Tác phẩm bằng văn vần của Đức Hộ Pháp:
- Thiên Thai Kiến Diện : gồm 77
bài thi Đường luật thất ngôn bát cú.
- Phương Tu Đại Đạo :gồm 2 tập, dạy về phần Nhơn Đạo, bổn phận làm con, làm
cha mẹ, làm vợ chồng, làm anh em.....
- Ngoài ra Đức Ngài còn để lại một số bài thi làm trong nhiều dịp khác
nhau. Các bài thi nầy trước kia một số đã được đăng trên các Tập san Đạo, các sách Đạo
hoặc được truyền tụng qua ký
ức của chư Đồng Đạo. Chúng tôi góp nhặt lại các bài thi nầy vì qua đó đã biểu lộ tâm tư cũng như ý chí của Đức Ngài và đây cũng là phần rất quan
trọng để người sau muốn học hỏi, nghiên
cứu về cuộc đời Đức Ngài.
Ngày mùng 10 tháng 6 năm Ất Sửu (30-07-1925), trong khi xây bàn có vị Đoàn
Ngọc Quế (tên giả của Bà Thất Nương Diêu Trì Cung) giáng cho bài thi sau:
THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc
Các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng
sanh cam lỗi tình sông núi,
Tơ
tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn
dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi
mình tâm sự tỏ cùng ai ?
Ký
tên: Đoàn Ngọc Quế.
Bài họa của Ngài Phạm Công
Tắc như sau:
Ngẩn
bút hòa thi tủi phận ai,
Trời
xanh vội lấp nữ anh tài.
Tình
thâm một gánh còn dương thế,
Oan
nặng ngàn thu xuống dạ đài.
Để
thảm xuân đường như ác xế,
Gieo
thương lữ khách lóng tin mai.
Hiềm
gì chưa rõ đầu đuôi thế,
Ngẩn
bút hòa thi tủi phận ai.
Phạm Công Tắc.
Trong mùa pháp nạn do ông Nguyễn Phát Trước gây
nên, vào năm 1928, Đức Cao Thượng Phẩm thì về Thảo Xá Hiền Cung, còn Đức Hộ
Pháp đi xuống Thủ Đức. Trong dịp nầy Đức Ngài còn lưu lại bài thi như sau:
Bài thi cảm tác của Đức Hộ Pháp khi đi Thủ Đức lánh
nạn :
Thắng
khổ người tu vẫn để lòng,
Vì
thua, Thủ Đức phải đành dông.
Buồn
chưa đứng đặng trên đầu rắn,
Vui
đã phân minh chí khí rồng.
Nào
kể vịt gà chê tiếng phụng,
Chỉ
phiền hồng hộc ghét đuôi công.
Mở
kho giúp đói đây trề miệng,
Ta
quảy hồng ân rải giáp vòng.
Phạm Hộ Pháp.
Ai điếu ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương qui vị năm
1927: (Trích Thánh Giáo Minh Thiện Đàn, của HT Nguyễn Văn Hồng)
AI ĐIẾU BẢO ĐẠO
Cỡi
hạc anh đà tách dậm tây,
Từ
nhau oằn oại gánh tình nầy.
Muôn
lằn sóng thảm nơi trần tục,
Ngàn
dặm bước nhàn tách gió mây.
Cõi
thọ anh nương theo huệ bóng,
Thân
phàm em trẻ chịu chia bầy.
Vui
buồn sớt thảm ơn xưa tạc,
Càng
nhớ càng sầu khó giải khuây.
Phạm Hộ Pháp.
(Trích từ Tiểu Sử Đức Q. Giáo Tông Thượng Trung Nhựt). Đức Thượng Phẩm đăng
tiên vào ngày mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929), Đức Hộ Pháp đề Thi điếu Đức Cao
Thượng Phẩm như sau:
THI
Thượng
Phẩm ôi! Hỡi anh ôi!
Chưa
xong trách nhiệm đã về trời.
Bốn
năm công quả vun nền Đạo,
Mấy
đoạn chông gai chịu nước đời.
Ngọn
bút Thần cơ, Trời nỡ đoạn,
Nắm
xương Thánh chất lấp chôn vùi.
Mực
hòa huyết lệ đề câu điếu,
Thượng
Phẩm ôi! Hỡi anh ôi!
Phạm Hộ Pháp.
Ngày 12-9-Ất hợi (1935), Đức Hộ Pháp tặng cho các
môn đệ Phạm Môn (được phong Lễ Sanh Giáo Thiện ) đi hành Đạo địa phương, bài
thi sau đây:
Buồn
chưa đạt được phép thần thông,
Dụng
thế phân thân hiệp đại đồng.
Ước
tóm địa cầu làm một cửa,
Mong gom thiên hạ lại đồng tông.
Đưa gươm diệu lý dìu Âu chủng,
Cầm kiếng thiêng liêng chiếu Á Đông.
Bước tục từng quen nơi cửa Đạo,
Đường văn gặp bạn cũng vui lòng.
· Phạm
Hộ Pháp.
(trích từ Phạm Môn Minh
Thiện Phước Thiện, Thanh Minh soạn). Tiệc trà khi Đức Hộ Pháp ở Madagascar về (1946),
Đức Cao Thượng Phẩm có giáng cho bài thi:
Phát
phối năm thu khổ đọa đày,
Ai
ngờ lại gặp buổi hôm nay !
Chung
trà Hồ Địch chưa ngơi khát,
Ly
rượu Hớn Ban dỡ tỉnh say.
Vỗ
cánh Phi Hùng nâng thổ võ,
Đòi
quyền Tổ quốc để Cao-Đài,
Khải
hoàn trổi khúc ca ru bạn,
Ngưng
quạt chờ xem nước trổ tài.
Đức Cao Thượng
Phẩm.
HỌA-VẬN
Chuộc
tội nhơn sanh phải chịu đày,
Xem
như Thánh Chúa với Ta nay.
Cũng
gương cứu chúng khuyên đời tỉnh,
Lấy
đức dìu dân khỏi đọa say.
Thọ
mạng Ngọc Hư xoay vũ trụ,
Cầm
quyền thế giới dựng Cao Đài.
Khải
ca lập lại đời Nghiêu Thuấn,
Vạn
loại đồng tông, đức thắng tài.
Phạm Hộ Pháp.
(trích từ Thông Tin số 5, 5-1970)
Đức Thượng Sanh đến thăm Đức Hộ Pháp bị đồ lưu hơn
5 năm, mới về Tòa Thánh ngày 4 tháng 8 năm Bính Tuất (30-08-1946):
Đức Thượng Sanh đến thăm,
CẢM TÁC :
Nhành
lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn
non, còn nước lại còn người.
Xa
nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp
bạn nầy khi khóc lộn cười.
Nguồn
Đạo xưa trông đôi cảnh nghịch,
Thuyền
từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.
Cao Thượng Sanh.
HỌA NGUYÊN VẬN
Sắc
son nhuộm tánh đượm màu tươi,
Hay
dỡ khen chê để miệng người.
Đày
đọa xét thân không hổ thẹn,
Sang
vinh nghĩ phận quá buồn cười.
Vó
Kỳ từng trải đường nguy hiểm,
Cánh
Hộc quen chìu gió ngược xuôi.
Ước
trả mảy may ơn xã tắc,
Nợ
muôn đền một kể chi lời.
Phạm Hộ Pháp.
Họa vận bài thi của BÁT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG mừng
Ngài khi lưu đày trở về Tòa Thánh.
HỌA VẬN
Chông
gai đường Đạo mảng dò lần,
Từ
bước ta bà trở cố lân.
Biển
Thái vừa im hơi súng nổ,
Gành
Nam kế lóng tiếng chuông ngân.
Buồm
thuyền tế độ xao mơ mộng,
Gió
hạc chiêu Tiên giục định thần.
Cam
lộ kìa ai dành để sẵn,
Cầm
dương phủi sạch nét phù vân.
Phạm Hộ Pháp.
Bài thi khi Đức Hộ Pháp Bắc du có tặng cho đồng bào
Bắc Việt :
BẮC DU CẢM TÁC
Non
nước hồn thiêng đã tỉnh dần,
Xuân
Thu xưa, nay đổi Thu Xuân.
Nam
Phong đỡ vững xa thơ Hán,
Bắc
tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần.
Bác
ái là đề thi tiến hóa,
Nghĩa
nhân ấy mục định duy tân.
Thiên
thời địa lợi đôi điều sẵn,
Chỉ
thiếu hòa nhân để hiệp quần.
Phạm Hộ Pháp.
(Trích từ Đặc san Thông Tin số 5, 05/1970); Ngày mùng 3 tháng Giêng năm Bính
Thân (1956).
TÂN NIÊN KHAI BÚT
Vẫn
gánh non sông đến tuổi già,
Đòn
tâm làm mạnh thế tài ba.
Đòi
phen kiên nhẫn dìu hồn nước,
Lắm
lúc truân chuyên giữ Đạo nhà.
Tánh
đức cổ truyền trừ giặc loạn,
Nghĩa
nhân pháp bửu dẹp can qua.
Hồng
ân đã sẵn làm thao lược,
Ích
quốc an dân dụng chữ hòa.
· Phạm
Hộ Pháp.
(Trích Thông Tin số 8,
07/1970)
NGƯỜI TU HÀNH
Chẳng
ham danh lợi, chẳng mê trần,
Thạch
động thanh nhàn, thân độ thân.
Biển
Bắc mặc dầu cơn sóng bủa,
Non
Nam chi quản đám mây vần.
Ngày
ăn hai bữa nuôi tinh huyết,
Đêm
ngủ ba canh dưỡng khí thần.
Quyết
đoán công phu thân vận động,
Đường
Tiên, cửa Phật mới mong gần.
Phạm Hộ Pháp.
(Trích Thông
Tin số 13, 09/1970)· Nhân lễ Vía Đức Quyền Giáo Tông 13-10-năm Giáp Ngọ (1954)
:
THI
Nguyện
vọng như Anh đã thỏa rồi,
Cố
tâm kế chí có thằng tôi.
Bầu linh gậy sắt ông an thế,
Chày giáng Xử Ma tớ giúp đời.
Vững tiến xa thơ già gắng đẩy,
Xuôi chèo Bác Nhã trẻ đua bơi.
Khuôn hồng trước thấy trời quang đãng,
Kế nghiệp mai sau vẫn có người.
Phạm Hộ Pháp.
(Trích Thông
Tin số 87, 11/1973)· Đức Hộ Pháp đề thi gởi Ngài Cao Tiếp Đạo:
Chúng
ta từ thử bạn đồng tâm,
Dìu
bước nhơn sanh khỏi lạc lầm.
Gương
huệ sáng soi đường Thánh Chúa,
Từ
bi mở rộng cửa Thiền lâm.
Hồn
nho tỉnh mộng lìa phường tục,
Phép
Đạo giác mê sửa nết phàm.
Chấp
phướn tiêu diêu toan cứu khổ,
Chúng
ta từ thử bạn đồng tâm.
Phạm Hộ Pháp.
HỌA NGUYÊN VẬN
Chẳng
thẹn ngàn xưa một chữ tâm,
Cùng
chung đau khổ há đâu lầm.
Thuyền
từ đã trải cơn phong võ,
Đuốc
huệ từng soi bạn hải lâm.
Lừa
lọc sẵn nâng gương Thánh Đức,
Nhộn
nhàng chờ dứt tấn tuồng phàm.
Biển
trần dìu bước tùng nguơn hội,
Chẳng
thẹn ngàn xưa một chữ tâm.
Cao Tiếp Đạo.
(Trích Thông
Tin số 97, 5/1974); Năm bài thi sau trích từ Thông Tin số 107, Kỷ niệm sinh
nhựt Đức Hộ Pháp mùng 5 tháng 5 Giáp Dần (1974).
ĐỨC HỘ PHÁP NHẮN BẠN QUYỀN
GIÁO TÔNG.
Hồ
lô ai để ở nơi đâu,
Ái
quốc Việt Nam nhét bể bầu.
Cứu
thế hồng ân chưa rải khắp,
Nâng
thuyền lòng nước vốn còn sâu.
Nhân
tài nảy nở tuy trăm bụng,
Dân
trí biến sanh bởi một đầu.
Ví
nhướng mắt Tiên xem rõ trận,
Cuộc
cờ thắng bại tận phao câu.
Phạm Hộ Pháp.
THẦN LÝ NGƯNG DƯƠNG DU NAM
Bầu
linh gậy sắt quảy du Nam,
Nương
bóng từ bi đến cõi phàm.
Độ
thế so đồng cân nhựt nguyệt,
Phục
sinh đổ trọn giỏ Hoa-Lam.
Non
Tiên lối cũ thân dầu toại,
Bợn
tục đường xưa bước đã nhàm.
Bảy
bạn ai còn nơi cõi thế,
Đông du xin nhắc vụ Ông Lam.
Phạm
Hộ Pháp.
ÂU DU CẢM TÁC
Cỡi gió tuôn mây đến Pháp triều,
Đo lường vận nước được bao nhiêu.
Tương
lai gởi phận tay tha chủng,
Mai
một thương thân nhóm Việt kiều.
Cứu
quốc khó trông mong gặp Thuấn,
An
dân hết sở cậy nhờ Nghiêu.
Cho
hay chính nghĩa chưa cân đúng,
Máu
mủ vì thương phải đánh liều.
Phạm Hộ Pháp.
Bà Bát Nương hỏi Đức Hộ Pháp:
Dám
hỏi Đại huynh rõ máy Trời,
Chừng
nào ba lửa cháy ba nơi.
Năm
sông đua chảy, năm sông cạn,
Bảy
núi nổ tan, bảy núi dời.
Tận
thế Long Hoa sao chẳng thấy,
Tai
Trời ngạt khí có hay thôi.
Rồng
bay ngựa chạy cho ai cỡi,
Đất
dậy dường bao đổi xác Trời.
Bát Nương Diêu Trì
Cung.
TRẢ LỜI
(Họa Vận)
Hành
tàng hư thiệt tại Cha Trời,
Đông
Mậu năm hồ hỏa khắp nơi.
Châu
ngũ khí hòa tan ác nghiệt,
Thất
sơn dấy động, thất sơn dời.
Thế
tiêu xuân kỷ Long Hoa trổ,
Thưởng
phạt đến cùng Thánh đức thôi.
Long
Mã ban vương tiêu trận kỵ,
Cù
phi hải sụp lý thay Trời.
Phạm Hộ Pháp.
CHỮ TIỀN
Nhơn
loại điêu linh cũng bởi tiền,
Tiền
làm lắm kẻ phải thành điên.
Tiền
che tối mắt mờ nhân nghĩa,
Tiền
giục chợ đời bán rẻ duyên.
Tiền
khiến nhơn sanh xương máu đổ.
Tiền
làm vận nước phải chinh nghiêng.
Tiền
tranh với Lễ, tiền cao quí,
Tiền
khó trao ra, ít kẻ hiền.
Phạm Hộ Pháp.
(trích Cao
Đài Từ Điển, nơi chữ Hộ Pháp)· Đức Hộ Pháp Khuyến Tu:
Ráng
tu cho kịp Hội Long Hoa,
Đạo
đức không chuyên khổ lắm à.
Chay
lạt đặng ngừa lằn khí độc,
Mê
man bất tỉnh trận kỳ ba.
Người
hiền cứu sống theo phò chúa,
Kẻ
dữ bạo tàn xác quạ tha.
Thân
dậu đến đây rồi sẽ biết,
Đinh
ninh vẹn giữ mấy lời Ta.
Phạm Hộ Pháp.
Đức Hộ Pháp lúc đi lưu
vong Nam Vang (Miên quốc).
Khuất
mắt không nhìn nước xẻ hai,
Nên
cam chịu khổ tự lưu đày.
Biên
thùy binh cách còn đe dọa,
Quốc
nội chủ quyền lắm đổi thay.
Trị
loạn chỉ nhờ người dị chủng,
An dân lại cậy kẻ tay ngoài.
Cơ đồ nếu có ngày vinh
hiển,
Cứu
quốc, toàn dân phải trổ tài.
Phạm Hộ Pháp.
* * *
Nặng
phận đạo đời khá gánh xong,
Thêm
phương cứu khổ phải ghi lòng.
Muốn
cầu hòa ái cùng Nam bộ,
Phải
tránh gây thù với Bắc Tông
Chánh
sách bất hòa không hội hiệp,
Hoàng
đồ chia xẻ khó chung đồng.
Nếu toan xu phụ cho an phận,
Chơn lý Đạo mầu hết phổ thông.
Phạm
Hộ Pháp.
* * *
Vì Đạo trọn dâng một tấc thành,
Đặng lo phục vụ cả nhơn sanh.
Chuyển xây thế sự đương hung bạo,
Day trở thời gian với tánh lành.
Tạo dựng cơ đồ cho chánh nghĩa,
Rưới
chan hạnh phúc bởi lòng tin.
Dỡ
hay thời cuộc dầu thay đổi,
Chí
nguyện Việt Nam hưởng thái bình.
Phạm Hộ Pháp.
* * *
Ai
xuôi nên tớ phải xa thầy,
Vì
thế chuyển luân phải đổi xây.
Nỗi
Đạo phân chia nơi đất Bắc,
Thương
đời lẻ tẻ tại miền Tây.
Chia
đôi Việt quốc là chia Đạo,
Xẻ
nửa san hà tức xẻ thây.
Mạng
lịnh Chí Tôn đà chỉ dạy,
Chủ
quyền chơn Đạo một mình Thầy.
Phạm Hộ Pháp.
* * *
Đáng
làm môn đệ mới lưu truyền,
Những
kẻ bội sư uổng kiếp duyên.
Đắc
thế khua môi đồ phản ác,
Thất
thời kín miệng mới hy hiền.
Phướn
linh tế chúng chưa nên pháp,
Dùng
gậy Xử Ma mới có quyền.
Áo
mão đầy rừng trơ mặt khỉ,
Cụng
đầu tà chánh mới kêu Thiên.
Phạm Hộ Pháp.
Bài thi tả Đại Lộ Chánh
Môn Tòa Thánh.
Đại
đồng thiên hạ đó đi đây,
Tiện
mối giao thông mở lộ nầy.
Trước
mặt Cao Đài xuyên đất Việt,
Sau
lưng tháp ngọc tận trời Tây.
Ngang
bằng mặt rộng hai bên rãnh,
Lưng thẳng thân to một lấy
ngay,
Trên
lộ dưới thuyền du khách ngoạn,
Đường
về tầm Đạo động Thiên Thai.
Phạm Hộ Pháp.
(Trích Châu
Thành Thánh Địa của soạn giả Thanh Minh)
Vịnh Trái Thơm.
Trời
sanh hoa quả rất chông gai,
Kêu
gọi danh thơm tiếng để hoài.
Nghịch
tiết sái mùa không trổ mặt,
Thuận
thời sương giáng sẽ ra tài.
Trừng
trăm con mắt không kiên chúng,
Mọc
một cái đầu chẳng sợ ai.
Gặp
lúc nghinh ngang ra giữa chợ,
Chờ
khi có việc sẽ lên đài.
Mấy
ai vị quốc đó người ôi,
Chống
mắt mà xem bắt thảm thôi.
Cứu
nước không ai ra gánh vác,
Phong
quan chưa định đã giành rồi.
Giặc
xâm rút cổ không trông thấy,
Trống
lịnh ăn cơm bới lủng nồi.
Chán
bấy những phường xu cách mạng,
Dự
thân công tử giữ nồi xôi.
Thưa
nhặt thoi đưa cái bóng thiều,
Anh
hùng xuất thế biết bao nhiêu.
Rồng
vùng Bắc Hải chờ vươn vuốt,
Lân
hiện Châu U lập quốc triều.
Đảnh
hớn đã vào tay trí sĩ,
Hươu
Tần nay chịu ngọn gươm điều.
Thái
Bình Dương hãy chừ mô thấy,
Các
nước xua binh ấy Thánh điều.
Đại
Đồng xã hội hưởng hồng ân,
Đạo
hạnh dìu nhau khá dặn lòng.
Tam
Giáo hiệp đồng cơ Tận độ,
Kỳ
Ba trổ mặt giống Tiên Rồng.
Phổ
thông chơn Đạo noi Hồng Lạc,
Độ
khắp năm châu giữ thiện đồng.
Cao
thượng Chí Tôn quyền chủ tọa,
Đài
tiền sùng bái giữ nâu sòng.
Cuộc
thế trăm năm gẫm rất gần,
Cái
thân phàm tục chả là thân.
Yêu
nhau mảnh áo còn ưa ghét,
Lạc
nghĩa đơn tâm chịu cõi trần.
Ngọn
khí hư vô âm mấy tấc,
Cảnh
Tiên huyền diệu đủ vài phân.
Thà
cam cử a Phật trao thân đọa,
Trổi
máy Thiên thơ cải số phần.
Tam
Giáo từ xưa vốn một nhà,
Người
sau lầm tưởng vọng chia ba.
Minh
tâm nay hiểu đường chơn giả,
Mẫn tánh
mới thông nẻo chánh tà.
Thích
Đạo tỉ như hành bộ khách,
Nền
Nho ví tợ chiếc đò qua.
Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,
Tam
giáo từ xưa vốn một nhà.
ĐẠO ĐỜI
Đời
lắm sự não nùng đau khổ,
Đạo
khuyên Đời tìm chỗ an vui.
Đời
còn lắm chuyện ngược xuôi,
Đạo
Trời biết được nếm mùi tịnh thanh.
Đời
vật chất nảy sanh khói lửa,
Đạo
tinh thần thường bửa an nhàn,
Đời
còn lắm lúc lầm than,
Đạo
thì lắm lúc hân hoan tinh thần.
Đời
thì lại khinh bần trọng phú,
Đạo
khuyên Đời xả phú cầu bần.
Đời
bần thì lại khổ thân,
Đạo
bần thì lại muôn phần thảnh thơi.
Đời
đâu rõ cơ Trời huyền diệu,
Đạo
khuyên Đời kiếm hiểu ít nhiều.
Đời
càng hung dữ càng tiêu,
Đạo
bồi âm chất càng nhiều phước lai.
Đời
lẩn quẩn không ngoài tứ khổ,
Đạo
độ Đời chỉ chỗ trường sanh.
Đời
còn gây hấn cạnh tranh,
Đạo
thì gió mát trăng thanh bạn cùng.
Vịnh Hồ Nhựt Nguyệt (ở Đài Loan, nhân chuyến Á du
của Đức Hộ Pháp)
Đây
hồ Nhựt Nguyệt tại đầu non,
Một
nửa vòng câu một nửa tròn.
Xanh
biếc điểm màu tòng lộn đảnh,
Trắng
ngần lộng sắc nước soi gương.
Đầu
gành lăng líu chim ca hát,
Kẹt
đá ro re suối khảy đờn.
Những
khách phong lưu ai để bước,
Cảnh
nhàn như thế, cảnh nào hơn ?
Vịnh Hồ Nhựït Nguyệt (thi
chữ Hán).
Sơn
đầu hữu thượng thủy,
Vân
vũ tạo tú khí.
Đài
Trung Nhựt Nguyệt đàm,
Thắng
cảnh nhứt vô nhị.
(Trích Á Du
của Đức Hộ Pháp, Sĩ Tãi Bùi Quang Cao ghi); Năm 1960, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ
tại Giáo Tông Đường, có khen Ngài Bảo Thế bằng bài thơ khoán thủ : Bảo Thế Cứu
Nước.
BẢO
trọng vạn linh hiệp Chí Linh,
THẾ
nguy chuyển loạn lập hòa bình.
CỨU
đời mở đạo kinh luân sẵn,
NƯỚC
Việt trông chờ sách cứu tinh.
(Trích từ Danh Nhân Đại Đạo của Đức Nguyên). Kể từ
ngày Đức Ngài lưu vong sang Cao Miên, ngày 5-Giêng-Bính Thân (dl 16-2-1956),
cho đến ngày Đức Ngài qui Thiên, 10-4-Kỷ Hợi (dl 17-5-1959), Đức Ngài ở nơi đất
cao Miên được 3 năm 3 tháng.
Đêm mùng 10-4-Kỷ Hợi, lúc 10 giờ 45, Ngài Bảo Đạo
Hồ tấn Khoa và Sĩ Tải Bùi quang Cao phò loan, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ, dặn dò
công việc tế lễ và cho bài thi tạm làm bài Thài hiến lễ:
Ba
năm xa cách để chờ may,
Vạn sự do Thiên đã sắp bày.
Chí muốn cao bay trong một kiếp,
Giờ đây nhờ cậy sức anh tài.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đứng mày râu chẳng mảy
may.
Một
kiếp vì đời tua gắng trả,
Cho
rồi nợ thế khỏi ai hoài.
Đêm 13-4-Kỷ Hợi, Ngài Hồ Bảo Đạo và Sĩ Tải Cao phò
loan, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ cho bài Thài khác, thay bài Thài trước, dùng
hiến lễ Đức Ngài mãi về sau nầy :
Trót
đã bao năm ở xứ người,
Đem
thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ
tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn
nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi
đây ai đến cầm Chơn pháp,
Tô điểm non sông, Đạo lẫn Đời.
(Hai bài thi nầy trích từ Danh Nhân
Đại Đạo của Đức Nguyên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét