Thập Thủ Liên Huờn của Đức Hộ Pháp. Tại Nhàn Du Khách
sạn
1
Tai
Trời gieo họa chẳng riêng ai,
Thế
giời kỳ ba sắp trận bài.
Đất
Bắc ai xuôi mà diệu võ,
Trời
Nam Mỹ khiến Diệm vương oai.
Lãnh
thổ ngày nay bị đứt hai.
Hỏa
pháo hai bên hờm nhả khói,
Chia
sông Bến Hải quyết đua tài.
2
Đua
tài hai gả quyết hành hung,
Ai
cũng tranh hơn trận khí hùng.
Kế
Mỹ võ trang cho kẻ mạnh,
Mưu Nga lòn lõi giúp dân cùng.
Đồng bào chi phối phân trăm mảnh,
Xã hội lộn ngầu ngả tứ tung.
Tức nước bể bờ tuôn thẳng trớn,
Cuồng
phong lôi cuốn chảy càng hung.
3
Càng
hung lai láng cả hoàn cầu,
Nhơn
lọai lao mình xuống hố sâu.
Lội
ngược vì Nga quần sút ống,
Thả
xuôi theo Mỹ áo rơi bâu.
Lợi
danh chưa toại đành buông đứt,
Áo
mão lỡ làng biết máng đâu.
Đứng
giữ trung ương xem bảng Thánh,
Lao xao triệt giáo sống chen đầu.
4
Chen đầu đủ sắc quái tinh tà,
Quần áo gạch đầy sọc quỉ ma.
Lẫn bẩn mài răng ngăn tới lưỡi,
Cần cù lóc thịt xáo nồi da.
Nghiền xương trộn cát tô then cửa,
Nặng
máu hòa vôi quét vách nhà.
Xây
dựng gia đình luôn cả kiến,
Khoe
khoan thế giới một mình ta.
5
Mình ta ta chịu chẳng hề sao,
Ngặt nổi nhơn sanh tính lẽ nào.
Cổ
vắn khó trương lên Bắc Đẩu,
Hơi
dài không thấu đến Nam Tào.
Vàng
thau lẫn lộn không người thổi,
Ngọc
thạch bất phân thiếu kẻ trau.
Nhớ
thuở năm xưa Thầy có dạy,
Hai
trăm Bồ Tát tại thiên lao.
6
Lao
ngục trả vay tại thế nầy,
Có
bầy quỉ sống đón chờ đây.
Đứa
cầm dùi đục nghiền xương rục,
Đứa
xách nước trong trút ruột đầy.
Thần
thấy khảo tra Thần héo mặt,
Thánh
xem hình phạt Thánh nhăn mày.
Bởi
vì hai gả tranh vương bá,
Gieo
họa nhơn sanh chịu đọa đày.
7
Đọa
đày lũ trẻ gánh tai ương,
Do
bởi phần đông phản lập trường.
Ướt
gốc nở quên người tưới cội,
Xanh
nhành vội dứt kẻ đào mương.
Nhựa
xuân nẩy lá đồng chung hưởng,
Nắng
hạ queo cành chẳng tiếc thương.
Lóc
thịt nhơn sanh dâng chúa quỉ,
Làm
sao cho đáng mặt hiền lương.
8
Hiền
lương đặng gặp cảnh lo âu,
Biết
tỏ cùng ai cởi mạch sầu.
Ví
biết mạng căn là số định,
Gẫm
mình vô tội cũng thâm bâu.
Thầy
còn đang chịu cơn lao lý,
Tớ
lại màng chi phận thảm sầu.
Chẳng
bước đến trường thi khổ hạnh,
Làm
sao rõ đặng máy cao sâu.
9
Cao
sâu thử thách tại Nhàn Du,
Thế
sự lầm tin khám nhốt tù.
Nếu
chẳng lột lưng ân báo oán,
Phương
chi vạch mặt nghĩa ra tàu.
Trường
Tiên mở lớp giồi thiên vị,
Khoa
Phật khai kỳ dượt sãi tu.
Chọn
lọc chiên lành cho đáng giá,
Phòng
sao nối nghiệp Đạo ngàn thu.
10
Ngàn thu mới gặp Hội Long Hoa,
Khuyên khắp chúng sanh trẻ đến già.
Kết khối hòa bình ngăn giặc loạn,
Mở trường giáo hội chận can qua.
Trương cờ Tô Tử xin hồn nước,
Phất phướn Từ Tôn dẫn Đạo nhà.
Khắp cả chúng sanh đồng chung sống,
Lập đời thượng cổ hưởng âu ca./.
* *
*
Đạo Đời
Đời lắm sự nảo nùng đau khổ,
Đạo khuyên đời tìm chỗ an vui.
Đời còn lắm chuyện ngược xuôi,
Đạo
Trời biết được nếm mùi tịnh thanh.
Đời
vật chất nảy sanh khói lửa,
Đạo
tinh thần thường bữa an nhàn.
Đời
còn lắm lúc lầm than,
Đạo
thì lắm lúc hân hoan tinh thần.
Đời
thì lại khinh bần trọng phú,
Đạo
khuyên đời xả phú cầu bần.
Đời
bần thì lại khổ thân,
Đạo
bần thì lại muôn phần thảnh thơi.
Đời
đâu rõ cơ Trời huyền diệu,
Đạo
khuyên đời kiếm hiểu ít nhiều.
Đời
càng hung dữ càng tiêu,
Đạo
bồi âm chất càng nhiều phước lai.
Đời
lẩn quẩn không ngoài tứ khổ,
Đạo
độ đời chỉ rõ trường sanh.
Đời
còn gây hấn cạnh tranh,
Đạo
thì gió mát trăng thanh bạn cùng.
Hộ Pháp
15-7- Nhâm Thân ( 1932 ). Trích bài diễn văn của Đức Hộ Pháp.
"
Mình có khoe mình chí thánh,
Mới
chê kẻ khác có phàm tâm.
Nếu
đạo tâm gìn dạ không không,
Ai
vẫn thế mà ta đây cũng thế.
Mang xác tục là mang tình tệ,
Xác thịt ai như thể thân mình.
Muốn cho hơn cả thảy chúng sanh,
Phải
lên mặt người lành cho đúng bực.
Mang
xác thịt trong vòng khổ cực,
Phải
cân lường tài sức được là bao.
Quá
sức mình thiệt giả té màu,
Dầu
khôn dại lâu mau cũng thấy.
Lời
người giả kia như giấy,
Tiếng
đời hay thiệt ấy là vàng.
Chưa
ai từng lượm giấy bỏ vàng,
Mà
không phân biệt ngu ngoan cho đúng lý.
Mình
tự hỏi xét lòng cho kỷ,
Mình
chê mình còn nghĩ thương ai.
Nếu
tầm cho mình đúng bực hiền tài,
Cấm
hẳn mặc người dối trá./.
*
* *
Dạo Đàn Cảm Tác
Gượng
khải năm âm giải tấm lòng,
Nhắn
đưa gió ái đến thu song.
Gióng
dây lìa nhạn sầu nghiêng ngửa,
Dở
ngón rơi loan thảm chập chồng.
Lầu
phụng mơ màng nghe uyển địch,
Cung
Tần văng vẳng lóng tơ đồng.
Chia
đôi bóng nguyệt còn phân nửa,
Gối
lạnh thương ai luống não nồng.
Bát Nương.
Họa vận
Năm
âm mượn bực tỏ tơ lòng,
Đờn “ Bắc” ra “ ai” oán đôi song.
Tiếng thảm làm cơm tràn quá chén,
Hơi
sầu dồn gối chất nên chồng.
Tranh
Tần ghẹo khóc người cung lãnh,
Tỳ
Hớn khêu đau khách ải đồng.
Nhạn
lạc lìa cung đành lỗi nhịp,
Cây
lằng phong nguyệt nhắc duyên nồng.
Hộ
Pháp
* * *
THI VĂN CỦA ĐỨC PHẠM HỘ
PHÁP
Tam Giáo
Tam Giáo từ xưa vốn một nhà,
Người sau lầm tưởng vọng
chia ba.
Minh
tâm nay hiểu đường chơn giả,
Mẫn
tánh mới thông nẻo chánh tà.
Thích
Đạo tỉ như hành bộ khách,
Nền
Nho ví tợ khách đò qua.
Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,
Tam
Giáo từ xưa vốn một nhà.
Bắc Du cảm tác ( 1950 )
Non
nước hồn thiêng đã tỉnh dần,
Xuân
thu xưa nay đổi thu xuân.
Nam
phong đỡ vững xa thơ Hán,
Bắc
tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần.
Bác
ái là đề thi tiến hóa,
Nghĩa
nhân ấy mục định duy tân.
Thiên
thời địa lợi đôi điều sẵn,
Chỉ
thiếu hòa nhân để hiệp quần.
Âu Du ( 1954 )
Lướt
gió tung mây đến Pháp triều,
Đo
lường vận nước được bao nhiêu.
Tương
lai gởi lại tay tha chủng,
Mai
một thương cho đám việt kiều.
Cứu
quốc khó trông mong gặp Thuấn,
An
bang hết sở cậy nhờ Nghiêu.
Cho
hay chánh nghĩa chưa cân đúng,
Máu
mủ vì thương phải đánh liều .
Người tu hành
Chẳng
ham danh lợi chẳng mê trần,
Thạch
động tu hành thân độ thân.
Biển
bắc mặc dầu cơn sóng bủa,
Non
nam bao quản đám mây vần.
Ngày
ăn hai bữa nuôi tinh huyết,
Đêm
ngủ ba canh dưỡng khí thần.
Quyết
chí công phu thân vận động,
Đường
Tiên nẻo Phật mới mong gần.
Chữ Tiền
Nhơn
loại điêu linh cũng bởi tiền,
Tiền
làm lắm kẻ phải thành điên.
Tiền
che tối mắt mờ nhân nghĩa,
Tiềc
giục chợ đời bán rẻ duyên.
Tiền
khiến nhơn sanh xương máu đổ,
Tiền
làm vận nước phải chinh nghiêng.
Tiền
trang với Lễ tiền cao quí,
Tiền
khó trao ra ít kẻ hiền.
* * *
Vẫn
gánh non sông đến tuổi già,
Đơn
tâm lành mạnh thế tài ba.
Đòi
phen kiên nhẫn dìu hồn nước,
Lắm
lúc truân chuyên giữ Đạo nhà.
Tích
đức cổ truyền trừ giặc loạn,
Nghĩa
nhân pháp bửu dẹp can qua.
Hồng
ân đã sẵn làm thao lược,
Ích
quốc an dân dụng chữ HÒA.
* * *
Sáu tám năm đủ tỉnh mộng hòe,
Kiếp sanh lựa nghiệp chẳng nên nghề.
Mãn vui để mắt dòm vai tướng,
Ngán
nỗi cầu thân với chú hề.
Bắt
gió nắn hình xem lý thú,
Mượn
hồn làm xác thấy điên ghê.
Sử
xanh mai một còn ghi chép,
Xin chớ đặt tên Tắc bán chè.
* * *
Đại đồng xã hội hưởng hồng ân,
Đạo
hạnh dìu nhau khá dặn lòng.
Tam
giáo hiệp đồng cơ tận độ,
Kỳ
ba trổ mặt giống Tiên Rồng.
Phổ
thông chơn đạo nơi hà lạc,
Độ
khắp năm châu giữ thiện đồng.
Cao
thượng Chí Tôn quyền chủ tọa,
Đài
tiền sùng bái giữ nâu sồng.
* * *
Vì
Đạo trọn dâng một tấc thành,
Đặng
lo phục vụ cả nhơn sanh.
Chuyển
xây thế sự đang ly loạn,
Xoay
trở thời gian với tánh lành.
Tạo
dựng cơ đồ cho chánh nghĩa,
Rưới
chan hạnh phúc bởi lòng tin.
Dỡ
hay thời cuộc dầu thay đổi,
Chí
nguyện dân Nam hưởng thái bình.
* * *
12-9-Ất Hợi ( 1935 ). Đức
Hộ Pháp tặng bài thi nầy để tiển đưa các môn đệ Phạm Môn đi hành đạo.
Buồn chưa đoạt được phép thần
thông,
Dụng thế phân thân hiệp đại đồng.
Ước tóm địa cầu về một mối,
Mong gồm thiên hạ lại đồng tông.
Đưa gương diệu lý dìu Âu chủng,
Cầm kiếng thiêng liêng chiếu Á
Đông.
Bước tục từng quen nơi cửa Đạo,
Đường văn gặp bạn cũng vui lòng.
* * *
Ai xuôi nên nỗi tớ xa Thầy,
Vì thế chuyển luân phải đổi xây.
Mối Đạo phân chia nơi đất Bắc,
Thương đời lẻ tẻ tại miền Tây.
Chia đôi Việt Quốc là chia Đạo,
Xẻ nửa sơn hà tức xẻ thây.
Vâng lịnh Chí Tôn đà chỉ dạy,
Chủ quyền chơn đạo một mình Thầy.
* * *
Mấy ai vị quốc đó người ôi,
Chóng mắt mà xem bắt thảm thôi.
Cứu nước không ai ra gánh vác,
Phong
quan chưa định đã giành rồi.
Giặc
xâm rút cổ không trông thấy,
Trống
lịnh ăn cơm bới lủng nồi.
Chán
bấy những phường xu cách mạng,
Dựa
thân công tử giữ nồi xôi.
* * *
Thưa
nhặt thoi đưa cái bóng thiều,
Anh
hùng xuất thế biết bao nhiêu.
Rồng
vàng Bắc Hải chờ vươn vuốt,
Lân
hiện Châu U lập quốc triều.
Đảnh
Hớn đã vào tay trí sĩ,
Hươu
Tần nay chịu ngọn gươm điều.
Thái
Bình dương hải chờ mô thấy,
Các
nước xua binh ấy Thánh điều.
* * *
Phất
phới năm thu khổ đọa đày,
Ai
dè lại gặp buổi hôm nay.
Chung
trà Hồ địch chưa ngơi khát,
Ly
rượu Hớn bang dở tỉnh say.
Vỗ
cánh phi hồng nâng thổ võ,
Đôi
nền tổ quốc để Cao Đài.
Khải
hoàn trổi khúc ca ru bạn,
Ngưng
quạt mà xem nước trổ tài.
* * *
Cuộc
thế trăm năm gẫm rất gần,
Cái
thân phàm tục chả là thân.
Yêu
nhau mảnh áo còn ưa ghét,
Lạc
nghĩa đơn tâm chịu cõi trần.
Ngọn
khí hư vô âm mấy tấc,
Cảnh
Tiên huyền diệu đủ vài phân.
Thà
cam cửa Phật trau thân đọa,
Trổi
máy Thiên cơ cải số phần.
* * *
Vàng
thiết lộn vào tự tiên tri,
Tây
Ninh chợ ấy hết đường đi.
Tre
dài trải nhánh xài thất ức,
Cất
xưởng đợi chờ bấy lâu nay.
Tòng
bá ngô đồng đâu có lỏi,
Cao
già ruột cứng thật quá tay.
Xây
hồ đựng nước hồ cũng bể,
Đóng
chuồng nuôi vịt, vịt cũng bay.
Giông
tố tới đây cây đâu dựa,
Bay
nhào vô đậu chật tàu Cao.
* * *
Cuộc
thế vần xoay khổ với vui,
Biết
sao hết khổ biết sao vui.
Vui
không biết Đạo vui rồi khổ,
Khổ
để giúp đời khổ mới vui.
Nếu
đặng tâm không thì chẳng khổ,
Còn
đời phiền não có gì vui.
Thương
đời phải mắc trong vòng khổ,
Hãy
rán mà tu để sống vui.
* * *
Hội
nghị Âu Châu sắp dọn đường,
Chờ
coi gánh hát Thái Bình Dương.
Cả
mười sáu nước chung bầu gánh,
Ai
lãnh mỗi vai sắp sẵn sàng.
Cờ
phất quân hô trống giống ba,
Kép
Mỹ, kép Nga chung kép Pháp.
Tướng
Tàu, tướng Ấn tướng phiên Nga,
Lão
phiên Nga trợ mắt lên.
Cao
Ly, Mông Cổ đứng hai bên,
Biển
Đông sấm sét ra oai thử.
Hò
hét vang lên trổi tiếng rền,
Việt
Nam khán giả đứng xem coi.
Lớp
nọ tướng kia rất mặn mòi,
Diễn
xuất lần nầy là lần chót,
Vui
cười không mãn một tiếng thôi.
* * *
Nặng
phận đạo đời khó gánh song,
Thêm
phương cứu khổ lại ghi lòng.
Muốn
cầu hòa ái cùng Nam bộ,
Phải
tránh gây thù với Bắc tông.
Chánh
sách bất hòa không hội hiệp,
Hòang
đồ chi xẻ khó chung đồng.
Muốn toan xu phụ cho an phận,
Chôn lý đạo mầu hết phổ thông.
* *
*
Một thân lưu xứ quá đìu hiu,
Thấy khổ nhơn sanh rán sức chìu.
Võ lực gây bao tang tóc lại,
Nhuộm màu hòa giải nghiệt oan tiêu.
Rủi sanh phải lúc thời ly loạn,
Mong gặp đặng hồi chúa Thuấn Ngiêu.
Đã quyết hy sinh vì nghĩa cả,
Chỉ mong gầy lại phước thiên triều.
* * *
Ngảnh
lại cuộc đời chỉ quạnh hiu,
Cả
kêu nhơn loại sớm xoay chiều.
Quay
về chung sống tang thương dứt,
Hướng
đến hòa bình nghiệt chướng tiêu.
Cố
đẩy xa thơ trên đất Thuấn,
Vững
chèo Bát Nhã dưới trời Nghiêu.
Bắc
Nam một gốc ai chia xẻ,
Chánh
thể hòa nhân dựng thánh triều.
*
* *
Rán tu cho kịp Hội Long Hoa,
Đạo đức không chuyên khổ lắm mà.
Chay lạc đặng ngừa hơi khí độc,
Mê man bất tỉnh trận kỳ ba.
Người hiền cứu sống theo phò chúa,
Kẻ dữ bạo tàn xác quạ tha.
Thân Dậu đến đây rồi sẽ biết,
Đinh ninh vẹn giữ mấy lời ta.
* *
*
Chợ Long Hoa
Sơ khai kiến tạo nhớ công Thầy,
Đồ Đệ tuân hành sự nghiệp đây.
Hình tướng tượng trưng tòan thế giới,
Bát môn chuyển đạt khắp đông tây.
Quái linh nhơn chủng còn lưu dấu,
Long
thể thế gian mãi dựng xây.
Hoa quả mùi hương tăng ngào
ngạt,
Thị thiền
thiên trước vẫn còn đây.
* * *
Khuất
mắt không nhìn nước rẽ hai,
Nên
cam chịu khổ tự lưu đày.
Biên
thùy binh cách còn đe dọa,
Quốc
nội chủ quyền lắm đổi thay.
Trị
loạn những nhờ người dị chủng,
An dân lại cậy kẻ tay ngoài.
Cơ đồ nếu muốn ngày vinh
hiển,
Cứu
nước toàn dân phải trổ tài.
* * *
Đáng
làm môn đệ mới lưu truyền,
Những
kẻ bội sư uổng kiếp duyên.
Đắc
thế khua môi đồ phản ác,
Thức
thời kín miệng mới hay hiền.
Phướn
linh tuế chúng chưa nên pháp,
Dùng
gậy xử ma mới có quyền.
Áo
mão đầy rừng trơ mắt khỉ,
Cụng
đầu Tòa Thánh mới kêu Thiên.
* * *
Diêu
Trì Kim Mẫu huệ ân ban,
Hiện
rõ nơi đây cõi Niết Bàn.
Cửu
Vị điều hành cơ tiến hóa,
Bát
hồn nhuần đượm phước sanh quang.
Lọc
lừa thánh chất Tam Kỳ đó,
Đứ
rước Tiên căn bát Nhã thòan.
Cửu
nhị nguyên nhân còn tại thế,
Mừng nay Đức Mẹ ngự trần gian.
Tại Đế Thiên Đế Thích
Thổ võ xiêm quan tức Việt triều,
Đế Thiên hồn nước vẫn còn nêu.
Mảnh tâm Hồng Lạc đề thiên sứ,
Giọt máu Nam phong định quốc thiều.
Để mắt trông dò xem thế cuộc,
Ngắm cây ngó cảnh vẫn đìu hiu.
Ví đem gang tấc nâng hồn nước,
Xiêm rạp là nơi đến điếu kiều.
*
* *
Thần Đồng Vấn Nguyệt (Không rõ tác giả)
Đức Hộ Pháp ngâm nhân một đêm trăng tỏ và đêm ấy
Ngài về chầu Chí Tôn.
Thu
thiên da thanh quang vân tĩnh,
Chốn
lữ đình thức tỉnh canh khuya.
Tai
nghe văng vẳng bốn bề,
Gương
nga vằng vặc dựa kề quế lan.
Thấy
trăng thêm động lòng vàng,
Ngâm
câu vấn nguyệt cho đang mấy lời.
Hỏi
dì nguyệt mấy lời sau trước,
Duyên
cớ sau mà được thảnh thơi ?
Nguyệt
rằng: vật đổi sao dời,
Thân
nầy Trời để cho người soi chung.
Làm
cho mỏi mệt anh hùng,
Ngàn
thu sương tuyết một lòng thanh quang.
Hỏi
dì nguyệt có đàng lên tới,
Chốn
thiềm cung phỏng mấy mươi xa ?
Nguyệt
rằng ta lại biết ta,
Có
cây đơn quế ấy là nhà em.
Anh
hùng thử đến mà xem,
Kìa
gương ngọc thỏ nọ rèm thủy tinh.
Hỏi
dì nguyệt có tình chăng tá ?
Chữ
xuân thu phỏng đã nhường bao ?
Nguyệt
rằng: yếu liễu thơ đào,
Càng
lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
Gương
nga vằng vặc chẳng mòn,
Bao nhiêu tinh đẩu là con cái
nhà.
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử,
Buổi vân lôi ai giữ kinh luân ?
Ta rằng: có Đấng thánh quân,
Ra tay dẹp loạn nên thân trị
bình.
Nguyệt hỏi ta ngẩn ngơ ngơ ngẩn,
Ta
hỏi nguyệt thơ thẩn thẩn thơ.
Liễu
qua trước gió phất phơ,
Hương
đưa bát ngát phòng thơ ngạt ngào ./.
* * *
10-4- Kỷ Hợi, lúc 22g45 ( 1959 ). Đức Ngài giáng cơ.
Ba
năm xa cách đã chờ may,
Vạn
sự do Thiên khéo sắp bài.
Chí
muốn cao bay trong một kiếp,
Giờ
đây nhờ cậy sức anh tài.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đấng mày râu chẳng mảy
may.
Một
kiếp vì đời tua gắng trả,
Cho
rồi nợ thế khỏi ai hoài.
13-4-Kỷ Hợi ( 1959 ). Đức Hộ Pháp giáng cơ. hàng
năm ngày 15-8 và ngày 10-4 ). Bài thi nầy được thài cúng trong Lễ Hội Yến:
" Trót đã bao năm ở xứ người,
Đem
thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ
tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn
nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi
đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô
điểm non sông Đạo lẫn Đời."
Đàn cơ đêm 15-10- Giáp Thìn ( 1964 ). Tại Hiệp Thiên Đài, lúc 23 g . Phò
Loan: Hiến Pháp & Thượng Sanh.
Hộ quyền cực lạc định tà chơn,
Pháp ấn nêu cao sáng Đạo huờn.
Phạm tử Di Đà ra phép mật,
Công môn kim khuyết định thần ngươn.
Tắc quyền di lập xong đàn tịnh,
Giáng thế khai cơ độ vĩ nhơn.
Mừng sắp nên hình cho vạn chủng,
Đàn cao vui hưởng phép thường chơn.
(
Đạo đức vuông tròn trọng nghĩa nhơn.)
* * *
Đàn đêm 6-2- Ất Tỵ ( 8-3-1965). Tại Giáo Tông Đường
lúc 20 g30p.
Quyền
uy nhờ bởi giữ chơn truyền,
Chưởng
đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.
Quản
quán chúng sanh tu cội phúc,
Hiệp
hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.
Thiên
môn mở rộng nguyên nhân đến,
Đài
nội tuyển thăng thánh đức lên.
Thừa
thế chuyển nguy an thánh địa,
Mạng
trời đâu để quỉ hành quyền.
15-8- Quí Dậu ( 1933 ). Trích bài diễn văn Đức Hộ Pháp.
Kiếp
sống con người xem nên vắng vỏi,
Sống
trăm năm ước đặng bấy nhiêu người.
Phước
trọn kiếp độ chừng xem mấy kẻ,
Khổ
thì nhiều, vui vốn ít.
Sống
càng lâu khổ chất càng dầy,
Khổ
nội thân tứ khổ không sai.
Cầu
bất tử là cầu đày thân khỏi tội.
……………………
……………………
Thắng
nổi quyền vật dục,
Xứng
đáng mặt khách trần.
Gánh
đau thương tay đỡ tay nâng,
Khối
thiện ác sửa cân Tạo Hóa.
Giữa
khổ hải đưa thuyền Bát Nhã,
Giúp
tinh thần giải quả trừ căn.
Sấn
tay trau đẹp vẻ đạo hằng,
Lượm
giảm bớt nẻo trần gai gốc.
Đem
cười để vào nơi cảnh khóc,
Lấy
lòng lành trừ nọc đau thương.
Chốn
lầm than rảy nước nhành dương,
Dứt
trái chủ trao gươm thần huệ.
Chịu
khổ thế tìm phương giác thế,
Lấy
nhọc đời làm kế dìu đời.
Biến
lợi danh ra cuộc trò chơi,
Làm
phú quí thành mồi hại thế.
Sửa
bác ái ra nên câu kệ,
Chế
từ bi như thể bài kinh.
Noi
vận hành quảng đại chí linh,
Góp
nhơn loại vào tình cốt nhục.
Kẻ
sầu thảm cho vui hạnh phúc,
Người
vô duyên hưởng chút ân hồng.
Trọng
mạng sanh gầy phép đại đồng,
Kỉnh
vật loại đặng mong cứu thế.
……………………………
……………………………
Hễ
cơ đời càng khó,
Quyền
vật dục lại càng nhiều.
Phận
làm người đã khó biết bao nhiêu,
Giữa
võ trụ phải chìu theo thời thế.
Nợ
cơm áo sanh lời ra tệ,
Đạo
nhơn luân thêm thế dục hư.
Mảnh
thi phàm đã dễ chi từ,
Trong
cuộc thế thân như bèo bọt.
Dở
thì chịu ăn thừa uống mót,
Phải
toan lo sống sót cùng đời.
Một
mảnh tâm chia để mấy nơi,
Đâu
dư rảnh hỏi Trời căn sống.
Luật
tạo hóa rõ chi khinh trọng,
Nhẫng gởi thân theo bóng tang thương.
Cùng
khổ xem sống chết ra thường,
Sống
nhờ thế chết nương tay thế.
Giải
ách cậy kim tiền làm kế,
Thích
tình xem khanh tể là mưu.
Bước
công danh quen lẽ nghịch thù.
Bả
quyền lộc nhuộm màu cừu hận,
Vòng
cương tỏa ra vào lẩn bẫn.
Lấy
oan gia làm phấn dồi mình,
Tên
tuổi đây nhục nhục vinh vinh.
Nào
còn nhớ tâm linh “ bổn thiện”
Hạc và Gà
Một
bữa nọ trời vừa rựng sáng,
Ánh
nhựt hồng chói rạng phương đông.
Anh
gà vừa nhảy xuống lồng,
Trương
mình đập cánh vang đông oai hùng.
Gà
tự nhủ vô cùng sung sướng,
Lợi
danh tình ta hưởng quanh năm.
Mặc
cho thế cuộc thăng trầm,
Ta
vui con vợ ta tầm mồi ngon.
Cùng
thuở ấy có con bạch hạc,
Thấy
sự đời chua chát đau thương.
Chúng
sanh mê mết mộng trường,
Sắc
tài danh lợi vấn vương buộc mình.
Nghĩ
chán kiếp phù sinh giả dối,
Hạc
vội vàng tìm kế thóat thân.
Núi
rừng thủ phận thanh bần,
Tịnh
thanh một cõi phong trần mặc ai.
Nay
nhằm lúc xuân lai đông mãn,
Bình
minh vế ánh sáng đẹp tươi.
Hạc
liền vỗ cánh tung trời,
Năm
châu bốn biển đồng thời xem qua.
Bỗng
chợt thấy anh gà bạn cũ,
Đắm chìm trong lạc thú xa hoa.
Vui theo nẻo vạy đường tà,
Vợ con khám ngục cửa nhà xiềng gông.
Hạc thấy thế động lòng trắc ẩn,
Muốn tìm phương dẫn dắt bạn gà.
Nhánh
cây đáp xuống là đà,
Vội
vàng chào hỏi gọi là bạn thân.
Gà
thấy hạc chẳng cần thủ lễ,
Giả
lơ là dường thể khinh khi.
Bởi
gà là đứa vô suy,
Tưởng
đâu mình bảnh nên thì tự cao.
Giọng
kiêu hảnh hỏi sao anh hạc,
Bấy
lâu nay trôi giạt nơi nào.
Gia
đình sự nghiệp ra sao,
Trông
anh có vẻ khổ lao nghèo nàn.
Hạc
thong thả dịu dàng đáp lại,
Nầy
anh gà anh hảy nghe đây.
Thời gian tôi cách chốn nầy,
Tìm nơi thanh vắng am mây tu trì.
Nay tôi đã thoát ly sự thế,
Khắp năm châu bốn bể là nhà.
Mỗi ngày một bữa ngọ qua,
Không lương không bổng cũng là an
thân.
Gà
nghe nói chẳng cần suy nghĩ,
Mĩm
môi cười ngỏ ý chê bai.
Đời
anh hạc chẳng bằng ai,
Thua
thằng thất nghiệp tương lai mịt mù.
Anh
coi tôi võng dù ngang dọc,
Sớm
tới chiều chẳng nhọc công lao.
Tôi
nay tột bực sang giàu,
Nhà
cao cửa rộng ra vào thảnh thơi.
Còn
anh lại tìm nơi vắng vẻ,
Chôn
cuộc đời son trẻ tài hoa.
Vui
chi kiếp sống không nhà,
Không
lương không bổng thật là nguy vong.
Tôi
toại hưởng phước hồng dào dạt,
Lúa
đầy kho tiền bạc đầy rương.
Dạo
chơi gác tía lầu hường,
Vinh
sang phú quí gia đường ấm no.
Còn
anh mãi bo bo chác khổ,
Giam
cuộc đời vào chỗ quạnh hiu.
Chỉ
nghe vượn hú chim kêu,
Buồn
teo vắng vẻ sớm chiều thân côi.
Gà
mặc sức khua môi múa mỏ,
Tôi
như vầy mấy có ai hơn.
Áo
quần hàng lụa bóng dờn,
Năm
thê bảy thiếp tình nhơn cũng nhiều.
Thê
cùng thiếp sớm chiều hầu hạ,
Phán
một lời kẻ dạ người thưa.
Rượu
ngon sắc tốt say sưa,
Con
ngoan vợ đẹp sớm trưa vui vầy.
Anh
là kẻ bất tài vô dụng,
Tôi
là người anh dũng tài ba.
Anh
thời bộ dạng xấu xa,
Tôi
thì như một đóa hoa vẹn mười.
Nghe
vừa dứt mĩm cươi hạc đáp,
Cái
sự đời cao thấp tự nhiên.
Tôi
nay bạc phước vô duyên,
Không
nhà không cửa gạo tiền cũng không.
Anh
được hưởng phúc hồng sang cả,
Anh
là người vương giả công hầu.
Của
đời anh quyết tóm thâu,
Con
ngoan vợ đẹp nhà lầu xe hơi.
Còn
tôi mãi đội trời đạp đất,
Một
chữ bần nhứt vật cũng không.
Đói
thời rau trái đỡ lòng,
Khát
thì nước suối cội tòng dựa nương.
Chốn
tịch mịch lòng thường khỏe dạ,
Khác
hơn là những kẻ mang gông.
Lợi
danh ví thể chim lồng,
Sắc
tài như cá giữa vòng mắc câu.
Cá
mắc câu biết đâu mà gỡ,
Chim
vào lồng biết thuở nào ra.
Nay anh phú quí vinh hoa,
Lợi danh trói buộc khó mà thoát thân.
Khuyên anh sớm lánh lần hậu hoạn,
Tránh những điều tai nạn về sau.
Dầu anh quyền lực thế nào,
Cũng không tránh khỏi đường vào Diêm Vương.
Khi
anh được người thương kẻ mến,
Thì
anh nên nhớ đến thớt dao.
Nhớ
khi dao khứa máu trào,
Nhớ
khi bầm xắt nấu xào hầm kho.
Khi anh được nhà to cửa rộng,
Thì phòng khi kiếp sống bể dâu.
Trăm năm rồi có gì đâu,
Chỉ hai tay trắng về chầu Diêm Vương.
Khi
anh được tiền rương bạc vựa,
Thì
phòng khi tắm lửa xé phai.
Khi
anh sặc sỡ đẹp trai,
Thì
anh nên nhớ những ngày rên la.
Khi
gia đạo hiệp hòa hạnh phúc,
Thì
anh nên ngừa lúc quạnh hiu.
Khi
nào con vợ mến yêu,
Thì
anh phòng lúc gặp điều bội ân.
Khi
anh được phỉ thân mạnh bạo,
Thì
anh nên ngừa chảo nước sôi.
Khi
nào anh được cao ngôi,
Thì
anh nên nhớ những hồi xương tan.
Khi
anh được giàu sang vinh hiển,
Thì
phòng khi nạn biến tai to.
Khi
nào lúa đựng đầy kho,
Thì
anh phòng lúc lửa lò đốt thiêu.
Khi
anh được tưng tiu quí trọng,
Thì
phòng khi thất vọng khổ nguy.
Khi
nào anh được kiên vì,
Thì
anh nên nhớ những khi tan hình.
Tôi
từ lúc tách mình thoát tục,
Không
ra tay tiếp xúc với đời.
Vì
đời vốn thiệt trò chơi,
Hết
khi răng trắng tới hồi mang râu.
Tôi
không thích ngựa trâu ruộng đất,
Chán
sắc tài vật chất lợi danh.
Là
vì biết chữ bại thành,
Say mê chung đỉnh tử sanh quay cuồng.
Đời giả tạm như luồng chớp nhóang,
Mọi sự đều ảo mộng vô thường.
Sao bằng chánh đạo dựa nương,
Rảo chân thẳng bước con đường siêu nhân,
Tuy phải chịu đầu trần mưa nắng.
Mà tinh thần trong trắng thanh cao,
Tôi không nhiễm bợn trần lao.
Thạnh suy vinh nhục nghèo giàu khỏi lo,
Còn anh được lúa kho phía trước.
Thì cũng đành chảo nước phía sau,
Rồi
đây có lẽ lâu mau.
Nươc
sôi chẳng vị thớt dao không từ,
Vui
chi cảnh một cười mười khóc.
Vui
để rồi tang tóc đau thương,
Vui
mà chịu luật vô thường.
Có
ngày rồi sẽ sụp mương té hầm,
Kìa
những kẻ sơn lâm ẩn trú.
Một
chữ nhàn vui thú thanh cao,
Khi
thì rảo bước động đào.
Khi
thì tịnh luyện nhập vào cảnh tiên,
Một
kiếop sống vô duyên vô vị.
Tuy
nghèo mà tâm trí nhàn du,
Sớm
chiều hai buổi công phu.
Lánh
xa cuộc sống võng dù đua bơi,
Nghe
hạc tỏ bày lời chân lý.
Gà
thấy mình ích kỷ tối tăm,
Vừa
hối hận vừa hổ thầm.
Từ
lâu gà đã nghĩ lầm tưởng sai,
Bèn
cất tiếng thưa ngay anh hạc.
Tôi
vô tình đi lạc không hay,
Mùi
đời tôi đã mê say.
Xa
hoa trụy lạc sắc tài lợi danh,
Nay
tôi muốn theo anh về núi.
Nhưng
ngặt vì tội lỗi lỡ vương,
Vợ
con nhà cửa ruộng vườn.
Làm
sao dứt bỏ tầm đường thoát thân,
Phương
pháp chi giải lần oan nghiệt.
Nhờ
ơn anh trực tiếp chỉ dùm,
Làm
sao mọc cánh đại hùng.
Bay
ra khỏi chốn gông cùm trói trăng,
Gà
tự nguyện ăn năn sám hối.
Hạc
sẵn sàng chỉ lối huyền vi,
Chỉ
rành chữ hiệp và ly.
Chỉ
rành tất cả cái chi vô thường,
Và
chỉ rõ tình thương rộng hẹp.
Thương
thế nào tốt đẹp cao xa,
Tình
thương ai cũng gọi là.
Rộng
suy một chút thì ra đại đồng,
Lời
Phật dạy mênh mộng bể khổ.
Ai
là người tỉnh ngộ quay về,
Tức
thì bờ giác cận kề.
Tức
nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn,
Nay
anh quyết vào non dưỡng tánh.
Muốn
nhẹ mình cất cánh bay cao,
Tôi
nguyền dẫn dắt cho nhau.
Dìu
anh ra khỏi bốn rào thế gian,
Vừng
đông rạng ánh vàng chói rực.
Lời
pháp lành đánh thức chơn tâm,
Bấy
lâu gà đã lạc lầm.
Nay
đà thưc tỉnh thâm tâm nhẹ nhàng,
Quơ
gươm huệ trái oan dứt tuyệt.
Dốc
một lòng gà quyết vào non,
Đoạn
lìa sự nghiệp vợ con.
Theo
cùng anh hạc núi non ẩn mình,
Từ
độ ấy bóng hình biệt dạng.
Hạc
với gà đôi bạn đồng tâm,
Cùng
nhau nướng bóng sơn lâm.
Sớm
chiều dưỡng tánh tu tâm tháng ngày,
Gà
cùng hạc vui say mùi Đạo.
Chẳng
bao lâu huờn đáo bổn nguyên,
Thần
thông tự toại diệu huyền.
Toàn
năng toàn giác Phật Tiên đắc thành ."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét