HIỆP THIÊN ĐÀI
V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính Gởi: Hiền Huynh HIẾN
PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Tham chiếu : Quý Thánh Thơ
số 15/ DS ngày 12-6-1970
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo
tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn
để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14
tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
Phụ bản.
LỜI TỰA
Những bài
Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH
chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy.
Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành
cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các
nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc giả đến xem.
Đức HỘ-PHÁP là một trong
các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ
thuyết Tam-Lập: “Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn”.
Về lập đức: thì Đức Ngài
là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho
toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC-CHÍ-TÔN (NGỌC- HOÀNG - THƯỢNG-
ĐẾ ).
Về lập công: thì Đức Ngài
vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt
gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là
một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!
Về lập ngôn: thì Đức Ngài
lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng
thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn
Đạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý
độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính
chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần
thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử : những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch
đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua
các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện
chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau
thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập
những tài liệu này.
Chúng tôi nghĩ rằng : “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung
tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến
cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn
trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng
thay Trời dạy Đạo.
Nếu một may thay thời cuộc
lại biến thiên, có thể các cuộc phần
thư lại tái diễn, thì thiết tưởng trong
số tài liệu này vẫn còn có nhiều người
nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn
Đây không phải là việc làm
của một cá nhân hay một đoàn thể, nhưng
là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình
để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển
tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công
việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.
Việc làm của chúng tôi
không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo
trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU
ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành. Chúng tôi
xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi
chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng
tiếng ngọc của Đức HỘ PHÁP.
Từ đây bản quyền sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để
cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu
ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta
trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ
LỜI CHÚ CỦA NGƯỜI
SOẠN
Kính thưa: Chư Huynh, Tỷ,
Muội cùng các bạn đồng môn.
ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
lúc còn sanh tiền Ngài đã để lại nhiều lời vàng tiếng ngọc dạy dỗ chúng sanh
qua các buổi thuyết Đạo.
Nay kẻ hậu sinh được may
duyên học Đạo với Đấng Thiên Tôn qua các bài Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI
(từ năm 1946 đến năm 1955 do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh
ấn hành), trong những bài giảng nầy, Đức Ngài đã giáo hóa rất nhiều chủ đề về
Đấng Thượng Đế, Tôn Giáo, Nhân Loại ... theo dòng thời gian của từng thời kỳ
lịch sử.
Với lòng tôn kính Đức Tôn
Sư, con xin được sắp xếp các bài giảng theo từng chủ đề để con và các bạn đồng
môn dễ dàng sưu khảo trên đường tu học.
Thành kính cầu nguyện Đức
Tôn Sư luôn luôn dẫn dắt chúng con trên đường phụng sự.
Kỉnh bút
1. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh đêm 18
tháng Tám Kỷ Sửu (1949)
(Vía Vía Đức Lý Đại Tiên)
Công Nghiệp của Đức Lý Giáo Tông
Đêm nay ngày Vía Đức Lý
Đại Tiên, tức nhiên Đấng cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm nơi cõi Thiên Cung. Bần
Đạo giảng giải nhơn dịp ngày lễ của Ngài, Bần Đạo cũng nên nhắc công nghiệp của
Ngài, đã cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm, còn phải chịu vì Đạo, buộc mình kiêm
luôn chức Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là anh cả toàn Thánh Thể của Đức
Chí Tôn.
Bần Đạo nhớ lại lúc ban sơ
nền Đạo mới phôi thai nền chính trị Đạo không có chi hết. Bần Đạo đã bị uy
quyền ép chế thành thử buổi ấy chưa biết giá trị của mình lãnh sứ mạng nơi Đức
Chí Tôn là gì hết, mà dám chịu lãnh quyền tước, khi chịu mang cái quyền tước
trong mình thì thời buổi không có làm gì được hết.
Vì buổi ấy Đạo còn yếu ớt,
non nớt bạc nhược, chẳng có đem lại mảy may năng lực gì cả, biết bao phen Đức
Lý Đại Tiên giáo hóa khuyên lơn. Ngài chỉ có để lời ngọt dịu dạy bảo khuyên
răn. Thánh Giáo dẫy đầy mà họ không biết tìm hiểu gì hết, chính mình họ, họ
cũng không biết giá trị của họ là gì, Ngài đến cầm quyền định Đạo. Ngài cầm
quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm. Vì thương Đức Chí Tôn nồng nàn đáo để mà vâng lịnh
của Ngài cầm quyền Giáo Tông Đại Đạo mà hễ động đến vị Chức Sắc Thiên Phong,
nam nữ nào thì Đức Chí Tôn than phiền, trách trừng răn biểu mình đừng làm chinh
lòng với nhau. Thánh Giáo Đức Chí Tôn không coi mà cứ toàn mưu phá Đạo, hiện
giờ có vài vị Chức Sắc Bần Đạo không nói tên, nghe lời Đức Lý răn phạt thì Đức
Chí Tôn buồn, đến đổi Ngài hờn mà làm bài thi như vầy:
" Con khổ mà cha sướng đặng nào,
Ai từng cắt ruột lại không đau.
Chia quyền lại sợ quyền chia lại,
Muốn liệng cho xa mảnh đế bào."
Vì giận Đức Lý rầy phạt
một mình con thảm Ngài sướng đặng sao. Thật sự Bần Đạo biết thời buổi ấy Đức
Chí Tôn và Anh Cả chúng ta bất hòa với nhau. Bần Đạo buổi nọ không biết gì hết,
chưa biết phận sự mình là gì không biết làm sao ra cho thật hiện được, không
biết quyền hành gì hết, duy có biết lý thuyết chớ không biết thi thố gì được
cả.
Buổi nọ Đức Chí Tôn sợ Bần
Đạo nghe lời theo Đức Lý mỗi phen chấp bút thì Ngài đều can gián. Chi chi con
cũng nghe lời Thầy, đừng có nghe Thái Bạch nghe con. Khi đó rất đáo để cho Bần
Đạo nếu không nghe lời Ngài, để vậy mãi, thì tiêu diệt không thể tránh khỏi,
nhứt là nội loạn, còn ngoài thì Đảng Phái phá rối nền chơn pháp của Đức Chí
Tôn, Ngài đến chỉ cho Bần Đạo thấy cái cảnh nguy biến của nền Đạo như thế đó.
Cảnh tượng của mỗi người như thế đó. Ngài biểu Bần Đạo phải nghe lời Ngài thì
mới cứu vãn tình thế, bằng không thì tiêu diệt nền chánh trị Đạo buổi đó, có mạnh
mẽ duy nhứt nào cả, bên nầy là lời giáo huấn của Đức Chí Tôn, bên kia là lời
dạy của Anh Cả, hai bên không biết đường nào mà đi, làm cho Bần Đạo ngơ ngẩn
trong 6 tháng trường, cứ thơ thẩn đi tới đi lui nơi rừng thiên nhiên mà suy
nghĩ, làm cho Bần Đạo bối rối cả đầu óc.
Đức Lý đến chỉ công chuyện
như vầy rồi thăng, kế Đức Chí Tôn đến biểu đừng nghe lời, làm Bần Đạo lưng
chừng, túng thế, Ngài nắm Bần Đạo ngồi trên bàn từ 9 giờ tối đến 4 giờ khuya,
Ngài không cho đi đâu hết, buộc phải nghe lời Ngài viết nói đủ lẽ nguy tướng
của Đạo, nếu không quyết định thì đi khỏi nền Đạo Cao Đài trước tốt hơn. Bần
Đạo thấy chỉ đủ lý lẽ quả nhiên buộc phải nghe lời, nghe lời rồi Ngài mừng quá
nhiều, mà Bần Đạo không hiểu không biết tại sao Ngài mừng, vì nghe lời thọ pháp
quyền năng thiêng liêng đó vậy.
Trong đó có 3 Đài, có ba
người chủ nắm vững.
1. - Bát Quái Đài, dưới
quyền Đức Chí Tôn, Ngài Chúa cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Vạn Linh,
chính Ông chủ Bát Quái Đài là Đức Chí Tôn.
2 . Cửu Trùng Đài là quyền Giáo Tông làm chủ Hội
Thánh.
3 . Hiệp Thiên Đài là quyền Hộ Pháp làm chủ.
Ba Ông chủ ấy, có hai Ông
nầy, Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, nếu riêng ra không có thể gì dâng sớ cho
Bát Quái Đài, tức nhiên quyền Chí Tôn ở nơi Bát Quái Đài, hai Đài Cửu Trùng và
Hiệp Thiên hiệp nhứt là quyền Chí Tôn tại thế nầy, không có một quyền nào cai
quản cãi qua quyền Bát Quái Đài được.
Có lần Bần Đạo nghe lời
Đức Lý thì Đại Từ Phụ thất vọng thấy tội nghiệp Ngài quá đổi, Đức Đại Từ Phụ
tính không thể gì bảo trọng mấy đứa kia được, biết Đức Lý nhứt định đuổi những
kẻ tà tâm ra khỏi nền Tôn Giáo, Đại Từ Phụ biết không thể gì không biến sanh
chi phái, nếu nẩy sanh chi phái rồi thì không phương cứu vãn và trị loạn được,
thì nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn không có giá trị gì hết, Bần Đạo vừa nghe
lời Đức Lý, Đức Chí Tôn không đến chừng ba tháng. Khi Đức Chí Tôn giáng cho làm
lễ đăng điện tái quyền Giáo Tông lại chính mình Ngài đòi Đức Lý đến, Đức Lý xin
từ chức Giáo Tông. Ôi thôi! Buổi ấy rất biến đổi, đến chừng Ngài triệu hồi Đức
Lý trở lại, rồi Đức Chí Tôn không thể gì phản kháng với Ngài nữa Ngài thường
nhắc cả toàn Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng làm lễ đăng điện cho long trọng
khi Ngài tái nhậm phận sự rồi Ngài lên ngôi vị của Ngài, Ngài cầm cơ viết: Tôi
tưởng không có vị Vua Chúa nào viết được bài diễn văn như Ngài; trong Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển có 4 câu thi của Ngài rất ngộ nghĩnh.
"Cửu tử kim triêu đắc phục hườn,
Hạnh phùng Thiên mạng đạo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử,
Tử giả hà tồn chủ "tịch hương".
"Cửu tử kim triêu đắc phục hườn" là cảnh trần ta
chết đã lâu rồi, mà hôm nay ta được phục sanh lại trong Thánh Thể của Đức Chí
Tôn.
"Hạnh phùng Thiên mạng đạo khai nguơn" là còn hạnh phúc
đặng Thiên mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần Đạo đã thuyết cuối Hạ
nguơn tam chuyển khởi Thượng nguơn tứ chuyển Ngài đến khai nguơn là có duyên
cớ.
Bần Đạo dám chắc rằng:
Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được, Ngài đến đặng mở Thượng ngươn
tứ chuyễn.
"Thế trung kỵ tử hà tri tử" thế gian sợ chết
mà không biết cái chết là gì, chính Ngài hỏi rồi nói.
"Tử giả hà tồn chủ tịch hương" là tịch của nữ
phái, nữ phái là nguồn sống của nhơn loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ
của nữ phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế gian nầy chi?
Bây giờ nói đến quyền hạn
của Ngài, chính tay Ngài cầm bút viết :
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng vưng thửa Thiên Triều,
Càn Khôn thế giái dắt dìu Tinh Quân.
"Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch" là buổi
Thái Cực vừa nổ hiện ra ánh sáng Thái Cực, chính là Ngài, duy Đức Chí Tôn cầm
pháp, xin cả thảy nhớ nghe khi Đức Chí Tôn cầm pháp hiện ra hai lằn Hạo nhiên
khí đụng lại với nhau nổ, tức nhiên trái khối lửa đó tạo Càn Khôn Vũ Trụ ánh
sáng Thái Cực đó là Ngài.
"Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu" là các cung
đẩu trên mặt địa cầu nầy đều hưởng ánh sáng ấy, mà chính ánh sáng vi chủ và
điều khiển là Ngài.
"Quyền năng vưng thửa Thiên Triều" là quyền
năng vưng lịnh của Thiên điều.
"Càn Khôn thế giái dắt dìu Tinh Quân" là các cung
đẩu trong Càn Khôn thế giái nầy có Ngài vi chủ hết thảy.
Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Đường triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
Trường Canh trích tử đến thăm trần,
Động đình thi rượu
đong muôn đấu,
Bồng Đảo Câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân.
"Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần" là Ngài đoạt ngôi
vị cùng quyền hành của Ngài có sắc phong thiệt hiện hồi đời Phong Thần.
"Cho đến Đường triều mới biến thân" là đến đời Đường
Ngài mới biến thân.
"Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế" là vì nguyên linh
ấy cầm quyền trị thế.
"Trường Canh Trích Tử đến thăm trần"
"Động Đình thi rượu đong muôn đấu"
là nơi Động Đình hỏi đến
Ngài thì thiên hạ đều biết danh Ngài hết.
"Bồng Đảo Câu Tiên nắm một cần" là nơi Bồng Đảo
Ngài cầm Thiên Thai cho Khổng Giáo.
"Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế" là buổi Đại Đạo
Tam Kỳ khai mở đây Ngài thọ lịnh Ngọc Hư
đến trị Đạo.
"Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân" là (92) chín mươi
hai ức nguyên nhân, thì Tam Kỳ này Ngài độ rỗi.
Bần Đạo quên nói cái tiên
tri của Ngài rất ngộ nghĩnh, thời buổi ấy Ngài đến dạy biểu Bần Đạo nghe lời,
nếu hiền hữu không nghe lời, ngày kia cái tai họa ấy tiêu diệt hay đoạt Đạo thì
hiền hữu gánh trách nhiệm ấy nặng nề trước cả. Bần Đạo buổi nọ không hiểu gì
cả. Bần Đạo nói toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn cả triệu con người cớ sao một mình
Bần Đạo gánh vác. Nói tiên tri ấy là thời giờ Ngài giao quyền Giáo Tông nầy cho
Bần Đạo chưởng quản luôn Cửu Trùng Đài, nếu không nghe lời thì Bần Đạo gánh
hết. Nếu không nghe lời Ngài buổi nọ thì gánh nầy giao lại cho ai? Như giờ phút
nầy có nên bỏ, chớ không thể sống với Đạo.
Bần Đạo xin nói thế gian
nầy cầm quyền trị cơ quan chính trị đạo nào hay định luật trước dưới Bát Đạo
Nghị Định lập nên chính trị của nước như Ngài, Bần Đạo chưa ngó thấy Đức Lý ra
Bát Đạo Nghị Định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn sùng đáng
kính, đáng sợ quá đổi Đấng cứu Đạo như thế, Bần Đạo cũng khen kính Người ấy cho
đến ngày tận thế.
Nếu nền Đạo Cao Đài còn
mãi mãi thì công nghiệp Đức Lý Giáo Tông vẫn còn tồn tại trong tâm trí nhơn
sanh luôn luôn.
2. - Đức Hộ
Pháp Thuyết Đạo - Đền Thánh đêm 17/8 năm Nhâm Thìn (1952)
Vía Đức Lý Giáo Tông.
Đức Lý Giáo Tông
Anh Cả Thiêng Liêng của Chúng Ta
Đêm nay là Vía Đức Lý Giáo
Tông, tức là Anh Cả thiêng liêng của chúng ta đó vậy.
Đã hai năm dài đăng đẳng, nhưng Bần Đạo ngó lại
chẳng khác nào như giấc chiêm bao. Khi ban sơ mới khai Đạo, Đức Chí Tôn đến mở
Đạo, đem lòng thương yêu vô tận của Ngài, Ngài đến chung sống cùng con cái của
Ngài. Theo luân lý thường tình của ta, một ông Cha cực nhọc đi đến tìm con, bao
giờ lòng thương yêu vô tận ấy cũng trên hết mọi tâm tình. Chính mình không có
kể đứa con nào nên, đứa nào hư, đứa nào hèn, đứa nào sang, không kể gì cái đó
hết thảy. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn mở Đạo, Ngài ôm cả con cái của Ngài vào
lòng, theo thể Bần Đạo ngó thấy hiển nhiên rằng: Đức Chí Tôn không kể Nguyên
Nhân, Hóa Nhân, Quỉ Nhân gì hết. Bằng cớ khi nọ có một người đàn bà, Bần Đạo
không nên nói tên ra làm chi, đội sớ quì mãi đến bãi đàn, tôi không biết xin
điều gì, quì đến bãi đàn, đội sớ quì như vậy từ đàn này đến đàn khác, theo đuổi
giỏi giắn siêng năn lắm. Ngày nọ đến cái đàn chót Đức Chí Tôn kêu tên người đó,
rồi hỏi muốn lung lắm sao con? Người kia thầm vái cái gì không biết, Đức Chí
Tôn lại nói: Thôi phong con chức Giáo Hữu đó. Thành thử ta ngó thấy rằng: Giá
trị của chức Giáo Hữu không có gì hết, bất kỳ ai cũng cầu được, đem vô cái thể
của Ổng với những phần tử vô giá trị, làm cho Đức Lý buổi nọ cầm quyền Thiêng
Liêng của Đạo, Ngài khổ não không biết sao luận được. Buổi nọ Bần Đạo không
hiểu gì hết. Đức Chí Tôn đến ban sơ khi mở Đạo, Đại Từ Phụ đòi truyền Bí Pháp
cho Bần Đạo đi thôi, còn về Thể Pháp thì Hội Thánh không biết gì hết. Nội Bí
Pháp không, Đại Từ Phụ đã truyền giáo, Ngài mở Đạo tại Từ Lâm Tự, đến ngày khai
đàn Bần Đạo cười chết, cười sống, cười lộn mật, cười quên đầu quên đuôi hết
ráo. Bởi cớ cho nên quỉ lộng cho đến chừng bị rầy cam chịu, bơ bơ có biết gì
đây, về Thể Pháp Bần Đạo bị chê, Đức Lý phiền biết bao nhiêu, Bần Đạo không dám
mở miệng nói gì hết, lại một nỗi Phật Mẫu và Đại Từ Phụ đem quyền Chí Tôn, Bát
Quái Đài duy có một Ông mà thôi, còn quyền Chí Tôn Thánh Thể của hữu hình, Ông
hỏi lấy ai hiệp một mới đương đầu với Ổng, tức nhiên Hộ Pháp, Giáo Tông hiệp
một cùng nhau, hai quyền ấy mới nắm quyền Chí Tôn của Ngài. Ngẩm ra buổi nọ Đức
Lý nói với Bần Đạo, theo Ngài phải hay theo Đức Chí Tôn phải. Theo Đại Từ Phụ
chắc hẳn, Bần Đạo nói thật chẳng hề Bần Đạo nghe theo Đức Lý được. Thánh Thể
của Đức Chí Tôn hồi buổi đó không giá trị, không trật tự, họ chia phe phân
phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế lực dữ lắm không có cái
gì thiếu, làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu, không thể
tưởng tượng được.
Đức Giáo Lý Tông hội Chư
Thánh, nhưng đương đầu với Đức Chí Tôn chẳng dám vì lẽ đó họ chia phe phân phái
lập đảng. Ngài thấy tình cảnh như vậy Ngài mới biểu Bần Đạo xuống tại Thủ Đức,
trong 7 tháng Bần Đạo chung sống cùng Ngài đặng cho Ngài truyền Thể Pháp. Giờ
phút này Bần Đạo đứng tại Tòa giảng đây tưởng tượng nhớ đến tâm tình ấy thắm
thiết biết bao nhiêu, nồng nàn mà nói, không có một điều gì sơ sót, chỉ đủ mọi
hành tàng, rành rẽ chi tiết hết. Bần Đạo vừa biết rồi, Đức Lý liền từ chức
không làm Giáo Tông của Đạo trọn 3 năm vậy.
Khi Bần Đạo ở Thủ Đức về,
Đức Lý dắt một đàng Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội Thánh lại, một đàng Đức
Chí Tôn nói đừng nghe Lý Thái Bạch đa nghe Phạm Công Tắc! Một đàng kéo một đàng
trì, làm cho Bần Đạo không biết đường đi chút nào, thất thơ thất thưởng, mất
linh hồn, muốn nửa tỉnh nửa say, Ngài đến 11 giờ Ngài viết cho đến 4 giờ sáng,
chỉ rành rẽ thế nào, nhứt là Ngài biểu Bần Đạo hiệp cùng Ngài cho có quyền Chí
Tôn hữu hình tại thế này, Hiền Hữu muốn cho Đạo Cao Đài còn tồn tại, hay nghe
lời Đức Chí Tôn để cho nền Đạo phải mất? Bần Đạo cứ nghĩ ngợi, đó rồi Đức Chí
Tôn đến, thật sự Ông Già hơi buồn thật, Ngài nói Tắc, con sửa soạn đặng làm Lễ
Đăng Điện cho Đức Lý Giáo Tông đa nghe. Rồi đó Ổng ở, Ổng nghe Đức Lý Giáo Tông
cầm quyền.
Đức Lý Ngài biểu Thiên
Phong Chức Sắc cả Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài lập Cửu Trùng Thiên để Ngài
đăng điện, khi Ngài đăng điện rồi, Ngài cầm cây viết Ngài viết Bài Diễn Văn
đăng điện cho tới tận thế sẽ không có vị Giáo Tông nào làm một Bài Diễn Văn hay
như vậy. Bài Diễn Văn của Ngài vạch rõ tinh thần, con đường hay ho làm sao,
nhứt là trong Bài Diễn Văn đó cho cả Hội Thánh hay rằng: Kể từ khi Ngài cầm
quyền Giáo Tông đây, các người ấy đừng ỷ công khi lịnh, Ngài chẳng hề tha thứ
bao giờ, Ngài nói một đàng về hữu hình, chính mình Bần Đạo chưa thấy Ngài làm
gì được về vô hình Ngài trừng thanh bí mật quyền linh không thể tưởng tượng.
Khéo là cái làm Ngài không
lợi dụng, chính mình Ngài dùng quyền hành Thiêng Liêng trừng thanh độc lập mà
thôi. Duy có Ngài làm, Bần Đạo không biết, chỉ có cười một điều cả con cái Đức
Chí Tôn không biết lựa người đặng bợ đít, đêm nay đi cúng thưa thớt, nhè Đấng
oai quyền sang cả kể từ mực thước nhỏ nhen nhứt. Trên đường lập thân hành Đạo,
có Đấng bảo vệ mình mà không biết bợ đỡ rồi làm sao nên. Bần Đạo xin nhắn lại
với họ điều ấy.
* * *
3. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 17-8 Quí Tỵ - Vía Đức Lý Giáo Tông
Vía Đức Lý Giáo Tông
Đêm nay là ngày vía của
Nhứt Trấn Oai Nghiêm, kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Lý Giáo Tông chúng ta
lấy làm hân hạnh nhờ ơn Đức Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng
Liêng hiển linh quyền năng vô đối. Bần Đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới Khai
Đạo, thật ra Bần Đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước Đại Từ
Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần Đạo năm Sửu dạy cả mấy Anh Lớn ngày nay là Chức
Sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con
cái của Ngài, Bần Đạo không đức tin gì hết nghe nói Tiên giáng đi theo nghe Thi
chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho Bài Thi ai nấy cũng tốt, duy
có Bài Thi của Bần Đạo rất dị hợm như vầy:
THI
Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
Đại Từ Phụ còn thêm hai
chữ "Nghe con" cho đến bảy tháng lúc xuống ở Thủ Đức, năm thiên hạ bị
bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở tại Thủ Đức, lắm bịnh
nhơn quá chừng. Đức Chí Tôn biểu xuống ở Thủ Đức cứu bịnh cho họ trong bảy
tháng xuống ở Thánh Thất của Đạo, nhờ Đức Lý giảng dạy với ngòi bút, trọn bảy tháng
trường mới biết Đạo. Có cái hay ho hơn hết là những điều gì Ngài dạy trong Cơ
Bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần Đạo.
Bần Đạo làm chứng một Đấng
mà Đức Chí Tôn đã lựa làm Anh Cả của chúng ta linh hiển lạ lùng, không cần lập
đi lập lại, đối với Chức Sắc tức nhiên cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn Bần Đạo cốt
yếu nói cho toàn con cái của Ngài nam, nữ lưỡng phái phải định tâm và kiên cố
đức tin của mình, các việc Đức Chí Tôn tiên tri, Bần Đạo vừa nói từ từ, nói đủ
hết, Bần Đạo thú thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Đạo
hôm nay được khối đức tin mạnh mẽ to tác. Nếu không có nhờ Anh Cả vô biên linh
hiển ấy chắc là phận sự yếu trọng của Bần Đạo hôm nay chỉ mơ hồ, đức tin yếu
ớt, thiếu đức tin, thiếu cương quyết, thiếu tâm Đạo vững chắc. Bần Đạo tưởng
nếu ba điều ấy thiếu thì nền chơn giáo không được nên hình như thế nầy, cả thảy
con cái Đức Chí Tôn đều biết không có nền chơn giáo nào chỉ có hai mươi mấy năm
mà đặng bành trướng, danh thể của nó cao trọng truyền bá một cách mau chóng,
như nền Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn. Hôm nay Bần Đạo chứng chắc quả nhiên như
vậy, cái năng lực của Đạo hôm nay được như thế này là nhờ Đức Lý Đại Tiên cầm
quyền Thiêng Liêng vô đối, nhờ người Anh Cả của ta là Đức Lý Giáo Tông điều
khiển quyền năng vô hình của Ngài. Bần Đạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng
lực bành trướng như thế nầy. Có một điều Bần Đạo dặn trước. Những kẻ tưởng Ngài
vô hình coi chừng Ngài, những kẻ thiếu đức tin dám khi rẻ quyền lịnh của Đạo,
oai quyền của Ngài coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm nhầm Thiên Điều
Bần Đạo dám quả quyết khó tránh nơi tay của Ngài. Các con cái Đức Chí Tôn coi
Ngài rất công bình. Ngài dạy: Phải lập Công, lập Đức, lập Ngôn tức nhiên là
"Tam Lập" Ngài rất công bình, rất oai quyền, thiên vị chúng ta nhờ
Ngài bảo vệ không thế gì sơ sót. Đức Chí Tôn coi Ngài cũng như một Tướng Soái,
oai quyền của Ngài lớn lắm. ở nơi Ngọc Hư Cung quyền của Ngài yếu trọng vĩ đại
to tác lắm. Cả con cái của Ngài cũng nên tin nơi Ngài, mong mỏi nơi Ngài để cả
ước vọng và đức tin nơi Ngài. Bần Đạo xin khuyên một điều, lớn, nhỏ phải yên
tâm giữ Đạo, đừng sơ sót, nhứt là đừng có ỷ công khi lịnh coi chừng Ngài, Ngài
trừng trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Đạo đã thấy, hai mươi mấy năm lập
Đạo cùng Ngài, Bần Đạo quả quyết như vậy. Chúng ta hãy để trọn đức tin nơi Ngài
một Đấng công chánh oai quyền, nhưng rất yêu ái. Chúng ta được Ngài bảo vệ cho
thật là một sự an ủi vĩ đại trong kiếp sanh của chúng ta đó vậy.
* * *
4. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 18 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949) - Vía Đức Quan
Âm Bồ Tát .
Đức Quan Âm Thể Hiện cho Từ Hoà & Nhẫn Nại
Hôm nay là
ngày Vía Đức Quan Âm Bồ Tát, Bần Đạo đã thường nói nơi cửa thiêng
liêng hằng sống, Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng ở trong gia tộc sang trọng oai
quyền hơn hết. Cái nguyên căn của Đức Quan Âm Bồ Tát do nơi pháp thân của Từ
Hàng sản xuất. Quan Âm đến thời đó chỉ rõ cho chúng ta biết nguyên căn của
mình, Quan Âm là cái thời gian của luật tạo Càn Khôn thế giới, ấy là một chơn
linh rất cao trọng đó vậy, cũng như Đức Lý Thái Bạch là một chơn linh của ánh
sáng. Hào quang Thái Cực khi đã hiện ra tức nhiên bóng đèn chúng ta ngó thấy
khối lửa có ánh sáng kia tức nhiên là Đức Lý Giáo Tông.
Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm
quyền nhứt thống oai nghiêm chẳng cần luận thuyết, cả thảy cùng đều biết cái
quyền oai của Ngài vĩ đại như thế này, nhứt là phái nữ nên để ý bài giảng nầy
cho lắm. Vả chăng, thời gian chúng ta, sẽ nói thời gian mà thôi, chúng ta phải
kiên nhẫn và từ hòa, nếu chúng ta hấp tấp hay lật đật, thì chẳng hề khi nào chúng
ta để thời gian đến trước mặt chúng ta đặng.
Chơn linh của Người tức
nhiên thể tánh của Người, chứng tỏ rằng: một Đấng đã có 52 kiếp ở trong trái
địa cầu 68 nầy, và có đảm nhận trọng trách lớn lao hơn hết, là buổi trái địa
cầu nầy nó chưa có thoát xác của nó, là nó đầu kiếp lụng lại cho tới đệ tứ
chuyển ngày nay. Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền điều khiển trong Càn Khôn Vũ
Trụ nầy từ thử đến giờ đã 52 kiếp.
Ngài đã đầu thai thế gian
nầy mấy kiếp, vì có tánh đức từ hòa và tinh thần đạo pháp mà thôi, tỷ như Bạch
Vân Hòa Thượng, Bạch Vân là ai? Bạch Vân là Ngài, ngày nay Ngài ở trong cửa
Đạo, trong một cơ quan trọng yếu của Tam Kỳ Phổ Độ nầy.
Bạch Vân Hòa Thượng kiếp
trước là Đức Quan Âm Bồ Tát đầu kiếp ở bên nước Tàu trước, rồi mới đầu kiếp ở
bên xứ Việt Nam, ta kêu là Thanh Sơn Đạo Sĩ tức nhiên là Trạng Trình đó vậy,
Thanh Sơn Đao sĩ dầu kiếp bên Pháp là Ralagode Bourgall, 52 kiếp có một kiếp
trọng hệ có thâm tình với nòi giống Việt Nam ta hơn hết, chúng ta có hạnh phúc
lắm, mới được Ngài đầu kiếp ở trong nước hai lần, lần thứ nhứt đầu kiếp làm
người đàn bà tức nhiên Thị Kính, chúng ta đã biết Quan Âm là ai rồi. Bởi vậy
cho nên buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy Đức Chí Tôn đã chọn lựa một Đấng cao trọng cho
đến mặt địa cầu 68 nầy, có lẽ chúng ta đều biết danh Ngài hết, nhứt là Ngài lựa
chọn một Đấng có thâm tình với nòi giống chúng ta hơn hết, cái tánh đức từ hòa
yêu ái của Ngài, chúng ta đừng kiếm Đức Quan Âm đâu xa hơn là Thị Kính. Kiếm
cái đức Thị Kính thế nào, thì tánh đức trạng thái của Quan Âm như thế ấy, tánh
đức của Ngài là từ hòa nhẫn nhục, hiền lương, ân tha mọi điều oan khúc, chịu
nổi thắng nổi thời gian là Đức Quan Âm. Đức Quan Âm chơn linh của Ngài là thời
gian cho nên tánh đức của Ngài không bao giờ thối tâm ngã lòng hay bật rật, gấp
rút, lật đật. Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên Bà đầu kiếp người ta vu
oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ hòa nhẫn nại của Bà vẫn chịu nổi đủ phương
diện khổ não và oan khúc, chịu nổi thế tình ấy là một vị Trạng Sư đắc lực và
oai quyền nơi cảnh thiêng liêng hằng sống bảo vệ cả nữ phái vậy. Chúng ta lấy
làm hạnh phúc lắm Bần Đạo lấy làm mơ vọng và Bần Đạo nói quả quyết rằng: rất
hạnh phúc cho chơn linh kẻ nào được gia tộc của Ngài, gia tộc vinh hiển tối cao
tối trọng trên cửa thiêng liêng hằng sống, dầu bên cửa Thiên Oai hay là bên Cực
Lạc thế giới cũng thế.
Bần Đạo nói quả quyết
rằng: Ngài là một Đấng Phật Mẫu yêu ái hơn hết, tôn trọng hơn hết.
* * *
5. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
thời Tý đêm 24 tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 30-07-1948 )
Lịch Sử Quan Thánh Ðế Quân
Hôm nay là
ngày vía Ðức Cái Thiên Cổ Phật Quan Thánh Ðế Quân tức Hớn Thọ Ðình Hầu Quan Vân
Trường
nhà Hớn đời Tam Quốc.
Một vị Hiển Thánh đời Hớn,
thời Tam Quốc, ngày nay đạt phẩm vị đến Tam Trấn Oai Nghiêm trong nền Chánh
Giáo của Ðức Chí Tôn, sự vinh hiển cao trọng đó ta thấy giá trị vô đối. Với một
Ðấng Thiêng Liêng mà lập được vị mình một cách oai quyền vinh hiển ta thường
thấy rất ít, thảng có chăng trong nước Việt Nam ta Ngài Trần Hưng Ðạo gọi có
thể đương đầu với Ngài được mảy may chút ít mà thôi, chớ phần đông từ thử đến
giờ kể cả các nước Á Ðông nầy hiếm có. Vậy, ta nên khảo cứu coi Ngài làm thế
nào để đạt được Thiên vị vinh diệu đặc biệt dường ấy.
Hớn Thọ Ðình Hầu Quan Vân
Trường buổi nọ là một vị tướng của Thục tức của Lưu Bị. Ta thấy đại nghĩa của
Ngài trung can nghĩa khí của Ngài nhứt là về bằng hữu chi giao, tình nghĩa đối
với bạn hữu của Ngài, dám chắc dầu chúng ta dân tộc Việt Nam hằng chịu ảnh
hưởng văn hóa của Nho Tông, chưa có được người nào đã giống như Ngài vậy. Tâm
trung nghĩa chẳng vì sang mà theo Tào, chỉ chuộng Hớn; nghĩa chẳng vì bạn buổi
khổ não truân chuyên mà phụ rãy tình nhau; trung và nghĩa ấy hi hữu. Nói đến
chí khí của Ngài, Bần Ðạo tưởng luận không hết: Ngài bất sát hạ mã chi nhơn.
Truyện sách lưu lại rằng Ngài suýt bị Hạ Hầu Ðôn giết vì nó biết cái sở yếu của
Ngài mà lợi dụng, nếu không Trương Liêu đến cứu. Mỗi phen Ngài trở cây Yểm
Nguyệt Thanh Long Ðao định vớt nhà nớ, thì nhà nớ nhảy xuống ngựa, chí khí đó
thế gian hi hữu. Hỏi Ngài lập chí với bộ sách Xuân Thu mà thôi. Người sau có
tặng cho Ngài đôi liễn: "Chí tại Xuân Thu, công tại Hớn; Trung đồng nhựt
nguyệt nghĩa đồng thiên". Trọn đời Ngài không lúc nào rời bộ sách ấy, lúc
nào cũng đọc lấy tinh thần của sách suy luận làm tinh thần của mình.
Kể từ Ðào Viên kết tình
bằng hữu cùng nhau, từ thuở bần hàn cho đến khi vinh huê phú quý sang trọng
Ngài vẫn một mực không hề thay đổi tâm đức bao giờ. Tinh thần của người ấy là
tinh thần đứng riêng biệt một mình một cảnh giới mà thôi. Thế gian khó tìm thấy
một kiểu vở thứ hai nữa đặng. Tinh thần của Ngài có oai quyền đặc sắc, ta thử
tìm coi Ngài làm sao mà đặng như vậy?
Nguơn linh
của Ngài là Xích Long Tinh. Buổi nọ dân Bắc Hớn phạm Thiên điều bị Ngọc Hư Cung
phạt hạn không cho mưa, đặng cho dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu nguyện nơi Ngài cứu nạn.
Ngài cũng thừa biết dân ấy bị Thiên điều hành pháp, nhưng vì lòng ái tuất
thương sanh không nỡ để dân chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc Hư Cung bắt tội
sai Ngũ Lôi tru diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông
úp lại. Vị Ðạo Nhơn có căn dặn Bổn Ðạo trong chùa đừng ai dở chuông cho đến
ngày nào Ngài hết hạn. Chư Ðạo trong chùa tọc mạch dở ra xem coi vật gì, thành
thử Ngài phải chịu đầu kiếp, kiếp ấy là Hạng Võ.
Hạng Võ thì ai cũng biết.
Nếu ta quan sát trong "Trọng Tương vấn Hớn" thì rõ tiền căn Hạng Võ,
hậu kiếp Quan Công. Bởi Hớn Bái Công khi lập quốc rồi nghe lời Lã Hậu diệt công
thần giết Hàn Tín. Án ấy nằm dưới Phong Ðô mấy đời mà không ai xử đặng. Buổi ấy
có thầy Trọng Tương là học trò khó nhà nghèo nhưng rất hiếu hạnh. Cha chết
Trọng Tương cất nhà mồ thờ cha mà ở. Thường hay buồn than thân trách phận biết
mình hữu tài vô mạng nên viết một bài thi có ý than rằng: "Thiên địa hữu
tư, thần minh bất công" dụng ý trách điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong Ðô
xử chưa có nổi. Vì vậy nên mắc tội phạm thượng, bị bắt hồn dẫn đến Phong Ðô,
đem cho Thập Ðiện Diêm Quân vấn tội. Trọng Tương bình tỉnh trả lời rằng: "Nếu cho tôi ngồi làm Thập Ðiện Diêm
Vương tôi xử án ấy cho mà coi". Thập Ðiện Diêm Vương bằng lòng. Ngài xử:
"Tiền căn báo hậu kiếp, như Bành
Việt cho đầu kiếp làm Lưu Bị, Anh Bố làm Ngô Tôn Quyền, Hàn Tín làm Tào Tháo,
Hạng Sư làm Nhan Lương, Hạng Bá làm Văn Xủ, Hạng Võ làm Quan Công".
Ta thấy hồi sáu tướng của
Hạng Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn rượt Hạng Võ đến bến Ô Giang phải cắt
đầu, trao cho Ðình Trưởng, chú là Hạng Bá trở lại phản cháu đã đầu lụy Hớn Bái
Công còn trở lại phạt Sở. Tiền căn hậu kiếp vay trả, quả báo y nhiên. Có một
điều lạ là với Lữ Mông, oan nghiệt có khác. Tiền kiếp của Lữ Mông là ông thợ
rèn, Quan Vân Trường đến mướn rèn Thanh Long Ðao với một kiểu mẫu bí mật mà
Ngài không muốn có người thứ nhì biết đặng. Khi rèn xong, Ngài cầm ra sân đi
thử đường đao, chợt nghĩ đến điều ấy liền day lại vớt ông thợ rèn đứt đoạn. Ông
thợ rèn ấy sau đầu kiếp làm Lữ Mông. Cho nên buổi Ngài xuất thần qui vị là trả
cái ngày giết ông thợ rèn, là Lữ Mông đầu kiếp trả báo giết Ngài.
Khi Chơn linh của Ngài
xuất ngoại, Châu Xương và Quan Bình cũng tự tử chết theo, ba người ấy bay giữa
không trung, đi ngang ngôi chùa kêu ông thầy chùa là Phổ Tịnh đòi ông nọ trả
cái đầu, ông bèn lấy cái quạt gõ trên cửa tụng ba phiến vãng sanh, Ngài hạ
giáng xuống tiếp đòi đầu nữa. Ông nọ cười nói rằng: "Nhan Lương, Văn Xủ kia mới đòi đầu với ai? Ấy là tiền căn báo hậu
kiếp thôi chớ". Ðức Quan Thánh Ðế Quân tỉnh ngộ, xin ông Phổ Tịnh cho
Ngài ở đó đặng tu, Chơn linh của Ngài nhờ ở nơi chùa đó mà hiển Thánh. Khi hiển
Thánh rồi Ngài trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến bây giờ không
tái kiếp lần nào nữa, duy dụng cái quyền hành thiêng liêng mà hành Ðạo thôi. Với
quyền thiêng liêng ấy mà Ngài lập được Phật vị là Cái Thiên Cổ Phật, nhờ vạn
linh tôn trọng Ngài lên. Bần Ðạo dám quả quyết Ngài không phải là Thiên Phong
mà chính là người của vạn linh bầu cử. Cho nên Ðức Chí Tôn mở Ðạo là cơ quan
hiệp nhứt vạn linh, để Ðấng ấy là một Trấn Oai Nghiêm đặng làm quan Trạng Sư
cho vạn linh đạt kiếp.
Bần Ðạo tưởng nếu có sự
công chánh ở Tòa Hư Linh kia ta nên gọi điều ấy là điều công chánh đệ nhứt mà
Chí Tôn quyết định vậy. Nên Hớn Thọ Ðình Hầu lập thiêng liêng vị với Chơn linh
của mình đặng. Ðó là chỉ rõ cho cả con cái của Thầy biết rằng không phải chết
là hết, chết ấy là sống, mà cái sống nơi Thầy mới oai quyền chơn thật hơn cái
sống hiện tại thế nầy.
* * *
6. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 14 tháng 11 năm Ðinh Hợi (1947).
Sự Tích Ðức Chúa Jésus Giáng Sanh
Ngày hôm nay
chúng ta tính từ ngày đã đúng 1947 năm của Chúa Cứu Thế, tức Ðức Chúa Jésus
Christ ở làng Nazareth xứ Palestine vâng mạng lịnh Ðức Chúa Trời, tức là Ðức
Chí Tôn, đến độ rỗi các sắc dân Âu Châu. Chúng ta quan sát và chính Bần Ðạo
quan sát thấy chơn truyền của Ðạo Thánh Gia Tô vẫn đồng căn đồng bổn với Ðạo Phật,
ấy là Phật Giáo Hạ Thừa, không có chi khác, dầu Bí Pháp chơn truyền hay Thể Pháp đều
cũng y như vậy.
Thảng từ thử đến giờ, có
thuyết chia rẽ tinh thần, là tại nơi người phàm, đem thuyết ấy để trong sự tín
ngưỡng của sắc dân Âu Châu nên mới có sự chia rẽ nòi giống. Vì nạn ấy mà chúng
ta ngày nay thấy trên mặt toàn cầu nòi giống chịu nạn tương tàn, tương sát
nhau.
Bần Ðạo xin thuyết cái nguyên
căn của Ðức Chúa Jésus Christ là gì?
Thỉnh thoảng rồi Bần Ðạo
sẽ đem nguyên căn của Thánh Giáo Gia Tô thuyết minh ra cho cả thảy nam nữ đều
rõ biết.
Ðức Chúa Jésus Christ là ai? Nếu chúng ta thấy
chơn
truyền của dân tộc Nébreux tức dân Do Thái bây giờ để lại, theo luật pháp của
Thánh Moise đã tiên tri nói về
Ðấng Cứu Thế giáng sanh, nếu chúng ta tìm tòi, lật từ tờ trong Kinh Thánh Gia
Tô chẳng hề thấy tên Christ và chẳng có tên Christ mà nơi cõi thiêng liêng Bần Ðạo dám chắc Ðức Chúa Jésus
Christ là Chơn linh Christna là Tam Thế Tôn đó vậy.
Ðức Phật Christna không
phải xa lạ với chúng ta, bởi vậy cho nên Ngài đã đến mà tại đến với chức trách
nhỏ nhen hèn hạ, bởi loài người quá tự kiêu, tự đắc, dùng phương pháp nhỏ nhen,
hạ mình hèn hạ ấy hầu đem tâm hồn chí Thánh của Ngài thức tỉnh các sắc dân Âu
Châu. Ngài đến nơi một nhà bần hèn. Bần Ðạo xin nói rằng: Ngài đến nhà của bà
Maria cốt yếu là một bà tu trong Ðền Thánh Jérusalem, ông Joseph cũng người tu
trong Ðền Thánh. Luật của Ðền Thánh buộc hễ con gái đến tuổi cập kê cho ra xuất
giá. Năm ấy cô Maria tức là một cô Ðạo nữ, chúng ta nói là một Ni Cô ở Ðền
Jérusalem, đến tuổi lấy chồng. Phép Ðền Thánh buộc mấy Thầy tu trong Ðền Thờ
phải có người đứng ra cưới, bởi vì chiếu theo lời Chí Tôn căn dặn nhủ lời Ngài
nói với Adam và Eve buổi nọ: "Unissez
vous et multipliez". (Bây phải chung sống cùng nhau đặng biến sanh ra
nhiều nữa.)
Lễ tuyển chọn chồng cho bà
Maria, theo luật Ðền Thánh buộc mỗi vị nam lựa bông để trong Ðền Thánh 3 ngày,
nếu bông ấy còn tươi tắn thì được cưới.
Hại thay! Có nhiều kẻ trẻ
trung, còn ông Joseph buổi nọ đã quá 50 tuổi cũng phải chịu theo luật cưới ấy.
Nếu chúng ta nói đến hoa khôi lịch sắc thì bà Maria cũng có thể kể vào hạng đó.
Mới tới tuổi cập kê mà sắc đẹp ấy làm biết bao nhiêu kẻ nam nhi ước vọng. Ông
Joseph cũng như mọi người đem bông đến Ðền Thờ chịu trách nhiệm tuyển chọn ấy.
Người tìm bông nầy, bông kia. Còn ông, ông tính mình đã già rồi, vợ con mà làm
chi, nhưng luật Hội Thánh buộc không làm ắt có hình phạt hoặc quì hương chẳng
hạn (Cười...). Bước ra khỏi Ðền Thánh, ông thấy bông huệ khô héo của ai bỏ, ông
lượm lấy đem cậm vào bình, không ngờ thứ huệ rất nên kỳ lạ, những bông nụ nở
rồi nó rụng đi, còn bông búp bắt hơi nước sống lại, nở tươi đẹp, còn các thứ
hoa khác tàn rụi hết ông phải chịu phép cưới cô Maria.
Hại thay! Nhà tu nếu làm
lễ cưới rồi phải ra khỏi Ðền Thánh, mà đôi vợ chồng ông đều tu không gia đình,
không nhà cửa, không phương sanh sống, thật rất nên thê thảm.
May thay! Lúc còn ở Ðền
Thánh, ông Joseph làm thợ mộc. Ông giỏi nghề mộc lắm. Ông mới bàn tính, bây giờ
vợ chồng nghèo dắt nhau ra ngoài làm ăn, chồng làm thợ mộc, vợ may vá mà bà
Maria về nữ công rất hay, khéo nghề đan (tricoter) nhờ vậy tìm sự sanh sống
cũng tạm được đầy đủ.
Thảng mãn ngày qua tháng
lại, hạ sanh con đầu lòng là Jésus. Hai vợ chồng nuôi con với phương tiện nghèo
khổ, nhứt là ngày hôm nay là ngày sanh của Ðức Jésus Christ còn để lại dấu tích
cho chúng ta thật đáng để ý hơn hết. Ðêm lễ Noel trong Ðền Thánh làm lễ long
trọng như chúng ta làm lễ hôm nay vậy, hai vợ chồng đi lại từ làng Nazareth vô
Ðền Thánh làm lễ. Khi đó bà đã có thai gần ngày sanh, nghĩ mình đã có căn tu,
đến ngày Ðại Lễ không thể ở nhà được, bụng mang dạ chửa, cũng rán đi đến chầu
lễ thường lệ.
Ở Châu Thành nhà cửa bị
thiên hạ mướn chật hết, kiếm không ra chỗ ngụ, không lẽ ở ngoài trời, mới vô
năn nỉ chúng cho ở trong chuồng chiên tạm trú. Trời đang tiết Ðông thiên, như
ngày nay chúng ta nghe cũng hơi lạnh, lạnh lẽo lạ lùng nhứt là đối với hai
người tâm Ðạo nầy vô ngủ trong chuồng chiên rất khổ sở. Ðúng 12 giờ khuya đêm
ấy bà chuyển bụng sanh ra Ðức Chúa Jésus Christ.
Trong sách nói, ngày Chúa
Giáng Sanh, có vì sao gọi là sao chổi mọc không gì khác lạ, đó là Comete de
Halley, mỗi 75 năm mọc trở lại một lần. Các vị Vương tiên tri rằng: "Ngày nào sao chổi ấy mọc là ngày Chúa
giáng sanh nên nhớ để dạ tìm người". Có nhiều huyền diệu ta không thể
tưởng tượng được như đám chăn chiên đóng trại ngoài trời, bổng nghe giữa thinh
không có nhiều Thiên Thần kêu nói có Chúa Cứu Thế giáng sanh, nên Vua của dân
Maures và các người chăn chiên ấy vô đảnh lễ Chúa đầu tiên hơn hết.
Tai hại thay! Thời buổi đó
nước của dân Juifs bị Ðế quốc Romains chiếm làm thuộc địa, ở Palestine thì để
một vị Chánh Soái là Hérode Antivas hằng để tâm mưu sát Ðấng Chúa Cứu Thế, vì
có tiên tri nói đến làm Vua nước Do Thái, nên ngay từ buổi đến trấn nhậm
Palestine chính Hérode đã giết ông Thánh Saint Jean Baptiste.
Buổi ấy các nhà tiên tri
cho biết Ðức Chúa Cứu Thế sanh ngày đó mà không biết Ðấng Chúa Cứu Thế là ai? Muốn
giết, mà không biết ở đâu? Nên bắt tất cả con nít sanh trong đêm ấy ra giết
hết, đinh ninh rằng: Trong đám đó có lẽ có Ðấng Chúa Cứu Thế. Ai dè may thay!
Ông Joseph đêm mệt mỏi nằm mộng thấy Thiên Thần mách bảo, liền bồng đứa trẻ
trốn qua Egypte. Hai vợ chồng đào tẩu kịp chớ không thì Chúa cũng đã bị giết
rồi.
Qua Egypte một thời gian,
đứa con lên được lên 5, 6 tuổi, nghe tin bên nước mình đặng yên và có lịnh
thiêng liêng truyền dạy hai vợ chồng trở lại Palestine, chồng làm thợ mộc theo
nghề cũ, vợ may vá nuôi con, lại sanh thêm ba bốn người con trai, gái nữa,
thành thử cách sống rất nghèo hèn khổ não, từ cái đường sông Jourdain Ðức Chúa
để bước đội nước mỗi ngày giúp mẹ cùng kiếm công một hai cắc.
Buổi nọ là lúc đã trộng
rồi, được 12, 13 tuổi, theo cha học làm thợ mộc, ông chỉ đâu làm đó. Khi đó ông
Joseph lãnh làm nhà của người ta, rủi cắt làm sao mấy cây cột lỡ cụt hết người
chủ bắt đền không biết liệu làm sao? Nhà nghèo tiền đâu mua cột khác đặng bồi
thường. Ông ngồi khóc ròng, đoạn Chúa mới cầu nguyện rồi cha một đầu con một
đầu nắm kéo nhẵng ra cho đủ thước đặng bồi thường cho đủ, bằng không thì chỉ có
ở đợ mà trừ. Thiệt lạ lùng thay và huyền diệu thay, đó là Ðấng Christ hành pháp
lạ lần thứ nhứt.
Trong năm 12 tuổi là năm
kéo cột đó, Jésus vô Ðền Thờ, buổi nọ chơn linh Ðức Christna giáng hạ, các vị
Giáo Chủ trong Ðạo toàn là những bác sĩ nghe tiếng đồn danh thần đồng của Chúa
Jésus nên khi vô Ðền Thờ, họ xúm nhau lại vấn Ðạo, Ðức Christna giáng linh,
ngồi giữa các vị Giáo Chủ ấy, thuyết đạo làm cho thiên hạ ngạc nhiên sự lạ.
Hai vợ chồng buổi nọ đi
chầu lễ Sablat vô Ðền Thánh cúng rồi về, dòm lại Ðức Chúa đâu mất, hỏi ai nấy
có thấy Jésus không? Hai ông bà tìm kiếm mãi cũng không thấy con, sợ sệt, hơ
hãi chạy trở lại Ðền Thờ, thấy Jésus ngồi giữa, các bác sĩ, Giáo Chủ đó ngồi
chung quanh đương vấn Ðạo.
Bữa nọ vì tình cờ, tuy vân
lúc còn ở trong Ðền Thánh Bà có được truyền tin rằng: Bà sẽ cho loài người nơi
mặt thế nầy, bởi nơi lòng Bà xuất hiện ra Ðấng Chúa Cứu Thế, tuy đã biết trước
như vậy, nhưng vì chạy kiếm con không thấy, vừa mệt, vừa sợ sệt đến khi tìm
gặp, thấy con ngồi thuyết Ðạo, đã có lòng phiền, bèn kêu Chúa nói: "Sao con làm cho Mẹ khổ não kiếm con
lắm vậy". Ðức Chúa liền nói: "Bà
kia, bà không biết tôi đang làm phận sự của Cha tôi biểu phải làm hay
sao?". Bà mới tỉnh, tự hiểu biết, nên phiền Ðức Chúa vì lời nói đó. Từ
đó khi Chúa về nhà thì cũng như mọi đứa trẻ khác, cũng đi đội nước, cũng đục
đẽo làm thợ mộc phục tùng cha mẹ hiếu hạnh đủ điều.
Trong nhà em út bất hòa,
còn ông Jésus hiền lắm tánh hay nhịn nhục nên mấy người em thường hay ăn hiếp.
Ở nhà không yên, ông đi làm thợ lấy tiền về nuôi cha mẹ lây lất qua ngày.
Ðến năm 30 tuổi nghe Saint
Jean Baptiste truyền giáo tại bờ sông Jourdain, cũng trong lúc đó, Ðức Chúa đến
gặp ông đang giải oan cho thiên hạ. Khi vừa thấy Ðức Chúa ở xa xa đi đến thì
ông đã biết là Ðấng Chúa Cứu Thế, mới nói: "Từ
sáng đến giờ tôi chỉ chờ có một người nầy thôi". Ðức Chúa đến thọ giáo
nơi ông Thánh Saint Jean Baptiste và chịu phép Giải Oan của Ngài. Trong buổi
vừa hành pháp xong, Ðức Chúa ở bờ sông Jourdain vừa bước lên thì trên không
trung hiện ra hào quang sáng suốt, hiện ra giống như chim bồ câu trắng
(colombe) sa giữa đầu Chúa, ngay giữa thinh không có tiếng nói: "Nầy con yêu dấu của Ta, cả ân đức của
Ta để cho Ngươi đó ". Từ ngày đó Ðức Chúa Jésus là chơn linh Ðấng
Christna giáng hạ cho nên đi truyền giáo nơi nào, chơn linh Ngài không phải như
ngày sanh nhựt nữa, mà đã biến thành Chí Thánh vậy. Ngài là chơn linh Thánh
sống trước mắt cả thiên hạ đạt cả Ðạo Giáo, Ngài quan sát nơi mặt thế nầy, Ðức
Jésus Christ không kém hơn ai trong hàng Giáo Chủ. Ngài để nhứt tâm lẫn truất
thương sanh, yêu ái người thật nồng nàn chơn chất. Ðức Thích Ca thế nào thì
Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên hạ thương mến nghe theo Ðạo Giáo của Ngài. Dân Juif
các vì Giáo Chủ buổi nọ, luôn các vua chúa Palestine, thấy Ðức Chúa Jésus
Christ thuyết Ðạo Giáo có một chí hướng chơn truyền phản khắc với tôn chỉ của
họ, họ oán ghét, tìm phương giết Chúa, đến đầu cáo với César rằng: "Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn
Juif ra khỏi sự thống trị của chế độ Romain", nhưng họ cáo đủ thứ cũng
không được , vì Thánh đức của Chúa không thể phạm vào được. Họ lại tìm cách bài
bác Luật Ðạo, tạo một ban tuyên truyền làm cho nhơn gian sợ di hại liên lụy
không dám gần Chúa. Mấy Giáo Chủ (Caiphe) ấy bắt Jésus giao cho Nguyên Soái
Pilate lên án tử hình. Tuyên truyền thế nào không biết cho đến ngày Lễ Pâques
là ngày thả tù nhơn, có tên Barabbas là Tướng hung dữ, sát nhơn đủ tội lỗi mà
toàn dân Juif đồng tha bổng, còn Ðức Chúa Jésus chúng không tha, lên án tử hình
và đem ra giết, đóng đinh trên cây Thập Tự.
Cái chết của Jésus Christ là gì? Là Ngài đem
xác Thánh trọng quí dâng cho Chí Tôn làm tế vật, xác Thánh chết trên Thánh Giá
là Lễ Tế đồng thể với Tam Bửu của chúng ta dâng cùng Ðức Chí Tôn ngày nay đó
vậy.
Vậy, Ðức Chúa Jésus Christ đã làm con tế vật
cho Ðức Chí Tôn đặng cứu chuộc tội lỗi của loài người, nhứt là các sắc dân
Âu Châu, nên danh thể Ngài để hai chữ Cứu Thế chẳng có chi là quá đáng.
Thật ra Ðấng Cứu Thế ấy là
Tam Thế Chí Tôn giáng linh tức Christna tái thế.
* * *
7. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 24 tháng 11 năm Mậu Tý (dl. 24-12-1948 )
Vía Đức Chúa Jésus Christ
1948 năm
trước, lúc nầy có một vị Chí Tôn giáng trần giáo Ðạo tại Tây Phương, vị Chí Tôn
an bang tế thế mang xác phàm lập giáo để một cái nền văn minh vĩ đại cho nhơn
loại, tính ra được 1948 năm.
Trước buổi Ðức Thích Ca
gần qui liễu, ANANÐA và A-Nan-Ca-Diếp đến bên Ngài khóc lóc hỏi Ngài rằng: Thầy
qui vị rồi ai dạy chúng con, Ðức Thích Ca nói: Có một Ðấng đến sau ta, oai
quyền hơn ta nữa. Ðức Phật Thích Ca đã nói một vị Tây Phương Giáo Chủ Jésus
Christ đó vậy. Ấy là một đàn anh đã thông tri cho nhơn loại biết người em kế vị
của mình sắp đến, Ngài có nói trước còn oai quyền hơn ta nữa, thì thật quả vậy.
Khi Ðức Chúa Jésus Christ
giáng sanh ở Tây Phương gần thọ hình, các vị Thánh Tông Ðồ tức nhiên là Môn đệ
của Ngài than rằng: Nếu Thầy thọ hình ai dạy chúng con? Ngài nói: Cần yếu ta
phải đi, cần yếu ta phải về với Cha ta, ta phải về đặng an vui, rồi sau nầy sẽ
có một người đến cùng các ngươi đặng an ủi dạy dỗ các ngươi nhiều điều huyền vi
bí mật.
Ðức Phật Thích Ca nói sau
nầy Ðấng ấy còn oai quyền hơn ta nữa, Ðấng ấy tức nhiên là Tây Phương Giáo Chủ
Jésus Christ và Chúa đã cho nhơn loại hay: Sau Ðạo Thánh Gia Tô có Ðạo Cao Ðài
xuất hiện đó vậy.
Có một Ðấng Chơn linh Tam
Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó. Nhứt Thế BRAHMA Phật, tức nhiên
là Tạo Hóa, Nhị Thế CIVA Phật tức nhiên Tấn Hóa, Tam Thế CHRISTNA Phật tức
nhiên Bảo Tồn, Ðấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh vậy.
Vì cớ cho nên Ðức Chúa
Jésus Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy, Ngài đã ngó thấy
Nhứt Kỳ Phổ Ðộ nhơn loại ký hòa ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên
Ðiều, nhơn quả nhơn loại gớm ghiết, do nhơn quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu
trữ đến ngày nay, Thánh Giáo gọi "tội
tổ tông" chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến
giơ tay để ký đệ nhị hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị
hòa ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là
Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.
Ðấng ấy vô tận vô biên,
thấy nạn của nhơn loại đã dẫy đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế
vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí Tôn để nơi
tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị hòa ước cho nhơn loại, nó làm cho
Ngài thế nào? Do tay Ngài ký tờ hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị
đóng đinh trên cây thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu
đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây
Thánh Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm
ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình
ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại
là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng, năm 1948
nhơn loại không tầm Giáo lý của Ngài nữa, chắc chắn như vậy. Bần Ðạo nói quả
quyết rằng, nhơn loại đã quên hẳn Ngài rồi đó. Cho đến ngày nay cả toàn nhơn
loại trên địa cầu nầy, không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên
nạn tương tàn tương sát lẫn nhau sắp diễn ra gần đây, nhưng nếu chừng nào toàn
cả nhơn loại biết tôn sùng nhau, vì tình cốt nhục, thì cái nạn tương tàn tương
sát trên mặt địa cầu nầy sẽ không có nữa. Hai tấn tuồng, hai thảm trạng như thế
có thể đưa nhơn loại đến chỗ tiêu diệt mà chớ, vì nhơn loại không biết nghe,
Ðấng ấy đã lấy máu thịt của mình làm con tế vật dâng hiến cho Ðức Chí Tôn, để
cầu xin tha tội cho nhơn loại. Nhơn loại sẽ mất đức vì không nghe theo Ðấng Cứu
Thế, Ðấng ấy đã bảo anh em phải yêu ái lẫn nhau, giúp đỡ nhau, sống cùng nhau
cho trọn vẹn kiếp sanh. Trái ngược lại đệ nhị hòa ước kia đã ký kết với Ðức Chí
Tôn bị nhơn loại bội ước nữa, vì bội ước mà bảo sao nhơn loại không bị tội tình
mắc mỏ sao được?
Ðêm nay là nhờ hiển Thánh
anh linh của Ðấng Cứu Thế, Ðấng đã để lòng ưu ái vô tận mong cứu vãn tình thế
nguy ngập, lấy cả tình ái ấy làm phương giải khổ cho nhơn loại.
Chúng ta để tâm cầu nguyện
cùng Ngài, để Ngài mở con mắt Thiêng Liêng cho chúng sanh đặng nhìn thấy cái
chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng mê muội đừng ngu dốt, lấy tinh thần
sáng suốt bỏ cái lục dục thất tình đầy tội ác nầy.
Muốn tránh cái nạn tương
tàn tương sát kia, muốn cứu rỗi lấy họ, hầu làm cái nạn tiêu diệt kia được
thoát khỏi ấy là lời cầu nguyện của chúng ta đêm nay đó.
Ðức Chúa Jésus Christ đã
lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của
Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó
vậy.
* * *
8. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Đền Thánh đêm 24
tháng 12 năm 1949 (âl. Kỷ Sửu)
Cái Hiếu của Đức Chúa Jésus đối với Đức Chí Tôn
Và Cái Nghĩa của Đức Chí Tôn đối lại với Ngài
Đêm nay một đêm kỷ niệm
Jésus Christ tức nhiên là Phật Christna giáng sanh bên Âu Châu mở Đạo. Thường
năm hễ đến lễ Giáng Sanh này thì Đạo Cao Đài chúng ta vẫn tôn sùng Giáo Chủ Gia
Tô cũng như Vị Phật của chúng ta vậy, chúng ta coi Ngài cũng như một Vị Giáo
Chủ của một nền Tôn Giáo đương nhiên đã để tại mặt thế này. Âu Châu văn minh
cầm quyền thiên hạ gần có ba trăm triệu năm (300.000.000).
Thường năm Bần Đạo thuyết
minh cái lịch sử của Ngài lập đi lập lại cũng thừa. Vậy hôm nay Bần Đạo chỉ
thuyết cái hiếu của Ngài đối với Đức Chí Tôn và cái nghĩa của Đức Chí Tôn đối
lại với Ngài. Chúng ta sẽ ngó thấy và đã ngó thấy một cái gương "Phụ từ tử hiếu" nơi mặt thế
này chưa hề có.
Khi Đức Chúa Jésus Christ,
tức nhiên Chúa Jésus đến thọ pháp giải oan nơi tay Ông Saint Jean Baptist, giải
oan cho Ngài tại bờ sông Jourdais. Khi Ngài thọ pháp vừa rồi thì liền có đạo
hào quang hiện giữa không trung chiếu diệu ngay đầu của Ngài, tượng hình ba con
bồ câu trắng và giữa không trung nghe lời nói rằng: Này đứa con yêu dấu của ta,
ta đã tín nhiệm nơi con đó. Đức Chúa Jésus Christ trong buổi ấy đã được Đại Từ
Phụ nhìn nhận là con yêu dấu của Ngài, vì cớ cho nên Ngài có quyền xưng là con
của Đức Chí Tôn, Ngài có quyền kêu Đức Chí Tôn bằng cha, đã chẳng phải Ngài
dụng quyền ấy mà thôi, Ngài lại còn muốn toàn thể nhơn loại hưởng đặc ân được
làm con của Đức Chí Tôn như Ngài, vì cớ cho nên Đạo Thiên Chúa đã truyền bá
toàn mặt địa cầu này.
Chúng ta đã ngó thấy 3 năm
Ngài hành Đạo, Ngài đã bị cái quyền Đạo Giáo, tức nhiên với cái quyền lực của
Moïse khủng bố bắt buộc chẳng khác nào như chúng ta đã bị, mà Thiên Chúa Giáo
cũng vẫn bị khảo dượt mãi thôi, giờ phút này cũng chưa dứt khủng bố bắt Đạo và
bắt Ngài do toàn quyền Hérode Antipas của Nước Palestine xử tử Ngài.
Chúng ta ngó thấy thời
buổi ấy gần ngày lễ trọng hệ của đạo Polse, ngay lễ ấy người tù nhân được tha
án tử hình, trong hai người: Tướng cướp giết người cướp của tàn hại nhơn sanh
không biết là bao nhiêu, bị án tử hình đem ra giữa quốc dân Juifs, tức nhiên
dân Do Thái, trong hai người này, cướp của sát nhân là Baraba, còn Jésus Christ
chúng lên án "mê hoặc quốc dân phiến
loạn". Hỏi vậy quốc dân muốn tha ai, dân Do Thái nói tha Baraba, giết
Jésus Christ.
Ba năm truyền bá có lẽ
chúng ta ngó thấy thế nào. Trong ba năm truyền giáo không lâu, giữa nước Israel
buổi nọ bị thâu chiếm thuộc địa do dân Romain tức nhiên dân La Mã. Sự truyền
giáo của Ngài không có đắc lực mảy may nào cả, nên buổi ấy đã lên án Ngài là kẻ
trộm, kẻ cướp đồng án với kẻ sát nhơn, nên đóng đinh Ngài lên cây Thánh Giá như
kẻ tội nhơn tử hình kia vậy.
Trong Đạo Sử buổi nọ có
tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tôi gian dối, nói rằng: Ngài
mê hoặc con cái Juifs nên bị án tử hình đóng đinh trên cây thập tự giá, Ngài
chết như thế ấy, nếu không phải con mắt Thiêng Liêng oai quyền của Đức Chí Tôn
thì cái chết của Jésus Christ mai một mờ ám mà thôi, không có cái gì gọi là chí
Thánh cả, không phải vậy Đức Chí Tôn đã hứa, đã nhìn nhận là con và chính mình
Ngài đã ở trọn hiếu cùng hy sinh tánh mạng của mình làm cho danh của Đức Chí
Tôn cao trọng, và làm cho nhơn loại đặng hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn chan
rưới, làm con cái của Ngài biết cái hiếu của Jésus Christ đối với Đức Chí Tôn
từ thử đến giờ chưa có một vị Giáo Chủ nào đã làm. (*1)
Giờ chót, chúng đem lên
đóng đinh trên cây thập tự giá gần trút linh hồn mà khát nước làm sao, vì bị
chúng bỏ đói bỏ khát. Ngài biết bây giờ xin nước uống, chúng nó sẽ cho uống mật
đắng, mà bây giờ khát nước quá không thể nhịn được nữa mới xin nước uống, nó
liền lấy bông đá nhúng trong chén mật đắng đưa cho Ngài uống, Ngài uống mật
đắng, ấy đặng lãnh phần khổ não của nhơn loại. Khi uống rồi ngước mặt lên không
trung Ngài kêu Cha nói: Con đã làm xong phận sự của Cha phú thác, vậy xin dâng
linh hồn của con trong tay Cha, vừa nói đến đó thì vừa tắt hơi.
Cái hiếu của Ngài đến giờ
chót đối với Đức Chí Tôn đã trọn, còn Đức Chí Tôn, nếu không phải giữ "Nghĩa" với đứa con yêu dấu
con hiếu hạnh của Ngài, thì cái chết của Jésus Christ bất quá như kẻ tù nhơn
chết mà thôi, có đâu lên phẩm vị Giáo Chủ ngồi trên ngai Thiêng Liêng vô cùng
quí báu trên mặt địa cầu nầy gần hai ngàn năm (2.000) tức nhiên (1949) một ngàn
chín trăm bốn mươi chín. Trong lúc Đức Chúa Jésus Christ làm con hiếu hạnh có
ba năm mà thôi, mà Đức Chí Tôn trả lại cái danh dự sang trọng cho Ngài đến một
ngàn chín trăm bốn mươi chín năm là năm nay. Bài học ấy nó sẽ quí báu cho toàn
thể con cái Đức Chí Tôn đương nhiên ngồi trong lòng Ngài, bây giờ nói toàn thể
chúng ta đây không lẽ không có một người hiếu hạnh như Đức Chúa Jésus Christ
đối với Đức Chí Tôn.
Bần Đạo để dấu hỏi? Nếu có
một người hiếu hạnh với Đức Chí Tôn như Jésus Christ thì toàn thể con cái của
Ngài có hạnh phúc lắm, có người như vậy thì nhơn loại sẽ thế nào?
Bần Đạo để cho toàn thể
con cái Ngài tìm hiểu, kiếm hiểu, và làm cho đặng như vậy thì hạnh phúc cho
nhơn loại không thể gì tả đặng.
* * *
9. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 26 tháng 11 năm Tân Mão (dl. 24-12-1951 )
Lễ Kỷ niệm của Đức Chúa Jésus Christ
Đêm nay là
ngày kỷ niệm của Đức Chúa Jésus Christ tức nhiên Chúa Cứu Thế Giáng Sinh.
Từ khi mở
Đạo đến giờ cả Thánh Thể Đức Chí Tôn và Bần Đạo đã thuyết minh một cái đời hy
sinh đạo đức của Ngài, cả thảy đều biết, không cần thuyết lại nữa, lập đi lập
lại cũng không bổ ích vào đâu cho lắm. Chúng ta thử tìm trong các Thánh ngữ của
Ngài để lại. Hiểu thấu cái huyền vi bí ẩn đạo giáo của Ngài thế nào, cái ấy có
lẽ hữu ích hơn, nên Bần Đạo lấy lời triết lý của Ngài đã nói lưu trong Thánh ngữ của
Ngài để lại cho các Thánh Tông Đồ có câu nói cao sâu bí ẩn mà thiết thật làm
sao, hay làm sao. Ngài nói rằng: Biết hy sinh cái chết đặng đạt cho đặng cái
sống. Vì lời Thánh giáo ấy mà những kẻ tìm Đạo thường hay bàn luận tìm cái
nghĩa lý của nó, Đức Chúa Jésus Christ đã sanh ra thì bị cường bức Đạo của Ngài
truyền giáo thiên hạ không hiểu thấu và người ta đã bắt bớ, người ta đã đè nén,
người ta đã âm mưu hại Ngài, cho nên lời nói ấy cốt yếu giục các môn đệ của
Ngài quyết chiến đấu và quyết thắng, điều ấy chưa phải lẽ.
Bần Đạo đã thuyết minh tới
đây, kẻ thì nói đến Ngài lập nền Thánh Giáo của Ngài, Ngài lập cái đền thờ
thiêng liêng Đạo Giáo của Ngài tại thế gian này, Ngài xưng mình là con chiên hy
sinh đặng làm con tế vật của Đức Chúa Trời, để cứu rỗi tội tình thiên hạ, tức
nhiên con chiên chí thánh, tánh mạng của Ngài, thi hài của Ngài chịu chết trên
cây Thập Tự Giá, cốt yếu làm con tế vật ấy để dâng cho Đức Chí Tôn đó vậy. Sự
hy sinh của Ngài làm con tế vật ấy là Thánh Thể, tức nhiên của toàn cả tín đồ
tin tưởng nơi Ngài, đã thọ phép chơn giáo của Ngài coi như Đấng chí thánh. Vì
lẽ ấy cho nên Ngài thuyết câu đó, cốt yếu Ngài dám hy sinh tử đạo đặng bảo thủ
chơn truyền của Ngài, cũng có lý nhưng chưa phải lẽ, cái bí mật trong lời nói
ấy là vầy: Phải biết làm sao cái chết thật, mà phải biết làm sao cái sống là thật.
Cái sống và cái chết, ta cũng nên tìm hiểu điều ấy. Vả chăng chúng ta sanh ra
có hai cái sống và có hai cái chết. Chúng ta ngó thấy xác thịt của chúng ta
không phải là cái sống, bởi vật thể nó phải chịu tiêu hủy tức nhiên nó phải
chết mà thiệt cái chết của nó, chẳng phải chết gì cái xác thịt mà thôi, mà chết
vì danh giá, kiếp sống của mình, cái lời nói là chết. Còn bây giờ cái sống
không phải cái xác thịt chúng ta đã ngó thấy trước mắt, bất quá con người sanh
ra một trăm năm là nhiều rồi chết trước mắt. Ấy vậy cái sống thật chỗ nào? Cái
sống thật của chúng ta là cái sống về tinh thần hiện tại của chúng ta cho
trường tồn, tức nhiên nó về linh hồn chúng ta vậy. Cái đó mới thiệt sống, cái
sống với linh hồn là cái sống thật, sống với xác thịt tức nhiên sống giả. Bây
giờ còn cái sống nữa, sống thế nào đồng sống cả vạn loại, cả cái sống đại đồng
sống trong cái sống ấy mà muốn đồng sống, chúng ta phải hiệp làm một cùng vạn
loại, biết nó là cái sống của mình, biết mình là cái sống của nó. Cái sống ấy
là cái sống của Đức Chí Tôn nắm trong tay của Ngài đó vậy. Cái sống trên cảnh
Thiêng Liêng Hằng Sống của Ngài đã tạo dựng cho nó, trước khi ta đến đầu kiếp
làm con người ở mặt thế gian này, cái sống ấy phải sống.
Bây giờ luận theo Đức Chúa
Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết, mới tìm cái sống. Đạo giáo nào kiếm
mắc mỏ khó khăn, chớ Đạo giáo Cao Đài Đức Chí Tôn để bí pháp ấy trong Thánh Thể
của Ngài. Ngài nói những kẻ nào dám chết về đời, sống vì Đạo, những kẻ ấy mới
đáng làm Thánh Thể của ta nơi mặt thế gian này. Cả toàn Thánh Thể đã hiểu lắm,
tới phẩm Giáo Hữu phải chết, chết vì đời rồi sống lại, sống vì Đạo. Tức nhiên
Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết ai, đã biết cái sống của
chúng ta đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này
thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên Thiêng Liêng Hằng Sống
của Cha ta đã dành để.
Bần Đạo thuyết điều ấy cốt
yếu nói cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, dầu cho hàng tín đồ nam nữ dĩ chí
Đại Thiên Phong cũng vậy, mỗi phần tử Thánh Thể của Ngài phải biết cái mạnh của
mình là cái sống thật, cái yếu của mình là cái sống giả, phải có can đảm hy
sinh cái chết, cái thi hài thúi tha của ta đây đặng mà đạt cho đặng cái danh
hằng sống và chúng ta đặng ngôi vị Thiêng Liêng Hằng Sống nơi cửa Thiêng Liêng
kia của Ngài đã dành để, tức nhiên là đại nghiệp của Ngài đã chia chung cho mỗi
đứa con. Đức Chí Tôn nói rằng: Thầy đành để đại nghiệp cho các con, Thầy không
có quyền đem cho kẻ khác duy có kẻ nào từ bỏ, thì Thầy mới có quyền đem cho kẻ
khác mà thôi. Cái sống đó mới sống thật, sống trường tồn sống vĩnh cửu. Sống
Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn mới thật sống đó.
* * *
10. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 1-12 năm Giáp Ngọ (1954)
Lễ Chúa Giáng Sinh.
Đêm nay là
đêm Lễ Chúa Giáng Sinh. Mỗi năm Bần Đạo đã giảng về Đạo của Chúa Jésus Christ
nhiều rồi. Nhưng hôm nay Bần Đạo vẫn nhắc lại Đạo của Đấng Cứu Thế. Trong Sấm
Truyền của Thiên Chúa Giáo có nói rằng: Tổ Tông của loài người là Bà Eve và
Ông Adam do nơi tay Đức Chí Tôn đào tạo ra, lại còn ban thưởng một đặc ân
cho ở nơi Địa Đàng. Nơi ấy Tiên Gia của chúng ta gọi là Tiên Cảnh.
Nhờ Đức Chí Tôn ban cho
một điểm linh quang nên con người khôn hơn loài vật hữu sinh đồng chung sống
với nhau, không biết chết là gì. Nhưng khi Đức Chí Tôn cho ra ở nơi Địa Đàng,
không giữ lời dặn của Đức Ngài, ăn trái Cấm nên bị Đức Chí Tôn phạt đuổi ra
khỏi Địa Đàng. Vì lẽ mất nghĩa với Đức Chí Tôn nên phải chịu khổ não. Xét ra
cho kỹ giờ phút này nhơn loại khổ não là bị điều phạt của Đức Chí Tôn đuổi ra
khỏi Địa Đàng. Vì cớ nên Ông cha ta trở nên phàm tục không còn vẻ Tiên phong
Đạo cốt nữa nên phải chịu Luật Luân Hồi là vậy.
Nhưng cả thảy con cái Đức
Chí Tôn đều biết lòng từ bi bác ái của Ngài thế nào chăng? Phạt chẳng lẻ phạt
mãi, nên Ngài mới liệu phương cứu rỗi. Vì cớ nên Ngài giao cho Chúa Jésus
Christ hay Jésus Nazareth lãnh phần cứu thế đặng chuộc tội cho Tổ Tông của loài
người đã bất nghĩa đối cùng Đức Chí Tôn.
Vì cớ cho nên Ngài hy sinh
tánh mạng chịu chết trên cây Thánh Giá bởi sự hung bạo của dân Do Thái.
Hôm nay cả toàn thể người
Công Giáo đều làm Lễ kỷ niệm ngày Chúa Jésus Christ đến cứu thế. Bần Đạo xin
nhắc lại gương hy sinh vô đối của Ngài dám chịu chết vì loài người, dám chịu
chết đặng chuộc tội lỗi cho loài người, dám chịu chết vì hung bạo của loài
người. Bần Đạo ước mong toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này noi gương của
Ngài, là bởi Ngài chịu khổ hình một cách đau đớn khổ não cũng vì loài người.
Nền chơn giáo của Ngài,
Ngài chỉ định có một khuôn luật là Thập điều, nên khi ấy các Môn Đệ của Ngài
hỏi Ngài trong 10 điều răn ấy phải giữ điều nào hơn hết. Đức Chúa Jésus nói: Ta
phải thương yêu Chí Tôn trên hết mọi sự và thương yêu bạn đồng sanh mình cũng
như mình.
Ôi! Nếu nhơn loại biết yêu
thương bạn đồng sanh của họ như Thánh Giáo đã dạy từ 2.000 năm nay, thì tưởng
lại giờ phút này sẽ tránh khỏi nạn tương tàn tương sát, nó làm cho thế giới
chẳng hề buổi nào hưởng đặng hòa bình, chỉ cứ ly loạn mãi thôi.
Chúng ta thử giở lịch sử
loài người ra xem, thì không có một thế kỷ nào mà không có giặc giã tàn sát lẫn
nhau giờ này chúng ta cũng thế. Các bạn đồng đạo Tôn giáo cũng thế. Hôm nay xúm
xích nơi Đền Thánh chung vào lòng từ bi bác ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn
để cầu nguyện một điều là Đức Chúa Jésus Christ sống lại là mơ ước thế nào nhơn
loại hưởng đặng đặc ân ấy, để chia khổ não đừng tàn sát lẫn nhau đem trở lại sự
yêu ái lẫn nhau. Nhìn nhau là bạn đồng sanh, lời cầu nguyện quí báu hơn hết,
với Đức Chí Tôn là cầu nguyện như thế. Bần Đạo nói Đức Chúa Jésus Christ đối với
triết lý của Đức Chúa Trời như thế nào thì hôm nay đường lối của Đức Chí Tôn
đến dạy chúng ta như thế ấy. Chúng ta chỉ mong mỏi có một điều là nhơn loại
đặng hòa bình mà thôi.
* * *
11. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 22 tháng 5 năm Kỷ Sửu (1949)
Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
Victor Hugo
Đức Victor
Hugo tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một Đấng Thiêng Liêng tại Quảng Hàn
Cung. Khi tái kiếp Ngài sanh tại thành Besançon Pháp Quốc nhằm ngày 26-02-1802,
Ngài từ trần tại Paris ngày 22-05-1885, hưởng thọ được 83 tuổi.
Từ buổi Đạo khai tại Tần
Quốc, thì Ngài giáng cơ với danh hiệu là Chưởng Đạo Nguyệt Tâm, Chưởng Quyền
Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài là một nhà thi sĩ trứ danh của nước Pháp trong thế
kỷ thứ 19, lúc còn thiếu thời Ngài thường châu lưu ở nước Italie (Ý Đại Lợi), ở
nước Espagne (Tây Ban Nha) kế trở về Paris. Khi lên 10 tuổi thì Ngài đã sẵn có
tài thi văn đến lúc trưởng thành thì những văn từ thi phú Ngài làm đều là những
tác phẩm lỗi lạc hoạt bát tình tứ cao thâm, nên trong trường đời Ngài đã nổi
danh là thi bá, đứng đầu trong các bậc kỳ nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi tên
tuổi của Ngài đã nêu danh nơi Hàn Lâm Viện và Ngài trở nên một Đại Công Thần
danh dự của Pháp Triều buổi ấy.
Đến sau cuộc cách mạng
1848 tại nước Pháp, Ngài đắc cử vào Hạ Nghị Viện lớn lao để bảo tồn nền chánh
trị và luật pháp trong nước. Lúc Ngài lãnh trách nhiệm trọng yếu ấy, Ngài đã
lắm phen trổ tài hùng biện và binh vực quyền lợi cho dân Pháp với những lẽ công
chánh nhứt là sự tự do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm sau
ngày 2-12-1851 lại có cuộc nội biến. Ngài phải buộc lòng từ giã Paris ra ngoại
quốc, mãi đến năm 1870 ngày 4-9 Ngài mới trở lại trường chánh trị. Lúc đó Ngài
đặng 68 tuổi, từ ấy đến sau Ngài đã đem hết nhiệt tâm mà chuyên lo cần mẫn vì
nước vì dân cho đến ngày qui vị.
Trong kiếp sanh của Ngài rất vinh diệu cho nước Pháp ngoài
những chuyện sử thi văn kiệt tác đối với quê hương dân tộc Pháp, Ngài còn để dấu trong trường chánh trị một danh thể
bất thủ. Vì vậy mà khi Ngài qui vị, đám táng Ngài rất long trọng, quan cữu và
linh vị đặng hưởng đặc ân của nước Pháp để vào Công Thần Miếu (Panthéon).
Ấy vậy thật là một vĩ nhân và một Đại Công Thần
nước Pháp đó vậy. Bần Đạo cũng nên cho toàn đạo hiểu rồi đừng lầm tưởng chúng
ta ngày nay đương tôn sùng lễ bái kỷ niệm một vị vĩ nhân Công Thần của Pháp như trên đã nói đó là tôn sùng người Pháp.
Nghĩ vì Ngài cũng có công
trình khai đạo từ sơ khai thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn lãnh quyền Chưởng Đạo cầm
đầu Hội Thánh Ngoại Giáo. Ngài thường giáng cơ giáo hóa và phong Thánh cho chư
Chức Sắc Ngoại Giáo, huống chi chúng ta ngày nay cả thảy đều đặng hiểu biết
tiền kiếp của Ngài trước kia tái kiếp nước Pháp thì Ngài đã có một kiếp sanh
tại nước Việt Nam là Đức Nguyễn Du là một nhà thi sĩ, tác phẩm truyện Kim Vân
Kiều mà ngày nay cả thế giới đều nhận bản tác phẩm ấy là vô giá, nhứt là chúng
ta dân tộc Việt Nam càng vinh hạnh hơn hết.
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét