Phương Tu Ðại Ðạo - 2 /2 ( Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc )

Sào Phủ nói xong liền dắt trâu đi lên trên giòng nước đang cho uống. Hứa Do lấy làm lạ hỏi:" Bến ở dây, sao dắt trâu lên trên kia cho uống." Sào Phủ trả lời : " Vì sợ anh rửa tai trôi ra trâu tôi uống nhầm."

Ðó là công danh của kẻ triết hiền. Chúng ta thấy gian xảo bao giờ cũng nương theo tình đức, lợi dụng tình đức đặng lập thân danh.
Những mưu kế xảo quyệt chẳng hề khi nào bền bĩ lâu dài đặng. Thân danh dầu lập bao nhiêu cũng không thể tồn tại.

Bây giờ nói chuyện nước Tàu, kẻ lập đế vị bền vững được 800 năm là họ Lưu. Lưu Bang bất quá là một anh Ðình Trưởng, tức nhiên là anh đưa đò vậy thôi, mà thâu phục được lòng dân, ưu ái dân, binh vực kẻ yếu, đương đầu với kẻ mạnh, tức nhiên lúc yếu của mình mà dám đương đầu cùng Sở Bá Vương cứu trăm họ lê dân trong nước lửa. Lấy tình đức làm căn bản lập Hớn Thất giang san của Ngài được 800 năm. Còn như Sở Bá Vương dùng bạo tàn dựng nên cơ nghiệp chỉ một đời thôi. Từ cổ chí kim chưa một đế vương nào để di tích cho bằng Tần Thủy Hoàng, nhưng đào tạo nên bởi hung tàn bạo ngược, chỉ ba đời thôi.
Napoléon đệ nhứt vẫn là một người thường dân trong hàng lê thứ, đi từ tên lính lên tới đế vị rồi, biết bao nhiêu vinh diệu cho nước Pháp thọ hưởng. Hại thay ! Tới chừng lên đế vị rồi, phong hầu, phong bá (công, hầu, vương, bá ) cho cả hàng tướng sĩ của Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng trở nên nhát nhúa mất chí khí anh hùng nên Ngài phải thua. Cả tướng sĩ đã lập nên đế vị cho Ngài sau chỉ còn ông Nai còn biết tình của Ngài còn bao nhiêu đều phản phúc. Lợi dụng tình đức ấy nó chỉ là bóng dáng giả dối. Cả cơ nghiệp dầu đào tạo mạnh mẽ liệt cường cao trọng cũng như giọt sương trên ngọn cỏ chẳng hề khi nào bền vững được.

Cả con cái Ðức Chí Tôn, mấy em đã có sẵn tình đức của Ðức Chí Tôn đã đến trong 30 năm nay thôi, chỉ trong 30 năm hưởng được đặc ân của Ðại Từ Phụ đã đến tạo cả tâm hồn mấy em. Tình đức trong đạo ấy, mấy em tu thân dễ qúa chừng, quá đỗi. Tu thân mấy em là làm nền móng vững chắc đặng lập công danh, đừng ngó ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có thật đâu mấy em. Ðứng trong cửa Ðạo nương tình đức lập thân danh. Qua dám nói chắc cả con cái Ðức Chí Tôn nam nữ để ý, do căn bản tình đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu Qua không nói mấy em ngồi trên đầu thiên hạ. (Thuyết Ðạo QVI /233)

*  *  *

13. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 17 tháng 8 năm Mậu Tý ( 20-09-1948 )

Nhơn tình thế sự đ/v nhơn tình đạo đức

Hôm nay chúng ta đình dục tấn trên con đường thiêng liêng hằng sống, ngày mai Bần Ðạo sẽ giảng tiếp. Ðêm nay Bần Ðạo giảng vấn đề trọng yếu nhất, cả toàn mấy em, mấy con nam nữ hậu tấn của chúng Qua, mấy em biết định phận mấy em thế nào tạo tâm đức đặng ngày kia cầm giềng mối cho Ðạo.

Bần Ðạo đem nhơn tình thế sự để đối với nhơn tình đạo đức, hai điều mấy em sẽ thấy Qua để đó, trải qua trước mắt, lấy trí thông minh của mấy em mà xét đoán nên hư đặng định quyết phận mình.

Vả chăng chúng ta ngó thấy nhơn tình thế thái của con đường đời đã trải qua, dầu đặng lịch lãm nhơn tình, chúng ta ngó thấy nhơn tình thế nào? Nhiều khi nhơn tình lãnh đạm, mà dục tấn tinh thần chúng ta thêm lên, là cốt yếu về tâm tấn đó vậy. Nhiều khi tinh thần chúng ta ngó thấy không trọng hệ gì lắm, bất quá trong gia đình không sao tình bè bạn cũng thế, tình hương lân trong xã hội cũng thế, hễ phải thì đối phải, còn quấy thì đối quấy.

Thường tình như thế mà, kẻ vĩ nhân nào có tinh thần hoạt bát tự chủ mình đặng. Nhơn tình dù lãnh đạm hay bạc bẽo cứ giữ mực thước đặng đối phó cùng đời. Tinh thần ấy mới ra người quân tử, mới khác với thế thường. Vì thế thường, phải trả phải, quấy trả quấy. Có một điều ngộ nghĩnh hơn hết dầu chi chi cũng có phương pháp bình tâm cho họ, mỗi khi thi thố hành tàng chi vô đạo đức, vô nhơn nghĩa thì họ tự tỉnh, tự thẹn lấy họ.

Chúng ta ngó thấy rằng : Những kẻ tiểu nhơn dù tìm phương tạo vinh hiển thế nào, sự tiểu nhơn của kẻ ấy không thế gì chối cãi đặng.
Hại thay ! Tinh thần của nhơn tình thế thái, không ai tìm tòi, không ai bươi móc đem chơn lý cho chúng ta ngó thấy, chẳng hề khi nào phương pháp tiểu nhân dầu dấu thiên hạ một ngày không thấy, hai ngày không thấy, dầu dấu thế gian thế nào cũng lòi ra, không phương dấu đặng, che đặng.

Vì thế xã hội quốc dân cũng thế, họ được bền vững đứng trong xã hội, cùng nhau mưu chước quỉ quyệt thế nào cũng chẳng làm quá lòng của người, hễ làm quá lòng của người thì có phản động lực, nhờ vậy mà nhơn quần xã hội mới tồn tại được. Nhơn tình thế thái có điều mầu nhiệm như thế, bao giờ chúng ta cũng sợ miệng lưỡi của người, phải giữ tánh đức theo thế thường của nhơn tình đạo đức.

Bây giờ đến nhơn tình đạo đức, chúng ta đừng tranh theo mặt đời. Buổi trước, khi Ðạo Cao Ðài chưa khai mở chúng ta thấy cả tính đức nhơn tình buổi đó thế nào ? Bần Ðạo không phải đứng trên tòa giảng nầy để công kích, không lẽ mấy em không thấy, mấy em thấy phần nhiều hạng niên thiếu họ vô chùa miễu, đốt giấy vàng bạc đặng họ mua chuộc tài lợi, họ đến lo lót như lo lót một ông quan đời kia vậy. Các Ðấng đâu có dùng mà họ tìm phương hối lộ. Nếu thảng có tính chất nhơn tình đạo đức, bất quá họ chung hiệp nào làm tổ chức tôn giáo, nào là định lập trường đặng nương theo bóng tôn giáo. Nhơn tình buổi trước như vậy.

Bây giờ Bần Ðạo luận từ ngày Ðức Chí Tôn đến mở Ðạo Cao Ðài, ngày nay Bần Ðạo nhờ nương theo bóng từ bi của Ngài đi theo bén gót Ngài từ 23 năm nay. Bần Ðạo chung chia đau thảm cùng con cái của Ngài, thảm khổ cũng có, mà vui hứng cũng có, buồn vui lẫn lộn với nhau, nhứt là đàn anh của chúng ta buổi nọ, niên cao kỷ trưởng, khi nghe tiếng gọi Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn, họ quyết đem mảnh thân phàm của họ dâng hiến làm tế vật của Ngài, dầu làm tay chơn cho Ngài, vì cớ mà bản hòa ước của họ đối với cả chơn hồn nguyên nhân là họ lãnh sứ mạng thiêng liêng vậy.

Bần Ðạo chẳng cần đứng trên tòa giảng khai công nghiệp các bậc tiền bối của chúng ta, họ không cần và e nói ra mấy em buồn nhiều, toàn thể Ðạo cũng vậy. Trong trường thảm khổ, cũng có kẻ trọn hiếu cùng Ðức Chí Tôn, trọn trung cùng Hội Thánh. Nhờ vậy mà Ngài tạo thành Thánh Thể của Ngài, tội nghiệp thay trong một trường đồng hèn thân danh, đồng hèn xác thịt, mỗi mỗi đều thất thế bởi nòi giống còn nô lệ, nước nhà chưa biết tự do, tự chủ là gì, làm cho hổ thẹn. Ðó là tâm đức buổi ban sơ vì Ðạo vì Ðời, thì mảnh thân tạo nên đại nghiệp đầu tiên cho nước Việt Nam, tạo cho nòi giống Việt Nam trước hết, nhưng bởi họ rủi sanh ra thi hài người Việt Nam, máu mủ Việt Nam.

Còn có hạng nữa, tưởng mình có phương vi chủ đặng, cũng làm cũng tạo vậy, tự mình lấy quyền năng sở hữu của mình mà làm. Bần Ðạo thấy cần thuyết minh điều đó. Họ tự tạo phương pháp như một cái kho để bảo trọng gia đình họ, họ tạo quyền năng cho họ mà thôi. Buổi nọ trong trường hợp nào cũng có người chia rẽ, tham tàn đủ lẽ, tranh phương đủ điều, đến lúc đó Bần Ðạo thấy hết.

Không ai lỗi, không ai phải, không ai nên, không ai hư mà qua khỏi mắt Bần Ðạo được. Ðời sống của họ còn hiện tượng nơi cõi thiêng liêng hằng sống của Ðức Chí Tôn, dầu họ rủi phận không đặng về ngồi vào lòng Ðức Chí Tôn, thì họ cũng lưu lại cho gia tộc con cái của họ. Cái đại nghiệp đó họ tạo đám con cái ấy, Bần Ðạo chứng chắc nó ngậm được giọt sữa của tổ tiên nó. Biết đâu đại nghiệp hậu hữu sau nầy của Ðạo không phải tự tay mấy đứa trẻ còn tồn tại đây thọ hưởng. Họ biết không phải làm cho họ hưởng. Bần Ðạo nói họ để lại đại nghiệp cho Ðạo, cho Hội Thánh nuôi hết con cháu họ, họ ham quyền, ham lợi rốt cuộc cũng nuôi mấy em nhỏ khôn lớn mà thôi. Thật sự mấy em nhỏ nếu nuôi bằng phương pháp tiểu nhơn chúng nó sẽ gớm ghiết điều nó không nói ra. Chớ những người trung hiếu cùng Ðức Chí Tôn sẽ được chúng nó tôn vinh hiển lắm.

Chúng nó ôm được cái gia tài của ông cha nó để lại đó, ngày kia nó sẽ ngồi trên thiên hạ, nó sẽ vi chủ loài người. Trong hai lẽ đó, cả thảy suy gẫm muốn lựa chọn lẽ nào thì lựa. (Thuyết Ðạo QII / tr 135)
14. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
Ðêm 14 tháng 4 năm Nhâm Thìn ( 7-5-1952 )

Cái thiệt phận của chúng ta đ/v vạn linh

Ðêm nay Bần Ðạo xin giảng cái thiệt phận của chúng ta đối với vạn linh, tức nhiên cái thiệt phận của chúng ta đối với bạn đồng sinh của chúng ta.
Phải chăng chúng ta khổ vì cái sống của chúng ta mỗi ngày, hễ còn ngày nào sống, chúng ta vẫn bị khuôn luật bảo vệ sống còn ấy, nó làm cho chúng ta phải phai lợt một tâm tình của chúng ta đối với bạn đồng sinh của chúng ta, nghĩa là vì chúng ta đã quá khổ, chúng ta đã vô tình với bạn chúng ta đó vậy.

Chúng ta thử để cái trí não bình tĩnh một lúc cũng như các thi gia, các văn sĩ kia để rảnh rang cái trí của mình giây phút dòm cả vạn vật đồng sinh với ta, rồi chúng ta tìm tòi hiểu cái khuôn luật thiên nhiên kia đã định phận cho họ thế nào ? Thì ta biết cái định phận của ta thế ấy. Vạn vật đồng sinh với ta tức nhiên bạn đồng sanh với ta trên mặt thế nầy, nó có cái quân luật hiệp quần. Hiệp quần cốt yếu để bảo thủ cái sanh mạng của mình với một năng lực đa số, tức nhiên cái năng lực mạnh mẽ hơn cái năng lực cá nhân mình, dầu cho ong kiến hay các thú vật, hiển nhiên trước mắt của chúng ta đã ngó thấy cái khuôn luật ấy nó buộc mình phải sống hiệp quần với nhau mà thôi.

Thảng như có cái tình cảnh éo le mà họ phải lìa cái đoàn thể của họ, nó tỏ ra trước mắt ta ngó thấy cái tình trạng buồn thảm thê lương thế nào ?Các nhà thi gia khi cầm cây bút để tinh thần thi sĩ của mình nhìn lại vạn vật ngó thấy cái cảnh tượng ấy, nó làm cho họ cảm kích thế nào.

Chúng ta thử thấy một buổi chiều kia trời hầu khuất, vạn vật đìu hiu, giữa không trung một con nhạn lạc nào đó bay vơ vẫn một mình, đời nó chích đôi lìa bạn không có đoàn thể gì, cái tâm hồn của nó ta cảm khích thế nào ? Ðau đớn cho tình trạng con vật đó biết bao nhiêu mà nói. Trước mắt chúng ta đã thấy con kiến, thử thấy một con kiến đã chết, đàn kiến cốt yếu cả ngày lo ăn, duy có kiếm sống kiếm ăn mà thôi, có một con kiến chết giữa đường, nó liền bỏ phận kiếm ăn ấy, phận sự vĩ đại trọng hệ là vác con kiến ấy về tổ.

Chúng ta muốn thí nghiệm, bắt một con ong trong ổ ong liệng vô trong cái mành mành của con nhện cho dính, thì thấy một bầy kia nhảy vô dính cả bầy cả lũ, cốt yếu đến giải vây cho bạn, đến nước nhào vô không còn năng lực nào cản nỗi, đã quá đông thì sẽ tiêu dứt mảnh nhện ấy, đặng cứu bạn.

Con chim ở trên trời, loài người đã khôn ngoan bắt một con bạn của nó cột cẳng hay xỏ mũi cho dính trong bẩy đặng gài, nó nhảy nha nhảy nhót, những con kia thấy cảnh thương tâm, nó xuống chịu khổ với bạn, nên mới bị bắt.

Chúng ta ngó thấy vạn vật vậy, hỏi vạn vật đã đối với nhau dường ấy, Thiên luật định vạn vật đối với nhau như thế. Còn ta đây. Hỏi ta đối với bạn đồng sinh của ta thế nào ? Ðối với vạn vật chúng ta có biết đau đớn khổ não của họ chăng ? Ðối với bạn đồng sinh của chúng ta, bạn loài người của chúng ta, ta biết có đau thảm, có sầu tủi khổ não của họ chăng, biết tình trạng của họ sống thế nào ? Bạn khổ ta biết được định được cả cái khối đau đớn trong thân thể của họ, trong tâm hồn của họ, đối với vạn vật ta thấy cái cảnh thê lương như thế. Còn trong Ðạo đối với bạn đồng sinh, bạn người của ta đây một kiếp sống trọn vẹn chung cùng với họ, chia đau sớt thảm, tình trạng họ như ta, hễ họ khổ não thế nào ta khổ thế đó. Rồi thử chúng ta làm bộ để dấu hỏi thiệt phận của chúng ta đối với họ thế nào ?

Hại thay ! Trong vạn vật dầu cho thú cầm côn trùng đi nữa cũng như quả kiếp con người. Nó có nguyên vật, hóa vật, quỉ vật như người vậy. Nó cũng bị quả kiếp vậy. Trong khi quả kiếp ấy, khuôn luật quả kiếp ấy, nó có thể để cho chúng ta biết rằng :Con người của ta duy có Tu, Chơn Tu của mình có thể đầu kiếp lên trong cảnh hiền lành chất phát, còn những kẻ không Tu thì hung hăng bạo ngược.

Con vật kia cũng thế, hễ nó có thiện căn của nó, nó hiền lương kêu là lương vật. Bởi như thế có qủa kiếp thì nó phải vay trả với nhau thành ra ác vật, chẳng phải vì ác vật ấy mà ta bỏ qua lãnh đạm với bạn đồng sinh của ta, chúng sẽ để câu hỏi: Ngài thật hiền lương ạ ! Ngài thương vạn vật, như con cọp, như beo thú kia, Ngài định phận nó như thế nào ?

Bần Ðạo nói nó đã bị quả kiếp, một ác kiếp của nó, nó đối với con vật ác nghiệt lắm, nó đối với con vật thế nào thây kệ nó, ta duy có biết thương quả kiếp yêu nghiệt của nó, đau đớn cho nó. Chúng ta không thể cừu hận oán ghét tàn sát nó. Cũng như loài người, con người kia sẽ hỏi Ngài, có tình cảm đối với tất cả kẻ hiền lương nhơn đức, kẻ hung bạo tàn ác kia đã giết người cướp của, tàn sát thiên hạ kia có tình cảm với họ, đồng với tình cảm kẻ thiện lương kia chăng ? Chắc Bần Ðạo cũng trả lời như thế ấy.

Vì quả kiếp nó tàn ác, con đường đi lên nó không đi, nó đi xuống mang thú hình, thì ta thấy kệ nó. Ta chỉ biết đau đớn tủi hổ dùm cho nó vậy thôi, ta chỉ biết khóc với giọt huyết lệ của ta với nó mà thôi, chớ chúng ta không có quyền oán ghét nó, bởi kiếp sống nó đau khổ như kiếp sống của ta. Lời tục ta có nói : Ðồng bịnh tương thân, Ðồng khí tương cầu.

Của nó thế nào ta thế ấy, đau khổ nó thế nào ta thế ấy, không quyền ghét bỏ tàn sát nó. Ðó là thiệt phận của ta đó vậy. (Thuyết Ðạo QV / tr34)

*  *  *

15. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Lễ Thượng Nguơn - Ðêm 14 tháng 1 năm Nhâm Thìn ( 1952 )

Thiệt phận của chúng ta đ/v đạo nghĩa

Hôm nay là ngày rằm Thượng Nguơn, thừa dịp Nguơn trọng hệ đối với các đẳng linh hồn tiền vãng, hậu vãng, nên Bần Ðạo giảng cái đề thiệt phận của chúng ta đối với đạo nghĩa, là đối với toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy.

Vả chăng chúng ta, mỗi cá nhân đều đặng một quyền vinh diệu tức nhiên là cái quyền làm phần tử của nhơn loại. Ta là một phần tử, nói rõ ra tức nhiên ta là một phần trong 2.500 triệu con người ở mặt địa cầu nầy. Muốn biết cái thiệt phận của chúng ta đối với 2.500 triệu con người ở mặt địa cầu nầy mà chúng ta gọi là Ðời ấy, chúng ta ít nữa cũng phải biết Ðời là gì ? Rồi mới định phận của mình đối với họ trong mực thước chuẩn thằng, đặt phận của mình, nếu mình không biết giá trị của toàn thể nhơn loại, e cho chính mình không biết cái giá trị của mình nữa mà chớ !

Ðức Chí Tôn đã để trong lòng dạ của Ngài, nên Ngài đem đến Thánh Giáo đến lập Chơn Truyền của Ngài, cốt yếu Ngài đến đặng lập thiệt vị cho con cái của Ngài. Cái thiệt vị con cái của Ngài từ thượng cổ đến giờ, nhơn loại đã hiểu mảy may chút ít. Nhứt là văn minh Á Ðông của chúng ta đã để một tiếng rất nên hữu duyên và hữu vị, đã nói toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, gọi là Thiên Hạ, nói rõ ra cái tên ấy là ông Trời dưới, Thiên là Trời, Hạ là dưới, ông Trời dưới nghĩa là kế ông Trời trên, Thiên Hạ ấy nó đã tỏ ra cho thấy cái đặc phận của loài người trên mặt địa cầu nầy.

Ðức Chí Tôn muốn dành để cho họ phẩm vị gì ? và phận sự của họ phải làm gì ? Từ tạo Thiên lập Ðịa đến giờ chúng ta đã rõ được nguồn sử của nhơn loại tiềm tàng khảo cứu, chúng ta đã ngó thấy tinh thần của con người, dầu ai có muốn chối cãi tinh thần ấy chủ quyền của cái sống họ cũng không được. Tại sao ? Tại họ đã thọ lãnh cái điểm linh về tinh thần của họ nơi Ðấng tối linh kia. Ðấng tối linh ấy ban cho họ, muốn cho nhơn loại từ từ đi từ phẩm vị con người đạt cho đến quyền năng, đạt cho tới cái địa vị làm Trời hữu hình tại thế nầy đó vậy.

Chúng ta đã gọi Ðức Chí Tôn dành để phận sự họ làm Trời hữu hình tại thế nầy, cái phận sự ấy thế nào Bần Ðạo không cần minh tả, cả thảy con cái của Ngài tầm hiểu, mình đã gọi Ðấng tạo thiên lập địa làm Chúa cả càn khôn vũ trụ là chủ, là Trời, là Chúa tể của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vinh vang cao trọng quyền năng vô đối ấy, nó ra thế nào thì Bần Ðạo nói quả quyết rằng ông Trời con tức nhiên ông Trời dưới cũng quyền năng như thế ấy. Bởi vì Ðức Chí Tôn tức nhiên Ðấng tạo hóa càn khôn vũ trụ muốn cho họ thế ấy, và ban quyền cho họ đoạt đặng địa vị thế ấy, nói rõ ra cái giá trị của toàn thể nhơn loại là ông Trời hữu hình tại thế nầy đó vậy.

Khi chúng ta đã nhìn quyền của họ, nhìn tước của họ, chúng ta tự biết phận của chúng ta, chúng ta chỉ biết làm tôi, chỉ biết phụng sự cho Ðấng ấy mà thôi, chớ không mong mỏi gì làm chúa của họ đặng, biết bao nhiêu kẻ mon men muốn làm chúa toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy với võ khí, với phương pháp hung bạo tàn ác, chiếm thâu những kẻ yếu hèn bạc nhược để họ sai làm tôi mọi cho họ bất quá là một phần thiểu số kia mà thôi, nếu toàn thể nhơn loại mà họ muốn làm chúa thế ấy, thì người chúa của họ có thể định sống chết của họ mà chớ.

Chúng ta đã ngó thấy ở nơi mặt địa cầu nầy không màu da nước tóc nào khác nhau, trong hàng phẩm nhơn loại kia là anh em đồng sinh của ta, cả thảy nhơn loại trên mặt địa cầu nầy là đại gia đình, là anh em cốt nhục của ta, chúng ta không có quyền làm chúa, chỉ biết làm tôi làm tớ họ theo Thánh Ý của Ðức Chí Tôn muốn mà thôi.

Ngày giờ nào không lấy Luật Thương Yêu thiên nhiên của Ðức Chí Tôn để trong tâm não của họ, thì họ chưa hề có can đảm làm phận sự tôi tớ của họ mà phụng sự nhơn loại một cách đắc lực, một cách vui vẻ, một cách hữu hạnh, hữu phước, một cách làm cho mình có thể chung lại với nhau đặng hưởng hòa bình yêu ái của toàn nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy.

Muốn làm chúa thời phải thiệt hiện hòa bình tâm lý trước đã và hòa bình hình chất sau. Nhưng chỉ có đức thương yêu của Ðức Chí Tôn để nơi tâm khảm của chúng ta làm khí cụ, làm môi giới dìu dắt và nâng đỡ họ, thì họ mới có thể hưởng cái hạnh phúc ấy mà thôi. (Thuyết Ðạo QV / tr 05)

16. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
Ðêm 30 tháng 5 năm Quí Tỵ ( 1953 )

Tánh đức Khiêm Tốn

Mấy em thanh niên nam nữ lưỡng phái.
Ðêm nay Bần Ðạo giảng đặc biệt cho mấy em đó. Cái tương lai của cơ nghiệp Ðạo, tương lai của Thánh Thể Ðức Chí Tôn đào tạo cho mấy em, mấy em sẽ nối chí cho chúng Qua hay là mấy em lập thân danh đặng, một ngày kia vào hàng Thánh Thể Ðức Chí Tôn tại thế nầy.

Qua còn giảng giải cho mấy em đi trong khuôn khổ của Ðức Chí Tôn. Muốn cho mấy em phải đào luyện nên Qua nói phần Tu tức nhiên trau giồi tánh đức của mấy em đặng xứng đáng cái phận sự trọng yếu của mấy em tương lai ngày sau kia.

Hôm nay Qua giảng về sự thật và cái hay của tánh đức hạ mình và khiêm nhượng đổi trở lại phản lực của nó là: Tự cao, tự tôn, tự đại.

Chúng ta thử xét đoán tại mặt thế nầy, ta mang thi phàm xác thịt cũng như ai, ta xét đoán lại coi ta có hơn ai chăng ? Có đặng hơn cái chi mà ta tự cao, tự tôn, tự đại ? Cũng ở trong lòng mẹ mà ra, ai cũng sanh trong một khuôn luật như ta. Thân mình cả thiên hạ nơi mặt địa cầu nầy 2.700 triệu người, ta thử so sánh có thể hơn 2.700 triệu người đó hay chăng ? Mà ta tự tôn, tự đại. Ta cũng như một hột cát ở bãi sa mạc kia.

Lấy theo tình lý mà luận, đầu ta cũng một đầu, thân ta cũng một thân, ta không phải ba đầu sáu tay hơn ai mà ta tự tôn, tự đại, nếu lấy theo hình thể mà luận thì thân nầy thế nào, thì thân của bạn đồng sanh ta cũng như ta vậy. Ta không có lý do gì gọi ta hơn kẻ đó, hơn bạn đồng sanh ta mà ta tự tôn, tự đại. Nếu như ta luận về mặt tinh thần, tại sao ta còn được Ðại Từ Phụ ban cho ta khôn khéo léo, biết nên, hư, phải, quấy, lấy tinh thần đặng định hướng cái mạng sống của mình coi có mục đích chuẩn thằng không ?

Ôi ! Thoảng như bạn đồng sanh ta thiệt thà hơn ta, thiếu kém về mặt trí thức tinh thần hơn ta, ta ngó thấy nếu ta hơn bạn ta là nhờ căn tu của ta dày hơn họ chút thôi, còn căn tu của họ mỏng hơn ta một chút mà thôi, lấy theo lý luận về căn tu ấy, thì ta hơn họ, hơn mảy may mà thôi, hơn một chút xíu thôi, không phải đủ mà ta tự cao, tự tôn, tự đại.

Trái ngược lại, nếu người bạn đồng sanh thiếu kém hơn ta, khiếm cảnh tu hơn ta, mạng căn quả kiếp nặng nề hơn ta, thì ta phải thương yêu họ, tội nghiệp dùm họ, chớ ta không có quyền nào thù ghét họ, coi họ là hèn hơn ta, ta cao trọng hơn họ là không có lý do vậy.

Bây giờ trái lại cái phản lực đó, chúng ta thử nghĩ coi, mình phải khiêm nhượng chơn thật hay xảo trá ? Nếu kẻ nào tự cao, tự tôn, tự đại, mà giờ phút nầy không biết hạ mình đặng chiều chuộng người, thì đời nó không buổi nào thiên hạ thương được, dầu cho từ buổi nhỏ dĩ chí trăm tuổi già đến chết nó vẫn học mãi thôi, không buổi nào gọi tự đủ.

Ðời nó 100 tuổi vẫn tiềm tàng học mãi, học sách đời, học sách thánh hiền để lại học cả cái hay cái khéo léo của các vị giáo chủ đạo đức tinh thần để lại, mà nếu không biết khiêm nhượng thì không ai thèm vậy mà chúng còn ghét là khác, nếu kẻ nào như vậy thì chúng bỏ xó phải chịu cái phận khổ não mà thôi, không ai thèm dạy hết, bởi vì người ta ghét, không ai ngó ngàng tới đâu có dạy dỗ gì mà nên được, dầu cho một kẻ thiếu niên kia mà biết khiêm nhượng phục sự một ông già.

Tuổi mình đang thanh niên mà đặng ông già giáo hóa mình, khi tuổi mình còn non mà trí đặng già là nhờ biết khiêm nhượng. Còn như những kẻ không biết hạ mình hiu hiu tự đắc, tự cao, tự đại, thành ra cái giá trị của nó đối với thiên hạ vì kiêu một chút mà người ta bất mãn, vì nó tự cao, tự tôn, tự đại, xấc xược dối trá không đáng giá gì hết, mà lại chọc cho thiên hạ ghét gớm thân danh mình thì dầu cho học bao nhiêu người ta cũng vẫn ghét vẫn gớm thôi.

Bây giờ cái tánh đức của sự khiêm nhượng, lấy theo hình thể mà luận, mình biết thân mình, mình vẫn kiếm thế học mãi. Mình vẫn hạ mình kiếm thế hiểu lấy mình và biết người, thì sự khiêm nhượng hạ mình có cái hay, dầu cho cái giá trị của mình không nên gì hết, nhờ sự khiêm nhượng mà người ta thương mình, nâng đỡ mình, dìu dắt mình, đưa mình lên phẩm vị xứng đáng với mình, cũng nhờ sự khiêm nhượng ấy mà người ta tôn tặng. Cái đó nói thiệt là hơn, còn những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại, nếu mình đi con đường nguy hiểm tới trước mắt chết cũng thây kệ mình cũng không ai nói, là vì chúng ghét.

Nhưng hại thay ! Chúng còn bắt mình làm một sanh vật để họ thí nghiệm. Bây giờ lấy tinh thần mà luận, sự khiêm nhượng buộc mình phải khiêm nhượng, chính mình chưa đủ gì hết. Ðức Khổng Phu Tử kia còn bị một đứa con nít là Hạng Thác dạy Ngài thay ! Ðến khi gặp Ðức Lão Tử, Ngài nói, cái thuyết nhơn luân để tạo xã hội cho thế gian. Cái thuyết của Ngài, nếu ta nghĩ Ðạo của Ngài thì rộng không biết bao nhiêu, mà Ðạo của Ngài đối với Ðức Lão Tử nó vẫn thơ sinh, thì chẳng hề khi nào làm thỏa mãn đặng cả nhơn tâm của thế thái nhơn tình được. Cái thuyết lập xã hội thơ sinh của Ngài đối với Ðạo của Ðức Lão Tử thì nó già, còn của Ðức Khổng Phu Tử còn thiếu niên, còn thơ ấu nên bị Ngài trích điểm.

Thử nghĩ một vị Thánh như Ðức Khổng Phu Tử bị một đứa con nít dạy, rồi bị ông già chê mà Ngài cũng khiêm nhượng, nên chúng ta nhìn nhận Ngài là một vị Thánh sống hiển hiện tại thế.

Còn những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại bất quá làm hề cho mọi người thiếu trí coi chơi chớ cái giá trị không đáng gì hết, rốt chuyện thiên hạ coi nó là giả không có giá trị chi đâu mà tự cao, tự tôn, tự đại. Bần Ðạo nói những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại là giả dối, người đó không còn cái giá trị gì đặng sống cùng thiên hạ xã hội nhơn quần, vì họ mất cả tinh thần, cả hình thể đó vậy.

Ấy vậy mỗi kiếp sống của chúng ta đây, Bần Ðạo thường giảng là cái kiếp duyên, chỉ sống đây là một kiếp thường mà thôi còn cái tánh đức tự cao, tự tôn, tự đại không khi nào thiên hạ thương được, nên kiếp sanh ấy xét ra sống chi vô ích, không ăn thua gì hết.

Bần Ðạo thường giảng, cái sự yêu thương là một của cải Thiêng Liêng, nếu cả toàn thể con cái Ðức Chí Tôn tạo nó đặng, thì dầu cho Cửu Phẩm Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.

Bần Ðạo đã nói :
Nếu chúng ta làm cho người chí thân ta, trong thân ta, máu thịt ta, thương ta được, giá trị nó là: ĐỒNG
Làm cho những kẻ không phải trong thân ta, người ngoại nhân kia, thương ta được giá trị nó là : BẠC.
Làm cho những kẻ thù địch ta, thương ta được giá trị nó là : VÀNG.
Ba món báu ấy mà tạo đặng, thì cái kiếp sanh nầy dầu cho Cửu Phẩm Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng. Thuyết Ðạo QV / tr157)

*  *  *

17. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm mùng 1 tháng 5 năm Quí Tỵ ( 1953 )

Thiện căn ở lòng ta

Bần Ðạo thấy dường như con cái Ðức Chí Tôn càng ngày càng lu lờ, đêm nay đi cúng coi lơ thơ có bấy nhiêu thôi. Ðáng lẽ hôm nay không giảng Ðạo, nhưng dầu có một người Bần Ðạo cũng vẫn thuyết.

Ðêm nay Bần Ðạo giảng về nguyên do của tánh đức và nguyên do của trí thức.

Tánh đức của con người bao giờ cũng có vẽ thiên nhiên của nó, chúng ta không cần phải quan sát, chúng ta thấy hiển hiện nguyên căn tức nhiên nó do nơi tiền kiếp tâm hồn của ta xuất hiện. Trí thức nó thuộc về mạng, tức nhiên nó do một hiện tượng kiếp sanh của chúng ta. Chúng ta đoạt được địa vị tối cao là do nơi chúng ta chịu khổ tu hành. Khi trí của chúng ta nó biểu lộ thì chúng ta tưởng rằng : Có thể thức mình đã đoạt Pháp đặng.

Từ thượng cổ các nhà triết học Á Ðông đã quan sát tận tường cái hình trạng của trí thức tinh thần rồi. Các bậc Thánh nhơn ngày xưa cũng thế, nên mỗi ngày hằng buổi họ tự hỏi mình cái tánh đức của tôi nó có phương thế điều hòa với trí thức tinh thần của tôi không ? Nếu không thì làm thế nào cái trí thức nó điều hòa với tánh đức đặng.

Nhưng tới ngày giờ nào chúng ta thấy cái tánh đức đó nó chưa trở lại với trí thức của mình thì chúng ta có thể nói chúng ta chưa đoạt vị đặng. Từ thượng cổ chúng ta thấy không biết bao nhiêu giả thuyết họ học họ biết, nhưng họ không biết nguyên căn là đâu, nên các bậc hiền nhân cho rằng : Phải đoạt Thần mới đoạt vị đặng, việc ấy không sai không chạy được.

Trước kia vì cái huyền bí của Ðạo chưa định quyết được, nên các nhà triết học như ông Tô Ðông Pha có để trong sách ba hạng người.
- Thượng Phẩm chi nhơn bất giáo nhi thiện.
- Trung Phẩm chi nhơn giáo nhi hậu thiện.
- Hạ Phẩm chi nhơn giáo diệt bất thiện.

Nghĩa là bậc Thượng Phẩm chẳng dạy mà hay. Bậc Trung Phẩm dạy mà sau hay. Còn bậc Hạ Phẩm dầu dạy cũng không lành là tại sao ? Là tại họ chưa biết.

Cái nguyên căn của các bậc Thượng Phẩm họ đã tạo thành là do nơi căn Tu của họ đạt đến địa điểm. Trên có thể thông suốt cả Thiên Cơ, dưới có thể đạt được địa lý, việc ấy chẳng phải trong một kiếp sanh mà đạt được, nó phải nhiều kiếp sanh mới đạt được.

Trước kia theo Ðạo Giáo người ta có giả thuyết nói rằng : Con người trước khi đi đầu kiếp thì bị mụ bà cho ăn cháo lú, tức nhiên cho ăn cháo ấy đặng ta quên hết tiền kiếp của ta, cái đó có thể có và đó là theo về tín ngưỡng. Còn về mặt triết học chúng ta có thể nói : Nếu chúng ta tin có quả kiếp của chúng ta thì chúng ta biết kiếp trước là gì? Kiếp nầy là gì ? Nếu kiếp trước thảm khổ thì giờ buổi nầy phải gánh một gánh đau thảm chồng chất gớm ghê, rồi trong kiếp sanh nầy chịu đau khổ không kham không nỗi. Nếu kiếp trước chúng ta vinh diệu thì kiếp nầy chúng ta được an ủi sự vinh diệu ấy có thể tồn tại nơi mặt thế gian nầy được. Nếu rủi kiếp trước chúng ta phải bị thảm khổ, rồi kiếp nầy chúng ta chịu thảm khổ nữa thì chẳng hề khi nào chịu nỗi và nó không có tồn tại nơi mặt thế gian nầy nữa đâu.

Vì cớ cho nên quyền lực Thiêng Liêng buộc họ phải quên cái tánh đức cái trí thức kia đi, nên khi đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh phải học, phải tìm, phải hiểu, tới chừng tìm hiểu được là nhờ cái ấy nó mở khiếu ta, ta mới định cái nguyên căn của ta được, một bằng cớ hiển nhiên là một vị Phật vương tức nhiên Ðức Ðạt Ma ( Dalayama ) Ðấng ấy tái sanh được làm vua mà triều chánh lúc trước có một vị Ðạo Quang giữ gìn cả chơn truyền pháp luật và truyền kế nhau mãi mãi, khi Ngài đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh kia ở trong gia đình ông Ðạo Quang đó, nhưng khi ấy vị quan kia biết vị Phật đầu kiếp là đứa con nít đó, nhưng Ngài cũng phải dạy dỗ và giáo huấn nó.

Ấy vậy, cái căn nó không đồng với mạng, cái mạng chẳng hề khi nào trái ngược lại được, bởi vì trong truyện Kiều ông Nguyễn Du có để chữ Tài, chữ Mạng không có đồng nhau, nên căn kia với tài nọ không có gì hết, bất quá đầu ấy là một đầu dư thừa thôi. Mạng kia có tài mà không có thiện căn thì không làm gì được, nếu không có thiện căn tức nhiên không có Thiên mạng, mà nếu không thiện căn thì chẳng hề khi nào thắng được kiếp quả của mình được.

Ấy vậy thuyết đêm nay là Bần Ðạo chỉ cho toàn thể con cái Ðức Chí Tôn biết rằng :Chúng ta Tu là nhờ nguyên căn của tiền kiếp nên giờ phút nầy chúng ta mới gặp Ðạo, gặp Ðức Chí Tôn đến với chúng ta. Tánh đức của chúng ta nó điều hòa với trí thức là do nơi sự Tu của chúng ta đó.

Ông Tô Ðông Pha đã nói : Ngày giờ nào mà tự mình biết mình là đi đến Thượng Phẩm chi nhơn, và tới chừng đó có thể nói kiếp Tu của chúng ta có thể đoạt vị và đắc quả đặng.

Vậy toàn con cái Ðức Chí Tôn rán cố gắng, một ngày kia vào Tịnh Thất chúng ta phải chuyên chú đặng đeo đuỗi theo chữ Mạng. (Thuyết Ðạo QV / tr132)
18. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Ngày 17 tháng 5 năm Quí Tỵ ( 27-6-1953 )

Chữ Tâm

ÐHP phủ Dụ Giáo Chức & Học Sinh Trong cuộc Lễ Phát Phần Thưởng Tại Trường Ðạo Ðức Học Ðường.
Thưa cùng chư chức sắc Thiên phong nam nữ, chư quan viên, các yếu nhân nam nữ đã đến dự lễ phát phần thưởng nầy làm cho thêm phần long trọng. Bần Ðạo xin kiếu lỗi mấy Ngài, mấy bà cho Bần Ðạo để lời với con cái của Bần Ðạo.

Các con giáo viên Ðạo Ðức Học Ðường, sự khổ hạnh, sự hy sinh của các con từ khi mở Ðạo đến giờ đã un đúc tinh thần trí não của đàn em mấy con hôm nay đã kết liễu. Cái nên của Ðạo Ðường nầy, mỗi công trình vĩ đại của các con, Ðạo Sử đã ghi chép.

Hôm nay đến đây Thầy không để lời cám ơn các con, bởi vì lời cám ơn ấy nó ở đầu môi chót lưỡi không có giá trị gì. Thầy chỉ chúc có một điều là lòng yêu ái của Thầy tương hiệp với các con, vì nó là báu vật để cho Thầy đối với các con đó vậy.

Chúng ta sanh làm người đứng giữa vũ trụ nầy, đứng trong hoàng đồ Việt Nam, giờ phút nầy chẳng qua là một phần tử trong xã hội thôi, Bần Ðạo thường nói, chúng ta cũng có một thân thể, một đầu óc. Thân thể ấy, đầu óc ấy cũng như thân thể đầu óc ai kia vậy, không hơn, không kém. Nếu chúng ta làm đặng điều gì đắc lực về tương lai, định vận mạng cho xã hội, định vận mạng cho nòi giống, cho tổ quốc là đều do chí cương quyết của ta hiệp chủng đồng tâm, nhứt trí, đa số tinh thần thống nhứt lại, thì cái hành tàng năng lực mới có thể hoạt bát đặng.

Các con cũng như Thầy, Thầy hồi nhớ lại khi mới mở Ðạo, một thân côi quạnh bị cường quyền áp bức. Ðạo lúc đó còn đang trong buổi phôi thay như trứng mỏng kia. Ðời lại bị lệ thuộc, dân nghèo đồng bào khổ não, cảnh tượng chết trước mắt, chết lần, chết mòn, làm cho tinh thần của Bần Ðạo thống khổ biết bao nhiêu. Nhưng Bần Ðạo vẫn cương quyết rằng, một thân làm không nỗi, mà cái sở vọng của ta quyết đem ra cứu nước, cứu dân thì nó sẽ đạt được cái sở vọng ấy.

Nếu ngày giờ nào ta có thể nào tạo các thanh niên đoàn hậu tấn của chúng ta họ nhứt tâm nhứt đức, thì ta mới có thể cứu vãn tình thế vận mạng nước nhà và chủng tộc đặng. Vì cớ cho nên ta phải cố gắng, các con thấy buổi sơ khai Ðạo như thế nào ? Nước nhà các con thế nào ? Vì Thầy cũng có đầu óc như các con chớ có lạ gì đâu. Có lạ chăng là nhờ huyền diệu Chí Tôn ban cho Thầy để thống hợp cả tinh thần các con lại làm một cho nên hình, nên tướng và Thầy giảng cho các con hiểu thêm rằng buổi nọ thiên hạ đã áp bức, chê đè, nhục mạ Bần Ðạo biết bao nhiêu, nhưng Bần Ðạo có thể an ủi đặng là Bần Ðạo tự nói rằng: Một thân ta có thể các người chà đạp đặng, chớ khối hậu thuẫn tương lai chưa hề ai chà đạp đặng.

Vì chí hướng cương quyết và can đảm ấy, nên hôm nay tinh thần đạo đức nầy vẫn tiến triển mãi và thống nhứt trở lại làm một khí cụ vững chắc và mạnh mẽ hơn định vận mạng cho nước nhà đương nhiên bây giờ đó vậy.

Tinh thần các con cũng như tinh thần của Thầy, hết thảy đều đem chí hướng tương lai, nòi giống do đám thanh niên của mấy con đào tạo thế nào, thì cái hình trạng của Thầy đào tạo các con thế ấy. Rồi đây nó sẽ từ từ tiến tới với một vẽ đẹp của chúng ta, chúng ta hãy cố gắng làm cho hiện tướng ra đặng đào tạo cả tương lai kia, thì chúng ta mới có thể định trước một tương lai tốt đẹp cho nòi giống nước nhà đó vậy.

Mấy con học sinh nam nữ ! Ở thế gian nầy có hai năng lực tinh thần là:
1. / Chữ Tài
2. / Chữ Tâm

Chữ Tài với chữ Tâm các nhà triết học chúng ta buổi trước đã trích điểm, họ đã để hình trạng nó như thế nào, họ tả ra cái hình trạng của nó vô hình. Nhưng các bậc tiền nhân nòi giống của chúng ta đã rạng tỏ một cách có thể nói sáng suốt tỏ rõ không có gì gọi là mờ ám.

Chữ Tài chữ Tâm kia, hai tinh thần đó giờ phút nầy nó tương đương với nhau, và nó tranh đấu đặng định hướng cho nhơn loại và định tương lai cho nòi giống hay chăng ? Có chớ ! Nhưng chúng ta cần phải coi lại tình trạng đương nhiên chúng ta đã thấy rõ rằng : Chữ Tài với chữ Tâm, hai tinh thần đó giờ phút nầy nó đang tranh đấu với nhau, tranh đấu để định vận mạng cho nhơn loại đó vậy.

Ở phương Âu dường như chữ Tài thắng hơn chữ Tâm, chữ tài ấy nó đã xô nhơn loại đi đến địa điểm nào ? Thử hỏi hai trận đại chiến ở Âu Châu nó làm cho nhơn loại giết lẫn nhau phải chăng là một bài học hay về chữ Tài ấy hay chăng ? Còn chữ Tâm kia vẫn mịch mờ biến mất theo thời gian.

Phải chăng Ðức Chí Tôn đến đặng làm cho rõ ràng chữ Tâm nơi Á Ðông nầy hay chăng ? Có lẽ Bần Ðạo tin quyết như thế đó. Nếu nhơn loại không tin tưởng chữ Tâm, lại chạy theo chữ Tài thì sẽ đi đến chỗ tiêu diệt. Vì cớ cho nên chúng ta phải nhìn nhận rằng :Chữ Tài chữ Tâm phải đi đôi với nhau. Nếu chữ Tài mà không có chữ Tâm thì không được.

Hai cái tinh thần tâm não ấy của nhơn loại nó phải đi đôi với nhau mới có thể bảo tồn vĩnh viễn mạng sống của nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Ghê gớm hơn hết là giờ phút nầy vận mạng tương lai của nhơn loại có thể tiêu diệt đặng trong khi nhơn loại hưởng được chẳng biết một phần thưởng hay một hình phạt về tương lai. Hai khối tinh thần ấy nó có một quyền lực vô biên vô đối, nó có thể cứu vãn sanh mạng nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy là chữ Tâm, mà cũng có thể tiêu diệt cả toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy là chữ Tài, là năng lực nguyên tử đó vậy.

Phải chăng cái năng lực ấy nó làm môi giới cho chữ Tài và chữ Tâm thí nghiệm với nhau hay chăng ? Thầy mong ước cho các con nhìn vào chữ Tâm làm chuẩn đích, chữ Tài nó là thừa, vì chữ Tâm của nòi giống mấy con đã 4.000 năm lập nghiệp dưới lệ thuộc của các sắc dân mạnh mẽ, đa số dưới hòang đồ nước Tàu đã bảo vệ tinh thần nòi giống cho tới ngày nay còn tồn tại vĩnh viễn.

Tâm ấy nó chẳng đâu xa chỉ tìm kiếm là có hiển nhiên, vì nó ở trong đầu óc của các con, trong năng lực của các con. Các con thâu đoạt cả tương lai của thiên hạ đem làm khí cụ đặng định hướng cho tương lai của mấy con mà thôi. (Thuyết Ðạo QV / tr147)

*  *  *

19. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Ðền Thánh, thời Tý.
Ðêm mùng 9 tháng 11 năm mậu Tý ( 9-12-1948 )

Năng lực tinh thần đạo đức

Hôm nay Bần Ðạo định thuyết con đường dục tấn của chúng ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Có một vấn đề trọng yếu do một trường ngôn luận tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, cho nên ngày nay Bần Ðạo thuyết về "năng lực của tinh thần đạo đức"

Cái sở năng của mình cũng như cái huyền bí vô cùng tận của càn khôn vũ trụ, bởi vì nó sản xuất do tánh đức di truyền của nguơn linh mỗi người chúng ta, cho nên con đường dục tấn trí thức của toàn nhơn loại trong càn khôn vũ trụ với cơ quan hữu hình tức là xác thịt họ đối lại phần vô vi tức là nguơn linh trong càn khôn vũ trụ chưa có mức hữu định, còn dục tấn mãi.

Sự dục tấn ấy Thiêng Liêng đã định phân, ghi một cái mức cho bước đi mỗi người, mức dục tấn ấy là mức Thần, Thánh, Tiên, Phật rồi đến Trời là cuối cùng. Các năng lực đó đã để một trường ngôn luận kịch liệt tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa.

Sở năng của mỗi người không đồng nhau, địa điểm các chơn linh không phẩm mà không đồng phẩm tức không đồng vị, mà không đồng vị tức là khác tánh chất. Cho nên không người nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn linh có địa vị riêng tư của mình, địa vị ấy tạo thành do phương tu của mỗi người đạt đặng.

Bởi không giống nhau như thế mới nảy sanh một trường hổn loạn. Nếu cả nhơn loại trên địa cầu nầy biết được đặc điểm của địa vị mình, Bần Ðạo dám chắc mỗi người sẽ tự hiểu, tự trọng, tự an theo địa vị của mình, thì không hề có trường tranh đấu vĩ đại như ta đang thấy ngày nay. Nếu Staline biết địa điểm của mình thì không cần chiến đấu với Marshall với Truman, cầm chắc nếu Hitler biết đặc điểm của mình, địa vị chơn linh của mình thật đứng nơi nào chưa hề nghịch với Churchill, Reynaud đến nỗi có trận giặc thế giới chiến tranh thứ nhì.

Hay biết chẳng chi hơn bực tự giác kia, biết mình biết người, tự giác mình đặng, tức hiểu địa vị của mình đến đặc điểm nào, mới an phận thủ thường, mới xử vẹn đời sống của mình đặng. Người đủ biết đặc điểm địa vị chơn linh của mình đứng vào phẩm vị nào thì thủ thường tự an, tự lạc, dầu cuộc sống có đảo lộn thế nào đi nữa, đủ chủ định tinh thần mình, không ai làm cho ngã nỗi, ấy là các chơn linh biết tự chủ một cách đặc sắc vậy.

Nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa có nhiều chơn linh ấy về đặng. Thật không có chơn linh nào dưới thế gian nầy không muốn tu, có kẻ đỗ thừa tại đời sống đa đoan, nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc, nào ruộng nương đổ thừa thôi đủ thứ, cả đến chức tước quyền hành. Muốn tu ngặt không có bề thế tu đặng.

Sự thật cũng có nhiều chơn linh muốn tu ; thật tâm muốn mà không làm được. Cũng có kẻ không thế rời cái nhà mình, thậm chí đến không rời cái bà vợ của mình ra được, rồi ngày về Cung Hiệp Thiên Hành Hóa khóc lóc thảm thiết, bào chữa lấy mình, nói: " Tôi muốn tu lắm song tình đời còn dính dấp."

Hỏi các Ðấng trọn lành nơi Cung ấy có cảm xúc chăng ? Họ cười ! Do ai đã đào tạo cho bạn, ai đã buộc ràng cho bạn trong khuôn khổ ấy, chẳng qua do tiền căn báo hậu, bạn đã làm, bạn phải gánh lấy. Không lẽ, như bạn mượn lúa của người ta ăn mùa trước, rồi mùa sau không trả, nói rằng không thiếu nợ. Bạn muốn tu mà không tu được tại kiếp sanh nầy, xác thịt bị lên án tử hình hữu định, tu không được nguyên do tại bạn đã làm, bạn phải chịu, không còn cượng lý gì nữa, ấy là cái nợ của buổi sanh tiền.

Nếu mình nói : 'Tôi không biết nguyên căn mối nợ mà tôi mắc, vì không biết nên trong kiếp sanh tôi không nhìn nó' thì các Ðấng ấy không ngần ngại gì giở Thiên Thơ cho mình được thấy quả kiếp đó mình đào tạo.

Lại chối nữa! 'Con vợ tôi tại sao nó khó lòng quá, bước ra một bước đường là nó ghen, không cho tôi tu hành gì hết.' Tới chừng giở Thiên thơ ra thì đây : Kiếp trước chú mầy làm vợ cũng vậy, kiếp trước chú mầy làm vợ, còn vợ chú mầy làm chồng, tấn tuồng vay trả mà thôi. Không tu được là do quả kiếp lôi kéo không cho chú mầy tu, tại nghiệp chướng của chú mầy, tu rồi ai trả quả cho chú mầy đã tạo trước đây.

Trong thiên thơ nợ cựu, nợ tân lút đầu, mà cửa Hư Linh tức cửa Hiệp Thiên Hành Hóa, các Ðấng trọn lành chưa hề mở miệng chối tội là nhờ ở năng lực tinh thần của họ, nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có, thì Chí Tôn ngày nay chưa đến mặt thế nầy, đặng tuyển chọn cả lương sanh tức là các chơn linh hữu căn hữu kiếp, đặng tạo hình thể của Ngài. Nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có thì Ðạo Cao Ðài ngày nay không nên lập ra.

Ta thấy có một hạng Ðại Giác, mà giống bên lành hay bên dữ, bên thiên lương hay bên quỉ quyền cũng vậy, đều có một năng lực tinh thần đặc sắc của họ. Bằng cớ hiển nhiên trước mắt ! Làm đảo lộn toàn cầu khiến cho nhơn loại phải điên đảo tận diệt, do đầu óc của một người là Hitler, rồi chúng ta còn thấy một bằng cớ nữa quá sức tưởng tượng là lực lượng cộng sản đương tàn hại cả mặt đời buổi nầy, làm đảo lộn cả tinh thần của con người.

Hitler đảo lộn toàn nhơn loại nhờ nương nơi mảnh lực của ngọn gươm mũi súng, chỉ có một người mà thôi. Cái năng lực tinh thần của một người còn có thể làm cho nhơn loại an toàn hạnh phúc hay tự diệt lấy mình đặng, huống hồ chi Thánh Thể của Ðức Chí Tôn do tự Ngài đến chọn, Bần Ðạo dám chắc nếu ngày nào các bạn đến Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, các Ðấng trọn lành hỏi các bạn đủ năng lực và xứng phận chăng, chắc các bạn không bao giờ dám nói : Không. Vì nếu không thì ra sự lựa chọn của Chí Tôn lầm lạc sao ? Quả quyết Chí Tôn không hề lầm bao giờ.

Bần Ðạo nói : Năng lực của một chơn linh Ðại Giác còn có thể làm cho toàn cầu đảo ngược, thì năng lực tinh thần của Thánh Thể Ðức Chí Tôn, nếu nói năng lực đó là của toàn con cái của Ngài hiệp lại tất đoạt được quyền năng mãnh liệt huyền diệu ấy, thì lo gì Thánh Thể của Ngài không tận độ thiên hạ đặng. Không có gì nghi kỵ nữa.

Bần Ðạo quyết đoán phải đặng, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc chầy, hoặc kíp, Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh sẽ làm chủ tinh thần thiên ha. (Thuyết Ðạo QII / tr154)

*  *  *

20. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Ngày 18 tháng 5 năm Quí Tỵ ( 1953 ) .
ÐHP Phủ Dụ Giáo Chức và Học Sinh trong cuộc lễ phát phần thưởng Trường Lê Văn Trung

Lòng yêu ái chơn thật

Thưa chư chức sắc Thiên Phong nam nữ, chư viên quan nam nữ, đã có lòng hạ cố đến dự lễ làm cho càng thêm long trọng cái lễ phát phần thưởng cho mấy em học sinh.

Thầy đã thường nói và Thầy đã tự nghĩ, nếu như Thầy không có giao nơi tay của các con một cái câu Bảo Sanh Nhơn Nghĩa đặng bảo vệ cho tổ quốc, binh vực đàn em của các con được sống còn và đem vào cửa Ðạo, vì cửa Ðạo là một cửa Thiêng Liêng Hằng Sống, một cửa để cứu khổ, một cửa để giải mê cho thiên hạ, thử coi mặt luật ấy nó như thế nào, các con thử nghĩ, cái lẽ bất công của thế gian đang buổi hôm nay, họ đang dùng cái mạnh hiếp yếu, lấy cái khôn chê cái dại, họ đã nương nơi quyền lực nào ?

Phải chăng họ đã nương cái quyền lực của quân đội mà làm những điều đáng tiếc ấy. Thầy đã nói các con chưa hiểu thấu, vậy Thầy chỉ cho các con hiểu theo lối văn minh Âu Châu đã nói ' Brasséculier', còn văn minh của Á Ðông thì dùng thủ đọan nầy. Quân đội của các nước phụng sự cho nhơn loại về chơn lý thì ít, còn về cái áp bức tâm tánh thì nhiều.

Các con giáo chức, các con đã lãnh sứ mạng tạo tinh thần tương lai cho nòi giống của các con. Thầy rất hài lòng về việc đó, các con nên cố gắng thêm lên chút nữa. Bần Ðạo nhớ lại khi mới mở Ðạo có một vị giáo chức đến dâng sớ vấn nạn Ðức Chí Tôn, hồi Ðức Chí Tôn còn xưng là A, Ă, Â. Ðức Chí Tôn cho một bài thi để trả lời:
" Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo Ðời tuy biết Ðời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh."

Ðức Chí Tôn chỉ nói một điểm quang minh mà thôi. Vậy các con hãy dạy cho các con một điểm quang minh đó. Các con cố gắng tạo điểm quang minh ấy cho cả thiếu sinh là đàn em của mấy con, và nó sẽ thừa kế cầm vận mạng của Ðạo, của tổ quốc, của nòi giống, rồi các con sẽ thấy nó không tự kiêu, tự đắc, cái hãnh diện cao thượng đó, dầu cho một kẻ nào khó tánh bao nhiêu cũng phải cúi đầu tôn tặng đó vậy.

Chính mình Bần Ðạo thấy trước cái hành tàng cao thượng của các con, Thầy cũng phải cúi đầu kính mến và tôn tặng. Thầy để lời cám ơn các con đã cho Thầy hưởng được hạnh phúc ấy.

Các con học sinh nam nữ, các con ngó đàn anh của các con, rồi các con sẽ định vận mạng tương lai của các con như thế nào ? Các con đã thấy cái sống của Thầy các con trước mắt là sống eo hẹp, sống vất vã, sống đau khổ, không buổi nào mà Thầy thấy cái sống của Thầy các con đặng mãi mãi hạnh phúc. Mấy con muốn trả ân ấy cho xứng đáng, Thầy chỉ có một điều là mong cho các con khôn ngoan sáng suốt đặng khi ra trường lập nên thân danh làm cho rạng rỡ danh thể Thầy của các con. Một lời tâm huyết Bần Ðạo để trong tâm não của mấy con đặng làm định hướng cho mấy con đó vậy.

Giờ phút nầy trong đường Ðạo của mấy con có hai điều trọng yếu về tinh thần là: Yêu Ái và Chơn Thật. Nếu các con giữ được hai điều ấy, Thầy dám chắc dầu cho gặp khó khăn trở ngại bao nhiêu trên đường tiến bước, Bần Ðạo quả quyết nó sẽ cải hóa một cách dễ dàng và êm thắm. (Thuyết Ðạo QV / tr150)
*  *  *

21. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 6 năm Mậu Tý ( 1948 )

Của cải số một của chúng ta tại thế

Ðêm nay Bần Ðạo giảng tiếp của cải số một của chúng ta ở tại thế nầy, hôm nọ Bần Ðạo đã tả ba hình trạng của cải của chúng ta thế nào rồi.

Ðức Chí Tôn Ngài dìu đường cho cả con cái của Ngài để đoạt đặng của cải ấy, và chúng ta đi từ từ mà đến con đường đoạt cho đặng ba thứ của. Chúng ta có thể làm đại nghiệp cho chúng về hữu hình và về Thiêng Liêng.

Bây giờ Bần Ðạo chỉ nói về của cải số một, tức nhiên là của cải hữu vi của chúng ta, hôm nay Bần Ðạo đã tả cái sở dụng của cải hữu vi của chúng ta. Số người nào biết tìm vạch gia nghiệp ruộng đất cho họ, có các vật chi đã hưởng được, đặng giúp ta sống về phần xác thịt, thì trước khi chúng ta phải hiểu cái căn nguyên của nó trước đã, nó đã giúp cho ta những gì ?

Nó giúp cho ăn mặc, nó giúp cho ta tất cả phương pháp sống về xác thịt chúng ta, chỉ có bao nhiêu làm căn bản. Nếu nói lý luận theo căn bản thì chúng ta là con vật mà thôi. Hình thể của chúng ta có ngũ tạng lục phủ để sống, một con vật nó cũng có ngũ tạng lục phủ nữa, như mình đây con vật ăn cái gì thì mình ăn cái nấy, nó có hai thứ tiếp dưỡng, một là cái ăn gián tiếp, hai là cái ăn trực tiếp, cái ăn gián tiếp, là thứ như con trùng nó ăn đất mà sống, mà hại thay cái tiếp dưỡng trực tiếp thì mạng sanh con người không được bền bĩ vĩnh viễn, còn cái ăn tiếp dưỡng gián tiếp là chúng ta ăn cỏ, cây, trái mà để dưỡng xác ta, nó đem lại cho ta cái tinh ba dưỡng khí vô cùng, còn cái tiếp dưỡng trực tiếp là sát sanh mạng của vật loại để thực nhục thì cái mạng sanh của con người có định giới hạn tu khó mà trường cửu được.

Như thảo mộc phải thí thân đặng nuôi dưỡng cho các loài vật mà thôi, thì ta phải ăn thảo mộc mà chớ, còn một điều cao hơn nữa, nếu là thú vật thí thân để nuôi người thì phải thí thân đền trả cho Ðấng tạo đoan thử hỏi Ðấng ấy có phải bắt chúng ta thí thân đền trả không ? Chắc chắn không. Thì loài vật thí thân để nuôi cái mạng sanh con người không có căn lý nào hết. Con vật nó có hưởng được các đặc ân ăn thảo mộc để tiếp dưỡng đủ nuôi sanh mạng của nó thì mình đâu có quyền đoạt mạng sống của loài vật mà để nuôi mạng sanh của mình.

Chúng ta đã ngó thấy hiển nhiên thời đại nầy họ chỉ sống cái phương sống của người mà họ sát hại sanh vật, làm phương sống của người, thì biểu sao hằng ngày không có cảnh tương tàn tương sát với nhau. Cũng vì cái sống bạo ngược mà chúng ta thâu đoạt của cải đặng để vào cái thân danh của chúng ta, có đất mà không biết trồng tỉa thảo mộc để nuôi mạng sống của loài người, nên Ðức Chí Tôn đã sắp sẵn nơi mặt địa cầu nầy, những căn bản do nơi đất mà ra, để cho loài người nhờ đất mà sống.

Cái lý thuyết nầy chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, không có một mảy may gì mà lại chúng ta không sống nơi đất, Ðức Chí Tôn đã tạo cho chúng ta sống mà lại ban cho chúng ta có một quyền năng để đổi cái sống chúng ta nơi mặt đất nầy. Hại thay, chúng ta đổi đất có thể nuôi thiên hạ được, cái của cải nơi mặt đất nầy có thể nuôi thiên hạ đặng, không tranh giành với nhau mà sống, cái sống của chúng ta rất dễ dàng, mà tại sao chúng ta tạo cái sống khó khăn khổ não mà thôi.

Ðức Chí Tôn đã để bài học cho chúng ta thấy là Ngài không cho chúng ta cực nhọc. Ngài biểu chúng ta trai giới là cốt yếu Ngài biểu chúng ta đổi đất mà sống, hãy đào đất mà sống thì sống một cách đơn sơ lắm. Ðào đất để sống, xin ai thì khó mà xin đất vẫn dễ mà ! . Nếu chúng ta hiểu biết vì đất mà sống thì loài người vẫn nhìn nhau mà lo sống với nhau một cách hòa giải vậy.

Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng thì không bao giờ đói, cái đó là do nơi làm biếng mà thôi, trái lại họ không đào đất để mà sống, họ chỉ âm mưu sang đoạt của người, hễ thấy người ta có cái gì thì muốn lấy, muốn giựt của người, nên nay mới có những sự tranh đua như thế.

Cái sống hữu hình, Bần Ðạo để cho thấy đó mà kiếm sống. Còn cái của cải thiêng liêng ấy tức nhiên là thân tộc của chúng ta, Ngài đã ban cho cha mẹ, vợ con, anh em chúng ta, cái của cải ấy mà chúng ta không thể nào kiếm đặng. Tấn tuồng đói khổ là tại chúng ta không biết tìm đất mà sống, lại giết hại sanh mạng con vật mà sống, rồi tranh danh đoạt lợi mà giết hại lẫn nhau cái sự khổ não đó nó đã lan tràn trong xã hội, những kẻ có cái bản năng tranh giành xô xát với nhơn loại thì nó sống một cách cô độc khổ não lắm, té bên mặt không ai đỡ, ngã bên trái không ai nâng.

Ðức Chí Tôn đã sắp đặt cho loài người để sống mà không biết nương dựa theo đó để sống, lại tìm phương thế khác để sống cho đủ đầy vật chất, nên nay mới có thời kỳ loạn lạc nầy mà tại chúng ta không biết tìm định cái nguồn cội mà Ðức Chí Tôn đã dành sẵn cho loài người nơi mặt thế gian nầy.

Hiện giờ cái hình trạng căn bản thiêng liêng ấy mà chúng ta có thể nào đoạt đặng chăng ? Ðức Chí Tôn Ngài nói được lắm chớ, các người muốn đoạt được thì phải hợp thành một gia tộc thì mới đoạt đặng của cải quí báu thiêng liêng ấy, cái của cải thiêng liêng nó đã dành sẵn trong tay mọi người, mà ít có ai để ý đến, chúng ta chịu nghèo là do nơi mù quáng không ngó thấy mà thôi. Ấy là cái khổ tâm của bạn hữu hình. Nếu cái khổ của bạn hữu hình chúng ta được chấm dứt thì chúng ta đã đoạt được tại mặt thế nầy đó vậy.
Còn cái điều thứ ba khi hôm Bần Ðạo đã tả hình trạng của cải mà từ trước Tiên Nho để lại câu:
- Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ,
- Tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng đọc,
- Bất như tích âm đức ư minh minh chi trung dĩ trường cửu chi kế.

Nghĩa là: Chứa vàng để lại cho con, biết con có bảo thủ được không ? Còn chứa sách để lại cho con, biết con có học hay không ? Chỉ chứa đức là con nó hưởng được mà thôi.

Nếu không ở vào cửa Ðạo thì không bao giờ tạo đức được, nên ngày nay Ðức Chí Tôn đến lập Ðạo để cho các người lập đức nơi cửa Ðạo Cao Ðài nầy đó vậy. Chỉ có Ðạo Cao Ðài để tạo đức cho các triệu người đặng hưởng, mà đức ấy của Ðạo Cao Ðài làm thì không bao giờ mất. Tôi xin bảo đảm không bao giờ mất. (Thuyết Ðạo QII / tr 91)

*  *  *

22. - Huấn Từ Lễ Bãi Trường và Phát Thưởng cho Học Sinh Trường Lê Văn Trung

Nhân phẩm và Nhân cách

Huấn Từ Lễ Bãi Trường và Phát Thưởng cho Học Sinh Trường Lê Văn Trung.
Về nhiệm vụ của người con dân lúc quốc gia hữu sự, một điều quan trọng mà tất cả các thanh niên học sinh cần phải biết, đó là quốc thể của một nước tức là sự tập hợp của một khối cá thể của những cá nhân nước ấy.

Vậy thì mỗi công dân một nước phải có một cá thể đã. Cá thể của một người tức là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy. Mà muốn cho cá thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để lại cho hai chữ vô cùng quí báu ấy là TU THÂN vậy. (Thuyết Ðạo QI / tr19)

*  *  *

23. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Hiệp Thiên Ðài; 21 giờ .
Ðêm mồng 3 tháng 1 năm Mậu Tý ( 12-2-1948 ).
ÐHP Huấn Từ Sau Bữa Tiệc Ðầu Xuân.

Ăn của người phải giúp cho người

Năm mới, không có đặt diễn văn chi. Hôm nay tôi dùng những tiếng thường để nói việc đời.

Theo thế thường người ta nói: " Thực nhơn tài phải cứu nhơn tai." (Phàm ăn của người phải giúp cho người). Tuy vận tôi nghèo, nhưng tôi làm cái tiệc nầy rất đặc biệt, lại nữa tôi mời quí Ngài cũng đặc biệt, toàn là chư vị yếu nhơn cầm quyền chánh trị đạo, không ai là ở ngoài. Tôi không nói dối rằng nhà tôi đơn chiếc, vì nhà tôi là cả toàn cầu.

Quí Ngài hưởng lễ rồi, tôi xin nhờ quí Ngài một việc :
Vì tôi có một ông Cha Thiêng Liêng là Thiên Phụ, Ông cho tôi cái quyền bác ái là thương cả toàn cầu, và một ông Chúa là Thiên Tử. Thiên Phụ tôi thì giao chèo chiếc thuyền Bát Nhã, Thiên Tử giao đẩy xa thơ, từ Nam chí bắc, từ Ðông chí Tây. Anh em rất đông, nhưng người ngồi trên thì nhiều, còn kẻ đẩy, chèo, thì ít.

Năm rồi, các Ngài hảo tâm giúp sức cũng chèo, cũng đẩy năm nay cũng vậy, xin cũng giúp đẩy, giúp chèo cho đến nơi, đến chốn. Ấy là ơn trọng lắm vậy. Xin quí Ngài giúp tôi cho trọn Ðạo. (Thuyết Ðạo QII / tr16)
*  *  *

24. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Trí Giác Cung.
Ngày 17 tháng 7 năm Mậu Tý ( 1948 )

Cha mẹ phải nêu gương tốt cho con

Sắp nhỏ là tương lai đất nước chúng nó tốt xấu nên hư đều do nơi mấy bà mẹ đào tạo. Bài giảng rồi hôm qua đã nói rõ rằng : Ðảm nhiệm sự giáo hóa tương lai tinh thần tâm lý là phần mấy em, lớn nhỏ cũng vậy, còn sắp con gái phải chăm nom giữ nề nếp.

Qua muốn đứa nào cũng có đôi bạn chồng vợ tử tế rồi sanh con cho nhiều, phải biết dạy dỗ đặng tạo đời, nên hay hư tương lai của nòi giống chủng tộc là " do mấy bà mẹ ".

Trẻ con sơ sanh bắt chước cha mẹ nhiều hơn hết, gia đình nào mà không tôn trọng nhau, gây gổ bất hòa khi rẻ nhau là gương xấu cho con đó, ở đây chúng ta chịu khổ thì thái bình thầy trò còn chung sống cùng nhau hợp quần với nhau, sự khổ nào cũng chia sẻ ra thành bớt đi, còn ngoài đời họ sống hiu quạnh cô độc họ còn khổ nhiều nữa, xem như giống vật đừng nói chi hơn cái bọn kiến nhọt kết bè lại, con vật khác vô đó còn chạy thay, huống hồ chi phải giống người, nếu biết kết bè lại mà sống, anh ngã em đỡ, em té anh nâng, thân cô độc giữa đời kia nó còn thê thảm lắm lắm.

Mấy em ở đây yên phận đó là hạnh phúc nhiều rồi, còn nơi khác trải hai năm qua họ sống trong sợ sệt kinh khủng nhiều nữa. (Thuyết Ðạo QII / tr123)

*  *  *

25. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ngày 16 tháng 8 năm Canh Dần ( 1950 )

Ban phép lành cho 3 gia đình đông con

Mấy em, ngày hôm nay là ngày kỷ niệm của Ðức Phật Mẫu. Qua đã nhứt định để cho các gia đình của mấy em hưởng đặc ân của Chí Tôn, để một mình làm chủ một ngày lễ đặng hiểu rằng : Có nhiều lời tâm huyết can đảm, mấy em nam nữ tức là cha mẹ của đám ấu sinh kia, mấy em đã lãnh trách nhiệm thiêng liêng của Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu đã phú thác gởi gấm giao phó cho mấy em, các Ðấng chơn linh đến làm Thánh Thể của Ngài.

Mấy em nam nữ đã lãnh trách nhiệm trọng yếu mà gìn giữ báu vật của Chí Tôn và Phật Mẫu đã phú thác gởi gấm và giao phó cho.

Năm nào Qua cũng căn dặn mấy em, tuy trẻ ấu sinh do huyết khí của mấy em tượng nên hình, nhưng các chơn linh đó là bạn của mấy em, Ðức Chí Tôn phú thác cho mấy em, mấy em nên hiểu rằng: Trước khi Ðức Chí Tôn để chơn đến mặt thế nầy, mấy em biết đến với ai trước không ? Qua nói: Ngài đến với mấy em trước.

Trong Thánh Thể đương nhiên giờ phút nầy Ngài lựa chọn, Qua vẫn biết làm cha trong gia đình khó khăn thế nào ? Qua cũng hiểu cái khổ não của mấy em lo tảo lo tần mà nuôi con cái của mấy em, có ngày Hội Thánh cũng biết. Qua nói rõ cho mấy em hiểu rằng : Cơ thể hữu vi của Ðức Chí Tôn đến đào tạo đây, mấy em có biết để cho ai chăng ? Cốt yếu để tạo nghiệp cho mấy em đó vậy. Qua nói cho mấy em hiểu, trừ ra Ðền Thánh và các Ðền Thờ, Qua không dám nói đến, bởi nó sẽ tượng hình mà gom góp lập thành Chí Thánh. Qua nói của cải đào tạo dành để cho mấy em nuôi con cái của mấy em đó vậy.

Giờ phút nào Qua còn thấy trước mắt Qua mấy em khổ não nhọc nhằn đói khó, Qua có can đảm dỡ từng miếng ngói mà nuôi nó, Qua xin mấy em đừng hất hủi chúng nó để cho trọn vẹn đạo làm cha mẹ, Qua chẳng cần nói mấy em cũng chán biết.

Qua lặp lại một lần nữa, mấy em có chủ quyền trọn vẹn của mấy em để giáo hóa là do Ðức Chí Tôn phú thác đó thôi. Ngày giờ nào mấy em không phương lo nuôi không nổi, đem nó cho Qua giao cho Hội Thánh, ngày giờ nào Qua còn sống thì giao lại cho Qua. Qua cấm hẳn, Qua không chịu để cho nó đói rách. Qua nói cho mấy em hiểu, mấy em phải lấy giọt sữa đạo đức mà nuôi con, hột cơm mấy em nuôi nó là cơm đạo đức. Trái lại, nếu mấy em không bảo trọng phận sự của thiêng liêng phú thác, để cho nó hung tàn bạo ngược như kẻ ngoài đời kia thì tội tình của mấy em nơi cửa Ngọc Hư Cung chẳng hề dung thứ. Mấy em nên nhớ giờ nào Qua cũng muốn tìm phương thế sang bớt cái nhọc nhằn của mấy em, nào là tạo cơ sở cô nhi, tạo Ðạo Ðức Học Ðường, tạo các cơ quan giáo hóa để giúp mấy em, nhưng trước hết làm thầy đắc lực hơn hết là mấy em chớ không phải giáo viên lập được tánh đức của nó, tương lai của nó là do nơi mấy em, phải tạo khuôn luật, cái quyền nghiêm khắc là do nơi gia đình mà gia đình nào có con hung tàn bạo ngược thì gia đình ấy phải chịu nhọc nhằn.

Hội Thánh nhứt định sẽ trừng trị, Qua cho biết liệu nuôi nổi thì nuôi, nếu không nuôi nổi thì giao lại cho Qua, chớ không quyền hất hủi nó, điều ấy là điều cần thiết hơn hết. (Thuyết Ðạo QIII / tr107)
*  *  *

26. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh - Ngày Lễ Ðức Mẹ 'Ðức Diêu Trì .
Ngày 16 tháng 8 năm Tân Mão ( 1951 )

Cầu nguyện cho những gia đình đông con

Mấy em, vợ chồng mấy em nhơn ngày lễ Ðức Mẹ, Qua làm lễ đặc biệt đặng cầu nguyện cho gia đình mấy em, Ðức Chí Tôn đã giao phó cho mấy em nắm cả cơ nhơn luân trong tay, đào tạo nhơn loại tại mặt thế nầy, mấy em không có chồng vợ chắc nhơn loại không có tại thế nầy. Ðức Chí Tôn giao phó trách nhiệm trọng yếu cho mấy em thay Ngài đặng tạo Ðời, trong kinh luật Ðức Chí Tôn đã giải rõ, Qua nói ít mấy em hiểu nhiều.

Mấy em trước kia chỉ nghe Nho Tông phú thác cho mấy em một phận sự tối yếu, tối trọng, biểu mấy em gìn giữ Tông Ðường nặng nề thế nào, nợ máu thịt của mấy em đối với Ðấng đã sanh thành mấy em, nếu mấy em không có con cái để kế nghiệp hương hỏa cho tông đường, thì con người của mấy em bị thất hiếu, 'Bất hiếu hữu tam vô hậu kế đại.'

Luật thiên nhiên đã định vậy, vì lo nhơn luân tối trọng là thế nào, Qua nói cho mấy em thấu đáo. Hôm nay Ðức Chí Tôn đã đến giao cho mấy em một phận sự tối yếu, tối trọng hơn nữa, giao trong khí huyết của mấy em, Ngài gởi gấm Thánh Thể Ngài cho mấy em. Con của mấy em nó không phải là của mấy em mà chính là của Ngài đã cho mấy em đó vậy. Mấy em tự nghĩ đại nghiệp của Ðạo tức nhiên gia tài của gia đình nhơn luân của mấy em đây, thoảng như mấy em không có con cái đặng mà nối cơ nghiệp của Ðức Chí Tôn, công nghiệp mà chúng ta từ giọt nước mắt, từ giọt mồ hôi đào tạo cho chúng nó đây làm chủ, rồi Thánh Thể Ðức Chí Tôn ai kế truyền ?

Ấy vậy, Qua nói con cái của mấy em sanh ra là khách của Ðức Chí Tôn đã giao, đã gởi gấm, mấy em đạo đức đầy đủ, mấy em xứng đáng làm cha làm mẹ nó, nếu mấy em thiếu đạo đức Qua e cho mấy em không tròn phận, thì có thể nào mấy em định nghiệp kia cho đặng ? Qua nói thật, cả của cải đào tạo cho Ðạo đây đặc biệt của mấy em, ấy là của mấy em đó.

Mỗi năm, kỳ trước Bần Ðạo đã nói, chỉ trừ hai nơi Bần Ðạo không dám xâm phạm tới:
1./ Là Ðền Thờ của Ðức Chí Tôn.
2./ Là Ðền Thờ của Ðức Mẹ.

Ðể tượng trưng hình ảnh vô tận vô biên của hai Ðấng ấy, Qua không dám đá động tới. Nếu ngày nào con cái của mấy em nghèo đói khổ não quá, Qua dám lấy từ miếng gạch, miếng ngói của Ðạo đem bán đặng nuôi con cái của mấy em.

Ấy vậy, Qua nhơn danh Hội Thánh của Ðạo và nhơn danh Ðức Chí Tôn, Qua để lời với mấy em rằng :
" Của cải vô tận của Ðức Chí Tôn và toàn thể Hội Thánh cũng nhờ nơi tay của mấy em. Qua cúi đầu trước cái khổ não nhân nghĩa của mấy em vì gia đình thế nào, Qua chỉ biết cúi đầu gởi gấm cho mấy em, sự nên hư của Ðạo trong tay của mấy em, mấy em phải sống cho đáng giá. Thánh Thể của Ðức Chí Tôn do nơi mấy em mà thôi. (Thuyết Ðạo QIV / tr56).
*  *  *

27. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh. Thời Tý.
Mồng 6 tháng 7 năm Mậu Tý ( 9-8-1948 )

Ðức tánh Trung - Hiếu - Nghĩa

Ðêm nay Bần Ðạo giảng ba chữ TRUNG, HIẾU, NGHĨA. Bởi vì Trung Hiếu Nghĩa là biểu hiện một chơn tánh của linh hồn cao trọng.

Nhà Nho nói: " Tánh tự tâm sanh." Ðó là lý thuyết của Ðạo Nho, chỉ biết có một điều là ta quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng hình được, vì Ðạo Nho chưa phải là một tôn giáo huyền bí.

Còn Ðức Chí Tôn đến dạy ta biết rằng tánh là chơn tướng của chơn thần, còn tâm là chơn tướng của chơn linh.

Ðức Chí Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta. Hình thể thứ nhứt là tâm tức là chơn linh, thứ nhì là tánh tức là chơn thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy.

Chí Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ theo triết lý Ðạo Nho lấy nghĩa " tánh tự tâm sanh" mà tả ra ? Bởi vì nó có liên quan mật thiết cùng nhau. Trong tâm mình như thế nào xuất tánh ra y như vậy. Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên, còn Chí Tôn chỉ rõ cho biết: Chơn thần cũng tiến bộ như chơn linh.

Mỗi cá nhân đều có hai năng lực ấy, có đủ quyền năng đào tạo ra hình hài xác thịt của ta. Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn thần cao trọng, bởi cả hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng tiến triển trong con đường thánh đức của Chí Tôn, cả hai có liên quan mật thiết, nên hễ chừng nào đạt pháp đặng có đủ quyền năng định vận mạng, nghĩa là nó đã tiến tới đúng mức rồi, dầu quyền của Ngọc Hư Cung cũng không còn lãnh hội nó nữa, quyền tự chủ đã đạt đặng như các cơ quan hiển vi tiến triển tới mục đích tới giới định, hiển nhiên ta thấy nơi mặt thế đây vậy.

Trong Ðạo giáo của Ðức Chí Tôn trích ra một hạng Tiên, không còn chịu quyền của Ngọc Hư Cung định luật họ tự làm chủ họ, tự dùng quyền năng đặng đào tạo xác thân của họ, tạo y khuôn khổ họ đã muốn. Họ tự vi chủ mà tạo hình thể ấy, bằng chẳng vậy thì con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi kéo ràng buộc, phản lại họ, làm cho họ phải đọa lạc. Còn như con thú nầy không còn quyền lôi kéo họ được thì họ mới đủ quyền năng vi chủ nó mà dục tấn trên con đường tận thiện, tận mỹ, toàn tri toàn năng mà họ đã định đạt đến cùng tận sở hướng.

Chơn thần là đệ nhị xác thân tạo hình bằng nguơn khí của bảy từng Thiên. Bỏ Tạo Hóa Thiên là từng thứ chín, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần, quyết định đến thế gian nầy làm việc gì, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Ðạo giáo nói là 7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây. Bảy từng có liên quan lạ lùng với thất tình, từng thứ 7, 6, 5 là ba tình: Ái, Hỉ, Lạc; Từng thứ 4 là dục; Từng thứ 3 là Ai; Từng thứ 2 là Ố; Từng thứ 1 là Nộ; Tới từng chót nầy thì là hiện tượng của Nộ giác.

Ấy vậy, Bần Ðạo chỉ rõ rằng ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở tình ái, phát hiện đó là cái tình độc nhứt có liên quan mật thiết với chơn linh. Ta thấy con nít sơ sanh, thi hài chưa biết vi chủ, nó chỉ sống với chơn linh mà thôi. Khởi đoan nó chỉ biết thương mến những kẻ gần gũi như cha mẹ; còn chơn thần để gìn giữ nó, cho nó biết tìm cái sống bảo tồn sanh mạng.

Thật ra theo Ðạo pháp, con nít từ 12 tuổi mới bị chịu ảnh hưởng của xác thịt, còn dưới 12 tuổi xác thịt chưa có quyền. Ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa thuộc quyền năng của ái tình mà ra nên gần gũi với chơn linh lắm, đến đỗi ta thấy hình trạng nó như kẻ sơ sinh kia vậy ; Bần Ðạo vừa nói Trung, Hiếu, Nghĩa do nơi tình ái xuất hiện ra tướng diện, nên nó gần Thánh, một khi giải thể rồi lên từng thứ 7 là chắc chắn được giải thoát, đạt vị, bởi nó gần với Thánh.

Tại sao Trung ? Tại tình ái cao thượng dồi dào đối với quốc dân nòi giống lên đến nhiệt độ, nó quá vĩ đại. Nếu ta thấy một vị công thần liều mạng sống đặng bảo vệ cho quốc dân, trung ấy chưa phải là trung với vua, mà trung với nước chớ ! Có điều vua là tượng trưng cho nước, nên trung với vua tức là trung với nước. Mà có trung đặng là vì quyền năng ái chủng, ái quốc nuôi trong tinh thần nhiệt liệt, nên tình ái ấy vi chủ tinh thần, cho nên ta thấy có kẻ vì trung dám hy sinh tánh mạng được là vì vậy.

Tới Hiếu. Tại sao có Hiếu ? Bởi các chơn hồn sáng suốt cao siêu đã có sẵn hai điều hiếu :
1. / Hiếu với Ðấng tạo đoan chơn linh.
2. / Hiếu với Ðấng tạo đoan chơn thần.

Bởi có Hiếu trước với hai Ðấng ấy, biết trọng hai quyền năng tạo hóa chơn linh và chơn thần thì tự nhiên phải biết nhìn Ðấng tạo hóa hình hài của mình đồng thể chớ. Tâm Hiếu tự nhiên mà xuất hiện vì nó có sẵn, mà hễ có sẵn tâm Hiếu tức nhiên phải là chơn linh cao trọng thấu đáo được nguyên do đâu mình đến và là con của ai ? Ðã hiểu rằng mình có Hiếu với Ðấng tạo sanh chơn linh và chơn thần như thế nào rồi, thì đến Hiếu với Ðấng tạo sanh hình hài đã sẵn có rồi vậy. Nên, Hiếu không thể dạy được, hoặc có Hiếu, hoặc không có Hiếu mà thôi.

Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao có Nghĩa ? Tại sao Nghĩa lại hiện tướng trên tánh đức của một chơn linh cao trọng ? Nơi cõi hư linh mỗi người có một gia tộc, một đại nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu. Bần Ðạo xin nhắc lại câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng :

Chẳng phải vì sự tình cờ mà chúng ta được chung đứng trong lòng của Ðức Chí Tôn ngày nay đây. Biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bát Nhã chở các nguyên nhân hạ trần đặng làm bạn và độ rỗi các hóa nhân và quỉ nhân, lại không có chúng ta ngồi chung trong đó. Ðã từng chia đau sớt khổ cùng nhau chẳng những trong thế giới nầy mà trong các thế giới khác nữa. Ðã từng chung sống cùng nhau, cái thâm tình vĩ đại đã nhiều. Nếu cả thảy không nhớ lời nầy của Bần Ðạo, đến khi linh hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận biết bao nhiêu mà chừng ấy đừng trách Bần Ðạo không chỉ trước.

Không thương yêu nhau cho trọn nghĩa là lỗi tại mấy người đa, chớ không phải tại Bần Ðạo không nói. Ban sơ, nơi cõi hư linh thọ nhứt điểm linh, đến thế nầy tạo ngôi vị, làm bạn với biết bao nhiêu chơn linh khác, dầu nguyên do của mình là thảo mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến địa vị, mới biết bạn nhiều.

Người Nghĩa, ta có nhiều ở mặt thế nầy lo tìm người nghĩa đặng tương liên cấu hiệp tâm tình trong cảnh khổ não truân chuyên chịu hình thử thách nầy. Tìm mà vẫn lo ngại sợ lầm, bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi ở bất nghĩa cùng nhau, về cõi thiêng liêng sẽ hổ thẹn hối hận muôn phần. Ðối với nhơn loại ta đã sẵn có cái đại nghĩa đó, đi tìm nghĩa tức là đi tìm bạn, dầu nơi cõi hư linh hay tại thế, đại nghĩa vẫn còn lưu lại, ta không từ chối được, cho nên hễ đi tìm nghĩa thì không còn phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta tìm nghĩa ở đâu ? Trước nhứt tìm thân tộc anh em, sau mới ra toàn thiên hạ được.

Bần Ðạo kết luận: Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vị Thánh, vì cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền thì duy lựa trong ba tánh đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ. (Thuyết Ðạo QII / tr110)
*  *  *

28  - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh, Thời Tý.
Ðêm 21 tháng 2 Năm Mậu Tý ( 31-3-1948 )

Nhiều kẻ được gọi mà ít người đến

Nói về chữ hiếu thật là quá rộng rãi bao la, nên Nho giáo nói không hết được. Ví như có câu rằng: " Quạt nồng ấp lạnh" Nghĩa là khi cha mẹ nóng nực thì quạt cho mát, khi cha mẹ lạnh thì đấp cho ấm, đó là câu nói để tỏ tâm hiếu của con cái theo thế thường tình nhỏ mọn mà thôi, chớ đối với Phật Mẫu không có một điều gì ta làm đặng đền công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ mà gọi là hiếu, bời vì mình không phương thế trả cái hiếu ấy đặng bao giờ. Vì vậy mà sách Nho tả không hết được.

Ấy vậy, có hiếu tức là phụng sự cho cha mẹ đủ mọi phương diện theo hoàn cảnh của mình. Làm con mà muốn nói mình có hiếu mà ổng mặc kệ ổng, mình mặc kệ mình, có khi cả đôi tháng hoặc suốt năm không thăm viếng, đợi tin chết đặng về để tang, bằng không chết thì thôi, ông bà sống tự họ, mình sống tự mình.

Rủi nghe ai nói: ông cha bị cảm nặng, bị lạnh rét sao chú nó hoặc cô nó không về thăm, thì lại nói rằng : " Tôi cũng lạnh gần chết tôi đây, nhà tôi ở xa, ổng lạnh ổng ở nhà, tôi đi đường xa đây tôi còn cảm nặng đau hơn ổng nữa vậy."

Ðối với cha mẹ mình phải báo hiếu trọn cả kiếp sanh cũng chưa vừa, càng khổ não, khó khăn chừng nào thì tâm hiếu ấy mới quí, mới trọng.

Ðối với Chí Tôn cũng thế. Ðêm hôm qua đi cúng chỉ có một ít người thôi, đó là tâm Ðạo theo Trời mưa nắng ! Lại đổ thừa đi mưa sợ cảm sỗ mũi nhức đầu. Tội nghiệp Chí Tôn rủi có lạnh không ai đến cho mà chớ, mà Người chắc không lạnh nên không cầu lụy chi mình, chỉ mình không hưởng ơn riêng, sợ buổi trút hồn là khổ não.

Trong Thánh Giáo Gia Tô có câu chuyện như thế nầy, Ðức Chúa Jésus Christ nói :
'Nhiều kẻ được kêu mà ít người đến' ( Il y a beaucoup d’appelés mais peu de venus ) ý nói rằng con cái của Ðức Chí Tôn thì nhiều mà hạng đặng siêu rỗi vẫn ít.

Có người đó cũng có học thức nghe vậy tức mình nói: " Ðấng Cứu Thế đến siêu rỗi thì siêu hết, chớ có lý nào kêu lại không đến, Thánh giáo nói làm sao vậy chớ ?" Coi bộ bất bình lắm.

Ðến ngày Lễ Ðức Chúa giáng sinh, tuyết trời lạnh lắm, mà anh ta cũng làm chức trùm hay cậu gì trong Ðền Thánh đó, nhưng đến buổi lễ thấy Ðền Thờ trống trơn. Ông Cha mới kêu anh ta lại, vừa cười vừa nói rằng: " Nhiều người kêu mà ít kẻ đến là vậy đó." Anh ta nhớ lại lời mình vấn nạn khi trước, bắt thẹn thuồng mắc cở.

Nếu nền Ðạo của Chí Tôn phải tùng theo sự nồng lạnh mà thạnh hay suy, thì đây về sau, Bần Ðạo tưởng nếu trời mưa miết ắt diệt Ðạo Cao Ðài nầy đặng có phải ? (Thuyết Ðạo QII / tr40)

*  *  *

29. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Ðêm 15 tháng 4 năm Ất Mùi ( 1955 )

Chữ Hiếu làm đầu

Ðêm nay Bần Ðạo giảng cho đám thanh niên nam nữ để ý nghe cho lắm. Ðêm nay Bần Ðạo giảng chữ Hiếu, đương nữa thế kỷ 20 nầy, đạo đức suy vi, nhơn luân điên đảo, phong hóa cổ truyền do nơi tinh thần chơn chất hiền lương của cổ nhân đã để lại bị văn minh khoa học nó làm cho cả tinh thần đạo đức đều mất quyền nghĩ, cả khoa học từ thế kỷ 20 nầy nó đã đem trở lại cho nhơn loại những gì ?

Thật ra cái sanh sống của nhơn loại nó có thay đổi, nó có hướng về duy vật nhiều hơn là tinh thần khoa học, nếu để tâm suy gẫm thì ta thấy, nó có thể tạo hạnh phúc cho xác thịt nhơn loại mà nó làm cho tiêu hủy cả tinh thần loài người cũng có.

Những nhà triết học Âu Châu nhứt là Pháp, đã nói một câu rất chánh đáng, chánh đáng mà có khuyết điểm khoa học lắm lắm đó vậy. Họ nói rằng: " La science sans conscience est le phus grave danger de l’existence humaine." Khoa học không có thiên lương là một điều nguy hiểm cho sự sanh tồn của nhơn loại.

Thật quả vậy, nếu như nhơn luân của cả toàn nhơn loại mà không có phương pháp cố thủ nó trở lại đặng, nó đã điên đảo rồi, cái nhơn luân ấy nó làm sao nó làm căn bản cho nhơn loại.

Nay vì thiếu nhơn đạo, nhơn loại không biết yêu ái với nhau, chỉ tranh sống, chỉ tranh mạnh, mong làm bá chủ của toàn cầu, gây biết bao chiến tranh khổ não, chẳng phải hao về sanh mạng mà thôi, mà hao cả phú hữu nơi mặt đất nầy mà chớ, biểu làm sao nhơn loại không thống khổ cho đặng.

Ai đời họ đã làm một điều trái hẳn luật thiên nhiên của Tạo Ðoan mà chính mình Ðức Thánh Nava ở tại Ðền Thánh La Mã đã buộc phải lên tiếng sanh dục không cần nam, nghĩa là người đàn bà không cần có chồng mà muốn có con, khoa học có thể cho có con đặng. Nếu như cái tình trạng ấy quả nhiên xô đẩy nhơn loại đi tới một cái địa điểm chúng ta sẽ thấy gì ? Chúng ta thấy Ðạo luân thường của nhơn loại sẽ bị tiêu hủy đi mà chớ.

Ði tới mục đích đó biểu sao cả tinh thần con người không hướng về vật hình rồi cái Ðạo nhơn luân không đếm xỉa đến, thử hỏi nếu một trẻ thơ kia sanh ra không có cha, cha nó là một cái ống bơm kia mà thôi, thử hỏi cái Ðạo nhơn luân của nhơn loại nó đã ra sao mà chớ ! Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra cái thuyết Duy Vật của Cộng Sản đáng lý lắm vậy, trót đã xô đẩy tới cảnh tượng đó, không cần biết tổ phụ, tông đường, cha mẹ là chi hết ? Ông nội cũng đồng chí, bà nội cũng đồng chí, đồng chí mẹ, đồng chí anh, đồng chí em, cả thảy điều là đồng chí. Cái thuyết Duy Vật ấy do nơi thất đạo nhơn luân mà sanh ra đó vậy.

Bây giờ nói tiếp qua cái giá trị chữ Hiếu, văn minh Nho Tông của chúng ta là gì ? Tưởng cũng không cần gì nói cho mấy người lớn nghe. Bần Ðạo chỉ giảng cho đám thanh niên nam nữ mà thôi. Mấy đứa nhỏ có biết cha mẹ đã sanh ra nuôi nấng được cho nên hình, nên vóc, cái cam khổ của cha mẹ như thế nào mà chớ. Hễ có rầy la có dạy dỗ, có nhiều đứa cường ngạnh lén lút ra ngoài nói: Ổng vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa xã, có nhiều khi ra sau lén lén ngồi rủa đủ thứ. Tới chừng biết khôn ngoan đến tuổi già, cả tâm não và lương tâm của mình sẽ cắn rứt và sẽ hình phạt (một cách) ? chừng đó mới khôn ngoan.

Hại thay ! Ôm một đứa con đỏ từ vú sữa mớm cơm, nuôi cho nên hình, nên vóc, thật ra không biết bao nhiêu khổ não truân chuyên của cha mẹ, có nhiều khi phải hy sinh cả hạnh phúc của mình, để cả trí não cả tâm hồn, cả giọt mồ hôi nước mắt để nuôi con, biết bao nhiêu gia đình không phải dỡ mà nghèo vì con nên khổ, mấy đứa nhỏ có biết điều đó đâu.

À ! mà có biết chăng là khi nào mấy đứa bây có chồng có vợ, tới chừng bây có con đó mới biết cam khổ nuôi con bây như thế nào, bây giờ mới biết ơn cha mẹ là nặng. Tiên Nho có nói: " Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân." Có nuôi con là thế nào mới biết ân trọng của cha mẹ.

Những nhà đạo đức xưa kia trong cửa Ðạo Nho tổ phụ ta hay để lời than, hễ đọc đến làm cho ta khổ não cả tâm hồn :' Ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân hiệu thiên võng cực'

Không có thế gì mà tưởng tượng được, tả ra cả tâm hồn chí hiếu gặp một cái nước cũng như nước Việt Nam cả thảy đều có hạnh phúc là ăn no mặc ấm, dầu cho miệng lưỡi đã nói một tiếng khổ chớ là một sắc dân hạnh phúc hơn các sắc dân toàn cầu đa số vậy.

Bần Ðạo còn nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra sao, mà cả thảy thiên hạ đều đói, Bần Ðạo nghe được một cái tình trạng rất khổ não thương tâm là có một gia đình con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa cao gạo kém, buổi nọ con nó đã nhịn đói đôi ba bữa, mà con nít nhịn đói thử như thế đó không la làng la xóm sao được, la rầy um xùm nên cha mẹ chịu không nổi, bây giờ kiếm cơm cho con ăn mà không ra, rồi gạt nó cũng chụm lửa lên ở trong nhà bếp lấy trấu bỏ trong nồi cơm vậy, bắt lên rồi mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh giữ nồi cơm, rồi lén ra sau hè thắt cổ tự vận.

Mấy em có biết điều đó đâu, cái Hiếu nếu mấy em không trả cả một đời, mấy em chưa hề khi nào nên người bao giờ ' Nhơn sanh hiếu nghĩa vi tiên' Không Hiếu nghĩa không làm gì nên người được.

Bần Ðạo thuật một cái bài học hồi còn học trong trường Nho thầy của Bần Ðạo dạy : 'Tâm Ðạo cảm Thiên, Hiếu Ðạo cảm Thiên.' Ở trong cổ nhơn vị sư ổng rút ra, ông dạy một tích làm từ đó cho tới lớn không buổi nào quên hết.

Nhà Ðại Minh Hùng Võ có một người học trò khó, mẹ góa con côi học giỏi lắm duy có nghèo, lớp nào lo học, lớp nào lo làm mướn nuôi mẹ với nuôi thân. Khi nọ người mẹ đau bịnh quá vãng. Cái tục lệ nhà Minh buổi nọ, ở ngoại thành không được phép vô nội thành, chỉ cách có một dãy trường thành mà thôi. Hễ ai vô nội thành mà rách rưới xin ăn đều bị đuổi tống ra, ai mặc đồ tang phục mà vô nội thành cũng bị đuổi ra. Người học trò khó ấy, tính vô nội thành đặng hành khất về chôn mẹ, mà hễ bận đồ tang phục vô thì bị đuổi. Bây giờ anh ta mới gọi là 'Tâm tang', anh ta xé một miếng khăn tang bằng ngón tay, rồi anh mới xẻ cái vú ra một đường nhét vô trỏng, ngoài mặc áo học trò như thường để vô nội thành, gọi là tâm tang, đi vô nội thành đặng đi xin về chôn mẹ.

Nhơn khi đó, nhóm ngoại ô ngay chỗ đó lửa phát cháy, cháy một cách dữ dội lắm, làm cho ông Ðại Minh Hùng Võ lên hoàng cung hoảng hốt. Thấy dân chúng khổ não, ông cầu nguyện với Trời đặng cho ngọn lửa tiêu xuống đi, ông vừa ngó trên ngọn lửa ông thấy Quan Thánh Ðế Quân, Quan Bình và Châu Xương hiện hình đứng trên ngọn lửa, đặng làm cho ngọn lửa ấy tắt, thì khi đó đã cháy hết xung quanh rồi, chỉ còn có một nhà mà thôi, cái nhà ông học trò khó có thây chết của mẹ.

Ông Ðại Minh Hùng Võ đứng trên cái dịch đài hoàng cung dòm thấy Quan Thánh, Quan Bình và Châu Xương đứng trên ngọn lửa, ông bái, ông lạy đặng cám ơn, nhưng mà ông vừa lạy ông vừa ngoắc thì Ðấng ấy đến ngay trước mặt của ông Hùng Võ, rồi Quan Thánh bái ông Hùng Võ nói :- 'Em chào đại ca', rồi ông Ðại Minh Hùng Võ liền biết mình là Lưu Bị tái kiếp, mới hỏi trở lại Quan Thánh : -'Tam Ðệ hà tại ?' Hỏi vậy tam đệ là Trương Phi bây giờ ở tại đâu ? '- Hiện giờ là Trấn Bắc tướng quân tên.. gì đó' ( lâu quá Bần Ðạo quên )

Nói rồi ba hình liền biến mất, ông Ðại Minh Hùng Võ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đòi Trấn Bắc tướng quân về. Thuộc hạ của Trấn Bắc tướng quân lo bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đòi cấp thời đây, đòi về đêm ngày sợ gian thần sủng nịnh nó tâu vô tâu ra, sợ về mang hại nó mới đồ mưu làm để ổng ( Trấn Bắc tướng quân ) nằm trong cái hòm, rồi đệ tờ sớ nói ổng chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên thì Ngài sống lại, không yên chúng tôi chở Ngài về biên thùy.

Vì cớ cho nên hòm hồi xưa họ có soi lỗ dưới đáy đặng cho có lỗ hơi, cái tục lệ đó như vậy ? Khi ông nọ về triều đình ông Ðại Minh Hùng Võ mừng rồi ổng khóc lóc là nghe tin chết, mừng là thấy Trấn Bắc tướng quân đã về tới, dầu chết đi nữa còn thấy thi hài của em, tưởng đâu là mưu như vậy ai ngờ khi dở nấp hòm thì đi dọc đường bị để lên để xuống bị ngẹt hồi nào ông kia chết thiệt. Một mặt ổng đòi ông nọ, một mặt ổng sai đi ra đặng tra gạn coi tại sao hết thảy nhà cháy mà nhà đó còn. Tới chừng tra ra thì ra là nhà người học trò khó vì hiếu. Ông vội đòi rồi tức thì phong quan Hàm Văn Minh Ðiện Ðại Học Sĩ, sau lên tới Gián Nghị Ðại Phu, vậy thấy cái Hiếu, cái Hiếu động trời, động đất như thế đó, mấy em bất hiếu, cả thảy bất hiếu Trời Ðất xử định mấy em ra sao?

Từ đây tới sau, dặn đừng có kỳ cào đối với cha mẹ. Hễ còn thanh xuân chưa lịch lãm thế tình, hễ nương nơi cái hay cái biết của cha mẹ. Cường ngạnh tới chừng sau rồi có một trăm tuổi già ngồi khóc lên khóc xuống cũng không ích, ăn năn tự hối như Bần Ðạo đây có nhiều khi ngồi nơi nào nhớ, moi óc coi cha nói gì, mẹ nói gì, tìm gần trối chết, tìm đặng nhớ.

Còn bây giờ đã có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la thì kỳ cào, quạu quọ, ở trong cửa Ðạo nầy Bần Ðạo xin dứt, cả thảy mấy em thanh niên rán giữ chữ Hiếu làm gương mẫu . (Thuyết Ðạo QVI / tr283)
CHUNG
  
Home                                            1 ] ]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét