Trong bài ấy có ý nghĩa rằng : Tay chơn muốn tẩy
chay bao tử, ngụ ý rằng : mình làm cực nhọc, còn bao tử thì chỉ ở không an
hưởng. Mảng nghĩ như vậy nên cả tay chơn đều không làm việc nữa để cho bao tử
chết đói, nào dè đâu một hai ngày chẳng sao, qua đến năm bảy ngày bao tử không
có ăn, cả tay chơn rũ riệt cử động không nổi, rồi chừng ấy mới biết rằng : nếu
bao tử không ăn thì mình cũng phải chết, nên buộc lòng phải làm việc trở lại
như cũ.
Vị đại thần lấy ý nghĩa của bài ngụ ngôn mà khuyên nhủ, làm cho các vị trên núi hiểu, nên mỗi người vui lòng xuống núi chung lộn với người phàm thế, bỏ tánh chấp nê thuở trước.
Vị đại thần lấy ý nghĩa của bài ngụ ngôn mà khuyên nhủ, làm cho các vị trên núi hiểu, nên mỗi người vui lòng xuống núi chung lộn với người phàm thế, bỏ tánh chấp nê thuở trước.
Trong cửa Đạo ngày nay cũng vậy, có người tưởng sao
mình làm lụng khổ nhọc mà chỉ để nuôi những kẻ ngồi ngó đặng thừa hưởng, thậm
chí cho đến đỗi họ tranh đến Chức sắc Thiên phong, từ cái sang, cái áo, cái mão
mà họ chẳng tự biết rằng : mình sẽ làm đặng vậy chăng, đó là một triệu chứng đê
hèn, triệu chứng một sắc dân tự diệt.
Trong gia đình cũng vậy, có đứa cộng từ con số lời
lỗ, có đứa ở ngoài ruộng, có đứa chăn chim, có đứa cầm vòng hái, có đứa ngồi
trong bếp, mỗi phận sự đều khác nhau, nếu người trong bếp than nóng, người
ngoài đồng than nắng, gặt lúa than xót, thì gia đình ấy sanh rối mà chớ.
Đến đây Qua luận về hai cơ quan: Hành Chánh và
Phước Thiện. Chính mắt Qua thấy, tai Qua nghe, hễ mấy em nuôi người thì miệt
thị người.
Qua viễn kiến trước điều ấy, nên đã làm hiệu trước
buổi mới khai Đạo, Qua đã làm Hộ Pháp rồi, nhưng tám chín năm về trước, Qua nào
có biết quyền hành Hộ Pháp là chi, Qua chỉ xen lẫn, chia từ hột muối, gánh vác
từ phận sự với mấy em để làm gương cho mấy em noi theo. Qua mở Phạm Môn cốt để
giáo hóa, tập tâm đức, nên ngày nay mới có khoa mục đặng thi vào cửa Phước
Thiện. Qua đã nuôi nấng giáo hóa mấy em từ kẻ răng chơn tóc, nhưng Qua buồn sao
trong trứng nở ra mà không giống hình giống ảnh ?
Năm rồi, nếu không do miệng mấy em thì mấy đứa con
gái nhỏ biết đâu mà nói : Không có Phước Thiện thì Cửu Trùng Đài chết đói. Đó
là bằng chứng ỷ nuôi người mà miệt thị người.
Qua nói thật, ngày nào Qua còn thấy như vậy nữa thì
Qua nhứt định nâng đỡ Cửu Trùng Đài với hoàn cảnh nghèo hèn, chớ mấy em có làm
ra của vạn hộ đi nữa, Qua cũng cấm Cửu Trùng Đài không cho hưởng. Cái trách
nhậm nặng nhọc của mấy em lúc nào Qua cũng phải nhìn nhận, mà chính mình Đại Từ
Phụ cũng không bỏ, cần chi mấy em tung hô lên để thị nhục người.
Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập. Trái
lại, phận sự Qua giao cho mấy em, càng hèn tiện thì càng cao thăng, càng nhọc
nhằn thì càng cao công nghiệp. Nếu mấy em nói rằng : Lãnh phận sự nuôi người là
hèn tiện thì nói cho Qua biết đi. Ông Châu Văn Vương là một vị Bá Hầu bị Trụ
Vương đày ra nơi Dũ Lý, cũng vẫn làm tròn phận sự. Ông Trương Tử Phòng lập cả
giang sơn sự nghiệp, tạo nên đảnh Hớn mà chẳng hề buổi nào biết mình là công
thần, chỉ biết là tá sĩ, tôi của nước Hàn mà thôi.
Mấy em nên cố tâm noi theo gương cao thượng ấy mà
làm phận sự. Nếu năm rồi không còn mấy đứa tâm đức thì tất cả mấy em đã nghe lời gièm siểm của
thế gian mà thối bước lui chơn, lầm tưởng rằng : không có mấy em thì Hội Thánh
sẽ chết đói.
Qua cho mấy em hiểu rằng : không bao giờ đói đâu,
vì Đạo là nguồn nước thiêng liêng của Chí Tôn chẳng hề cạn, không có giọt nước
nầy thì cũng có giọt nước khác; có mợ thì chợ cũng đồng, không mợ thì chợ cũng không bữa nào.
Trong cửa Đạo cũng không cần, không thỉnh mà cũng
không xua đuổi, không bạc đãi, muốn ở thì ở, muốn đi thì đi, làm được thì làm,
không thì trừ bỏ, chớ đừng trách rằng : Bề trên ép buộc.
Chính Qua chưa ép ai, mà ông Trần Khai Pháp cũng
chưa ép ai. Muốn trọng thì cao trọng, bằng không thì tùy ý, đừng ở trong cửa
Thánh mà làm cho đê hèn nhục nhã thì uổng công lắm./.
20.- Tích : Lý Trường Canh và Lý Ngư Tinh (con cá
ông).
Ngày
29-5-Canh Thìn (dl 4-7-1940)
ĐỨC
HỘ PHÁP
thuyết đạo tại Báo Ân Từ
Tích : Lý Trường Canh và
Lý Ngư Tinh (con cá ông).
Có nhơn nghĩa mới gọi là thương yêu chơn thật, nếu
không có nhơn nghĩa là thương yêu giả dối.
Đức Chí Tôn buộc con người phải thương yêu, nhơn
nghĩa theo Thánh ý của Đức Chí Tôn mà thôi.
Nhắc tích : Lý Trường Canh và Lý Ngư Tinh là hai
anh em bạn đồng mến với nhau, hằng ngày ở nơi núi hải đảo mà tu niệm. Một ngày
kia Đức Quan Âm tính xuống rước hai người về Tây phương, mới giả là một người
đàn bà chèo chiếc ghe nhỏ đi bán hoa quả, chèo ngang qua núi hải đảo rồi rao
lên bán.
Lý Trường Canh muốn tu mà thoát kiếp thì thôi chớ
không cần ăn uống chi cả. Lý Ngư Tinh chịu không nổi, mới kêu lại mua ăn, thì
Đức Quan Âm hiện hình tại nơi đó mà rước Lý Trường Canh, là Lý Giáo Tông, đem
về Tây phương; còn Lý Ngư Tinh bị ăn mà thành ra con cá ông ở dưới biển.
Về trển, Lý Giáo Tông mới kêu nài cho Lý Ngư Tinh,
thì Đức Phật Như Lai cho Lý Giáo Tông một đồng tiền điếu, biểu xuống cột câu Lý
Ngư Tinh.
Lý Giáo Tông câu, Lý Ngư Tinh chạy lại ăn. Đức Lý
Giáo Tông mới đem về cho Đức Phật Như Lai. Quái lạ, về đến đó mà còn ngậm đồng
điếu ấy trong miệng mãi. Đức Phật Như Lai nói : Cái tánh tham của ngươi cho đến
đỗi mà cũng không chừa.
Đức Phật quở một câu mà phải trở xuống biển làm lại
con cá ông cho đến bây giờ./.
21.- Giải nghĩa Thất Đầu Xà .
ĐỨC
HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO
Đề tài : Giải nghĩa Thất
Đầu Xà, bảy nọc độc của rắn.
Hỷ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục ở trong châu thân của
con người.
Phàm con người ở thế, từ ngôi thiên tử cho đến hàng
thứ dân, ai cũng có đủ 7 cái tình ấy tất cả, nhưng do người biết độ lượng cho
vừa theo bực trung thì mới khỏi hại đến châu thân và sự nghiệp.
1 . Chữ Hỷ là mừng :
Con người khi gặp việc đáng vui mừng thì cũng phải
trầm tỉnh như thường, chẳng nên mừng thái quá mà biến thành sự hại.
Ví dụ như ông Trình Giảo Kim, nghe tin dòng họ Tiết
(Tiết Giao, Tiết Quì) phò Lý Đáng, đem binh về phục nghiệp Đường trào, trừ Võ
Hậu, thì ông ta mừng quá độ, phát thinh đại tiếu, cười ngất cho đến tắt hơi. Ấy
là mừng quá mà chết. Đời nay cũng có kẻ trúng số độc đắc mà chết.
2 .
Chữ Nộ là giận :
Con người vì giận quá mà sanh hại đến gia đình,
hoặc bị tội tù là khác, nên có câu : Nhứt nộ sầu tâm khởi, bát vạn chướng môn
khai. Nghĩa là : Một phen giận nổi lên thì tám vạn nghiệp chướng sanh ra, có
thể làm tiêu nhà hại mạng, đến khi biết sự chẳng lành, tỉnh lại ăn năn thì đã
muộn lắm rồi, nghĩ thôi đáng tiếc.
Ví như ông Châu Công Cẩn lầm mưu Khổng Minh Gia Cát
Lượng mà nộ khí xung thiên, đến nỗi thổ huyết lâm lụy mà chết. Ấy là một gương
nêu cho đời nên lưu ý. Còn nhiều sự giận mà chịu khổ hình.
3 . Chữ Ai là buồn :
Ấy cũng là một điều hư hại đến thân thể và trí não
tinh thần. Có nhiều người gặp việc sanh ly tử biệt hay là đấu lực tranh tài mà
chẳng may thất bại thì cũng buồn thảm đến lụy thân.
Ví như Thạch Sùng đấu của nhà giàu mà thiếu mẻ kho,
phải chịu thâu phục gia tài, rồi ông buồn rầu mà thất chí đến lụy thân. Ấy là
sự buồn rầu mà đến hại lớn, đáng làm gương cho người sau, nếu khi gặp cảnh
chẳng may thì phải có năng lực đạo đức tinh thần mạnh mẽ làm kế bảo tồn, tức là
phương an ủi tâm hồn mát mẻ.
4 . Chữ Lạc là vui:
Sự vui vẻ hân hoan khoái chí, sự vui vẻ phải có
chừng mực thì mới tránh khỏi các điều tai hại biến sanh. Có câu : Cực lạc sanh
bi, hễ sự vui thích quá độ thì trở nên buồn thảm. Điều ấy vẫn hiển nhiên.
Ví như Trụ Vương Ân Thọ, đắm mê nàng Đắc Kỷ, vui
say tửu sắc, đến nỗi mất nước tiêu nhà và hại mạng. Sự vui chơi của ông có lắm
điều tàn ác, nào là chế bào lạc hại quan trung thần, nào là lập sái bồn, tửu trì
nhục lâm sát hại cung nga thể nữ, vui cho đến mất cả cơ nghiệp vua Thành Thang,
làm cho bá tánh điêu tàn, sanh linh đồ thán, làm cảm động lòng Trời. Ấy là sự
vui chơi mà mắc tội Thiên đình.
5 .
Chữ Ái là thương yêu :
Có câu : Ái nhơn như ái kỷ, nghĩa là : thương hết
mọi người như thương mình vậy, mới gọi là bác ái. Bác ái là rộng thương, mà
thương vì công bình chánh trực, nhơn nghĩa, đạo đức tinh thần, thương nước
thương dân, chớ không phải thương riêng vì cá nhân vật chất, hay bợ đỡ nịnh hót
mà thương, hoặc thương vì ái tình tài sắc, trong sự thương giới hạn phân minh,
mới tránh khỏi những điều tai hại.
Có tích xưa đời Tam Quốc, ông Đổng Trác và Lữ Phụng
Tiên, đã có kết nghĩa minh linh dưỡng tử, mà vì ái tình với một gái Điêu
Thuyền, đến đỗi cha con giết hại lẫn nhau. Ấy là do nơi dây tình ái mà điêu tàn
chết thảm.
Còn nhiều người tài hay phá núi lấp sông, văn
chương trí huệ, mà chẳng vì đạo đức, mảng lo sa mê sắc dục, thương yêu ái tình,
mà phải hư thân hại thể.
6 . Chữ Ố là ghét :
Người tu hành không nên chất chứa sự ghét trong
tâm, vì sự ghét giận mà sanh ra thù nghịch lẫn nhau cho đến tàn hại nhau mà gây
thành dây oan trái trả vay đời đời kiếp kiếp.
Nên Đức Chí Tôn có dạy rằng : Sự thương yêu là chìa
khóa mở Tam thập lục Thiên đặng mà vào
Bạch Ngọc Kinh, còn sự ghét là phương tà mị, nó làm
cho lòng người chia rẽ, mất dây đoàn thể, cốt nhục phân ly cũng do sự ghét.
Vấn đề chữ Ố, nó làm cho lòng người nhiều điều tai
hại nói không cùng.
Tóm lại, chỉ nhớ một câu của Thầy dạy rằng : Từ đây
các con chẳng đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau.
Sau lại có câu phương ngôn của Thầy rằng :
Thương
người khác thể thương thân,
Ghét
người khác thể vun phân cho người.
7 . Chữ Dục là ham muốn :
Không nhàm, người có một trăm muốn, một ngàn muốn, muốn hoài không dư, nào là muốn nhà
cao lầu rộng, áo đẹp vợ xinh, đồ ăn mỹ vị, muốn thế nào cho được giàu sang trên
thiên hạ. Các điều muốn ấy là về sự ích kỷ. Nếu được một tấm lòng tham muốn về
đạo đức nhơn nghĩa, ích nước lợi dân, ấy là sự muốn trở nên cao thượng.
Tóm tắt lại, sự dục vọng của con người rất bao la
quảng đại, đến khi còn một hơi thở cuối cùng mà mọi điều tham muốn cũng chưa
đầy đủ, nên có câu : Nhân tâm bất túc xà thôn tượng, thế sự đáo đầu đường bộ
thiền. Nghĩa là : Lòng người chẳng đủ như rắn nuốt voi, việc đời cũng cùng tận
chẳng khác châu chấu bắt ve. Cũng vì lòng tham muốn mà rốt cuộc mạnh yếu sang
hèn tương tàn tương sát.
Kết
luận :
Thất đầu xà là 7 cái đầu rắn độc, nó lẫn lộn
trong châu thân của con người, gọi là
Thất tình. Cái độc của nó có thể hại người vô số, các bực lương y vô phương
điều trị, chỉ có một phương là dùng đạo đức tinh thần mới có thể trừ được 7 cái
nọc độc của nó mà thôi. Vậy ta nên cần tu để làm tiêu nọc độc của rắn, ấy là
một bài thuốc quí giá đó.
(Khi Đức Hộ Pháp ngồi trên ngai Thất đầu xà, hai
chơn đè lên hai chữ Nộ và Dục, hai tay đè lên hai chữ Ai và Ố, lưng dựa vào ba
chữ Hỷ, Ái, Lạc.)
PHỤ LỤC 1 : Đức Hộ Pháp xuất chơn thần lên CLTG gặp chơn linh Ngài Đầu Sư Thái
Thơ Thanh.
ĐỨC
HỘ PHÁP
xuất chơn thần lên CỰC LẠC
THẾ GIỚI.
Lúc mở Đạo ở Nam Vang (Tần quốc), vào năm Đinh Mão
(1927), Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc xuất chơn thần lên đến Cực Lạc Thế Giới
(CLTG) thấy chơn linh Ngài Thái Thơ Thanh đang trấn giữ cửa CLTG, nên thuật y
câu chuyện lại cho Ngài Thái Thơ Thanh nghe như vầy :
Đương lúc mơ màng, chơn thần liền xuất đi, thấy
ngồi trên một cái xe ngựa, day qua thấy cảnh Thất thập nhị Địa, qua đến Tứ Đại
Bộ Châu, nhìn thấy Đức Chí Tôn đứng trên Tòa Kim Khuyết, Đức Lý Giáo Tông cũng
đứng trên bàn, kế Chức sắc Thiên phong, mấy vị Đạo tâm đứng hầu Ngài.
Chừng sắp trận Đại chiến với Quỉ Vương trên Thiên
đình, Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thắng trận, chúng Quỉ đều chạy tan vỡ,
rồi kéo nhau qua Cực Lạc Thế Giới (CLTG), chừng đến cửa Niết Bàn thì thấy Ngài
Thái Thơ Thanh cầm bửu kiếm ngồi trên lưng con Kim Mao Hẩu, trấn thủ CLTG.
Lúc ấy Đức Hộ Pháp hỏi Ngài Thái Thơ Thanh rằng :
- Anh về trên nầy hồi nào vậy ?
Ngài Thái Thơ Thanh trả lời :
- Tôi phải về trước để rước chư Hiền hữu.
Đức Phạm Hộ Pháp ngó ra ngoài thấy các vị Đại Đức
đứng lao nhao lố nhố, đoàn ba lũ bảy, đến yêu cầu Ngài Thái Thơ Thanh cho họ
nhập vào Cực Lạc Thế Giới.
Ngài Thái Thơ Thanh không cho ai vào cửa hết, làm
Đức Hộ Pháp động lòng, hỏi rằng :
- Tại sao Anh không cho họ vào ?
Ngài Thái Thơ Thanh trả lời :
- Ngài không nhớ hồi đó chúng ta độ họ không đặng
sao ? Nếu người nào không nhập môn làm môn đệ của Đức Chí Tôn thì không thể gì
vào được, vì các đạo giáo đều bị bế, chỉ có Đại Đạo Chánh Truyền dưới quyền của
Di-Lạc Vương tận độ thì mới vào được mà thôi, mà điều trọng yếu hơn hết là
không có lịnh của Ngọc Hư Cung, tôi đâu dám cho họ vào. Nếu tôi cho vào, họ bị
cây Giáng Ma Xử của Anh thì Anh nghĩ sao ? Không cho họ vào là cứu linh hồn của
họ vì họ có công tu. Nếu cượng lại mà cho vào thì họ sẽ bị lửa Thái Cực trong
chữ VẠN đốt cháy ra tro mạt, mình lại có tội nữa mà chớ.
Tốt hơn
hết là để họ
trở lại Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mà đợi thời gian, rồi họ sẽ tái kiếp tu hành,
rồi về sau. Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ độ.
Đức Phạm Hộ Pháp ngó vào cửa Cực Lạc Thế Giới thấy
chữ VẠN quay cuồng trông như cái chong chóng, hào quang chiếu diệu sáng ngời.
Không có lịnh cho vào, mà chơn linh nào vào gần đó thì bị đốt tiêu ra tro mạt.
Nên thảm thương thay cho các vị Đại Đức đã dày công
tu luyện
mà khi về đến cõi Tây phương, chẳng đặng nhập vào cõi Cực Lạc Thế Giới.
Nên họ phát ra nhiều tiếng rên siết rầm rĩ, họ xúm
nhau, đoàn năm lũ bảy, kẻ thì tụng kinh, người thì đánh chuông cầu nguyện, kẻ
đánh mõ vang dậy.
Phần thì con Kim Mao Hẩu hả miệng nhăn răng le lưỡi
rất dữ tợn, nên không vị nào dám đến gần cửa Cực Lạc Thế Giới.
Ấy là đúng theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn đã tiên tri hồi mới Khai Đạo năm Bính Dần (1926) : “ Các Đạo bị bế lại, thảm thương cho các
con, tu có công mà thành chẳng đặng. Nếu không đi vào con đường Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ thì không thế gì nhập vào Cực Lạc Thế Giới cho đặng ”.
Chừng tới giờ Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ kéo
cờ về tới cửa Cực Lạc Thế Giới, thì Ngài Thái Thơ Thanh, ngồi trên lưng Kim Mao
Hẩu, tay cầm bửu kiếm, chỉ ngay chữ VẠN thì cửa Cực Lạc Thế Giới hóa ra to lớn
rộng rãi vì chữ VẠN đã ngừng quay. Đức Hộ Pháp dẫn đầu đi vào trước, kế là
những vị của Đại Đạo Tam Kỳ và Đức Lý Giáo Tông tiến vào, sau mỗi vị đều có dấu hiệu cờ cùng sắc phục khác
nhau.
Lần lượt liên tiếp, Đức Lý Giáo Tông dẫn vào 9 ức
nguyên nhân, chừng vào xong, kiểm soát lại, Đức Hộ Pháp nghe trong Niết Bàn hô lớn lên rằng : Còn thiếu một ức
nữa.
Đức Hộ Pháp vội vàng muốn trở lại trần gian đặng độ tiếp cho đủ, thì có lịnh của Đức Chí
Tôn phán rằng :
- Không hề chi đâu con, cửu nhị ức nguyên nhân mới độ về có 9 ức, thì lần lượt sau cũng độ
hết đặng.
Chừng nghe xong, Đức Hộ Pháp mới yên lòng.
Nhưng còn nghe văng vẳng bên tai rằng : “ Phương
pháp độ rỗi chỉ khuyên lơn các chơn
linh, dầu Nguyên nhân hay Hóa nhân, đoạt được chữ HÒA với chữ
NHẪN, mới về cửa nầy được. Dầu cho vạn kiếp sanh dày công tu luyện mà còn ganh
ghét thì sẽ bị vào tay Chúa Quỉ, không trông mong gì về cùng Thầy được.”
Đến đây, Đức Hộ Pháp ghi nhớ tỉ mỉ, để rồi biên
chép lại cho các Chức sắc Kim Biên xem và đem về Tòa Thánh Tây Ninh cho Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh biết rõ tự sự.
Đức Ngài dạy sao ra nhiều bổn để lưu truyền đến
ngày sau trau thân học Đạo.
PHỤ
LỤC 2 : Tờ Phúc sự của Hội Thánh gởi ông Chủ Trưởng Ủy Ban Điều Tra thuộc địa
của Pháp.
Tờ
Phúc sự của Hội Thánh
gởi
ông Chủ Trưởng Ủy Ban Điều Tra thuộc địa của Pháp.
(song
ngữ Pháp-Việt).
CAODAISME
ou Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Bouddhisme renové. 3è Amnistie de Dieu en Orient
Saint Siège de Tây Ninh.
RAPPORT
adressé par le
SACERDOCE CAODAIQUE
à M. le PRÉSIDENT de la Commission d’enquête
dans les Territoires d’Outre-Mer et sa
traduction.
***
Le Sacerdoce Caodạste interrogé par vous sur la rénovation du système
colonial français s’excuse tout d’abord d’être obligé de mêler un peu de
mystique dans l’exposé de son point de vue; il s’en abstiendra néanmoins le
plus possible de façon à toucher la masse des penseurs libres, et il les prie
d’avance de lui concéder qu’une religion ne peut exister sans une croyance
suprême.
Pour sa Défense, nous nous permettrons de rap- peler ici que des hommes
dont la valeur philosophique n’a jamais été contestée, tels que Allan Kardec,
Léon Denis, ont cru aux mystères de l’Au-delà; et si nous citons ces noms
connus, c’est parce que ce sont ceux qui en Europe se sont le plus rapproché
des Doctrines Bouddhistes que nous pratiquons.
Dans l’ignorance presque complète, où le monde vit, de ce que les humains
deviennent après leur mort;
Bản dịch Việt văn của Hội Thánh :
ĐẠO CAO ĐÀI hay Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ
Phật giáo Chấn hưng. Đại Ân Xá kỳ
3 của Thượng Đế ở phương Đông
Tòa Thánh Tây Ninh.
TỜ PHÚC SỰ
của Hội Thánh Đạo Cao Đài gởi cho:
Ông Chủ trưởng Ủy Ban Điều Tra
các Thuộc địa và bổn dịch
văn.
Hội Thánh Đạo Cao Đài, nhờ Ngài hạch vấn, về duy
tân chánh sách Thuộc địa Lang sa, xin trước kiếu lỗi cùng Ngài, chúng tôi buộc
lòng phải đem pha lẫn điều bí ẩn huyền vi đạo giáo trong tố chương đã kiến thức
: Hội Thánh sẽ nhận bỏ một đôi điều hầu có thể hiệp ý cùng các vị tự do tư
tưởng và xin các vị ấy cũng nhường nhận cho rằng : chẳng hề khi nào một nền tôn
giáo thành lập mà không có sự cực kỳ tín ngưỡng.
Muốn bênh vực nó, chúng tôi mạn phép xin nhắc đến
những người mà giá trị triết lý không còn phương chi từ chối đặng : Tỉ như
Allan Kardec, Léon Denis mà cũng còn tin tưởng những điều bí ẩn của cõi Hư Vô
và nếu chúng tôi kể tên ra đây, là vì nơi cõi Thái Tây, duy các danh nhơn ấy
thiên lệch những tôn chỉ của Phật giáo mà chúng tôi đang hành đạo.
Trong sự mơ màng hầu trọn, nơi cõi đời đang sống,
nơi con người khi mãn phần thì phải thế nào, chẳng quoi
de plus défendable qu’une opinion discrète à la condition qu’elle ne tende pas
à subjuger les autres.
N’est-il pas logique dans un monde où l’on a trop souvent l’occasion de
voir les mauvais vivre heu- reux dans l’opulence, et les bons vivre dans la
souf- france et dans la misère, de croire qu’un équilibre se rétablira au cours
d’une autre vie ou de supposer que certains expient les fautes d’une vie
antérieure ?
Notre conception de la justice, résultat de cet équilibre, se rassure à
cette pensée; et si cet équilibre moral entre tous les êtres que nous appelons
Justice, n’existait pas; çà n’est pas ce que nous voyons autour de nous dans la
vie, qui aurait pu nous suggérer l’idée réconfortante de son existence.
La Foi en la Justice, c’est-à-dire dans un équilibre supérieur n’est donc
pas vaine, et elle est génératrice du bien; car quel besoin aurait-on de faire
le bien, dans tout ce qu'il a parfois de peu attrayant, si on ne devait pas en
être récompensé ?
L’homme d’ailleurs ne peut vivre sans faire tous les jours des actes de
Foi; il ne s’agit pas ici de la Foi religieuse, mais de la Foi tout court.
Les plus incrédules ne font-ils pas quotidienne- ment des actes de Foi, ne
fuât-ce qu’ en lisant
leur journal ?
Bien entendu, plus un esprit est éclairé, moins il a besoin de faire
d’actes de Foi, mais néanmoins, comme le même être ne peut pas tout savoir; sur
les points qu’il ignore, il est obligé de faire des actes de Foi vis-à-vis de
ceux qui sont mieux renseignés que lui.
chi hay hơn là một luận thuyết kín đáo, chỉ xin luận thuyết ấy đừng đè nén các luận
thuyết khác ?
Lẽ chí lý có phải chăng trong một hoàn võ mà ta có
dịp thấy chán chường những kẻ tiểu nhơn sống với một phần sang trọng vinh hiển,
còn người quân tử thì chịu khổ não truân chuyên, mà tưởng rằng sẽ có sự công
bình thường bồi lại cho kiếp khác hoặc là có kẻ phải chịu quả báo của nợ tiền
khiên ?
Về mặt nạp dụng công lý chúng ta, là do nơi sự công
bình ấy mà sản xuất, với nhờ tư tưởng đó mà đảm bảo. Nếu chẳng có sự công bình
và tâm lý ấy trong toàn thể mọi người mà chúng ta lại gọi Công lý thì Công lý
chẳng hề ra hiện hữu. Điều đó chẳng phải
người tu thấy xung quanh mình trong kiếp sống mà nó nhủ cho ta để ý lạc hứng
hầu tin
rằng nó quả
có thật.
Cái Đức tin nơi Công lý, nghĩa là tin nơi sự công
bình cao thâm chẳng phải là vô lối và nó làm cho sanh sản thêm điều tận thiện,
vì thoảng như chẳng vậy thì chúng ta cần chi phải làm lành mà sự lành ấy đòi
phen chẳng làm cho chúng ta hoan tâm, nếu không đặng hưởng một phần thưởng chi
tất cả.
Con người chẳng hề sống trong một ngày mà không làm
việc với Đức tin. Nơi đây chẳng phải nói về Đức tin đạo đức mà nói về Đức tin
trơn thôi.
Những người vô tín ngưỡng, mỗi ngày họ có làm theo
Đức tin của họ chăng, chỉ nói họ đọc báo chương là đủ ?
Thầm hiểu rằng : một cái tánh đức sáng suốt chừng
nào thì ít cần làm theo Đức tin chừng nấy; mà một người chẳng đủ toàn tri toàn
năng, theo những nơi khuyết điểm của họ thì họ cũng còn phải buộc mình làm theo
Đức tin của những người lịch lãm hơn họ.
L’ignorant, au contraire, fait des actes de Foi
toute la journée et pendant toute sa vie.
Pourquoi, dans ces conditions, dénier la Foi
religieuse et les mystères de l’Au-delà alors la plupart de ceux qui les condamnent
ne les ont pas étudiés à fond, et que ceux qui s’adonnent à ces études ne s’y
livrent souvent qu’accessoirement et ne possèdent à leur sujet qu’une
documentation restreinte sur les travaux qui ont été faits avant eux.
Sans vouloir
nous étendre davantage, nous dirons seulement que la Religion et la Foi dans
l’Au-delà sont une nécessité pour le peuple; et que, plus un peuple est
malheureux ou misérable, plus il a besoin d’espérer qu’une compensation lui est
réservée pour plus tard et plus il a besoin de la conviction que cette
compensation n’est pas un vain mot.
Le désespoir individuel mène au suicide; et le
désespoir collectif à la révolution.
Le fait d’entretenir chez ceux qui souffrent cette
consolation que leurs maux auront une fin, est donc une oeuvre de première
necessité; et il appartient à ceux qui sont plus éclairés et qui croient
sincèrement à cette compensation, d’entretenir dans le coeur de ceux qui
souffrent cet espoir qui adoucit leurs maux. C’est le rôle auquel nous nous
consacrons.
Or, vous admettrez avec nous que, si chez un peuple
libre, cette espérance est déjà fort utile; chez un peuple colonisé, elle
devient indispensable.
Hạng dốt nát, trái lại, làm theo Đức tin cả ngày và
suốt cả đời.
Bởi những duyên cớ trên đây, sao lại chối Đức tin
đạo đức và huyền vi bí ẩn nơi cõi Hư Vô, trong cơn phần đông nhiều kẻ đã chê bỏ
nó mà chẳng chịu tìm hiểu cho tận cùng; còn những người chuyên môn học thuyết
ấy thì chỉ làm cho lấy có và đặng nơi tay rất ít oi triệu chứng về công trình
của người trước đã làm.
Chẳng cần bày bố cho dong dài, chúng tôi xin nói
quyết : Đạo và Đức tin nơi cõi Hư Vô là một vật cần yếu cho dân sanh đó vậy. Hễ
dân tộc nào càng khổ não hay là khốn đốn, thì họ lại càng cần phải trông cậy sự
bù đắp dành để cho họ buổi sau kia và
phải cần tin chắc rằng : sự bù đắp ấy chẳng phải là lời nói mộng.
Sự thất vọng của cá nhơn giục phải tự tử và sự thất
vọng của toàn thể giục làm cách mạng.
Cái sở hành làm cho trong tâm của mỗi người đang
chịu đau đớn đặng bền giữ sự an ủi nầy là điều khổ não của họ có chỗ kỳ cùng,
ấy là một cơ quan trọng yếu nhứt; và thuộc phận sự của những người sáng kiến là
tin thật rằng có sự bù đắp ấy đặng bền để cái hy vọng nơi tâm những kẻ đau thảm
hầu làm cho nhẹ bớt sự khổ não của họ, ấy là cái vai tuồng của chúng tôi đã định thi thố.
Vậy thì Thượng quan cũng phải chịu với chúng tôi
rằng : đối với một dân tộc tự trị, cái hy vọng ấy rất nên hữu dụng, đối với một
dân tộc bị chinh phục, nó lại thêm yếu trọng.
Étudions maintenat, si vous le voulez le rôle des religions
dans la conquête de l’Indochine par la France.
L’histoire de la conquête et de la colonisation de
ce pays a été écrite par de nombreux historiens, plus autorisés que nous, qui
avaient à leur disposition des documents que nous n’avons pas, nous ne nous
risquerons pas à en reproduire ici une mauvaise imitation.
Mais puisque c’est le côté moral seul auquel nous
nous attacherons, nous allons tenter de mettre en lumière les raisons profondes
qui ont guidé les deux peuples dans une transformation de leurs rapports
entr’eux jusqu’au point où nous en sommes arrivés aujourd’hui.
Nous n’étonnerions personne si nous disons que nous
voyons dans cette histoire le contact de deux civilisations; pourquoi
étonnerions-nous davantage en ne prenant de ces deux civilisations que
l’essence même qui les a créées; c’est-à-dire en vous montrant qu’elles ne sont
que le reflet de deux religions.
Les rapports de la France et de l’Annam s’ils sont
en effet une lutte de deux civilisations en général, sont bien plus encore celle
de deux religions qui se sont affrontées.
Ces deux religions sont : d’une par le Confucia-
nisme, d’autre part le Christianisme.
La première : Religion aux principes de tolé- rance
tellement large que sa morale s’en était Nếu Thượng quan vừa lòng, chúng
ta nên nghiên cứu ngay vai tuồng các tôn giáo trong lúc nước Pháp sang qua
chinh phục cõi Đông dương.
Lịch sử nói về sự chinh phục và thâu thủ xứ nầy làm
thuộc địa do bởi nhiều sử gia đã viết trước, có đủ phương thế và đủ tài liệu
sẵn để cho họ nghiên cứu, mà chúng tôi không có, nên dám mạo hiểm đem chường ra nơi đây một sự học
đòi thô kệch.
Nhưng chỉ về
mặt tinh thần mà chúng tôi chú trọng thôi, nên thử đem ra ánh sáng những lý lẽ
thâm thúy nó đã dắt hai dân tộc đến sự biến hóa cùng nhau mà ngày nay đã đến
đỗi nầy.
Chúng tôi
tưởng không làm cho một ai lấy làm lạ nếu nói rằng : chúng tôi thấy trong đoạn
lịch sử nầy, sự tương hội của hai văn hóa; sao lại chúng tôi cũng làm cho thiên
hạ lấy làm lạ hơn nữa là chỉ lấy cái tinh túy của hai văn hóa nầy đã sản xuất,
nghĩa là chỉ cho Ngài rõ rằng : chúng nó thật là hình bóng của hai nền tôn
giáo.
Sự tương hiệp của nước Pháp và nước Việt Nam, nếu
chẳng phải đều do hẳn nơi sự tương tranh của hai nền văn hóa thì thật ra là do
sự xung đột của hai nền tôn giáo.
Hai nền tôn giáo ấy : một đàng là Khổng giáo, một
đàng là Thiên Chúa giáo.
Khổng giáo là một nền tôn giáo ở lý thuyết khoan
hồng quảng đại đến đỗi tinh thần đạo đức của nó elle-même
relâchée et qu’elle n’était plus une sauve- garde suffisante pour ceux qui la
pratiquaient; laissant se perpétrer sans protester les pratiques mandarinales
les plus condamnables, et n’offrant plus
une protection assez suâre à ceux
qui en subissaient les funestes effets.
Elle aboutissait à une sorte de farniente
épicurienne, que rien ne venait
réveiller en vue d’une activité dirigée vers le bien.
La seconde, au contraire, religion
antinomique de la
première, ardente, active, passionnée, jalouse, exclusive souvent même
tracassière, n’admettant nulle perfection ailleurs que sous son étiquette,
nulle Vérité ailleurs qu’en ses doctrines, exigeant l’apostasie préalable à
tous ceux qui désiraient s’y convertir.
N’était-ce pas par ses caractéristiques une vraie religion de conquérant ?
Cette dernière allait entrer en
lutte avec son
aỵnée qui était appuyée d’un long atavisme, et qui allait, elle aussi, tenter
de lui disputer ses préroga- tives et
son droit d’ aỵnesse.
La lutte commençait.
On peut diviser cette lutte en trois périodes :
a) La période antérieure et
contemporaine de la conquête.
b) La période de pacification.
c) La période de collaboration.
phải chịu từ bỏ nó, và những người tùng giáo thiếu phương che chở; rồi lại để cho
duy trì, không phản đối những hành
động tội tình của trường quan lại và chẳng còn cho những người đã chịu cái ảnh hưởng nguy nan của
nó còn phương tự bảo lấy mình chắc chắn.
Nó đã đáo đến một cảnh nhàn lạc, vui
hứng của Épicur mà không có một cớ chi làm cho nó tỉnh mộng hầu day hành động
qua mặt tận thiện.
Thiên Chúa giáo trái lại, là một nền tôn giáo ngược danh với cái trước,
sốt sắng hăng hái, mê mẫn, ganh gổ, độc quyền, đòi phen gây gổ, không chịu nhận nhìn cái hay của kẻ khác ngoài cái biệt
hiệu của nó, không có điều chi gọi là chơn lý
ngoài cái tôn chỉ của nó, lại buộc ai muốn tùng giáo phải hành đạo mới đặng.
Do những cử chỉ ấy, quả chăng là một tôn giáo chinh phục ?
Đàng nầy, liền khởi xung đột với đàng anh là Khổng giáo, đã dựa nương một cổ sử,
lại cũng toan phương tranh đoạt danh thể và quyền lực của đàng anh.
Sự xung đột phát khởi.
Người ta có thể chia sự xung đột nầy ra 3 thời kỳ :
1 . Thời kỳ trước và ngay buổi hỗn độn thâu phục.
2 . Thời kỳ trị bình.
3 . Thời kỳ hiệp tác.
PREMIÈRE STADE.
Nous avons indiqué que le peuple d’Annam soumis à un Confucianisme trop
tolérant et dont la morale était insuffisante à contenir les appétits de ses
mandarins, ne trouvait plus de protection dans la religion de ces ancêtres. Il
manquait au Confucianisme cette autorité qu’avait su imposer la Religion Chré-
tienne, à l’époque de la Monarchie absolue, lorsqu’elle faisait se courber les
têtes couronnées sous l’excommu- nication
ou sous la simple menace d’excommunication, et ce, souvent pour le plus
grand bien du peuple français.
Jamais le Confucianisme n’avait eu de ces réactions audacieuses; il n’a
jamais fait autre chose que d’appeler les hommes vers le bien par ses exhor-
tations, sans menacer ni rejeter de son sein ceux qui ne se conformaient pas à
ses doctrines.
Le résultat fut qu’un nombre important de malheureux, lassés d’une religion
ancestrale qui ne les protégeait pas contre les abus de ses mandarins, écou-
tèrent l’appel des missionnaires catholiques qui ensei- gnaient une autre
morale également très belle; celle de Christ; et ils allèrent à elle avec
d’autant plus de facilité qu’elle était plus agissante.
Les hauts représentants de cette nouvelle religion, - en se présentant au
nom du Gouvernement français, - avaient d’ailleurs leurs entrées jusqu’à la
Cour de Huế, par laquelle cette religion était autorisée et des avantages
considérables avaient même été accordés
à leurs missionnaires.
KHOẢN THỨ
NHỨT.
Chúng tôi đã chỉ rõ rằng: dân tộc Việt Nam đang theo Khổng giáo rất quảng
đại, nên tinh thần của nó không đủ phương kềm thúc những điều tham tàn của trường quan lại,
thành thử không tìm đặng sự bảo
bọc trong tôn giáo của tổ phụ họ. Khổng giáo thiếu quyền năng của Thiên Chúa
giáo đã hữu định, trong buổi vương quyền độc chiếm, khi nó đã làm cho các vua
chúa phải cúi đầu dưới quyền trục xuất hay là hăm trục xuất ra khỏi Đạo, và
lại đã làm cho dân tộc Pháp
nhờ nhỏi biết
bao.
Chẳng hề buổi nào Khổng giáo dám phản động
mạnh bạo như thế, nó chẳng làm chi khác hơn là kêu gọi nhơn sanh
vào đường chí thiện, bởi cách khuyên nhủ, không hăm dọa sa thải khỏi cửa Khổng những
kẻ không trọn tùng tôn chỉ.
Kết cuộc, một số khá đông người bất phước chán ngán
với tôn giáo của tổ phụ, bởi nó không thể bênh vực họ trong điều quá quyền của
quan lại, rồi nghe những thầy truyền giáo của đạo Thiên Chúa dạy một giáo lý
cũng vẫn tốt đẹp là Đạo của Christ, nên họ liền theo giáo lý ấy một phương cách
dễ dàng vì bởi nó cần mẫn họ hơn.
Những vị thay mặt cao trọng của giáo lý mới mẻ nầy,
nhơn danh của Chánh phủ Pháp, đến tận
triều Nam và nhờ đấy mà Đạo đặng rộng
phép và các thầy truyền giáo đặng ân tứ nhiều sở lợi vĩ đại.
Des Chrétientés avaient été ouvertes en maints
endroits et ces domaines s’étaient transformés un peu en terre d’asile aussi,
bientôt les néophytes vinrent-ils dans ces lieux pour se mettre à l’abri de
leurs madarins prévaricateurs.
Malheureusement, ce refuge qui servait de lieu de
réconfort à l’Annamite pourchassé par la rapacité de ses mandarins, servait
également de refuge à ceux qui cherchaient à se soustraire purement et simple-
ment à des châtiments mérités; et la conscience publi- que annamite commença à
s’émouvoir de ce que les Chrétientés permettaient parfois à des criminels
avérés, d’échapper à la justice mandarinale qui les recherchait.
Des réactions sanglantes se produisirent contre les
néophytes et leurs pasteurs : le sang coula. Il y eut des martyrs de la Foi
Chrétienne et la France qui, à ce moment, était la fille aỵnée et reconnue de
l’Église, entendit venger le sang de ses missionnaires; elle en profita pour
faire la conquête d’une grosse partie de la Cochinchine et pour imposer son
Protectorat à l’Annam.
C’était, en réalité, la guerre du Christianisme
contre le vieux Confucianisme dénommé avec mépris “Paganisme”.
Dans sa conquête, la France fut aidée en partie par
les indigènes des Chrétientés.
Nhiều nhà chung đặng khai mở mọi nơi và những cơ
nghiệp ấy biến thành Thánh địa, bởi cớ, liền đó, nhiều kẻ tùng giáo đến trú ngụ
đặng tránh sự tham tàn của quan lại.
Hại thay, nơi làm chỗ đình trú cho những người Việt
Nam bị quan lại tham tàn áp bức, lại cũng dùng làm nơi trú ngụ ho những kẻ trốn
tránh tội tình đáng trừng trị, nên dân tâm người Việt Nam khởi ra sôi nổi rằng
: các nhà chung che chở những chánh phạm thoát vòng công lý của các quan viên
tập nả.
Nhiều phản
động dữ dội khởi dấy lên đối với các tín đồ và các vị giáo sĩ : lưu huyết. Đã
có tử đạo vì đức tin Thiên Chúa giáo và nước Pháp buổi ấy, vốn là trưởng nữ
nhìn nhận của Đền Thánh, nhứt định báo thù sự lưu huyết của các vị truyền giáo,
nên thừa cơ hội ấy, chinh thâu một phần đất khá lớn nơi Lục Tỉnh và buộc nước
Việt Nam tùng quyền bảo hộ.
Thật ra là
trận giặc của Thiên Chúa giáo chiến đấu với
Khổng giáo, gọi nhục danh là :
Bụt Thần.
Trong buổi chinh phục, nước Pháp nhờ thổ nhơn của
nhà chung vùa giúp.
Mais si l’on veut y réfléchir : dans une période où
la France et l’Annam étaient en guerre, les Annamites qui servaient ainsi la
France étaient des gens qui n’hésitaient pas, pour leur intérêt personnel, à
trahir célibérement leur Souverain en passant au service de l’ennemi.
Ils ne pouvaient tout de même pas être d’une
moralité supérieure à la moyenne de ceux qui dont ce rôle ne choque pas la
conscience.
Ce serait d’ailleurs une erreur de croire que le
sentiment nationnal n’existait pas chez le peuple annamite, tout le dément, et
celui-ci, jusqu’à ces derniers temps, se plaisait à la représentation de scènes
reproduisant les anecdotes des temps hérọques.
Tel fut le bilan de la première période qui opposa
au vieux Confucianisme fatigué, un Christia-nisme actif, mais représenté par un
élément annamite qui n’était pas de premier choix.
DEUXIÈME STADE: La pacification.
La France fut victorieuse, et de ce fait,
l’autorité des Chrétientés augmenta de jour en jour, pendant que l’élément
Confucianiste rétrogradait.
Les vieilles coutumes d’Annam ne s’étaient
malheureusement pas modifiées, et les mandarins n’avaient pas changé leurs
méthodes, néanmoins l’énorme majorité du peuple annamite restait cepen- dant
attachée malgré tout à ses traditions.
Mà nếu ai để ý suy nghĩ : trong buổi Pháp - Nam
chiến đấu, những người Việt Nam ra giúp Pháp đều là hạng người vì tư lợi, không
còn ngần ngại gì mà không phản Chúa của họ đặng theo kẻ nghịch.
Vậy thì, họ cũng không phải đặng một tâm đức cao
thượng hơn những kẻ cho vai tuồng ấy là trái nghịch với lương tâm.
Nếu tưởng rằng quốc dân Việt Nam không có lòng ái
quốc thì thật là lầm lạc đó, nhiều cớ tố trần và một cớ nầy, đến thời gian sau
đây, họ đã diễn ra nhiều tấn tuồng theo những cổ tích hùng dũng buổi xưa.
Ấy là tổng số của thời kỳ thứ nhứt đem đối diện
Khổng giáo xưa mỏi mê với Thiên Chúa giáo oanh liệt mà những người Việt Nam
đứng ra làm danh thể cho nó không phải là hạng đúng mực chọn lựa.
KHOẢN
THỨ NHÌ: Trị bình.
Nước Pháp đắc thắng, và vì lẽ ấy, quyền hành các
nhà chung tăng thêm hằng buổi, trong cơn Khổng giáo thối bộ từ từ.
Hại thay, những cổ tục Việt Nam không thay đổi và
quan lại cũng không canh cải chánh sách, nhưng phần đông của quốc dân vẫn còn
đeo đuổi theo tục lệ xưa mãi.
Le Christianisme en effet exigeait le renonce- ment solennel aux croyances
paiennes; c’était grave ! Il fallait renier formellement l’autel de ses
ancêtres et le culte séculaire qui leur était duâ; pour aller se prosterner
devant de nouveaux autels près desquels l’annamite ne cherchait un refuge que
dans un but exclusivement intéressé.
Les cathéchumènes n’étaient certes pas trom- pés dans leurs espérances; car
ils étaient dispensés de l’impôt, obtenaient des concessions et devenaient
propriétaires, là où les autres n’étaient que fermiers ou coolies. Dès que surgissait une difficulté, leur
missionnaire allait trouver les Résidents de France et tout s’arrangerait selon
leur désir. L’intérêt de la Chrétienté étant avant tout de grouper des
paroissiens riches et généreux.
C’est ainsi que, pour beaucoup l’apostasie fut l’origine de la fortune.
Par contre, la masse du peuple composée des braves gens fidèles à leurs
traditions restait misé- rable et digne, se refusant à un reniement que leur
conscience réprouvait.
La lutte se faisait donc de plus en plus âpre entre la nouvelle religion
qui obtenait toutes les faveurs, bien que ses éléments ne soient pas dominés
par une morale parfaite; (1) et l’autre qui essayait de lui tenir tête, bien
que ses hauts partisans n’aient rien modifié à leurs méthodes rapaces.
(1) Cette qualification ne vise en rien, les Chrétiens de la seconde
générations.
Thiên Chúa giáo thì buộc phải từ bỏ những sự tín ngưỡng ngoại đạo, ấy là điều
trọng hệ. Phải từ chối hẳn đền thờ của tổ phụ và sự tế tự đã roi truyền, đặng đến quì lạy trước những
đền thờ mới mẻ mà người Việt Nam chỉ vì mục đích tư
danh tư lợi, tìm tàng đến đặng
trốn lánh.
Những người giả đạo ấy không lầm trong sự hy vọng
của họ, bởi vì họ đặng miễn thuế, đặng đất địa và trở nên gia chủ những nơi mà
kẻ khác chỉ làm tá điền hay là làm tớ mà thôi.
Khi có điều gì khó khăn xảy đến, thì các Cha, Cố
đạo đến lo với quan Công Sứ Pháp và mọi điều đặng hoan hỷ theo ý muốn của họ.
Các nhà chung vụ tất sự tom góp theo mình những nhà đạo giàu có và quảng huợt.
Vì vậy mà sự vào đạo là căn nguyên của quyền lợi.
Trái ngược lại, trong đám dân, phần nhiều gồm những
người chơn chất và trung thành cùng tục lệ của họ thì chịu khốn khó, nhưng vẫn
cao thượng, vì đã từ chối những điều mà lương tâm của họ biếm trách.
Sự tranh đấu lại con trở nên thúc nhặt giữa nền tôn
giáo mới mẻ hưởng đủ đặc ân, dẫu rằng vi cánh của nó đều không trọn định bởi
một tinh thần đạo đức hẳn hòi (1), còn đàng kia thì thử chường mặt chống chỏi,
dẫu rằng những đảng phái của nó chẳng chịu sửa đổi chánh sách gian ngược.
(1) Câu nầy chẳng chỉ trích những người Thiên Chúa
giáo đời sau.
Une telle rivalité n’avait plus rien d’une religion
: la religion n’était plus qu’un mot, un prétexte, un drapeau, un signe de
ralliement, dont l’idée morale absente ne laissait plus place qu’à une simple
superstition.
N’y avait-il pas place à ce moment pour un culte
rénové destiné aux braves gens, aux travailleurs sans épithètes et sans
calculs, respectueux des souvenirs que leur avait légués leurs anciens, et qui,
cependant étaient prêts à respecter l’enseignement du bien, partout où ils le
rencontraient, à condition, pour cela, de ne pas être obligés de considérer
comme abjecte, la religion dans laquelle ils étaient nés ?
Ceux-là n’avaient-ils pas besoin de la création
d’un nouveau refuge moral plus approprié à leur état d’âme, d’une conception
plus vigoureuse condamnant sous quelque forme qu’elle les rencontrât les
appétits des uns et des autres, pour rester dans la morale élevée et pure.
C’est ce que plus tard le Caodạsme a tenté, et on
comprendra aisément qu’il a été dénoncé aussi bien par les Chrétiens auxquels
il faisait un tort considérable, que par les mandarins bouddhistes dont il
réprouvait les méthodes; mais n’anticipons pas, car il ne vit le jour que
beaucoup plus tard.
Cuộc tương tranh dường ấy, còn chỉ rằng tôn giáo :
tôn giáo chỉ là một khẩu thuyết, một viện lẽ, một đại kỳ, một biểu hiệu hiệp
đảng mà tinh thần đạo đức đã vắng, duy lưu lại đều là những sự dị đoan mê tín.
Vậy thì, trong khi ấy, không còn chỗ nào mà chấn
hưng tôn giáo để cho hạng người chơn thật, hạng lao động không phiền hà và
không so đo biết kỉnh trọng những dấu tích xưa của tiền nhơn để lại, và họ cũng
vẫn sẵn lòng kính trọng giáo lý tận thiện bất cứ là nơi nào họ gặp đặng, miễn
là vì lẽ ấy không làm cho họ phải buộc mình coi Đạo nhà là thô hèn.
Có cần tạo cho những kẻ ấy một nơi đình trú tinh thần mới mẻ vừa theo
tâm đức của họ mà tư tưởng mạnh mẽ chỉ trích cái hám tâm của đôi đàng bất cứ
hình bóng khuôn khổ nào của nó mà họ đã gặp, hầu trọn gìn tinh thần cao thượng
và thanh bai chăng ?
Ấy là điều mà Đạo Cao Đài đã làm thử và người ta sẽ
dễ hiểu rõ ràng : nó đã bị những người đạo Thiên Chúa tố giác là do nó làm cho
họ thất phận rất nhiều, còn quan lại Phật giáo thì bị nó biếm trách những chánh
sách gian ngược. Nhưng mà bây giờ chúng ta chẳng cần vội luận, vì Đạo Cao Đài
sản xuất ra trong thời kỳ sau xa kia mà.
TROISIÈME STADE : La collaboration
Vint alors la troisième période : celle de la collaboration.
Ce mot fut prononcé un jour par M. Albert Sarraut, Gouverneur Général de
l’Indochine dans un de ses discours; et il eut une repercussion jusque dans les
coins les plus reculés des campagnes.
Le peuple annamite hésita à y croire; les colonialistes français
retardèrent un peu sa mise en pratique, mais la sémence était jetée. Elle se
mit à germer tout doucement, - trop doucement peut-être au gré du peuple
annamite , - mais, des deux côtés, des hommes avaient entendu cet appel; et,
intérieure- ment, ils y avaient aussitôt répondu.
Un membre du Conseil privé, aujourd’hui décédé, M. Lê Văn Trung, qu’en 1933, M . Albert Sarraut, Ministre des Colonies, a bien
voulu appeler son ami du haut de la Tribune de la Chambre des Députés voulut
que cet appel ne restât pas sans écho.
Longtemps, il chercha en vain la concrétisation du rêve que son Gouverneur
Genéral avait fait naỵtre dans son coeur; et , un jour, - beaucoup plus tard, -
en faisant ce qu’en France vous appelez des recherches spirites, - il eut une
révélation qui lui donna la solution du problème.
Cette collaboration qui semblait alors impos- sible, bien que promise par
le Chef de la Colonie, il fallait, pour l’obtenir, arriver à concilier les deux
civilisations orientale et occidentale.
KHOẢN THỨ BA : Hiệp tác
Đây đã đến thời kỳ thứ ba : là thời kỳ hiệp tác.
Tiếng hiệp tác nầy là của ông A. Sarraut, Tổng Thống Toàn Quyền Đông Dương
đã thuyết ra trong một bài diễn văn của người và nó đã truyền hình đến tận cùng
nơi
thôn quê sằn dã.
Quốc dân Nam ngần ngại không chịu tin, dân chinh phục Lang sa duy trì thực
hành chủ nghĩa, nhưng mà hột giống ấy gieo xuống đã rồi, nó bèn khởi mọc một cách chậm lụt, chậm lụt tưởng lẽ theo sở hám của
người Việt Nam mà đôi bên dân sanh đều
nghe đặng tiếng kêu gọi ấy và nội tâm của họ đều vội vàng hưởng ứng.
Một viên chức nơi Thượng Nghị Viện, ngày nay đã qui
liễu là ông Lê Văn Trung, người mà năm 1933, ông A. Sarraut, Tổng Trưởng Bộ
Thuộc Địa buổi ấy, giữa Hạ Nghị Viện Pháp triều, đã gọi rằng bạn thân thiết của
Ngài, muốn cho tiếng kêu gọi ấy đừng chịu lẽ đồng thinh bất tương ứng.
Hèn lâu,
người đã hoài tâm tìm tỏi đặng làm cho hiện tướng cái mơ mộng của quan
Tổng Thống Toàn Quyền của người đã gieo trồng trong tâm lý, và một ngày nọ,
người học theo phương cách của bên Pháp, gọi là Khảo cứu Thần Linh Học, người
đặng một cái bí truyền cho người một phương giải xong toán pháp ấy.
Cái cơ quan hiệp tác đó tưởng thế nào cũng bất
thành, dẫu rằng vị chúa tể của thuộc địa đã hứa, nhưng muốn cho đoạt đặng thì
phải làm thế nào cho hai nền văn hóa Âu Á tương hợp cùng nhau, et pour les
concilier, il fallait unir deux religions qui s’affrontaient.
En théorie, cela semblait simple, car toutes deux se réclamaient d’une
morale supérieure qui devait fournir un terrain d’entente admirablement
préparé.
La morale de Confucius était si douce et si ac- cueillante, et celle du
Christ était si généreuse
et si belle.
Rien, dans leurs principes, n’était en contradic- tion; mais hélas ! des
deux côtés, la morale était passée au second plan, et l’intérêt au premier;
aussi le problème s’avérait-il insoluble jusqu’au jour où l’on pourrait arriver
à dire aux Bouddhistes : “Suivez la morale du Christ.” et aux Chrétiens :
“Venez colla- borer dans le bien à l’ombre des doctrines douces et tolérantes
de Confucius.”
Le Beau et le Bien n’ont pas d’étiquette, donc pas de patrie, pas de
religion qui puissent les revendiquer comme leur propriété; la morale divine
est de la même espèce : elle est comme le soleil : Elle appartient à tous.
Donc, le jour où, tout en conservant leurs croyances et leurs pratiques
ancestrales, si vénérées, une Religion nouvelle permettrait aux Annamites de
pratiquer la morale du Christ dont l’appel à la fraternité leur était lancé
au-dessus les mers par la France métropolitaine; le jour où, d’autre part, le
conquérant s’imprégnerait de cette tolérance Boud- dhiste vis-à-vis de ses
semblables et ne prendrait plus mà muốn cho nó tương hợp thì phải dung hòa hai nền tôn giáo đã xung đột.
Lấy theo lý thuyết, điều ấy tưởng là nghiễm nhiên, vì chưng đôi đàng đều
trông cậy cho có một tinh thần đạo đức cao thượng đặng khai mở một hòa địa sẵn sàng dành để.
Cái triết lý của Khổng Tử thì dịu
dàng và dung túng, còn triết lý của Christ thì khoan hồng và tận mỹ.
Trong cái chơn vi của hai nền tôn giáo ấy chẳng có chi phản khắc, mà hỡi ôi ! đôi đàng
cũng vậy, tinh thần đạo đức thì ở
sau, còn lợi lộc lại đứng trước, bởi cớ mà toán pháp ấy khó giải quá chừng, mãi
đến ngày nào mà người ta có thể nói với môn đệ đạo Phật rằng : Phải tùng theo tinh thần đạo
đức của Christ; còn nói với tín đồ
Thiên Chúa rằng : Phải đến mà hiệp tác trong đường tận thiện dưới bóng của tôn
chỉ dịu dàng và quảng đại của Khổng gia.
Tận thiện và Tận mỹ không có nhãn hiệu, vậy thì không có quê hương, không có tôn
giáo nào đặng tranh đoạt nó làm của riêng đặng, cái triết lý của Chí Tôn cũng vậy, nó cũng như ánh mặt trời,
nó là của chung toàn
thiên hạ.
Vậy ngày nào mà cả quốc dân Nam được giữ vẹn sự tín
ngưỡng và sự hành đạo của tổ tiên họ để lại, đáng kính trọng và tôn sùng một
nền Đạo mới mẻ nào cho họ có phép hành đạo theo tinh thần của Christ mà lời qui
hiệp đại đồng của nước Pháp đã kêu gọi nơi cõi xa muôn trùng biển cách, ngày
nào một đàng, dân chinh phục thấu đáo đặng cái quảng đại bao la của Phật giáo
đối với đồng loại cùng mình và chẳng còn lấy
le mot “Autorité ” comme synonyme de “ Bien” et de “Vérité”, - ce jour là,
la solution serait trouvée.
Il fallait donc arriver à une synthèse des deux religions en une doctrine
rénovée ayant la tolérance du Bouddhisme; et la foi ardente du Christianisme;
mais pour cela, il fallait les exorciser de cet esprit de lucre et de
convoitise qui les avait envahies, et les réunir sur le plan de la morale pure
dans ce que l’une et l’autre ont de beau, de noble et de désintéressé.
(Cao Dài = Cao : haute, Dài : église).
Sous l’influence de l’ Homme-Dieu, le vieux Huế méprisant de jadis,
s’intéresserait aux masses popu- laires; et sous l’égide de Confucius,
l’autorité française tempérerait son absolutisme de tolérance bienveillante.
C’était le lien à établir entre l ’Orient et l ’Occi- dent, l’Annam des
Empéreurs s’ouvrant délibérement aux idées républicaines et l’impérialisme
français appliquant les lois sociales et humanitaires au peuple conquis.
C’était à la Religion la plus tolérante à accueillir la morale de l’autre;
c’est donc celle de Confucius qui a ouvert sa porte toute grande au Christ et
l’a installé sur ses autels.
Ce jour là, la Religion Caodạque était née.
* * *
Chữ “Quyền hành” như trùng nghĩa với
“Tận thiện” và “Chơn lý” thì ngày ấy vấn đề khó khăn sẽ giải
quyết đặng.
Vậy, chúng ta phải làm thế nào cho có sự dung hòa giữa hai nền tôn giáo hầu
biến thành một tôn chỉ chấn hưng, có sẵn sự quảng đại bao la của Phật giáo và có
sẵn sự tín ngưỡng sốt sắng của Thiên Chúa giáo, mà muốn cho cái xa vọng và tham
tàn đã tràn lan đầy dẫy trong trí
não họ tiêu tận thì phải khuyến giáo họ cần hiệp hòa trong một cảnh giới đạo
đức tinh thần thanh bai trong sạch, nơi mà đôi đàng đều tìm đặng sự Tận mỹ, Cao
thượng và Vô tâm.
(Cao Đài = đền thờ cao, đức tin lớn.)
Dưới quyền năng của Chúa Cứu Thế, kinh đô Huế cũ kỹ đã chê bỏ lúc nọ, sẽ
cần mẫn đến đám bần dân, và nơi bước của Khổng Tử, quyền hành của nước Pháp sẽ
quảng đại nhân từ mà trừ bỏ cái tài độc chiếm.
Ấy là mối dây liên lạc giữa Á và Âu, nước Việt Nam
của đế chủ sẽ mở rộng chủ nghĩa dân quyền, và đế nghiệp của Pháp triều sẽ thi
hành dân luật và nhơn hậu cho quốc dân bị chinh phục.
Ấy vậy, nền tôn giáo nào quảng đại hơn phải nghinh
tiếp cái giáo lý của đàng kia, vậy thì phần bên Đức Khổng Phu Tử phải mở rộng
cửa nhà mình đặng rước Chúa Christ và đem để lên đồng bàn cùng Người.
Ngày ấy là ngày Đạo Cao Đài đã sản xuất.
* * *
Aujourd’ui un grand chemin est parcouru.
Longtemps persécutés nous avons résisté avec une patience obstinée, les
yeux lixés sur la Métropole, certains que le Bien ne pouvait pas avoir le
dessous.
Nous avons communié par la pensée avec nos frères de France; nous avons
montré à nos adeptes leurs conceptions généreuses et altruistes, et nous avons
eu le bonheur récemment de sentir petit à petit la réalisation et l’application
de leurs doctrines.
Nous pouvons dire que le peuple annamite est intégralement conquis aux
idées françaises; et ceux même, qui ont l’air de se dresser contre le Gouver-
nement, vous accueillent encore avec votre signe de reconnaissance, comme s’ils
venaient à vous en chantant votre hymne national, et en déployant les plis du
drapeau français.
Les Caodạstes ne prennent pas part à ces démonstrations; ce sont des gens
calmes qui s’abs- tiennent de manifestations politiques.
Mais ils sont là pour vous renseigner et pour vous dire : ceux qui semblent
ainsi protester ne sont pas vos ennemis irréductibles et un jour vous arriverez
à les convaincre.
Actuellement vous parlez déjà le même langage, mais vous avez encore à vous
mettre d’accord sur le sens des mots; car ce langage n’est peut-être pas
prononcé d’une façon impeccable des deux côtés.
Ngày nay con đường khá dài đã trải qua.
Hèn lâu bị bắt buộc, nhưng chúng tôi ráng chống chỏi với một sự nhẫn nại bền
bỉ, mắt ngó lom lom Mẫu quốc và hiểu chắc rằng : cái Tận thiện chẳng lẽ phải
chịu hạ mạt hoài.
Chúng tôi thường thông công, về mặt tư tưởng, cùng
các bạn chúng tôi bên Pháp triều; chúng tôi chỉ cho cả tín đồ của chúng tôi
hiểu biết trí định nhơn hậu và phi phàm của họ, và chúng tôi lấy làm hân hạnh
vừa rồi hiểu đặng mãi mãi chút ít kết liễu và sự thật hành tôn chỉ của họ.
Chúng tôi đặng nói rằng : Cả quốc dân Việt Nam đều
bị trọn vẹn tư tưởng Lang sa thâu phục; còn những kẻ, dường như chống chỏi
nghịch với chánh phủ thì cũng vẫn còn hoan nghinh với dấu hiệu tương thân của
các Ngài, chẳng khác nào như họ đến cùng các Ngài mà khải ca quốc thiều các
Ngài và trương cây cờ nước Pháp làm niêu hiệu.
Những tín đồ Cao Đài chẳng chịu chung hợp vào các
phương ấy vì họ là hạng người bình tịnh nên từ nan những cuộc biểu tình quốc
sự.
Mà họ đã có đấy đặng chỉ vẽ cho các Ngài và nói cho
các Ngài hiểu rằng : những người dường như phản đối chẳng phải kẻ nghịch hẳn
của các Ngài và một ngày kia các Ngài sẽ có thể thâu tâm họ đặng.
Hiện nay, các Ngài đã đồng ngôn ngữ với họ, các
Ngài duy làm cho phù hợp nghĩa lý của lời nói, vì chưng cái ngôn ngữ đôi đàng
chưa có thuyết minh ra thật trúng điệu.
D’un côté, il est encore un peu trop mélangé de
tournures annamites, - d’idiotisme comme vous les appelez, - qui entachent le
génie de la langue de se manifester.
De l’autre, il est peut-être encore un peu trop
mêlé de l’argot qui lui a été légué par les troupes de la conquête.
Mais déjà, nous sommes arrivés à un point où l’on
ne peut plus ne pas se comprendre que si on ne le veut pas.
Petit à petit sous votre influence, le langage pur
et châtié de la Métropole s’imposera à tous; les fonctionnaires français et
indigènes le parleront, et leurs administrés y
répondront avec la même pureté.
Si, à ce moment, il y a quelques dissidents, ce
seront leurs compatriotes eux-mêmes qui sauront en faire justice.
Il est d’ailleurs une chose que tout Annamite
instruit n’ignore pas, et que nous savons le lui rappeler au besoin; c’est
qu’il s’est formé, petit à petit dans la jeunesse annamite une classe d’élite,
qui, par ses études françaises, et même ses diplômes obtenus dans la Métropole,
à tout à perdre dans une modification du pays colonisateur, et pour laquelle le
changement de langue officielle serait une catastrophe.
Cette classe ne va pas se sacrifier à une poignée
d’extrêmistes qui ont appris une langue étrangère.
Một đàng thì còn pha lẫn ý tứ Annam mà các Ngài gọi
là ngông ngôn; nó báo cho khẩu tài không thế biểu diễn ra đặng.
Còn một đàng thì có lẽ còn chất chứa một phần tục
ngữ của đám chinh quân lưu lại.
Mà rồi chúng ta đã đáo đến một mực mà nếu còn nói
rằng : không hiểu nhau nữa là tại chúng ta không muốn hiểu.
Dưới tài cảm hóa của các Ngài, ngôn ngữ đặc
sắc và oai quyền của Mẫu quốc sẽ làm cho
cả thảy đều tùng theo một ngày một ít; hàng quan lại lang sa và bổn quốc sẽ
cùng nói và toàn dân cũng sẽ trả lời một cách rõ rệt hẳn hòi.
Thoảng đến chừng ấy, mà còn một ai phản loạn thì
chính những người đồng hương của họ sẽ rõ thông mà xử đoán.
Có một điều mà những bậc hữu học của quốc dân Nam
không thể không hiểu và khi gặp dịp thì chúng tôi sẽ nhắc nhở đến là trong hạng
thanh niên VN đã phát sinh ra lần lần một hạng dân trí học theo văn hóa Lang sa
và đặng những cấp bằng tốt nghiệp đã thâu thủ bên chánh quốc, sẽ chịu trọn bề
thất bác khi quốc gia chinh phục đổi dời và nếu thay đổi quốc văn thì là điều
đại hại cho họ.
Hạng dân trí nầy, chẳng lẽ để mình chịu thiệt thòi
cho một phần ít hạng cấp tiến đã học ngôn ngữ tha bang vui hưởng.
Quant à ceux qui rêvent d’indépendance, ils
trouvent dans la guerre sino-japonaise une rude leçon, et ceux qui raisonnent,
apprécient à sa haute valeur la paix que
nous assure la France.
Ils savaient que, s’il fallait que l’Indochine
pourvoie seule à sa sécurité, elle ne pourrait jamais se défendre contre un
ennemi de l’extérieur au prix où sont les armements. Ils se rendent compte que
si la France n’était pas là avec son
admirable armement, et son autorité mondiale pour les préserver de ce fléau, le
peuple ne travaillerait plus que pour les fabriques de guerre, sans pouvoir
aspire à aucun bien être.
Nos Caodạstes savent tout celà, nous le leur
enseignons et ils comprennent que, dans ces conditions, le poids qu’ils
supportent, doit leur paraỵtre léger.
Telle est notre morale, tel est notre but à
atteindre, tel est notre idéal.
NOS DÉSIDERATA:
Notre voeu le plus cher est que la France d’
Outre-mer soit à l’image de la France Métropolitaine; elle se transforme d’ailleurs
chaque jour sous l’action bienfaisante de celle-ci, et tout notre effort tend à
ce que cette évolution soit remarquée et comprise de nos compatriotes.
Un autre voeu plus personnel, mais qui seconde-
rait l’influence française est que, dans notre tâche,
Còn những kẻ mơ mộng độc lập thì đã tìm đặng một
bài học rất khắt khe trong trận Hoa-Nhựt chiến tranh và những người biết suy
nghĩ thì coi như sự hòa bình của nước Pháp bảo đảm là trọng giá.
Họ sẽ hiểu rằng : với giá mắc của đồ binh khí đương
thời, nếu xứ Đông dương tự mình gìn giữ đặc an thì chẳng hề khi nào đối thủ lại
kẻ nghịch ngoại bang xâm lấn. Họ sẽ tự nhận rằng nếu không có nước Pháp với
quân bị phú cường và oai quyền toàn cầu đặng gánh vác cho họ thì quốc dân sẽ
làm mọi cho các xưởng binh khí chớ không mong mỏi hưởng đặng một điều hạnh phúc
nào tất cả.
Tín đồ Đạo Cao Đài chúng tôi đồng biết điều ấy,
chúng tôi sẽ dạy và cho họ hiểu rằng :
trong các điều kiện nầy, cái gánh của họ đã mang thật ra nhẹ nhàng lắm đấy.
Ấy là trí ý của chúng tôi, ấy là mục đích của chúng
tôi đáo đến, ấy là cái thượng đạt của chúng tôi.
Những
điều ước vọng của chúng tôi :
Cái nguyện vọng yếu thiết của chúng tôi là Pháp
triều hải ngoại biến thành như hình chánh quốc. Nó sẽ thay tướng mỗi ngày dưới
tài hành động hay ho của Mẫu quốc và cả lực lượng của chúng tôi chú trọng về sự
tăng tiến nầy làm thế nào cho các đồng hương chúng tôi thấy đặng và hiểu đặng.
Một nguyện vọng riêng nữa mà nguyện vọng nầy liên
hiệp với tài cảm hóa Lang sa là, trong phận sự của nous ne soyions pas mis en était d’infériorité
vis-à-vis des autres religions; car nos fidèles peuvent être induits en erreur
sur la sincérité de nos sentiments charitables dans l’impossibilité où nous
sommes de les manifester.
En effet, enseignant une morale toute de charité,
il nous est interdit de pratiquer cette charité.
Il y a quelques années, ignorants des lois fran-
çaises applicables à l’Indochine, nous avions conçu et réalisé un hospice pour
les vieillards, une crèche pour les enfants, un artisanat pour les aldultes et
les sans travail, et par mille moyens, nous avions tenté de soulager nos frères
qui avaient besoin de notre concours.
Nous avons alors été poursuivis devant les
tribunaux, et nous avons appris à nos dépens que la Charité était un Monopole
d’État, ou, tout au moins un privilège qui n’était donné qu’à certains.
Cette application de la loi heurte le vieux
Confucianisme si tolérant; et c’est notre principal obstacle pour propager les
idées et leur conception simpliste du Bien, qui ignorent Machiavel, et n’ont
aucune conception de la Raison d’Etat.
A leurs yeux, il y a quelque chose qui heurte leurs
sentiments de justice, lorsqu’ils voient que les Catholiques peuvent se
répandre en oeuvres de chúng tôi khỏi bị khuất nhược đối với các nền tôn giáo
khác, vì cả người tùng giáo có thể bị quấy tưởng rằng lòng phước thiện của
chúng tôi không chơn thật bởi không thể biểu diễn nó ra đặng.
Đã trải qua mấy năm rồi, vì không hiểu luật pháp
Lang sa thi hành nơi cõi Đông dương, chúng tôi nong nả lập một Dưỡng lão đường,
một Ấu trĩ đường, một cơ quan công nghệ cho hạng trai tráng và thất nghiệp và
tìm muôn chước mong nâng đỡ các bạn chúng tôi, vì họ cần cho chúng tôi vùa
giúp.
Chúng tôi đã bị buộc tội ra trước tòa án, và vì
riêng chịu hại mà đặng hiểu rằng : Phước Thiện là điều độc chiếm của quốc
gia hay là riêng để cho một phần người
thôi.
Sự thi hành luật pháp nầy phản khác với tôn chỉ cũ
kỹ, quảng đại của Nho giáo và cũng là cái trở lực làm cho chúng tôi không thể
tuyên truyền tư tưởng Pháp triều cho những hạng người chơn chất đến chúng tôi
với tấm lòng chơn thật và trí ý đơn giản trong điều Tận thiện. Họ không quen
với Machiavel (1) và họ cũng không hiểu cái ý định của lẽ quốc chánh là gì
?
Trước mắt họ, có hiển nhiên nhiều điều nghịch hẳn
với tâm lý công bình của họ, khi đã thấy những kẻ tùng giáo Gia Tô đặng bày bố
các
(1) Mưu thần của Ý Đại Lợi, nghĩa là xảo trá và
gian ngược.
Charité pour lesquelles ils reçoivent même des
subventions, et que le Caodạsme qui ne poursuit qu’un but de fraternité, et
n’agit qu’avec ses modestes ressources, n’a pas même le droit de s’adonner à
des oeuvres d’entr’aide mutuelle, si nécessaire aux pauvres gens, - parce qu’il
lui manque la personnalité.
Nos ressources mêmes sont paralysées dès leur
naissance, car le Caodạsme ne peut rien posséder en propre, n’étant pas
reconnu, et n’ayant pu fonder encore une association cultuelle pour gérer ce
qu’il possède.
Songez à la vertu et à l’honnêteté qu’il faut à un
individu souvent de condition modeste pour résister à la tentation de déclarer
“ Tout ceci est à moi “ - et devenir aussitôt propriétaire de ce qui est à son nom, - alors qu’il sait
que nous ne pourrions même pas intenter contre lui une action en justice.
Nous souhaitons ardemment voir cette infério- rité
disparaỵtre et être autorisés à fonder une association cultuelle au nom de
laquelle seront mis les biens qui nous permettent d’aider les malheureux.
Nous aurons alors plus d’autorité pour parler de la
générosité de la France, montrer que les morales Chrétienne et Confucéenne ne
sont pas en opposition, et que les doctrines françaises, bien appliquées,
concourent au développement et au bonneur du peuple annamite, évolution que
celui-ci n’aurait jamais pu obtenir de l’apathie de ses Souverains.
cơ quan Phước Thiện mà lại đặng nhờ chánh phủ trợ
giúp, còn Đạo Cao Đài đeo đuổi theo mục đích đại đồng và sự hành tàng với
nguyên liệu hẹp hòi của họ mà cũng không đặng quyền lập cơ thể tương trợ lấy
nhau, rất cần yếu cho những kẻ nghèo hèn, là vì Đạo thiếu quyền chủ sản
(Personnalité civile).
Những huê lợi của chúng tôi đã bị phá tán ngay khi
nó mới nảy sanh ra, vì Đạo Cao Đài chẳng đặng làm chủ sản nghiệp chi của nó,
chưa đặng nhìn nhận về chánh thể và cũng không tạo đặng một hội giáo hầu làm
chủ sản nghiệp.
Kể một người phẩm giá thường tình mà chống chỏi với
dục tâm, có thể khai quyết rằng : “Cả của cải nầy là của tôi” và đặng làm chủ
vĩnh viễn gia nghiệp của họ đứng tên, khi họ đã hiểu chúng tôi không có phương
nào buộc tội họ trước tòa án thì
mới để tin sao đặng ?
Chúng tôi cầu xin thiết yếu cho điều khuất nhược ấy
tiêu hủy và xin đặng phép lập một hội
giáo rồi lấy đó đứng làm chủ sản nghiệp đặng dùng để cứu giúp kẻ nghèo hèn.
Chừng đó, chúng tôi sẽ có đủ quyền nói đến lòng
nhơn hậu của Pháp triều và bày tỏ ra rằng tinh thần Thiên Chúa giáo và Nho giáo
không có phản khắc cùng nhau và tôn chỉ
Lang sa, nếu thật hành cho chánh đáng
thì giúp hay cho sự mở mang và điều hạnh phúc cho quốc dân Nam Việt. Sự tăng
tiến nầy, quốc dân Nam chẳng hề trông nơi vương quyền bạc nhược của họ mà có
đặng.
Donnez nous les moyens de poursuivre notre idéal qui est le vôtre, et ne
nous laissez pas en état d’infériorité même dans les pays de Protectorat, où
notre influence religieuse combat la corruption qui y s’évit encore.
Çà n’est pas le Souverain qui ne veut pas de notre doctrine, ce sont les
fonctionnaires prévarica- teurs qu’elle condamne, qui s’insurgent contre elle
et tendent à entraver son heureuse influence.
C’est le vieil Annam des mandarins d’autrefois, c’est le vieux pays Khmer
avec ses habitudes cente- naires qui sentent toute la valeur morale de nos
enseignements, et dont les fonctionnaires s’irritent à la pensée des petits
profits qu’elle leur fera perdre, çà n’est aucunement le Souverain lui-même qui
a toujours voulu sincèrement que son peuple soit heureux.
Autour de nous sont groupés en effet les travailleurs de la terre, les
modestes commerçants, les braves gens sans intrigues, ceux qui veulent le bien
pour le bien et qui n’aspirent qu‘au fruit de leur labeur; ceux qui poursuivent
leur vie “ sans espoir de duchés ni de dotations “ pour reprendre le mot
d’Edmond Rostand; mais, qui, ne cherchant point les faveurs, voudraient au
moins conserver ce que leur travail leur a
acquis.
Ce sont les mêmes que ceux qui ont refusé de renier la foi et le culte de
leurs ancêtres, malgré les avantages que cela pouvait leur procurer; ce sont
également ceux qui vénèrent le bien, d’où qu’il vienne,
Xin cho chúng tôi có phương pháp đặng đeo đuổi theo thượng đạt của chúng tôi
tức là cái thượng đạt của các Ngài đó vậy, và đừng để cho chúng tôi chịu khuất
nhược, dầu trong xứ bảo hộ cũng vậy, là nơi mà Đạo của chúng tôi đã cảm hóa đặng chiến đấu với sự tham tàn đương
nhiên thành hại.
Ấy chẳng phải nhà vua không muốn tôn chỉ của chúng tôi, mà tại các tham
quan ô lại bị nó chỉ trích, nên xung đột chiến đấu đặng làm cho ngăn trở cái
tài cảm hóa của nó.
Ấy là Việt Nam tối cổ của quan lại buổi xưa, ấy là xứ Cao Miên cũ
kỹ với tục lệ lâu đời đã hiểu cả
giá trị tinh thần giáo lý của chúng tôi, mà do các quan lại phát nộ, e cho thất
phát tiểu lợi của họ. Thật chẳng hề khi nào phải chính nhà vua, vì nhà vua cũng
thường
muốn cho cả quốc dân mình đặng
hưởng hạnh phúc.
Chung quanh chúng tôi, xúm xít những hạng lao động về đất điền, hạng thương
nhơn nho nhỏ, hạng người chơn thật chẳng biết mưu chước là gì, hạng người duy biết lành
gọi là lành và chỉ trông mong nơi kết quả của sự làm lụng của họ; hạng đã đeo đuổi theo sự sanh hoạt “không trông công danh mà cũng không trông
lợi lộc” tả theo lời của Edmond Rostand; tuy họ không có tìm kiếm cái đặc ân
nào, duy ít nữa muốn gìn giữ đặng cả của cải do bởi công trình làm lụng của họ.
Ấy vốn là những người đã
không chịu từ bỏ đức tin và thờ phượng tổ phụ của họ, dầu rằng nhiều sở lợi họ có thể
thâu thủ, ấy cũng là những hạng người mà họ trọng kỉnh sự phải bất cứ nơi nào
mà đến,
et auraient
considéré comme une mauvaise action de rejeter loin d’eux une morale élevée et
pure qui avait sa place à côté de la leur.
Pour la réalisation de ces réformes, nous faisons,
comme pour le reste, la plus absolue confiance à la Nation française, son
histoire à la tête de la civilisation justifie ce sentiment, et nous
attendrons avec patience la fin de
l’épreuve de probation à laquelle elle nous a soumis et dont les résultats
heureux ne lui sont peut-être pas toujours intégra- lement signalés.
Elle se
rendra alors compte que c’est elle qui retire le premier bénéfice de l’essor
qu’elle nous donne, et, à ce moment, elle regrettera d’elle-même le retard
qu’elle a mis à nous tendre ouvertement la main.
Fait au Saint-Siège
Caodạque de TâyNinh.
(Le 12 Novembre 1937)
Signé : PHẠM CÔNG TẮC
Supérieur du Caodaïsme ou Bouddhisme rénové. Và kể
cho rằng: xa lánh một giáo lý cao thâm và tinh khiết có thể gần gũi cùng Đạo
nhà của họ là một điều thất đức.
Muốn làm cho ra hiện tượng những phương cải cách
ấy, chúng tôi định, cũng như mọi việc khác, là duy để tín nhiệm trọn vẹn nơi
Pháp triều vì lịch sử của Pháp đã đứng đầu văn hóa, quyết định lẽ nầy, và chúng
tôi trông đợi với tấm tình nhẫn nại cho qua đỗi khảo đảo thử thất chúng tôi, và
những điều liễu kết hay ho đã thành tựu, e cho không thường trọn khai cho Pháp
triều hiểu thấu.
Chừng ấy nước Pháp sẽ nhìn nhận chắc rằng : do nơi
tay của nước Pháp thâu hồi đặc ân trước nhứt theo đường tấn hóa ban cho chúng
tôi và trong cơn ấy nước Pháp sẽ ân hận lấy mình là trễ rộng đưa tay mà dìu đỡ
chúng tôi đó.
Lập tại Tòa Thánh Cao Đài
Tây Ninh.
(Ngày 12 tháng 11 năm
1937)
Ký tên : PHẠM CÔNG TẮC
Giáo chủ Đạo Cao Đài hay
Phật giáo Chấn hưng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét