khí mới có đến thì tức nhiên
phải nương theo hòa khí mới có về.
Tuy pháp bửu của các Tôn Giáo đã đoạt đặng vẫn
nhiều, chớ cơ mầu nhiệm chỉ có chữ hòa là đủ.
Thân thể cho mạnh mẽ tinh vi, đừng để sa đà vào lục
dục thì là thuận cùng trí lự khôn ngoan.
Khí lực cho cường thạnh thanh bai đừng để đến đổi
mê muội bởi thất tình, thì trí lự khôn ngoan thuận theo linh tâm mà nẩy nở.
Linh tâm phải định tĩnh từ hòa, đừng để đến đổi mờ
ám bởi tội tình, thì thuận với lòng Trời, hiễn linh tại thế đặng đoạt phép
huyền vi.
Thân là tinh, lực là khí, trí là thần.
Nói rõ ra thì tinh là thân thể; khí là điễn lực nghĩa là trí lự; thần là
linh hồn; ba cái báu của mình ngày nào tương đắc, nghĩa là hòa hiệp cùng nhau, thì người mới mong đắc Đạo.
Cơ Đạo của Chí Tôn đến lập buổi Hạ ngươn Tam Kỳ Phổ
Độ nầy duy lấy một chữ hòa làm tôn chỉ.
Có hòa mới có hiệp, có hiệp mới có thương, mà sự
thuơng yêu là chìa khóa mở cửa Tam Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch
Ngọc Kinh y như lời Chí Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là phải Từ Bi Bác Ái mới đắc đạo
vô vi, phải hòa hiệp mới có qui nhứt.
Chí Tôn đã định khai đạo đặng thị chứng cho các Tôn
Giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ tuyệt hại tranh đấu thù hiềm,
làm cho Thế Giới đặng hòa bình, thoát cơ tận diệt.
Thể Đạo của Chí Tôn cũng phải nương theo chữ hòa
mới toan thành lập, Chí Tôn định thành Hội Thánh, đặng thay thế hình thể của
Người, thì cũng tùng theo phép Tạo Hóa cá nhân mà gây nên ảnh tượng:
Cửu
Trùng Đài là thi hài, ấy là Tinh.
Hiệp
Thiên Đài là chơn thần, ấy là Khí.
Bát
Quái Đài là linh hồn, ấy là Thần.
Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành
Đạo cho đặng.
Nếu có một quyền hành nào tại thế nầy mà làm cho
thân thể Chí Tôn phải chia phui manh mún ra đặng, thì là Đạo ta là giả Đạo, tất
nó phải tiêu diệt trong một lúc ngắn ngủi chi đây.
Còn như quả là Chí Tôn vì thương yêu con cái của
Người, chính mình đến lập Đạo đặng giải thoát cho chúng sanh, thì những mưu
chước của tà quyền ngăn cản bước Đạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí Tôn,
ắt là không mong bền vững.
Hại thay! Cho những kẻ vô phần toan phân phái chia
phe, làm cho xác Chí Tôn phải tan tành rời rã.
Khổ thay! Cho những kẻ không duyên chối Thánh Giáo
nghịch Chơn Truyền làm cho chơn thần của Chí Tôn phải ô uế đê hèn muốn toan bỏ
xác.
Đau đớn thay cho những người ấy! Thê thảm thay cho
những kẻ ấy! Dám cả gan để tay vào mà tàn hại Chí Tôn; cái tội tình ấy lớn lao
bao nả. Coi gương lại Juda bán Đức Chúa Jésus Christ còn nhẹ, vì Juda ham ba
chục ngươn bạc đặng nuôi môn đệ của Người mà bán Người, còn những kẻ nầy đây
duy háo danh mà phản Đạo.
Chí Tôn đã đến thế, hạ mình đặng làm Thầy dạy dỗ
chúng ta, hằng trông mong giờ nào chúng ta biết hòa hiệp nơi lòng bác ái từ tâm
của Người, là hiệp làm một cùng Người, mới có đủ quyền hành độ tận chúng sanh qui
hồi cựu vị; mà đã sáu năm chầy rồi, thân thể hỡi còn rời rã ngất ngơ, chơn thần
hỡi còn dật dờ mê muội, thì thế nào các Đấng Thiêng Liêng hiệp một cùng đời cho
đặng, hầu mong sửa cải Thiên Thơ, tụ hội các nguyên nhân đem vào cửa Đạo.
Vì năm Đạo phân chia làm cho nhơn tâm bất nhứt,
nhân loại nghịch lẫn nhau, Chí Tôn đến đặng hiệp lại một nhà, ước cho con cái
của Người biết thương yêu hòa thuận.
Bần Đạo xin để cho những tay rối loạn gây thù nghĩ
lại coi phải mình là người thương Thầy mến Đạo hay chăng cho biết.
Khi khai Thánh Giáo bên Thái Tây thì Chí Tôn đã nói
trước rằng: Còn nhiều chuồng Chiên, Người sẽ đến đem về làm một. Lời tuyên ngôn
ấy nghĩa là còn nhiều Đạo đương nuôi nấng ung đúc tinh thần của con cái Chí
Tôn, đặng chờ ngày Người đến hiệp chung lại một, lời ấy ngày nay đã quả.
Các chuồng Chiên Thiêng Liêng của Chí Tôn là:
Phật Đạo thì có Bà La Môn (Brahmanisme), Thích Ca
Mouni (Cakymuoni), Pythagore Giáo.
Tiên Đạo thì là Lão Tử Giáo, Dương Châu, Mặc Địch,
Vạn Pháp, Bàn Môn cho tới Thầy Pháp, Thầy Phù, bóng, chàng, đồng cốt, v.v...
Thánh Đạo thì là Thiên Chúa Giáo (Christianisme),
Gia Tô (Catholicisme), Tin Lành (Protestantisme), Hồi Hồi (Mahométantisme).
Thần Đạo thì là Trung Huê Phong Thần, Hi Lạp Phong
Thần và Ai Cập Phong Thần, (Mythologie Chinoise, Grecque et E¨gyptienne).
Nhơn Đạo thì là Socrate, Esobe, Platon, vân vân ở
Hi Lạp, Khổng Phu Tử (Confuciannisme), Mạnh Tử (Mentius), Nhị Trình Giáo, vân
vân, chung cộng cùng cả Hớn Phong, Đường Thi, Tấn Tục, tại Trung Huê từ trước.
Trước khi đến khai Đạo đặng hội hiệp các Tôn Giáo
lại làm một, thì Người đã sai các Đấng Thiêng Liêng cao trọng hạ trần mà bày ra
các Hội Giáo Đạo Đức, đặng thức tỉnh trước nhơn sanh như là:
Khảo cứu Thiên Đạo Giáo (Société théosophique).
Khảo cứu triết lý Phật Đạo (Société des recherches sur la philosophie
bouddhique).
Thần kinh và tâm lý triết học (Société Psychique).
Thần linh học (le spiritisme), vân vân...
Có nhiều Hội Giáo đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo, đặng dạy
lần cho vạn quốc rõ thấu Chánh Truyền; ngày nay Thầy mới đến lập một cái Cao
Đài, nghĩa là đền thờ cao hay là đức tin lớn tại thế nầy (la haute église ou la
plus grande foi du monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn hạ nhỏ nhít
của hướng Á Đông là Annam ta, đặng cho trọn lời tiên tri "Đạo xuất ư
Đông" và cho trúng Thánh ý
chiều lụy hạ mình của Thầy, lập thành Hội Thánh, làm hình thể Thiêng Liêng của
Thầy, hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày
chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định tánh, làm cho cả con cái của Thầy thức
tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ.
Tuy Thầy hạ mình chiều lụy đặng để nên guơng cho Hội Thánh thì mặc dầu, song xét ra thì quả nhiên thấy rõ
rằng Thầy tránh khỏi mang thây hài hèn hạ của kiếp làm người, mà lại còn đến thế với một thể thống vinh diệu thiêng
liêng, không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà làm cho chúng ta nghe,
giữ trọn quyền hành Chí Tôn nơi tay mà điều đình mối Đạo.
Cái oai quyền ấy có ảnh hưởng cho nền Đạo biết làm bao. Thầy dùng; phép là
lương
tâm, quyền là tình ái, mà làm cho
cả nhơn loại thấy rõ mặt Thầy, hầu
nhìn lẫn nhau trong Thánh Đức của Thầy, mà cộng yêu hòa ái.
Cộng Hòa! Cộng Hòa! Ấy là hai lời châu ngọc của Thầy để vào lòng của mỗi người. Mình biết
Cộng Hòa mới làm cho cả xã hội quốc dân đặng cộng hòa, rồi làm gương cho rực rỡ
quang minh mà truyền bá cả tư tưởng cao thượng ấy ra khắp toàn cầu, cho cả nhơn
loại đặng cộng hòa đại đồng thế giái.
Ấy là phận sự tối cao tối trọng của Thầy đã phú
thác cho chúng ta, mà chúng ta không xem trọng hệ lại vì công danh quyền lợi mà
thù nghịch lẫn nhau, nhục mạ lẫn nhau, từ Thầy, phản bạn, thì chúng ta có đáng
mặt làm con cái tôi tớ của Thầy chăng?
Biết bao thế lực đã thành lập trong buổi này, chung
công hiệp sức nhau mà phá rối Đạo Thầy: Ngoài thì kẻ nghịch đương trù hoạch
phương châm mà tàn hại, trong lại bị người phản phúc, vu oan làm cho đến đổi
nhớp nhơ danh Đạo, mòn mỏi điêu tàn. Hỏi nếu Đạo có bề nào chúng sanh mới nương
nơi đâu đặng rỗi?
Thầy vì sợ phàm tâm tục tánh lập luật pháp rất
nghiêm đặng đủ quyền hành buộc cả Hội Thánh, nghĩa là thân thể thiêng liêng,
hiệp làm một.
Luật thì có Tân Luật. Pháp thì có Pháp Chánh
Truyền. Quyền thì Tòa Tam Giáo.
Ấy là: Cái còi, cây gậy, hàng rào thiêng liêng,
đặng lùa cả các chuồng chiên của Thầy hiệp một; mà hại thay, kẻ chăn chẳng biết
lóng tiếng còi, đoàn chiên không kiêng ghê con gậy, rào thưa rích thưa ran để
đến đổi bầy sói lũ hùm bắt chiên Thầy phân thây xé thịt; cái hại ấy do tại nơi
đâu?
Tại Hội Thánh cũng chưa nên Hội Thánh, Chức Sắc
Thiên Phong có cũng như không, có bóng không hình, làm cho thân Thầy không đủ
quyền hành mà xây chuyển Thiên Thơ (Plan divin), hầu đối địch quyết thắng tà
mưu nhiễu hại.
Cả Thánh Ngôn của Thầy dạy dỗ chúng ta từ buổi khai
Đạo đến chừ đã hiện thành Tân Pháp (nouvel vangile) mà ngày nay chúng sanh còn
chưa hiểu thấu, vì phần nhiều người lạm dự vào bậc Thiên Phong lấy tà tâm bẻ
bai biếm nhẻ chớ chẳng chịu truyền bá lời lành, làm cho kẻ Đạo tâm xiêu đường
lạc ngỏ.
Nếu cơ Đạo dường này thì chúng ta mong chi tận độ
chúng sanh và lập thành thể Đạo cho đặng.
Đạo có Thể pháp làm ngoại dung, và Bí pháp làm nội
dung, mà Thể pháp tác thành mười điều chẳng đặng ba, còn Bí pháp thì chưa ai
hiểu thấu, làm cho Đạo mất giá trị trước mắt chúng sanh, đức tin càng ngày càng
khuyết giảm. Để thế lực cho các Tôn Giáo khác công kích Chánh Truyền, mà hại
cho người hết lòng vì Đạo phải ngại ngại lo lo về điều hư thiệt.
Bởi cớ biết bao Tiên, Phật đã giáng cùng khắp Thái
Tây cho tiên tri về nền Thánh Giáo, nói trước rằng: Những người bền vững căn tu
mới mong giữ vẹn đức tin nhập vào cửa Đạo. Cơ khảo Đạo ngày nay xem quả vậy.
Thưa cùng chư Hiền Huynh và chư Hiền Tỷ.
Bần Đạo tưởng chúng ta đã nặng mang trách nhậm nơi
mình, mà chúng ta không có đởm tâm liệu mình tự xử, thì mới mong minh đoán cùng
ai.
Em nên khai thiệt rằng tại nơi lòng thành yếu ớt
của chúng ta không dụng cả công tâm mà điều đình Chánh Giáo, lại để nể nể, vì
vì làm gương xấu cho kẻ chác tiếng bua danh, gây phe đảng, lập tư riêng làm nên
thế lực. Ngày nay đã có tiếng độc lập, tự quyền cũng do bởi đó.
Trong mình chúng ta có hai người, một là ta, hai là
Chức Sắc Thiên Phong, nghĩa là tôi tớ của Thầy.
Với chúng ta, dầu cho tan xương nát thịt với một
kiếp sống thừa nầy, không chi rằng hại, duy hại là hại cho phận sự Thiêng
Liêng, nếu chúng ta không biết cao trọng mà giữ tròn trách nhậm, đặng bảo thủ
cái cơ nghiệp chung của cả nhơn sanh là Đạo ngày nay đây, thì cái tội tình
trước mặt Thầy tính coi bao lớn!
Vậy thì chúng ta nên chung công hiệp sức cùng nhau,
kể từ đây nhứt định chẳng cho ai phạm quyền mình, vì quyền mình, là quyền Thầy,
dầu cho còn một mặt Tín Đồ thì Hội Thánh cũng giữ quyền Hội Thánh.
Xúm xít nhau mạnh yếu tùy phương, bảo thủ cây cờ
Đạo của Thầy là Tòa Thánh, lại gắng tạo thành sừng sựng tại miền Cực Đông nơi
Nam Việt nầy một cái Cao Đài, đặng làm ngọn đèn soi sáng đến cảnh Cộng Hòa của
toàn thế giới.
- Chơn truyền của ĐĐTKPĐ : Đạo là gì ? Trời là ai ? Thuật lại bài thi pháp
văn của V. Hugo.
Ngày
15 - 7- Nhân Thân (dl 16 - 8 - 1932).
DIỄN
VĂN của ĐỨC HỘ PHÁP
đọc tại Tòa Thánh Tây Ninh
về Chơn truyền ĐĐTKPĐ.
Chư Đạo hữu lưỡng phái,
Từ một năm nay, nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chênh
nghiêng làm cho nhục nhã đến tôn chỉ chơn chánh cao thượng của Chí Tôn giáng
lập.
Tệ đệ lại chưa hề để một lời biện bạch, nên làm cho
nhiều bực cao minh nghĩ rằng : Tệ đệ chắc hẳn có riêng tình tư vị mấy vị đương
quyền, y theo những lời của những phái nghịch Đạo gieo truyền vu cáo. Tệ đệ
chẳng cần minh tả ra đây mà làm gì và cũng chẳng cần phản đối cùng ai, để cho
tòa lương tâm của chúng sanh xử đoán.
Tệ đệ duy nói chắc rằng, tệ đệ chưa buổi nào biết
vị nể ai tất cả.
Phàm hễ ai đã để lòng vị nể ai, trong mọi việc gì
thì tất nhiên phải có duyên cớ buộc ràng, hoặc là bởi chung hưởng quyền lộc,
hoặc là chung chịu tội tình, hoặc bị mang tình thân ái, nhưng mà điều sau nầy
vẫn ít có, vì sợ để hại kẻ đồng tình, mình bị liên can vào đấy.
Chí như làm Đạo thì chưa thấy chi mà nên gọi là
quyền lộc công danh, bằng quả có đi nữa thì chẳng qua là phương pháp đê hèn của
mấy người giả Đạo dối trá tạo thành đặng hưởng chung mượn lén vậy thôi.
Ngoài mặt đời, chưa ai dám cả gan đường đột xưng hô
lên rằng : Tôi lập quyền tạo lộc cho tôi.
Nếu có kẻ điên nào dám nói như vậy thì chúng sanh
đã xa lánh họ rồi.
Thế nào cũng phải mượn màu đạo đức đặng dụ dỗ kẻ
tâm thành, tạo quyền lộc cho mình, giựt công danh của chúng. Muốn đoạt cho đặng
mục đích ấy thì họ phải làm mặt chơn thành, lấy nhơn nghĩa đặng đề danh làm cờ
hiệu.
Muốn khoe khoang mình thì phải chê bai người, có chê bai người mới có thể khoe khoang mình,
khoe khoang mình đặng mưu đoạt công danh quyền lợi là thường tình thế sự. Hễ
mình dưỡng nhơn chi ác thì tự nhiên mình muốn khoe mình, đôi khi lại khỏa lấp
chỗ phải của người đi nữa.
Nhơn nghĩa ! Nhơn nghĩa ! Hai chữ ấy từ trước đã đủ
quyền lực giúp đời, đồ vương định bá cũng đã nhiều.
Hạ Kiệt có vô đạo thì Thương Thang mới thâu cơ
nghiệp với danh nhơn nghĩa.
Thương Trụ có vô đạo thì Châu Võ mới thâu cơ nghiệp
với danh nhơn nghĩa.
Châu U có vô đạo thì chư Hầu mới có xưng vương lập
bá với danh nhơn nghĩa.
Lục quốc có vô đạo thì Đinh Tần mới thống nhứt nhờ
danh nhơn nghĩa.
Đinh Tần có vô đạo thì Hớn Bái Công mới đoạt đặng
thiên hạ cũng nhờ danh nhơn nghĩa.
Hớn Hiến Đế cô thế nên Ngụy Tào mới đoạt nghiệp với
danh nhơn nghĩa, vv. . . và vv . . .
Cơ quan nhơn nghĩa nó mạnh mẽ biết chừng nào mà thế
gian chẳng mời cầu sao đặng.
Nhưng mà bậc trí nhơn chưa để cho ai dối dụng
phương pháp ấy cùng mình.
Gia Cát điếu Châu Du, duy Phụng Sồ không đổ lụy. Vì
cớ mà tệ đệ bụm miệng bịt tai, ngồi làm thinh coi hành vi quỉ quyệt của người
đặng cười, gọi là thú vị riêng của tệ đệ.
Tệ đệ chỉn lo ngại có một điều là mặt Chơn Đạo của
Chí Tôn nó giúp thêm cho hai chữ Nhơn Nghĩa của Nho Tông mà làm thành một ngọn
binh khí diệu huyền không ai thắng họ nổi.
May thay cái danh Đạo của kẻ gian quả nhiên giả tướng
nên tệ đệ đem mặt Chơn Đạo ra đây đặng đấu báu giữa tòa sanh chúng.
Vậy chư Đạo hữu cho tệ đệ luận thuyết chữ ĐẠO là gì
trước đã.
ĐẠO
là gì ?
Đạo là một tiếng mượn đặng chỉ sự vô hình hay là
định danh (Entité). Tiên Nho nói rằng : Cường danh viết Đạo. Sự vô hình ấy là
cơ mầu nhiệm của nhứt linh hiệp vạn linh, hay là vạn linh hiệp nhứt linh (Le
mystère du rapport entre Dieu et ses Créatures ou les Créatures à Dieu).
Nói rõ thì là cơ mầu nhiệm Trời và Người hiệp một,
theo cổ nhơn lấy mình mà tầm tánh Chí Linh nên đặt tên là Đạo.
Nho gia cho Trời và Người đồng trị làm cơ quan mặt
luật hữu vi, Đạo Đời tương đắc, lấy tánh lý chí thiện đặng hiệp tánh Chí Linh
nên cũng cho tên là Đạo.
Thần giáo thì lấy danh Chí Linh mà làm cho có ra lẽ
vận hành huyền diệu, đặng làm chủ tánh chất của người đời. Lấy hai lẽ, hữu cảm
thì hữu ứng mà kềm thúc đức tin, cũng do Đấng Chí Linh vi chủ nên cũng xưng tên
là Đạo.
Thánh giáo lại lấy hai chữ lân tuất thương sanh cứu
dân độ thế làm mục đích cho rằng hễ Chí Linh đã ở trong tánh chất của người thì
người ấy là Trời, hễ thương người tức là thương Trời, mà thương Trời hết lòng
hết dạ thì đoạt đặng tánh Chí Linh của người, nên cũng gọi là Đạo.
Lão Tử giáo gọi là Tiên giáo thì lấy cái êm tịnh
của trí lực tinh thần làm cơ quan đoạt tánh Chí Linh của Tạo hóa, cho rằng để
ngoại cảm của vật chất là đời xông đột thì trí lự phải xao động, trí lự xao
động thì tinh thần phải mờ ám, nên cũng cho rằng muốn đoạt đặng tánh đức Chí
Linh thì phải luyện tập cho đặng nhàn thân nhàn trí, xa lánh đường đời, nên
cũng hô danh là Đạo.
Thích giáo hay là Phật giáo thì cho rằng hễ còn suy
tính thì còn hay biết, hễ còn hay biết thì còn trong vòng hữu định của đời, nên
dạy rằng, phải tự diệt cho hết hay biết thì mới nhập vào linh cảnh của mình,
nhập đặng vào linh cảnh của mình rồi mới mong thấu đáo Chí Linh Tạo hóa, nên tự
tôn là Đạo.
Trung Dung nói:
“
Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo.”
- Thiên mạng chi vị tánh, nghĩa là : mạng Trời ấy
là tánh.
Cái tánh linh của ta do nơi Đấng Chí Linh cho ta,
lại do đấy mà tạo mạng sanh của ta; vận thời kiếp số của mỗi người đều tùy điểm
linh quang lớn nhỏ nghĩa tùy theo mạng của mỗi người.
Cả nhơn loại và vật loại đều thọ nơi Đấng Chí Linh
một điểm linh quang, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc lớn hoặc nhỏ, đặng định hàng phẩm
đẳng cấp của chúng sanh, vì vậy cho nên cả cơ tạo hóa hữu hình đều chung gọi là
vạn linh sanh chúng.
Người cũng là một vật trong vạn vật, nghĩa là nhứt
linh trong vạn linh, nhưng mà linh tánh hơn vạn vật, biết đặng cái linh tánh ấy
là mạng Trời nên đặt tên là Thiên mạng.
- Suất tánh chi vị đạo, nghĩa là: rèn đúc trau giồi
cái tánh ấy là đạo.
Người cũng đã là vật thì tự nhiên phải triêm nhiễm
vật tánh nơi mình, buộc hễ đói phải kiếm ăn, vì có ăn mới có sống, buộc trần lỗ
phải kiếm mặc, vì có mặc mới ấm thân.
Nặng mang cái mảnh hình hài gọi rằng mạng sống,
luật thiên nhiên bảo tồn (La loi de conservation) định vậy, phận thiêng liêng
giúp thế nơi mình, nên cũng phải chung lộn thế tình ăn ăn mặc mặc.
Nào là vinh thân, nào là phì gia, tuồng đời nêu
trước mắt như lượn sóng ba đào xao xuyến giữa dòng thế sự. Nào là yếu thua mạnh
thắng, nào là ngu thiệt trí hơn, nhập vào trí não như gươm giáo đua tranh giữa
trận lợi danh hoàn võ.
Vì vậy mà đòi phen phải vùi lấp tánh linh, xu về
hình thể.
Tuy vân thế tình vẫn vậy, mà cũng còn có lắm Đấng
cao minh, chơn thần đắc kiếp, thường xem vạn vật mà suy đoán phận mình nên đặng
am hiểu rằng cái linh tâm con người vẫn vô hạn giới. Ấy vậy, cái kho vô tận của
Chí Linh cũng có phương đoạt đặng. Dò đon từ bực trí lự của mỗi loài thì thấy
cả vạn linh đều biệt phân đẳng cấp, dầu cho cả cá nhơn đối với trọn loài người
cũng thế, rồi tìm cách thế mà luyện tập lấy mình, gọi là TU, làm cho linh tánh
khỏi thi hài ràng buộc thì tự nhiên thấy nó đặng tăng tiến lên cao, cơ bí mật
huyền vi của Chí Tôn hiểu thấu.
Câu “suất
tánh chi vị đạo” nghĩa là: đem tánh linh ra khỏi vòng nhục thể (gọi là
thoát xác) thì có thế hiệp tánh với Chí Linh nên cho là Đạo.
- Tu đạo chi vị giáo, nghĩa là: trau Đạo gọi là
giáo.
Đào luyện cái tánh linh cho sáng suốt thêm hoài gọi
là TU, song cách thế mình tu vẫn nhiều phương pháp, lập cho nên phương pháp
đặng tự giáo lấy mình, hay là cầu giáo với kẻ cao minh giúp giùm phương pháp.
Tự giáo, nghĩa là mình đủ trí lự đặng đặt ra phương pháp mà tu luyện lấy mình;
cầu giáo là cầu kẻ cao minh dạy giùm phương pháp.
Tiếc thay bậc cầu giáo vốn nhiều người, còn bậc tự
giáo xem ra phần ít. Bởi cớ ấy mà làm cho mặt địa cầu nầy có nhiều tôn giáo.
Tệ đệ xin chư Đạo hữu thầm nghĩ coi, sau nầy chữ “tôn giáo” và chữ “đạo” tự nhiên đặc biệt.
Bậc tự giáo vẫn ít cũng chẳng có chi rằng lạ.
Ông Thiệu Khương Tiết nói
rằng :
"Thượng
phẩm chi nhơn, bất giáo nhi thiện,
Trung
phẩm chi nhơn, giáo nhi hậu thiện,
Hạ
phẩm chi nhơn, giáo diệc bất thiện."
Lại thêm như vầy :
"
Bất giáo nhi thiện, phi Thánh nhi hà ?
Giáo
nhi hậu thiện, phi Hiền nhi hà ?
Giáo
diệc bất thiện, phi ngu nhi hà ? "
Chiếu theo mấy câu nầy thì bậc Thánh đức hoàn toàn
mới có phương tự giáo.
Chúng ta lại còn hiểu rằng ông Thiệu Khương Tiết
lấy thiện giáo làm đạo bổn thì là phép lập giáo hay biết bao nhiêu ! Ai dám gọi
rằng cổ nhơn không viễn kiến.
TRỜI
là ai ?
Trời là Đấng đủ quyền hành Chí Linh mà tạo thành
càn khôn thế giới, Đấng tự hữu hằng hữu đã sanh thành vạn vật với loài người,
Cha cả của chúng sanh, chúa của các đẳng linh hồn, chủ của chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật, vv . . . theo ngôn ngữ của các sắc dân tôn tặng.
Kể hoài cũng không hay gì hết.
Cái không trung vô ngằn (l’infini) không bờ bến kia
đã huyền bí bao nhiêu thì Đấng Tạo hóa là chủ tể của nó cũng huyền bí bấy
nhiêu. Thật là hễ càn khôn vô tận thức thì tánh đức của Hóa công cũng vô tận
thức.
Chí ư xem thử cơ quan hữu vi là vạn linh của tay
người đào tạo, cũng thấy rõ rằng là cơ vô tận.
Càng trầm tư mặc tưởng mà tìm tòi tánh Trời thì
càng thấy to tát nhiệm mầu mà phải kinh tâm tán đởm.
Dầu bên Âu Tây hay là nơi Á Đông đây cũng vậy, từ
thử cũng sản xuất lắm mặt hiền tài, trí cao học rộng, chưa để ý vào một tôn
giáo nào đủ sức gợi đức tin, để tự mình quan sát. Thường lấy cả cuộc hữu vi thế
giới đặng làm máy hành tàng mà tìm cho ra mặt Đấng Chí Tôn vạn vật. Càng tìm
kiếm càng lạc lầm, càng muốn hay càng thấy dốt, rốt lại chỉ than rằng : Thật là
tối cao ! Thật là tối đại !
Thối chí ngã lòng muốn toan bỏ lảng, lại hại nỗi
mình cũng là một vật của toàn vạn vật nơi võ trụ nầy, nếu mình không biết nó
thì mình lại chẳng biết mình, cơ tấn hóa càn khôn cứ trêu ngươi mãi mãi, mà
ngặt nỗi muốn biết nó thì phải biết tánh đức của tay Tạo hóa, mà Đấng Chí Tôn
Tạo hóa lại khó tìm, chừng ấy cũng ép mình theo bậc thường nhơn, tùng theo một
tôn giáo nào đó đặng cho có phương thế thờ Trời, dầu pháp luật khó khăn, dầu
cho lập giáo trái hẳn cùng chơn lý thể nào cũng chịu.
Ai nói Ông Trời thế nào cũng nghe theo vậy, dầu
riêng hiểu rằng lý thuyết khó nỗi để tin, cũng không đành cãi, là tại đã để ý
rằng, với tánh thật thà quê dốt mà có thể tìm trúng sự thật hơn trí thức cao
minh vì đã thấy cái trí thức cao minh của mình đã biết lầm hơn với tánh thật
thà quê dốt.
Sự quyết đoán chẳng đủ nơi mình thì dầu cho học
rộng thấy xa, cao minh mẫn đạt cho mấy đi nữa, cũng phải đòi phen chịu hạ mình
dưới quyền cường từ áp chế.
Ông Galilée là nhà toán pháp (Mathématicien) cách
vật (Physicien) và thiên văn (Astronome) của Ý Đại Lợi (Italy) sanh tại thành
Pise, người đã khai sáng cách trí học tại Ý, khi vô chầu lễ trong Đền thờ Pise,
người ngó thấy cây đèn treo trong Đền thờ đòng đưa đúng theo trường canh nhịp
nhàng quá đỗi nên mới bày ra cái quả lắc đồng hồ; người tạo đặng hàn thử biểu
(Thermomètre) và cân thủy khí (Balance hydrostatique), kiếm đặng cái hấp lực
của địa cầu đặng định cân mọi vật (Loi de la pesanteur), tuyên bố cơ thể lực
cân (Dynamique). Qua năm 1609, người tạo đặng một ống thiên lý, nhờ đấy mà
người xem đặng sự vận hành nguyệt tượng. Từ ấy người nhìn theo thuyết lý
Copernic đã định quyết rằng Địa cầu nầy có hai phần luân chuyển : tự chuyển là
xây tròn một mình nó và nhựt chuyển là chạy chung quanh mặt trời, nên định cho
rằng mặt trời là trung tim, nghĩa là rún của thế giới chớ không phải trái đất
nầy là trung tim của thế giới, và trái đất cũng phải chịu hấp thụ ánh sáng
quang minh của nó, cũng như các địa cầu khác mà làm ra ngày và đêm.
Lý thuyết ấy tuyên bố ra làm cho kinh động đảng
Kinh học (Scolastiques) (Thần học Kinh viện của Thiên Chúa giáo La Mã] và triều
đình thành Rome.
. Tòa Thánh Gia Tô giáo muốn buộc người cho đặng
bèn định rằng lý thuyết Copernic định thế giới càn khôn là Tà giáo và đòi người
đến mà cấm tuyệt không cho truyền bá lý thuyết ấy ra nữa.
Người chịu hứa mọi điều, nhưng khi về đến thành
Florence lại viết một bộ sách mà trực thuật cái lý thuyết chơn thật ấy ra nữa.
Bộ sách bị giải nạp ra Tòa đạo (Inquisition), năm
ấy người đã 70 tuổi rồi mà cũng bị bắt giải ra Tòa đạo. Tòa buộc người phải quì
mà thề và khai rằng lý thuyết của người là Tà giáo, đặng tránh cho khỏi án
thiêu mình.
Khi người cầm viết ký tờ khai thì dậm cẳng xuống
đất mà than rằng : “Nhưng mà ta quả nhiên nghe nó hẳn hòi vận động.”
Từ ấy người bị Tòa đạo gìn giữ một cách nhặt nhiệm,
dường như người bị tù lỏng kia vậy. Người bị mù và chết năm 1642, hưởng thọ
đặng 78 tuổi.
Ôi ! Một vị hiền triết dường ấy mà còn bị đè nén vì
tư tưởng thế nầy, là bởi cơ quan thế giới quá trí của người đời, nên không cớ
không bằng, vô phương đối chứng.
Cái sự thật đã về ai ? Ông Galilée hay Tòa đạo? Chư
Đạo hữu cũng thầm nghĩ bên chơn thật bị thảm khổ là dường nào mà xét suy giùm
lẽ đạo.
Cái tai nạn của ĐĐTKPĐ ngày nay cũng như ông
Galilée, khó trưng bằng cớ buổi nọ đó vậy.
Đấng vô hình quyền năng đã tạo thế nầy, từ tạo
Thiên lập Địa chưa có một người nào đặng gặp.
Sự gặp đặng Người và chung ở cùng Người là một phần
thưởng quí trọng không cùng, dầu cho các Đấng Chí Tiên Chí Phật đi nữa cũng
hằng ngưỡng vọng.
Lý thuyết nầy cũng là một tánh lý thường tình, gần
đặng một người trí thức hiền tài, dầu ai ai cũng ước, huống chi đặng thân mật
cùng Đấng Chí Thiện, Chí Linh, ai không ngưỡng vọng ?
Bởi thế mà trí lự con người vốn chưa quyết đoán,
hai lẽ có không vốn chưa bằng cớ.
Kẻ thì sợ Người, vì thấy lành có lành trả, ác có ác
báo thì định rằng thế nào cũng quả nhiên có kẻ cầm quyền thiêng liêng vạn vật.
Kẻ thì thương Người, vì thấy mọi vật hóa sanh đều
về công ích; mưa móc nắng nôi chứng phần nuôi chúng.
Kẻ thì mến tài Người, vì thấy bủa khắp bao la vận
hành quảng đại mà không có tình riêng, vô tư vô vị, vàn vàn sanh chúng, chẳng
bỏ một người, có sanh thì có nuôi, không để ai sót, báo ứng chẳng lầm, thưởng
răn đủ phép.
Tuy vậy mà cũng có hạng người hờn giận Trời, oán
ghét Trời, dám lộng ngôn phạm thượng. Hạng người nầy chúng ta hết phương để
luận.
Trừ ra mấy vị Giáo chủ đầy đủ Thánh đức Đạo tâm
(Instinct religieux) hoặc ở ngôi vị thiêng liêng đã thân cận cùng Người, hay là
đặng nghe quả quyết danh Người, hoặc là đặng cao siêu tự nhiên đoạt tánh, dầu
cho nặng mang thi phàm xác tục đi nữa thì thoạt nghe đến thoạt đủ tin, dường
với kẻ
thâm tình nặng nghĩa. Tâm linh xui khiến dường như nghe đến danh Cha,
dầu chưa thấy mặt Già, nhắc danh tánh châu sa lụy đổ. Cái cảm tính ấy không
phương thế tỏ ra cho trọn đặng. Ai đã có Đạo tâm đều đã đặng thử mình mà tự hiểu.
Còn phần đông đều là những trang tầm chơn lý. (Tệ
đệ chẳng dám luận tánh đức của bậc người nầy, chỉ để cho chư Đạo hữu nghiên cứu
mà hiểu thầm cũng đặng), đều cho rằng Chí Tôn là ông Thần Chơn lý của nhơn
loại, tưởng tượng mà đặt tên chớ kỳ trung không có ông Phật ông Trời chi tất
cả.
Bậc người nầy có lẽ cũng tùng theo một giáo lý nào
đó, đặng để cậy oai quyền ông Thần Chơn lý của họ đặt tên, đặng lợi dụng nhiều
phương kín nhiệm, chớ thật ra chưa có đức tin nơi Đấng Chí Tôn mảy may chi hết.
Ấy cũng là một kiểu Đạo.
Lấy lương tâm mà làm căn bổn cũng là một điều hay,
còn chủ lương tâm dầu biết dầu không cũng cho là chẳng hại, nhưng mà chiếu theo
Đạo pháp thì chưa ai định chủ phần hồn, chỉ tại nơi mình tự xử, mà mình tự xử
lấy mình thì chưa hề có sự công bình chánh đáng đặng.
Ấy vậy, có một phần người cho rằng không có Trời có
Đất chi hết.
Cơ sở của đời do tại lương tâm mà sản xuất, còn thi
hài thì là còn hành động của trí lự, thi hài chết thì hết, cũng như cái vật bể
nát hư hại thì chẳng còn hình, nên không nạp dụng đạo pháp nào cho là chánh lý,
chỉ thờ hình thể cao thượng hữu vi, lấy sự phước hạnh thi hài làm mục đích.
Ấy, tệ đệ luận đến điều nầy, e khi chư Đạo hữu đau
đớn thương tâm toan ứng thính hỏi rằng :
- Vậy chớ ai sanh ra họ mà họ toan từ chối ?
Rồi đây, chúng ta lại cứ cãi với nhau, cùng luận
nầy ra luận kia, hết lý kia qua lý nọ, nói cho đến hết lời, chung trí cả toàn
thiên hạ, cùng kim tận cổ, vạn quyển thiên kinh, cãi riết cho tới tận thế cũng
còn cãi mà cũng không kết luận đặng chút nào.
Tại sao vậy ?
Tại mọi điều chi ta suy nghĩ, mọi việc chi ta kiến
thức tại thế nầy đều sản xuất sau tánh đức Chí Linh và cơ Tạo hóa. Chí Tôn đã
định cho trí lự của mình biết Người bấy nhiêu thì hay đặng bấy nhiêu. Người thì
vô cùng vô tận, còn trí lự của mình lại đứng trong vòng hữu định, thì chúng ta
có mong gì đủ thế thấu đáo cho hết tánh Người.
Tỷ như con vi trùng hay sên lãi ở trong bụng ta thì
có phương nào ta vẽ hình ra cho trọn trúng.
Nếu cượng lý thì lại e cho mình phải chịu cái lầm
của ếch đáy giếng vẽ Trời cao, Trời giống giếng, miệng tròn cùng miệng méo.
Vậy chư Đạo hữu cũng nên cho là một sự khó khăn quá
trí khôn ngoan của người xét đoán, rồi cũng nên quảng đại bao dung để cho mỗi
cá nhơn tự do tư tưởng.
Chư Đạo hữu đã may duyên gần đặng hình bóng của Chí
Tôn, cậy bút Thánh cơ Thần giáo hóa. Ngọn cơ bút làm phương thân mật, lại cũng
là một máy nhiệm mầu, trí lự con người
chẳng dễ chi cạn hiểu !
Ma ma, Phật Phật, quỉ quỉ, Trời Trời, lẽ chánh
lý tà
khó bề quyết định.
Nhiều kẻ gọi là ma, chúng ta gọi là Phật, chúng cho
rằng quỉ, mình gọi là Trời. Hỏi cho đến tận nơi
thì chưa có một người trưng đủ cớ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét