Chúng ta xét lại thấy Đạo Cao-Đài còn hạnh-phúc hơn các nền Tôn-Giáo trước,
nếu nhận quả quyết thì có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ
rồi.
Cái thiệt-tướng của nền
Tôn-Giáo Đức Chí-Tôn hiện-tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt được,
trong đó các vị thừa mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.
Bần-Đạo kiếu lỗi cùng con cái của Ngài, không phải tự-kiêu hay là tự-đắc chính
tay Bần-Đạo có một phần khá lắm, vì cớ Bần-Đạo rủ chúng ta dùng phép hồi-quang phản-chiếu
đặng định tướng diện của mình, cốt yếu là một phần-tử trong nền Tôn-Giáo, hễ
mình coi chơn-tướng của mình, rồi tổng-số các chơn-tướng đó làm chơn-tướng của
Đạo, Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài nên hình đặng tức là thành tướng thương yêu vô
tận vô biên. Nó nên hình có nét đẹp thiên-nhiên là nhờ vẽ với cây viết thương
yêu mà viết nét Thiêng-Liêng cho Thánh-Thể của Ngài để theo nét thương yêu ấy
đặng tạo nên hình-trạng thành tướng một khối thương yêu.
Ta không có mơ vọng và
không có lường gạt tâm-lý nhơn-sanh, trước mặt mỗi người đều thấy, hỏi do quyền
năng nào tạo thành quyền-lực ngày nay.
Quyền Đạo ngày nay do Luật
Thương-Yêu mà thành tướng vậy, mà nếu do Luật Thương Yêu thành tướng thì không
có quyền-năng nào tàn phá nó đặng, nó có sợ chăng là sợ luật thù hận. May thay
cả lực-lượng thù hận cũng không xung đột được bởi có bàn tay Thiêng-Liêng gạt
thù hận ra khỏi rồi.
Nó nên hình bởi sự thương
yêu, trưởng thành trong sự thương yêu, bởi hình chất của thương yêu, hễ càng
ngày càng lớn lên càng tráng kiện, nó sẽ làm chúa cả thù hận không hề xâm lấn
nó đặng.
Nói quả quyết Bần-Đạo đã
đánh tan thù hận ra, khi các đảng phái dùng quyền-lực đặng chiếm ngôi vị của
Chí-Tôn để tại mặt thế-gian này.
Bần-Đạo đã can đảm dùng
quyền của Bần-Đạo đánh ngã hết đặng bảo trọng hình tướng Thiêng-Liêng của Đạo.
Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận ấy, đặng bảo tồn
hình-thể của Đức Chí-Tôn cho trọn thương yêu.
Bần-Đạo dùng can đảm gánh
cả thù hận của thiên-hạ mà bảo tồn khối thương yêu vô đối của Đức Chí-Tôn không
cho hoen ố, nhơ bợn.
Tại sao mà Bần-Đạo dám thí
mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó? Bởi biết nó là Chúa của hình ảnh, của
quyền trị thế tương lai, nó là Thầy của thiên-hạ đặng trị thế, nếu không trọn
vẹn nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp thì không thể vì làm Thầy thiên-hạ đặng.
Các chi phái hồi đó dùng
cường-quyền mà đoạt-vị. Bần-Đạo là Hộ-Pháp nắm giữ chơn truyền của Đức Chí-Tôn
trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước lưu
lại cho nền chơn-giáo của Chí-Tôn sao?
May thay, quyền ấy không
xung đột được với Thánh-Thể của Chí-Tôn, nó đã bại trận, bởi Thánh-Thể của Ngài
có người cầm Luật-Pháp oai-nghiêm tức là cầm cây huệ kiếm trong tay đặng
gìn-giữ nền Chơn-Giáo nên hình được, nó nên được tức nhiên nó tạo cho thiên-hạ
được, nó tạo oai-quyền của nó thành tướng đặng, thì tạo quyền cho nhơn sanh tại
mặt địa-cầu này về tương-lai đặng./.
* * *
20. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 18 tháng 12 năm Mậu-Tý (16-01-1949)
HÌNH-ẢNH PHẬT-MẪU TẠI THẾ-GIAN LÀ ĐỨC PHẬT CIVA
& GIA-TỘC THIÊNG-LIÊNG CỦA MỖI NGƯỜI
ĐỀU HỘI-HIỆP Ở CUNG DIÊU-TRÌ
Hôm nào đến nay chúng ta
lưu luyến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, chúng ta đã có thấy nhiều bài hay ho về
tinh-thần chúng ta, có lẽ chúng ta ở mãi, nhưng chúng ta phải dục-tấn nữa, tấn bộ
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Chúng ta đình lại, rủ các
bạn đến đây, rất dễ, ngày giờ chúng ta ở Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa tức nhiên gần
nơi Diêu-Trì-Cung là nơi nhao rún của chúng ta, chúng ta chẳng phải dễ gì mà đi
đặng. Các bạn nên nhớ rằng: Chúng ta là người hành khách, có một điều là muốn
đi đến nơi Cung ấy, dám chắc mình ngưng bước rất dễ, chúng ta đặng một bà Mẹ
yêu ái vô tận vô biên, tưởng coi bà Mẹ ở nơi ấy có thâm tình với chúng ta ra
sao? Bần-Đạo đã thuyết-minh trong những điều Bần-Đạo có hạnh-phúc, Bần-Đạo nói
thật có hạnh-phúc Bà Mẹ của Bần-Đạo đã qui liễu khi trước, đặng nhập vô hình
thể Thiêng-Liêng, Bà Mẹ sanh chúng ta tình yêu ái nồng-nàn làm sao!
Chúng ta ngó thấy lúc mới
sơ khởi, chúng ta còn vật-loại, biến thân lên cho đến nhơn-phẩm, Thiên-Thần,
chúng ta đã có hạnh-phúc, đứng đến địa-vị như nhau, Đệ-Nhị xác thân chúng ta
sanh xuống làm người ở trong Đệ-Tam Âm-Quang thì thấy cái liên khổ, trong
khuôn-khổ nơi Cung Diêu-Trì thế nào?
Bần-Đạo giảng điều trọng
yếu hơn hết, mỗi căn tu của chúng ta đây, chúng ta ngó thấy Bà Mẹ sanh của
chúng ta chịu nguyên vẹn nơi Cung ấy. Đại-nghiệp nơi Thiêng-Liêng chúng ta đã
đào tạo, Bà Mẹ sanh của chúng ta giữ-gìn một cách mật thiết, chẳng khác nào
chúng ta thấy Bà Mẹ tại mặt thế này. Trong những cuộc lễ như ngày Lễ Chúa
Giáng-Sinh tức là lễ Noel, Bà Mẹ mua đồ chơi cho con, thương con cho đến đổi,
khi nó chơi rồi mỗi vật chơi của nó đều đem chất trong một căn nhà, sự thương
yêu trọng-hệ vô cùng, mỗi vật chơi của con đều để có thứ-tự, đến khi con lớn
khôn rồi, đem ra làm dấu tích sơ sanh của nó. Bà Mẹ tại mặt thế này như vậy,
huống chi là Bà Mẹ Thiêng-Liêng đã để ngàn muôn triệu kiếp sanh, chúng ta đã
đoạt được thế nào mà không lưu-luyến nó đặng. Mỗi việc gì, mỗi hành-vi gì, nơi
Cung ấy nó giục nhớ cho chúng ta những điều di-tích lại là mỗi cảm-tình vô hạn.
Ngoài ra còn một điều
trọng-hệ hơn hết là nơi Cung của chúng ta hội-hiệp mỗi thân tộc Thiêng-Liêng
của chúng ta đều hiểu biết cái hạnh-phúc.
Các bạn nên suy nghĩ lại,
khi chúng ta lên Cung ấy chúng ta tạm nghỉ nơi Cung ấy, chúng ta nghĩ lại nơi
thế-gian này, gia-đình dầu đông-đảo, bất quá sống một trăm tuổi mà thôi, dám
chắc bao nhiêu năm đi nữa cũng phải về, huống chi là các thân-tộc nơi Cung ấy
đang chờ ta, đương trông ngóng buổi qui-hồi của chúng ta, họ muốn chúng ta trở
về không uổng kiếp sanh, cái thâm-tình thường lệ là cái chi? Là cái tình của
chúng ta yêu ái từ buổi xa nhau, nó khổ não lương-tâm đau đớn về tinh-thần vô
cùng. Cần nhứt chúng ta phải biết, chúng ta là một hành-khách đó vậy, nơi đây
hay là nơi kia, cả Càn-Khôn Vũ-Trụ của hình-thể biết bao nhiêu địa-giới.
Giờ này chúng ta sống nơi
trái địa-cầu 68 này là cái nhà, trọng-hệ yêu-ái nhứt của chúng ta, tưởng chắc
ai cũng sợ chết lắm, sợ chết rồi lìa khỏi trái địa-cầu 68 này, bị cái sợ chết
mà sa đọa. Nếu họ hiểu biết cái chết của họ, thì họ không có bị cái khổ hải như
vậy. Bần-Đạo nói quả quyết rằng: Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này, cái địa-cầu 68 này
là hạng chót, hạng khổ não nhứt nơi mặt địa cầu này, kiếp sanh nơi mặt địa-cầu
68 này không phải đáng cho chúng ta lưu-luyến, mặt địa-cầu này khổ não lắm, khổ
não hơn hết.
Chúng ta ngó thấy những
cảnh tượng nơi mặt thế này là chúng ta dòm thấy những kẻ bộ-hành đi xa xứ-sở,
thân-tộc họ ra bến tàu đưa đi, mà người đi cũng khóc, kẻ ở cũng khóc, khóc mà
đi, khóc sao không ở nhà, người nhà khóc sao để cho người ta đi, nếu khóc thì
đừng đi.
Bởi bộ-hành nơi cửa
Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia cũng vậy, chúng ta còn dục-tấn mãi, dục tấn trên nẻo
Thiêng-Liêng Hằng-Sống mãi-mãi thôi chúng ta đi không bờ bến.
Trên Càn-Khôn Vũ-Trụ bao
la thế này, mà con đường chúng ta phải bước đến, bước đến cái đại-nghiệp của
Đức Chí-Tôn, chưa có chơn-linh nào biết cái đại-nghiệp vô biên, đại-nghiệp ấy
chưa có ai thấu đáo cho tận cùng.
Các bạn cứ đi theo tôi,
đặng bước vô cửa Thiêng-Liêng. Có hai điều tối trọng tối yếu của chúng ta là
nơi Ngọc-Hư-Cung và Cực-Lạc Thế-Giái, ngày giờ đó Bần-Đạo sẽ dắt các bạn đến
Cung Diêu-Trì, Bần-Đạo cũng nên chỉ rõ Đức Phật-Mẫu đến tại mặt thế gian này đã
tượng-trưng bên Ấn-Độ. Phật-Giáo Ấn-Độ gọi Ngài là Civa Phật, là cái hình ở
trên Bát-Quái-Đài chúng ta để trên nóc đó, thấy có "Tinh-Nhũ" nơi
ngực của Ngài đó.
Hồi buổi Chí-Tôn phân
định, phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái
"Linh-Pháp" của Ngài biến tướng ra Phật-Mẫu. Phật-Mẫu thuộc về Âm,
Chí-Tôn thuộc về Dương, Âm-Dương hiệp lại mới biến hóa Càn-Khôn Vũ-Trụ, sanh ra
vạn-vật.
Đức Civa Phật, Ấn-Độ làm
một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông. Bởi hồi đó con
người chưa phân rõ chắc-chắn Nam-Nữ (Âm-Dương). Đức Civa trong huyết-khí tức
nhiên là huyết, còn chơn-thần đào tạo chơn-thần là Đức Chí-Tôn. Đức Chí-Tôn là
Phật, Đức Phật-Mẫu là Pháp, Pháp mới sanh ra vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ, vạn vật
ấy là do nơi tinh mà ra, tức là Tăng.
Thần tức nhiên là Đức
Chí-Tôn, Thần phân định khí, khí mới sanh ra tinh. Phật là Chí Tôn, Pháp là
Civa tức Phật-Mẫu, Tăng là vật-loại trên Càn-Khôn Vũ-Trụ này.
Ấy vậy, Đạo-Phật thờ
Phật-Mẫu chớ không phải không biết, dầu không thờ mà Đức Phật-Mẫu vẫn ngồi từ
tạo-thiên lập-địa đến giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra Vạn-Linh đó vậy.
Phật-Mẫu là gì? mà không
biết, có con mắt mà không biết Phật-Mẫu là gì? Kỳ tới Bần-Đạo sẽ tự dẫn các bạn
vô Ngọc-Hư-Cung coi Cung ấy là Cung gì cho biết./.
* * *
21. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 12 tháng 01 năm Kỷ-Sửu (09-02-1949 )
ĐIỀU BÍ-MẬT:
MÌNH LÀM GÌ ? ĐƯƠNG LÀM GÌ ? VÀ PHẢI LÀM CÁI GÌ
?
SỰ LIÊN-HỆ GIỮA THIÊN-THẦN
& CON VẬT TRONG MỖI NGƯỜI.
Đêm nay chúng ta rủ nhau
dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Chúng ta đã làm người, mà làm
người thì đồng dung rủi trong con đường Đạo của Đức Chí-Tôn đến truyền-giáo nơi
mặt thế-gian này, chính ta đem lại điều bí-yếu hơn hết là cái chơn-linh cao
siêu Đạo-Giáo của Ngài.
Khi trước chúng ta đến
quan-sát các cơ-quan chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-trụ. Nơi Ngọc-Hư-Cung chúng ta
cũng nên hiểu mình là gì cái đã, giờ mình đương làm gì, đừng để có cơ-quan bất
ngờ như chúng ta đã gặp một trận thiệt-chiến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa.
Con người, Bần-Đạo đã
thuyết-minh cái triết-lý ấy có hai phần đặc-biệt:
1 - Chơn-linh tức nhiên
tinh-thần huyền-bí do Đức Chí-Tôn xuất hiện .
2 - Phần về hình, tức
nhiên xác do Đức Phật-Mẫu đào tạo, một phần hữu-hình một phần vô-hình, phần
vô-hình ấy chí-linh chí-thiện.
Phần hữu-hình nó vẫn là
cơ-quan riêng. Phần chí-linh ấy nó vẫn tăng tiến mãi mãi lên cho tới các vị
Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Xác thịt của chúng ta từ
trước, các Đạo-Giáo đã tỉ con người chẳng khác như một vị Thiên-Thần cỡi một
con vật.
Các nhà triết-lý từ
thượng-cổ đến giờ họ để ra không biết bao nhiêu thí-dụ về Đạo-Giáo cơ bí-mật
Thiêng-Liêng như Đạo-Giáo bên Pháp: "La Belle et la Peine" là Nàng
Tiên và con Thú.
Các Đạo-Giáo nơi nào cũng
vậy, đều phân biệt ra hai lý hiển nhiên. Tỷ như bên Á-Đông Phật-Giáo của chúng
ta đã ngó thấy Đức Văn-Thù Bồ-Tát cỡi con Bạch-Tượng, Đức Từ-Hàng Bồ-Tát tức
nhiên Đức Quan-Âm Bồ-Tát cỡi con Kim- Mao-Hẩu, Đức Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát cỡi
con Đề-Thính, như Bát-Tiên kỵ thú vân vân. Tỷ dụ về phần hồn, phần xác của loài
người đó vậy. Nói rõ hơn nữa chẳng khác nào như cơ-quan Tạo-Đoan nơi mặt thế
này, chúng ta ngó thấy hiển nhiên là cơ-quan vợ chồng, chúng ta ngó thấy chẳng
hề khi nào một người mà lập đặng hay làm đặng phải đồng-tâm, đồng-trí với nhau
mới đặng, nhứt là hai cái tâm hồn nó có đặc-biệt với nhau. Tuy vẫn liên-quan
mật thiết với nhau mặc dầu, hai tâm hồn chẳng buổi nào đồng thinh đồng âm-chất
với nhau.
Luật Tạo-Đoan cốt yếu buộc
loài người, phải để ý cho lắm thì mình tự tìm lấy mình, vì Luật Thiêng-Liêng ấy
buộc mình phải đi kiếm cái sống, đến tuổi cập-kê rồi mà không định đôi gả lứa,
thì dường như thiếu cái sống, con người thiếu cái sống là thiếu vợ chồng đó
vậy.
Luật Tạo-Đoan đã buộc mình
tự xử với nhau, người Nam với người Nữ mà tự xử với nhau, làm sao cho điều-hòa
thân ái, làm sao cho Luật Tạo-Đoan ấy được quân-bình nhau không chênh, không
lệch, đặng chi? Đặng cho biết trong thân-thể của chúng ta.
Thiên-Thần và Con Vật tức
nhiên họ có thể hòa với nhau, họ có phương thế, hai phương thế ấy hiệp với
nhau, đồng sống với nhau, đồng tăng tiến lên tới đồng phẩm-vị nguyên chất
Thiêng-Liêng của họ, tức nhiên Ngươn-Linh của họ vậy.
Cả thảy khuôn luật ấy để
cho chúng ta đặt trong tinh-thần một câu hỏi: Con vật với người có đồng-luật
với nhau chăng? Không, con vật nó có luật riêng của con vật, con người có luật
riêng của con người.
Ấy vậy trong thân-thể của
chúng ta, vật hình của chúng ta nó có khuôn-luật của vật hình. Còn về Luật
Thiêng-Liêng (*1) nó có Luật Thiêng-Liêng. Hai khuôn-luật ấy nó không có
tráo-trộn với nhau đặng, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mặt, con người của chúng
ta không đồng phẩm, không đồng tánh, không đồng chất.
Phương sống con vật không
đồng với chúng ta, chúng ta không thể gì đem cơm đưa cho con ngựa mà nó ăn,
chúng ta cũng không thể gì ăn cỏ được, chúng ta không thể gì bò xuống bốn cẳng
mà chạy cả ngàn dặm đặng.
Còn con ngựa không thể gì
ngồi đồng bàn như chúng ta đặng, một triết-lý nào mà thiên hạ đã vấn nạn về
tinh-thần thì con vật với con người không thể gì đồng phẩm vậy.
Con vật tức nhiên xác thịt
chúng ta đang mang đây, còn Ngươn-Linh tức nhiên là Linh-Hồn, hai cái không thể
gì đồng với nhau, hiệp với nhau đặng.
Hai mặt luật ấy vẫn
đặc-biệt với nhau không thể gì hiệp một. Nhưng điều mà thiên-hạ đã tỷ-thí nói
rằng: Ta đoạt Đạo đặng "Bạch Nhựt Chi Thăng" biến hóa vô cùng,
Mỵ-Thuật và Mỵ-Pháp không có, không có đâu, nếu có thì Đức Tam-Tạng khi đi
thỉnh kinh rồi không bỏ xác trôi giữa giòng sông.
Sống hay chăng? Đoạt đặng
cả cơ-quan bí-mật Thiêng-Liêng thì chẳng sống. Chúng ta không phải xác thịt mà
đoạt đặng, nó là con vật, nó phải tùng theo con vật, phải tùng theo luật
hữu-sanh hữu-loại của nó.
Đoạt chăng nơi cửa
Thiêng-Liêng Hằng-Sống tức nhiên là Đệ-Nhị xác thân của chúng ta, lời tục ở
ngoài gọi là Vía của chúng ta đó vậy.
Ấy vậy, nơi cửa
Ngọc-Hư-Cung là nơi cầm quyền chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, thì các phần hồn
của mặt luật nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ, về phần hồn nó không đồng với mặt luật nơi
thế-gian này. Hai mặt luật, hai nền chánh-trị khác nhau đặc-biệt, chúng ta
không thể gì tưởng-tượng hiệp một với cái kia, cho nên có nhiều cơ-quan trị
Càn-Khôn Vũ-Trụ khác hẳn với cơ-quan trị nơi thế-gian này, dầu rằng nó có
tương-liên mật-thiết hai nền chánh-trị, mà nó không tương-hiệp cùng nhau đặng.
Không có lấy hình-luật trị thế gian này đem trị phần hồn được, vì không giống
nhau.
Chúng ta phải biết chúng
ta đi tìm gì đây? Đi tìm cơ-quan nào làm cho chúng ta đoạt đặng ngôi-vị vô-hình
kia về phần Ngươn-Linh của chúng ta, đoạt phẩm-vị tối cao tối trọng là Phật-Vị.
Chúng ta làm phương thế nào đoạt cho đặng Thánh-Đức (*2) của Đức Chí-Tôn, là
Chúa. Chính Ngài là một vị Phật, một vị đã sản xuất ra Càn-Khôn Vũ-Trụ, sản
sanh các vị Phật nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ, chúng ta làm phương nào mà chúng ta
đoạt-vị đặng cũng như Ngài vậy.
Chẳng khác nào như cơ-quan
hữu-hình đứa con bao giờ cũng muốn làm, quyết làm sao cho giống tính chất Ông
Cha, Cha làm được cái gì thì con cũng cố làm được cái nấy, tánh đức thiên-nhiên
ấy không gì lạ hết. Các Chơn-Linh của loài người, bất kỳ một cá nhân nào,
Bần-Đạo đã thuyết-minh dầu cho họ phàm bao nhiêu thây kệ, họ chỉ muốn làm Trời
thôi, dầu cho họ hèn-hạ ra phàm-tục thế nào, mà nơi miệng họ bao giờ họ cũng
muốn làm Trời, vì tinh-thần họ ngưỡng-vọng đoạt phẩm-vị ấy, trong Càn-Khôn
Vũ-Trụ, chúng ta thấy giục-thúc thế nào, giục-thúc bỏ con vật đặng tạo ra
phẩm-vị Phật.
Bởi triết-lý trước mắt chúng
ta không thể gì chối cải được, chúng ta không thể gì lấy hèn-hạ mà sống được;
hèn-hạ là con vật, hèn-hạ là con thú, tức nhiên là xác thịt của chúng ta đó
vậy, nó giỏi ở chúng ta trong thời-gian mạnh-mẽ, rồi tới chừng bạc nhược
tiều-tụy ta phải bỏ nó cho nó chết.
Còn con ngựa chúng ta cỡi
nó là trong lúc nó còn tráng kiện, một ngày nào đó nó có thể dung rủi được
Thiên-Lý, tới chừng nó yếu tha già thảy bị hủy bỏ, thì nó phải chết. Không lẽ
chúng ta coi con vật hơn ta, thì chúng ta không thế coi xác-phàm này, con vật
này hơn Ngươn-Linh ta, không khi nào ta coi con vật hơn Ngươn-Linh ta đặng.
Vì lẽ ấy mà các nhà
trí-thức từ thượng-cổ đến giờ người rất cần-cù tìm-tàng nạo cả trí óc kiếm
nguyên do cái sống của mình, đối với Càn-Khôn Vũ-Trụ coi toàn cả trong ấy có gì
trọng-hệ mà phải tìm. Chúng ta ngó thấy tìm-tàng một điều là tại sao Ngươn-Linh
của họ phải ở trong một con vật? Về tâm-linh đến tánh-linh họ có đặc-biệt, bằng
chẳng vậy thì họ toàn là con vật bạc nhược, không bao giờ họ thắng nổi tức
nhiên họ phải tìm nguyên do nào mà sản-xuất.
Vì cớ mà chúng ta thấy
chẳng bao giờ loài người dám bỏ Đạo của mình. Họ là con vật, nếu họ bỏ Đạo tức
nhiên họ là con thú mà thôi, họ không bao giờ dám bỏ cái Đạo của họ.
Họ muốn tìm-tàng thế nào,
làm phương nào đem tâm-đức của họ lập giá-trị của họ. Lập giá-trị cho cái sống
của họ.
Ấy vậy kỳ này Bần-Đạo đã
mở màn bí-mật ra cho chúng ta thấy, coi chúng ta phải tìm cái gì? Rồi kỳ tới
Bần-Đạo sẽ dắt cả thảy tới Ngọc-Hư-Cung đặng quan-sát cái chánh-trị của
Càn-Khôn Vũ-Trụ cho tường-tận./.
* * *
22. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 18 tháng 01 năm Kỷ Sửu (15-02-1949)
TRIẾT-LÝ CỦA VĂN-MINH
Trước khi Bần-Đạo dắt cả
thảy con cái Đức Chí-Tôn tấn bước trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, nhứt
là vào Cung Ngọc-Hư; có một điều trọng-yếu nếu không thuyết minh ra, trước khi
vào nơi ấy chúng ta sẽ có nhiều điều khuyết-điểm. Toàn-thể con cái của Đức
Chí-Tôn không có quyền đoán, triết-lý cao siêu trọng-yếu tấn-triển của phần
hồn, nhứt là phương-pháp đoạt-vị của mình.
Còn một thuyết trọng-yếu
nơi mặt thế này, làm cho các Đẳng Chơn-Hồn quả kiếp biết bao nhiêu thống khổ,
nhứt là giục thúc chiến-đấu tấn triển từ thử đến giờ, đã gây biết bao nhiêu tội
tình.
Văn-Minh. Hôm nay Bần-Đạo
thuyết hai chữ Văn-Minh của thời-đại này, Văn-Minh là gì? Lấy theo chơn-tự
Việt-Ngữ tức nhiên Nho-Tông của chúng ta. Văn: nghĩa là những lời lẽ, hoặc là
văn-hóa hay văn-chương, những lời-lẽ mà chúng ta đã đoạt đặng của người khác,
hay của mình đặt ra. Minh: nghĩa là minh-bạch rõ-ràng, sáng-suốt, lời lẽ
minh-bạch rõ-ràng, đã giúp ta đoạt đặng những phương-pháp, để mà định quyết
tương-lai, hay là giữ tồn tại sự tiến triển trong kiếp sống của mình, hoặc là
chúng ta dùng phương-pháp về văn tự, để lưu truyền ngôn-ngữ của chúng ta, đặng
định một sự tấn triển của phương sống, hay phương-pháp sống của xã-hội, chúng
ta đã định, chúng ta đã đoạt được, tức nhiên sự tiến-hóa tồn tại, bảo thủ với
một phương-pháp văn-chương, đủ lẽ hay là giải-nghĩa bao quát của chữ Văn-Minh
là Civilization.
Chúng ta nên hiểu có ba
nghĩa Civilization, có thể tưởng rằng:
1 - Một là tổng-số của sự
tiến-triển về tâm-lý tức nhiên về chính lý, về khuôn khổ, về hình thức của sự
sinh-hoạt con người đã đoạt đặng, và lấy trí óc bảo thủ cho nó tấn triển thêm,
tấn triển cho mỹ-mãn hơn nữa.
2 - Thứ nhì là tổng-hợp
các sự tấn triển của xã-hội, một quốc-gia mà họ đã đoạt đặng, họ muốn bảo thủ
tồn tại, nhưng họ bị tư-tưởng mới mẻ hay là những điều mới mẻ do phương tiện
của sự sanh-hoạt mới mẻ sản-xuất, giục thúc họ, dường như muốn khám phá những cơ
nghiệp của họ, đào tạo về văn-hóa của họ, về phương diện hạnh-phúc cho họ.
Tư-tưởng mới mẻ ấy, có thể bỏ ra, nếu cả đại-nghiệp của họ được, họ tìm phương
bảo thủ cho còn tồn tại.
3 - Thứ ba là phương-pháp
của tinh-thần quyết thắng vật-chất, tức nhiên là những phương-pháp mà chúng ta
không thể đè nén cả tinh-thần về thể-chất của hình thú ta, với cái trí óc ta
vẫn biết Thiêng-Liêng do Thiên-Tánh, đặng làm cho người xứng đáng làm người,
không hạ mình xuống tánh chất con thú.
Với ba nghĩa lý ấy, nghĩa
lý nào chắc? Nếu nói ba thuyết ấy chắc cả thảy ba, thì chúng ta nên nhìn nhận
nghĩa lý sau chót hết là chánh đáng, tại sao? Mà không có thể tưởng tượng rằng:
Giúp cho loài người đến địa-điểm có thể tưởng là hạnh-phúc được. Con người bây
giờ có thể bay giữa không trung, như con chim kia là máy bay, có thể lặn xuống
biển được là nhờ máy móc, có thể không ở mặt đất mà lại ở trên mây, trên không
khí Thiêng-Liêng, nó không cần đi mà nó có thể chạy trên mặt đất, nó không cần
bay mà nó có thể ở giữa lưng trời được, nhưng chưa phải đó là hạnh-phúc; đó là
theo cái văn-minh mà thiên hạ tưởng-tượng, có thể đào tạo hạnh-phúc cho
nhơn-loại đặng, không phải theo ôm bó hay an ủi hoặc bợ đỡ đặng mảnh thi hài
đầy-đủ sung-sướng hạnh-phúc, hay nó giúp cho mảnh thi hài này tưởng-tượng mình
không còn một lực-lượng nào đối phó với mình, tưởng hạnh-phúc thực sự, nhưng
chưa phải là thật hạnh-phúc của họ vậy, hạnh-phúc thiệt không phải là phần xác,
hạnh-phúc thiệt của con người là phần hồn.
Chúng ta đã ngó thấy biết
bao nhiêu vị vương-Đế đã tạo giang-san sự nghiệp, từ thượng-cổ đến giờ ai không
tưởng đến: "Tứ Hải Vi Thiên Hạ Chi Giao", lấy hạnh-phúc của một Đấng
làm Chúa cả các dân-tộc khác, mà so sánh dám chắc nếu chúng ta dở lịch-sử ra
coi thì chúng ta để dấu hỏi mơ-hồ họ chưa có thể chắc hạnh-phúc được.
Trái lại chúng ta thấy một
tấn tuồng: "Hễ càng cao danh-vọng lại càng dày gian-nan". Nếu họ
không thỏa-mãn về tâm hồn thì không phải là hạnh-phúc. Dầu sang trọng, sung
sướng cách nào cũng chưa gọi là hạnh-phúc được, không phải tâm hồn thỏa-mãn thì
không phải là hạnh-phúc thật. Con người bao giờ cũng vậy, đi tìm hạnh-phúc chớ
không phải tìm ăn, tìm sống, nhờ sống cho họ sang cả vinh-hiển phủ-phê
thỏa-mãn, ấy là về phần xác của họ mà thôi. Dám chắc chúng ta đoạt được dầu
hạnh-phúc ấy hiện hữu chúng ta thấy một vật vi hậu, con người bao giờ cũng vậy,
thân-thể của họ sung sướng bao nhiêu đi nữa chỉ hai ba ngày đầu thôi, còn
thú-vị đến năm ba ngày sau họ nhảm-nhí. Hễ họ đoạt được hạnh-phúc về phần xác,
dầu cho họ đoạt được đến địa-vị bực nào đi nữa cũng không thỏa-mãn, cái
hạnh-phúc không phải do nơi xác thịt này mà sung sướng hay vinh-hiển.
Ấy vậy, văn-minh tạo
hạnh-phúc cho loài người về phần xác là đời, chẳng khác nào như ngọn cỏ đầu
sương, bất quá là lòe con mắt cho thiên-hạ mà thôi, chớ chưa thỏa-mãn. Họ tạo
dựng không phải tồn-tại, không phải vinh-hiển.
Cái thuyết của văn-minh là
cái phương-pháp giúp cho con người biết duy-chủ con vật của mình, mà điều-độ sự
sống còn tồn-tại nơi mặt thế này. Sống tạm tại mặt thế này làm cho họ thỏa-mãn đặng
điều-độ mảnh thi-hài, hay thể-chất này thôi, duy có tinh-thần đạo đức mới đặng.
Một lần nữa, giải thật
nghĩa hai chữ Văn-Minh: Văn là quyền hạn, Minh là sáng-sủa đạo-đức. Nếu
Văn-Minh mà thiệt-tướng được, là thực-hiện một nền Tôn-Giáo cao siêu tại mặt
thế-gian này mới thiệt hạnh-phúc. Về phương-pháp Đạo-Đức mới thật hạnh-phúc./.
* * *
23. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 26 tháng 01 năm Kỷ-Sửu (23-02-1949)
CON ĐƯỜNG DỤC TẤN (THIÊNG-LIÊNG HẰNG-SỐNG)
KHÔNG CÓ GIỚI HẠN
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp
dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Từ hôm nào tới nay đình-đãi đã
lâu, có nhiều điều thúc giục Bần-Đạo phải thuyết, thuyết cho gấp, thuyết đặng
cho biết, bởi vì thấy họ cuốn gói trở về nhiều lắm, Nam-Nữ cũng vậy, cần đi cho
hiểu cho quen đường về của họ.
Chúng ta dục-tấn từ
Diêu-Trì-Cung đến Ngọc-Hư-Cung, tức nhiên là Cung trị Càn-Khôn Vũ-Trụ đó vậy.
Cung trị thế không cần nói, chúng ta cũng choán biết rằng: Chúng ta đến một
Cung rất yếu trọng, chính nơi ấy là nơi cầm quyền điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Chắc mỗi người đều
tưởng-tượng, nếu cầm quyền điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải là một trường
Quan-Lại náo nhiệt lắm, vậy chắc ai nấy điều tưởng-tượng phải có một trường
Quan-Lại như mặt thế này.
Chúng ta tỷ-thí một
chánh-phủ, mà nơi nào đã lấy làm Kinh-Đô để cầm quyền trị một quốc-gia, thì
Kinh-Đô ấy bao giờ cũng náo nhiệt, Bần-Đạo xin nói hẳn rằng: Không có, không
phải như sự tưởng-tượng của chúng ta vậy đâu!
Bần-Đạo xin nhắc và giảng
từ bước, đặng cho con cái Đức Chí-Tôn dễ hiểu. Bần-Đạo ngó thấy chỉ thuật lại
xin cả thảy Nam-Nữ nhứt là mấy vị niên cao, kỷ trưởng, mấy vị Chức-Sắc
Thiên-Phong phải để ý lắm và nhớ.
Bần-Đạo sẽ thuyết cảnh
tượng ấy, cả thảy đều thấy hiện-tượng trước mặt.
Có một điều là từ giã Cung
Diêu-Trì dục-tấn tới nữa Bần-Đạo thú thật khó dụ họ đi lắm, phần nhiều về nơi
cảnh ấy họ hưởng được một hạnh-phúc vô đối, nhứt là các đẳng Chơn-Hồn đã chịu
thảm khổ một kiếp sanh, về cảnh ấy hưởng được hạnh-phúc vô biên vô đối, gần Bà
Mẹ yêu ái vô-lượng vô biên, biểu họ từ giả Bà Mẹ ấy mà đi thì không phải dễ.
Nhưng có một điều trọng-yếu hơn hết, lời tục-ngữ người ta thường có nói:
"Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với Mẹ biết ngày nào khôn". Phải
dục-tấn tới, thấy chán chường trước mắt mình, con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống,
đi mãi không ngừng, chúng ta đi, đi miết tới nữa để học hỏi thêm nữa.
Ngày giờ nào, thời buổi
nào, chúng ta có thể cầm nơi tay một quyền-năng vô tận như Đức Chí-Tôn, đặng
tạo ra một Càn-Khôn Vũ-Trụ khác, làm đại-nghiệp của mình. Vì vậy nên con đường
dục-tấn không có ngừng, không có giới hạn, vô lượng vô biên vô cùng tận, cũng
như Càn-Khôn Vũ-Trụ chúng ta thấy trước mặt chúng ta đó vậy.
Nếu chúng ta ngó thấy cây
phướn Diêu-Trì-Cung trước mặt chúng ta, chúng ta muốn tìm Cung Ngọc-Hư thì
chúng ta xây qua bên mặt, chúng ta ngó ngay Cung Ngọc-Hư, bên trái là
Diêu-Trì-Cung đó vậy.
Chúng ta đi hoài chẳng
phải chúng ta dục-tấn như buổi trước, bởi cảnh giới khác thường huyền-bí lạ
lùng. Chúng ta thấy muôn điều trước mặt chúng ta điều do Chơn-Thần xuất hiện,
Vạn-pháp thành hình không có điều gì chúng ta tưởng đến mà không có trước mặt.
Cảnh tượng ấy nên hình nên tướng với một cách huyền-bí vô biên vô tận, chúng ta
không thể gì tưởng tượng được.
Tỷ như con đường dục-tấn
ấy chúng ta muốn có một việc lạ lùng là nếu chúng ta muốn đi đến cho mau, thì
chúng ta đi như chớp nhoáng, muốn gì đặng nấy, tưởng thì nó hiện hình liền. Ấy
là một địa-giới vô tận vô biên không khi nào lấy trí khôn con người mà
tưởng-tượng được. Ôi còn khi bước theo con đường dục-tấn thì chúng ta không thể
tỏ bằng ngòi viết đặng, bởi cảnh trí khoái-lạc vô biên.
Chúng ta hưởng hạnh-phúc
nơi Cung Diêu-Trì một cách khoái lạc. Hạnh-phúc mà chúng ta hưởng được tưởng là
hết rồi, nhưng chúng ta dục-tấn tới chừng nào độ khoái-lạc ấy cứ đến với ta
mãi-mãi. Đi tới nữa, đi tới mãi, đi tới một mức khoái lạc hạnh-phúc về
tinh-thần, vô tận vô biên, hưởng hoài không khi nào hết.
Khoảng đường mà chúng ta
đi không có côi cúc, đi theo đường chúng ta gặp biết bao nhiêu người thân ái,
bạn tác mừng rỡ không biết bao nhiêu.
Nếu chúng ta thấy một cảnh
tượng của người nào lìa quê hương đi xa xứ, khi về gặp người chí chân của mình
thì sự mừng rỡ của họ thế nào, chẳng cần tả ra cả thảy đều biết. Tưởng-tượng
coi chúng ta gặp những người trên con đường dục-tấn là những người bạn thân
yêu, tình nồng-nàn ấy không biết bao nhiêu. Muôn kiếp mới tạo được khối tình ái
ấy, mỗi người chúng ta đều thấy trong thân-tộc của chúng ta, họ hiện-tượng
không biết mấy muôn, mấy ngàn kiếp, chung chịu, chung đứng, chung đi với nhau
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, hạnh-phúc vô cùng, không thể gì tả ra
bằng ngôn-ngữ đặng.
Bần-Đạo dám bảo-kê rằng:
"Nơi cảnh ấy chưa có buổi nào huyên náo hay có tiếng nào buồn". Không
có buồn, không có biết đau thảm, chúng ta đi miết tới, vui mà đi. Đến trước mặt
chúng ta thoạt nhiên có một thế-giái vô cùng tận, đẹp-đẽ lầu đài nguy-nga chớn
chở, chúng ta tưởng-tượng rất huyền-diệu. Lầu đài ấy chúng ta ngó thấy một màu
với nhau chỉ có một vật tạo thành mà thôi, vật đó dường như pha lê vậy, như
kiếng, ngà ngà đục đục, màu thì trong, hào-quang chiếu diệu. Một cảnh Trời
hào-quang chiếu diệu ra muôn đạo, vì tướng của nó tạo thành hình của nó.
Vì vậy mà các Trang đoạt
Đạo khi xưa, đi về tới cảnh đó là nơi Ngọc-Hư-Cung, một địa giới huyền-bí làm
sao! Không thể gì minh-tả ra đặng, huyền-bí về tinh-thần của chúng ta, vì nó do
tinh-thần của chúng ta biến tượng, ta thấy hình-trạng nó vuông vức, chúng ta
tưởng-tượng mà ra đó vậy. Chúng ta tưởng-tượng hình-trạng thế nào, thì nó ra
thế ấy. Nếu vị kiến-trúc-sư nào, hay một ông kỹ-sư nào ngó thấy nó, đều muốn bỏ
nghề hết bởi không thể gì làm được. Tôi sợ e cho họ ngó rồi chẳng phải bỏ nghề
mà thôi, họ còn ngơ-ngơ, ngẩn ngẩn, như điên mà chớ, bởi đã hao tâm mà làm
không đặng.
Chúng ta đến nơi ấy, chúng
ta thấy thi-hài của mình biến-tướng y như hình-ảnh của khuôn-khổ trong
địa-giới, hình chúng ta biến một màu một sắc, hễ nó biến theo được mới nhập
cảnh ấy được, nếu biến theo không được, thì chúng ta bị đuổi ra, ấy là
Pháp-Thân của chúng ta nó phải nhập cảnh giới ấy, nên câu kinh: "Rấp nhập
cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống là vậy đó". Khi vô đặng rồi, tưởng đâu
thiên-hạ náo nhiệt, trùng-trùng điệp điệp lạ thường lắm, không có đâu. Chúng ta
chỉ thấy Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta đang tiếp đón mừng rỡ. Ô!!! Nơi
hội-hiệp các người thân-nhân của chúng ta, từ buổi chúng ta đoạt đặng địa-vị
Tiểu-Hồi, lên tới phẩm Đại-Hồi, từ trong địa-vị Đại-Hồi ấy, mà chuyển-kiếp đoạt
đến địa-vị Thần,Thánh,Tiên, Phật cả ngàn muôn triệu kiếp sanh.
Các bạn, các Tông-Đường,
các Gia-Tộc chúng ta, chúng ta thấy muôn-muôn, trùng-trùng, điệp-điệp, không có
định số được. Khi họ đến mừng, họ dẫn chúng ta đến một Cung họ dặn rằng: Nơi
đây không đặng nói tiếng, chỉ tưởng mà thôi, hễ tưởng là như nói vậy. Tỷ dụ
như: Tôi tưởng tôi muốn gặp anh tôi, thì tức nhiên cái tưởng ấy thành tiếng
nói, mà lại có người anh đứng trước mặt liền. Cung ấy không có dùng lời nói,
duy có tưởng mà thế cho ngôn-ngữ. Người ta dặn đừng tưởng Thần, Thánh, Tiên,
Phật, bởi các Đấng ấy ở cảnh đó không có. Sở dĩ mà có, là tại mặt địa-cầu 68
này ta đặt ra, chớ nơi Ngọc-Hư-Cung không có, những danh-từ Thần, Thánh, Tiên,
Phật chỉ dùng nơi trái địa-cầu 68 này mà thôi.
Chúng ta biết rằng:
Đẳng-vị Thiêng-Liêng của các Chơn-Hồn không có phẩm-trật, chúng ta định nên có
ngôi-vị, chỉ có ngôi vị tại mặt địa-cầu 68 này mà thôi. Chúng ta đã ngó thấy
nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này tinh-thần mỗi cá-nhân đều khác, hai ngàn bảy trăm
triệu (2.700 triệu) chơn-linh nơi mặt địa-cầu này, thì hai ngàn bảy trăm triệu
người không đồng phẩm chất, không đồng tánh chất, không đồng chơn-thần với
nhau, cho nên không có khi nào mà hai người giống nhau, chưa có một chơn-thần
nào giống nhau, thì cái thiên-vị kia nó không định giá được. Mỗi người đều có
một phẩm-vị đặc-biệt của mình, mỗi kiếp sanh đều tấn, khi tấn tới có một sở
định địa-vị của mình, mỗi một bước là một đẳng-cấp, đẳng-cấp định giai-cấp của
mình, giai-cấp không phải giống nhau như ở thế-gian này. Bởi địa-vị không giống
nhau, phẩm-vị chỗ nào thì đứng chỗ nấy, không ai xô đuổi không ai giành-giựt
được, từ chối gì cũng không được, bởi không có danh-từ, mà danh-từ dường như để
sẵn, bởi có địa-vị sẵn. Đức Chí-Tôn đã nói: "Đại-nghiệp của mỗi đứa Thầy
có sắm sẵn cho đó".
Bây giờ nói về tánh-chất tôn-ti của mình,
hằng-phẩm của mình đã không có, biết lấy chi mà định lấy nó, lấy gia-tộc của
mình?
Bần-Đạo ngó thấy gia-tộc của các Đấng có mặt
tại thế-gian này, thế-giới nghiệt oan của chúng ta, tức nhiên có năm trái
địa-cầu có nhơn-loại ở, tức nhiên có tên của kẻ đoạt Đạo được là: Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ. Ngoài ra nữa chúng ta ngó thấy đại gia-đình của Đức Phật
Thích-Ca, đại gia-đình của Đức Lão-Tử, đại gia-đình của Đức Khổng-Phu-Tử, đại
gia đình của Mahomet, đại gia-đình của Jésus-Christ, đại gia-đình vinh-hiển hơn hết là đại
gia-đình của Quan-Âm-Bồ-Tát, tức
nhiên Từ-Hàng-Bồ-Tát vinh-hiển hơn hết là gia-đình ấy.
Ấy vậy gia-đình nào thì có phần trong gia-đình
ấy, xây chuyển họ có tương-thân với nhau một cách mật-thiết, như một
chơn-linh Kim-Thanh-Quan xuống thế này, có lẽ đầu-kiếp trong gia-đình của Từ-Hàng-Bồ-Tát, hay là của Khổng-Phu-Tử,
hay là của Mahomet, hay là của Phật Thích-Ca, cho nên các chơn-linh ấy họ đã liên-quan mật thiết; vì lẽ ấy cho nên
Càn-Khôn Vũ-Trụ có tên mình, dầu mà chúng ta muốn biết số trái địa-cầu thì
chúng ta không thể gì biết được, chỉ có năm trái của chúng ta ở thì chúng ta
biết mà thôi, chúng ta không biết cho hết. Còn ba ngàn (3.000) thế-giái kia với
mười
một (11) thế giái ở sau, giữa mấy trái địa-cầu kia, chúng ta không thể gì đoán được. Có nhiều khi thấy các Đấng
lâm-phàm, hỏi ra dường như tinh-thần của chúng ta biết hết, cũng như có nhiều người bên Tây,
bên Pháp mà họ biết nơi xứ Việt-Nam vậy. Nói dường như họ nói trên cung trăng,
nhưng thật ra họ thấu-đáo cả chơn-tướng nơi mặt địa-cầu này, họ biết huyền-linh
của họ, họ biết tài phép vô-biên của họ. Nói về kiếp-sống của chúng ta, không
phải hành-hạ nó, nhưng phải tập nó hành nó. Nếu khi về được rồi thân-nhân của
chúng ta dắt chúng ta đến một Cung có một quyển sách Thiên-Thơ để trước mặt ta,
dỡ ra xem thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì thì trong quyển
Thiên-Thơ ấy nó hiện-tượng ra hết. Chúng ta tự xử chúng ta, mình làm tòa để xử
cho mình, hoặc mình phải đầu kiếp hay là đoạt đến địa-vị nào, mình đứng đến mức
nào, thì cũng do mình định-đoạt lấy.
Vị Chưởng-Quản nơi Cung ấy
theo tiếng phàm của chúng ta đặt tên là Nam-Tào Bắc-Đẩu. Nơi Nam-Tào Bắc-Đẩu
không có ai trị hết, chính ta trị ta; không có ai định kiếp cho ta, chính ta
định kiếp cho ta; chưa có ai phân tội phước cho ta, chính ta định tội phước cho
ta, mạng căn kiếp số ta, ta định, không có một hình-luật nào buộc được chúng
ta, chúng ta có quyền tự-do, quyền sở-hữu định mạng căn cho ta vậy./.
24.- Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 30 tháng 01 năm Kỷ Sửu (27-02-1949)
TỘI-LỖI CHÚNG TA DO TAY CHƠN-THẦN CHÚNG TA
GHI CHÉP NÊN KHÔNG CÓ CÁCH GÌ CHỐI TỘI
Bần-Đạo hôm nay giảng tiếp
dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Khi trước Bần-Đạo đã dắt
cả toàn con cái của Đức Chí-Tôn vào Ngọc-Hư-Cung, Bần-Đạo đã cho họ ngó thấy
trong Cung ấy để ghi chép cả quả kiếp của loài người.
Bần-Đạo hôm nay giảng thêm
cho rành bởi gì cả cơ-quan chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ là vĩ-đại lắm.
Chúng ta tưởng-tượng lại
coi Ba Ngàn Thế-Giái, Tứ-Đại Bộ-Châu, Thất-Thập Nhị-Địa, tưởng-tượng lụng lại
coi, bảy mươi hai trái địa-cầu ở trước hơn hết, cảnh đọa Ngươn-Linh của chúng
ta, mười hai thế-giái. Trong 12 thế-giái của 72 trái địa-cầu, trái địa cầu nhỏ
chót hơn hết của thế-giái đương nhiên chúng ta xuống, đấy là thế-giới nghiệt
oan. Có 5 trái địa-cầu có nhơn-loại ở.
Chúng ta đây thuộc về trái
địa-cầu 68, chúng ta thử nghĩ nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này, hơn hai ngàn bảy
trăm triệu nhơn-sanh, chúng ta thử nghĩ trái địa-cầu này, có gần một trăm mấy
chục lần lớn hơn trái địa-cầu 68 này, như vậy chúng ta tưởng-tượng xem có bao
nhiêu nhơn-loại ở trên mặt Càn-Khôn Vũ-Trụ vĩ-đại này? Nếu chúng ta tưởng-tượng
nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, kể sanh mạng mỗi người không sót, chẳng phải để
chúng ta nghĩ lại coi, họ lấy quyền-năng nào mà cầm quyền chánh-trị vĩ-đại ấy
đặng? Chúng ta nên tìm hiểu với huyền-vi bí-mật ấy ở đâu? Chúng ta nên kiếm coi
ở chỗ nào? Cơ-quan trị thế phải thế nào? Sửa chữa nó lại, cho nó phù hạp với
cơ-quan chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, chừng ấy thiên-hạ mới được thái-bình,
tinh-thần thế nào, hình-thể cũng vậy, không chi lạ. Cả nhơn-loại chưa đoạt-phép,
chưa cầm được huyền-vi bí-mật, cho nên nhơn-loại còn loạn-lạc, có lẽ vì cớ ấy!
Chúng ta đã ngó thấy, cái án kia chúng ta không thể chối, cái hình-phạt dành
cho chúng ta, chúng ta không thể tránh đặng.
Cầm quyền rồi thì không có
cái gì quá đáng, bởi tại làm sao? Tại cơ-quan của người ta nắm Bí-Pháp của
người ta, quyền-năng vô tận vô biên, nắm giữ cả Càn-Khôn Vũ-Trụ, cái án, cái
tội vô hình, chính nó đã có nơi pháp-thân của loài người, tức nhiên nó ở trong
tay của Chơn-Thần chúng ta ghi chép, nếu chúng ta muốn chối tội thì chối sao
đặng, chính Chơn-Thần ta định cho ta. Các tội-tình đều đưa ra trước mặt, từ
Tiểu-Hồi tức nhiên là giác-hồn, sanh tử biết bao nhiêu kiếp sanh, mới đoạt đến
Đại-Hồi. Cả cái sanh-hoạt, cả cái liên quan, cả cái căn bản, cả cái quả kiếp
bất kỳ cái gì thì trong quyển Vô-Tự-Kinh đều có ghi ghép. Chính ta định cho ta,
mà chối sao được, dầu muốn chối cũng không chối đặng. Chính Chơn-Thần ta
định-án cho ta chớ không phải ai định-án cho ta, sợ hay chăng là điều đó vậy.
Ông Tòa ở thế-gian này khi
định-án còn có Trạng-Sư để bào chữa, còn nơi đó không có Trạng-Sư để bào chữa
cho ta, chính ta định-án cho ta, cái bí-mật vô-đối cầm quyền cả Càn-Khôn Vũ-Trụ
là như vậy. Người ta để cho mình làm tòa xử lấy mình thì còn ai binh cho mình
nữa. Không thể gì mình chối cãi tội, cãi án của mình đặng, vì chính mình định
cho mình, nếu cãi đặng là qua Chơn-Thần sao? Không chối cãi gì được hết cả.
Ấy vậy trong các chơn-hồn
có chia ra hai phần, hai hạng:
1 - Hạng vì quả kiếp, đến
trả tội cho mình, chúng ta nên đặt tên cho các đẳng Linh-Hồn ấy là: Kẻ tội nhơn
đến để trả tội.
2 - Hạng nữa là hạng
du-học, đến để lập-vị cho mình.
Chúng ta ngó thấy một tấn
tuồng quan lại, chúng ta nghĩ lấy làm ngộ-nghĩnh, nếu chúng ta chịu tội tình
một mình ta, thì không lấy làm đau-đớn gì mấy. Ngặt một nỗi, phép huyền-vi
vô-đối của Càn-Khôn Vũ-Trụ, buộc cả Tông-Đường, Tổ-Tông từ trước phải chịu cho
ta, làm chứng cho ta, có đau-đớn chăng là vậy đó.
Một linh-hồn chịu quả kiếp
nơi cảnh trần lúc trở về Ngọc-Hư-Cung, thì cả thảy Tông-Đường họ đều có mặt tại
Ngọc-Hư-Cung để đón tiếp, quan-sát coi con đường mình đã đi qua, quả kiếp đã đi
qua, quả kiếp có điều chi sửa đổi hay chăng? Có làm chi tội tình nữa hay chăng?
Thay vì quả kiếp mình đi trong con đường Chí-Thiện, đoạt được Bí-Pháp Chí-Linh.
Còn một vài chơn-linh đi ngược lụng lại thú hình gây thêm tội ác, mình thấy vì
mình mà cả Tông-Đường đều chịu tội nên đau-đớn vô cùng.
Chúng ta phải biết các
Đấng nhập vào Ngọc-Hư-Cung, tức nhiên các Đẳng Linh-Hồn ấy đã đoạt kiếp được.
Có những kẻ đến thế nhập vào pháp-thân mà họ đã tạo căn quả, thì cả Tông-Đường
họ khổ não lắm.
Bần-Đạo nói Tông-Đường
Thiêng-Liêng thường ở tại Ngọc-Hư-Cung, cao trọng hơn hết là Tông-Đường của
Quan-Âm Bồ-Tát tức nhiên Từ-Hàng Bồ-Tát. Tông-Đường cao trọng thứ nhì là
Tông-Đường của Địa-Tạng-Vương-Bồ-Tát, Tông-Đường thứ ba là Đức Di-Lạc, ba
Tông-Đường cao trọng hơn hết, còn nhiều Tông-Đường khác nữa. Mỗi người đều có
Tông-Đường đặng ngồi ở đây là chờ ta.
Cả thảy đều do nơi quả
kiếp mà đày xuống thế-gian để trả quả kiếp, trả hình-phạt. Một trường thảm não,
nếu chúng ta gây thêm tội ác, thay vì đi trong con đường chí-thiện đặng lập
thiên-vị cho mình.
Còn một hạng gọi là hạng
du-học, đến để lập-vị mình. Hạng này không sao hết, bởi Tông-Đường họ nhứt định
cho họ đi học.
Chúng ta ngó thấy con của
một người thượng-lưu kia cho con đi học: Học để khôn, học cho hay, học cho
giỏi. Nếu thi được giỏi thì mừng lắm, nếu học dỡ thì cũng vậy. Chúng ta thấy
đứa con đi học bên Pháp, không có học, đến cuối tháng bên Pháp gởi Total de note
về thấy điểm sức học của con dỡ, nó dỡ về Moral, về Géographie, về Leçon de
chose thì cười, bất quá nói thằng biếng học vậy thôi. Viết thơ biểu nó rán học
thêm mấy Matière đó nữa, chưa khá mấy, hạng bình thường. Các bạn ấy họ đến giữ
Đạo của họ lắm, mật thiết không có đê hèn. Họ không muốn đến, mà nếu họ đến thì
cao sang lắm, chẳng hề khi nào họ hạ mình xuống làm tội nhơ-nhớp.
Chúng ta đã ngó thấy
Càn-Khôn Vũ-Trụ, nắm quyền-lực làm cho chúng ta sợ hơn hết là làm cho
Tông-Đường ta phải chịu khổ, trước cái thương của Tông-Đường ta, ấy là cái hình
phạt vĩ đại ở cảnh Thiêng-Liêng, đến khi mãn kiếp trở về đoạt được cái thương
hay là cái khổ của Tông-Đường thì mình đau khổ vô cùng. Hình phạt ấy vĩ-đại lắm
nên các Chơn-Hồn đều sợ-sệt hơn hết.
Tại sao Đức Chí-Tôn đến
Ngài trụ cả con cái của Ngài đặng lập Thánh-Thể hữu hình này, tại sao vậy? Bởi
vì hễ tạo được mặt luật hữu-vi này thì cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn
đoạt-pháp đặng. Một ngày kia đoạt-vị trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, chưa có
hạnh-phúc nào dưới thế-gian này bằng hạnh-phúc trên cảnh Thiêng-Liêng. Chúng ta
hưởng được hạnh-phúc thiệt hay chăng là do nơi đó.
Thánh-Thể Đức Chí-Tôn là
gì? Là một quyền quản-trị cả luật yêu-ái của Đức Chí-Tôn làm một khối, khối ấy
dành để trong tâm não của Ngài. Mỗi phần-tử luân-hồi là mỗi phần tử của Đức
Chí-Tôn gieo trong cả hình-luật thương yêu ấy trong tâm não tinh-thần của mỗi
người.
Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn
đã tạo Thánh-Thể của Ngài với một cái tình yêu ái, Ngài nói: Các con đã hưởng
được cái quyền yêu ái vô tận, các con nên lấy tình yêu ái truyền cho các em con
thế-kỷ này qua thế-kỷ khác.
Một hình-phạt đương nhiên
nơi cửa đọa này chúng ta sợ hơn hết là hình-phạt trục-xuất. Trục-xuất là gì? Là
đuổi ra khỏi cái đại gia-đình, Đại Tông-Đường của Đức Chí-Tôn đến đào tạo cho
chúng ta. Một hình-luật tại mặt thế này đặng cho chúng ta không ra khỏi các
Tông-Đường ấy, cốt yếu là vậy, sợ hay chăng là cái đó, án trục-xuất là vậy đó.
Người nào bị trục-xuất là
bị đại gia-đình mình trừ bỏ, mà từ bỏ rồi thì thân mình là con vật không phải
tìm hạnh-phúc riêng một mình được, vì hình-luật nó biểu nó, phải già rồi nó
phải chết, nó không còn sống.
Cái quyền của Hội-Thánh
trục-xuất chẳng khác nào bị đuổi ra khỏi Đại Tông-Đường của Đức Chí-Tôn đến tạo
dựng, bị đuổi ở dưới này ở trên kia cũng vậy, đuổi phần xác thì phần hồn cũng
bị đuổi vậy.
Ngày mình không còn ở
trong Tông-Đường của Đức Chí-Tôn là ngày mình bị nhục, tưởng sống mà thân mình
trả đặng nợ hay chưa cũng không đáng sợ, trong Tông-Đường của mình bị nhục mới
đáng sợ./.
* * *
25. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 4 tháng 2 năm Kỷ-sửu (03-03-1949 )
CUNG PHỤC-LINH:
TÔNG-ĐƯỜNG THIÊNG-LIÊNG CỦA MỖI NGƯỜI
Trước khi giảng dục-tấn
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, Bần-Đạo có nhiều điều khuyên nhủ về
phương-pháp thuyết-pháp, thuyết-pháp tức nhiên là thuyết Đạo.
Trót gần hai năm trường,
cũng gần 2 năm Bần-Đạo đã tìm phương thế cho toàn cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn
thuyết-giáo, có điều trọng-yếu về phổ-tế nhơn-sanh, cả thảy đều biết, nhờ cái
thuyết-pháp mà chơn-truyền nó hiện-tượng, trọng-yếu của chơn-truyền Đức Chí-Tôn
là vậy.
Một điều mình đã để tâm về
thuyết-pháp, tức nhiên mình cần có mục-phiêu để cho tinh thần cả toàn thính-giả
chú ý vào đây, tức nhiên cầm cây phướn Thần cho chúng ta trụ lụng lại triết-lý
thuyết-pháp của mình.
Bần-Đạo thấy có một điều
nên sửa chữa, có người lên nói một đề Nam, tới chừng thuyết đi qua đề Bắc,
không nhằm đề gì hết, chẳng khác nào Bần-Đạo nói tôi tính đi Sài-Gòn thì
thiên-hạ đều ngó về hướng Sài-Gòn, tới chừng đi thì đi lên mé Nam-Vang thành ra
không ai hiểu gì hết, nên thuyết-pháp trọn bài nghe mà không biết gì hết.
Thuyết-pháp tức nhiên có niêm-luật của phương thuyết-pháp, phải có niêm-luật
chớ không phải muốn nói gì thì nói. Bài thuyết-pháp nó giống như bài thi vậy,
nó phải có đề, có niêm-luật, có bình trắc, có thừa khóa, có trạng luận, thúc
kết, phải giữ cho ăn với cái niêm-luật của thuyết-pháp mới đặng.
Đức Chí-Tôn dạy niêm-luật
thuyết-pháp một cách kỹ-lưỡng, Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo có tập hai ba tháng
vậy. Hễ Cao-Thượng-Phẩm lên đài thuyết thì Bần-Đạo làm thính-giả ngồi nghe. Cần
phải tập, không tập không thể gì làm được, không thể gì không tùng theo
niêm-luật của Đường-Thi vậy, không thể gì nói càn đặng. Ngoài ra niêm-luật ấy
nó còn Phù, Tỷ, Hứng, Thú nữa, phải học cho thuộc lòng. Bài văn hay ho là mình
thuyết văn có mực thước, có phù ba có văn chương, có tài khẩu-thuyết mới được,
không có khuẩn bức túng thiếu trong lời nói ngôn-ngữ của mình. TỲ - là lên đó
mình phải "Quan tiền vũ hậu" lấy kim suy cổ, suy tầm những lý lẽ cho
cao sâu. HỨNG - là mình lên đứng nhập vào cảnh tượng nào, thấy hiện-tượng ở
thế-gian, phải cho ăn nhập vào cảnh tượng đó trong khuôn khổ đương nhiên cả
toàn hình-thể hiện tại Đạo với Đời có liên-quan trọng-hệ mật thiết. Bài thuyết
Đạo của mình hay ho có lẽ hứng lấy tinh-thần đương nhiên, đem ra tùy theo mình
thuyết-pháp, mình phải giải-thích cho thính-giả thấu đáo.
Bây giờ muốn thuyết-pháp
cho trúng và có đề hẳn-hòi thì phải có KINH, ĐIỂN, LUẬT. Kinh là Tứ-Kinh, Điển
là Ngũ-Truyện; Luật là cả luật trị-thế từ cổ chí kim, đem ra làm cái niêm luật
đặng tạo bài thuyết-pháp của mình, phải có niêm luật của mình, mình phải rán
học, cần mẫn học, ấy là một điều chẳng phải dễ, nhưng phải làm cho đặng thay
thế ngôn-ngữ cho Đức Chí-Tôn, đem chơn truyền của Ngài để vào tinh-thần của
nhơn-loại, nếu mình làm không đặng cũng như mình làm cho Đức Chí-Tôn câm sao!
Mình phải làm đặng thay thế ngôn-ngữ cho Ngài, nếu mình làm không đặng thì thay
thế cho Ngài không đặng!
Từ đây về sau Bần-Đạo siết
chặt lại là ngồi nghe, hễ còn nói bậy nữa Bần-Đạo sẽ phạt nặng đa nghe, đã gần
2 năm rồi không dung thứ nữa được. Bần-Đạo cho hay trước có bị phạt đừng than
đừng trách, nói khó khăn gì hết, đã cho hay trước rồi mới làm.
Bây giờ cả Tông-Đường của
chúng ta (Bần-Đạo nói đây là Tông-Đường Thiêng-Liêng đa), anh em chúng ta dắt
chúng ta qua Cung gọi là Cung Phục-Linh. Các bạn phải biết muôn trùng thiên-hạ
vạn điệp chơn-linh, nếu như ở thế-gian này dùng ngôn-ngữ mà thông công cùng
nhau, tưởng sự náo nhiệt dữ tợn lắm, nhưng không cần, nền chánh-trị phi thường,
Bần-Đạo sẽ tiếp giảng tới cả thảy sẽ thấy một nền chánh-trị lạ lùng không thể
gì tưởng-tượng được.
Ngôn-ngữ nơi cảnh ấy duy
có tưởng mà đặng thông-công cùng nhau mà thôi, tưởng cái gì có cái nấy. Giả tỷ,
Bần-Đạo muốn đi đến chỗ đó, người ta cũng đều hiểu rằng Bần-Đạo muốn đi đến chỗ
đó. Các chơn-linh khác cũng tưởng mà nói chuyện với nhau, duy có cái tư-tưởng
mà thôi chớ không có ngôn-ngữ. Chúng ta gặp biết bao nhiêu chơn linh quen thuộc
thân mến yêu ái với chúng ta, cửa ấy chẳng buổi nào gặp một kẻ ghét hay kẻ nào
không có thâm tình với chúng ta, có một điều các anh các chị nhớ nghe, nhớ cho
lung.
Bần-Đạo sẽ giảng có
ảnh-hưởng với kiếp sanh khi chúng ta chưa vô cửa, thì những anh em trong
Tông-Đường ta có dặn trước khi vô cửa đừng có sợ-sệt gì hết, phải bình-tĩnh. Có
điều chi thay đổi đừng sợ-sệt nao núng. Có dặn trước mà khi vô dường như mất
thần, mất trí, hết thảy mê-muội, tưởng như không có ở trong cảnh ấy làm như thể
chúng ta ám muội không biết đó là gì? Không biết đó là ở đâu? Không biết gì
hết. Tới chừng tỉnh thấy một vị Phật Cầm cây Kiêm-Câu đứng trước mặt chúng ta
và thấy Hộ-Pháp đang đứng bắt ấn giữ linh-hồn chúng ta lại. Vị Phật ấy không ai
xa lạ hơn chính là Phục-Linh Tánh-Phật đó vậy. Cầm cây Kiêm-Câu quơ một cái thì
chúng ta tỉnh lại một kiếp sanh, tới chừng sống lụng lại thấy trong kiếp sống
trước nữa. Hễ mỗi lần quơ thì chúng ta thấy mỗi kiếp sanh, chúng ta sống lụng
lại trong cả kiếp sống của chúng ta, chúng ta đi thối lại từ mức Đại-Hồi cho
tới Tiểu-Hồi, qua cho tới vật-loại, bởi chúng ta cả thảy đều là Hóa-nhân, không
ai ở mặt địa-cầu này là Nguyên-nhân cả. Nguyên-nhân chúng ta đã đoạt được trong
lần thứ ba là Đệ-Tam Chuyển, còn bao nhiêu đều là Hóa-nhân, cả thảy đều ở trong
vật-loại mà đoạt kiếp cả.
Bần-Đạo chỉ một điều là Đức
Di-Lạc Vương-Phật đương cầm quyền Càn-Khôn Vũ-Trụ bây giờ, hồi Thất-Chuyển mặt
địa-cầu này nó chưa thoát xác của nó. Kỳ phán-xét chót hết Đức Di-Lạc còn là
con Dã-Nhơn (Con khỉ), con khỉ ở làm đầy tớ cho Đức Phật Thích-Ca. Đức Phật
Thích-Ca buổi ấy là anh thôn quê dân da đen (Hắc-Chủng) như mọi vậy thôi. Ba
chuyển tới là Đệ Tam-Chuyển, Trung-Ngươn Đệ Tam-Chuyển thì Đức Phật Thích-Ca
đoạt tới Boudhisava, sau Đức Thích-Ca được vào hàng Phật tức nhiên là Boudha.
Đức Di-Lạc-Vương sửa soạn
vào hàng Phật kỳ này. Ngài cầm quyền nữa Ngài đặng vào hàng Phật, nếu Bần-Đạo
nói Đức Thích-Ca đến thế này, đến trái địa-cầu 68 này, hồi lúc nó chưa thoát
xác của nó thì Đức Phật Thích-Ca đem hình-ảnh Ngài thay lần. Nên tổng-số kiếp
sanh của Ngài nơi mặt địa-cầu này lối chừng một ngàn năm trăm triệu năm chớ
không có bao nhiêu đâu.
Chúng ta đi vô Cung
Phục-Linh chúng ta phải đi ngược lụng lại, đi trở lại xuống tới vật loại. Tới
chừng nhập vô Ngươn-Linh, chúng ta dường như Ngươn-Linh của ta sống cảnh cũng
như vật-loại vậy.
Lát nữa Bần-Đạo sẽ dắt vô
trong Ngọc-Hư mà các Đấng đương thông công với chúng ta, Đấng ấy đương ngự tại
Huỳnh-Kim-Khuyết là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, hay là Đại-Thiên-Tôn. Ngài có hai
chức: Ngọc-Hoàng Thượng-Đế cũng là Ngài, mà Đại-Thiên-Tôn cũng là Ngài.
Nói lụng lại, tới chừng ta
Phục-Linh, chúng ta đoạt được rồi, chúng ta thấy cả Càn-Khôn Vũ-Trụ là bạn, là
tình với chúng ta. Các chơn-linh rần-rần, rộ-rộ trước mặt chúng ta nhưng không
có ai lạ hết bởi vì nó có một đức, một căn-bản. Bí-mật là vậy đó.
Bần-Đạo giảng tới vô Cung
Phục-Linh thì mình mất cả tinh-thần hết, chúng ta thấy đã đi gần mút con đường
sơ sanh. Buổi mới sanh chúng ta không biết gì. Kiếp sống bị một lần mê-muội,
tới chừng chết chúng ta cũng bị một lần mê-muội nữa, mê-muội rồi mới sống lại.
Huyền-vi bí-mật là ở chỗ đó vậy, nếu không mê thì chúng ta biết được kiếp trước
của chúng ta hết. Buổi mình định thần lại thì mới biết, thiên-hạ kêu bằng ăn
cháo lú mới mê muội. Vô Cung Phục-Linh nếu chúng ta không mê thì chúng ta biết
được kiếp sống, nhớ thì sống không đặng phải chết, bí-mật là chỗ đó. Ngày giờ
chúng ta phục tánh chúng ta lại được, chúng ta thấy Đấng Tạo-Đoan tạo Càn-Khôn
Vũ-Trụ là Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế tức là Đại Thiên-Tôn đương ngự nơi
Ngọc-Hư-Cung, dường như rủ chúng ta phải qua chỗ đó, qua đặng hiệp mặt cùng
Đấng ấy, phải qua cho thấy Đấng ấy. Dầu cho Tông- Đường chúng ta hay bạn tác
chúng ta giờ phút đó có nắm chúng ta biểu đừng đi, nhưng Chơn-Linh của chúng ta
cũng đi qua Ngọc-Hư-Cung.
Bây giờ đến Cung Ngọc-Hư
là nơi cầm-quyền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, không có một ngôi sao nào, không có
mặt trời nào đứng trong Càn-Khôn Vũ-Trụ mà không chịu dưới quyền điều-khiển của
Ngọc-Hư-Cung.
Quyền trị thế là hình-ảnh
của Cửu-Trùng-Đài, một điều mà thiên-hạ tưởng-tượng khác. Có trị ai đâu? Bần-Đạo
đã thuyết các chơn-linh tự-trị lấy mình, còn Ngọc-Hư-Cung duy có bảo-thủ
tồn-tại cho họ và tác phước cho họ mà thôi, chớ không có trị. Tác phước ấy là
họ muốn cho các Chơn-Linh ấy đặng hưởng phước họ không hưởng đặng, là tại quả
kiếp của họ, nếu nói nhờ người cầm-quyền cho họ thấy mảy may quả kiếp của họ mà
thôi. Trị là một vị Phật cầm quả kiếp chúng sanh, họ cũng không phải là gắt-gao
lắm. Có nhiều Chơn-Linh biết quả kiếp của mình đặng nặng nề quá đỗi rồi không
muốn sống nữa. Quả kiếp trọng hệ lắm nên các Đấng ấy duy có giảm bớt, kiếm
phương thế giảm bớt mà thôi.
Trên Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa cốt yếu chỉ cho người tội nhơn ấy làm tòa xử lấy họ, họ biết tự-tỉnh
lấy họ, tự-tỉnh lấy họ đặng ngó thấy quả kiếp bớt oai-quyền mà quyết định tội
mình. Trái lại người tội nhơn làm tòa xử lấy mình, còn người cầm-quyền lại để
bảo-vệ hạnh-phúc, giảm bớt tội tình cho ta, cầm-quyền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ
là vậy đó, cầm để tác-phước và giảm-tội chớ không phải để buộc tội, để không
phải định án. Định chăng là do nơi mình, mình làm Tòa cũng mình, nếu có
Trạng-Sư cũng không qua đặng. Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa là cung để cho mình định
tội lấy mình không qua không đặng. Nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ là vậy, cho
nên khi chúng ta vô đến Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa rủi chúng ta có làm tội tình,
thì dường như các Đấng ngự nơi Cung ấy hồi hộp lo sợ, họ sợ mà mình không sợ.
Trái lại họ sợ cho mình, sợ mình kêu án mình quá nặng nói trái ngược vậy đó.
Thành thử, nơi
Ngọc-Hư-Cung là nơi an-ủi các Chơn-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, chính tay ấy
cầm-quyền trị Càn-Khôn Vũ-Trụ để dìu-dắt binh-vực, chớ không phải để trị, các
Chơn-Linh tự trị lấy mình, các bạn nên nhớ điều ấy, nhứt là mấy anh mấy chị vẫn
phải biết cái bí-mật ấy đặng tự-tỉnh, tại mặt thế này mình trị mình trước đi.
Trị theo cái thói của mình đấy, làm cho lấy có đi, để nữa Chơn-Linh mình về
trển không có nóng, đặng ngày kia không có buộc tội mình nặng, làm theo kiểu
quẹt lọ vậy mà biết tự-trị lấy mình, đừng hồi-hộp, đừng sợ-sệt gì hết, cho nên
Đức Chí-Tôn thường dùng tiếng ăn-năn là vậy đó, tiếng ăn-năn nó hay ho làm sao
đâu, đặng cho mình khỏi tự-trị lấy mình, quyền nơi Ngọc-Hư-Cung là vậy đó./.
* * *
26. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 8 tháng 2 năm Kỷ-Sửu (07-03-1949)
PHƯƠNG-PHÁP TỰ-TRỊ CỦA CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ LÀ
TA TỰ-TRỊ LẤY TA
Hôm nay chúng ta rủ nhau
dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Thưa cùng chư Chức-Sắc
Thiên-Phong Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài, Nam Nữ và mấy vị Lão thành.
Bần-Đạo từ khi giảng Dục-Tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, cốt ý giảng
cho mấy anh mấy chị để vào cân não. Từ hôm nào tới nay láp-giáp, nói nhiều quá
cho anh chị được mở tinh-thần, dám chắc rằng sự nguy-ngập chưa đến nước đó.
Bần-Đạo chỉ có nắm tay các
người dẫn đi vào cảnh ấy cho mấy người quan-sát tự mình hiểu lấy mình dễ hơn,
thuyết-giáo e sợ mấy người không trọn thấu được, mình thấy để nhớ nhập trong
cảnh ấy rồi mới có sự thật, mà Đức Chí-Tôn muốn cả con cái của Ngài thấy cả sự
thật mà thôi, không muốn cho thấy ảo-ảnh, Chơn-Truyền của Đức-Chí-Tôn đại kỵ
điều ấy. Nếu thoảng như nhà tịnh-thất chưa mở ra đặng, lỗi ấy không phải nơi
Bần-Đạo, lo nội Thể-Pháp mà 24 năm trường nhọc-nhằn không biết bao nhiêu khổ
tâm, khổ trí, từ tuổi xanh đến bạc đầu mà chưa rồi sáu bảy phần mười. Bần-Đạo
xin thú thật rằng không có cái nạn làm nô-lệ nào một cách vô lối như Bần-Đạo đã
làm.
Hỏi ra không phải phận-sự
của Bần-Đạo mà Bần-Đạo phải làm nhiều khi ngồi buồn muốn phế hủy, ngặt dòm lại
thấy con cái của Đức Chí-Tôn không người dìu-dắt, phế bỏ mà không phế bỏ được.
Mặt đời là kiếp sanh tức nhiên phần xác còn chịu nhọc-nhằn không lẽ phần hồn mà
phế bỏ.
Bần-Đạo xin giảng tiếp và
dắt chúng ta ra khỏi Nam-Tào Bắc-Đẩu, khi thấy quyển Vô-Tự-Kinh rồi thì mình đã
hiểu căn phần quả-kiếp của mình, mạng căn kiếp số đều hiểu nơi Cung ấy.
Ngày nay Bần-Đạo giảng
tiếp cái chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, từ trước Bần-Đạo đã có nói cái quyền
của họ do nơi đâu mà có? Phương-pháp trị Càn-Khôn Vũ-Trụ xét ra là phương-pháp
tự-trị, ta trị ta, cả nhơn-loại tự-trị lấy mình. Càn-Khôn Vũ-Trụ minh-mong đại
hải, vô biên, vô giới nếu lập luật, định quyền, thì không có quyền nào cầm nổi.
Cả sự sanh-hoạt của Càn-Khôn Vũ-Trụ cái hay hơn hết là cái bí-mật huyền-vi của
mỗi cá-nhân đều tự-trị lấy mình, ấy là chúng ta đoạt được huyền-bí vô biên xử
đoán của Đức Chí-Tôn đó vậy, là chính mình tự-trị lấy mình.
Bần-Đạo đã nói cái án
không có chối, cái tội không có cãi, vì chính mình trị lấy mình, chính mình
xử-đoán cho mình và chính mình định hình-phạt cho mình, thì ai đâu chối nữa
được, còn miệng lưỡi nào mà chối cho mình, đó là quyền đã vững chắc đó vậy.
Cá-nhân tự-trị, chánh-trị
của Càn-Khôn Vũ-Trụ không có gì khác, chỉ khác cái đó. Duy có huyền-bí vô biên
của Đức Chí-Tôn là trường Quan-Lại của Ngài, đặng định cho Càn-Khôn Vũ-Trụ
sanh-hoạt mà thôi, không có giá-trị gì hết, mỗi Chơn-Linh đều có quyền tự-trị
lấy mình, bây giờ nền chánh-trị đã vững-vàng chắc-chắn vậy ( trong phương-pháp
Thiêng-Liêng kia nó đã chắc-chắn không có gì ốp (?) được), chắc-chắn mạnh-mẽ
oai-quyền làm sao! Bây giờ ta xét thấy nền chánh-trị đã vững chắc, cả tinh-thần
của Càn-Khôn Vũ-Trụ hiệp làm một đặng mình trị lấy mình.
Bần-Đạo có nói rằng: Chúng
ta chỉ sợ tôi lung hơn hết, khổ não hơn hết, là mình thấy Tông-Đường mình bị
tội nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, trụ số Tông-Tộc Thiêng-Liêng của mình trên
cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia họ chịu nhục-nhã về mình, chịu chê bai biếm
nhẻ, vì mình mà bị từ bỏ, dọa nạt trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống và mất
giá-trị. Cái đó mới đáng sợ. Vì cớ cho nên Bần-Đạo chỉ vẽ cái thiệt-tướng của
Càn-Khôn Vũ-Trụ, tức nhiên cái chơn-lý của Càn-Khôn Vũ-Trụ, chơn-lý ấy hỏi nơi
thế-gian này có đoạt được chăng? Có chớ!
Bần-Đạo chỉ nói cho cả
thảy đều ngó thấy Việt-Chủng của chúng ta, tức nhiên văn-minh của Trung-Hoa
đoạt được trước hết, đoạt được cơ-quan võ-khí. Bần-Đạo đã nói trái địa-cầu này
chuyển kiếp lụng lại, nó đi đã ba chuyển kiếp rồi. Kiếp trước nó đi đến
Thất-Chuyển, đã bị tiêu-diệt cái hình-hài của nó, nó biến hình của nó, trái
địa-cầu này nó đã đi đến Tam-Chuyển của nó rồi, chừng tới Thất-Chuyển nó sẽ
tiêu-diệt nữa, hay biến-tướng trở lại Tam Chuyển nữa. Bốn chuyển đầu tạo-đoan
ra Dã-nhơn và Hắc-chủng.
Nhứt-Chuyển thì họ duy có
tự-vệ mà thôi, hoặc rủ một vài người với phương-pháp tự-vệ mà thôi, vì buổi ấy
thú mạnh hơn người, cho nên xã-hội thời-kỳ ấy tự-vệ mà thôi. Tới Đệ Nhị-Chuyển
là thời-kỳ nghệ-thuật, tức nhiên kiếm phương-thế để tự-lập mình, bày ra binh
khí hiệp nhau. Mường Mán này hiệp với Mường Mán khác, đặng chống-chọi với thú
dữ, cơ trời buổi ấy không được hiền từ như bây giờ. Đệ Nhị-Chuyển thiên-hạ bất
định nhiều bịnh chướng, nhiều cơ-quan tiêu diệt loài người nên phải tự-vệ. Muốn
tự-vệ được mạnh-mẽ thì họ phải tự kiếm ra cho có binh khí, thứ này thứ kia đặng
họ tự-vệ họ kêu là nghệ-thuật.
Đệ Tam-Chuyển xã-hội hiệp
chủng, khởi có chủng-tộc và xã-hội, mà xã-hội là gì? Là hình ảnh chánh-trị
Thiêng-Liêng kia, suy xét chơn-lý kiếm lại coi, giờ phút này đã mãn Tam-Chuyển
bắt đầu Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển là hồi nhơn-loại tương hợp với nhau, cả thảy nơi
mặt địa-cầu này, tức là thuyết Đại-Đồng. Nhơn-loại đem để nơi mặt địa-cầu này
một nền chánh-trị cho vững chắc mới hiệp đặng, tức nhiên khởi mầm để tạo ra
chánh-trị Hiệp-Chủng Đại-Đồng cho nhơn-loại. Ấy vậy nước Tàu đã đoạt được
Bí-Pháp ấy, các Tông-Đường như họ này qua họ kia: Họ Lưu, họ Trần, họ Lê, họ Lý
mỗi họ đều có Tông-Đường để trị lấy họ, bởi cớ cho nên nhà Vua không bao giờ
khó trị, phần tử trong Tông-Đường nào mà phạm vào tội gì, thì cả Tông-Đường
phải chịu trách-nhiệm với Triều-Chánh. Vì cớ cho nên, nền chánh-trị của nước
Trung-Hoa tối cổ vững chắc mạnh-mẽ phi thường, nếu có nghiêng đổ là tại họ phế cổ tùng kim, làm cho hủy-hoại nền
chánh-trị tối cổ quí báu mạnh-mẽ xưa kia vậy. Phương-pháp chánh-trị Càn-Khôn
Vũ-Trụ cũng vậy. Còn nước Việt-Nam là nòi giống Trung-Hoa, của người Tàu, thì
chúng ta đã có nền chánh-trị về Tông-Đường đó muốn cho thiên-hạ hiệp lại
đại-đồng thì ít ra các Tông-Đường phải hiệp trước đã, phải đi từ cái nhỏ mà đến
cái lớn.
Cái mầm Tông-Đường hiệp
nhau là vậy, cho nên Bần-Đạo khuyên nhủ Phước-Thiện tạo dựng Tông-Đường trở lại
như xưa vậy là cái Bí-Pháp ấy muốn Đại-Đồng, là cơ-quan chánh-trị của nước
Việt-Nam, là bổn-nguyên quí hóa, bổn-nguyên chắn-chắn hơn xưa vậy./.
* * *
27. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 12 tháng 2 năm Kỷ-Sửu (11-03-1949)
BÍ-PHÁP GIẢI THOÁT CHO CHÍNH MÌNH
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp
sự dục-tấn của chúng ta trên con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Bần-Đạo đã có
nói rằng: Khi cúng rồi cả thảy đều mệt vì cớ cho nên giảng Đạo không được dài
lắm, vả lại, khi nào thuyết-pháp mà dạo đi dạo lại đã nghe không được còn thêm
mệt, nên Bần-Đạo thuyết vừa đủ chừng không cho nhạo tiếng, nếu thuyết dài quá
thành ra nhảm-nhí, nói cụt quá thì không đủ đề thuyết không hay, thành thử phải
gom-góp thế nào cho vừa chừng, cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn không có mệt và
vui nghe. Đêm nay Bần-Đạo giảng có hơi dài và lâu chút có mệt xin lỗi, xin tha
thứ.
Bần-Đạo giảng kỳ rồi vô
Cung Phục-Linh, đêm nay giảng dài dài một chút vì bài giảng hôm nay có Bí-Pháp
giải-thoát của mình, Bần-Đạo cho hiểu trước cái cơ Bí-Pháp huyền vi Đạo-Giáo
của Đức Chí-Tôn có cơ giải-thoát. Bài giảng đêm nay rán để ý cho lắm.
Bần-Đạo đã giảng khi vô
Cung Phục-Linh thì chúng ta sống lụng lại nhờ Đức Phật Phục-Linh Tánh-Phật
gìn-giữ cho nguyên kiếp của chúng ta, phục-linh lụng lại, qui tựu chơn-linh
lụng lại. Ở trên Thượng-Nê-Hoàng thì có Hộ-Pháp bắt ấn giữ cả Ngươn-Linh chúng
ta cho vững chắc, chúng ta sống nơi Cung ấy có hồi mê-muội đặng cho quên cả
kiếp trước của mình.
Linh-hồn chúng ta đi đặng
nhập mình chúng ta sống lụng lại, không biết chừng muôn triệu kiếp từ trong vật
loại dĩ chí tới phẩm nhơn-loại, biết bao nhiêu kiếp, lâu chừng nào kiếp căn
nhiều chừng nấy. Khi chúng ta thác qua sống lại, cơ huyền-bí làm cho chúng ta
nhập vô trong Ngươn-Linh của chúng ta.
Ngươn-Linh ấy nó đoán xét
muôn muôn quả kiếp chẳng khác gì xét đoán tội nhơn kia vậy, vì cớ cho nên
Bần-Đạo có nói mỗi đứa sẽ làm Tòa lấy mình, xử lấy mình là vậy. Cái xử mình còn
nghiêm-khắc mà xử lấy mình nữa, mình xử cho mình hỏi còn ai bào chữa cho.
Bần-Đạo nói rằng: Cái án không cãi, cái tội không có chối, cái hình-luật không
có tránh. Tránh thế nào được, chối thế nào được vì mình xử lấy mình chối thế
nào được, Ngươn-Linh của mình xử mình, Ngươn-Linh của mình làm chủ cả quả kiếp,
quả kiếp của mình, trái lại nó xử tội mình thì còn ai mà bào chữa cho.
Ấy vậy mà có phương-pháp
bào chữa chớ, có mà không biết. Mình có thể tự mình làm trạng-sư đặng bào chữa
tội cho mình. Vì khi mình đương sống đây muôn triệu kiếp, mình biết cái lỗi của
mình, tức nhiên Ngươn-Linh của mình cãi cho mình, cái Ngươn-Linh cãi tội cho
các Chơn-Linh, cãi cho mình thì ngày kia không có bắt tội mình nữa. Ấy vậy
chơn-pháp chữa tội của các Chơn-Linh cao siêu đoạt Đạo, để lại chơn-pháp rất
đơn giản mà nhơn-sanh đương dùng không tìm-tàng cái trọng-hệ của nó, không tìm
phương giải-thoát mình. Phải chăng phương-pháp "Nhựt nhựt tam tỉnh ngô
thân" không phải một ngày mình thăm Cha Mẹ mình một lần mà còn phải xét
mình ba lần nữa.
Hỏi thử tội tình của chúng
ta đã làm trong kiếp sanh, Đức Chí-Tôn để trong phương pháp nói rằng: Tội tình
các con đầy dẫy nơi mặt địa-cầu này mà đến giờ chót, các con biết kêu danh Thầy
thì Thầy đến cứu, Thầy đem Bí-Pháp giải-thoát để trong tay các con đặng các con
đoạt chơn-pháp giải-thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là: "Nam-Mô Cao-Đài
Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát".
Chúng ta đã ngó thấy,
Bần-Đạo đã thuyết-minh rằng: Khi Ngươn-Linh của chúng ta đã hiện-tượng của nó,
thì nó đồng tánh với Càn-Khôn Vũ-Trụ, đồng tánh với Chí-Linh là đoạt Đạo.
Càn-Khôn Vũ-Trụ là nơi
sản-xuất Đấng ấy mà Đấng ấy đồng tánh với nhau, tức nhiên Đấng ấy có quyền tự
giải-thoát cho mình. Vì cớ cho nên kêu danh Đức Chí-Tôn thì đoạt cơ giải-thoát,
dầu tội tình bao nhiêu chúng ta đã tạo thành nơi mặt địa-cầu này, dầu có
đầy-dẫy đi nữa mà giờ chót chúng ta biết kêu danh Đức Chí-Tôn tức nhiên biết
kêu Ngươn-Linh của chúng ta, tức nhiên chúng ta chối cái quyền làm Tòa buổi
chung qui của chúng ta. Hễ ta chối cái quyền làm Tòa thì còn ai xử ta đâu?
Đấng Chí-Linh duy chủ mà
để quả-kiếp trong tay Đấng Chí-Linh thì còn ai xử ta đâu, cơ quan giải-thoát
đoạt-pháp là vậy đó.
Bây giờ chúng ta thử,
Bần-Đạo nói Chơn-Linh hiện-tượng ra rồi dường như có quyền năng vô tận, biểu
Ngươn-Linh phải đến Chí-Linh, bởi vì Càn-Khôn Vũ-Trụ đồng âm-đức của nó, nó
hiện-tượng với cơ huyền-vi bí-mật, bởi đồng tánh, đồng Chí-Linh với Đấng tạo
Càn-Khôn Vũ-Trụ bởi vậy cho nên nó mới biết.
Bần-Đạo dám chắc rằng và
Bần-Đạo biết trái Địa-Cầu này nó có đến ba ngàn triệu, ba ngàn triệu
(3.000.000.000) biết bao nhiêu nhơn-sanh, Chúng ta tính gộp nội trái địa-cầu 68
này, nhỏ hơn hết mà nhơn-loại ở nơi mặt trái địa cầu này có hơn hai ngàn bảy
trăm triệu nhơn loại (2.700.000.000).
Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ có
tới ba ngàn triệu quả địa-cầu thì biết bao nhiêu nhơn-loại? Tưởng-tượng lại coi
Đấng Chí-Linh cầm quyền trọn vẹn, cầm quyền xử đoán, hễ tác-phước thì xưng danh
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, hễ bớt tội thì Đại Thiên-Tôn. Đấng ấy làm chủ có lạ gì
đâu? Bởi trái Địa-Cầu từ vật-loại cho đến con người nó có linh-hồn của nó, mà
Ổng làm Chúa cả sanh mạng của nó, tồn tại chẳng khác nào như thân-thể chúng ta.
Thử hỏi sợi lông nheo của chúng ta nó ngứa có động đến thân-thể chúng ta chăng?
Ngón tay nó bị lột phao chúng ta có biết đau không? Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này
nhứt động nhứt tĩnh Ổng đều biết, các vật loại đâu đâu Ổng cũng đều thấu đáo.
Bởi vì chính thân-thể của Ổng là cơ-quan giải-thoát. Bí-mật là vậy đó.
Bây giờ Bần-Đạo tả hình
ảnh Ngọc-Hư-Cung, khi chúng ta có hạnh-phúc được nhập vào cùng các Đấng
Thiêng-Liêng kia, chúng ta mới biết định-phận của chúng ta như thế nào.
Bần-Đạo nói, khi chúng ta
đến đứng ngoài, nhứt là Cung Phục-Linh, chúng ta thấy đài các nguy-nga,
chớn-chở, chói lòa như hột ngọc giữa không trung. Khi bước vô rồi thấy
chiếu-diệu hào-quang, ngước mặt lên thấy Càn-Khôn Vũ-Trụ xanh biếc trước mặt,
cũng như khi chúng ta đứng giữa Bát-Quái-Đài, thấy ngôi-vị đẳng cấp
Thiêng-Liêng từ mức, có Đức Chí-Tôn ngự nơi Huỳnh-Kim-Khuyết kia vậy, ngó xuống
thấy cả triều-đình vô tận vô biên oai-quyền trị thế.
Thiên-hạ muôn trùng vạn
điệp cũng không khi nào qua khỏi. Cái nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ thế nào mà
nắm vững chắc nó đặng? Cái nền chánh-trị hữu-vi của chúng ta cũng thế, định
quyền của họ là gì? Định quyền, cầm quyền chánh trị Càn-Khôn Vũ-Trụ là gì? Là
trị kẻ dữ, mà cái quyền đó nó đơn giản làm sao đâu. Muốn trị kẻ dữ chưa cần Tòa
lên án, chưa có ngục để nhốt kẻ tội, muốn thưởng kẻ lành không cần Vương-Đế,
không cần phần thưởng, không cần quyền năng phẩm-vị cao thấp, họ không có quyền
gì hết, bởi vì cái Ngươn-Linh của chúng ta định án ta, xử lấy ta, tức nhiên nền
chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ đơn giản quá chừng. Luật khó khăn hơn hết là trị tội
và thưởng công, mà hai điều ấy không có cần, thì nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ
để làm gì? Để đặng bảo thủ sanh tồn Càn-Khôn Vũ-Trụ. Để bảo thủ là gì? Tức
nhiên phụng-sự cái quyền cầm-quyền chánh trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, tức nhiên để
phụng-sự cho Vạn-Loại và Vạn-Linh.
Càn-Khôn Vũ-Trụ ấy để làm
tôi của nó để phụng sự cho Vạn-Linh, từ thử tới giờ chưa có quyền nào dị hợm
vậy. Không có quyền nào vô đối vô đoán như vậy. Vì cớ cho nên cái bí-mật của
nhơn-loại đem hình ảnh hữu-hình này, làm con vật tại thế-gian này có mục đích
tối trọng tối Thiêng-Liêng. Đến đặng phụng-sự cho nhơn-loại, Vạn-Linh của mức
hữu hình, phụng-sự đặng định-phận cho chúng ta. Vì cớ cho nên mới có cái thuyết
định-phận. Hễ phụng-sự đắc lực thì đoạt-vị đặng, còn phụng-sự bất lực thì phạm
tội.
Cơ-quan giải thoát Bần-Đạo
lập lại một lần nữa và nói quả quyết rằng: Cơ-quan giải-thoát của Đức Chí-Tôn
do nơi công-nghiệp của chúng ta phụng-sự cho Vạn-Linh đó vậy ./.
* * *
28. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 22 tháng 2 năm Kỷ-Sửu (21-03-1949)
LINH-TIÊU-ĐIỆN (NGỌC-HƯ-CUNG)
& TRIỀU-NGHI CỦA ĐỨC CHÍ-TÔN
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp
con đường dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kỳ trước Bần-Đạo dìu-dẫn
chư Hiền-Hữu vào Linh-Tiêu-Điện (Ngọc-Hư-Cung). Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp,
trước khi tiếp Bần-Đạo có những điều trọng-yếu căn dặn. Từ ngày Bần-Đạo giảng
cái Bí-Pháp ấy, Bần-Đạo vẫn cầu nguyện với Đức Chí-Tôn luôn, bởi vì nó có nhiều
điều khó-khăn, những điều mà mình ngó thấy bằng con mắt Thần, lấy cái nhân-khẩu
của mình mà tỏa chẳng hề khi nào đúng chắc đặng. Bần-Đạo thú thật rằng mười
phần có lẽ Bần-Đạo tỏa đặng năm hay bảy phần là nhiều, sợ còn kém hơn nữa,
Bần-Đạo chỉ có cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cũng như hồi trước Tam-Tạng đi thỉnh
kinh nơi Ấn-Độ. Ngài là người Tàu mà kinh viết tiếng Phạn, muốn dịch ra rất khó
lắm, lấy cả Kinh-Luật trong trong tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài lắm, cho
nên Ngài đại nguyện Ngài làm thế nào Ngài rán sức Ngài âm tiếng Phạn ấy ra chữ
Nho. Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa đúng, Ngài có hứa chừng nào mà tôi
qui liễu, nếu trong Kinh-Luật Đạo-Giáo mà tôi không minh tỏa ra đặng thì khi
chết cho cái lưỡi tôi đen, nếu tôi tỏa trọn vẹn thì cho cái lưỡi tôi đỏ.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét