Đối với thù địch xưa nay, tâm phàm vốn ít hay thiện
xử. Vậy thì sự thù oán nghịch lẫn của vài vị Thiên phong trong Hội Thánh gẫm
cũng thường tình. Xin mấy vị rộng nghe ráng hiểu.
Nào dè những cơ quan pháp luật, thay vì buộc con
cái của Thầy chung hiệp cùng nhau, lại đào tạo quyền hành quí trọng nên mùi thơm,
giục cho sanh chúng tranh giành, làm cửa Đạo biến thành trường náo nhiệt.
Ôi ! Sự thất
vọng của Thầy rất nên thê thảm !
Hại thay mới 8 năm truyền giáo, nên nhơn sanh chưa
đủ thông luật Đạo cho cùng, bị cám dỗ nên nghe lời xảo lảo của kẻ bất lương, giúp
thế lực cho tà tâm xô chánh giáo.
Thật ra thì nhơn sanh ngày nay còn theo người chớ
chưa theo Thầy, nghe Chức sắc chớ không nghe Đạo. Nếu chúng sanh theo người thì
là theo phàm tâm, mà phàm tâm vốn một người một thể, dầu cho tánh đức của mấy
vị Giáo chủ cũng chẳng phù hợp nhau nên sanh hại chia phe lập phái.
Bần đạo thử hỏi, thoảng như Đạo phải cô thế điêu
tàn, tội trọng ấy đổ cho ai gánh ?
Của cải của Trời cho nhơn sanh, nhơn sanh chê, nhơn
sanh đốt thì nhơn sanh chịu. Báu của ai phòng để dạ giữ gìn, còn của thế mà mất
đi cũng thế, miễn cho kẻ tà tâm có thế lực đôi hồi, loạn Hội Thánh đoạt vị ngôi
là thỏa vọng. (Ấy là học theo truyện Tề Thiên
loạn Thiên cung đặng nài chức Bậc Mã Ôn).
Chẳng biết
những người tâm đạo mới nghĩ ra
sao ?
Nè chư Đạo hữu lưỡng phái,
Xin nhớ rằng Đạo là của chung cả chúng sanh, dầu
cho ai thù ai oán, ai giận ai hờn, mưu hại lẫn nhau cũng trối kệ, chớ vì thù
oán giận hờn, ai ra tay độc phá nền Đạo thì người ấy là tội nhân của toàn sanh
chúng đa nghe.
Bần đạo hằng đặng tin tức của mấy tỉnh Hậu giang
cho hay rằng nhiều tay phản Đạo, đi khắp nơi kích bác Pháp Chánh Truyền, lại
dối gạt Pháp Chánh Truyền đầy nỗi hại.
Có nhiều Đạo hữu phản kháng hỏi: Hại tại nơi đâu ?
thì kẻ phản Đạo không phương giải rõ.
Bần đạo cũng bắt chước hỏi: Hại tại chỗ nào ?
Á phải ! có
hại thật, thật có hại cho quyền Hội Thánh, vì Bần đạo ban rộng rãi cho nhơn
sanh đủ thế lực quyền hành dám kháng cự cùng quyền Hội Thánh.
Hỏi : Người đồ mưu kích bác Pháp Chánh Truyền là ai
? - Có phải một vị đại Thiên phong của
Hội Thánh và những Chức sắc phe đảng của Ngài. Chư Đạo hữu chư Đạo muội lưỡng
phái tìm hiểu cho cùng thì biết rõ ràng chơn lý.
(Ôi ! Ai đã
để hy vọng một ngày kia làm chúa cả của toàn nền Đạo thì cũng lo giảm thế lực
của nhơn sanh đặng dễ dỗ dễ tranh, hầu lợi dụng lấy quyền công cử. Ấy cũng là
phàm kế mà thôi.)
Cái hại thật của Hội Thánh là tại sao cho Chánh Trị
Sự một quyền hành cùng phẩm Đầu Sư nơi địa phận một làng sở tại, còn Thông Sự
một quyền Hộ Pháp, Phó Trị Sự lại giống Giáo Tông, song hành chánh nội trong
một xóm.
Lại nữa, Đạo chia ra ba quyền đặc biệt :
* Quyền Nhơn sanh: là từ phẩm Lễ Sanh, Chánh Trị
Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự và cả phái viên toàn đạo hiệp đồng định luật lịnh phục
hành Thể pháp. Chánh Phối Sư phái Thượng làm Chủ tọa. Hội nầy có hai vị Chức
sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài dự hội.
* Quyền Hội Thánh : là Hiệp Thiên Đài thì Thập nhị
Thời Quân, Cửu Trùng Đài thì từ phẩm Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư và Giáo
Hữu thì vâng luật pháp thi hành chánh trị, Chánh Phối Sư phái Thái làm Chủ tọa
hội nầy.
* Quyền Thượng Hội: là HTĐ thì Hộ Pháp. Thượng
Phẩm, Thượng Sanh; Cửu Trùng Đài thì Giáo Tông, Chưởng Pháp và Đầu Sư, cầm luật
pháp điều hòa đạo mạch. Thượng Hội không quyền sửa trị, duy thi hành luật lịnh
Chí Tôn, kỳ dư khi nào Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phản khắc cùng nhau làm nền
Đạo chinh nghiêng nguy hiểm thì Đầu Sư
mới đặng thống quyền nắm Đạo pháp thi hành chánh trị. (Quyền Thống nhứt phải có
đủ quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn hiệp đồng ban cho mới đặng). Hội nầy của quyền
Chí Tôn (là Giáo Tông và Hộ Pháp) làm Chủ tọa.
Trừ hai vị Đại Thiên phong là Giáo Tông và Hộ Pháp
đã thay quyền Chí Tôn tại thế ra, cả ba Hội công đồng mới có quyền Vạn linh đủ
phép.
Ấy vậy, Đạo có Quyền Vạn linh chớ không có Hội Vạn
linh.
Chư Đạo hữu lưỡng phái biết đặng luật nầy thì sao
cũng buồn cười cho Hội Vạn linh của Quyền Ngọc Đầu Sư buổi nọ ! (Ngọc Trang
Thanh, Lê Bá Trang).
Vậy thì Hội Nhơn sanh là một quyền lực của Vạn
linh, nếu không phân trách nhậm công bình, thiếu phương thế mong chi giữ pháp.
Ôi ! Nhiều
Đạo đã khi rẻ chúng sanh và chúng sanh chê Đạo cũng bởi thiếu cơ quan nầy mà
chớ.
Bần đạo nhớ lại khi ban hành Pháp Chánh Truyền thì
làm cho nhiều vị Thiên phong Cửu Trùng Đài thất chí, nhứt là Cụ Lớn.
Bần đạo mới nói trên đây, đã sai một vị kia ra lập
phái đặng kích bác chơn truyền, hầu đánh đổ
quyền hành Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự, nghĩa là quyền nhơn
sanh cho tận diệt. May thay có Chí Tôn phò trợ nên không kết quả chút nào và
nghe ra Chi phái ấy ngày nay đã tan tành rời rã.
Bần đạo nghĩ cũng nực cười vì họ cũng có thế dỗ
dành cho tín đồ lầm lạc, thật là họ dụng phản gián mưu sâu đặng xúi nhơn sanh
tự vận.
Đảng phái ấy đã cả gan dám lột cổ pháp và cổi sắc
lịnh một vị Trị Sự đương bận hành lễ, liệng trước mặt của đông người, mà sao
nhiều vị tín đồ cũng không hiểu nghĩa.
Bần đạo khổ thân nhọc trí, càng lo bảo hộ quyền thế
của mỗi người, càng bị nhiều kẻ đồ mưu xúi người ơn đem trả oán. Thiệt tâm lý
của người đời rất nên ghê gớm.
Đạo là Đạo, mà ai cũng Đạo.
Thể pháp (nghĩa là ngoại dung) thì buộc, nào là
phẩm, nào là quyền hành, chớ trước Bí pháp (nghĩa là nội dung) cả con cái của
Chí Tôn đồng một bực.
Không phân lớn nhỏ, chẳng kể sang hèn, hình tướng
Chí Linh vẫn đồng một thể.
Bần đạo hằng nghe mấy vị Chức việc mấy Họ Đạo Lục
Tỉnh than rằng : Phận thiệt thòi nên không dám trèo đèo luận biện với Bề trên
Chức sắc.
Bần đạo xin tỏ rằng: Duy bậc phẩm hèn của Đạo mới
dày công nghiệp với Chí Tôn, còn có công nghiệp thì có đủ quyền hành, có quyền
hành thì có tự do ngôn luận. Cũng vì chư Đạo hữu trong Hội Nhơn sanh chưa hiểu
rõ quyền hành nên Chức sắc Thiên phong lộng phép. (Xin chư Đạo hữu lưỡng phái
đọc luật cho thường, rồi kiếm hiểu).
Chúng ta chưa hề đã để ý định cho mình mẩy tay chơn
của châu thân ta mỗi phần giá, vì lớn nhỏ cũng đồng cốt nhục, dầu trọng khinh
cũng cùng một thể thân, lễ nghi kia để dỗ mắt phàm, phẩm vị nọ giục ham bụng
thế.
Chí Tôn đã dạy rằng, phải tùy theo phong hóa của
các sắc dân sanh mà truyền giáo, thì người cũng tùy Nhơn đạo lập chơn truyền, bởi
ta tham trọng thế lớn quyền, Thầy mới tạo ngôi Tiên vị Phật.
Đại Từ Phụ một hôm kia than cùng Bần đạo rằng :
Thầy không phương nào đến cùng các con khác hơn cơ bút. Thầy còn phải trụ tinh
ba chơn truyền của Ngũ Chi Đại Đạo lại mà làm cho chúng sanh hiểu Đạo đặng dễ
dàng nên phải dụng bút cơ giáo hóa.
Hễ mọi điều chi có hữu ích thì có hữu hại.
“
Sau nầy Thầy e cho cơ bút sẽ hại cho nhơn sanh mê tín dị đoan cũng bởi vì ưa
ham phẩm vị. Nào là thành Tiên hiển Phật, nào là xưng Thánh hô Thần, xúi tục
tánh ham gần mộng mị.”
Lời tiên tri nầy ngày nay kết quả.
Ta thử thầm hỏi lấy tâm ta rằng : Đại Từ Phụ muốn
cho ta ra phận sự gì ? Nó ắt trả lời : Thế thì Thầy muốn cho ta thiện niệm
thiện hành, thiện tu thiện giáo, đặng nêu gương cảm hóa người đời, còn làm trái
hẳn tôn chỉ cao thượng của Thầy mà gieo ác thì là kế Quỉ vương giục loạn.
Hành đạo là khó, mà bảo chơn lại càng khó, bởi đó
mà phận sự của Hội Thánh rất nên yếu trọng. Nầy là mặt luật, nọ là nhơn tâm,
vẫn đôi bên phản khắc. Nếu muốn đắc nhơn tâm phải phế vong mặt luật, còn như
thi hành chánh luật ắt là thất nhơn tâm, hỏi Hội Thánh phải hành pháp thể nào
đặng vừa lòng công chúng ?
Phải theo công chúng bỏ chơn truyền hay là nắm chơn
truyền đặng hành quyền cùng công chúng ?
Phải quấy để lòng người suy gẫm, Bần đạo không minh
luận ra đây.
Sự vừa lòng công chúng đã hại nhiều tôn giáo chơn
chánh qui phàm, chúng ta nên noi gương ấy mà tùng theo, hay là phải tìm đường
xa lánh ?
Còn như không vừa theo công chúng, người chê bai xa
lánh Đạo mới sao ?
Thật là khổ !
Phải cho có đủ khôn ngoan trí thức thiêng liêng mới tìm thấy trung dung
Đại Đạo.
Hạng phẩm và trách nhậm đặc biệt phân minh của Hội
Thánh có nên để cho rối loạn cùng chăng ?
Nếu trật tự không vững gìn, dầu Chí Tôn có cho Hội
Thánh quyền hành cao trọng thể nào, Đạo rẻ giá bất năng vô ích.
Luật pháp cốt để giữ nghiêm trật tự của Chức sắc
Thiên phong biết phận sự mình, hiểu phẩm hạnh mình, đủ thể diện bảo an Hội
Thánh.
Hỏi những tay đã đồ mưu phá tiêu pháp luật ở nội
tâm muốn tính điều gì ? Bần đạo tưởng
chắc cả thảy Đạo hữu lưỡng phái nam nữ đều đồng ý đồng thinh mà trả lời rằng :
Họ quyết chắc tìm phương diệt Đạo.
Thật phải vậy đó chút. Hễ phá pháp luật là phá giá
trị của Hội Thánh, mà Hội Thánh mất giá trị thì Đạo phải điêu tàn tiêu diệt.
Bần đạo tưởng muốn hại Đạo, không có thế nào hay hơn là phá tiêu pháp luật.
Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ chơn truyền có
nên để cho Chức sắc lộng quyền phá tiêu pháp luật hay không ? Bần đạo để cho chúng sanh định lý mà trả lời
giùm, chớ ngòi bút của kẻ biết tu chẳng nỡ để câu ác luận. Chức sắc Thiên phong
cốt để thi hành luật pháp, chớ chẳng phải nương chánh giáo đặng làm quyền. Hễ
vị nào lập thế lực riêng thì vị ấy tự nhiên lộng pháp.
Bần đạo hằng nghe văng vẳng bên tai những tiếng thị
phi ác cảm rằng: Bần đạo binh người nầy, vì kẻ nọ, mà không thấu rõ đủ bằng cớ
binh vì.
Đã hai phen chung chịu, trước kia với Cao Thượng
Phẩm, sau nầy với Quyền Giáo Tông, Bần đạo bị khép vào án đồng lõa đồng tình
hay là án bất minh tư vị. Ôi ! Miệng mối lưỡi lằn không phương giải nghĩa.
Nhơn sanh chỉn thấy đặng bóng dáng phương ngoài mà
nghị luận, nào biệt phân đặng binh luật pháp với binh người, lẽ thiệt hư nếu
hiểu lý cùng noi thì thấy vì Đạo chớ không vì mị.
Bần đạo đã cầm luật pháp nơi Hiệp Thiên Đài đặng
bảo an Hội Thánh thì những người xâm phạm luật pháp, lạm dụng Đạo quyền phải đi
ngang qua mặt Bần đạo hành quyền trước đã, rồi mới toan rối loạn chơn truyền,
sanh chiến tranh phấn đấu tự nhiên, thắng Bần đạo mới mong hại Đạo.
Hại thay ! Thật ra cũng có lắm kẻ tà tâm, may nương cội Đạo đã làm điều tồi tệ đắc
tội với nhơn sanh, lại lạm hưởng phận sự bảo hộ Hội Thánh của Bần đạo phải thi
hành nên hại Bần đạo nhiều phen phải cùng chung nhục nhã.
Ôi ! Phận sự cầm cân công bình thiêng liêng của Chí
Tôn tại thế, vốn không phải dễ. Hễ muốn trọng hồn thì phải nghiêm trừng xác
thịt, mà nghiêm trừng xác thịt vốn là phương kết oán gây thù, còn trọng xác
thịt, rộng thứ dung thì linh hồn sẽ tự nhiên sa đọa, mà để các đẳng linh hồn sa
đọa thì lại đắc tội cùng Thầy.
Làm cho vẹn phận sự khó thôi rất khó !
Trách nhậm yếu trọng ấy, chẳng phải ngồi lim dim
ngủ gục mà làm cho Đạo bành trướng cả thể dường nầy. Bần đạo nhớ lại buổi trước
Đạo còn sơ khai hỗn độn, Chí Tôn lại rộng mở cửa đặng chực rước chúng sanh, các
tôn giáo các đạo chi rần rần rộ rộ, lộn xộn lao xao, kẻ thì bán bí pháp, người
tụng mướn kinh, hại chánh giáo chơn truyền một lúc chịu ô danh trược diện.
Lo sửa sang chỉnh đốn mấy năm trường thôi đã hết
hơi, dân Việt Nam mê tín khắp nơi nơi, nào bóng nào chàng, nào đồng nào cốt,
nào bùa Tiên nào phép Phật, đã đặng hồi đắc giá chợ đông người, bán mắc rẻ kiếm
lời, lường gạt thế.
Khi ở Thủ Đức trở về Tòa Thánh thì thấy nào là kẻ
theo ông Ngọc Lịch Nguyệt, học trì thoàn niệm chuỗi từ bi, ngồi lần hột lim dim
ngủ gục; nào người thì theo làm học trò ông Giác Hải (Hòa Thượng Như Nhãn) đánh
mõ chuông tụng mãi Di-Đà, ngoài Thánh địa thì đồng cốt lên xưng quỉ gọi ma, còn
Chức sắc xúm giành nhà giựt đất.
Bần đạo cố gắng lo trừ khử đặng bảo thủ chơn
truyền, trót mấy năm tà pháp vừa yên, kế Chức sắc tranh quyền lấn chức.
Bần đạo cũng chẳng vì khen mà ham, mà cũng chẳng vì
chê mà thối chí, sự buồn vui đã chán ngán với tuồng đời, chẳng còn sót điều chi
rằng thú vị, nay đã dâng trọn tâm hồn cùng xác thịt cho Đại Từ Phụ, sự oán thù
đã vô giá trị với thường tình, chẳng sợ khinh, không cầu trọng.
Vị nể ai ? Vị nể đặng làm gì ?
Ngảnh lại đời thấy quí là chi, đặng mưu lợi phòng
khi vị nể. Ấy vậy, đời không mến, thế không ưa, còn sót lại chi hay thân buộc
trói.
Thế thường nói : Để cho người mà xử người thì chưa
hề có công bình chánh đáng. Phải biết tận tâm lý và hiểu trọn hành vi của người
thì mới định đặng công bình tội phước.
Bần đạo xin dâng một chuyện hiện hữu của Bần đạo đã
gặp khi đổi ra làm việc tại Qui Nhơn.
Đến Bình Định đặng đôi tháng, Bần đạo biết đặng một
người đã 36 tuổi, trang nghiêm tuấn tú, diện mạo khôi ngô, Nho văn hay Pháp văn
khá, đức hạnh có, tài tình có, thật đáng trang danh sĩ Khổng Trình. Đờn thiệt
hay, thi thiệt giỏi, ngôn ngữ như lưu, thông minh tột lẽ, rất đáng bậc phong
lưu tài tử.
Bần đạo vì thương tài kết làm bạn thiết.
Hôm nọ đến nhà Bần đạo đàm luận suốt canh khuya,
thoạt nhiên thú thật rằng người vốn tổ dạ du quân tử. Bần đạo nghe qua ngạc
nhiên sự lạ, trước thì tưởng nói chơi, sau nghe gốc tích thuật trang hoàng thì
mới biết lời chàng tỏ thật.
Tự thuật của người như vầy :
Người gốc ở Thanh Hóa, cha người làm quan chức Tân
triều, song kỷ trưởng niên cao nên hồi hưu dưỡng lão; mẹ thì mất sớm, để lại
một em gái cùng người. Cha người tái thú với một bà góa ở Quảng Nam, sanh đặng
thêm hai gái một trai, cộng chung với 5 con riêng của bà nữa thành ra 8 mạng.
Người thuật cả gian ác của bà kế mẫu đối cùng người và em gái của người, nghe nên
thảm thiết. Lịnh thân của người lại sợ bà như hùm như hổ đáo để, nên 10 người
phải tách mình đi ở mướn đặng trốn xa cái khổ khắc của bà. Thời may gặp đặng
ông chủ lại là người đạo đức hiền lương, nên dạy học Nho văn thông suốt, còn
Pháp văn và quốc văn thì người tìm tòi mà học một mình, nhờ sáng trí và cố cần
nên cũng khá.
Chí đến năm 19 tuổi, khi vừa đặng nên người, Bà kế
mẫu xúi lịnh phụ đòi về đặng lo đôi định bạn, cốt yếu cưới vợ cho người là mướn
tớ rẻ chớ không phải là thương người, đặng định gia thế cho người (điều nầy
cũng là thường sự).
Tội nghiệp thay chị vợ rủi vô duyên mà phải chịu
cam khổ cùng người, vì đó nên ân nghĩa mặn nồng, vợ chồng vốn thương nhau thật
dạ.
Lần lừa ngày lụn tháng qua, vì quen nhỏ nhẹ theo
phận tôi đòi, biết chiều lụy kính nhường nên bà kế mẫu để chút dạ thương tình,
đã quá 3 năm thấm thoát. Hại thay trong 3 năm an ổn lại sanh 3 cục báo đời, chị
vợ đẻ hai trai một gái.
Miệng ăn thì nhiều, tay làm thì ít. Gia đình khiếm
khuyết, sự nghiệp tiêu hao, bà kế mẫu tính cho rằng hai tay của vợ chồng làm
không đủ công trừ miệng của ba con, nên lập chước đuổi ra khỏi cửa.
Chồng thì trần lỗ, vợ cũng không lành, con đói rách
lang thang mà bà đành đoạn đem dạ đuổi xô ra ngoài ngõ. Người em gái thấy cảnh
thảm khổ dường ấy nên quyết theo chung chịu cùng anh, nào dè thêm một miệng thì
hai người thêm một khổ. Chị vợ vào ăn cắp ít nồi gạo đem theo, rủi bị bà kế mẫu
thấy, chạy theo giựt lại.
Một đồng một chữ không có, mơi cơm chiều cháo, đi
làm công đặng kiếm nuôi nhau, rủi khi nọ ông chủ mướn gây lộn không cho tiền
tháng.
Chạy cơm không nổi, cả nhà nhịn đói đã bốn năm
ngày, con thì khóc, vợ và em thì than, kế cùng lực tận, chịu không nổi, người
tính ra đường toan tự tử, may sao người vợ có tánh linh, hiểu tình cảnh chạy
theo níu lại. Thiệt là khổ não vô ngằn, viết ra không hết.
Nằm khoanh mà chịu trót bảy ngày không có hột cơm,
chẳng lẽ ngồi chờ chết cả một nhà, đến cùng nước mới ra ăn trộm. Nhờ đã đủ trí
đủ tài nên nghề dở cũng ra hay, của Thạch Sùng cho cũng đủ xài, vàng Vương Khải
độ ngày dư dả. Người nói rằng gia nghiệp của người cũng nhờ của trộm mà lập
nên, nên chính miệng người khai rằng gia tài sự nghiệp ấy vô giá trị.
Người khai thiệt rằng, cách 4 năm giải nghệ, nhưng
lương tâm cắn rứt hằng ngày, vì hổ thẹm nên đành xa quê lìa vức, vào ở tỉnh
Bình Định gần 4 năm chầy. Nói đến đây, người khóc dầm dề, ngồi buồn bã thảm sầu
than dài thở vắn. Bần đạo để lời an ủi, đổ thừa cho vì cảnh gian nan, đến cùng
thế phải toan cùng thế. Từ cổ chí kim biết bao mặt trượng phu quân tử gặp thất
thời phải cam chịu phận hạ tiện tiểu nhơn, cũng vì leõ mạng tài tương đố.
Tuy nói vậy nghe vậy chớ Bần đạo cũng không tin,
nên kiếm chước đặng gần mụ vợ. (Người em gái khi ấy đã nên gia nghiệp chồng
con, cũng nhờ có tay anh giúp đỡ và cũng ở tại tỉnh Bình Định cùng anh).
Cách ít lâu, Bần đạo đến nhà, nào là đờn ca xướng
hát, nào là cờ bạc rượu trà, nhà người đã thành ra nhà xẹt (Cercle). Mãn tiệc
đã xình xoàn, kêu vợ chàng hỏi lén.
Người vợ khóc dầm dề thuật lại y chẳng sót, lại
thêm rằng : Có một đêm chàng mang máu mủ chạy về nhà, mảng đương lo cạy vách
người ta, bị chúng chém may không đứt họng. Ôi ! Mẹ con tôi thấy hoảng, nên ó ré khóc rùm, xúm
la làng réo xóm lum um, sợ chàng chết nên không sợ tội.
Khi ấy tôi đã đẻ thằng út của tôi bây giờ đó, tính
hết thảy lũ con thành 7 đứa. Thầy không tin, khi nào vạch lưng cậu nó (là ông
chồng, vì vợ con kêu anh ta bằng cậu) thì thấy cái thẹo dài hơn một tấc.
Chết chết sống sống, khổ biết bao nhiêu, trên hai
tháng mới là lành mạnh. May không tôi đã phải góa, con chịu mồ côi, thân phận
chúng tôi nghĩ thôi bao nả !
Bần đạo nghe đến mà hết hồn, nếu như chàng mà phải
thế nào, sắp con và vợ ra sao chẳng hiểu ?
Nếu người bị ăn trộm khi ấy biết rõ cảnh tượng nầy,
đưa tay chém lưỡi dao khó xuống.
Bần đạo thử đem vụ nầy ra trường ngôn luận, thì
chắc có người không tin rằng người ấy có đủ tài ba trí thức, nếu quả có tài thì
phải có nghề, cớ sao không nghề nghiệp lại ra ăn trộm ?
Bần đạo sẽ trả lời rằng, phải hiểu dân ở tỉnh Thanh
Hóa bề sanh nhai khó dễ thế nào, mới luận thiếu nghề là dở.
Cũng có ông nói rằng, thà là thân ở mướn hơn sanh
phương hạ tiện tiểu nhơn.
Bần đạo lại trả lời: Ở cùng chủ bị giựt lương mới
ra thân chịu đói.
Đời mấy ai thương khó, thấy nghèo hèn dễ ngó đến
thân hèn, giàu đầu non cũng có người quen, đói giữa chợ anh em vắng mặt, lại
còn chàng quá ngặt, vợ, con, em tay dắt tay dìu, của một nhà nào có bao nhiêu,
phòng nuôi nổi cho đều mấy miệng. Một thân dầu quyền biến, cũng có miếng mà
nhai, tiền ngày có một tay, ăn hơn ngoài 8 bữa. Ai cả gan dám chứa, cả ba bốn
đứa con, một miệng ăn núi lở non mòn, lựa một lũ quả hơn gánh hát.
Cũng có cụ nói, thà hành khất nuôi nhau hơn đi đào
ngạch chúng.
Bần đạo lại trả lời, đời mấy trang phước thiện, bố
thí hiếm cho nhiều, của đi xin ngày một đặng bao nhiêu, phòng nuôi dưỡng cho
đều cho đủ.
Cũng có lão nói, thà chịu đói khô mà chết thì hay
hơn mang kiếp tà gian.
Bần đạo lại xin nói: Một mình chàng sống thật đã
không màng, còn con vợ khốn nàn ai dưỡng dục ?
Nhiều ông đặng vui phần hạnh phúc, nào biết chi
vinh nhục của người, cứ chấp kinh lớn tiếng rộng lời, chớ chưa đủ trải đời cho
thấy khổ. Xem kẻ rách lòi trôn nói hổ, bởi chưa tường giá nợ áo cơm, đòi thấy
bèn bụm mũi bịt mồm, vì chưa hưởng mùi thơm vị thúi, những thấy phỏng định
chừng tội lỗi, bởi chưa quen lòn cúi khó là bao, vẽ tranh đời nhắm mắt nói màu,
màu thế sự luận sao cùng lý.
Hỡi ai đã đa sầu đa cảm, có dạ thương đời, xin lấy
thân người dạ du quân tử nầy mà tỉ lại thân mình, thấy giống hệt như in chẳng
khác.
Hội Thánh Đại Đạo ngày nay cũng thế, nỗi thảm khổ
của Chức sắc Thiên phong mấy ai thấy rõ, phòng để luận cho công, nhờ Chí Tôn
nung trí giục lòng, bằng chẳng vậy khó mong thành Đạo. Nỗi cơ đời ép bức, nỗi
phận sự khó khăn, lo bảo tồn cả triệu sanh linh, khỏi khổ hạnh vốn không phải
dễ.
Bần đạo coi lại những kẻ để lòng gieo ác cảm, đều
là người trốn lánh phận mình, Đạo không nên mà đời cũng chưa đủ, xúm vầy đoàn
kết lũ hại người lành, hay là tay ghét ngõ ganh hiền, cứ xúm ngõ kim tiền hô kiếm trộm, cùng những trang Chức sắc
lo mua tiếng cầu danh, miếng đỉnh chung tính bỏ không đành, còn quyền Đạo cũng
tranh cũng lấn. Cả thảy chưa dâng công cho Đạo, chỉ lấy tiếng bua danh, những
vị ấy có hửi cái khổ của Hội Thánh là dường nào mà xử định phân minh mùi vị ?
Bần đạo đã trót 8 năm chầy, lao tâm tiêu tứ, lo tìm
phương bảo thủ chơn truyền, hằng bị nỗi khó khăn gay trở. Trong thì Chức sắc
Thiên phong nghịch lẫn, ngoài tà quyền kiếm thế ép đè, khổ nhọc trăm bề, gian
nan khó nói.
Nào là mưu giục loạn, nào là kế phân tâm, dẹp sự
nọ, biến điều kia, khuyên hờn nầy sanh oán khác.
Nào là tiếng gièm pha miệng thế, nào là lời kích
bác phái tà, làm nghiêng ngửa Đạo tâm, hại chia phui Hội Thánh. Tội nghiệp
thay, có nhiều vị Thiên phong Chức sắc chịu không kham hổ nhục của ác đời, cực
chẳng đã phải kiếm chước lui chơn, lập thế lực lo phương hành Đạo.
Thật sự rối rắm của Đạo là do nơi trở cảnh mà biến
thành, chớ chẳng ai nỡ cố tâm hại Đạo.
Cuộc bất hiệp tác đã nảy sanh ra trong hàng Đại
Thiên phong cầm quyền hành chánh, đều tại không đồng ý đồng tình, trên không
biết dưới, dưới chẳng hiểu trên, sự hành động bất hòa mới sanh nghịch lẫn.
Ông thì lo tìm phương giải ách, ông lại toan lập
thế phổ thông, hao của nhọc công, muôn điều khổ nhọc. Nếu quả nhiên có tâm hại
Đạo thì còn lo vụ tất vẻ lịch xinh chánh
giáo mà làm gì, cho bị dể bị khi, thêm lao tâm tổn trí. Dầu mấy vị vì danh vì
thể, lo xui mưu làm loạn đặng tụ phái lập phe đi nữa, cũng có công giúp ích
chơn truyền, nơi khổ hải đóng thuyền ra tế độ.
Ấy vậy, thiệt nhục cho Bần đạo là không phương làm
hòa nhã cả Chức sắc Thiên phong, để mếch dạ chênh lòng, mới gieo phiền kết hận,
song xét cho cạn lẽ, thì nhơn tâm biến cải, dầu Thánh nhơn cũng khó nỗi ngừa,
hễ xảo ngữ vốn dễ nghe, còn thiệt ngôn hay nặng dạ. Chẳng biết người đạo đức ở
thế nào cho thiên hạ vừa lòng. Hèn chi Phật tỉ đời như Thất đầu xà, nghĩa là
hình trạng thất tình phàm thể.
Chớ chi Đại Từ Phụ ban cho Bần đạo phương thế nào
mà làm cho chư Đại Thiên phong yếu trọng của Hội Thánh bớt để tai nghe lời siểm
nịnh của đám tà, thì nền Đạo chẳng đâu ra nông nỗi.
Người muốn nên cho Đạo thì phần ít, còn kẻ giục hư
lại vốn phần nhiều, vì những tánh nết tự
kiêu, vì đầy lòng ganh ghét.
Bần đạo xin thưa cho chư Đạo huynh chư Đạo tỷ cùng
chư Đạo hữu nam nữ lưỡng phái một điều nầy:
Chúng ta tu hay là không tu. Nếu như tu thì phải
hiền, như còn muốn dữ thà bước cho xa cửa Đạo.
Chúng ta đã lãnh phận sự đặc biệt và yếu trọng là
cảm hóa thế nào cho đời đã tệ hóa ra hay, người bạo tàn hóa ra hiền ngõ. Nếu
còn nêu gương tàn nhẫn thì khuyến giáo đặng ai, cứ mong lòng tranh trí lấn tài,
ắt tàn hại cái hay đạo đức.
Sở vọng của Đạo cốt yếu là làm cho thiên hạ thương
yêu, vì sự thương yêu là một quyền hành độc thiện, mà chư Chức sắc thay vì yêu
thương lại chọc cho hờn cho ghét, thì hành vi ngược ngạo biết là bao ! (Đạo
thiên hạ đã ghét rồi đa, làm thế nào cho thương đặng mới là hay, còn hại ghét
hoài ra thường sự).
Bần đạo để lời tâm huyết nầy :
Chúng ta đã chung khổ cùng nhau tạo thành nền Đạo,
dầu không tình cũng nghĩa, dầu bỏ nghĩa còn công, đã 8 năm khổ hạnh chia đồng,
hóa giọt thảm mặn nồng bằng cốt nhục. Nay vừa đặng mảy may hạnh phúc, nỡ nào
còn cân nhục so vinh, nên cũng mình mà hư ấy tại mình, trọng là thế, khinh kia
cũng thế. Đời tồi tệ miệng còn nói lễ, Đạo dường bao chẳng kể tôn ti, nếu ta
bày ra tiếng thị phi, biểu sao chúng chẳng khi chẳng dể, cùng nhau đã đồng minh
đồng thệ, của thiêng liêng huynh đệ nên nghi, hơn mà chi thua ấy là chi, mưu
hại lẫn nhau vì cừu hận, ráng giữ chặt tánh hờn nét giận, ngọn hỏa tâm thiêu
tận đền thờ, Đạo sử ghi kiếp kiếp để nhơ, nơi cửa Thánh ơ hờ hóa quỉ, bớt nghe
hồ mị, theo Đấng Chí Tôn, sống sót kia xin ngó đến hồn, đừng đợi thác thây chôn
để trược.
Độ tâm lý không cân không thước, lấy tinh thần làm
chước làm mưu, tâm là bình Bát vu, đức là cây Phất chủ, hạnh là bộ Xuân Thu,
trối kệ đời khen trí chê ngu, đã tự chủ trí ngu tự hiểu, lấy tánh đức từ bi làm
kiểu, đưa ân hồng dìu níu tay phàm, mặc ai còn danh mến lợi ham, trối kệ những
tước ham quyền chuộng, mồi chung đỉnh đủ nhàm ưa muốn, mỏi quì lên cúi xuống
cửa công khanh, còn chi hay phòng giựt phòng giành, có chi trọng phỏng tranh
phỏng lấn.
Chúng ta ví biết mình cho cùng tận, thì hằng ngày
nên hỏi lại mình rằng : Phải Đại Từ Phụ mượn xác thịt của ta đặng thay hình thể
của Người hay chăng ?
Nếu lương tâm đã cho phận sự ta để thay thế cho Thầy
thì chúng ta phải tùng phương châm của Thầy, bắt chước y nguyên, đừng sai một
vẻ, mới mong tụ họp con cái của Thầy chun vào cửa Đạo, bằng chẳng thì thà thối
bước ra khỏi Thánh Thể của Thầy hơn ở lại làm nhơ làm trược.
Vậy Bần đạo cả tiếng kêu những người đã một lỡ hai
lầm và những bậc xả thân vì Đạo, phải hiệp tâm hiệp trí cùng nhau, chỉ ngó một
mình Thầy làm đường chơn thật, rồi tha thứ nhau hay là giúp đỡ lẫn nhau đặng
tròn phận sự cùng Thầy hầu làm gương báu cho đời, tìm chí thiện do tình lẫn ái.
Vậy chúng ta đồng lực lại với nhau đặng un đúc nền
Đạo cho chắc chắn và tạo Đền Thờ của Thầy cho trang nghiêm mỹ lệ đặng qui hồi
cả chúng sanh vào nơi lòng thương yêu vô tận của Chí Tôn mà làm cho thân hình
của Người khỏi chia phui rời rã.
Nếu mấy lời
tâm huyết nầy không lọt vào tai của chư vị yếu nhơn của Đạo thì Bần đạo sẽ đợi
xem cho toàn sự hành động của mỗi người, rồi tuyên bố cho cả chúng sanh thấu
đáo./.
5 . Thuyết đạo tại Kim Biên: Mật thiết Triết lý của Đạo CĐ.
Ngày 11-7-Bính Tý (dl 27-8-1936)
THUYẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP
đọc tại Thánh Thất Kim Biên
giảng về: Mật thiết Triết lý của
Đạo Cao Đài.
Bần đạo muốn giảng điều siêu việt về tinh thần đạo đức, hầu tóm cả chơn lý
của các tư tưởng đối cùng Đức Chí Tôn, nhưng e cho sự cao siêu mầu nhiệm ấy nó
sẽ quá sức cho sự đoán xét của thính giả mà biến thành ra tuồng mộng ảo, nên
quyết lấy cái thiết thực hiển nhiên của Đạo đối cùng Đời đương giữa cơn tinh
thần phát triển, sưu tầm một mối tư tưởng phù hạp với trình độ trí thức nhơn
sanh, đương nhiên hầu giúp hay cho bực cố tâm tầm Đạo.
Những cơ quan và những hành vi hiện tượng của các tôn giáo đương nhiên ngày nay như
dường biến thành cổ vật, nên đã
mất cái hay để giúp đời tự trí, tự giác, tâm hồn thiếu ơn an ủi, tư tưởng mất
phép chuẩn thằng, trí thức không phù hạp hành động, biểu sao đời không trở nên
một trường náo nhiệt rắc rối khó khăn, rồi giục cho cả nhơn sanh dong ruổi trên con đường duy vật mà quên hẳn
cái quyền vi chủ của trí thức tinh thần.
Ôi ! Thử
nghĩ cái ngày nào trí thức tinh thần đã tiều tụy thì cái lương tri lương năng
cũng do đấy mà tiêu tàn thì con người đứng giữa cõi trần hoàn nầy phải trở nên
bao nả ?
Chúng ta duy buộc phải trả lời rằng : Luật thiên
nhiên tự bảo nó sẽ buộc mỗi cá nhân chuyên chú về sự sống. Hại thay, cái sống
ấy do nơi phép duy vật mà lưu tồn thì con người chỉ sống hèn như con vật mà
thôi.
Bần đạo chẳng cần luận thuyết chi sự phân biệt xa
cách nhau như trời với vực giữa vật chất và tinh thần, thì như thính giả cũng
dư hiểu : Hễ vật chất hữu bổn nguyên, hữu định thể; còn tinh thần thì tự chủ tự
do.
Ấy vậy, vật chất có giới hạn, chớ tinh thần vốn
không giới hạn.
Chúng ta lại thầm hiểu rằng : mỗi điều chi hữu bổn
hữu nguyên hữu định thể thì cái sự lớn nhỏ của nó, dầu hình dầu bóng tùy theo
mặt luật pháp định hành tàng. Hễ có bổn nguyên ắt có xứ sở cội nguồn, có định
thể ắt có khuôn viên sắc tướng.
Nói tóm tắt, hễ vật thì có chủ. Ấy vậy, do quyền có
chủ ấy nó giục thành một trường tranh đấu đua chen mà làm cho mặt thế biến
thành chốn chiến trường náo nhiệt.
Sống của con vật là phải ăn mà sống, phải mặc mà
sống, phải ở mà sống, sống một khuôn luật với sắt đá cỏ cây, côn trùng, điểu
thú.
Nhơn loại đã nghịch lẫn nhau, tàn hại lẫn nhau,
giết bỏ lẫn nhau, cũng do bởi chạy theo cái sống của con đường duy vật.
Trái lại, cái sống của tinh thần là sống tự chủ, tự
quyền, thì cái sống ấy không nguồn không cội, không luật, không hình, không bờ
không cõi, sống theo gió theo mưa, theo Trời theo Đất, sống với càn khôn vũ
trụ, sống với nhựt nguyệt tinh quang theo một khuôn luật với cái sống vô ảnh vô
hình của các tư tưởng bậc Thánh hiền từ thượng cổ.
Cái sống của con vật thì chỉ có hai bữa ăn mà sống,
còn cái sống của tinh thần vốn vô độ lượng. Cái sống của vật chất ở tại bụng,
cái sống của tinh thần ở tại óc. Bụng với óc vẫn khác nhau thì hai cái sống ấy
cũng khác nhau đặc biệt.
Cái vấn đề tương tranh của hai cái sống ấy, dầu cho
trình độ trí thức nhơn sanh đặng cao siêu tăng tiến dường nào cũng chưa xử trí
và giải quyết thế nào cho đích xác.
Dường như
chúng ta phải biết hẳn rằng : Hễ bụng no thì óc rỗng, óc cứng thì bụng mềm.
Cuộc tương tranh nầy chưa có một ông tòa nào nghị án nổi.
Ấy vậy, cái thuyết duy vật và thuyết tinh thần tự
chủ đến chừ chưa có một tôn giáo nào cầm đủ quyền hành dung hợp.
Có tôn giáo thiên về mặt vô vi, phế vong hình thể,
tức nhiên là đảng phái của tinh thần; lại cũng có thể nhiều tôn giáo khác bị xu
hướng hữu hình, còn vô vi thì vong phế, là tức nhiên làm môn đệ của thuyết duy
vật đã đành. Hai đảng phái ấy đương đấu đương tranh, đặng bia vào miệng thế tình
những nẻo tà nẻo chánh. Cũng vì do nơi vật chất với tinh thần đã gây lắm điều
quyền biến; một đàng là tôn chỉ luật điều tùng khuôn viên duy vật; một đàng thì
cậy huyền diệu nhiệm mầu do tinh thần vi chủ.
Những nhơn sanh tùng hai lý thuyết ấy vốn phản khắc
xa nhau dường như sao Khuê sao Dược.
Hỏi, đã có nảy sanh ra một Giáo Chủ nào đủ đức
tánh, đủ quyền năng, đủ phép mầu, đủ trí huệ làm cho hai đảng phái ấy dung hòa,
mới mong mỏi đại đồng thế giới hay chăng ?
Nếu chúng ta để cho tịnh tâm tịnh trí đặng tầm chơn
lý của hai lẽ ấy cho hẳn hòi, thì chúng ta dám cả tiếng phô rằng : Sự xung đột
của hai tư tưởng ấy thật ra chưa đích đáng, chẳng qua là một trường tranh luận
tình cờ của các tiên nhơn lưu hậu.
Dưới ngọn đuốc văn minh chiếu diệu soi huệ trí sáng
ngời giữa thế kỷ 20 nầy, chúng ta đã thấy quả quyết sự tương hiệp thân thiết
của cơ quan hình thể với tinh thần, thì chúng ta lấy làm ngạc nhiên cho sự quái
dị cái nỗi phân chia của thuyết tinh thần đối cùng hình thể.
Chúng ta lại còn để tâm nghiên cứu nguyên do của
hình vật tương phân bởi đâu mà sản xuất thì chúng ta lại thấy đặng bởi tư tưởng
của Nho giáo và Đạo giáo mà nảy sanh, chẳng phải do nơi miệng của Đức Khổng Tử
hay Đức Lão Tử mà ra, mà lại do bởi những thuyết của các môn đồ của đôi nhà
luận bác.
Chưa có một quyền hành nào mà chia rẽ trí tuệ riêng
ra hình vóc của con người, thì chưa có một quyền năng cả gan dám phân chia hình
vật. Bởi vậy, tinh thần và hình thể vốn là hai bộ phận cần yếu trọng hệ của
kiếp con người. Nếu chiếu theo phép thiên nhiên thì đôi bên đồng một bổn, hễ có
xác không có trí thì điên, hễ có trí không thân thì dị.
Đời là hình duy vật, Đạo là bóng của trí thức tinh
thần. Vậy thì phép Đời, Đạo vốn đồng, cơ tạo thế phải có công Đời cùng nghiệp
Đạo.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo do do lương tâm vi bổn,
lấy cả triết lý của toàn cầu làm căn, hầu làm trung gian cho các tư tưởng hiệp
đồng đặng dìu dắt nhơn sanh hồi thiện.
Ngoài ra pháp luật định quyền luật của thiên lương
thì để cho mỗi cá nhân đặng tự do tư tưởng.
Chẳng cần luận giải, chư thính giả cũng đủ biết
rằng : cái tư tưởng vốn vô cùng, chiều theo thời thế của Đời đặng nâng đỡ trí
thức của nhơn sanh tạo thời cải thế. Nếu hiểu rằng nghĩa lý của Đạo là đường
duy nhứt của tâm lý nhơn sanh, ắt phải nhìn nhận rằng : phải để cho tinh thần
đặng tự do tín ngưỡng, miễn là làm thế nào cho Đạo thuận cùng Đời, Đời không
nghịch Đạo, mới gọi là lý thuyết cao siêu làm cho thái bình tâm lý.
Thái bình tâm lý đặng mới làm cho thái bình thiên
hạ đặng, thái bình thiên hạ đặng mới làm cho đại đồng thế giới đặng.
Giữa buổi toàn cầu đương xôn xao chen lấn trong
bước tấn bộ văn minh, loạn hàng thất thứ, tùy theo tài lực của mỗi nước trong
vạn quốc có văn hóa, có dã man, có tài hay, có tục dở, phẩm giá vốn không đồng,
nếu lấy giá trị hữu hình của nước đặng định phân thì ắt khó mong làm cho
cả nhơn sanh hiệp chủng.
Tài lợi không đồng, phương diện không đồng, xã tắc
không đồng, tức nhiên buộc chánh trị cũng không đồng, cái chánh sách hiệp quốc
hiệp quần chưa đủ kế hay mà vĩnh thủ.
Xin nói hẳn rằng, nếu giá trị hữu hình của vạn quốc
toàn cầu đặng định nặng nhẹ thấp cao thì là phép giục thêm hại, so hơn tính
thiệt. Tưởng khi đều cho nhà chánh trị đại tài nào bôn xu trên con đường vật
chất, mong mỏi cho thiên hạ hòa bình thì tỉ chẳng khác đem cung trăng thay mặt
đất, chẳng qua lập phương lừa dối lẫn nhau, mượn chước khéo đặng tranh quyền
giữ thế.
Ngày nào cả nhơn sanh biết rằng cả con người chẳng
phải sanh ra để vụ tất lấy cái sống theo con vật gọi là phúc hạnh khéo khôn,
trái lại phải coi mạng sanh là báu trọng, biết kính nể nhau, biết thương yêu
nhau, biết binh vực nhau, biết nuôi nhau, lại lấy phận sự cao thượng ấy đặng
làm cái Đạo của người thì ngày ấy là ngày của toàn nhơn sanh đều hạnh phúc.
Tưởng lại, tương lai của Đạo Cao Đài do nơi cái sở
hành và cái tư tưởng cao thượng của nó, ngày nay nó có thể hứa với nhơn sanh
rằng : Chúng ta sẽ hưởng điều hạnh phúc ấy./.
6. - Đức Hộ Pháp nói chuyện với thợ hồ đang xây cất TòaThánh.
Ngày
16-10-Bính Tý (dl 29-11-1936)
ĐỨC
HỘ PHÁP nói chuyện
với
thợ hồ đang xây cất Tòa Thánh.
Bài
ghi chép của Sĩ Tải Hiển và Luật Sự Trấn.
Công thợ đang ngồi nghỉ mệt nói chuyện, chợt thấy
Đức Hộ Pháp đi vừa đến, cả thảy anh em thợ sợ hãi vội lo kiếm việc làm, kẻ trộn
hồ, người rinh đá, ...
Đức Ngài bảo mấy em nghỉ, cả thảy lại đây.
Mấy em làm có mệt thì nghỉ, đừng có trốn lánh nặng
tìm nhẹ thì công quả không đầy đủ, đừng có tựu lại Sở, ghi tên rồi đi chơi, chờ
đến giờ chạy về làm bộ siêng năng đặng Cai Sở ghi công. Đó là mấy em tưởng làm
đây rồi trả nợ cho qua buổi.
Thường công việc làm ở ngoài Đời, họ buộc từ giờ từ
khắc, là vì mấy em làm ăn tiền, nên cái tật lánh né đã quen. Nơi cửa Đạo,
trường công quả không buộc, không ép, hễ ai muốn lập công để tạo quả vị thì
làm, rất có nhiều phương lập công, từ bực thấp hèn dốt nát đến hạng trí thức
thượng lưu, đều tùy sức và tài năng của mỗi người, nam nữ cũng vậy.
Người giỏi có văn tài thì làm việc công văn ngồi
bureau, cùng là đi Đầu Họ, Đầu Quận để hành đạo, đúng chơn truyền luật pháp
không sửa cải, họ phổ độ nhơn sanh lập đức chiếm đại công quả. Điều nầy rất
khó, vì mang một Thánh thể vào mình để dìu dẫn con cái Đức Chí Tôn, nếu ai đầy
đủ Tam Lập, được đem đại công về trình
với Đức Chí Tôn; còn nếu làm không trọn vẹn thì công quả đã mất mà còn thiếu nợ
nhơn sanh nữa mà chớ !
Còn ngồi bureau làm công văn, mà cứ lo xem sách,
truyện, đọc báo, mà chờ giờ ghi công trả nợ, đến khi khai công nghiệp kể cho
nhiều năm để thăng phẩm Chức sắc về hữu hình thì dễ, còn về quyền năng thiêng
liêng thì dễ gì qua được, giỏi lắm là trừ hột cơm của nhơn sanh, chưa đủ nữa là
khác !
Sự lập công quả nơi cửa Đạo, dầu việc nhỏ việc lớn,
đều là đắc vị được, do tâm đức để tạo thiện đức, thiện công, thiện ngôn, trong
ba mà thiếu một là chưa chiếm được, dầu cho công phu đào luyện lên bực Đạo Nhơn
đi nữa, một lời nói chơi, nếu có hại cho người cũng đủ tái kiếp trả quả, chớ
đừng nói đến sự ghét giận người, gây oán trách hờn, không trọn tình thương thì
không dễ gì đoạt được Tam Lập.
Còn mấy em đây là hạng dốt nát thì cứ vâng lời Hội
Thánh, sự mệt nhọc mồ hôi tầm tã mà không thối chí ngã lòng, ăn cháo rau, rách
rưới, ngày nào cũng vẫn như ngày nấy, dầu vậy mà mấy em có phước về đây hiệp
cùng Qua lo tạo tác Đền Thánh.
Trước kia đã 3 năm khởi tạo đều ngưng trệ bỏ dở vì
không tạo được tâm đức nên Hội Thánh giao cho Bần đạo lãnh làm. Bần đạo tạo tâm
đức cho mấy em.
Nếu ai muốn làm công quả, phải trọn hiến thân, chỉ
có người Phước Thiện về đây, đứa thì lãnh Đốc Công, Cai Sở, thợ hồ, công thợ,
nam thì tu chơn, nữ thì thủ trinh tình nguyện cho đến khi tạo Đền Thánh xong.
Chỉ có tâm đức đó, thầy trò mình mới dám lãnh, đứng ra làm.
Vậy, các em ráng bền chí lo công quả tạo tâm đức,
lập âm chất, thì Đức Chí Tôn ban cho mỗi đứa được hưởng cái vinh diệu vô cùng,
ai muốn hưởng tại thế thì hưởng, còn không thì hưởng phần thiêng liêng cao
trọng và tồn tại.
Hồi mấy thế kỷ trước, nơi Đế Thiên Đế Thích, người
cũng tạo bằng cây gạch ngói vôi cát, Chí Tôn cũng cho đắc vị hết.
Bên nữ thì ham làm vì sợ thua bên nam, nên ráng làm
cho rồi, còn bên nam thì ỷ giỏi không cần làm, thả trôi, đến ngày Chí Tôn cho
thành thì bên nữ đắc vị về thiêng liêng nhiều hơn, còn bên nam thì ít.
Ngộ nghĩnh thay, lúc thành đạo, tòa Đế Thiên trở
thành đá hết, đến đỗi xung quanh và người đang bào đục, nấu cơm ... nói rõ là
cả thảy người nơi đó đều thành đá, bia tạc lưu truyền thiên niên chi cổ cho đến
ngày nay vẫn tồn tại, danh tiếng khắp cả hoàn cầu, mặc dầu xác họ là đá, nhưng
linh hồn họ đạt Phật vị cả.
Đền Thánh Đạo Cao Đài hiện tại ở Việt Nam ngày nay
là nơi Đức Chí Tôn ngự, tượng trưng Bạch Ngọc Kinh tại thế, bây giờ nó là gạch
ngói, xi măng, cát vôi, cho đến buổi thành thì là một khối đá vĩnh cửu trường
tồn cũng như tòa Đế Thiên đó vậy, nó sẽ mỹ lệ hơn nữa.
Rồi đây, mấy em muốn đến xem phong cảnh tòa Đế
Thiên, Bần đạo sẽ cho đến xem thì sẽ thấy
quyền năng thiêng liêng vô đối. Vậy mấy em cứ lo làm, đừng tưởng làm đây
rồi không có hưởng gì, nếu mấy em đặt trọn đức tin nơi Chí Tôn thì sẽ hưởng
hồng ân vô đối của Ngài ban cho không gì bằng.
Khi làm Đền Thánh xong, Bần đạo còn chọn một chỗ
cất Nhà Tịnh thì mấy em cũng ráng làm nữa.
Ông Huỳnh Thiện Chơn :
- Bạch Đức Ngài, nếu cất Nhà Tịnh, mấy con cũng cứ
lo làm công quả, làm sao tịnh được và cấp bực nào mới xin vào tịnh ?
Đức Ngài nói :
- Bần đạo lập là chung cho cả nhơn loại, hạng nào
cũng được, không phân biệt Chức sắc hay tín đồ, hoặc các Chi phái xin trở về,
cùng là các đạo giáo khác, nếu muốn thì vào cũng được nhưng phải có Quyền Vạn
linh công nhận (đó là phần Chi phái và ngoại giáo).
- Bạch Đức Ngài, rồi đây người nào cũng xin vào
tịnh, rồi ai lo phổ độ, ai làm công quả, chỉ có mấy người không phận sự họ mới
xin vào tịnh.
“ Đức Ngài day lại nói với Sĩ Tải Hiển, Luật
Sự Trấn ở bên cạnh đang ghi chép :
-
Hiển với Trấn hay tò mò lục lạo, các nước ngoài người ta giỏi lắm, chế ra nhiều
thứ chữ viết tắt lẹ lắm, mỗi khi hội đàm cùng giảng thuyết, họ đều ghi chú lại
hết, còn mình đây dốt, chưa phát minh, có khi hội đàm cùng đi ra ngoài đời, có
nhiều cái hay mà mình không chép lại được để học hỏi. Mấy đứa bây ráng chế làm
sao, làm dấu như thế nào để ghi lại cái hay mà người ta nói giữa đông người.”
Đức Ngài nói tiếp :
- Chơn, bộ em ham tịnh lắm sao ? Đâu có phải những
người làm biếng mà vào tịnh được. Trước khi vào tịnh thì phải có đủ Tam Lập là
: Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn. Nơi cửa Đạo đặt ra việc chi đều là hữu ích cả,
mượn Thể Pháp tượng trưng mới đoạt Bí Pháp. Trước kia Bần đạo lập Phạm Môn xuất
hiện tại Tòa Thánh tượng trưng Cửa Phật độ sanh hồn, tức nhiên gọi Phật; Minh
Thiện Đàn mở tại Khổ Hiền Trang, Bần đạo khai Thể Pháp tại đó, gọi là Pháp, Phước
Thiện ngày nay đã ra thiệt hiện, tức nhiên ra mặt xã hội, gọi là Tăng, thì nó
sẽ bành trướng vận chuyển lưu hành cùng khắp xã hội nhơn quần, nghĩa là phải
phụng sự cho toàn thể chúng sanh, tế khổ phò nguy, đi Đầu Họ Đầu Quận làm hậu
thuẫn cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài, lo cơ tận độ, chỉ có công phổ độ mới giải
quả tiền khiên. Ai không có xuất thân hành đạo, nghĩa là không có công phổ độ
thì không vào tịnh được, vì không đủ Tam Lập.
Trước khi xin vào, phải nạp tất cả giấy tờ hành
đạo, lai lịch từ thuở nhỏ đến trưởng thành, ở ngoài Đời không án tiết, trong
cửa Đạo cũng vậy, trọn tùng luật pháp Đạo và trường trai mới được, rồi giao cho
Pháp Chánh minh tra về Thể Pháp đủ bằng chứng.
Chi Pháp phải giữ hồ sơ của mỗi người, còn nhiều
điều trọng yếu về vô vi, không thế gì Chi Pháp biết đặng, chiếu văn kiện thì
đầy đủ lắm vậy, Chi Pháp chỉ biết văn bằng hiện hữu về mặt hữu hình mà thôi.
Khi minh tra đủ lẽ, rồi mới giao cho Hộ
Pháp cân thần, nếu vị nào đủ Tam Lập thì vào tịnh được, bằng thiếu thì trở lại
đi Đầu Họ, Đầu Quận, đi hành đạo nữa. Nói rõ là phải có Hộ Pháp trục thần khai
khiếu mới biết đặng đủ hay thiếu Tam Lập, còn không thì ngồi tịnh, bụng lớn vô
ích.
Ông Bàng :
- Bạch thầy, như thế mấy con đây làm công quả,
không đi Đầu Họ Đầu Quận làm sao vô tịnh được, vì không đủ Tam Lập ?
Đức Ngài nói :
- Riêng về phần mấy em, cứ lo tạo Đền Thánh, rồi
đây Bần đạo định cho, phần thiêng liêng thì
Chí Tôn đã hứa, còn về hữu hình,
nếu muốn làm quan Đạo thì Bần đạo ban cho phẩm Giáo Thiện, nam nữ cũng vậy.
Ông Trình bạch :
- Những hạng văn hay chữ giỏi tài đức, người ta mới
giúp nhơn quần xã hội đúng theo lời thầy dạy là phải giúp nhơn loại khắp cả
hoàn cầu đặng Lập Đức, còn Lập Công,
muốn đền ơn cha mẹ và xã hội vì công sanh thành và xã hội nuôi hột cơm và manh
quần tấm áo, nhờ đó mà ta sống, tức nhiên đụng ai trả nấy, nghĩa là trả cho
toàn thể nhơn quần xã hội trên mặt địa cầu mới đúng thuyết Lập Công. Còn Lập
Ngôn thì tìm hiểu chép Thánh Ngôn lời lành lời phải để lại cho nhơn sanh học
hỏi cái Đạo ngôn ngữ mà bắt chước, mấy con dốt có thế nào làm được ?
Đức Ngài nói :
- Phương pháp Tam Lập, nói rõ là chỉ đem trọn mảnh
thân nầy làm tế vật cho Chí Tôn đặng phụng sự nhơn loại, nếu giải rõ thì rất
nhiều chi tiết, để có dịp Bần đạo sẽ thuyết minh hoặc viết sách in ra cho học
hỏi.
Bây giờ mấy em làm công quả, nó cũng ở trong thuyết
Tam Lập, lại nữa cái công tạo tác Đền Thánh là đền thờ chung của toàn nhơn loại
sùng kính, như thế cũng đáng lắm rồi.
Mặc dầu không đủ Tam Lập, mà mình làm điều gì mà
toàn thể nhơn loại hằng ca tụng, nhắc nhở và ghi ân, lưu danh hậu thế, cũng là
một việc khó làm, nó cũng sánh với công phổ độ vậy.
Nếu xét lại, em nào còn thiếu Thiện Công, Thiện
Ngôn, sau nầy phải xuất sư, cũng làm thầy tạo nghiệp đạo, rồi ngoài kia hễ Chức
sắc xuất dương ngoại quốc, các em cũng xuất sư tạo nghiệp ở các nước, nên ráng
lập công, học cho thông mọi việc theo nghề nghiệp mình.
Bần đạo khuyên các em ở cùng nhau một sở, phải coi
nhau như ruột thịt vậy, trên thương dưới, dưới không nghịch trên, dùng ngôn ngữ
từ hòa đối đãi với nhau để đoạt đạo ngôn ngữ, nam nữ cũng vậy.
Thợ hồ :
- Bạch thầy, mấy con về đây làm công quả, đã hiến
thân trọn đời vào Phước Thiện, hằng ngày cực khổ, ăn cháo rau, áo quần tiền bạc
thiếu kém mọi mặt mà không Thiện Công, Thiện Ngôn. Bạch thầy, kiếp sanh làm
người ở thế mong được cái Đức là hạnh phúc mà có người làm chưa được, bây giờ
thầy dạy phải Thiện Đức thì làm sao cho
đặng ?
Đức Hộ Pháp nói :
- Bần đạo hỏi mấy em về làm công quả tự mình đi
hay là có ai biểu ?
- Mấy con là người hiến thân Phước Thiện thì trọn
quyền của Hội Thánh sai khiến, khi nghe Châu Tri mộ công quả, mấy con mới vâng
lịnh ông Đầu Họ biểu về đây.
Đức Ngài nói :
- Đó là lập công lập vị hay là chuộc quả, đứng vào
hàng “Giáo nhi hậu thiện” là nghe
lịnh mà theo. Nếu các em nào tâm đức minh mẫn, được “Bất giáo nhi thiện” là
thiện công thiện ngôn đó vậy. Hạng nầy gọi là phi thường, khỏi vào Nhà Tịnh họ
cũng đoạt pháp được là vì họ sẵn là nguyên nhân, họ hiểu biết mà làm, họ tự tạo
âm chất, thật hành điều nghĩa điều thiện, là Thể pháp, tức nhiên có thể đoạt Bí
pháp, có điều thiếu một việc, muốn đắc pháp phải có chơn sư khai khiếu mới trọn
vẹn được, đó mới gọi là “Thượng phẩm chi
nhơn”; còn mấy em đây là “Trung phẩm chi nhơn, giáo nhi hậu thiện”,
mấy em tạo thiện đức được là là biết nghe lời Hội Thánh.
Người ta có tài thì làm việc hay, còn mình dở thì
làm việc thường. Bần đạo tỉ dụ một việc thường để mấy em dễ hiểu: Phận mình dốt
thì làm theo dốt. Muốn tạo thiện đức, thiện công, thiện ngôn là làm như vầy:
Mình nghe đâu có cất chùa thì mình tự tính đi đến
xin làm công quả; nghe đâu có ai bị tai nạn khốn khổ thì trong đêm ấy, nằm tính
và thương xót, nghe chỗ đó bị tai nạn, mình định sáng ngày rủ anh em hay tự
mình đi, dầu sáng nầy tằm chín hoặc có một mối lợi gì đó cũng bỏ, đi đến trợ
giúp việc tai nạn, đó là thiện đức, nghĩa là khi mình tính.
Khi đến nói như vầy: Thưa anh, tôi nghe anh bị tai
nạn, tôi đến để xin phép giúp anh một ngày, hoặc là vác một cái cây, hoặc là
giúp một đồng bạc, vậy xin anh vui lòng cho tôi giúp với một nghĩa mọn.
Khi mình nói là thiện ngôn, khi mình làm là thiện
công. Chớ không phải ỷ có của rồi nói sỗ sàng: đây tôi cho anh một đồng bạc mua
gạo ăn đỡ đói. Như vậy là chưa thiện ngôn.
Mấy em đừng có phân bì việc lập công với Đạo, bực
Chức sắc mà không làm được, còn mình là tín đồ thì làm gì !
Mấy em phải hiểu rằng cái tâm đức từ thiện ở cửa
Đạo không phân biệt lớn hay nhỏ, dầu nhỏ lớn đều làm được. Hễ ai có nguyên căn
thì làm được.
Cam
La sớm gặp cũng vinh,
Muộn
thời Khương Tử cũng vinh một đời.
Mấy em đừng lầm tưởng rằng phải vào Tịnh Thất mới
đoạt pháp đặng. Mấy em làm công quả hằng ngày là tô điểm nuôi nấng Thể pháp.
Khi mấy em đắc pháp mà mấy em chưa biết đặng, cái Thể pháp ở trong trong thuyết
Tam Lập mình tự đào tạo nó hay là lo làm âm chất và làm điều thiện, tự giác nơi
lòng mình, thì cái Chơn pháp ấy vẫn từ từ sẽ có và tồn tại. Đó mới gọi là Chơn
pháp, chớ chẳng chờ ai ban cho mình Chơn pháp.
Nếu tâm thiện mình không có, dầu thọ pháp hay là
tịnh luyện rồi nó cũng mất. Bởi lẽ ấy mà Bần đạo truyền Thể pháp lẫn có Bí pháp
cho Chức sắc giải oan, tắm Thánh, hôn phối và phép xác. Chỉ có Giáo Sư Minh vừa
khá rồi cũng bị lấy lại, còn bao nhiêu từ từ phai lợt của Bần đạo đã ban cho mà
tự mình làm mất, bởi lý do không giữ tồn tại.
1 . là sự nóng giận khiến ngôn ngữ không lành.
2 . là sắc dục, dầu cho vợ chồng cũng là sắc dục.
3 . là không trọn vẹn giữ trai giới và không tinh
khiết.
Trọng đại hơn hết là cái đạo ngôn ngữ ở trong cửa
Đạo, từ tín đồ lập công cho đến Chức sắc phải có ba ngàn (3000) công quả, đã
nhiều năm dày công tu luyện mới nhập vào Thánh thể của Đức Chí Tôn, nếu mà chưa
trọn đạo ngôn ngữ, thốt ra một lời nói bất lợi cho mình cho người thì nó cũng
tan như giá.
Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang,
Nhứt ngôn khả dĩ tán
bang.
Tỉ như lúc gặp đồng đạo của mình mà bị phạm tội với
Đạo, với Hội Thánh, với thầy với bạn, họ đã chịu khổ đau tâm hồn lắm vậy. Mình
là người vô tội hoặc là mang Thiên mạng vào mình, mà còn tánh đức phàm tục, cứ
khinh rẻ chê bai, trích điểm, làm cho bạn mình đau khổ thêm. Lẽ đạo thương
người không hết, có lý đâu buông lời nhạo báng, vô tình mà mình mất cả chơn
pháp mà gánh lấy tội của họ đã làm mà may duyên cho họ được trao lại cho mình.
Chớ chi Hội Thánh thay hình thể Đức Chí Tôn, dùng
luật hữu hình trị tội thì Thiên điều khỏi tội.
Còn mình không phải là thay hình thể Đức Chí Tôn,
cũng là bạn đồng sanh, mà mình chưa chắc gì trong sạch hơn kẻ đang có tội, mà
mình lại lãnh thêm nữa.
Cái huyền vi mầu nhiệm của Bí pháp rất hệ trọng lắm
vậy.
Học đạo ngôn ngữ của Thánh hiền phải cẩn ngôn cẩn
hạnh, trước khi nói phải suy nghĩ điều nào phải, điều nào lợi rồi sẽ nói. Một
là chơn chánh, hai là dễ thương, ba là hữu ích.
Nhược bằng không được ba điều trên thì nên giới
khẩu, làm thinh là tốt hơn nói.
7. - Thuyết đạo trong lễ Khánh Thành TT Kim Biên : Linh Tâm.
Ngày
15-7-Đinh Sửu (dl 20-8-1937)
THUYẾT
ĐẠO
của Đức Hộ Pháp
trong lễ Khánh Thành Thánh
Thất Kim Biên
Thưa cùng chư Viên quan quí chức, quí Ông quí Bà,
chư Chức sắc Thiên phong nam nữ, chư Đạo hữu lưỡng phái.
Chiếu theo ý nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ
tánh đức của loài người đối với Đức Chí Linh cùng càn khôn vũ trụ.
Loài người bao giờ cũng chủ tâm tìm tòi. Kiếm cái
nguyên do lai lịch của mình, hầu định phận đối cùng Tạo đoan vạn vật. Muốn biết
mình, con người phải lột cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế,
gọi là chúng sanh, đặng so sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết đặng
cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri năng giác của chúng sanh mới tìm đặng
cái tâm linh của mình là báu. Thấu đáo đặng tâm linh mới biết Thiên lương do
Chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là mầu nhiệm huyền bí, tả không cùng,
hiểu không tột, chẳng biết lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO.
Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM làm mục đích.
Các Thánh nhơn xưa thường đem cái triết lý ĐẠO
TÂM hiệp làm môi giới, nên dầu cho các
vị Giáo Chủ, tuy mỗi Đấng đều có cái tư tưởng đặc sắc nên triết lý cao thấp
không chừng, nhưng cũng phải buộc lấy chữ
TÂM làm nguồn cội.
Ôi ! Nếu
luận đến hai chữ CHỦ TÂM thì ta cũng thấy rõ ràng : một vấn đề thuyết không
cùng, biện không tận, vì nó quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do nơi
Đức Chí Linh là Trời mà sản xuất.
Hễ càn khôn vũ trụ nầy vĩ đại bao nhiêu và cơ bí
mật Tạo đoan bao nhiêu thì nhơn tâm đều hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu cho kiến thức
đặng hay là còn ẩn vi mầu nhiệm mà lương tâm của con người đã hưởng ứng, đều
cho mọi trí não mọi tinh thần tự hiểu rằng : sự thấu đáo chữ ĐẠO vô cùng vô
tận, muôn phần loài người chưa định đặng một, vì vậy các nhà triết học đạo đức tinh
thần cho Nhơn tâm tức Thiện tâm cũng đáng.
TÂM ấy là gì ?
Ấy cũng là một định từ để chỉ cái hình bóng của trí
thức tinh thần. Đạo gọi là Nhứt điểm linh quang chiếu giám.
1 . Đức Chúa Jésus khi thọ pháp giải oan nơi sông Jourdain thì điểm linh quang
ấy đến với một cái hình ảnh phi cầm là con bồ câu hào quang sáng lạng.
2 . Đức Phật Thích Ca khi trì định tại vườn Bồ Đề thì điểm linh quang ấy
giáng như hình khối lửa.
3 . Đức Lão Tử khi thiền định tại Thư viện nhà Châu thì điểm linh quang ấy
giáng như hình sấm sét.
4 . Đức Khổng Phu Tử khi vấn đáp với thần đồng Hạng Thác, thì điểm linh quang
ấy giáng như hình sợ sệt.
Chẳng cần luận cao xa hơn nữa, như Abraham và Moise
thấy Đức Chúa Trời trong đạo hào quang sáng sáng suốt; như Đức Lão Tử, Nguơn
Thỉ Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo chủ
thấy Hồng Quân Lão Tổ trong năm sắc tường vân, như Phục Hy thấy Long mã
hóa Hà đồ. vv . . .
Nhứt điểm linh quang ấy vẫn nhiều hình dáng, vẽ
không nên hình, tả không nên tướng.
Ấy là một huyền bí vô chừng mà các nhà đạo đức từ
thượng cổ đến chừ đã để tâm nghiên cứu tìm tàng, đôi phen phải lặn suối trèo
non, chun trong hang sâu, vào nơi vực thẳm.
Bởi cái chí hướng của loài người bị quyền năng của
Nhứt điểm linh quang thôi thúc, nên trí não tinh thần cũng xu hướng theo sự bí
mật ẩn vi của quyền năng Tạo đoan còn chất chứa.
Hễ có tìm thì có biết, hễ biết lại còn phải biết
nữa, càng biết lại càng giấu, bởi sự hay biết của tánh đức loài người chưa hề
thấu đáo đặng sự bí mật Tạo đoan cho cùng tận, tức gọi là “Tầm Đạo”. Hễ càng tìm càng dốt, hễ gọi biết
lại là ngu, vì chưa có một mắt phàm nhơn nào tại thế nầy mà Đức Chí Tôn đã giao
trọn huyền vi bí mật. (De pauvres
esprits prétentent qu’ ils sont dans le secret de Dieu. Or, je ne donne à nul
humain ici-bas d’ en faire la révélation).
Ấy vậy, chữ ĐẠO vẫn để nói mà hình vật của Đạo vốn khó tìm. Đạo do trí thức
tinh thần mà xuất hiện, chưa có một vật chi hữu linh tại thế nầy mà không có
Đạo. Cái vĩ đại của Đạo thật là khó rõ, mà Đạo lại dễ lợi dụng.
Dưới mặt luật tương đối của đời đã biến hình, biết
bao tư tưởng phô bày, biết bao tướng diện ảnh hình.
Tranh nhau từ cái khôn cái khéo, hơn nhau từ cái
xảo cái ngoan, sánh nhau từ cái cao cái sâu, giành nhau từ cái sang cái trọng,
để một trường luận biện chánh chánh tà tà, cho biết cái quyền năng của Đạo nó
tạo cái hay sự dở.
Chưa ai lấy một triết lý dầu cao siêu thế nào đặng
làm môi giới chuẩn thằng hầu định đức tánh của loài người cho cùng tận thì
không có một giáo lý nào dưới mặt địa cầu nầy đã đáng danh là Đạo.
Chúng ta không dám chối, các tôn giáo không phải là
Đạo, mà chúng ta quyết hẳn rằng, các nền tôn giáo chưa đáng danh gọi Đạo. Nếu
biết cái triết lý do tinh thần sản xuất thì là Đạo đã đành, nhưng nó chỉ là một
tư tưởng trong vô cùng vô tận của trí thức tinh thần mà thôi, song chúng ta
phải biết bao nhiêu tư tưởng khác nữa.
Cái nguồn ấy chưa khô chưa cạn và chúng ta lại quả quyết rằng, hễ còn loài
người thì có tư tưởng, cả tư tưởng ấy cho đến tận thế
cũng vẫn còn.
Ấy vậy, loài người đương bôn xu trên con đường Đạo
chớ chưa hề tới tận nguồn cội của Đạo bao giờ.
Các tôn giáo tuy đáng danh Đạo chớ chưa phải Đạo.
Tỉ như cát kia ở nơi một gò, một bãi biển, một sa mạc thì nhỏ lớn đều đặc biệt
cùng nhau. Thay vì chỉ tên một gò, một bãi hay một sa mạc, lại gọi tiếng cát
trơn, thì chúng ta chẳng hề chối đặng, bởi dầu một bãi, một sa mạc hay một gò,
nó đều có danh là cát.
Vậy thì dầu cho tả đạo bàng môn hay là chơn tông
chánh giáo, cũng đặng phép tạm xưng là Đạo, những điều khinh trọng, duy để nơi
cân công bình của toàn Thiên lương trí thức tinh thần định đoạt.
Ta không dám xử, nhưng tự nhiên mỗi cá nhân để trí
thức mà định phận.
Ta không đủ thông suốt đặng dung nạp các giáo lý
của các nền Đạo đương thời mà linh tâm cho ta hiểu rằng, nó chưa vui hưởng đặng
cái hay của mùi
Đạo.
Từ cổ chí kim, con người đã mua cái danh Đạo rất
nên mắc mỏ. Cái linh tâm của chúng ta vốn là tự do mà các tôn giáo đã buộc ràng
nó trong một hành vi chật hẹp đặng bảo thủ cái Thiên lương thì tức nhiên nó đem
một cái báu vô giá đặng đổi chuộc một vật thường tình, e cho thế gian thất Đạo
cũng do theo lẽ ấy.
Cái khí hứng của Linh tâm bao giờ cũng chú trọng
theo cái hoạt động tự do, lấy Thiên mạng làm căn bản, thì Thiên lương là tớ,
Linh tâm là thầy. Các tôn giáo buộc thầy tùng tớ, thì rõ ràng là trái lý. Bởi
cớ cho nên Linh tâm phản động mới nảy ra Tả đạo bàng môn, làm cho các mối chơn
truyền thành ra bất năng vô ích.
Hỏi Linh tâm do đâu mà sản xuất ?
Có phải do nơi Tạo Hóa Chí Linh đã ban cho loài
người đặng có đủ quyền năng làm chúa cả toàn vạn vật hay chăng ? Nó là Nhứt
điểm linh do nơi Đức Chí Linh mà có, thì nó là con của Trời, tức nó là Trời.
Còn Thiên lương do nơi đâu mà có ?
Thiên lương do nơi sự đối phó cùng vạn vật hữu hình
lập phương chước bảo tồn sanh hoạt. Không có Thiên lương thì chưa biết nhìn
nhau là bạn trong trường khổ não đau thương hầu bảo thủ mạng sống lẫn nhau đặng
dìu dắt nhau đi tận con đường giải thoát.
Có Linh tâm mới biết mình là một vật trong vạn vật
của Chí Tôn đào tạo, rồi nhìn Chí Tôn trong hình vạn vật mà tự hiểu rằng, Chí
Tôn phải có tự nhiên tánh đức Bác ái Từ bi, mới nuôi nấng trọn chúng sanh vạn
vật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét