Tâm lành của Trời tức là tâm lành của người. Hình
ảnh vĩ đại trước kia nó biến ra hình ảnh tối thiểu sau nầy, nên gọi nó là Thiên
lương.
Vì vậy, các giáo lý của mấy vị chưởng giáo từ trước
đều là cơ quan un đúc bảo trọng Thiên lương mà thôi. Hễ có Linh tâm tức nhiên
có Thiên lương, dầu không cần kiếm, tự nhiên nó cũng có. Chúng ta chưa hề dám
nói các tôn giáo là vô ích mà ta chỉ than rằng : Chưa đủ.
Dạy đời cho lành mà không dạy đời cho ngoan thì
chẳng khác nào dạy cho biết cái sống mà quên cho hiểu cái chết, hay là dạy cho
đọc sách mà không cho học chữ. Chớ chi, các tôn giáo biết chú trọng Linh tâm
hơn là cần lo gầy dựng un đúc Thiên lương thì con đường Chí thiện của chúng
sanh sẽ đặng quang minh quảng đại hơn nhiều, mà cái Đạo của Đời sẽ tùy theo
Linh tâm trở nên hiền lương nhơn hậu hơn. May ra khối khổ não của Đời chưa đến
nỗi to lớn nguy hiểm như thế nầy.
Chúng ta thoạt nhiên quan sát tận tường, bởi các
bằng cớ tạo đời do nơi tư tưởng của các tôn giáo hiển nhiên tại thế nên đoán
chắc rằng, nếu giáo lý nào mà rộng mở cho sự tự do hoạt động của điểm Linh tâm
thì điểm Linh tâm tùy theo sự nhỏ lớn của sự ân hậu khoan hồng ấy mà hưởng ứng,
do đó, các tôn giáo mạnh yếu khác nhau cũng vì lẽ ấy.
Hiện thời, đạo Thiên Chúa đã đặng thế lực mạnh mẽ,
đáng danh là một tôn giáo toàn cầu, kể tổng số hơn các tôn giáo khác. Ngoài ra
phương chước làm cho thành tướng các triết lý chơn ngôn, những tay cầm giềng
mối đạo đã rộng mở cho đời đôi chút tự do tư tưởng, đạo Thiên Chúa nhờ nương
cái đức tín của một Đấng Chí Tôn nên thế lực vững vàng kiên cố.
Các quốc dân châu Âu đã đặng khôn ngoan hơn, đặng
tài tình hơn, đặng cao trọng hơn, tưởng cũng do may hưởng các đặc ân của Đấng
Chí Tôn cho rộng thế hoạt động thành hình của tự do tư tưởng.
Trái lại, chúng ta lại buồn thay cả khu địa giới
cõi Á châu nầy chịu dưới quyền cảm hóa của Phật giáo từ cổ đến kim, nên dân
sanh phải chịu lỡ bước văn minh tấn bộ.
Kiếm duyên cớ, chúng ta đã thấy hẳn rằng: Triết lý
mà Phật đã bó buộc tư tưởng của con người vào một khuôn khổ hành vi chật hẹp
nên mới ra đến đỗi. Một tôn giáo đã khuyên nhủ, đã dụ dỗ, đã yêu cầu cho điểm
Linh tâm tự diệt, rồi lại để cho Thiên lương vi chủ, thì là một nền tôn giáo
biểu chủ phải tự tử để cho tớ cầm quyền thì bảo sao không chịu cái nạn tán gia
bại sản. Thảm thay ! Nếu phải vong phế vì quốc sự bạc nhược ấy, các sắc dân nơi
cõi Á châu nầy phải tìm tòi đặng học vấn với một thầy nào, tức nhiên phải đến
gõ cửa Khổng gia hay tìm nhà Lão giáo.
Ông Khổng thì biểu ôm một kho sách cho dẫy đầy, đủ
phương chước mưu mô đặng trị an thiên hạ, đặt đủ truyện đủ tuồng, đủ vai đủ vở,
nhưng rủi thay đời chưa kiếm đặng một mặt kép hay đặng làm tuồng theo đúng vở,
thành thử không khác nào một ông thầy tuồng đặt bài vở thiệt hay nhưng không có
kép tài đặng hát.
Ấy là một tôn giáo rộng lý thuyết mà hẹp thật hành,
bởi thúc phược tự do tư tưởng.
Nho giáo như cái chậu, cái khôn ngoan của đời tức
là Linh tâm như cây kiểng, cây kiểng ở trong chậu chẳng hề đặng to lớn bao giờ,
duy để cho đời đặng ngoạn mục xem ngắm cái hay của sự u nần cùi cụt.
Ông Lão thì chỉ khuyên nhủ dân sanh nuôi nấng cái
điểm Linh tâm cho cường cho thạnh, nhưng không cho nó hoạt động biến hình,
thành thử dạy đời về khôn khéo mà ghét đời về ăn ở thì chẳng khác nào như một
ông thầy thuốc đã triï bịnh cho người, biểu đừng ăn cứ ngủ.
Tưởng ra thì một giáo lý dạy chúng sanh nằm ngủ
đặng đợi hết đói thì dầu cho các môn đệ của người bảo thủ vẹn vẻ lấy điểm Linh
tâm, thì điểm Linh tâm ấy cũng hóa bất năng vô ích.
Cái triết lý của đạo Lão là một triết lý rộng mở
cho điểm Linh tâm, mà trở lại một tôn giáo thúc phược lương tâm hơn hết.
Đường Đạo vốn mênh mông, tâm đức đi ngõ nào cho
đúng nẻo ? Tâm đức vốn vô ngằn, phải đạo
lý nào cho phù hạp ?
Hai câu vấn đáp mật thiết tương thân nầy, nếu mấy
vị Giáo chủ còn đương thời hỏi đến cũng phải nhăn mày nhíu mặt.
Chúng ta cũng nên riêng tưởng rằng : chưa có một
cái quyền năng nào mà thúc phược đặng điểm Linh tâm, hầu bỏ nó vào một khuôn
khổ hữu hình hữu dạng, thì tức nhiên chưa có một nền tôn giáo nào đủ tài đức
quyền hành đặng làm chủ đức tin thiên hạ.
Đời phải học với cha mẹ, cha mẹ chưa đủ đức mà dạy
cho nên danh, đời phải học với thầy, thầy chưa đủ đức mà dạy cho nên phận, đời
phải học với vua, vua chưa đủ đức mà dạy cho nên Đạo, duy phải tìm Trời là Đấng
đủ quyền năng tạo thế, lại là Cha của đức tánh loài người, thì mới đủ phương
pháp dạy người cho nên người vẹn vẻ.
Đạo Cao Đài vốn là cơ quan để nắm tay của đời đặng
dắt vào trường học của Trời mà chớ.
8. - Nhơn lễ kỷ niệm Đức Q. Giáo Tông: Luật Thương yêu.
Ngày
14-10-Đinh Sửu (dl 16-11-1937)
DIỄN
VĂN
của
Đức Hộ Pháp
đọc
nhơn ngày Lễ kỷ niệm Đức Q. Giáo Tông.
Thưa cùng chư Viên Quan quí chức, quí Ông, quí Bà,
chư Chức sắc Thiên phong lưỡng phái, chư Đạo hữu nam nữ.
Thưa, chúng ta đã rủi sanh nơi cõi trần nầy, tỉ
chẳng khác chi người khách du lịch. Trước khi để bước ra đi, hằng mong tưởng
rằng : cái tánh háo kỳ của ta sẽ đặng thỏa mãn, ngoạn mục đặng một phong cảnh
tốt tươi đẹp đẽ, hứng chí thích tình.
Ôi ! Biết
đâu chúng ta lại chẳng mong tìm mảy may sự hứng chí thích tình ấy mà phải chịu
đòi phen khổ nhọc, lặn suối trèo non, thắng nguy mạo hiểm.
Chí hướng tâm thần của loài người bao giờ cũng đeo
đuổi mãi theo con đường hạnh phúc, chẳng phải hạnh phúc nơi xác thịt hình hài,
mà ta lại mong tìm cái hạnh phúc tinh thần hơn hết, nên đòi phen ta đày đọa
hình hài xông lướt đến nơi luồng đầm hổ huyệt.
Tâm chí của khách du lịch vẫn nhiều hạng tùy theo
khí phách của mỗi người.
Có kẻ đã đổ đường lên đèo xuống ải tìm cho ra cảnh
an nhàn, khi đến tận nơi gặp phải chốn đìu hiu quạnh quẽ, non nguy nước hiểm,
phong cảnh âu sầu thì nhắm mắt dậm chơn, nghiến răng chắc lưỡi mà than thở rằng
: Uổng công trình ngàn trùng diệu viễn mà lạc bước đến chốn vô tình. Cái thất
vọng ấy cũng nên cho là quá đáng, nhưng
cũng có người đặng thiên tánh tự nhiên thích hợp với nước biếc non xanh, rộng
bước tang bồng hồ thỉ, ham hứng trăng thanh, vui mùi gió tối, quen cùng điểu
thú, bạn với cỏ cây, có sẵn chất phong lưu tài tử thì đâu đâu cũng là cảnh hữu
tình : dầu đẹp dầu thô, dầu hèn dầu trọng, dầu lịch xinh tươi nhuận, dầu cùi
cụt đìu hiu, thì cái cảnh thích của người cũng gần một giá, bởi khí hứng của khách
hữu tình vốn để vào nơi mật thiết nhiệm mầu của máy hóa công tạo vật.
Những mặt du lịch nhà nghề nầy, dầu rủi để chơn nơi
trái cảnh thì lại đem cả cái ái tình mà châm chế vào chốn bất phước vô duyên
đặng thay thế cho cái phước thích tình, ngoạn mục. Thật ra thì nơi nào có vẻ u
nhàn ảm đạm lại là nơi giục bước khách
hữu tình.
Những cuộc đau thảm ngờ ngờ trước mắt con người,
đối với khí phách của bậc siêu hoát tâm hồn vốn y một lẽ.
Ta chẳng hiểu rõ đặng đích xác, bởi nguyên do nào
mà ta đã sanh nơi thế gian nầy, rồi ta lại chết trong vòng tục nầy, nhưng Thiên
lương ta chiêm nghiệm tự biết lấy rằng : vốn chẳng phải là việc ngẫu nhiên hay
là vô duyên cớ.
Những khách đồng thuyền của ta phân ra nhiều hạng,
con đường tấn bộ trí thức của mỗi kẻ vẫn không đồng, dầu cho ngậm miệng cúi đầu
ruổi dong trên ngả tự trí tự giác, hiu quạnh một mình đi nữa, thì mọi điều hành
động của ta cũng đã tả thành một bài học hay, in vào cuốn sách đời của toàn
thiên hạ.
Ôi ! Ai đã
mang thi phàm xác tục nầy rồi cũng phải chịu dưới quyền thương yêu của Tạo vật,
ta dầu không biết thương ai tất cả thì ta cũng buộc biết thương ta, mà đã còn
biết thương thân ta thì ta chưa hề đặng phép quên thương thân của kẻ khác.
Nơi trường tranh sống của con người, giống chẳng
khác chi chiến trường náo nhiệt. Nếu chẳng có cái năng lực thương yêu của Đấng
Hóa công dính vào óc não của chiến sĩ võ quân thì đời chắc phải tàn diệt lẫn
nhau lâu rồi mà chớ.
Ta còn lại dám mạo hiểm xưng hô lên rằng : Con
người dầu cho có nạn oán nghịch tàn hại lấy nhau đi nữa, cũng do luật thương
yêu của Trời mà có vậy. Nếu như ai vấn nạn thì ta lại trả lời rằng : Khuôn luật
thương yêu chia ra hai mặt :
1 . Thương mình.
2 . Thương người.
Hai hình trạng của luật thương yêu ấy phải nương
theo cây cân công bình tạo đoan mới hòa bình tâm lý. Nếu mình quá thương mình
mà bỏ người thì bị cái điên vị ngã, còn quá thương người mà quên mình thì bị
cái ngây vị chủng.
Ấy vậy, rõ thật ra thì ta đã quả quyết rằng : cũng
vì cơ quan vị ngã vị chủng phản khắc tương tranh mà gây thành loạn lạc vậy.
Trời phải định cho có nơi lòng của mỗi người một cây cân công bình thiêng liêng
mới đặng. Cây cân công bình ấy là chi ?
Ấy là chất Thiên lương, tục gọi là Lương tâm của ta
đó vậy.
Hại thay ! Thiên lương hằng buộc ta phải ngó chăm
chỉ sự thật của Đời vì chính nó là bạn thương yêu mật thiết của Đời, rồi buộc
ta phải thú thật rằng : dầu cho ta muốn làm màu chê ghét Đời, gớm ghê Đời, kinh
khủng Đời, chán ngán Đời mà ta chưa hề buổi nào từ bỏ đặng Đời bao giờ.
Trái lại, những khách hờn Đời lại là người thương
Đời hơn hết.
Cái quyền năng cảm hóa phi thường của tuồng đời,
sớm thay hình, chiều đổi dạng, diễn trên sân khấu thế tình nhiều màn mới mẻ,
lắm lớp hay ho mãi mãi hoài hoài, làm cho thính giả khán quan ngồi không biết mỏi,
nghe chẳng nhàm tai, đặng gầy sự nghiệp của Đời thêm vĩ đại.
Nơi cảnh tục ta đây, Đạo gọi là sông mê bể khổ, vốn
còn náo nhiệt hình bóng của loài người, là nhờ sự khéo khôn của quyền Đời đào
tạo.
Số khách hữu tình của Đời ngày nay đã tăng thêm
chín trăm hai triệu mặt.
Đời càng phụ ta lại càng thương, Đời càng nguy ta
càng thêm mến, vì cớ nên ta hằng thấy, hễ buổi nào Đời bị khổ não hiểm nguy thì
có Thánh nhơn trổ mặt.
Thật sự thì Đời có quyền phụ ta, còn ta không phép
phụ Đời. Nhờ đấy mà bậc thượng đẳng nhơn sanh thường nương theo Bí pháp của Đời
mới đào luyện tinh thần siêu thoát.
Sự thế còn dài, con người còn khổ. Có khổ mới có
hay, có dài mới có thú. Cơ nghiệp của Đời thâu thập các món thuế của khách
trần, phải nạp giọt đau thương, phải đóng sưu sầu thảm.
Nầy đảnh thương sơn, nọ nguồn lệ thủy, hãy càng
ngắm càng cao, càng nhìn càng rộng, dầu ta xuống hang sâu hay chen vào vực
thẳm, trên chẳng đụng trời, dưới không thấu đất, hầu mong xa lánh nợ đời, quyết
tránh hồng trần, tính lìa thế tục, không muốn gặp mặt của bạn khách trần, kỵ
lóng đặng lời ăn tiếng nói hầu mong diệt tận thất tình cho đặng đi nữa, thì
thoạt nhiên ta sẽ thấy cả sắt đá cỏ cây phát động âm thanh xúm nhắc luật thương
yêu tạo vật.
Ta dầu cứng lòng chắc dạ, chưa để cho ai cảm hóa với
ngôn ngữ thường tình, khi nghe đặng ngôn ngữ của Vạn linh thì ắt cái quyền lực
ái tình nó tăng thêm vô độ.
Những bậc lánh trần, ta xem kỹ lại là ai ?
Có phải mấy vị thầy tu là trước hết chăng ?
Vậy thì có tu mới biết thương Đời, chẳng phải
thương Đời với khuôn viên hình bóng mà vì nồng nàn của khí phách tinh ba,
thì sự
thương ấy mới ra cao thượng.
Ôi ! Biết bao nhiêu khách đã chịu riêng đau, ấp
thảm, ngậm khổ nuốt sầu, chịu lắm cuộc bể dâu, xem những nỗi nên hư thế sự.
Khi đêm tàn canh lụn, ẩn thân nơi nước trí non
nhân, đặng lén dòm quanh cuộc thế, gởi tình chung cho gió mát trăng thanh, nạp
đức tánh cho trời cao đất rộng, một bóng một hình, không ai là bạn. Cái may của
một kiếp sanh bậc siêu hoát tâm hồn đã thường phải vậy. Ấy là một kiếp sanh để
cho Đời phụ bạc, chớ chẳng phải cốt để phụ bạc lại Đời, đến đỗi dầu ép thân theo thú hạc cầm, cũng chưa gặp
mặt tri âm tri kỷ, sống cũng không ai hay, thác cũng không ai biết. Ôi ! Tưởng cái lịch sử của thế tình, nếu có thiếu
sót thì do nơi đấy mà ra khuyết điểm.
Hỏi, nếu Đời biết cảm tình, gìn ân giữ nghĩa, thì
những bạn đồng thuyền ấy, ta phải khép vào nơi hạng phẩm và giá cả bậc nào ?
Đức Thích Ca bị bỏ đói, Đức Lão Tử bị cút côi, Đức
Khổng Phu Tử bị xô đuổi, Đức Chúa Jésus Christ bị tàn sát, nhưng may thay, dầu
cho mảnh thân bị nơi tay ác độc của nhơn sanh tàn hại thế nào, khi qui thần,
đời biết hiểu, biết nghe, biết nhìn tiếng than thở đau thương, ái nhân ái vật,
và đặng công nhận là người ân của nhơn loại thì cũng nên gọi rằng, chết gặp
kiếp duyên mà trừ cái khổ sống mang kiếp
trái.
Ta cũng nên chắc hẳn quả quyết rằng, từ thượng cổ
đến chừ, cũng còn lắm bậc siêu hoát tâm hồn, thùy từ mẫn khổ, cũng gần như các
vị Giáo chủ trên đây, nhưng thiếu cái bằng chứng ngôn ngữ thế tình mà công
nghiệp của kiếp sanh phải ra mai một.
Ôi ! Anh cả
ôi ! Anh cũng là một người đã chịu mang
một kiếp sanh để cho Đời phụ bạc, chớ chưa hề biết phụ bạc lại Đời. Em nhớ khi
đêm hôm tăm tối, anh hay thuật tâm tình. Ngoài em thì chưa ai hiểu đặng chỗ để
tâm trí của anh là nơi nào ?
9.- Thuyết minh trong Ba Hội lập Quyền Vạn Linh.
Ngày
15-10-Đinh Sửu (dl 17-11-1937)
ĐỨC
HỘ PHÁP THUYẾT MINH
trong Ba Hội lập Quyền Vạn
Linh
tại Tòa Thánh năm Đinh
Sửu.
Ngày 12-10-Đinh Sửu. (Đại
Hội Nhơn Sanh)
Bần đạo xin để lời cám ơn chư Chức sắc Thiên phong
và chư Nghị viên, Phái viên nam nữ có mặt về dự hội hôm nay đều đủ.
Kỳ hội nầy, chúng ta sẽ quyết đoán nhiều hành vi và
cả khuôn viên của Đạo đặng đem ra thật hành cho nên mỹ mãn. Xin chư vị ráng để
trọn tâm chiêm nghiệm tường tất mỗi khoản trong chương trình rồi quyết định,
đặng giúp thế cho Hội Thánh ban hành cho nên mặt Đạo.
Cả tương lai của Đạo sẽ tốt đẹp hay không đều do kỳ
hội nầy.
Ấy vậy, Bần đạo xin đọc khoản thứ nhứt trong chương
trình cho chư Nghị viên bàn định.
Ông Chủ tọa (Đức Hộ Pháp) đọc khoản thứ nhứt trong
chương trình và nói :
Tưởng lại, Bần đạo cần phải trạng vẽ cả khuôn viên
hiện thời và quyền hành đương nhiên của Đạo và tại sao Hội Thánh không cầm
quyền phong thưởng, lại để cho Quyền Vạn Linh định đoạt.
Vậy trước hết Bần đạo cần thuyết minh ra đây cho rõ
giá trị của Chức sắc thế nào đặng Quyền Vạn Linh thấu đáo.
Vả chăng, Chí Tôn là Chúa tể cả càn khôn thế giới,
tức là Đấng tự hữu hằng hữu. Hễ vào phẩm Chí Tôn tức là vào phẩm tuyệt đối của
thế giới càn khôn. Quyền hành Chí Linh của Người rất bao la quảng đại. Nếu như
có thế giới nào ngoài ra khác nữa thì chúng ta không định đặng quyền hành của
Người là sao, còn như càn khôn hiện tượng nầy nó đã tối đại thế nào thì có lẽ
quyền năng vô biên vô tận của Người cũng bao trùm tới đó.
Cái ống thiên lý của Đời soi thấu đến đâu mà còn
thấy một vì tinh tú nào thì quyền Chí Tôn cũng tự nhiên đến đó.
Nơi Thiên văn đài, người ta ngó thấy ngoài các ngôi
tinh đẩu thì còn những khóm tối đen, nghĩa là quá sức của kính thiên lý thấy
đặng, nên quyết đoán rằng cả cơ thể hữu vi nầy nó huyền vi mầu nhiệm là dường
nào, thì Chí Tôn cũng thế ấy.
Quyền hành Chí Tôn đã bao trùm khắp hết, hoặc còn
ra khỏi ngoài càn khôn ta thấy đặng đây mà chớ.
Ngày nay, Đấng Chí Tôn đến lập Đạo đặng nhìn nhận
cả con cái của Người là cả thảy chúng sanh. Thay vì lấy quyền hành Chí Tôn mà
làm chúa, Người lại dụng tánh đức yêu thương, lấy lòng từ bi quảng đại, tôn con
cái của Người vi chủ, nghĩa là Người giao quyền hành của Người lại cho chúng
sanh lập quyền cho con cái của Người là Quyền Vạn Linh.
Quyền Vạn Linh là gì ?
Là tổng hợp cả 3 quyền :
1 . Quyền Hội Nhơn Sanh.
2 . Quyền Hội Thánh.
3 . Quyền Thượng Hội.
*
Quyền Hội Nhơn Sanh : tức là quyền của bậc Tín đồ tới bậc Lễ Sanh, nghĩa
là từ phẩm hữu sanh cho tới thượng sanh.
*
Quyền Hội Thánh : tức là quyền của bậc Giáo Hữu tới Đầu Sư nhưng Đầu Sư có đặc quyền làm
đầu Chánh trị Đạo, vì đã vào Hội Thánh là bậc hữu phẩm tới thượng phẩm. (1)
*
Quyền Thượng Hội : tức là quyền Giáo Tông và Hộ Pháp, còn dưới quyền
Thượng Hội có Chưởng Pháp là tể tướng của Thượng Hội. Nếu có điều chi trắc trở
thì quyền Chí Tôn hỏi nơi Chưởng Pháp mà định đoạt, chớ Chưởng Pháp không có
quyền hành chi cả. Chưởng Pháp phải hiểu cả tâm lý của Đời và Đạo mà liệu
phương hòa giải (Conseil juridique). (2)
Cả 3 quyền hiệp lại thì được đồng quyền cùng quyền
Chí Linh của Đấng Chí Tôn. Đối với quyền Chí Tôn mà nó còn ngang phẩm, thì dầu
cho các Đấng thiêng liêng cũng còn phải dưới quyền ấy nữa.
* * *
(1) Đây là lúc năm 1937, sau nầy sửa lại, Hội Thánh
gồm các Chức sắc từ Giáo Hữu đến Phối Sư và Chánh Phối Sư, còn Đầu Sư thuộc Thượng Hội.
(2) Đây là lúc năm 1937, sau nầy sửa lại, Thượng
Hội gồm 11 vị: Giáo Tông, Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, 3 Chưởng Pháp, 3
Đầu Sư nam và 1 Đầu Sư nữ.
Ấy vậy, ngoài ra Quyền Chí Tôn thì chẳng ai có
quyền hành phong thưởng Thiên phong Chức sắc của Hội Thánh, duy có Đức Lý Giáo
Tông và Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là hai Đấng đã có lịnh Đức Chí Tôn
cho được quyền phong thưởng thì phẩm tước ấy mới nên giá trị.
Ngoài hai Đấng ấy ra, dầu cho một vị Đại Giác Kim
Tiên hay là Cái Thiên Cổ Phật mà không thừa mạng lịnh của Chí Tôn và không
quyền hành nơi cửa Đạo, nghĩa là không lãnh mạng lịnh trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ
nầy thì không đặng quyền phép phong tước cho ai tất cả.
Ngày nay bọn Tả đạo bàng môn phong thưởng chẳng do
Thiên mạng, đều là cơ quan tà giáo mà thôi.
Cơ phong thưởng là chỉ do nơi Quyền Vạn Linh hiệp
đồng hay là Quyền Chí Tôn, chớ chẳng phải ai muốn phong thưởng cũng đặng.
Trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Chí Tôn chia ra ba
cặp cơ là : Pháp, Đạo, Thế.
Cơ quan Phong Thánh là do cơ Đạo có Hộ Pháp và
Thượng Phẩm phò loan, ngoài ra chẳng có cặp cơ nào phong thưởng cho ai đặng.
Sau nầy vì muốn cơ Phong Thánh sống rốn thêm nữa, thì duy có Cao Tiếp Đạo phò
loan với Hộ Pháp, song mỗi phen phò loan đều có chơn linh của Cao Thượng Phẩm
đến nâng loan với huyền diệu thiêng liêng của Ngài.
Hại thay, có một điều bí yếu hơn hết là Chí Tôn chỉ
coi về thiêng liêng phẩm vị mà phong thưởng, nên thành thử phẩm vị thì cao
trọng còn trái lại hình thể của họ thì rất thô kém thiệt thòi, khó hèn nhẹ
giá.
Ấy cũng là cơ quan bí mật của Chí Tôn, mình không
thể nào rõ thấu. Bởi cớ cho nên có nhiều vị Tiên Phật giáng trần, mượn hình thể
hèn hạ phung cùi lở lói, đến đỗi giả dạng ăn xin đặng thử đời hiền dữ.
Hại thay Đời thì cứ ngó cơ hữu hình mà tôn trọng,
còn khinh rẻ phẩm vị thiêng liêng, thành thử Chí Tôn phong thưởng cao trọng
chừng nào thì đời càng rẻ khinh chừng nấy. Một điều hại nữa là những vị ấy
nhiều khi chưa biết giá trị của nó là thế nào ?
Từ thử, Hội Thánh chịu nạn vô giá trị là do nơi đó.
Nhiều Thiên phong coi giá trị của mình không bằng cây diêm hộp quẹt, chúng sanh
coi không bằng điếu thuốc, thì thế nào Hội Thánh, hình thể hữu vi của Chí Tôn,
có đủ quyền năng tạo thời cải thế.
Ngày nay, Bần đạo đem việc phong thưởng ra cho
Quyền Vạn Linh định đoạt, là không phải ý của Bần đạo muốn vậy, mà chỉ là mật
lịnh của Chí Tôn giáng dạy, lại nữa cũng là một phương để cho họ nâng mình lên
cho đáng giá, đặng họ tôn trọng cho đành.
Ấy vậy, từ đây chư Chức sắc Thiên phong sẽ nhờ
Quyền Vạn Linh tạo nên giá trị cùng đời. Thoảng như có ai nghi rằng : E để cho
Quyền Vạn Linh định vị thì nó không có y theo phẩm vị thiêng liêng của Hội
Thánh đi chăng ?
Ta lại nói : Chúng ta phải biết rằng ở thế gian nầy
không có mảy mún hành vi nào mà không có Thiên ý Chí Tôn định trước. Giờ nào họ
đứng trước Quyền Vạn Linh và chịu cho Quyền Vạn Linh nâng đỡ họ lên là ngày họ
được đem danh vị vào Thiên thơ mà chớ.
Bởi thế cho nên dầu ai có tài ba lỗi lạc bao nhiêu, đạo lý uyên thâm đến đâu đi
nữa thì cũng không qua khỏi mắt chúng sanh chọn lựa.
Quyền hành chánh trị của Chí Tôn chuyên chú về mặt
tâm đức làm chuẩn thằng, chớ chẳng phải
dụng cường quyền áp bức. Nếu người nào phải tay cầm quyền tinh thần ấy
tức là có đủ tâm đức mới được. Nếu Hội Thánh đưa quyền cho một người vô giá trị
thì người ấy sẽ chết tại nơi quyền đó mà thôi, bởi nó là quyền về tinh thần chớ
chẳng phải về vật chất.
Người nào đã được Quyền Vạn Linh công cử thì họ
càng sợ sệt và càng khéo giữ hơn nữa. Từ đây chẳng còn ai cầu may mà đặng. Như
có dở thì cả đời phải chịu ngồi một chỗ, còn đủ tài đủ đức thì chúng sanh nâng
lên cao, nếu thất Đạo thì chúng sanh xô xuống.
Từ đây cả quyền thăng thưởng trong Hội Thánh hay là
nhơn sanh cũng vậy, Chí Tôn đã nấy giao cho Quyền Vạn Linh.
Đức Lý Giáo Tông đã mật lịnh cho Bần đạo làm như
vậy rồi, mới đem lên quyền Chí Tôn phong thưởng mà thôi.
Bần đạo chỉ có quyền phong thưởng tới bậc Lễ Sanh,
còn từ bậc Giáo Hữu đổ lên, Bần đạo xin rửa tay, không còn quyền hành chi hết.
Bần đạo xin trạng vẽ Ba quyền hành ấy ra đây cho
toàn đạo rõ thấy :
CHÍ
LINH đối với VẠN LINH.
* Bát Quái Đài: Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng
liêng : Quyền Đạo.
* Cửu Trùng Đài - Hiệp Thiên Đài: Giáo Tông và Hộ
Pháp, Hội Thánh : Quyền Thánh Thể tức là Quyền Hội Thánh.
* Lễ Sanh,
Chức việc, Tín đồ : Quyền Thế.
- Quyền Chí Tôn: Luật Thiên điều tức là Thiên luật.
- Quyền Hội Tháh: Luật Hội Thánh.
- Quyền Nhơn sanh: Tân Luật và Thế luật.
a). Cả Thánh giáo tổng hợp lại là luật của Chí Tôn,
tức là Thiên luật.
b). Lập Thánh thể của Người rồi, Người lại dạy Đức
Lý Giáo Tông lập Tân Luật cùng Đạo Nghị Định, ấy là luật của Hội Thánh với luật
hành động từ 12 năm nay.
c). Luật của chúng sanh là luật Đời tổng hợp lại
với luật Đạo.
Chúng ta còn chịu một điều xôn xao náo nhiệt là họ
sẽ nói rằng : Giao quyền phong thưởng của chúng ta lại cho Quyền Vạn Linh là
phàm. Chúng ta chẳng lạ chi cái phàm của nó, vì là đem 3.115 người phàm đặng
làm xác Thánh của Người là Hội Thánh, thay vì chúng ta nói nó một lần phàm mà
thật ra 3.115 lần phàm. Vì thế mà chưa hề
Thầy hay là Đức Lý Giáo Tông cầm viết lập luật, chỉ để cho nhơn sanh lập
luật đặng tự buộc lấy mình.
Vả Đức Lý Giáo Tông có nói rằng : “ Nếu để
cho Lão lập Luật thì nội trong 3 ngày là xong, song e cho chúng sanh tu
không đặng.”
Lòng Đại từ Đại bi của Thầy cho quyền chúng sanh
lập Luật mà tu đặng lần lần khép mình vào Thiên Luật, vì ở nơi phàm luật của
mình nó có khuôn viên Thiên Luật.
Ấy vậy, Luật Hội Thánh là phàm luật. Còn Thánh Luật
duy có Pháp Chánh Truyền mà thôi.
Một người chủ nào mà quảng đại bao la thì chẳng hề
định giới hạn sự hành động của đứa tớ bao giờ, chỉ để cho nó tự do lấy trí ý
đặng kiếm phương chước thi hành cho nên vẹn vẻ.
Chí Tôn cũng vậy, cả con cái của Người, đầu óc mỗi đứa đều mỗi khác,
chẳng hề buổi nào Người định giới hạn khuôn khổ cho nó, chỉ để cho nó định mà
thôi. Cả khuôn khổ của nó định là trong khối phàm mà ra, rồi bảo sao không phàm
cho đặng. Ấy là Người muốn lấy khí cụ phàm mà trị phàm.
Một khi nọ, Bần đạo có hỏi Đức Lý Giáo Tông, Ngài
nói rằng : Đức Chuẩn Đề có 18 món bửu pháp hằng diêu động hoài hoài. Cả thế
giới chẳng có một món bửu pháp nào đối thủ với nó được, duy có một lòng lành
thắng nó đặng mà thôi. Hội Thánh cũng như Đức Chuẩn Đề, hễ cái phàm của chúng
sanh càng nhiều chừng nào thì Hội Thánh lại càng phàm hơn nữa. Mình đã cho nó
ra phàm rồi ngồi mà than thở hoài rằng : Nó phàm thì chẳng bổ ích vào đâu tất
cả.
Hại nỗi, trong chúng sanh có kẻ dữ người hiền, hễ
muốn dạy đời sao cho đặng hiền lành tốt đẹp thì phải lấy lòng hiền từ nhơn đức
mới đặng. Bằng mình không có lòng hiền thì 18 món bửu pháp kia lay động, mình
phải chịu lấy, chớ than thở với ai ?
Những kẻ đã làm khổ não cho Hội Thánh từ bấy lâu
nay là làm cho Hội Thánh trở nên oai quyền với họ. Muốn trừ hết cái khí nộ của
Thánh Thể Chí Tôn thì phải liệu phương hay nào làm cho Hội Thánh đặng thân mật
với Quyền Vạn Linh mới đặng.
Vì vậy cho nên Bần đạo để cho Quyền Vạn Linh tuyển
chọn Chức sắc.
* * *
Ngày
14-10-Đinh Sửu. (Đại Hội Hội Thánh)
Thưa cùng Hội Thánh Cửu Trùng Đài và HTĐ.
Bần đạo xin để lời cám ơn chư Thánh chẳng quản nhọc
nhằn về hội đông đủ hôm nay.
Vậy trước khi mở Hội, Bần đạo xin yêu cầu cùng Hội
Thánh nam nữ rằng, để hết tâm giải quyết các khoản theo lời quyết nghị trong chương
trình của Hội Nhơn Sanh dâng lên.
Vả chăng, Đại Từ Phụ vì lòng thương yêu vô tận,
thấy cả con cái của Người đang bị đọa lạc trầm luân nơi khổ hải, nên mới đến
khai Đạo đặng cứu vớt, cũng như một người cha hiền đức ở thế gian nầy thấy con
cái mình đang bị tù tội ngục hình nên phải tầm phương giải nạn.
Người đến cốt yếu để tâm nuôi nấng cả con cái khổ
não của Người, chớ chẳng phải đến đặng rước những kẻ vinh hiển, nghĩa là Người
không phải đến lập vị cho những người sang trọng, mà đến đặng chia khổ não cùng
đời.
Vì vậy, chúng ta đã thấy ngày nay duy còn lại trong
hình Thánh Thể toàn những kẻ thật thà chơn chất hiền lương hiếu hạnh, còn những
kẻ sang trọng vinh hiển, biết đâu Đức Chí Tôn đã dùng huyền diệu thiêng liêng
đuổi ra khỏi cửa Đạo.
Bần đạo xin nói quả quyết rằng : Cái thiệt tướng
của cơ quan giải thoát cho chúng sanh là Chí Tôn đến đặng chia đau sớt khổ cùng
đời, đặng đem các con cái của Người ra khỏi cảnh khổ não trầm luân hay là chốn
ngục hình tại thế.
Đức Đại Từ Phụ vì không hình thể hữu vi, nên mới
lập Hội Thánh đặng thay hình thể cho Người.
Vậy cái trọng trách của Hội Thánh là phải làm thế
nào ? Người chẳng phải đến đặng biểu
chúng ta làm ông tòa trị thế, mà trái lại, Người đến đặng biểu chúng ta làm cha
làm thầy đặng thương yêu dìu dắt giùm đám con cái khổ não của Người.
Hễ cái khổ não của con cái Người bấy nhiêu thì
chúng ta phải thương tâm đau đớn bấy nhiêu, vì Đại Từ Phụ đến đặng làm cha, tức
nhiên Người đến đặng lấy giọt huyết lệ rửa cả khổ não của con cái Người.
Mảnh tâm vô cùng vô tận yêu ái của Người là duy có
làm thế nào cho con cái của Người đặng hạnh phúc. Ấy là sở vọng thỏa mãn của
Người đó.
Hại thay !
Chúng ta vì mang thi hài xác tục nên chưa làm đặng tròn nhiệm vụ của
Người đối cùng chúng sanh, cho nên cái năng lực của chúng ta không tương đối
với Chí Tôn.
Lại nữa, cả khuôn luật của Người hay là cơ quan
giải thoát nó thường hay nương theo không gian và thời gian mà định tướng. Ấy
vậy, phận sự chúng ta là thay thế hình ảnh Chí Tôn đặng làm cho con cái Người
đặng hạnh phúc thì con đường hạnh phúc của chúng sanh, chúng ta phải dong ruổi.
Cái thiệt phận của chúng ta là phải gánh vác các điều khổ não đặng thay thế cho
Chí Tôn mới đáng.
Ấy vậy, nếu Hội Thánh chẳng đủ làm cho chúng sanh
hạnh phúc thì Hội Thánh chẳng hề từ chối một mối khổ tâm nào, một điều nhục nhã
nào, dầu phải đi trên tuyết giá hay là vào luồng đầm hổ huyệt, cùng là đi trên
lửa cũng chẳng hề thối chí nãn lòng, đặng quyết mong đoạt thành cái thiệt Đạo
của Chí Tôn là dẫn cả thảy chúng sanh đi vào con đường hạnh phúc.
Cái buổi nào phải đi đặng làm cho con cái của Người
ra hạnh phúc thì chẳng bao giờ chúng ta từ chối đặng, vì chúng ta đã hết tâm mà
thật hành Thánh Thể của Người. Nếu mình còn lo một điều chi mảy mún vị ngã cho
mình nữa thì là chưa đúng bực nam nhi xử thế và mình cũng còn vì mình thì không
thể nào thay thế hình ảnh Chí Tôn đặng.
Cơ thể của Đạo vốn phải chuyển luân chớ chẳng phải
là điều áp bức.
Từ khi mở Đạo đến nay, Chí Tôn đã truyền cho Bần
đạo một bí pháp mà Bần đạo chưa nỡ thật hành đặng, là vì
Chức sắc Thiên phong còn bán thể qui y nửa đời nửa đạo, nên không đắc
dụng.
Bí pháp ấy là gì ? Là cho Chức sắc chết vì Đời, sống vì Đạo mà thôi.
Trong một thời gian 12 năm nay là một kỷ cũng đã quá lâu, Bần đạo đã rộng
rãi khoan hồng để họ đủ thời giờ lo tóm dẹp gia đình cho yên ổn, chớ chẳng hề
khi nào Hội Thánh nghiêm khắc. Ấy vậy, từ đây, Bần đạo nhứt định thi hành bí
pháp ấy.
Bần đạo xin thuyết minh và nói quyết hẳn rằng : Bần đạo chẳng còn muốn nghe
trong hàng Chức sắc Thiên phong có một ai nói rằng : gia đình ràng buộc, nào
cha mẹ vợ con, mà không để trọn tâm hành đạo.
Ngoài ra, Chức sắc phải để lòng từ tâm giúp đỡ lẫn nhau, thoảng như những
yếu nhơn trong cửa Đạo có lắm cảnh bi yếu khổ tâm thì duy nhờ lòng từ tâm của
nhơn
sanh và sự thương yêu của Chức sắc chia sớt lấy, chớ quyền trên của Hội Thánh
từ đây không muốn biết tới nữa, nghĩa là Bần đạo để cho Chức sắc liệu định thế
nào cho phần đời của họ được thỏa mãn cùng nhau mà thôi, chớ quyền trên nhứt định không muốn biết tới quyền
đời của một Chức sắc nào cả.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
Khi Đức Quyền Giáo Tông còn đương đời thì Bần đạo có nói cùng Ngài rằng : Ở
đời không có sự nhục nhã nào bằng thầy mà đi xin cơm của học trò, quan đi xin
tiền của dân. Đừng nói chi nhiều, cha với con là tình máu mủ mà còn chẳng nỡ mở
miệng nói : Cha nay già yếu, mấy con phải nuôi dưỡng cha thay, huống chi
là Đạo còn phải đưa tay xin tiền,
không xin trước mặt cũng xin sau lưng, thì nó khỏi xấu hổ trước mặt chớ cũng
rất hổ thầm với lương tâm chớ.
Xấu cho đến đỗi, hễ thấy Chức việc vừa đến nhà, các
tín đồ đã lánh mặt.
Bây giờ có phương giữ thể thống đỡ một chút là cậy
người khác xin cho mình ăn, hay là làm mướn đặng nuôi mình.
Một khi đó, Bần đạo có giải nghĩa với Đức Quyền Giáo
Tông thì Ngài cũng cười ngất mà thôi.
Tạo Cơ Quan Phước Thiện là cho có người chịu cực
khổ lăn lóc mà nuôi Đạo. Vậy có lẽ Phước Thiện là người biết tiện tặn gìn giữ
tiền bạc ấy đặng.
Còn như thể Bần đạo quyết định, Bần đạo không nói
quản hạt, địa hạt mấy ngày gì cả, mà Bần đạo chỉ nói con chim kia còn có chỗ ở,
nó đâu có đi cày cấy, nó còn có lúa ăn; cái cây kia nó đâu có làm lụng mà còn
có tuyết sương nuôi dưỡng. Nếu như mấy anh đủ Đạo tâm, dám mang bầu quãy gậy
nơi mình, rồi cứ lo việc Đạo, mà hễ có đói thì Bần đạo dám cam chịu tội.
Xin có cho thì cho, không thì thôi. Đời muốn mình
làm tôi tớ lâu dài thì dễ cho nó, bằng không để lang thang rách rưới, nó làm tớ
lâu dài không đặng, thì Đời phải lỗ chớ mình không hại chi hết.
Trần Khai Pháp nói : . . . . . . . . . . . . . . .
. .
Bần đạo nhớ Đức Khổng Tử xưa, Ngài từ nhà Châu về
nước Lỗ, thì duy có ngồi mà dạy học trò đó thôi, Ngài đã lập giáo rồi cũng có
Thất thập nhị Hiền ra đi truyền giáo, mà có xin thiên hạ châu cấp chi chăng, họ
cũng sống vậy.
Bên Chánh trị Đạo, Bần đạo chẳng dám nói, chớ bên
Phước Thiện, Bần đạo dám chắc rằng : Mỗi người, trước khi lên bậc Giáo Thiện,
lãnh lịnh ra đi, trong túi không có một xu, lập Sở không có một chiếc đũa, mà
họ nào có đói đâu, họ cũng nhờ thời gian mà nên đặng vậy. Mới có một năm mà đã
thành tựu biết bao sản nghiệp. Bần đạo chỉ chỗ bí yếu trọng hệ hơn hết mà không
ai nói đến là tại Chức sắc Thiên phong khiếm hạnh đức nên mới khổ tâm nhọc trí,
chớ nếu có đủ đạo đức thì đâu đến nỗi.
Trần Khai Pháp nói : . . . . . . . . . . . . . . .
.
Dưới mắt Bần đạo còn thấy một điều trái hẳn với
chơn đạo là vì Chí Tôn đến dạy chúng ta làm cho nhơn sanh được hạnh phúc, chớ
chẳng phải dạy chúng ta đến ăn xin với con cái của Người.
Ấy vậy, phải làm thế nào cho đáng mặt là Thánh Thể của
Đấng Chí Tôn.
* * *
Ngày
15-10-Đinh Sửu. (Thượng Hội)
Luôn dịp, Đức Hộ Pháp cho Hội Thánh rõ rằng : Theo
lẽ thì ngày mai sẽ có Thượng Hội, nhưng quyền Thượng Hội, kể từ phẩm Đầu Sư,
Chưởng Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Giáo Tông, song các bậc phẩm đều
thiếu, nên Bần đạo sẽ phê chuẩn các lời bàn nghị của Hội Nhơn Sanh và Hội
Thánh, đã đồng thinh công nhận./.
(Trích trong quyển Vi Bằng Hội Quyền Vạn Linh tại
TTTN ngày 15-10-Đinh Sửu 1937)
10. - Tại sao có Tam giáo rồi, Đức Chí Tôn còn khai
ĐĐTKPĐ ?
Ngày
22-6-Mậu Dần (dl 19-7-1938)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đề tài : Tại sao có Tam
Giáo rồi,
Đức Chí Tôn còn khai
ĐĐTKPĐ.
Do Tam Giáo thất chơn truyền, Nho Thích Đạo hiện
nay đã trở nên phàm giáo.
Chư đệ tử trong ba nhà đạo không giữ y luật pháp
qui điều, canh cải chơn truyền, bày ra các điều giả cuộc, làm cho Tam Giáo biến
thành dị đoan.
- Đệ tử nhà
Đạo chẳng tùng pháp giáo của Đức Thái Thượng Lão Quân, tuy ở trong nhà Đạo mà
tức thị dị đoan mê tín.
- Đệ tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy
của Đức Phật Thích Ca, thì đệ tử nhà Thích dị đoan mê tín.
- Đệ tử nhà
Nho chẳng thật hành điều mục của Đức Văn Tuyên Khổng Thánh, thì đệ tử nhà Nho
dị đoan bất chánh.
Tóm lại, hai chữ “DỊ ĐOAN” nghĩa là đồ theo không
trúng kiểu cái qui giới thể lệ chơn truyền của Tam Giáo.
- Tiên Giáo, Đức Thái Thượng dạy Tam Bửu, Ngũ Hành,
tu tâm luyện tánh, thủ cảm ứng
công bình.
- Phật Giáo Đức Thích Ca dạy Tam Qui, Ngũ Giới,
minh tâm kiến tánh, thật hành bác ái từ bi.
- Nho Giáo Đức Khổng Phu Tử dạy Tam Cang, Ngũ
Thường, tồn tâm dưỡng tánh, giữ theo hai chữ Trung Hiếu mà làm tiêu chuẩn cho
mọi hành vi.
Cả luật pháp khuôn viên điều mục của ba nhà tôn
giáo từ buổi sơ khai có đủ phương diện quyền năng dìu đời thống khổ. Nhơn sanh
trong thời kỳ thượng cổ còn tánh đức biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng qui củ
của ba nhà : Nho, Thích, Đạo, làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, nên mới
chung hưởng đời thái bình an cư lạc nghiệp.
Nay đến kỳ Hạ nguơn cuối cùng, thế đạo suy vi, nhơn
tâm bất cổ, đạo đức đổi dời, lòng người chẳng giống xưa, luật Tam Cang chẳng
giữ, phép Ngũ Thường không noi. Tam Giáo thất chơn truyền, nhơn tâm biến đổi,
bỏ phép công bình, tranh danh trục lợi, cướp giựt hiếp đáp, giết hại lẫn nhau
không tưởng cốt nhục, chẳng tưởng đồng bào, thù nghịch lẫn nhau thành ra một
trường náo nhiệt, luân lý suy đồi nên gọi là đời mạt kiếp.
Các vì Giáo Chủ ngày xưa tiên tri rằng : Buổi sau
nầy Tam Giáo phải qui phàm nên có để lời bí tích trong sấm truyền như :
- Phật Tông Nguyên Lý, Đức Thích Ca nói : Lục vạn
dư niên Thiên khai Huỳnh Đạo.
- Còn Nho Giáo, Đức Khổng Tử nói : Mạt hậu Tam Kỳ
Thiên khai Huỳnh Đạo.
- Đức Chúa Jésus khi bị đóng đinh trên cây Thánh
giá có nói tiên tri với môn đồ của Ngài rằng : Trong hai ngàn năm Tận thế, Ta
sẽ đến phán xét cho nhơn loại một lần nữa. Và Ngài có nói : Còn nhiều chuồng
chiên, sau Đức Chúa Trời sẽ qui về một mối.
Nay Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là đúng
theo lời sấm truyền của các vị Giáo Chủ ngày xưa.
Chỉ có hai phương diện là do nơi Tam Giáo thất chơn
truyền, chính mình Đức Chí Tôn giáng cơ lập Đạo đặng qui nguyên phục nhứt, gọi
là Chấn hưng Tam Giáo lại cho hoàn toàn, lập luật pháp khuôn viên cho phù hạp
theo dân trí buổi nầy mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả tinh thần của
các dân tộc, biết nhìn nhau một Cha chung mà thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ
nghĩa thương yêu, chung thờ một nền tôn giáo đại đồng thì nhơn loại mới đặng
gội nhuần ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời mỹ tục thuần phong,
thì vạn loại mới chung hưởng hòa bình, phục lại đời thượng cổ là do Thiên thơ
tiền định, buổi Hạ nguơn chuyển thế, hoán cựu duy tân.
Tóm lại, Đức Chí Tôn khai Đạo kỳ thứ ba nầy là
thuận theo lẽ tuần hoàn, châu nhi phục thỉ./.
11. - Đắc đạo hay không là do công quả phổ độ nhơn sanh.
Ngày
25-6-Mậu Dần (dl 22-7-1938)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đắc đạo hay không
là do công quả phổ độ nhơn
sanh.
Tại sao Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không ăn ngọ, tuyệt
cốc, và tịnh luyện như các tôn giáo khác ?
Tại thời kỳ giả dối đã qua, thời chơn thật hầu đến,
Đức Chí Tôn khai Đạo kỳ thứ ba nầy là tạo một Trường thi Công quả hữu vi tại
thế cho nhơn sanh lập công nghiệp và tâm đức mà đoạt phẩm vị thiêng liêng, chớ
không có dạy ăn ngọ, tuyệt cốc, và tịnh luyện như các tôn giáo buổi trước.
Bởi nhơn sanh trong buổi Hạ nguơn đương tranh đấu
mạnh được yếu thua, khôn còn dại mất, mười người đều mất hết chín rưỡi lương
tâm, chỉ nhờ phương châm đạo đức làm cơ quan cứu thế, phổ độ chúng sanh cho họ
biết ăn năn tự hối, lánh dữ làm lành, noi theo luật pháp chơn truyền của Đạo để
trở nên người chí thiện, lập thành minh đức, tân dân, ấy là chấn hưng phong
hóa.
Nếu mọi người nhập môn giữ đạo, không lo phổ độ
nhơn sanh, chỉ chuyên chú về phương ăn ngọ, tuyệt cốc, kiếm chốn u nhàn ẩn thân
tịnh luyện thì gọi là “độc thiện kỳ thân” chẳng bổ ích chi cho nhơn quần xã
hội. Hỏi vậy, nhơn sanh nương theo nơi nào mà thoát khổ ?
Đức Chí Tôn khai Đại Đạo, lập luật pháp khuôn viên
chuẩn thằng qui củ, làm một cái thang vô tận để
cho nhơn sanh, kẻ trước dìu người sau, nương theo
con đường Thánh đức mà đoạt phẩm vị thiêng liêng : Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nên
Đức Chí Tôn có nói rằng : “ Các con đắc đạo cùng chăng là tại phương phổ độ,
nếu các con không đến trường Thầy lập mà đoạt phẩm vị của mình thì chẳng đi nơi
nào khác mà đắc đạo bao giờ.”
Các Đấng Thánh trước Hiền xưa cũng trải qua thiên
tân vạn khổ, đội nguyệt mang sao, như Đức Khổng Phu Tử, Mạnh Tử, bỏ nhà cửa, từ
biệt phụ mẫu, đoạn dứt ái ân, châu lưu liệt quốc, dạy người cải dữ làm lành,
thể Thiên hành hóa, do nơi công nghiệp ấy mà đoạt thành phẩm vị, nào có thấy
tuyệt cốc hay tịnh luyện chi đâu !
Tam Kỳ Phổ Độ là cơ quan cải tạo Đời, dạy nhơn sanh
biết cải ác tùng lương, thương yêu, thuận hòa cùng nhau, chung thờ một chủ
nghĩa, chỉnh đốn bại tục tồi phong cho trở nên Đời tận thiện tận mỹ, để thuận theo
buổi Hạ nguơn tuần hoàn qui cổ.
Đức Chí Tôn khai Đạo là muốn cho nhơn loại hòa
bình, càn khôn an tịnh, nhơn sanh noi theo luật pháp mà tu hành, lập công bồi
đức cho đầy đủ thì đặng thăng phẩm vị thiêng liêng, đem chơn tánh phản bổn huờn
nguyên làm một cùng Đức Chí Tôn là đắc đạo.
Ấy là điều chơn lý, nên chẳng ăn ngọ, tuyệt cốc,
tịnh luyện chi cả./.
12. - Tại sao thờ Thiên Nhãn ?
Ngày
26-6-Mậu Dần (dl 23-7-1938)
ĐỨC
HỘ PHÁP
giảng đạo tại Tòa Thánh
Đề tài : Tại sao thờ Thiên
Nhãn ?
Do lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn từ buổi mới khai
đạo, thờ Thiên Nhãn là chủ nghĩa Nhứt Điểm Linh Quang của Tạo Hóa.
Bởi Thiên Nhãn thuộc chơn thần : Thần cư tại nhãn.
Nhãn
thị chủ tâm,
Lưỡng
quang chủ tể,
Quang
thị thần,
Thần
thị Thiên,
Thiên
giả Ngã dã.
Tâm thuộc hỏa, hỏa thuộc dương, dương là mặt nhựt,
mặt nhựt là thanh khí, thanh khí là Trời.
Có câu : Thanh
phù giả vi Thiên.
Con người biết tôn sùng Trời, thì phải biết kính
trọng Thần lương tâm. Có câu : Khi kỳ tâm tất tự khi kỳ Thiên. Thiên kỳ bất khả
khi hồ ?
Mọi nhà thờ Thiên Nhãn, sùng bái hằng ngày đặng xét
mình, coi các điều tội lỗi. Thoảng như trong tâm giục khởi làm việc chi bất
bình thì sợ có quyền năng của Trời răn phạt.
Nên thờ Thiên Nhãn là một phương mầu nhiệm cho mọi
người biết tùng Thiên lý.
Kỳ Hạ nguơn nầy, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo,
không có chơn linh giáng sanh nguyên hình như các vị Giáo Chủ trước nữa.
Nếu sự thờ phượng riêng một vị Giáo Chủ buổi trước
thì không đủ thống nhứt đặng tín ngưỡng của nhơn sanh trong toàn cầu thế giới.
Cho nên thờ Thiên Nhãn là cơ quan hiệp cả chơn thần
của toàn vạn linh và hiệp Tam bửu : Tinh, Khí, Thần vi nhứt.
Ấy là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Từ khi các tôn giáo bị bế, âm thạnh dương suy, nên
Thần chẳng hiệp cùng Tinh, Khí được, vì vậy nên người tu hữu công mà không đắc
quả.
Nay Đức Chí Tôn khai Đại Đạo, đem chơn thần huờn
nguyên cùng Tinh, Khí, là cơ mầu nhiệm cho chúng sanh đắc đạo.
Ai biết noi theo chơn truyền luật pháp, giữ trai kỳ
10 ngày trở lên, đến ngày công viên quả mãn, đặng thọ truyền bửu pháp, chơn
thần siêu thăng.
Trong buổi Hạ nguơn chuyển thế, Đức Chí Tôn khai
đạo dạy thờ Thiên Nhãn là thờ chơn thần của Chí Linh cho hiệp cùng Vạn Linh,
tức là thờ ngôi Thái Cực, là thờ Trời vậy./.
13.- Tại sao thờ Tam Trấn và cắt nghĩa mỗi Trấn.
Ngày 26-6-Mậu Dần (dl 23-7-1938)
ĐỨC HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đề tài: Tại sao thờ Tam Trấn và cắt nghĩa mỗi Trấn?
Tại thời kỳ thay đổi, chuyển Tam Giáo qui nguyên phục nhứt cho hiệp Thiên
thơ.
Đức Chí Tôn chọn ba vị: Phật, Tiên, Thánh, cầm
quyền Tam Trấn, thay mặt cho Tam Giáo giáng cơ lập thành đạo đức.
Bởi Hạ nguơn cận mãn, nhơn vật đổi dời, đạo đức
nhơn nghĩa luân lý cang thường đều bị lượn sóng văn minh vật chất làm hư hoại.
Tam Giáo đã thất chơn truyền do nơi tay phàm canh cải thành ra dị đoan bất chánh,
nên Đức Chí Tôn khai Đại Đạo là cơ quan chuyển thế, phục lại Thượng nguơn cho
thuận theo lẽ tuần hoàn qui cổ.
Ba vị Tam Trấn hiện nay đức hạnh hoàn toàn, đủ tư
cách độ đời, roi gương cho đoàn hậu tấn.
* Đức Lý Đại Tiên, buổi còn tại thế, Ngài làm quan
đời nhà Đường, danh lưu ngôn ngữ, đánh đuổi bình giặc bằng tinh thần, chẳng tốn
lương thảo tướng binh mà cả cơ nghiệp đặng hòa bình bảo an thiên hạ. Tánh chất
của Ngài không thích công danh phú quí, thường ưa vui thú cờ rượu thi ngâm,
hưởng cảnh thanh nhàn non Tiên động Thánh. Ngài phế quan từ chức, mộ đạo tu
hành, mới đắc quả một vị Đại Tiên.
Nay là buổi Hạ nguơn chấn hưng Tam Giáo, Đức Chí
Tôn chọn Ngài cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm, thủ cơ truyền Đạo, lập luật pháp,
nghị định, chơn truyền, công thưởng tội trừng, vô tư vô vị, chấp chưởng cơ quan
tạo thời cải thế, đương kim Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thay mặt cho Tiên
Giáo.
* Đức Quan Âm Bồ Tát, buổi còn sanh tiền, giữ trọn
câu trung trinh tiết liệt, mộ đạo đức, chẳng mến cuộc phú quí vinh huê, đủ nghị
lực, trọn tâm trải qua nhiều hoàn cảnh khổ sở truân chuyên mà chí tu hành chẳng
đổi, Bà mới đoạt thành phẩm vị Nữ Phật Tông Quan Âm Bồ Tát.
Kỳ Phổ Độ thứ ba nầy, thừa lịnh Đức Chí Tôn cùng
Diêu Trì Phật Mẫu, cầm quyền Nhị Trấn Oai Nghiêm, thay mặt cho Thích giáo, roi
gương bác ái từ bi, tế độ đoàn nữ phái.
* Đức Quan Thánh Đế Quân, Ngài là một vị sao Võ
Khúc Tinh Quân, thừa mạng Đức Ngọc Đế giáng trần nhơn đời Tam Quốc phân tranh.
Ngài hết dạ tâm thành phò vua giúp nước, diệt tà tôn chánh, khuông phò Lưu Tiên
Chúa giúp nên cơ nghiệp Hớn Trào. Ngài giữ trọn Tam Cang : Trung, Nghĩa, Chánh
trực công bình. Đến buổi Ngài qui vị thì đặng hiển Thánh nhờ Phổ Tịnh Thiền Sư
đến khai linh nên đặng phi thăng yết kiến Thượng Đế mới đắc hàng phẩm Phật Dà
Lam.
Nay đến kỳ Phổ Độ thứ ba, Đức Chí Tôn chọn người
cầm quyền Tam Trấn Oai Nghiêm thay mặt Nho Giáo nắm luật công bình, diệt trừ
những kẻ tà tâm, phản loạn chơn truyền, phân phe lập phái, làm cho nền đạo đức
ra thiệt tướng.
Thuở bình sanh, Ngài thường chú tâm bao biếm thiện
ác, chỉ rõ hai đường lành dữ khen chê.
Lại nữa, là nhơn thời kỳ Nho Giáo chuyển luân, nên
thờ Đức Quan Thánh là roi gương trung thành
cho toàn nam phái.
Tam Kỳ Phổ Độ thờ Tam Trấn Oai Nghiêm để thay mặt
Tam Giáo đổi cũ ra mới, cho chúng sanh thấy rõ một tấm gương trong lịch sử.
Ấy là để cho đời nối chí lập tâm tu hành cho trở
nên đời mỹ tục thuần phong, tức là đời Thánh đức. Bởi Tam Giáo qui phàm thất
chơn truyền, nên Đức Chí Tôn chọn Tam Trấn cầm quyền vô vi lập Pháp Chánh
Truyền, đào tạo điều gọi là Chấn Hưng Tam Giáo.
Tại sao thờ Tam Trấn ?
Tại thời kỳ khai Đại Đồng Tam Giáo : Nho, Thích,
Đạo, qui nguyên, Đức Chí Tôn làm chủ cầm quyền chưởng pháp cho phù hạp trong
buổi Hạ nguơn tuần hoàn chuyển thế.
Ba vị Tam Trấn chấp chưởng cơ quan mầu nhiệm, trấn
nhậm quyền hành, lập luật pháp, đạo nghị định cho hiệp với Thiên thơ.
Vì thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn, nên toàn trong bổn
đạo phải để tâm thành kính và phụng thờ Tam Trấn./.
14.- Tại sao Đức Chí Tôn không giáng bằng xác thân,
lại giáng bằng huyền diệu cơ bút ?
Ngày
1-7-Mậu Dần (dl 27-7-1938)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đề tài : Tại sao Đức Chí
Tôn không giáng bằng xác thân,
lại giáng bằng huyền diệu
cơ bút ?
Tại thời kỳ chuyển Đạo vô vi hiệp Tam Thanh, chấn
hưng Tam Giáo, phục nhứt Ngũ Chi, nên Đức Chí Tôn giáng bằng huyền diệu cơ bút,
mới qui đặng cả Đại Đồng Tam Giáo.
Bởi Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Phật, Thánh,
Tiên giáng linh Tam Giáo, nhơn buổi nhơn loại chưa hiệp đồng, nên ba vị Giáo
Chủ phải thọ sanh riêng địa phận, nên hai kỳ khai đạo ấy chỉ phổ độ trở về cựu
vị có 8 ức nguyên nhân, còn buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ Độ là thời kỳ ân xá tội
tình cho toàn cả chúng sanh, lại nhơn buổi văn minh nhơn loại thông đồng, càn
khôn dĩ tận thức, cho nên Đức Chí Tôn dùng huyền diệu giáng cơ khai Đại Đạo,
chủ nghĩa là độ tận 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa cõi hồng
trần, nên gọi là cơ quan cứu thế.
Nếu Đức Chí Tôn chia chơn linh giáng thế như các vì
Giáo Chủ buổi trước, thì phải tá mẫu đầu thai, mang phàm thể hữu vi, lại nữa là
Đạo khai trong nước Việt Nam thì phải thọ sanh hình hài người Nam Việt, thì có
thế nào chuyển ba mối đạo khắp Ngũ Châu và toàn cầu thế giới đặng.
Lại nữa, các dân tộc trong vạn quốc không thể hiệp
đồng sự tín ngưỡng làm một thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức Chí Tôn
giáng bằng huyền diệu cơ bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng : có
một Đấng Chí Linh giáng thế cứu đời qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy
nhứt, chỉ rõ bằng cớ như kỳ hội các tôn giáo tại thành Luân Đôn, thì các nước
đều công nhận Đạo Cao Đài là chơn thật, có thể qui nguyên Đại Đồng Tôn giáo.
Đức Chí Tôn tuy chẳng giáng bằng xác thân, mà lại
qui tụ lương sanh lập thành Hội Thánh, thay hình thể hữu vi cho Đức Chí Tôn và
lập Quyền Vạn Linh đối phó cùng quyền Chí Linh.
Ấy là cơ quan mầu nhiệm cứu vớt quần sanh, giải
thoát khỏi chốn sông mê bể khổ.
Kỳ Hạ nguơn nầy, dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác
thế nào cũng không làm hại xác thân của Đức Chí Tôn như các vì Giáo Chủ buổi
trước đặng.
Bởi Quyền Vạn Linh có đủ nghị lực tinh thần lập
khuôn viên luật pháp, xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn
của Tạo Hóa.
Đức Chí Tôn khai Đạo kỳ thứ ba nầy, giáng bằng
huyền diệu cơ bút là do nơi Thiên thơ tiền định chuyển Đạo Vô Vi, hiệp Tam Giáo
Ngũ Chi làm một./.
15. - Vấn đề Đoạt đạo.
Ngày 1-9-Mậu Dần (dl 23-10-1938)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đề tài : Vấn đề đoạt đạo.
Từ buổi sơ khai, Đức Chí Tôn đã lập ra một chơn
luật buộc cả nhơn loại phải thi hành, tức là một con đường thiêng liêng hằng
sống (TLHS) của Đức Chí Tôn đào tạo để cho nhơn sanh đều do nơi con đường ấy mà
tiến hóa lên các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật. Hễ tấn bộ thì đoạt đạo, còn thoái
bộ thì sa ngã theo cơ tà quái, quỉ vương.
Luật pháp của các nhà tôn giáo xưa nay lập ra nhiều
khoản, nhơn sanh người thông minh thì ít, kẻ dốt nát là phần đông, nên không
thể thi hành cho trọn; còn chơn luật của Đức Chí Tôn chẳng có chi nhiều, duy
cần yếu có hai chữ THƯƠNG YÊU mà thôi, thì nhơn sanh dầu hàng nào cũng có thể
thi hành được tất cả.
Đến như loài tế vi là mối, ong, kiến, cũng biết giữ
luật thương yêu, thuận hòa cùng nhau, kết lấy đoàn thể tương thân tương ái cùng
nhau, tạo thành hang ổ có trật tự phân minh. Ấy là cơ tấn hóa mạnh mẽ của loài
động vật.
Nói về gia đình thì có cha con, chồng vợ, anh em
lan tràn ra cho tới nhơn quần xã hội, đồng chủng quốc dân, cũng do nơi mặt luật
thương yêu mà hòa bình, an cư lạc nghiệp. Nếu cả thảy chẳng thực hành theo chơn
luật ấy thì tất nhiên phải mất trật tự, không đủ tư cách làm người, đã chẳng
đặng tấn hóa đến cảnh TLHS, mà trái lại nảy sanh ra một trường cạnh tranh thù
nghịch lẫn nhau, tức là tạo thành cơ tự diệt, bởi chẳng giữ theo chơn luật của
Đức Chí Tôn và khiến sự thương yêu thành tranh luận những việc tế vi mảy mún mà
gây ra các điều oan nghiệt.
Sự thương yêu của Đức Chí Tôn đối với nhơn loại, là
vô lượng vô biên, không có giới hạn nào mà tả ra cho cùng tận được. Ví dụ một
cái gia đình, phận làm cha mẹ thấy một bầy con nghèo nàn khổ não thì biết rằng
cha mẹ thương con thế nào, còn toàn trong thế giới từ vật chất, thảo mộc, côn
trùng, thú cầm cho đến nhơn loại thì đều là con chung của Đấng Tạo Hóa, thì sự
thương yêu của Đức Chí Tôn bao la quảng đại chẳng biết tới đâu là bờ bến, những
sự bi ai thống khổ của chúng sanh ở cõi trần nầy bao nhiêu thì sự thương tâm
đau đớn của Chí Tôn cũng bao nhiêu.
Chơn luật thương yêu của Thầy lập ra, nhơn sanh
chưa thi hành thì mặt luật ấy đã buộc Thầy thi hành trước hết, nên Thầy giáng
cơ nói rằng : “Sự khổ hạnh của các con chưa than thì Thầy than trước, các con
chưa khóc thì Thầy khóc trước.” Ngày nào toàn cả nhơn sanh biết thực hành chủ
nghĩa thương yêu cho ra thiệt tướng, tức nhiên là ngày nhơn sanh thoát khổ.
Tóm lại : Con người cùng vạn vật đều do nơi luật
thương yêu mà tiến hóa lên đến các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, hiệp một cùng
Đức Chí Tôn, gọi là đoạt đạo. Nên Thầy nói rằng : Sự thương yêu là chìa khóa mở
cửa Bạch Ngọc Kinh, tức là cơ đoạt đạo./.
16. - Vấn đề Chơn pháp.
Ngày
15-9-Mậu Dần (dl 6-11-1938)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đề tài : Vấn đề Chơn pháp.
Đức Chí Tôn đào tạo chơn pháp vô lượng vô biên để
cho nhơn loại thi hành mà đoạt phẩm vị thiêng liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Chơn pháp cũng có một như Chơn luật vậy.
Chơn luật của Đức Chí Tôn đã chỉ rõ là thương yêu,
còn Chơn pháp là công bình.
Luật pháp của của Chí Tôn đã chỉ rõ ra sau đây thì
toàn cả nhơn sanh đều nghe hiểu biết và thường nói : Chỉ có một điều là tại
không thực hành. Nếu con người dưới thế nầy đồng thi hành y theo Chơn pháp công
bình thì đời sẽ trở nên tận thiện tận mỹ, mà cơ tận diệt sẽ tiêu tan, không còn
thấy tấn tuồng bi ai thảm đạm như thế.
Tóm lại, cái sở hành Chơn pháp công bình chỉ dùng
một câu : “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, nghĩa là : Những điều nào mình chẳng
muốn ai làm cho mình phải buồn than đau đớn thì tức nhiên ta không nên làm mấy điều ấy cho người khác.
Pháp công bình của Đức Chí Tôn là một cây cân song
bằng, một đầu là Tiên Phật, một đầu là quỉ ma, chánh tà phân biệt đôi bên, ấy
là pháp công bình lành thưởng dữ răn, lành siêu dữ đọa.
Đức Chí Tôn muốn cho con cái của Ngài đều đặng cao
thăng phẩm vị thiêng liêng, chớ không bao giờ Ngài tạo địa ngục để đày đọa hình
phạt nhơn sanh, mà trái lại do nhơn sanh tạo thành cảnh khổ ấy.
Ví dụ như một ông cha trong gia đình, có khi nào
lập khám đường ngục thất để cầm tù con bao giờ. Những điều khổ hạnh ấy là tự
nơi con đào tạo nơi mặt thế nầy, cũng là một trường học để cho con người suy
gẫm, tự giác tâm hồn, hầu giải thoát bến mê, tầm đến cảnh thiêng liêng an nhàn
tự toại.
Nếu con người muốn an nhàn tự toại nơi cảnh thiêng
liêng hằng sống thì phải thực hành y theo Chơn pháp của Đức Chí Tôn.
Ngày nào nhơn sanh trên mặt địa cầu nầy mà biết tôn
trọng và thật hành y theo luật pháp của Đức Chí Tôn cho ra chân tướng thì mới
mong thoát khỏi cơ tự diệt, tức là ngày của nhơn sanh chung hưởng mọi điều hạnh
phúc của Đức Chí Tôn ban tứ./.
17. - Đức Chí Tôn lập ĐĐTKPĐ để làm cơ quan Chuyển thế.
Ngày
1-12-Mậu Dần (dl 20-1-1939)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đức Chí Tôn lập ĐĐTKPĐ để
làm cơ quan Chuyển thế.
Nhơn loại trên mặt địa cầu nầy do nơi các chơn linh
tùy theo căn quả mà luân hồi chuyển kiếp đến cõi trần, thành lập ra một trường
học của Đời.
Trong trường ấy có nhiều lớp, và bài vở có nhiều
đoạn rất hay ho để cho nhơn sanh phấn đấu cùng nhau mà đoạt cơ tấn hóa đến các
bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Con người mỗi hàng phẩm đều có trình độ cao thấp
khác nhau, noi theo cái trách nhậm ấy
thi hành cho đặng liễu kết hoàn toàn, phòng lập cao phẩm nhơn tước, hay
là thiêng liêng chi vị.
Nói ví dụ, một cái gia đình hoặc là xã hội quốc dân
thì có vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bằng hữu, vv ... Mỗi người đều biết
cư xử cho trọn bổn phận, thật hành y theo khuôn luật là phụ từ tử hiếu, huynh
đệ cùng phu nghĩa phụ tiết, trưởng huệ ấu thuận, quân nhơn thần trung, ngoài ra
còn tình bậu bạn giao thiệp cùng nhau, thì phải gìn lòng thành tín, ấy là đủ tư
cách làm người, mới mong mỏi vào trường đạo đức, từ từ noi theo đẳng cấp mà
thẳng tiến đến phẩm vị thiêng liêng, tức là cảnh thung dung an nhàn tự toại.
Trái lại, con người ở thế, đã chẳng lo nong nả bước
hành trình cho xong mà lại còn chen lấn ồn ào dục vọng theo con đường tăm
tối mơ
mộng gọi là thích chí hân hoan, chẳng còn nhớ đến cái
phận làm người bao nả.
Than ôi !
Phong di tục dịch, đảo ngược nhơn luân, trong gia đình mỗi người tự do
hành động, cha chẳng biết bổn phận làm cha, con không biết hiếu sự là gì, trai
gái không thừa mạng mà cũng không phụng mẫu nghi ... Còn vợ chồng thì sớm đổi
chiều thay, không gìn câu tiết nghĩa, luân lý suy đồi, cang thường hư hoại, gia
đình như thế thì tức nhiên đã mất quyền vi chủ.
Người đời thì tín ngưỡng theo thế lực kim tiền, ưu
thắng liệt bại, yếu thiệt mạnh hơn, khôn còn dại mất. Mảng đua chen trên con
đường vật chất hữu hình, không chú trọng đến Thánh đức linh tâm, mượn hành tàng
vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương, tạo khuôn khổ cho đời thành ra
trường tự diệt.
Hiện nay, cả hoàn cầu thế giới, nhơn sanh đồng hăng
hái bôn xu trên chốn võ đài mà diễn ra một tấn tuồng phấn đấu lợi quyền.
Ôi ! Lương
tâm khuyết điểm, chẳng kể gì đến đạo đức tinh thần, cõi đời ngày nay đã trở ra
màn chiến tranh loạn lạc, do nơi các cơ trạng tả trên đây, nên Đức Chí Tôn phải
đến hoằng khai Đại Đạo, đặng hiệp cả tánh chất lương sanh của con người duy
nhứt vào đường chí thiện, trau giồi chơn tánh linh tâm cho trong sạch, mong
ngày phản bổn huờn nguyên, hiệp cùng Vô Vi chi Đạo.
Mà muốn thành Đạo Vô Vi thì trước phải dụng cơ quan
hình thức đặng làm nấc thang
tiến hóa, nghĩa là mượn chiếc thuyền nhà Nho mà đưa các
chơn
hồn vào đường Tiên cảnh Phật, nên có câu :
Phật
đạo cũng như hành bộ khách,
Nền
Nho ví tợ chiếc đò qua.
Nếu muốn đi đến Bồng Lai đảo, Niết Bàn đặng làm
Tiên, Phật, mà chẳng qua đò nhà Nho thì khó mong lên con đường bĩ ngạn.
Con người sanh ra ở thế, nếu chẳng chen bước đem thân
vào đường học cho lảu thông các thứ tuồng đời, đặng giáo hóa đoàn ấu thơ hậu
tấn, hay là chẳng đến trường đạo đức mà học hỏi cho rõ thấu các phương châm
trọng yếu, tầm hỏi những sự chơn truyền cao siêu của Đạo, đặng làm khách u nhàn
thanh nhã, vui cảnh tự toại thung dung, thì đã đành rằng cam phận thiệt thòi
chịu khổ hạnh trong chốn lao lung đời đời kiếp kiếp.
Tóm lại, kỳ Hạ nguơn cuối cùng , luân lý cang
thường điên đảo, cho nên Đức Chí Tôn giáng trần khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lập
thành chánh giáo đại đồng, nghĩa là : cải cựu hoán tân, cải ác tùng lương,
chuyển tạo cơ đời cho trở nên thuần phong mỹ tục, tức là qui tụ Thánh đức của
loài người lại Thượng nguơn cho thuận lẽ tuần hoàn, châu nhi phục thỉ./.
18. - Chơn tướng Nho tông : Nhơn Nghĩa.
Ngày
3-3-Kỷ Mão (dl 20-4-1939)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Đền Thánh
Đề tài : Chơn tướng Nho
tông (Nhơn Nghĩa).
Kể từ Ngũ Đế đến Võ Vương thì thường dùng bốn chữ :
Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, thực hành về phương diện trị an của đời.
Qua đến Đức Khổng Phu Tử thì Ngài chú trọng hơn bốn
chữ : Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa.
Ngài tác Xuân Thu, bỉnh chánh vương hóa, ngụ bao
biếm biệt thiện ác, chỉ rõ hai điều lành dữ, khen chê, để làm phương giáo dục
con người cho biết gìn giữ chơn thật, thi hành hai chữ Trung Hiếu cho được hoàn
toàn, thì mong vào hành Thần Thánh.
Qua đến thầy Mạnh Tử, thì Ngài tuyển chọn trong
điều mục Ngũ Thường, lấy ra hai chữ NHƠN NGHĨA làm căn bản cho mọi sự hành vi.
- Nói về chữ NGHĨA, thì hạng nào cũng phải cần yếu
trọng dụng. Làm tôi mà biết giữ nghĩa với vua thì mới đáng mặt tôi trung thành,
làm con phải biết giữ trọn nghĩa với cha mẹ thì mới trọn nghĩa làm con chí
hiếu, anh em biết giữ nghĩa cùng nhau thì mới có tình thương yêu thảo thuận, vợ
chồng biết giữ trọn nghĩa thì mới đặng hòa hảo miên trường tạo thành cơ sanh
hóa, bậu bạn có giữ trọn nghĩa cùng nhau thì mới có lòng cảm hoài tín nhiệm.
Cho nên hạng nào cũng phải thi hành chữ NGHĨA thì
mới đủ tư cách làm người.
- Luận về chữ NHƠN, làm người phải giữ lòng nhơn
đức. Đức Khổng Phu Tử dạy đạo Nhơn cho được hoàn toàn thì mới có thể vi Hiền vi
Thánh.
Chữ NHƠN ( ) gồm chữ Nhơn bằng ( ) và chữ Nhị ( ),
nghĩa là làm người cho đặng trọn hai lần thì mới đủ tư cách làm người ở thế :
làm người đối với Trời Đất, và làm người đối với người và vật.
Có câu :
Tu
Nhơn thành Thần,
Niệm
Nhơn thành Thánh,
Hành
Nhơn thành Tiên,
Đắc
Nhơn thành Phật.
Tóm lại, chữ Nhơn là trước hết các việc hành tàng
của con người đương nhiên ở thế, cho nên thầy Mạnh Tử dùng hai chữ NHƠN NGHĨA
làm căn bản của Nho tông.
Thánh giáo của Đức Chí Tôn :
Nhơn
là đầu hết các hành tàng,
Cũng
bởi vì Nhơn dân hóa quan.
Dân trí
có Nhơn nhà nước trị,
Nước
nhà Nhơn thiệt một cơ quan.
Trong Kinh Sám Hối có câu :
Làm
người Nhơn Nghĩa giữ tròn,
Muôn
năm bóng khuất tiếng còn bay xa.
19.- Khai mạc Đại Hội PhướcThiện tại Khách Đình Tòa
Thánh.
Ngày
22-10-Kỷ Mão (dl 2-12-1939)
DIỄN
VĂN của ĐỨC HỘ PHÁP
Khai mạc Đại Hội Phước
Thiện
tại Khách Đình Tòa Thánh.
(Mở đúng 8 giờ ban mai, Đức Hộ Pháp truyền tụng
Kinh Nhập Hội. Khi tụng xong, Đức Ngài liền lên khai mạc).
Bài diễn văn khai mạc của Qua hôm nay có ý dài một
chút, cốt yếu để giáo hóa bên Phước Thiện. Vậy mấy em lóng tai nghe và suy nghĩ
cho thấu lý cao xa, để dễ bảo trách nhiệm khó khăn của mình.
Qua đã cho mấy em một dây hằng tâm để nương nó mà
đi những bước đường Thánh đức cho khỏi sụt sè bợ ngợ, lấy cả triết lý cao siêu
của Tạo đoan vi chủ hành tàng thế sự.
Ấy là một bài diễn văn mà mấy em chưa nghe từ thử.
Qua chẳng cần phải nói, mấy em cũng vẫn biết rằng : Chí Tôn là Cha của toàn vạn
vật, cả cơ tạo đoan chia ra làm hai phẩm giá :
1 . Vô động vật. 2 . Động vật.
Vô động vật thì bất tri bất năng, vô tri vô giác;
động vật thì hữu tri hữu giác, tức hữu sanh, có sanh có tri giác, có lao động,
mới có sống, mà sự sống ấy do Chí Tôn vi chủ. Có động vật thì có sanh quang Chí
Tôn. Chí Tôn là cha của sự sống, Người ban cho động vật một gia tài vĩ đại hơn
loài vô động vật.
Qua chẳng cần thuyết, mấy em cũng đủ hiểu rằng :
Cái tánh đức của động vật vẫn là thiên nhiên, còn tánh đức của vô động vật nó
đã triêm nhiễm vào tánh chất của toàn vật loại, nhứt là hạng Hóa nhân nó hóa vô
động vật, vì vô động vật là lười biếng, còn lao động là siêng năng.
Hại thay, quyền năng của Chí Tôn lại chia ra hai
tánh chất, nên phân ra hai phẩm người : - hạng lao động thì giúp hay Chí Tôn
thêm nữa, - hạng vô động thì biếng nhác, duy có thừa hưởng công nghiệp mà an
vui gọi là hạnh phúc, nên mới nảy sanh ra trường phấn đấu. Mé lao động coi bên
kia như kẻ thù địch, còn bên vô động không chịu làm chi hết mà chỉ kiếm mưu
giựt giành cướp bóc, nên mới sanh ra trường hỗn độn tương tranh về sự sống. Cái
thuyết quái gở là một món thuộc độc đã làm cho hao mòn tánh đức loài người từ
thử.
Vì cớ nên Chí Tôn giải quyết điều ấy.
Lạ chi một đại gia đình có 10 đứa con, chẳng phải
giỏi hết, cũng có đứa khôn đứa dại, đứa siêng năng đứa biếng nhác, đứa thì coi
sự cực nhọc hơn của mình là cái dại, chẳng cần nghĩ đến sự hèn hạ của mình, nên
muốn trên cả mọi người từ miếng ăn, chỗ ngồi, nơi ngủ, mà chẳng hiểu rằng : tài
năng mình không biến sanh, phải nương theo người mà sống, vì vậy nên hễ có bù
sớt của cải ra đặng nuôi ai thì để lòng khi miệt. Còn người bị khi miệt thì
giận dũi, nên mới tìm phương giựt giành cướp bóc mà không hiểu rằng : của cải
ấy chẳng phải của mình làm ra, đối với anh em trong gia đình ấy, những kẻ siêng
năng thì thù địch những người biếng nhác.
Thử hỏi ông cha thấy đứa con nghèo hèn bất năng ấy,
có ghét bỏ chăng ? Nếu ghét bỏ cho chúng nó chết đói thì tình cha con đâu có,
đã biết lấy của đứa siêng năng mà nuôi đứa biếng là điều bất công, nhưng ông
cha phải nhắm mắt đánh liều để vậy.
Trên mặt thế, cái khuôn khổ gia đình như trào lưu
xã hội, kẻ lười biếng thì nhiều, người siêng năng thì ít, bảo sao đời không
biến ra trường tranh đấu, của làm thì ít, tiêu dụng lại nhiều.
Chúng ta thời như đám chim trời, còn lộc ăn như vé
lúa rơi xuống đất, con nào lẹ miệng ăn nhiều, giỏi thì no, dở thì đói. Nếu con
đói ngước mặt lên trời nói sao Cha không cho ăn để đói, là ngu. Của trên mặt
đất nầy là của chung, của Đấng Tạo đoan. Ngài biến sanh cả cơ quan nuôi vạn
vật, ta có quyền hưởng lấy no là như mình giỏi, đói là tại mình dở. No đói,
trọng hèn là do nơi tài sức mình, chớ có than trách ai đặng đâu.
Việc phân phát trong khuôn khổ gia đình cũng có
nặng nhẹ, sang hèn, nếu cả thảy đều lựa nhẹ bỏ nặng, chuộng sang phụ hèn, thì
gia đình ấy ra sao ?
Từ cổ chí kim, vì cơ sanh hoạt mà biến sanh chẳng
biết bao nhiêu trường náo nhiệt, ganh lẫn, ghét nhơ, thù địch tranh giành mà
gây nên trường thảm
khốc.
Ấy là một điều khó khăn mà từ thử đến chừ, dầu cho
các bậc Thánh nhân cũng không giải quyết
đặng.
Qua còn nhớ ông Hoằng Sơn (La Fontaine) khi đầu
thai qua Thái Tây, Ngài có viết một bài ngụ ngôn nói về cái Bao tử. Đến sau,
nơi xứ Hy Lạp (Grèce), có một hạng người vì giận nhà vua nên bỏ lên núi ở độc
lập một mình, ở đầu non chót núi chớ chẳng chịu về tùng phục pháp luật của nhà
vua, vì bọn họ thì cực khổ nghèo nàn quanh năm cuối tháng, chỉ làm lụng để nuôi
dưỡng nhà vua sung sướng, nào là cung phi mỹ nữ, đài các nguy nga, nên họ chẳng
dại gì mà quì lụy trong xã hội nước Hy Lạp nữa, dầu ai có giảng giải thế nào
cũng chẳng chịu về. Buổi đó có một vị đại thần trong triều đình nước Hy Lạp đem
bài ngụ ngôn tựa đề Bao tử, lên giải
nghĩa, họ mới chịu nghe.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét