Phạm Hộ Pháp, Thi Tập - 2 / 4


Thập Thủ Liên Huờn của Đức Hộ Pháp. Tại Nhàn Du Khách sạn

1
Tai Trời gieo họa chẳng riêng ai,
Thế giời kỳ ba sắp trận bài.
Đất Bắc ai xuôi mà diệu võ,
Trời Nam Mỹ khiến Diệm vương oai.
Hoàng đồ buổi trước Trời chung một,
Lãnh thổ ngày nay bị đứt hai.
Hỏa pháo hai bên hờm nhả khói,
Chia sông Bến Hải quyết đua tài.

2
Đua tài hai gả quyết hành hung,
Ai cũng tranh hơn trận khí hùng.
Kế Mỹ võ trang cho kẻ mạnh,
Mưu Nga lòn lõi giúp dân cùng.
Đồng bào chi phối phân trăm mảnh,
Xã hội lộn ngầu ngả tứ tung.
Tức nước bể bờ tuôn thẳng trớn,
Cuồng phong lôi cuốn chảy càng hung.

3

Càng hung lai láng cả hoàn cầu,
Nhơn lọai lao mình xuống hố sâu.
Lội ngược vì Nga quần sút ống,
Thả xuôi theo Mỹ áo rơi bâu.
Lợi danh chưa toại đành buông đứt,
Áo mão lỡ làng biết máng đâu.
Đứng giữ trung ương xem bảng Thánh,
Lao xao triệt giáo sống chen đầu.

4

Chen đầu đủ sắc quái tinh tà,
Quần áo gạch đầy sọc quỉ ma.
Lẫn bẩn mài răng ngăn tới lưỡi,
Cần cù lóc thịt xáo nồi da.
Nghiền xương trộn cát tô then cửa,
Nặng máu hòa vôi quét vách nhà.
Xây dựng gia đình luôn cả kiến,
Khoe khoan thế giới một mình ta.

5

Mình ta ta chịu chẳng hề sao,
Ngặt nổi nhơn sanh tính lẽ nào.
Cổ vắn khó trương lên Bắc Đẩu,
Hơi dài không thấu đến Nam Tào.
Vàng thau lẫn lộn không người thổi,
Ngọc thạch bất phân thiếu kẻ trau.
Nhớ thuở năm xưa Thầy có dạy,
Hai trăm Bồ Tát tại thiên lao.

6

Lao ngục trả vay tại thế nầy,
Có bầy quỉ sống đón chờ đây.
Đứa cầm dùi đục nghiền xương rục,
Đứa xách nước trong trút ruột đầy.
Thần thấy khảo tra Thần héo mặt,
Thánh xem hình phạt Thánh nhăn mày.
Bởi vì hai gả tranh vương bá,
Gieo họa nhơn sanh chịu đọa đày.

7

Đọa đày lũ trẻ gánh tai ương,
Do bởi phần đông phản lập trường.
Ướt gốc nở quên người tưới cội,
Xanh nhành vội dứt kẻ đào mương.
Nhựa xuân nẩy lá đồng chung hưởng,
Nắng hạ queo cành chẳng tiếc thương.
Lóc thịt nhơn sanh dâng chúa quỉ,
Làm sao cho đáng mặt hiền lương.

8

Hiền lương đặng gặp cảnh lo âu,
Biết tỏ cùng ai cởi mạch sầu.
Ví biết mạng căn là số định,
Gẫm mình vô tội cũng thâm bâu.
Thầy còn đang chịu cơn lao lý,
Tớ lại màng chi phận thảm sầu.
Chẳng bước đến trường thi khổ hạnh,
Làm sao rõ đặng máy cao sâu.

9

Cao sâu thử thách tại Nhàn Du,
Thế sự lầm tin khám nhốt tù.
Nếu chẳng lột lưng ân báo oán,
Phương chi vạch mặt nghĩa ra tàu.
Trường Tiên mở lớp giồi thiên vị,
Khoa Phật khai kỳ dượt sãi tu.
Chọn lọc chiên lành cho đáng giá,
Phòng sao nối nghiệp Đạo ngàn thu.

10

Ngàn thu mới gặp Hội Long Hoa,
Khuyên khắp chúng sanh trẻ đến già.
Kết khối hòa bình ngăn giặc loạn,
Mở trường giáo hội chận can qua.
Trương cờ Tô Tử xin hồn nước,
Phất phướn Từ Tôn dẫn Đạo nhà.
Khắp cả chúng sanh đồng chung sống,
Lập đời thượng cổ hưởng âu ca./.

*  *  *
Đạo Đời
Đời lắm sự nảo nùng đau khổ,
Đạo khuyên đời tìm chỗ an vui.
Đời còn lắm chuyện ngược xuôi,
Đạo Trời biết được nếm mùi tịnh thanh.
Đời vật chất nảy sanh khói lửa,
Đạo tinh thần thường bữa an nhàn.
Đời còn lắm lúc lầm than,
Đạo thì lắm lúc hân hoan tinh thần.
Đời thì lại khinh bần trọng phú,
Đạo khuyên đời xả phú cầu bần.
Đời bần thì lại khổ thân,
Đạo bần thì lại muôn phần thảnh thơi.
Đời đâu rõ cơ Trời huyền diệu,
Đạo khuyên đời kiếm hiểu ít nhiều.
Đời càng hung dữ càng tiêu,
Đạo bồi âm chất càng nhiều phước lai.
Đời lẩn quẩn không ngoài tứ khổ,
Đạo độ đời chỉ rõ trường sanh.
Đời còn gây hấn cạnh tranh,
Đạo thì gió mát trăng thanh bạn cùng.
                                                                                  Hộ Pháp

15-7- Nhâm Thân ( 1932 ). Trích bài diễn văn của Đức Hộ Pháp.
" Mình có khoe mình chí thánh,
Mới chê kẻ khác có phàm tâm.
Nếu đạo tâm gìn dạ không không,
Ai vẫn thế mà ta đây cũng thế.
Mang xác tục là mang tình tệ,
Xác thịt ai như thể thân mình.
Muốn cho hơn cả thảy chúng sanh,
Phải lên mặt người lành cho đúng bực.
Mang xác thịt trong vòng khổ cực,
Phải cân lường tài sức được là bao.
Quá sức mình thiệt giả té màu,
Dầu khôn dại lâu mau cũng thấy.
Lời người giả kia như giấy,
Tiếng đời hay thiệt ấy là vàng.
Chưa ai từng lượm giấy bỏ vàng,
Mà không phân biệt ngu ngoan cho đúng lý.
Mình tự hỏi xét lòng cho kỷ,
Mình chê mình còn nghĩ thương ai.
Nếu tầm cho mình đúng bực hiền tài,
Cấm hẳn mặc người dối trá./.

*  *  *
Dạo Đàn Cảm Tác
Gượng khải năm âm giải tấm lòng,
Nhắn đưa gió ái đến thu song.
Gióng dây lìa nhạn sầu nghiêng ngửa,
Dở ngón rơi loan thảm chập chồng.
Lầu phụng mơ màng nghe uyển địch,
Cung Tần văng vẳng lóng tơ đồng.
Chia đôi bóng nguyệt còn phân nửa,
Gối lạnh thương ai luống não nồng.
                                                                       Bát Nương.

Họa vận
Năm âm mượn bực tỏ tơ lòng,
Đờn “ Bắc” ra “ ai” oán đôi song.
Tiếng thảm làm cơm tràn quá chén,
Hơi sầu dồn gối chất nên chồng.
Tranh Tần ghẹo khóc người cung lãnh,
Tỳ Hớn khêu đau khách ải đồng.
Nhạn lạc lìa cung đành lỗi nhịp,
Cây lằng phong nguyệt nhắc duyên nồng.
                                                                                  Hộ Pháp

*  *  *
THI VĂN CỦA ĐỨC PHẠM HỘ PHÁP

Tam Giáo
Tam Giáo từ xưa vốn một nhà,
Người sau lầm tưởng vọng chia ba.
Minh tâm nay hiểu đường chơn giả,
Mẫn tánh mới thông nẻo chánh tà.
Thích Đạo tỉ như hành bộ khách,
Nền Nho ví tợ khách đò qua.
Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,
Tam Giáo từ xưa vốn một nhà.


            Bắc Du cảm tác ( 1950 )
Non nước hồn thiêng đã tỉnh dần,
Xuân thu xưa nay đổi thu xuân.
Nam phong đỡ vững xa thơ Hán,
Bắc tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần.
Bác ái là đề thi tiến hóa,
Nghĩa nhân ấy mục định duy tân.
Thiên thời địa lợi đôi điều sẵn,
Chỉ thiếu hòa nhân để hiệp quần.

            Âu Du ( 1954 )
Lướt gió tung mây đến Pháp triều,
Đo lường vận nước được bao nhiêu.
Tương lai gởi lại tay tha chủng,
Mai một thương cho đám việt kiều.
Cứu quốc khó trông mong gặp Thuấn,
An bang hết sở cậy nhờ Nghiêu.
Cho hay chánh nghĩa chưa cân đúng,
Máu mủ vì thương phải đánh liều .

Người tu hành
Chẳng ham danh lợi chẳng mê trần,
Thạch động tu hành thân độ thân.
Biển bắc mặc dầu cơn sóng bủa,
Non nam bao quản đám mây vần.
Ngày ăn hai bữa nuôi tinh huyết,
Đêm ngủ ba canh dưỡng khí thần.
Quyết chí công phu thân vận động,
Đường Tiên nẻo Phật mới mong gần.

Chữ Tiền
Nhơn loại điêu linh cũng bởi tiền,
Tiền làm lắm kẻ phải thành điên.
Tiền che tối mắt mờ nhân nghĩa,
Tiềc giục chợ đời bán rẻ duyên.
Tiền khiến nhơn sanh xương máu đổ,
Tiền làm vận nước phải chinh nghiêng.
Tiền trang với Lễ tiền cao quí,
Tiền khó trao ra ít kẻ hiền.

*  *  *
Vẫn gánh non sông đến tuổi già,
Đơn tâm lành mạnh thế tài ba.
Đòi phen kiên nhẫn dìu hồn nước,
Lắm lúc truân chuyên giữ Đạo nhà.
Tích đức cổ truyền trừ giặc loạn,
Nghĩa nhân pháp bửu dẹp can qua.
Hồng ân đã sẵn làm thao lược,
Ích quốc an dân dụng chữ HÒA.

*  *  *
Sáu tám năm đủ tỉnh mộng hòe,
Kiếp sanh lựa nghiệp chẳng nên nghề.
Mãn vui để mắt dòm vai tướng,
Ngán nỗi cầu thân với chú hề.
Bắt gió nắn hình xem lý thú,
Mượn hồn làm xác thấy điên ghê.
Sử xanh mai một còn ghi chép,
Xin chớ đặt tên Tắc bán chè.

*  *  *
Đại đồng xã hội hưởng hồng ân,
Đạo hạnh dìu nhau khá dặn lòng.
Tam giáo hiệp đồng cơ tận độ,
Kỳ ba trổ mặt giống Tiên Rồng.
Phổ thông chơn đạo nơi hà lạc,
Độ khắp năm châu giữ thiện đồng.
Cao thượng Chí Tôn quyền chủ tọa,
Đài tiền sùng bái giữ nâu sồng.

*  * *
Vì Đạo trọn dâng một tấc thành,
Đặng lo phục vụ cả nhơn sanh.
Chuyển xây thế sự đang ly loạn,
Xoay trở thời gian với tánh lành.
Tạo dựng cơ đồ cho chánh nghĩa,
Rưới chan hạnh phúc bởi lòng tin.
Dỡ hay thời cuộc dầu thay đổi,
Chí nguyện dân Nam hưởng thái bình.

*  *  *

            12-9-Ất Hợi ( 1935 ). Đức Hộ Pháp tặng bài thi nầy để tiển đưa các môn đệ Phạm Môn đi hành đạo.
Buồn chưa đoạt được phép thần thông,
Dụng thế phân thân hiệp đại đồng.
Ước tóm địa cầu về một mối,
Mong gồm thiên hạ lại đồng tông.
Đưa gương diệu lý dìu Âu chủng,
Cầm kiếng thiêng liêng chiếu Á Đông.
Bước tục từng quen nơi cửa Đạo,
Đường văn gặp bạn cũng vui lòng.

*  *  *
Ai xuôi nên nỗi tớ xa Thầy,
Vì thế chuyển luân phải đổi xây.
Mối Đạo phân chia nơi đất Bắc,
Thương đời lẻ tẻ tại miền Tây.
Chia đôi Việt Quốc là chia Đạo,
Xẻ nửa sơn hà tức xẻ thây.
Vâng lịnh Chí Tôn đà chỉ dạy,
Chủ quyền chơn đạo một mình Thầy.

*  *  *
Mấy ai vị quốc đó người ôi,
Chóng mắt mà xem bắt thảm thôi.
Cứu nước không ai ra gánh vác,
Phong quan chưa định đã giành rồi.
Giặc xâm rút cổ không trông thấy,
Trống lịnh ăn cơm bới lủng nồi.
Chán bấy những phường xu cách mạng,
Dựa thân công tử giữ nồi xôi.

*  *  *
Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,
Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.
Rồng vàng Bắc Hải chờ vươn vuốt,
Lân hiện Châu U lập quốc triều.
Đảnh Hớn đã vào tay trí sĩ,
Hươu Tần nay chịu ngọn gươm điều.
Thái Bình dương hải chờ mô thấy,
Các nước xua binh ấy Thánh điều.

*  *  *
Phất phới năm thu khổ đọa đày,
Ai dè lại gặp buổi hôm nay.
Chung trà Hồ địch chưa ngơi khát,
Ly rượu Hớn bang dở tỉnh say.
Vỗ cánh phi hồng nâng thổ võ,
Đôi nền tổ quốc để Cao Đài.
Khải hoàn trổi khúc ca ru bạn,
Ngưng quạt mà xem nước trổ tài.

*  *  *
Cuộc thế trăm năm gẫm rất gần,
Cái thân phàm tục chả là thân.
Yêu nhau mảnh áo còn ưa ghét,
Lạc nghĩa đơn tâm chịu cõi trần.
Ngọn khí hư vô âm mấy tấc,
Cảnh Tiên huyền diệu đủ vài phân.
Thà cam cửa Phật trau thân đọa,
Trổi máy Thiên cơ cải số phần.

*  *  *
Vàng thiết lộn vào tự tiên tri,
Tây Ninh chợ ấy hết đường đi.
Tre dài trải nhánh xài thất ức,
Cất xưởng đợi chờ bấy lâu nay.
Tòng bá ngô đồng đâu có lỏi,
Cao già ruột cứng thật quá tay.
Xây hồ đựng nước hồ cũng bể,
Đóng chuồng nuôi vịt, vịt cũng bay.
Giông tố tới đây cây đâu dựa,
Bay nhào vô đậu chật tàu Cao.

*  *  *
Cuộc thế vần xoay khổ với vui,
Biết sao hết khổ biết sao vui.
Vui không biết Đạo vui rồi khổ,
Khổ để giúp đời khổ mới vui.
Nếu đặng tâm không thì chẳng khổ,
Còn đời phiền não có gì vui.
Thương đời phải mắc trong vòng khổ,
Hãy rán mà tu để sống vui.

*  *  *
Hội nghị Âu Châu sắp dọn đường,
Chờ coi gánh hát Thái Bình Dương.
Cả mười sáu nước chung bầu gánh,
Ai lãnh mỗi vai sắp sẵn sàng.
Cờ phất quân hô trống giống ba,
Kép Mỹ, kép Nga chung kép Pháp.
Tướng Tàu, tướng Ấn tướng phiên Nga,
Lão phiên Nga trợ mắt lên.
Cao Ly, Mông Cổ đứng hai bên,
Biển Đông sấm sét ra oai thử.
Hò hét vang lên trổi tiếng rền,
Việt Nam khán giả đứng xem coi.
Lớp nọ tướng kia rất mặn mòi,
Diễn xuất lần nầy là lần chót,
Vui cười không mãn một tiếng thôi.

*  *  *
Nặng phận đạo đời khó gánh song,
Thêm phương cứu khổ lại ghi lòng.
Muốn cầu hòa ái cùng Nam bộ,
Phải tránh gây thù với Bắc tông.
Chánh sách bất hòa không hội hiệp,
Hòang đồ chi xẻ khó chung đồng.
Muốn toan xu phụ cho an phận,
Chôn lý đạo mầu hết phổ thông.

*  *  *
Một thân lưu xứ quá đìu hiu,
Thấy khổ nhơn sanh rán sức chìu.
Võ lực gây bao tang tóc lại,
Nhuộm màu hòa giải nghiệt oan tiêu.
Rủi sanh phải lúc thời ly loạn,
Mong gặp đặng hồi chúa Thuấn Ngiêu.
Đã quyết hy sinh vì nghĩa cả,
Chỉ mong gầy lại phước thiên triều.

*  *  *
Ngảnh lại cuộc đời chỉ quạnh hiu,
Cả kêu nhơn loại sớm xoay chiều.
Quay về chung sống tang thương dứt,
Hướng đến hòa bình nghiệt chướng tiêu.
Cố đẩy xa thơ trên đất Thuấn,
Vững chèo Bát Nhã dưới trời Nghiêu.
Bắc Nam một gốc ai chia xẻ,
Chánh thể hòa nhân dựng thánh triều.

*  *  *
Rán tu cho kịp Hội Long Hoa,
Đạo đức không chuyên khổ lắm mà.
Chay lạc đặng ngừa hơi khí độc,
Mê man bất tỉnh trận kỳ ba.
Người hiền cứu sống theo phò chúa,
Kẻ dữ bạo tàn xác quạ tha.
Thân Dậu đến đây rồi sẽ biết,
Đinh ninh vẹn giữ mấy lời ta.

*  *  *
Chợ Long Hoa
Sơ khai kiến tạo nhớ công Thầy,
Đồ Đệ tuân hành sự nghiệp đây.
Hình tướng tượng trưng tòan thế giới,
Bát môn chuyển đạt khắp đông tây.
Quái linh nhơn chủng còn lưu dấu,
Long thể thế gian mãi dựng xây.
Hoa quả mùi hương tăng ngào ngạt,
Thị thiền thiên trước vẫn còn đây.

*  *  *
Khuất mắt không nhìn nước rẽ hai,
Nên cam chịu khổ tự lưu đày.
Biên thùy binh cách còn đe dọa,
Quốc nội chủ quyền lắm đổi thay.
Trị loạn những nhờ người dị chủng,
An dân lại cậy kẻ tay ngoài.
Cơ đồ nếu muốn ngày vinh hiển,
Cứu nước toàn dân phải trổ tài.

*  *  *
Đáng làm môn đệ mới lưu truyền,
Những kẻ bội sư uổng kiếp duyên.
Đắc thế khua môi đồ phản ác,
Thức thời kín miệng mới hay hiền.
Phướn linh tuế chúng chưa nên pháp,
Dùng gậy xử ma mới có quyền.
Áo mão đầy rừng trơ mắt khỉ,
Cụng đầu Tòa Thánh mới kêu Thiên.

*  *  *
Diêu Trì Kim Mẫu huệ ân ban,
Hiện rõ nơi đây cõi Niết Bàn.
Cửu Vị điều hành cơ tiến hóa,
Bát hồn nhuần đượm phước sanh quang.
Lọc lừa thánh chất Tam Kỳ đó,
Đứ rước Tiên căn bát Nhã thòan.
Cửu nhị nguyên nhân còn tại thế,
Mừng nay Đức Mẹ ngự trần gian.

Tại Đế Thiên Đế Thích
Thổ võ xiêm quan tức Việt triều,
Đế Thiên hồn nước vẫn còn nêu.
Mảnh tâm Hồng Lạc đề thiên sứ,
Giọt máu Nam phong định quốc thiều.
Để mắt trông dò xem thế cuộc,
Ngắm cây ngó cảnh vẫn đìu hiu.
Ví đem gang tấc nâng hồn nước,
Xiêm rạp là nơi đến điếu kiều.

*  *  *
Thần Đồng Vấn Nguyệt (Không rõ tác giả)
Đức Hộ Pháp ngâm nhân một đêm trăng tỏ và đêm ấy Ngài về chầu Chí Tôn.

Thu thiên da thanh quang vân tĩnh,
Chốn lữ đình thức tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng vẳng bốn bề,
Gương nga vằng vặc dựa kề quế lan.
Thấy trăng thêm động lòng vàng,
Ngâm câu vấn nguyệt cho đang mấy lời.
Hỏi dì nguyệt mấy lời sau trước,
Duyên cớ sau mà được thảnh thơi ?
Nguyệt rằng: vật đổi sao dời,
Thân nầy Trời để cho người soi chung.
Làm cho mỏi mệt anh hùng,
Ngàn thu sương tuyết một lòng thanh quang.
Hỏi dì nguyệt có đàng lên tới,
Chốn thiềm cung phỏng mấy mươi xa ?
Nguyệt rằng ta lại biết ta,
Có cây đơn quế ấy là nhà em.
Anh hùng thử đến mà xem,
Kìa gương ngọc thỏ nọ rèm thủy tinh.
Hỏi dì nguyệt có tình chăng tá ?
Chữ xuân thu phỏng đã nhường bao ?
Nguyệt rằng: yếu liễu thơ đào,
Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
Gương nga vằng vặc chẳng mòn,
Bao nhiêu tinh đẩu là con cái nhà.
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử,
Buổi vân lôi ai giữ  kinh luân ?
Ta rằng: có Đấng thánh quân,
Ra tay dẹp loạn nên thân trị bình.
Nguyệt hỏi ta ngẩn ngơ ngơ ngẩn,
Ta hỏi nguyệt thơ thẩn thẩn thơ.
Liễu qua trước gió phất phơ,
Hương đưa bát ngát phòng thơ ngạt ngào ./.

*  *  *
10-4- Kỷ Hợi, lúc 22g45 ( 1959 ). Đức Ngài giáng cơ.

Ba năm xa cách đã chờ may,
Vạn sự do Thiên khéo sắp bài.
Chí muốn cao bay trong một kiếp,
Giờ đây nhờ cậy sức anh tài.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đấng mày râu chẳng mảy may.
Một kiếp vì đời tua gắng trả,
Cho rồi nợ thế khỏi ai hoài.

13-4-Kỷ Hợi ( 1959 ). Đức Hộ Pháp giáng cơ. hàng năm ngày 15-8 và ngày 10-4 ). Bài thi nầy được thài cúng trong Lễ Hội Yến:
" Trót đã bao năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời."

Đàn cơ đêm 15-10- Giáp Thìn ( 1964 ). Tại Hiệp Thiên Đài, lúc 23 g. Phò Loan: Hiến Pháp & Thượng Sanh.
Hộ  quyền cực lạc định tà chơn,
Pháp  ấn nêu cao sáng Đạo huờn.
Phạm  tử Di Đà ra phép mật,
Công  môn kim khuyết định thần ngươn.
Tắc  quyền di lập xong đàn tịnh,
Giáng  thế khai cơ độ vĩ nhơn.
Mừng  sắp nên hình cho vạn chủng,
Đàn  cao vui hưởng phép thường chơn.
( Đạo đức vuông tròn trọng nghĩa nhơn.)

*  *  *
Đàn đêm 6-2- Ất Tỵ ( 8-3-1965). Tại Giáo Tông Đường lúc 20 g30p.

Quyền uy nhờ bởi giữ chơn truyền,
Chưởng đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.
Quản quán chúng sanh tu cội phúc,
Hiệp hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.
Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,
Đài nội tuyển thăng thánh đức lên.
Thừa thế chuyển nguy an thánh địa,
Mạng trời đâu để quỉ hành quyền.

15-8- Quí Dậu ( 1933 ). Trích bài diễn văn Đức Hộ Pháp.
Kiếp sống con người xem nên vắng vỏi,
Sống trăm năm ước đặng bấy nhiêu người.
Phước trọn kiếp độ chừng xem mấy kẻ,
Khổ thì nhiều, vui vốn ít.
Sống càng lâu khổ chất càng dầy,
Khổ nội thân tứ khổ không sai.
Cầu bất tử là cầu đày thân khỏi tội.
……………………
……………………
Thắng nổi quyền vật dục,
Xứng đáng mặt khách trần.
Gánh đau thương tay đỡ tay nâng,
Khối thiện ác sửa cân Tạo Hóa.
Giữa khổ hải đưa thuyền Bát Nhã,
Giúp tinh thần giải quả trừ căn.
Sấn tay trau đẹp vẻ đạo hằng,
Lượm giảm bớt nẻo trần gai gốc.
Đem cười để vào nơi cảnh khóc,
Lấy lòng lành trừ nọc đau thương.
Chốn lầm than rảy nước nhành dương,
Dứt trái chủ trao gươm thần huệ.
Chịu khổ thế tìm phương giác thế,
Lấy nhọc đời làm kế dìu đời.
Biến lợi danh ra cuộc trò chơi,
Làm phú quí thành mồi hại thế.
Sửa bác ái ra nên câu kệ,
Chế từ bi như thể bài kinh.
Noi vận hành quảng đại chí linh,
Góp nhơn loại vào tình cốt nhục.
Kẻ sầu thảm cho vui hạnh phúc,
Người vô duyên hưởng chút ân hồng.
Trọng mạng sanh gầy phép đại đồng,
Kỉnh vật loại đặng mong cứu thế.
……………………………
……………………………
Hễ cơ đời càng khó,
Quyền vật dục lại càng nhiều.
Phận làm người đã khó biết bao nhiêu,
Giữa võ trụ phải chìu theo thời thế.
Nợ cơm áo sanh lời ra tệ,
Đạo nhơn luân thêm thế dục hư.
Mảnh thi phàm đã dễ chi từ,
Trong cuộc thế thân như bèo bọt.
Dở thì chịu ăn thừa uống mót,
Phải toan lo sống sót cùng đời.
Một mảnh tâm chia để mấy nơi,
Đâu dư rảnh hỏi Trời căn sống.
Luật tạo hóa rõ chi khinh trọng,
Nhẫng gởi thân theo bóng tang thương.
Cùng khổ xem sống chết ra thường,
Sống nhờ thế chết nương tay thế.
Giải ách cậy kim tiền làm kế,
Thích tình xem khanh tể là mưu.
Bước công danh quen lẽ nghịch thù.
Bả quyền lộc nhuộm màu cừu hận,
Vòng cương tỏa ra vào lẩn bẫn.
Lấy oan gia làm phấn dồi mình,
Tên tuổi đây nhục nhục vinh vinh.
Nào còn nhớ tâm linh “ bổn thiện”

Hạc và Gà
Một bữa nọ trời vừa rựng sáng,
Ánh nhựt hồng chói rạng phương đông.
Anh gà vừa nhảy xuống lồng,
Trương mình đập cánh vang đông oai hùng.
Gà tự nhủ vô cùng sung sướng,
Lợi danh tình ta hưởng quanh năm.
Mặc cho thế cuộc thăng trầm,
Ta vui con vợ ta tầm mồi ngon.
Cùng thuở ấy có con bạch hạc,
Thấy sự đời chua chát đau thương.
Chúng sanh mê mết mộng trường,
Sắc tài danh lợi vấn vương buộc mình.
Nghĩ chán kiếp phù sinh giả dối,
Hạc vội vàng tìm kế thóat thân.
Núi rừng thủ phận thanh bần,
Tịnh thanh một cõi phong trần mặc ai.
Nay nhằm lúc xuân lai đông mãn,
Bình minh vế ánh sáng đẹp tươi.
Hạc liền vỗ cánh tung trời,
Năm châu bốn biển đồng thời xem qua.
Bỗng chợt thấy anh gà bạn cũ,
Đắm chìm trong lạc thú xa hoa.
Vui theo nẻo vạy đường tà,
Vợ con khám ngục cửa nhà xiềng gông.
Hạc thấy thế động lòng trắc ẩn,
Muốn tìm phương dẫn dắt bạn gà.
Nhánh cây đáp xuống là đà,
Vội vàng chào hỏi gọi là bạn thân.
Gà thấy hạc chẳng cần thủ lễ,
Giả lơ là dường thể khinh khi.
Bởi gà là đứa vô suy,
Tưởng đâu mình bảnh nên thì tự cao.
Giọng kiêu hảnh hỏi sao anh hạc,
Bấy lâu nay trôi giạt nơi nào.
Gia đình sự nghiệp ra sao,
Trông anh có vẻ khổ lao nghèo nàn.
Hạc thong thả dịu dàng đáp lại,
Nầy anh gà anh hảy nghe đây.
Thời gian tôi cách chốn nầy,
Tìm nơi thanh vắng am mây tu trì.
Nay tôi đã thoát ly sự thế,
Khắp năm châu bốn bể là nhà.
Mỗi ngày một bữa ngọ qua,
Không lương không bổng cũng là an thân.
Gà nghe nói chẳng cần suy nghĩ,

Mĩm môi cười ngỏ ý chê bai.
Đời anh hạc chẳng bằng ai,
Thua thằng thất nghiệp tương lai mịt mù.
Anh coi tôi võng dù ngang dọc,
Sớm tới chiều chẳng nhọc công lao.
Tôi nay tột bực sang giàu,
Nhà cao cửa rộng ra vào thảnh thơi.
Còn anh lại tìm nơi vắng vẻ,
Chôn cuộc đời son trẻ  tài hoa.
Vui chi kiếp sống không nhà,
Không lương không bổng thật là nguy vong.
Tôi toại hưởng phước hồng dào dạt,
Lúa đầy kho tiền bạc đầy rương.
Dạo chơi gác tía lầu hường,
Vinh sang phú quí gia đường ấm no.
Còn anh mãi bo bo chác khổ,
Giam cuộc đời vào chỗ quạnh hiu.
Chỉ nghe vượn hú chim kêu,
Buồn teo vắng vẻ sớm chiều thân côi.
Gà mặc sức khua môi múa mỏ,
Tôi như vầy mấy có ai hơn.
Áo quần hàng lụa bóng dờn,
Năm thê bảy thiếp tình nhơn cũng nhiều.
Thê cùng thiếp sớm chiều hầu hạ,
Phán một lời kẻ dạ người thưa.
Rượu ngon sắc tốt say sưa,
Con ngoan vợ đẹp sớm trưa vui vầy.
Anh là kẻ bất tài vô dụng,
Tôi là người anh dũng tài ba.
Anh thời bộ dạng xấu xa,
Tôi thì như một đóa hoa vẹn mười.
Nghe vừa dứt mĩm cươi hạc đáp,
Cái sự đời cao thấp tự nhiên.
Tôi nay bạc phước vô duyên,
Không nhà không cửa gạo tiền cũng không.
Anh được hưởng phúc hồng sang cả,
Anh là người vương giả công hầu.
Của đời anh quyết tóm thâu,
Con ngoan vợ đẹp nhà lầu xe hơi.
Còn tôi mãi đội trời đạp đất,
Một chữ bần nhứt vật cũng không.
Đói thời rau trái đỡ lòng,
Khát thì nước suối cội tòng dựa nương.
Chốn tịch mịch lòng thường khỏe dạ,
Khác hơn là những kẻ mang gông.
Lợi danh ví thể chim lồng,
Sắc tài như cá giữa vòng mắc câu.
Cá mắc câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
Nay anh phú quí vinh hoa,
Lợi danh trói buộc khó mà thoát thân.
Khuyên anh sớm lánh lần hậu hoạn,
Tránh những điều tai nạn về sau.
Dầu anh quyền lực thế nào,
Cũng không tránh khỏi đường vào Diêm Vương.
Khi anh được người thương kẻ mến,
Thì anh nên nhớ đến thớt dao.
Nhớ khi dao khứa máu trào,
Nhớ khi bầm xắt nấu xào hầm kho.
Khi anh được nhà to cửa rộng,
Thì phòng khi kiếp sống bể dâu.
Trăm năm rồi có gì đâu,
Chỉ hai tay trắng về chầu Diêm Vương.
Khi anh được tiền rương bạc vựa,
Thì phòng khi tắm lửa xé phai.
Khi anh sặc sỡ đẹp trai,
Thì anh nên nhớ những ngày rên la.
Khi gia đạo hiệp hòa hạnh phúc,
Thì anh nên ngừa lúc quạnh hiu.
Khi nào con vợ mến yêu,
Thì anh phòng lúc gặp điều bội ân.
Khi anh được phỉ thân mạnh bạo,
Thì anh nên ngừa chảo nước sôi.
Khi nào anh được cao ngôi,
Thì anh nên nhớ những hồi xương tan.
Khi anh được giàu sang vinh hiển,
Thì phòng khi nạn biến tai to.
Khi nào lúa đựng đầy kho,
Thì anh phòng lúc lửa lò đốt thiêu.
Khi anh được tưng tiu quí trọng,
Thì phòng khi thất vọng khổ nguy.
Khi nào anh được kiên vì,
Thì anh nên nhớ những khi tan hình.
Tôi từ lúc tách mình thoát tục,
Không ra tay tiếp xúc với đời.
Vì đời vốn thiệt trò chơi,
Hết khi răng trắng tới hồi mang râu.
Tôi không thích ngựa trâu ruộng đất,
Chán sắc tài vật chất lợi danh.
Là vì biết chữ bại thành,
Say mê chung đỉnh tử sanh quay cuồng.
Đời giả tạm như luồng chớp nhóang,
Mọi sự đều ảo mộng vô thường.
Sao bằng chánh đạo dựa nương,
Rảo chân thẳng bước con đường siêu nhân,
Tuy phải chịu đầu trần mưa nắng.
Mà tinh thần trong trắng thanh cao,
Tôi không nhiễm bợn trần lao.
Thạnh suy vinh nhục nghèo giàu khỏi lo,
Còn anh được lúa kho phía trước.
Thì cũng đành chảo nước phía sau,
Rồi đây có lẽ lâu mau.
Nươc sôi chẳng vị thớt dao không từ,
Vui chi cảnh một cười mười khóc.
Vui để rồi tang tóc đau thương,
Vui mà chịu luật vô thường.
Có ngày rồi sẽ sụp mương té hầm,
Kìa những kẻ sơn lâm ẩn trú.
Một chữ nhàn vui thú thanh cao,
Khi thì rảo bước động đào.
Khi thì tịnh luyện nhập vào cảnh tiên,
Một kiếop sống vô duyên vô vị.
Tuy nghèo mà tâm trí nhàn du,
Sớm chiều hai buổi công phu.
Lánh xa cuộc sống võng dù đua bơi,
Nghe hạc tỏ bày lời chân lý.
Gà thấy mình ích kỷ tối tăm,
Vừa hối hận vừa hổ thầm.
Từ lâu gà đã nghĩ lầm tưởng sai,
Bèn cất tiếng thưa ngay anh hạc.
Tôi vô tình đi lạc không hay,
Mùi đời tôi đã mê say.
Xa hoa trụy lạc sắc tài lợi danh,
Nay tôi muốn theo anh về núi.
Nhưng ngặt vì tội lỗi lỡ vương,
Vợ con nhà cửa ruộng vườn.
Làm sao dứt bỏ tầm đường thoát thân,
Phương pháp chi giải lần oan nghiệt.
Nhờ ơn anh trực tiếp chỉ dùm,
Làm sao mọc cánh đại hùng.
Bay ra khỏi chốn gông cùm trói trăng,
Gà tự nguyện ăn năn sám hối.
Hạc sẵn sàng chỉ lối huyền vi,
Chỉ rành chữ hiệp và ly.
Chỉ rành tất cả cái chi vô thường,
Và chỉ rõ tình thương rộng hẹp.
Thương thế nào tốt đẹp cao xa,
Tình thương ai cũng gọi là.
Rộng suy một chút thì ra đại đồng,
Lời Phật dạy mênh mộng bể khổ.
Ai là người tỉnh ngộ quay về,
Tức thì bờ giác cận kề.
Tức nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn,
Nay anh quyết vào non dưỡng tánh.
Muốn nhẹ mình cất cánh bay cao,
Tôi nguyền dẫn dắt cho nhau.
Dìu anh ra khỏi bốn rào thế gian,
Vừng đông rạng ánh vàng chói rực.

Lời pháp lành đánh thức chơn tâm,
Bấy lâu gà đã lạc lầm.
Nay đà thưc tỉnh thâm tâm nhẹ nhàng,
Quơ gươm huệ trái oan dứt tuyệt.
Dốc một lòng gà quyết vào non,
Đoạn lìa sự nghiệp vợ con.
Theo cùng anh hạc núi non ẩn mình,
Từ độ ấy bóng hình biệt dạng.
Hạc với gà đôi bạn đồng tâm,
Cùng nhau nướng bóng sơn lâm.
Sớm chiều dưỡng tánh tu tâm tháng ngày,
Gà cùng hạc vui say mùi Đạo.
Chẳng bao lâu huờn đáo bổn nguyên,
Thần thông tự toại diệu huyền.
Toàn năng toàn giác Phật Tiên đắc thành ."


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét