Đó là các điều dối trá của tệ đệ đã làm và giựt của
chúng sanh y theo lời của kẻ phản Đạo cáo gian. Tệ đệ cũng để cho tòa lương tâm
của chúng sanh minh đoán.
" Chơn Lý " ! " Chơn Lý " ! Ngươi cũng mộng mị
dường ấy hay sao ?
Ta lại hằng nghe dịch danh của ngươi rằng Lẽ Thật.
Họ còn vu oan cho tệ đệ rằng trai trên gái dưới cho
đến có con đem về làng nuôi dưỡng. Không biết có
vậy hay không, chư Đạo hữu
ráng kiếm cho ra lẽ thiệt giùm cho tệ đệ. Hỏi họ dám vu oan dường ấy thì có chi
hơn mà họ lại chối từ.
Nhưng mà xin chư Đạo hữu cũng đừng phiền, vì mỗi
người tu mỗi điệu, mình cũng không nên kiếm hiểu mà làm gì, anh em chúng ta xúm
nhau xin họ điều nầy, thôi thì đành nhìn nhận rằng Ông Trời của họ là khác, còn
Ông Trời mình vốn khác.
Xúm nhau lạy lục đặng cầu nài, họ đã gọi rằng thờ “ Thần Chơn Lý ” thì bớt lời hồ mị mà
cáo gian, vì sợ e người rõ hành tàng mà phải sửa tên là “Giả Lý “.
Chúng sanh trong thời kỳ tấn hóa nầy phải phấn đấu
đua tranh, giựt giựt giành giành, gây thù kết oán cùng nhau khi cũng đã nhiều.
Trong trường danh lợi chỉ biết sát phạt nghịch thù chớ lòng ái vật yêu nhân đã
mất biệt. Lương tâm của mỗi người, trừ ra lúc chiến đấu, thì họ vốn quên mình,
chớ khi nằm nghỉ đặng đôi chút hoặc khi mỏi mệt mà tự tỉnh, hoặc khi suy gẫm
canh khuya, hoặc là ngộ cảnh bi ai mà nghĩ nghị, thì ai cũng biết rằng cái thời
đại cạnh tranh nầy đã diệt tàn ái chủng.
Vì cớ mà ngày Đại Từ Phụ đến thâu anh em ta thì
Người chỉ dùng có bốn chữ của toàn cả nhơn sanh ngưỡng vọng là “ Từ Bi - Bác Ái ” của Người đặng làm
phép nhiệm mầu thâu tâm thiên hạ. Cái mạnh của Đại Từ Phụ là cái lòng thương vô
tận của Người. Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà chúng sanh theo Người hằng hà
sa số.
Sao mà theo ?
Tại khao khát cái tình thân ái liên lạc cùng nhau
mà theo Thầy. Hại thay ! Từ ngày “Minh Chơn Lý” thêm vô Hiệp Ngũ Chi ra
mặt thì dùng phương phản loạn mà lập thế lực cho mình, nên làm cho chư Đạo hữu
phản khắc lẫn nhau, đến đỗi đã bước chơn vào cửa Đạo mà hỡi còn gây thù kết oán
hại nhau.
Thật là họ đã phá tan cơ sở của Chí Tôn và đập nát công
trình của Người mấy năm un đúc tâm lý con cái của Người. Cái tội tình ấy là thế
nào, chư Đạo hữu để mắt xem tương lai sẽ thấy.
Có làm mới biết tay thợ, (à l’oeuvre on connaỵt
l’artisan), xem trái mà định cây, (on connaỵt l’arbre par ses fruits), cái kết
quả của họ sẽ hại cho nhơn sanh ra thế nào, chư Đạo hữu rồi đây thấy rõ.
Đã trót đôi năm, anh em chúng tôi vì thể lòng từ bi
bác ái của Đức Chí Tôn nên ẩn nhẫn nhịn nhục, miễn lo cho vẹn phận mình, lại
còn để lòng quảng đại mà nghĩ rằng : chi chi họ cũng là truyền bá danh Đạo của
Chí Tôn và làm cho sáng danh Người là đủ, còn
anh em chúng tôi dầu chịu hàm oan cũng cam đành dạ, chỉ cầu xin cho họ
hằng ngày hằng giảm nộ cho an ổn thân tu. Nào dè càng ngày càng lộng, càng bữa
càng lung, múa búa trước cửa Lỗ Ban, khoe danh lừng lẫy, vu oan cho kẻ nầy,
chửi mắng người kia, kiện thưa ông nọ, dùng những mưu giả dối mà báo thù.
May thay !
Thầy đã để nơi lòng của cả chư Đạo hữu một điển huệ quang đã khá lớn
đặng soi rọi linh tâm, nên kẻ lầm nghe những lời tà mị của họ vẫn là số ít, lại
chánh phủ Pháp triều vốn là nhà dân chủ, luật pháp tạo bởi dân sanh nên hình
ảnh của khối vạn linh cũng trọng, đã lấy công bình mà minh đoán.
Dầu cho đương buổi hai đàng Đời Đạo hỡi còn nghi kỵ
lẫn nhau đi nữa, thì chánh phủ cũng để tâm ngay thẳng mà nghiên cứu, nên cũng
đã thấy đặng sự chơn thành của Đạo mảy may chút ít.
Chúng ta nhờ
nương nơi thuộc địa Đại Pháp nên chưa mang tù tội ngục hình, nếu như lúc cựu
trào, chúng ta phải chịu dưới đế quyền thì họ đã đặng thỏa dạ toại lòng, thấy
đầu của anh em chúng tôi đã rơi xuống đất.
Nầy cả chúng sanh,
Phái phản Đạo lo phương diệt Đạo là vì ý gì ?
Họ đã lập phe đảng riêng mà chi ?
Họ cáo gian bỏ vạ cho Chức sắc không quyền mà làm
gì ?
Họ mưu hại diệt tận Tòa Thánh đặng chi ?
Họ làm nhục nhã chơn truyền đặng lợi ích gì ?
Họ làm cho phân tâm cả thảy chư Đạo hữu đặng giúp
ích cho ai ?
Những mấy án nầy không phương xử họ với pháp luật
Đạo đặng, vì pháp luật ấy chính mình họ lập, mà họ lập cho chúng sanh, chớ còn
họ thì ngoài vòng pháp, cho nên vừa ban hành thì họ liệu mưu từ chối đặng phá
nát Đạo quyền.
Vậy anh em chúng tôi không phương xử họ, nên dâng
lại cho tòa án lương tâm của chúng sanh, nếu ngày nay chưa xử họ đặng thì lại
để dành cái án tiết ấy lại cho đoàn hậu tấn.
Vậy chư Đạo hữu ráng mà giữ lấy mình cho bền vững
căn tu, lại khỏi thất lời thề cùng Từ Phụ.
Tây Ninh, le 27 Juillet 1932
ký tên : PHẠM CÔNG TẮC
4. - BỔN THIỆN - Diễn Văn của Đức Hộ-Pháp.
Ngày 15 - 8 - Quí Dậu (dl 4 - 10
- 1933).
DIỄN VĂN của Đức Phạm Hộ Pháp. đọc tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Phàm vạn vật hữu hình tại thế đều sanh nơi nguyên do chí thiện của cơ Tạo đoan gầy
dựng và luật thiên nhiên buộc phải tăng tiến trong đường chí thiện ấy cho đến
cuối cùng, đời càng tới càng hay, vật càng ngày càng đẹp, dầu cho phép bảo tồn
mạnh mẽ buộc các loài động vật phải diệt lẫn lấy nhau đặng giữ gìn sanh hoạt đi nữa là khi đã đặng trưởng
thành, đủ trí thức tinh thần tự bảo, nghĩa là lúc chen lấn cùng đời mà lập
phẩm, mới tranh tranh đấu đấu cùng sự hung bạo của thế tình, vì sự xung đột mà
nảy sanh ác tánh, chớ còn buổi sơ sanh vẫn giữ nguyên bổn thiện.
Chẳng cần chi luận đến vật chất, thảo mộc, vì là
loại vô năng, dầu cho cầm thú với loài người cũng chưa hề thấy, lúc sơ sanh, mà
có đủ sẵn sàng nanh vuốt. Vì cớ Thánh nhơn có nói rằng :
Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện.
Bổn thiện nhơn sanh do đâu mà có ?
Do nơi tâm lý từ thiện của mỗi người, nghĩa là
lương tâm mà ra.
Đã đứng làm người khôn hơn vạn vật, nhờ có điểm
lương tâm dìu dắt, hiểu đặng sống thác là gì, trí tuệ cứ tìm tàng biết rằng
mình ở trong không mà ra có, sống là có, thác là không, không không có có do
nơi tử tử sanh sanh; đương có rồi lại không, sống rồi kế thác. Kiếp sống con
người xem nên vắn vỏi, sống trăm năm ước đặng bấy nhiêu người, phước trọn kiếp
độ chừng xem mấy kẻ !
Khổ thì nhiều, vui vốn ít, sống càng lâu khổ chất
càng dày, khổ nội thân tứ khổ quả không sai, cầu bất tử là cầu đày thân cõi
tội. Ta nghĩ đến đó mới hiểu rằng kiếp chết là kiếp giải khổ thì mới biết mặt
cân công bình thiêng liêng nhắc không sai chạy.
Hai chữ sắc không do tại phù sanh chi kiếp. Còn
mảnh thân bảy thước lo tấn thối đặng nên người, dứt thở ba tấc hơi, đã trơ trơ
như con vật.
Vì vậy mà tự
nhiên ai cũng tỉ thân mình mà suy đoán đến thân người, gẫm cuộc đời như buổi
chợ mơi, nhóm đó rồi tan, tan rồi lại nhóm, ngày qua tháng qua, năm qua kỷ qua,
thế qua nguơn qua, cả thảy đều qua, còn buổi chợ vẫn y buổi chợ, còn cả loài
người như đám con buôn, dầu dại dầu khôn, dầu khinh dầu trọng, lao xao lố xố,
giựt giựt giành giành, lấn lấn chen chen, mua hơn bán thiệt, so đồ mà tiếc,
sánh giá mà than, giỏi lận gian năm sảy bảy sàng, tan buổi chợ góp hàng không
hết chợ. Xem bao phen đổ rổ, tính mấy lúc buông hài, vì miếng ăn mà xé mặt quàu
mày, nơi mảnh bận mà bẻ tay chặt cẳng.
Ôi ! Cuộc
dinh hư tiêu trưởng bày ngờ ngờ những tấn bi ai, nào tranh bá, nào đồ vương,
nào giành công nào cướp lợi, những chung đỉnh tóm thâu lúc sống, buổi chung qui
đã thấy ích lợi gì ? các cơ tạo của xác phàm đến rốt cuộc phải tiêu tan theo
kiếp chết.
Đâu là đài Tần, đâu là đảnh Hớn, công đắp xây gầy
dựng đã dường bao, nào vàng Vương Khải, nào báu Thạch Sùng, sức tích trữ tóm
thâu nay cũng vắn.
Lượn sóng đời đưa đẩy, những công danh sự nghiệp
của bậc hữu công, nêu tên tuổi lại trên mặt thế, chẳng khác nào như nước sông
mê, cuốn bèo bọt theo dòng ra khổ hải. Ngày nay đã tiêu tan rời rã, chẳng còn
roi lại đặng một vận xoáy hay một dấu tích gì, nên làm cho khách giang hồ của
tay Tạo hóa, là bậc trí thức nhơn sanh soi thời luận thế, đã cùng lời định hay
dở lợi hại dường bao, duy có nhúng tay nếm thử nước, nơi nầy mặn, chỗ nọ ngọt,
mà tìm phỏng nguồn sông trong lòng biển. Cả cơ sở của các Đấng ấy dầu vĩ đại là
dường nào, duy lưu lại đặng danh phải quấy, nhưng chúng ta lại hằng thấy sự
quấy vẫn phần nhiều, còn điều phải xem qua rất ít.
Phải quấy, hư nên của một đời người chỉ định đặng
là khi quá vãng.
Còn quyền năng vật dục nó lại mạnh mẽ thế nào, đè
nén điểm lương tâm, khó bảo toàn Thánh đức, làm cho Đấng xử phải cùng đời trở
nên ít có, nhưng đến tận con đường sanh hoạt, dầu trí hay ngu, dầu hiền hay dữ,
lúc tinh thần thôi cảm xúc cùng đời, cận kiếp chết rấp trút hồn, con người mới
trụ được tánh linh đặng đoán xét phận mình khôn dại.
Chính buổi ấy gọi là buổi Chí Tôn đoán xét.
Hễ có khôn mới có phải, còn như dại thì quấy đã
đành, chí lý từ cổ chí kim vẫn y như một, những bị tuồng thế biến dời, buộc
phận con người tùy thời tùng thế, dầu người để chí tính xử thế cho khôn, đòi
phen tồn lại dại.
Bởi cớ cho nên, muốn bảo tồn “Bổn thiện” phải xa
lánh sự đời, còn như để vật dục buộc ràng, xúi tâm ác gây nên nỗi quấy.
Hai chữ thiện ác cũng do nơi đó mà ra.
Chúng ta hằng thấy ít ai làm chủ sự phải quấy của
đời, chỉ các Đấng Thánh nhơn (phần nhiều là mấy vị Giáo Chủ của tôn giáo) giữ
vẹn Thánh đức thiêng liêng, nhờ đào luyện đặng điểm lương tâm đủ quyền hành
năng lực, làm chủ oai nghiêm của mảnh thi hài, lánh cương tỏa thế tình, tự giác
mê mà thoát tục, nên giáo lý của mấy Ngài dầu khác chớ kỳ trung cũng một sở
hành là : Giác mê chúng sanh qui bổn thiện.
Bần đạo nói thoát tục đây, chẳng phải nhủ chê đời
mà ẩn dật, hay là luyện Bí pháp đặng lánh trần (sic), hoặc là lên đầu non đặng
hú gió kêu mưa, xuống vực thẳm đặng hô phong hoán võ (sic), hoặc là ngồi lim
dim lần chuỗi, ngủ thiêm thiếp tưởng kinh, hoặc là đóng cửa tụng Huỳnh Đình,
hớp gió khuya dòm rún (sic), các mộng pháp ấy đã lưu lại lắm trò cười, giả dối
đóng thành tuồng thành sách, mê tín dẫy đầy vốn không cùng luận.
Bần đạo nói thoát tục đây là khuyên lấy lương tâm
làm chủ, giữ bổn thiện cho bền, dầu xác phàm có tuổi cùng tên, nêu tên tuổi chớ
quên lẽ phải.
Thắng nổi
quyền vật dục,
Xứng
đáng mặt khách trần,
Gánh
đau thương tay đỡ tay nâng,
Khối
thiện ác sửa cân Tạo Hóa.
Giữa
khổ hải đưa thuyền Bát Nhã,
Giúp
tinh thần giải quả trừ căn,
Sấn
tay trau đẹp vẻ đạo hằng,
Lượm
giảm bớt nẻo trần gai gốc.
Đem
cười để vào nơi cảnh khóc,
Lấy
lòng lành trừ nọc đau thương,
Chốn
lầm than rải nước nhành dương,
Dứt
trái chủ trao gươm thần huệ.
Chịu
khổ thế tìm phương giác thế,
Lấy
nhọc đời làm kế dìu đời,
Biến
lợi danh ra cuộc trò chơi,
Làm
phú quí thành mồi hại thế.
Sửa
bác ái ra nên câu kệ,
Chế
từ bi như thể bài kinh.
Noi
vận hành quảng đại Chí Linh,
Góp
nhơn loại vào tình cốt nhục.
Kẻ
sầu thảm cho vui hạnh phúc,
Người
vô duyên hưởng chút ân hồng,
Trọng
mạng sanh gầy phép đại đồng,
Kỉnh
vật loại đặng mong cứu thế.
Trong cả toàn cầu, bất cứ là dân tộc nào, những mặt
vĩ nhân lưu danh hậu thế đều nhờ tự giác nên thức bổn thiện là tu luyện trau
giồi lấy điểm lương tâm trở nên minh mẫn sáng suốt, hầu nương theo mà thật
hành, nhiều cơ sở phi phàm làm cho cả thiên hạ phải nhìn rằng, những Đấng ấy là
hạng người khác tục.
Phi phàm là hành vi khác hẳn với thế tình, mắt đời
ít hay thường thấy.
Tâm thiện của các Ngài dìu dắt dạy khuyên đặng biết
người biết mình, xem đời định thế, lòng lân tuất thương sanh đầy dẫy, hiểu đặng
cái khổ của mình nên không hay ngồi xem cái khổ của người, đã chán chịu đau đớn
của mình nên không nỡ làm đau kẻ khác, nếm đủ mùi sầu thảm nên hằng mong gỡ
thảm giải sầu, ở cùng đời đặng chia khổ với đời, lẫn theo thế mới chung thân cùng
thế, lịch lãm những màu thế sự, vày vã thân cho đặng phận con người, cân oan
gia nhắc đúng mực nẻ bao mươi thì mới biết thương đời lo cứu khổ.
Câu thành ngữ làm phép hằng tâm của các Đấng ấy cư
xử cùng đời là : “ Kỷ sở bất dục, vật thi
ư nhân “ nghe ra rất nên mặn mòi thâm thúy.
Căn nguyên “Bổn thiện” đều sẵn trong tánh đức của
mỗi người, vì dữ hiền ngu trí cũng tùng quyền của điểm lương tâm, bằng chẳng
vậy thế không thành thế.
Pháp luật cả thế gian để trị loài người, dầu cao
thấp hay dở thế nào cũng để thức điểm lương tâm qui “Bổn thiện”, nhỏ thì ở nơi cá nhân, trọng thì ở nơi xã hội, lớn thì
khắp toàn cầu, phép chánh trị là ép nhơn sanh tùng Bổn thiện.
Hễ còn lương tâm mới biết phận sự của kiếp sống để
làm gì, còn Bổn thiện mới hiểu yêu nhân kỉnh vật, bằng chẳng vậy thì những
phương pháp tự bảo kỳ thân đã trở nên
độc thiện, ai cũng lo tự do tự lập, còn mưu chi vĩnh bảo xã hội loài người, đời
tức nhiên ra trường chiến đấu, cạnh cạnh tranh tranh, giựt giành loạn lạc, con
người tàn hại lẫn nhau, vì sanh hoạt mà lại gầy cơ tự diệt.
Hễ
cơ đời càng khó,
Quyền
vật dục lại càng nhiều,
Phận
làm người đã khó biết bao nhiêu,
Giữa
võ trụ phải chìu theo thời thế.
Nợ
cơm áo sanh đời ra tệ,
Đạo
nhơn luân thêm thế dục hư,
Mảnh
thi phàm đã dễ chi từ,
Trong
cuộc thế thân như bèo bọt.
Dở
thì chịu ăn thừa uống mót,
Phải
toan lo sống sót cùng đời,
Một
mảnh tâm chia để mấy nơi,
Đâu
dư rảnh hỏi Trời căn sống.
Luật
Tạo Hóa rõ chi khinh trọng,
Nhẫng gởi thân theo bóng tang thương,
Cùng
khổ xem chết sống ra thường,
Sống
nhờ thế, chết nương tay thế.
Giải
ách cậy kim tiền làm kế,
Thích
tình xem khanh tể là mưu,
Bước
công danh quen lẽ nghịch thù,
Bả
quyền lộc nhuộm màu cừu hận.
Vòng
cương tỏa vào ra lẩn bẩn,
Lấy
oan gia làm phấn dồi mình,
Tên
tuổi đầy nhục nhục vinh vinh,
Nào còn
nhớ tâm linh “bổn thiện”.
Tuy là tâm lý hằng bị quyền hành vật dục đè nén cho
con người nhiều lúc quên mình, nhưng hột giống thiên nhiên Bổn thiện đã giâm
vào trí thức tinh thần, dầu bị ngọn lửa lòng hãm áp nên sớm không nảy nở ra
mầm, nếu hứng đặng giọt mưa lành hay là khổ thủy tưới lửa lòng tắt ngọn, ắt tự
nhiên phát mộng nảy chồi, rồi thỉnh thoảng cứ lớn dần nên tàn cao cội cả, che
phủ trọn chúng sanh mới gọi rằng đoạt đạo.
Đức
Sĩ Đạt Ta (gọi là Cakya Mouni nghĩa là người hiền ở xứ Cakya) lấy lòng nhơn bao trùm
thiên hạ, tầm thêm đặng chơn lý sanh khổ mà lập thành Phật giáo, nên dùng phép
đoạn trái oan, trừ nghiệt chướng đặng
làm phương giải thoát luân hồi.
Ấy là giữa chốn khổ não đau thương, Ngài lại đem
tánh từ bi tự toại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh chúng tương thân lân ái,
thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trược nhớp nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm ngào
ngọt.
Ngài nhờ Lão, Bịnh, Tử Khổ giác minh Bổn thiện, mới
đoạt phương cứu khổ loài người.
Đức
Lý Lão Đam (Lão Tử hay là Thái Thượng Lão Quân) vì lòng nhơn phổ hóa thế gian nên tìm
đặng chơn lý tinh thần vi chủ, trừ khử phương dĩ vật lụy hình, định tự chủ kỳ
tâm là diệu pháp, lại lấy phước an nhàn làm cơ thoát tục.
Ấy đời là cảnh sầu thảm khó khăn mà Ngài đến bày
phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào Ngài thấy người đương ngậm đắng
trươu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt.
Ngài nhờ quyền hành vật dục trong trường công danh
phú quí của Lục quốc phân tranh tạo ác đã vô ngằn, nó thức minh Bổn thiện của
Ngài nên hoài ái dân sanh, mới truyền phương thoát khổ.
Đức
Jésus de Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhơn cứu thế, lập nên Thánh
giáo Gia-Tô, Ngài mượn bác ái nhơn sanh đặng thế mặt Chí Tôn khai hóa, xem phổ
tế chúng sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người
ngu, ngó chơn thật mạng sanh hành thiện đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng
chơn lý để răn đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi
Thiên cảnh.
Ngài hằng dạy rằng: Cái khổ của thế gian là sự
nghiệp của con người, phải thọ khổ mới rõ cơ thoát tục.
Ấy đời đương giả dối mà Ngài đem chơn thật đặng khử
trừ, chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ dằn mà Ngài đờn tiếng thanh tao hòa
nhã.
Ngài nhờ :
1 - Đạo luật của Môisen (Mọse) : thế kỷ ấy quyền
hành biến đổi nên sanh ra nhiều chi tả đạo bàng môn, lại thế lực của Cai-phe về
bên mặt phần hồn rất nên mạnh mẽ, buộc dân Do Thái nhiều lẽ nên tà. Cả mê tín
dị đoan của dân Giu-đê buổi ấy đã không cùng luận.
2 - Quyền luật đời, nước La Mã (Rome) của vua
César nghiêm khắc hại sanh linh đồ thán.
Những nguyên ủy ấy khai minh Bổn thiện của Ngài làm
cho Ngài phải cam tâm gánh vác cả sự đau đớn của loài người, cũng bởi lân tuất
thương sanh, chịu tử tội đặng truyền gương thọ khổ.
Ông Khương Thái Công gọi là Thái Công Vọng hay là
Tử Nha, vâng lịnh đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn ở Côn Lôn sơn cầm Phong Thần bảng đến
giúp nên nghiệp nhà Châu, cũng vì nhơn mà khai minh chơn lý của quyền hành
thưởng phạt thiêng liêng, giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn. Tôn sùng trinh liệt,
trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt của xác
thân.
Ấy là dụng quyền phép vô hình đặng điều khiển hành
tàng mặt thế. Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng vạn ác
đã đào tạo của kiếp sống con người chẳng
trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng liêng có đủ quyền năng cả
xác cùng hồn, thế thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo thì lại có Thần minh
ám sát.
Triết lý Thần linh, nghĩa là quyền phép của lương
tâm do đó mà lập thành căn bổn và năng lực vận hành hiện tượng của tư tưởng
cùng tùng bổn nguyên thần pháp đặng nảy sanh.
Ôi ! Cũng vì cớ quả nhiên thật sự Bí pháp nầy đây
mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.
Tuy vân, chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo
phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài biết tùng lệnh thật hành những tư
tưởng cao thượng của Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn, thì công ấy đủ làm đầu Thần giáo.
Đời khi ấy dường như bị phát bối ung thư chịu đau
đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng
lành lẽ tốt tươi mặt thế.
Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nhơn
nghĩa của nhà Châu, vua Văn Vương và Võ Vương, giục khai Bổn thiện, nên tuổi
dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực, giúp đạo đức khử bạo tàn,
thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa. Tuy đôi bên : Thương -
Châu khác giá, mà đối với bậc trung cang trí dõng vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ
dạ vô tư, trong Thần vị, chỉ ngó mặt công phong phẩm tước. Dầu điều dị đoan mê
tín trong Truyện Phong Thần dẫy đầy, nhưng ngó đến Bảng Phong Thần lẽ công
chánh phải đành nhìn nhận thật.
Đức Khổng Phu Tử, tự là Trọng Ni, cũng vì nhơn thấy
đặng hung bạo của đời nên lo trù hoạch phương châm giảm ác mới đoạt đặng triết
lý chí thiện là cơ quan bảo thế. Ngài đắc thông nên tự nhiên biết rằng cơ Tạo,
nghĩa là Trời Đất và vạn vật hữu hình phải tấn hóa lần lần cho tận con đường
chí thiện (nghĩa là : người thì tận thiện, vật thì tận mỹ) gọi là Đạo. Ngài
chỉn chiếu theo sự tự nhiên hành động tâm lý của người đời đặng làm mục tiêu
chuẩn thằng đoán xét, ngoài phép trau tâm luyện tánh, Ngài không nhìn phương
pháp nào tự giác đặng Bổn thiện và kềm chế lấy điểm lương tâm, nên không chịu
tin theo lý thuyết mị thuật huyền vi mà trí khôn ngoan của người không thấu
đáo. Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản kháng thế nào, cũng tùng
một chủ quyền chánh thể, hoặc là do nơi đông tay xúm nhau đào tạo hay là do ở
một người đã đặng mạng Trời làm chúa người đời, cầm luật pháp trị an bá tánh.
Sự quả quyết ấy đã nhìn thật toàn cùng
mặt thế.
Ngài cho chánh trị hành tàng của xác thịt thế nào
thì chánh trị tinh thần cũng vậy, nên nhìn nhận rằng trên các chủ quyền trị
thế, có quyền vô vi của Đấng Chí Tôn, Ngài gọi là Nhứt Đại ( . . .) nên viết
Thiên (. . . ) nắm trọn phép thiêng liêng thưởng phạt. Đấng Chí Tôn ấy chẳng
những có quyền năng về phần hồn mà thôi, lại cũng đặng oai linh phần xác, lý
thuyết về Trời và Người đồng trị nảy sanh ra từ đó.
Cơ nghiệp Văn Vương qua đến Đông Châu là cùng vận,
mà Ngài cố quyết duy trì, mong lòng hiệp quốc, đem luật pháp đặng trị bình, lấy
nghĩa nhơn ra khử bạo.
Ngài hiểu rõ rằng quyền hành chánh trị chia ra có
hai phần :
1 . Sanh hoạt của thi hài.
2 . Biến hóa về tâm lý.
Nên Ngài cho luật pháp là cơ quan độc thiện để trị
an thiên hạ, còn đạo nhơn nghĩa đủ thế kềm thúc tánh đức của người đời, nên
Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở vọng chấn hưng Vương đạo.
Thương thay một Đấng chí Thánh như Ngài mà cũng
phải chịu bề thất vọng, bởi gặp buổi đời đã quá bạo tàn, nên cây quạt và mảnh
mền là đạo nhơn nghĩa của Ngài không đủ thế quạt nồng đấp lạnh. Ngài phải thối
bước về quê, cam phận thiệt thòi, trọn
đời ngồi dạy học.
Bài tự thán “
Chi Lan “ của Ngài, ai đọc đến cũng phải rơi châu đổ ngọc.
May thay, qua đến đời Khổng Cấp (Tử Tư) là đích tôn
của Ngài, dạy đặng một trang môn đệ là Mạnh Tử, rất nên đáng bậc triết hiền nối
chí của Thánh nhân, cố mở mang Đại học.
Triết lý của Mạnh Tử là: tại Minh đức tại Tân dân,
tại chí ư Chí thiện.
Người đi châu lưu nước nầy qua nước nọ, lấy nhơn
nghĩa đặng khuyến khích nhơn tâm, cảm hóa khắp chư hầu, chỉnh đốn thế chuyên
Vương đạo.
Thật ra các xã hội Á Đông nầy đã nhờ ảnh hưởng công
nghiệp của người lắm lắm.
Đời Đông Châu đương sôi nổi giặc giã chiến tranh,
cả ác hành sử không cùng chép, mà qua đến đời của người thì trở lại như xưa,
tin dùng Bổn thiện, thật tài chuyển thế của Ngài rất nên siêu việt.
Nhơn đạo của Ngài cảm hóa từ đế vương cập đến thú
cầm. Khi viếng Tề Tuyên Vương, luận đến đức thì vua nói khiêm rằng sợ e không
đủ nhơn mà an giữ dân sanh. Mạnh Tử cho rằng vua đã có.
Xin trích lục nguyên văn ra đây cho chư Đạo hữu
lưỡng phái xem tường tận :
Thần văn chi Hồ Ngột viết: Vương tọa ư đường
thượng, hữu khiên ngưu nhi quá đường hạ giả, vương kiến chi, viết : “ Ngưu hà chi ? ”
Đối viết: “Tương
dĩ hấn chung”.
Vương viết: Xả chi, ngô bất nhẫn kỳ hộc tốc, nhược
vô tội nhi tựu tử địa.
Đối viết:
Nhiên, tắc phế hấn chung dư ?
Viết: Hà khả phế dã ? Dĩ dương dịch chi. Bất thức
hữu chư. Viết : Hữu chi.
Viết: Thị tâm túc dĩ vượng hỷ ! Bá tánh giai dĩ
vương vi ái dã, thần cố tri vương chi bất nhẫn dã.
Vương viết : Nhiên. Thành hữu bá tánh giả. Tề quốc
tuy biển tiểu, ngô hà ái nhất ngưu ? Tức bất nhẫn kỳ hộc tốc nhược vô tội nhi
tựu tử địa, cố dĩ dương dịch chi dã.
Viết : Vương vô dị ư bá tánh chi dĩ vương vi ái dã. Dĩ tiểu dịch
đại, bỉ ô tri chi ? Vương nhược ẩn kỳ vô tội nhi tựu tử địa, tắc ngưu dương hà
trạch yên ?
Vương tiếu viết: Thị thành hà tâm tai ? Ngã phi ái
kỳ tài, nhi dịch chi dĩ dương dã. Nghi hồ bá tánh chi vị ngã ái dã.
Viết: Vô thương dã ! Thị nãi nhân thuật dã ! Kiến
ngưu vị kiến dương dã. Quân tử chi ư cầm thú, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử,
văn kỳ thanh bất nhẫn thực kỳ nhục. Thị dĩ quân tử viễn bào trù dã.
Vương duyệt viết : Thi vân : Tha nhân hữu tâm, dư
thổn đạc chi. Phu tử chi vị dã. Phù ngã nãi hành chi, phản nhi cầu chi, bất đắc
ngô tâm. Phu tử ngôn chi, ư ngã tâm hữu thích thích yên. Thử tâm chi sở dĩ hợp
ư vượng giả, hà dã ?
Dịch nôm :
Hạ thần nghe ông Hồ Ngột nói chuyện lại rằng:
Một ngày kia vua đương ngồi nơi thềm nhà, có kẻ dắt
trâu đi ngang qua. Vua thấy liền hỏi rằng : Dắt trâu đi đâu ?
Kẻ kia thưa rằng: Dắt đi giết đặng bôi chuông.
Vua bảo rằng: Tha đi, ta không nỡ thấy nó sợ hãi vì
vô tội mà đến chỗ chết.
Kẻ kia thưa lại rằng: Vậy phải bỏ phép bôi chuông
chăng ?
Bệ hạ lại nói: Bỏ sao đặng, phải bắt dê mà thế cho
nó.
Chuyện ấy chẳng biết có không ?
Tuyên Vương nói: Có.
Mạnh Tử lại rằng: Một tấm lòng ấy cũng đủ làm đạo
vua rồi. Trăm họ đều cho Bệ hạ tiếc con trâu, nhưng hạ thần đây thì lại biết Bệ
hạ vì thương không nỡ giết.
Tuyên Vương đáp rằng: Phải, trăm họ cho như vậy
cũng thật, nhưng nước Tề nầy dầu bé nhỏ, Trẫm lại tiếc gì lấy một con trâu.
Mạnh Tử nói: Bệ hạ cũng chẳng nên lấy làm lạ rằng,
bá tánh cho Bệ hạ tiếc của, vì đem dê nhỏ mà đổi trâu lớn thì biểu bá tánh hiểu
sao ? Nếu vua thương là vô tội mà phải bị chết thì trâu với dê có khác gì nhau.
Vua Tuyên Vương cười rằng: Nào bụng Trẫm có gì khác
nữa đâu, nhưng nếu không phải là tiếc của thì sao lại biểu đem dê mà đổi, trách
sao bá tánh không cho Trẫm như vậy.
Thầy Mạnh Tử lại rằng: Không hại gì, vì đấy cũng là
một điều nhơn. Trông thấy trâu sợ mà chưa trông thấy dê nên mới vậy. Người quân
tử đối với thú cầm, thấy sự sống mà không nỡ trông thấy chết, nghe tiếng kêu la
rên siết nên không nỡ ăn thịt. Bởi cớ nên
người quân tử hằng lánh xa lò bếp.
Vua Tuyên Vương rằng: Ở trong Kinh Thi có câu :
Người khác có lòng ta đo đặng đấy, ấy chính thầy như thế đó. Than ôi, việc ấy
Trẫm làm đã đặng xong rồi, mà đến lúc hỏi lại, bụng Trẫm thì thật không biết tả
tại làm sao. Nay khanh nói như vậy, lòng Trẫm thỏa thích vô cùng, nhưng không
biết rằng, tấm lòng ấy sở dĩ đã hiệp với vương đạo nơi đâu ?
Tiếp sau thì Đức Mạnh Tử luận qua Vương đạo.
Nghĩ tình cảnh của Tề Tuyên Vương gẫm rất buồn cười
: Lễ bôi chuông không dám bỏ, mà thấy đặng sự sợ sệt của trâu đến nơi chỗ chết
lại biểu tha rồi nhủ bắt dê đem thế. Nếu thấy dê cũng tỏ dấu kinh hãi sợ sệt,
chẳng hiểu Ngài sẽ biểu thế con gì, chắc là biểu đổi gà ! Trách sao bá tánh không cho Ngài là tiếc của,
đem dê bé đặng thế trâu to. Thật chánh sách trị đời cũng âu mắc mỏ.
Bỏ luật pháp thì loạn lạc, muốn giữ nghiêm luật
pháp cho bá tánh đặng thái bình thì phải trị, mà hễ đụng chánh trị ắt có kẻ vừa
lòng mà cũng có người mếch dạ. Bởi cớ nên các Đấng Thánh nhân ham giáo hóa hơn
ưa chánh trị.
Đức Khổng Phu Tử cũng nhờ ác hành Đông Châu Liệt
Quốc trong trường chiến đấu đua tranh, công danh quyền lợi nó giáo minh Bổn
thiện của Ngài, mới đắc pháp cao thâm chí thiện.
Những triết lý Thánh hiền, dầu cổ dầu kim cũng thế,
cốt để dìu dắt nhơn sanh đi thong thả
trên con đường lành cho cùng tận, đặng phục nguyên Bổn thiện của mình, các tôn
giáo gọi tên là Đạo.
Ngày nào Bổn thiện đã phát minh thì cảm hóa chúng
sanh rộng thế : hèn thì làm cho một gia đình thiện hành gia pháp; trọng thì
giúp quốc gia xã hội, thiện hành quốc chánh; còn tối đại thì làm cho toàn thiên
hạ đặng thiện giáo hiệp chủng đại đồng.
Ấn Độ thuở trước tin thờ lý thuyết đa Thần
(Polythéisme) vì tư tưởng cổ nhân thường hay ngó cả quyền năng Tạo hóa mà so
sánh cùng mình, bởi thế mà cho các quyền lực vô hình cũng có đủ khôn ngoan cùng
sự quyết định.
Sau, tư tưởng ấy lại trở xu hướng về Đấng Chí Tôn,
dựng căn bổn cho Đạo Bà La Môn (Brahmanisme) từ thử.
Tạo hóa càn khôn sanh ra do một chủ quyền của Trời.
Trời lập nên đời vì ái, mà ái kia pha lẫn cùng tình, Ngài tạo gọi là Brahma,
Ngài diệt gọi là Siva, Ngài bảo tồn gọi là Vichnou, ấy mới gọi Chí Tôn Tam Thế
(La Trinité).
Vì thuyết phân tánh giáng sanh ấy nên cho các đẳng
linh hồn đều phải luân hồi chuyển kiếp, luật thiên nhiên định cho mỗi linh hồn
trong càn khôn thế giới phải tùng theo hình trạng và bậc phẩm sanh hóa của
mình, đặng đi mãi tận đường tấn hóa.
Đạo Bà La Môn dạy phải thiện niệm, phải hạ mình,
phải nhỏ nhoi, phải kiên nhẫn, tha thứ tội người, thương yêu kẻ yếu, cung kỉnh
phụ nhơn, khoan dung vật loại.
Tiếc thay một nền tôn giáo cao siêu như vậy mà cũng
đã làm cho chia phân đảng phái, gieo lắm lẽ bất bình trong nền phong hóa, rồi
lại giúp những tay hành đạo độc chiếm quyền hành, nhưng cũng vì nhờ đó mới có
Thích Ca ra chuyển Đạo.
Ấy là một tôn giáo đã dìu đường và đã lập vị cho
Phật.
Lý thuyết của ông Zoroastre nước Perse lại không nhận rằng chỉn có một quyền Chí Tôn
tạo thế, mà đời lại do nơi cơ quan tương đối mà sanh ra, cũng như cả càn khôn
thế giới. Đời ở nơi ánh sáng và bóng tối (Dương quang và Âm quang), sự thiệt
cùng sự giả, sự lành và sự dữ pha lẫn với nhau mà biến hình.
Ormuzd là hình trạng của
lành lấy tư tưởng Tạo hóa nên đời, vì lời phân định, cho ngôn ngữ là quyền năng
cảm xúc của sự thật và trí lực khôn ngoan.
Ahriman là hình trạng sự
dữ và sự tối tăm gọi là vật sự. Sự lành phải càng ngày càng tấn bộ đặng tiêu
trừ sự dữ, cho nên Ormuzd thế nào cũng đặng đắc thắng mà thôi.
Giáo lý Zoroastre tùng y tư tưởng ấy nên cho rằng
thiện tâm là sự thật. Hành tàng sự thật hoạt động ra ngoài, là chơn chánh trong
lời nói và thanh bai trong việc làm.
Bởi cớ nên quốc dân nước Perse (nước Ba Tư cổ) tín
ngưỡng tôn trọng sự thật thà và sự thanh bai chơn chánh, gọi là hình bóng linh
quang hữu vi với linh quang vô hình, nên lấy lửa đặng làm đạo hiệu. Triết lý nầy
giống mỉa mai triết lý của Đức Lão Tử.
Dân Celtes
và dân Gaulois là nguồn cội dân Pháp
gọi là Druides, truyền một giáo lý y
theo tánh đức của Gaulois là trọng nhơn, ái nhân và thị tử, tánh nghĩa hiệp cho
là đầu các tánh đức, vì gồm trọn cả ba tánh đức trên kia. Lý thuyết nầy giống
nửa phần của Đức Khổng Phu Tử.
Triết lý dân Hébreux
là thỉ tổ của nước Do Thái thì nói Đức Chúa Trời là quyền năng tự do tự chủ.
Trời sanh muôn vật do quyền tự chủ của Ngài. Trọn loài người cũng vậy, đều sản
xuất nơi phép tự do, hoặc là phải vâng lịnh, hay là không vâng lịnh, cũng rộng
để quyền người tự chủ. Theo giáo lý ấy, cả thảy đều nơi quyền hành của Trời đã
định trước và ban cho mà gầy nên phận sự. Đạo của con người đối cùng Trời thì
vẫn là vô hình, trả vay thưởng phạt chỉ ởtại thế mà thôi.
Đạo ấy dạy phải thương yêu và nhơn đức với người.
Điều chi mình không muốn ai thi thố với mình thì đừng xảo dụng đối cùng kẻ khác
(Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Thế trị của đời phải do Thiên lý, phẩm vị cao
trọng vua chúa kể như hình phạt thiêng liêng.
Triết lý dân Grecs thì cách trí và cách vật học của
mấy vị hiền triết Sophiste, kế sau có Socrate, Platon, Aritote, l’ Épicurisme,
le Stọcisme, rồi tới học đường Alexandrie và triết lý Gia Tô giáo.
Cách vật học hay là thuyết Sonienne, khi tìm tàng
đặng thấu rõ cơ quan vạn vật, toàn thể của vật chất thì biểu rằng muốn thuyết
minh ra đặng, chỉ cậy nơi tư tưởng. Ông Héraclite nói rằng : tư tưởng ấy cũng do nơi hình thể mà có, nên cho rằng,
chẳng điều chi có sẵn, cả thảy bởi biến thành. Chi chi cũng qua, qua rồi thì
tuyệt, con người không tắm nơi một dòng nước đặng hai lần.
Linh hồn chúng ta là một điểm linh quang của Chí
Tôn, song đặng biết suy đoán, nó có thể hiệp một cùng sự chơn thật đặng, là khi
nó đã đồng tánh cùng thế giới càn khôn, nghĩa là cùng Đấng Chí Tôn Tạo Hóa. Dạy
phải kiên nhẫn và chịu mọi điều khổ não, ấy là luật thiên nhiên đối phó cùng
đời.
Linh hồn chết tại nơi thể chất chớ nó hằng sống nơi
cõi vô hình. Các xã hội cũng phải như người, lấy toàn cầu làm căn bổn, và lập luật
phải tùng theo hình trạng của chánh trị càn khôn.
Ông Anaxagore để tư tưởng ra ngoài vật chất và hơn
vật chất, nên nói tư tưởng hành động khỏi ngoài hình thể. Sự khôn ngoan biết
hết những điều đương nhiên và vị lai lại làm cho hoạt động hiển nhiên cả thảy.
Cách trí học thì nơi Pythagore truyền giáo. Theo
Ngài thì sự cùng luận của vạn vật là do tổng số của nó đã lập nên đời hiện hữu.
Linh hồn là một phần số trong hằng hà sa số ấy, có riêng năng lực hoạt động một
mình. Đạo đức là điều hòa nhã, luật hình là cơ thể tương giao, tình bạn
tác là
hình đồng đẳng.
Triết lý của mấy vị hiền triết Sophiste thì đem
tuyệt đối và chơn lý ra thay thế cho tương đối và ước thể. Họ quyết định rằng,
sự thật mà đặng là nhờ người biết làm cho nó ra thật, chớ kỳ trung chẳng có chi
thật.
Trong phong hóa thì các Ngài lại đem hiền đức tương
đối là điều đẹp đẽ và hữu dụng mà thay thế cho tuyệt đối.
Theo phép chánh trị thì các Ngài lại thế ý tương
đối cưỡng hành vào ý tuyệt đối quyền lực. Làm đầu các Đấng triết hiền ấy là ông
Protagores và Gorgias.
Ông Socrate còn xuân thời vốn là nhà hóa học và
thiên văn. Ngài cũng như ông Anaxagore cho rằng, thật sự của càn khôn không ở
nơi trạng thái mà lại do nơi tư tưởng. Ngài lại cố tìm hiểu sâu xa hơn ông
Anaxagore.
Sự khôn ngoan chỉ kiếm có một nguồn lành. Tánh tầm
thiện là của trí khôn ngoan và tài tình xu hướng. Triết lý nầy là căn bổn của
đạo ông Socrate làm tâm pháp.
Cách luyện đạo của Ngài về tinh thần chia ra hai
phần :
1 . Là đem điều kỳ dị của giả pháp mà so sánh cùng
sự thượng đạt của chơn pháp.
2 . Là phép Thần sản (phương pháp giục tinh thần biến hóa).
Phương pháp sau nầy dạy cách thế học hỏi thế nào
cho sự thật của tinh thần giấu giếm ấp yêu biểu lộ, hoặc là minh tra mình, hay
là cầu người khác dùng phương vấn khảo.
Luyện pháp ấy mà đoạt thành là do nơi công nghiệm
và tổng luận.
Ông Socrate góp mọi điều vào tư tưởng cả thảy, vì
Ngài là nhà tư tưởng thượng đạt. Trong pháp môn tư tưởng sản xuất pháp môn hành
động, và nảy sanh phong hóa xã hội. Ai đã tùng theo tư tưởng mình và sắp đặt đủ
trật phẩm thứ tự, xử sự hay, chê điều dở, thì chẳng hề phản đối lại cùng tư
tưởng khi đã biến hóa việc làm.
Do đó mà tầm nguyên của tài tình trí tuệ và thật
dụng lấy nó, vì đã chỉ rõ rằng sự ham muốn hằng tìm những điều của trí khôn
ngoan định cho là phải.
Chẳng có một ai thật lòng muốn dữ.
Triết lý của Ngài cho cả thảy mọi điều (nghĩa là
trọn tâm lý của đời) cũng do bởi tài tình trí tuệ.
Ngài hằng khuyên phải học lành đặng làm lành, hễ
dạy thì người sẽ trở nên lành đặng. Người lành cần phải thông minh và đạo đức.
Đạo duy có một, tuy thể hình dầu nhiều mặt, duy
khôn ngoan hiền ngõ mới có can đảm và điều hòa, rồi lòng công bình nương theo
mà hiện tướng, có công bình thì tự nhiên mới có thật hành phước thiện (ấy là
đạo của xã hội), hành phước thiện đặng mới để tâm lân tuất thương sanh (ấy là
mặt chơn đạo).
Thuyết của Ngài về hình trị thì chiếu theo mặt luật
thiên nhiên, nghĩa là cho luật tự tả, không hơn tâm luật.
Ngài cho tâm luật không thể tự tả, vì nó là luật tự
nhiên và của Đấng Chí Tôn sở định, cho nên chẳng sai sót bao giờ. Bởi cớ nên
chư vị hiền triết Sophistes hằng đem cơ thể Tạo đoan mà đối cùng Thế luật.
Thiệt luật là sự tự nhiên của mình, ấy là khối khôn
ngoan của mình vậy.
Lòng phước thiện do ở nơi công bình đoán xét mà ra.
Chúng ta không nên đem cái dữ mà đối cùng sự dữ, phải tìm tòi điều lành hay là
mọi sự đặng nên chí thiện. Chúng ta nên xem cả loài người như bạn thiết của
chúng ta, đặng gìn lòng nhân ái.
Trong gia đình thì vợ cũng đồng thể cùng chồng, tuy
phận sự trọng khinh đặc biệt nhưng đàn bà nếu có phần hơn là biết giữ vẹn toàn
đạo hạnh.
Cổ nhơn cho sự làm lụng là nhẹ thể hay là hạ tiện,
còn Ngài lại cho là vinh diệu và cao thượng. Nhờ tư tưởng nầy mà ra phép giải
thoát gia nô.
Chánh trị
là đặc tài của sự công bình và công ích. Những người đủ quyền đủ đức mới đáng
cầm quyền. Phương bạo tàn thắng thế và cầu may là điều hại của nền chánh trị,
do đấy mà gầy ảnh hưởng dân trị.
Bậc khôn ngoan không dùng cái mạnh của quyền lực mà
cưỡng bức kẻ khác, duy đặng quyền cám dỗ cho thiên hạ nghe mình mà thôi (đây
Ngài lại mở phép dân trị và dân cử).
Ông Platon cho rằng tình dục của đời là ảo mộng.
Thất tình cho ta thấy những điều bóng dáng, duy có tinh thần lại từ từ tăng
tiến. Tinh thần đi từ trong cõi bóng dáng vô thường mà đến nơi chơn thật thiêng
liêng vô tận (Sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc
phục như thị).
Theo thuyết của Ngài về tư tưởng thì luận như vầy :
Tư tưởng về phần vật là tại nơi nguyên do sanh
hoạt. Sanh hoạt chẳng chi khác hơn là mình hòa hiệp và làm cho thỏa thích tư
tưởng. Mỗi người phải nói rằng mình chỉ sống đặng tương hiệp cùng tư tưởng của
toàn nhơn loại, tỷ cũng như một bổn sao lục mà có ra là tại chép in bổn chánh.
Thuyết của Ngài về yêu mến sự lành thì nói rằng bởi
đẹp đẽ hình dạng mà xúc cảm thương yêu, rồi kế đẹp đẽ tâm hồn mới bày ra hành
vi cao thượng (chỉ nghĩa mọi điều buộc phải trọn lành, tâm hồn và xác thịt).
Về phương diện cảm hóa, Ngài nói, đức tánh buộc
phải trùng phùng cùng linh hồn về phần tư tưởng nên tự nhiên nó phải giống
Trời.
Tánh hiền lương, tánh can đảm với tánh hòa huỡn làm
cho linh hồn có mực thước, điều hòa của Ngài gọi là tâm trung công chánh.
Công chánh bề ngoài là những điều đã làm y theo cho
có trật tự của toàn xã hội định trước. Trong công chánh nảy sanh ra phước
thiện.
Mặt chánh trị thì Ngài lại hay lộn lạo cùng phong
hóa. Mục đích chánh trị theo Ngài thì làm thế nào cho dân đặng hiền lương và
hạnh phúc.
Bởi cớ nên Ngài định cho quyền quốc gia lớn hơn
quyền dân sanh quá lẽ. Quốc gia bao gồm cả thảy, còn dân sanh chẳng có chút gì,
dầu cho gia nghiệp với gia đình, như buộc phải thế, thì cũng nạp nhập quốc gia
quyền lợi (Đó là thuyết Cộng sản của ông Platon và chánh chung trị của Ngài).
Rốt luận, Ngài kể hình án là cơ quan đền tội.
Ông Aristote cho đời người chẳng phải do nghĩa lý
càn khôn mà ra như ông Platon đã thuyết, mà do nơi tự ngã. Hành động hoàn toàn
của phàm thể là tư tưởng, vì nhờ tư tưởng giải nghĩa và lập thành sanh hoạt.
Sanh hoạt ấy là tư tưởng. Sự hành động thật của con người chẳng phải duy có
hoạt động lợi sanh, hoan lạc trong những điều thường hành của bậc thường nhân
mà thôi, mà là thật hành sở định của trí lý hay là của tư tưởng hoàn toàn.
Thuyết tự ngã của Ngài phân ra :
1 . là hạnh đức triêm nghiệm. Hạnh đức đứng đầu là
triêm nghiệm chơn lý hay gọi là khôn ngoan của trách nhiệm.
2 . là hạnh đức năng hành. Kế hạnh đức triêm nghiệm
thì có hạnh đức năng hành, nó buộc tài tình của ta tùng theo trật tự đặng giúp
hay cho sự triêm nghiệm thật hành. Hễ kể cho hạnh đức năng hành là hèn thì phải
dụng trung dung làm chuẩn đích, tỉ như can đảm là trung dung của sự táo bạo và
nhát gan.
Hạnh đức năng hành là cơ quan tranh đấu buộc con
người phải ráng lực, mục đích và giá trị của nó là cho ta đặng vui hưởng và an
tịnh trong hạnh đức triêm nghiệm. Theo
thuyết xã hội thì Ngài cho lòng nhơn ái và tánh hữu giao là hai hạnh đức tối
trọng. Do đấy :
1 . là sanh ra thuyết hữu giao nầy :
Hay hơn và mặn nồng hơn là mình thương người, đừng
để người thương mình, mình làm phải hơn
là thọ cái phải của người. Ý nghĩa bằng hữu đem ra thay thế cho chủ nghĩa bình
đẳng là vì cho người bạn của mình là mình vậy.
2. là thuyết công bình :
Sự công bình buộc phải kính trọng sự bình đẳng của
mọi người. Phép công bình chia ra :
- là mặt công bình phân
phát,
- là mặt công bình đổi
chọn.
Công bình trước thì định chia
phận sự cho những hạng người dùng theo tài đức.
Công bình sau thì định
cầm đồng giá các vật đổi chọn, tỉ như trong thương mãi hay là phương chế
hại.
Theo chánh trị thì ông Aristote cho rằng, quốc gia
là sự tương hiệp của những người tự do và đồng đẳng. Ngài đánh đổ thuyết Cộng
sản của ông Platon, vì người minh tả rằng, của cộng sản ít hay đặng xem trọng
mà bảo tồn, nghĩa là gìn giữ hơn của tư sản.
Ngài chia xã hội làm hai phần :
- là hạng người tự do.
- là hạng người nô lệ.
Ngài nói rằng, hạng phẩm nô lệ là tự nhiên tạo đoan
đã định vậy. Rốt luận, Ngài tỏ rằng quyền hành là của chung. Vì đó mà chánh trị
dân chủ và lý thuyết giục loạn cũng do nơi lầm lộn phương diện bình đẳng phải
lẽ cùng không mà ra.
Giáo lý của ông Pyrrhon lại để vào mặt nghi
tín.
Ngài nói rằng, khôn ngoan hơn là đừng năng định
quyết và hay hơn là đừng năng xử sự.
Giáo lý của ông Épicure quyết định rằng, cảm xúc
con người ở nơi ngũ quan mà ra. Vậy kiếp hữu sanh ở nơi vật chất. Tánh đức chí
thiện ở nơi sự vui thích vững bền chớ không phải tại nơi sự vui thích tạm hữu
và nơi kiếp thác. (Các Đấng thiêng liêng đã bị Ngài trục xuất ra khỏi càn khôn
thế giới). Ngài dạy làm phương nào cho đặng hạnh phúc là hơn.
Triết lý thị khổ (Stoicisme của ông Zénon và các
môn đệ của Ngài cho rằng vật chất là vô năng, còn tinh thần và trí thức là hữu
năng).
Thuyết giáo các Đấng ấy như vầy :
- a) là thuyết tự do.
Nói rằng mỗi người tựu trung đều
có tánh tự do nên ham muốn thật của con người là ráng sức chống cự, quyết thắng
những điều ngoại trở tự do.
Trong điều ngoại trở ấy cũng có điều cho ở nơi
mình, tỉ như chí khí lớn, trong đó lại chứa trọn tư bổn tánh chất của mình, duy
có sự ham muốn của mình mới có hay, hay là dở.
Cũng có lắm điều chẳng phải do nơi mình, tỉ như sự
giàu sang và sức khỏe là những điều của chúng ta thích hưởng, nay là tư hưởng
hoặc thật hoặc giả, nhưng chúng ta không hề định cho hay cho dở đặng.
Tánh đức chí thiện mới thiệt tư bổn của mình.
- b) là thuyết đồng bào và lẽ công bình :
Sự tự do hay gọi rằng khôn ngoan đều ở trong tánh
đức của mỗi người, ấy là một cơ quan liên hiệp cả toàn nhơn loại.
Đời vốn là một cái đại gia đình mà thôi.
Còn quyền lực là căn bổn của phép công bình, ấy là
khôn ngoan tự tả. Tri ý về quyền lực nầy chung qui bởi sự lộng pháp và những
vấn đề nô lệ.
- c) là thuyết chí thiện :
Chí thiện là đức tánh làm tự lạc lấy mình.
Duy đúng bậc hiền mới là tự do, mới là chúa xinh lịch và hạnh phúc, ngang
hay là trên bậc Thần, Tiên mà thôi. (Vô sự tiểu Thần Tiên đã đành, còn cơ quan hữu sự của
đời kia mới tính sao ?)
Thuyết ấy giúp đời thoát vòng lục dục và trở nên vô
cảm. Ngài có những bạn đồng chí là Gléanthe và Chrysippe hiệp nhau lập những
giáo đường : Ariston ở Ohio, Hérille ở Carthage, Diogène ở Sélencie, Sénex,
Epictète và Marc-Aurèle.
Môn đệ của Ngài nổi danh thị đời hơn hết là ông
Diogène.
Còn những triết lý kim thời của các bậc vĩ
nhân :
Đại Pháp thì có ông Descartes, Pascal, Diderot, Lamettrie, Voltaire,
Buffon, Montesquieu, Turgot, Rousseau, Victor Hugo, Condorcet, Auguste Comte,
Saint Simon, Fourier, Léon Bourgeois, vv . . .
Anh quốc thì có ông
Bacon, Hobbes, Locke, Adam Smith, Bentham, Stuart Mill, Darwin, Herbert
Spencer, Nietgsche, Shcopenhauer, vv . . .
Đức quốc thì có ông
Luther, Kant, Fichte, Scheling, Hégène, Goethe, vv . . .
Chúng ta chẳng cần kể
tên môn đệ Đức Khổng Phu Tử, nhứt là trong Tam thập lục Thánh và Thất thập nhị
Hiền mà làm gì vì chưng phong hóa Việt Nam ở nơi Khổng môn mà xuất hiện,
nên ai đã biết đặng chút ít nho văn, cùng có
đọc đến bộ Tứ Thơ ắt biết rõ tánh danh các Đấng.
Còn môn đệ của Đức Lão
Tử, ngoài ra Mặc Địch, Trang Tử, Châu Tử, cũng còn lắm Đấng nối chí của Ngài
đặng mở mang Tiên giáo.
Các Đấng hiền triết
toàn cầu đều để trí thức tinh thần khảo cứu đặng tầm chơn sự sanh hoạt và tánh
đức loài người đối cùng vạn vật giữa càn khôn vũ trụ nầy. Các Ngài thường hay so xúc
cảm của mình mà đo lường sự xúc cảm của toàn nhơn loại nên đã hiểu rõ rằng, cơ
quan tương đắc đã tạo nên đời phải đi đến cuối cùng con đường chí thiện, và cơ
quan liên hiệp tâm lý chỉ nhờ bổn thiện mà thôi.
Vì vậy cho nên dầu tư tưởng của các Ngài khác hẳn
cùng nhau, mà cả thảy cùng bộ hành trên nẻo truy nguyên Bổn thiện, rồi đền thờ
của các Ngài lại cũng phải dựng trên nền Chí thiện mới vững bền kiên cố đức
tin.
Giáo lý dầu khác, mà tinh ba Bổn thiện vốn chủ
quyền, bởi vậy cả giáo lý cố tầm Bổn thiện.
Bổn thiện là gì ?
Bổn thiện là linh tâm (la conscience) của ta. Thế gian vì không phân biệt
đặng bí mật của linh quang và bổn thiện là hai phận sự đặc biệt của tâm hồn nên
còn lại gọi là lòng lành, lương tâm [từ trước].
Theo triết lý thì lương tâm là sự hay biết tự
nhiên, lẹ làng mau chóng của ta tự nhiên sẵn có và những huyền vi bí mật của
tâm hồn hoạt động nơi ta.
Tánh nết, tình ý, tư tưởng, hoài cảm, tánh đức, trí
định của ta cả thảy đều là những cơ quan của lương tâm phát tướng.
Lương tâm là tánh chất (Thiên mạng) của ta đã có
sẵn để dìu dắt giúp đỡ ta trong sự hành động và hoạt động.
Nếu có nhiều lẽ vô thường của lương tâm, hoặc nhiều
hay là ít minh mẫn là vì bởi chúng ta chẳng biết tùy biến hóa của nó mà tùng
lịnh, nếu mỗi khi chúng ta để hết lòng hay là ráng định trí thì chúng ta liền
hiểu biết trước đặng sở hành quả quyết sẽ dường nào.
Thấy một vật, thấu hiểu một nghĩa lý, nhớ đặng một
câu thi thì phải để trọn tâm trí đặng thấy, đặng thâu, đặng nhớ.
Nếu chẳng phải nhờ lương tâm, tuy vân ta không thấy
đặng những vật loại, những tư tưởng, những hoài cảm, những khoái lạc, những
thương khó mà chúng ta lại tự nhiên đặng hiểu rõ như đã thấy đặng vật, tư
tưởng, đặng điều nầy điều nọ, cảm xúc đặng sự vui sự buồn, thì chúng ta độ cớ
ấy bởi đâu ?
Lương tâm không cho ta biết điều quái dị vô thường
và vô vi ngã tướng (sic, như tai nạn chưa đến mà hiểu trước đặng đỡ, mới giải
nghĩa làm sao ?)
Nó đem ta đối diện cùng thật sự hiển nhiên y theo
ngã tướng của ta, trong điều hiểu chắc xúc cảm và thi hành mọi việc.
Lương tâm là ta đó vậy. (Đây lại cho ngã tướng và
lương tâm hiệp một).
Nhờ nó mà ta biết đặng ta, chẳng phải ngoại diện mà
thôi, mà lại nội trung của ta nữa, và chúng ta lại đột nhập vào hiệp một với
chơn tướng của nó.
Nếu chúng ta vì hoài nghi mà toan bỏ điều cảm hóa
của lương tâm thì còn lại cái chi phần chắc ?
Một lương tâm không đủ làm thông suốt, đắc thông
đặng là nhờ hình vật tiếp xúc cảm, phận sự thâu đoạt hình vật ấy về phần ngũ
quan và ngoại cảm. Muốn đắc thông thì những hình vật thí nghiệm đừng mất hình
tướng, lại phải gìn giữ y nhiên.
Phận sự gìn giữ (tồn tánh) về phần trí nhớ.
Những hình vật phải tái phục nguyên hình.
Phận sự phục hình về trí, tưởng, hiệp tác đặng sắp
đặt thế nào cho hình vật có thứ tự của trí nhớ chất chứa, nên sanh ra phận sự
chỉnh đốn của tư tưởng. Kế nữa thì quyền hành động của trí khôn, lãnh phần lập
nên trí thức, là tánh suy đoán, tánh khai minh, tánh nghĩ nghị, vv . . .
Cả các hành tàng ấy, dầu hành tàng cảm xúc hay là
hành tàng trí thức cũng phải tùng quyền của trí khôn ngoan, lẽ hữu tướng, lẽ
quả báo, những nguyên ủy cuối cùng, những sự buộc ràng đức tánh cùng là chơn
lý, đều do nơi đó.
Kết luận: Khi đắc thông và trí khôn chứa để chắc
chắn đặng rồi, thì mới phổ truyền, phận sự truyền tín thì về bộ tịch, dấu hiệu
và ngôn ngữ.
Đạo thuyết luận cho lương tâm hay: Linh tâm là linh
quang của mỗi người (thường ngữ cũng gọi là Tánh linh), Đại Đạo ta gọi là Chơn
linh.
Trung Dung nói: Thiên mạng chi vị tánh, nên cũng
kêu nó là Thiên mạng.
Chơn linh của ta đặng minh mẫn mà dìu dắt, đỡ che,
dạy dỗ, trừng răn, kềm thúc thi hài đi trên con đường lành là nhờ phước cao
siêu của nó. (Có lẽ Thánh giáo Gia Tô gọi Thiên Thần là vậy).
Sự cao siêu là tổng số của các tánh linh mảy múng
chúng ta đã đoạt đặng trong mỗi kiếp sanh đứng làm người, y phép luân hồi của
tạo đoan đã định vậy : Sanh sanh tử tử đặng un đúc đào luyện tánh linh hầu mong
hiệp một cùng Đấng Chí Linh Tạo Hóa.
Cả phép thiêng liêng, dẫu điều ta quan sát hiểu
biết đặng hay là còn bí mật huyền vi, đều cốt để giúp đỡ các đẳng linh hồn đi
trên đường tấn hóa cho tới ngang phẩm vị của Chí Linh Tạo Hóa.
Vì cớ Đại Từ Phụ nói : Thầy là các con, các con là
Thầy.
Kinh Phật nói: “Nhứt
thiết chúng sanh giai thành Phật đạo.” Lời nói tuy là nghĩa lý sâu xa nhưng
chúng ta có thể tỉ thí mà hiểu như vầy :
Chúng ta đã thọ một phần hương hỏa của Đại Từ Phụ
là Nhứt điểm linh, rồi thừa nghiệp lấy sức riêng mình, dụng tư bổn ấy lập nên
gia thế (nghĩa là tu luyện, trau giồi lấy điểm linh ấy trở nên vĩ đại và phú
túc), dám so sánh sự nghiệp vô biên Tạo Hóa. Của mình là của Đại Từ Phụ, của
Đại Từ Phụ tức là của mình.
Ấy vậy, Đấng Chí Linh là Đại Từ Phụ chiết ra nhứt
điểm linh cho mình thì mình là Đại Từ Phụ, mà Đại Từ Phụ là mình, miễn đừng để
mất phần thực hương hỏa thiêng liêng, Đại Từ Phụ lấy cho người khác (nghĩa là
đừng vấn vương oan nghiệt tội tình mà hại khối chơn linh tiêu diệt).
Quyền năng của linh quang chẳng hề bị nhục thể đè
nén đặng, vì sự hoạt động và hành động của nó ở ngoại thi hài và lại có sẵn
quyền vi chủ.
Thi hài là vô năng, nếu thoát đặng hàng phẩm thú mà
làm người là nhờ có chơn linh giúp đỡ. Trong nhơn thân, người và thú vẫn khác
nhau, vì không nương quyền lực của chơn linh, xác thịt thú cũng huờn lại thú.
Dầu cho nhiều phen thi hài bị vật dục cám dỗ, giác
tánh còn ngang ngược lẫy lừng, ít tùng phục lương tâm khuyến giáo, nhưng quyền
vạn linh mạnh mẽ dễ đâu thua ! Ôi ! nếu ai ở đời đã bị một phen trừng trị bởi
quyền lực của lương tâm mới hiểu rõ Trời cao có mắt.
Oai linh nghiêm khắc của lương tâm, dầu cho một
quan tòa phàm nhặt nhiệm gắt gao thế nào cũng bì không kịp, vì nó không cần
kiểm soát án trạng mà cũng không hỏi chứng dựng tang, nhưng chẳng một lẽ gian
thoát khỏi.
Luật hình của đời xử mình, nếu không có trạng sư
thì cũng mình binh vực mình mà chối cãi, chớ còn mình mà xử mình thì chắc chẳng
còn ai bào chữa.
Hai quyền tương đắc ở một mạng sanh :
1 . là lương thiện của chơn linh.
2 . là dữ dằn của xác thịt.
Hễ chơn linh thắng nổi thì người đáng cao siêu, còn
xác thịt lộng quyền thì ắt tinh thần sa đọa.
Những thuyết thiện ác, tội phước, chánh tà, của các
tôn giáo truyền thế chỉn do theo
thắng bại của chơn linh.
Chơn linh hằng giữ bổn nguyên Bổn thiện của nó,
đặng làm kỵ vật mới đi tận cùng con đường chí thiện của Chí Linh.
Vô vi tướng của chơn linh, các tôn giáo tả ra nhiều
hình trạng, hoặc là cho rằng có hình dung khí chất, hoặc cho rằng ánh sáng
quang minh, hoặc là cho hữu hình tướng, hoặc là cho hư không tướng. Cả thuyết
lý đều có trúng mảy may chút ít, còn thiệt sự thì như vầy :
Chơn linh là một khối tư tưởng của trí thức tinh
thần con người đào tạo kiếp kiếp đời đời, hoặc cư trụ tại thế nầy hay là hiệp
một với càn khôn thế giới.
Nếu ta tu đắc kiếp, đủ quyền năng tác thành nhơn
thân (nghĩa là hình trạng khí chất của ta, còn khí chất là điển lực sanh quang
[énergie de vitalité] của xác thịt) thì chơn linh mới nhập vào mà tạo nên hình
thể thiêng liêng.
Chơn linh đến nhập xác đầu thai thế nào thì khi
nhập vào hình thể thiêng liêng cũng thế, nên gọi là phép phục sanh Thiên cảnh.
(Đức Chúa Jésus de Nazareth gọi Christ đã đặng phục sanh tại thế). Chiếu theo
đạo sử thì Đức Thích Ca và Đức Lão Tử cũng đặng như vậy.
Bổn nguyên chơn linh là tánh chất của Chí Linh nên
thường có tánh linh hiện hữu.
Ta thử so ta cùng điểu thú thì thấy điều ấy rõ
ràng. Vạn vật cũng có tánh linh nhưng mà ít hơn vì điểm linh quang rất nhỏ hơn
mình, cơ tạo lại dụng phép linh nầy đặng định phân hạng phẩm của chúng sanh. Cả
những chơn linh ấy tổng hiệp lại gọi là vạn linh sanh chúng.
Nhờ tánh linh ấy mà chơn linh mới soi đặng tận nơi
tối tăm thấy đặng sự mắt phàm không thể thấy.
Hễ có kiến thì có thức, kiến thức là căn bổn của
trí thức tinh thần. Muốn kiến thì nhờ nhãn, muốn thức thì nhờ trí. Ấy vậy, lương
tâm (gọi là linh tâm hay chơn linh) là Thiên Nhãn của trí thức loài người. Vì
cớ mà Đại Từ Phụ dạy thờ Thiên Nhãn.
Thiên Nhãn là hình trạng của lương tâm toàn thể,
làm nền móng cho Cao Đài, nghĩa là đền thờ cao trọng hay là đức tin lớn của Chí
Tôn tại thế nầy, y như hai câu thi của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm (Victor Hugo)
:
L’ oeil
mystique seul verra la religion nouvelle,
La
grande foi gite dans la conscience universelle.
Có Thiên
Nhãn mới tường chánh giáo,
Tin Cao
Đài do đạo lương tâm.
Thờ Thiên Nhãn là thờ tánh mạng mình và Chí Tôn,
nghĩa là thờ lương tâm của toàn thiên hạ (Le culte de la conscience).
Bần đạo đã luận rằng, cả đạo mạch cốt yếu giác mê
chúng sanh qui bổn thiện, nhưng bổn thiện của thế gian ngày nay lửng đửng lờ đờ
dường mê mẩn giấc nồng vật dục.
Đời tỉ như người say ngủ, mơ màng trong ảo mộng Nam
Kha, các tôn giáo dùng phương chước đặng kêu thức tỉnh : ông thì lo quạt nồng
đấp lạnh, chờ đã giấc tỉnh hồn, ông thì vỗ đít đặng giựt mình, ông lại chỏ
miệng bên tai kêu dậy, ông lại thổi lỗ mũi đặng dứt ngơi, ông bỏ vật nồng vào
miệng đặng cho thức nhấp.
Còn Đại Từ Phụ đến tạo Đạo ngày nay thì tỉ như Thầy
cầm nơi tay một ngọn đèn rực rỡ quang minh (là chơn linh) mà soi vào mắt phàm
tâm kêu định tỉnh.
Hại những nỗi tà vạy, xảo trá, gian ngược, hung
bạo, tàn nhẫn, đã gây oán chác thù, vì tâm ác chất chứa tràn đời nên các đạo
khó mong qui thiện.
Đại Từ Phụ đến mở mắt linh hồn của chúng ta rồi lại
biểu ta xem coi thế sự đã thế nào, lại nhủ rằng, muốn trừ khổ của nhơn sanh, các
con ráng qui nguyên bổn thiện, nên Thầy mới dụng bác ái từ bi làm cơ quan
chuyển thế.
Thầy trao phẩm vị thiêng liêng làm thưởng vật, lại
giao thiện giáo gọi bổn căn : Thiên vị
thì để thế truyền, thiện tâm nêu bí pháp.
Bởi cớ nên Thầy dạy Bần đạo tạo linh bài đặng thúc
giục thế gian hành thiện.
Chương trình ban thưởng sẽ nấy cho quyền vạn linh
định đoạt.
Bất cứ dân tộc nước nào, chẳng kể bổn đạo hay là
ngoại đạo, đã tận tâm phước thiện, dâng công ích cho chúng sanh. Hễ có ba Hội
là Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh đã nhìn nhận rằng, có công cả với xã
hội nhơn quần và đã đặng Giáo Tông phê chuẩn thì HTĐ ban linh bài đẳng vị
thiêng liêng.
Kỳ dư mấy vị Chức sắc Thiên phong đủ bằng chứng lụy
mình vì Đạo thì quyền Chí Tôn (nghĩa là Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp đồng) mới ban
thưởng ân phong công nghiệp.
Những các hạng phẩm linh bài kể ra sau đây :
1 . Thính thiện.
2 . Hành Thiện.
3 . Giáo Thiện
4 . Chí Thiện
5 . Đạo Nhơn .
6 . Chơn Nhơn.
7 . Hiền Nhơn.
8 . Thánh Nhơn.
9 . Tiên Tử
10 . Phật Tử.
Từ bậc Thính Thiện tới phẩm Chơn Nhơn thì phận sự
thật hành Thể pháp đặng giúp ích cho Hội Thánh về phương truyền giáo, nên hiệp
một với Cửu Trùng Đài. Tuy các Ngài không quyền chức đặc biệt thì mặc dầu, mà
quyền hành thiêng liêng đạo đức của mỗi người đã đào tạo tự nhiên phẩm trật.
Không phân biệt tôn giáo nào tất cả, những Đấng Đạo
Nhơn tu theo Phật giáo, Tiên giáo, Thánh giáo, Thần giáo, Nho giáo, cùng là các
tôn giáo khác nữa, nói cho cùng là các Chi Phái tả đạo bàng môn mà đã hữu công
cùng chúng sanh, lại có quyền Vạn linh cầu thưởng và quyền Chí Tôn công nhận
thì họ cũng đặng đồng quyền đồng thể cùng Chức sắc Cửu Trùng Đài, đặng giáo hóa
chơn truyền phổ độ.
Từ bậc Hiền Nhơn tới Phật Tử, thì lo bảo thủ Bí
pháp tâm truyền và nhập cùng Hiệp Thiên Đài làm một. Chức trách của mấy vị nầy
cũng không phân biệt tôn giáo nào, hoặc là tu hay là không tu, quyền Vạn linh
và quyền Chí Tôn đã công nhận cho rằng đáng phẩm thì cũng đặng đồng thể đồng
quyền cùng Chức sắc HTĐ, chung nắm quyền hành luật pháp.
Ấy là lời ước thuyết, còn chương trình quyết định,
khi quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn phê chuẩn rồi thì Hội Thánh sẽ tuyên bố ban
hành.
Vậy thì Đại Từ Phụ đến khai Tam Kỳ Phổ Độ có đem
theo một gia nghiệp thiêng liêng xuống thế, rồi nắm tay các bậc lương sanh mà
dắt đến một nơi vinh diệu, lại bảo rằng : Các con phải leo cho thấu trên chót
Đài Cao nầy cùng Thầy đặng xem toàn thể của địa hoàn, ngó cho chường, suy cho
quyết, rồi chung tâm hiệp trí cùng Thầy lo liệu bề chuyển thế.
Đại Từ Phụ còn giao nơi tay của chúng ta những phần
thưởng hữu hình và quyền lực thiêng liêng của Thầy đã sẵn sàng dành để mà nhủ
rằng :
“ Của cải nầy đủ thế lực cám dỗ nhơn sanh qui hồi
Bổn thiện”.
Thừa tánh tham của phù du thế tục, các con trao
phẩm vị thiêng liêng. Do tâm dữ tranh quyền lộc công danh, các con đổi Chí linh
Bổn thiện.
Cơ quan cứu khổ chúng sanh cũng do nơi đó.
Chúng ta phải tưởng tượng lại coi Ngũ Chi Đại Đạo
là Phật giáo, Tiên giáo, Thánh giáo, Thần giáo và Nho giáo bây chừ chẳng khác
nào như ngũ mã tranh tiên, còn Thầy đến bảo ta làm Chủ khảo.
Ông chủ khảo không phải là Mã Ôn, mà Mã Ôn thế nào
làm chủ khảo, nên chúng ta không tùng một đạo giáo nào mà hành chánh pháp của
Chí Tôn, chỉ nắm chặt chủ quyền ngồi phán đoán, đặng nâng cao giá trị của Phật
pháp hiệp chơn truyền, mới vẹn tiếng chấn hưng Phật đạo.
Dầu hồi buổi chưa tu, chúng ta đã chán thấy sự hay
dở của Ngũ Chi Đại Đạo là thế nào và cũng thấu rõ lẽ chánh tà của kẻ cầm quyền
hành đạo. Chẳng cần để luận những Chi tả đạo bàng môn, dầu chánh pháp chơn
truyền mà đời chế giảm sửa đương cũng đã thành phàm giáo.
Ta đã lãnh vai làm chủ khảo, thì buộc mắt ta phải
xem cho chánh, tai phải nghe cho chánh, miệng ta phải nói cho chánh, thân ta
phải làm cho chánh, trí ta phải định cho chánh, tâm ta phải giữ cho chánh, thì
mới đủ quyền hành cầm cân công bình thưởng phạt thiêng liêng, hiệp tâm lý đặng
qui nguyên phục nhứt.
Kìa chúng ta đã thấy chán chường dưới mắt những
điều lưu hại của tả đạo bàng môn : Hoặc là theo Nho tông, thay vì quạt nồng đấp
lạnh cho đời, lại nhốt dân chúng vào hòm chôn sống, hay là quăng vào nơi tuyết
giá lầm than; hoặc là theo Thần giáo, thay vì lo giục thức tỉnh người đời, lại
sát phạt ra trường lưu huyết; hoặc là theo Thánh giáo, thay vì kêu thức tỉnh
người đời lại để miệng buông lời chửi rủa; hoặc là học theo Tiên giáo, thay vì
hòa giải cho an ổn tâm đời, lại tính kế đồ mưu giục loạn; hoặc là theo Phật
giáo, thay vì tùng phương giải khổ, lại tăng thêm sầu thảm của chúng sanh.
Một trường náo nhiệt đua tranh, xem mặt Đạo còn hơn
mặt thế.
Chúng ta đã chán ngán những xảo mị của đời nên
quyết tầm chơn, nương theo Từ Phụ.
Bần đạo thấy đặng một lẽ phi thường không phương
hiểu, nghĩa là những trang đạo đức lại có sẵn tâm tu, đã hưởng mùi chánh giáo
của Chí Tôn mà còn thối gót phục tùng tả đạo.
Thật là làm chủ không muốn, làm tớ lại vừa lòng,
tâm lý nhơn sanh vốn không cùng đoán.
Thầy đã tuyển chọn các bậc lương sanh, lập nên Hội
Thánh đặng làm hình thể của Thầy, ban cho đủ uy linh quyền thế, làm cho Hội
Thánh đủ quí hóa cao trọng đặng đáng mặt làm thầy, lập luật pháp, tuyển hiền
tài, định quyền hành, phân đẳng cấp, nhứt là luật pháp thì thật là một cơ quan
độc thiện làm cho hòa nhã liên lạc cả con cái của Thầy, hầu giảm hại chia phe
lập phái. (Thầy đã nói : Kẻ nào chia phe lập phái là kẻ thù nghịch của Thầy.) Hễ thù địch của Thầy tức là thù địch của nhơn
sanh, mà thù địch của nhơn sanh ấy
là thù địch
của toàn Hội Thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét