Hộ Pháp Phạm Công Tắc
1
Ngoài
áng Ðào Nguyên sấn bước vào,
Thiên
Thai Tiên đảnh trước cao cao.
Mây
lành phủ động ra khuôn cửa,
Tòng
rậm bao cung giống mặt rào.
Nai
Tăng tiếp rước chạy lao xao.
Lừng
Trời lửng đững ngàn muôn kẻ,
Cười
nói mừng vui đến miệng chào.
2
Miệng
chào lại nhủ mặc Tiên Y,
Mời
đến Rừng Tre hội cuộc kỳ.
Bảy
Lão nhắc tình già dẹo cẳng,
Ba
Bà hỏi việc mụ ham thi.
Ðài
trăng chị Nguyệt đem cho Ngọc,
Cửa
gió chàng Liêm dạy khải Tỳ.
Cúc, Trước, Mai, Lan hầu thiết đãi,
Tiêu thiều nhạc trổi khách nâng
ly.
3
Nâng ly vừa cạn hạc reo vang,
Rằng chiếu đòi ông đến điện vàng.
Buổi họp chưa cùng lời ấm lạnh,
Cơn
lìa khó nín lụy hòa chan.
Ðưa
chơn còn để câu căn dặn,
Nương
tục đường quen mắt ngó ngàng.
Kìa
túi Càn Khôn vừa hé miệng,
Làu làu tứ hướng hóa giang san.
4
Giang
san in vẻ đẹp như thêu,
Ngảnh
lại trung ương thấy chẳng đều.
U ám
mịt mờ màu thảm đạm,
Thúi
hôi nhơ nhớp cảnh đìu hiu.
Một
làn ác khí bao ràng rịt,
Muôn
xác tinh ma nhảy dập dìu.
Nghĩ
sợ hỏi đon còn ngợ giọng,
Nơi
nầy phép Phật gọi danh kêu.
5
Danh
kêu là Tục cuộc Tuần hườn*, (*Tuần hoàn?)
Ác
khí làm giềng buộc trái oan.
Ma
thịt quỉ hồn chôn* xác chết, ( * ăn?)
Tà
thần tinh quái nuốt xương tan.
Bờ
sông chín ngọn còn in bước,
Cửa
ngục mười đình khó đặt an.
Chờ
bóng Thái Dương lên chính giữa,
Soi
vào địa nghiệt mới tiêu tàn.
6
Tiêu
tàn tận thế ắt đời rồi,
Nghe
sợ hãi hùng phải nín hơi.
Mờ
mệt nữa say rồi nữa tỉnh,
Ngẩn
ngơ hòa đứng lại hòa ngồi.
Thương
người nghĩ bạn lòng chua xót,
Tưởng
vợ vì con dạ ngậm ngùi.
Nài
nỉ xin đình ngày tận diệt,
Hầu
lo độ rỗi phỉ tình tôi.
7
Tình
tôi lai láng lụy tuôn dầm,
Vừa
ngoái lại nhìn cảnh tối tăm.
Một
kẻ Tiểu đồng phò Phất chủ,
Ðôi
nàng Tiên nữ quạt hương trầm.
Xe
mây bốn chỗ vừa người dựa,
Ngựa
tuyết năm con thiếu kẻ cầm.
Ðỗ
tiếng chuông khua muôn tiếng biểu,
Lên
lằn không khí lướt xăm xăm.
Tam
Thập Lục Thiên Ký Bút
8
Xăm
xăm năm ngựa gió mây đưa,
Ba
bực vừa lên có kẻ ngừa.
Con
gậy tay cầm, râu tóc bạc,
Cái
nhà lá lợp, cửa song thưa.
Cờ
vàng quấn mũ mang y đạo,
Nai
trắng nương lưng gót võ lừa.
Rằng
chiếu Ngọc Hư sai mở ngõ,
Ðịa
thần hầu chực tiếp người xưa.
9
Người
xưa quen thuộc đến vầy vầy,
Phong
cảnh như mình có ở đây.
Muôn
xóm trông ra lòi nóc lũy,
Ngàn
dâu đứng dựa rõ hình cây.
Thú
cầm mập mạp bầy thong thả,
Non
nước trong veo trái dẫy đầy.
Người
có vợ chồng con cháu đủ,
Rần
rần rộ rộ góc trời Tây.
10
Trời
Tây mãn nhãn ngó qua Ðông,
Nhà
ít người thưa bỏ rộng đồng.
Gái
lịch, trai thanh, nên đạo cốt,
Mụ
thơ, lão trẻ, rất tiên phong.
Thanh
thao nhạc phụng trên dương liễu,
Chát
chúa kèn nai dưới bá tòng.
Vật
thực đủ mùi không khí hứng,
Có ăn có mặc rất thong dong.
11
Thong dong trở mặt ngó qua Nam ,
Người chẳng phải Tiên ắt chẳng phàm.
Muốn đắc lộc Trời lời chẳng thốt,
Toan thâu của Ðất sức không làm.
Một câu khẩn nguyện duyên đều đủ,
Trăm họ an nhàn lợi hết tham.
Núp phướng tiêu diêu làm chủ
quỉ,
Chiếm
quyền bốn hướng một mình cam.
12
Cam day hướng Bắc xét cho cùng,
Thấy
lửa lẫy lừng trận khói ung.
Cảnh
vật bể khua hơi lốp cốp,
Thành
đài hư nổ tiếng đùng đùng.
Trên
hầu chúa quỉ người ba mặt,
Dưới
quở âm hồn tướng bốn lưng.
Cây,
cỏ, thú, người đều trở ngược,
Gươm
đâm, tên bắn chết trùng trùng.
13
Hộ
Pháp
Trùng
trùng oan quỉ chạy lao xao,
Thấy
khổ lòng ta bắt nghẹn ngào.
Cõi
tục can qua dầu phải rứa,
Xứ
thần tai ách có vầy sao?
Dòm
quanh buồn kiếm ông già xọm,
Ngó
trái mừng nghe tiếng má đào.
Ngước
mặt nhìn tường người chẳng lạ,
Hỏi
rằng: bạn đến trước hồi nao?
14
Bạch
Y Tiên Nữ:
Hồi
nao chàng hỏi chị bên kia,
Sảng
sốt day qua, ủa lạ kìa!
Thật
quả tri âm cười chúm chím,
Vội
nhìn cố hữu hỏi lia lia.
Rằng
nơi trần thế chàng không đoái,
Noi
bước non Tiên thiếp chẳng lìa.
Ba
lượt Thiên Thai cầu mở lối,
Từ
đây thảm sớt với buồn chia.
15
Buồn
chia thảm sớt chẳng nên hồi,
Vinh
hiển nay mình đã đặng ngôi.
Bỏ
lúc nhớ thương quên nhắc đến,
Gặp
khi hội hiệp vội khuyên ngồi.
Mây
bay rửa mặt mưa tuôn đổ,
Ngựa
chạy vùng mình nước cuộn trôi.
Áo
lạnh trầm hương hơ ấm áp,
Thân
dầm phất chủ quạt khô rồi.
16
Hộ
Pháp:
Bạch
Y Tiên Nữ:
Khô
rồi xe thoát đến Trời vàng,
Bên
mặt nghiêng mình mới hỏi han.
Phong
cảnh hỏi qua xin khá tõ,
Căn do hiểu thấu nói cho tàng.
Rằng ngôi địa chủ lo sanh hoạt,
Ấy phẩm Thần Hoàng định loạn an.
Lành dữ thưởng răn coi quả báo,
Rồi
đây ta rõ máy hành tàng.
17
Hành
tàng ví biết lẽ cao sâu,
Ðến
phẩm Nhơn Thần cũng chẳng lâu.
Ba
hiệp trời vừa qua tối sáng,
Bốn
phương mây lại biến thành lầu.
Trước
thềm có lão ưa nương gậy,
Bên
cạnh thêm người đứng vuốt râu.
Mở
tượng âm dương đưa dũ xuống,
Rỡ
ràng cảnh vật khắp đâu đâu.
18
Ðâu
đâu Thiên Ðịa cũng đồng khai,
Rảo
bước xuống xe đến Dịch đài.
Dài
vắn tư bề ngăn đủ chín,
Thấp
cao ba bực nóc chia hai.
Ðưa
lên một phép thâu Ðài thấp,
Thấy
trước nhiều ông bận áo dài.
Binh
khí quanh mình khua rổn rổn,
Mỗi
viên hầu hạ một vài trai.
19
Vài trai đến gọi nói chi chi,
Vội rước ai ai đến tức thì.
Biết mặt tánh danh chưa nhớ chắc,
Tưởng
mình quen thuộc cũng e khi.
Mấy
người nhắm dạng đều oanh liệt,
Bốn
đứa đi xe xúm rốn quì.
Mau
miệng khuyên rằng đừng quá lễ,
Hễ
cao phẩm vị giữ cao nghi.
20
Cao
nghi đình bước trước hòa sau,
Như
các quan viên buổi tựu trào.
Ðài
thượng đồng xem qua Bắc Ðẩu,
Ngôi
sao sáng chói thấu Nam Tào.
Hàng
hàng binh ngóng tờ Thiên Chiếu,
Ngũ
ngũ quân hầu tướng một đao.
Rộn
rực tới lui xem lố xố,
Da
vàng sắc nước giống người Tàu.
21
Người
Tàu lại có lộn người Tây,
Một
việc xuôi mưu đến bốn thầy.
Liệng
giáo buông khiêng binh đỗ dữ,
Sa
cơ thất trận tướng ra ngây.
Ðói
cơm, khát nước, hơi than dậy,
Kiếm
vợ, tìm con, máu đổ đầy.
Có
trẻ nhỏ trai răng trắng đến,
Nơi
nơi lặng lẽ hết đua tài.
22
Ðua
tài bay liệng giữa thinh không,
Nam
hướng xôn xao lướt mấy rồng.
Phụng
sáng hào quang mây trổ trắng,
Chiếu
vàng diệu thể đất nên hồng.
Lộng
tàng vui rước người ba miệng,
Nghi
trượng hoan nghinh Mắt một tròng.
Vùn
vụt câu tiên quơ mỗi hướng,
Nhơn
sanh khâm phục khắp Tây Ðông.
23
Tây
Ðông đến học chữ thanh nhàn,
Nắm
đặng oai quyền chiếm một phang.
Ðạp
đất thành vàng làm của báu,
Thổi tro cất lũy sửa nhà an.
Thảnh thơi biển rộng ngư mừng
nước,
Thanh
tịnh rừng sâu thú lập làng.
Người
hưởng thái bình cơm cứng miệng,
Nam
mô xúm tụng tiếng nghe vang.
24
Nghe
vang tiếng sấm nổ phương Tây,
Dị
điểu bay lên liệng cả bầy.
Mỏ
ngậm lửa hồng, lôi điển nhoáng,
Ðuôi
lừa thủy quái, võ phong gây.
Chờn
vờn xé đất yêu gài rọ,
Lẩn
bẩn ngăn sông quỉ đống chài.
Túng
tiếu lại cầu người chẳng tiếp,
Giao
long chín miệng cắn nhai thây.
25
Nhai
thây còn sót cũng nhiều người,
Bị
trận Mê hồn chết ngộp hơi.
Lễnh
nghễnh thây phơi nằm chật đất,
Loi
nhoi hồn chạy khóc lộng* Trời. (* long?)
Có
người đầu khỉ mang đai sắt,
Hóa
phép Thiên lung chiếu bóng ngời.
Che
bới nạn tai người sống rốn,
Ðem vào Nam gởi để an nơi.
26
An nơi Tây lại trở xem Ðông,
Cửa nát nhà tan đã chập chồng.
Biển loạn bốn phương thành nhốt
cá,
Nước
tràn khắp hướng núi đoanh rồng.
Thuyền
trôi lố xố người trần lổ,
Tuyết
bủa giăng giăng thú lạnh lùng.
Sấm
nổ động trời xoi đất lủng,
Tiêu
tàn cảnh vật ngó không không.
27
Không
không Nam hiện tướng cầm cung,
Ðẹp
đẽ như gương chiếu khí hùng.
Vổ
cảnh cõi Ðông qua thoát thoát,
Ðưa
tay tướng mạnh đến trùng trùng.
Lắp
tên bắn biển loài người phục,
Trổi
tiếng kêu non cảnh vật tùng.
Cầm
ấn Tử vi đưa chói rạng,
Ðem
giao quyền phép một người Lùn.
28
Người
Lùn vừa thọ, tướng vừa tiêu,
Cảnh
vật u thâm giống cảnh chiều.
Ngao
ngát trầm hương bay phưởng phất,
Lạnh
lùng gió tuyết thổi liu hiu.
Bồi
hồi ngước mặt trông người hỏi,
Dịu
ngọt khuyên mình có tiếng kêu.
Bốn
mặt quen nhìn còn đủ bốn,
Bao
nhiêu khách lạ mất đều đều.
29
Ðều
giăng tay dắt xuống thang lầu,
Ðồng
bước lên xe mới ngó nhau.
Cuồn
cuộn mây vầng bay thoát thoát,
Lia
lia gió ngựa nhảy mau mau.
Ðạm
màu xe tuyết dường sơn đỏ,
Ngó
mặt Tiên nương ửng má đào.
Vui
miệng mới rằng Thần phẩm ấy,
Quyền
hành chuyển thế mới ra sao?
30
Thanh
Y Tiên Nữ:
Hộ
Pháp:
Ra
sao chẳng kẻ thốt nên lời,
Nàng
bận áo xanh trước dỉ hơi.
Danh
liếng* đã thừa cùng mặt đất, (* tiếng?)
Nghề
trây muốn trải nữa lừng trời.
Thưa
rằng: quen thói e hư nết,
Dọa
bợm làm nghiêm sợ chán đời.
Nghĩ
cõi Bồng Lai xưa mấy mặt,
Còn
tôi bao nả dám làm hơi.
31
Làm
hơi hại mấy mặt hồng nhan,
Ghẹo
kẻ riêng thương đặng phụ phàng.
Dưới
bóng trăng thanh dầu lánh tội,
Trước
gương " Minh cảnh" có liên
can.
Sông
Mê tính rửa bao hàng lệ,
Biển
Ái bỏ trôi mấy đoạn tràng.
Thánh
chất ví không trên đỡ vững,
Bên
mình đeo đuổi mấy hồn oan.
32
Hồn
oan mấy chị trước ra sao?
Hai
thiếp nay đây có khác nào.
Nhẫng
ước giao lê nhè đổi kệ,
Mong
nguyền đổi phụng lại ngôi lao*. (* ngồi lao?)
Nhớ
ơn giải cấu trao gươm huệ,
Chặt
mối oan khiên ở động đào.
Tuy
biết phàm duyên là tục trái,
Nay
nhìn tạng mặt nghĩ càng đau.
33
Bạch
Y Tiên Nữ:
Càng
đau chị lại nói ra chi,
Nông
nổi em đây mới gọi kỳ.
Cõi
thọ tuy vinh câu phước hạnh,
Non
thề xưa lần* chuổi ai bi. (* Non thề lần hạt?)
Màu
hồng chàng nhuộm cho nên trắng,
Ngọc
quí người quăng đến phải tì.
Dệt
gấm Hồi văn chưa, đã mấy (?)
Hơn
ngồi trươu nuốt tấm tình si.
34
Hộ Pháp:
Tình
si hai chị đổi bao sầu,
Trở
trách anh chừa thói bọc dâu,
Mộng
điệp tầm phương xây túy giấc,
Cầu
Lam đổi nghiệp sửa Ngân cầu.
Sông
Tương đổ ngọc làm Cam lộ,
Ðảnh
giáp trao châu cất Phụng lầu.
Chia
miếng muối dưa chưa đủ Ðạo,
Thà
dâng thế giái đứng chung bầu.
35
Thanh
Y Tiên Nữ:
Chung
bầu nay mới đặng chung xe,
Ðừng
nói chi chi phép nấu chè.
Hỏi
phẩm Nhơn Thần dầu chẳng nói,
Chác
nghề thổ táo quyết không nghe.
Rằng
quyền thay đổi căn nhân sự,
Gia
đạo hưng suy nghĩa bạn bè.
Nghiệp
đế, cơ vương gầy đảng phái,
Văn
tài, trí sĩ lập nên phe.
36
Nên
phe thần tướng kéo đi đâu,
Hễ
đến ngang xe cúi gật đầu.
Khí
võ hùng hào mang mảo giáp,
Oai phong lẫm liệt xách qua mâu.
Linh oai chiếu diệu mình pha
ngọc,
Pháp lực cao cường gót phúng châu.
Quân
lịnh nghiêm trang hàng ngũ chỉnh,
Ngựa
voi rần rộ trót giờ lâu.
37
Khương
Thượng:
Giờ
lâu mới thấy dạng lầu đài,
Phép
tắc " Ông Già " gẫm thiệt hay.
Ðứng
trước tháp cao ngờ dạng vắng,
Thấy
xe vừa cận trổi cười dài.
Rằng
râu tóc bạc tuy ra lão,
Nghĩ
sức anh hùng cũng sánh trai.
Lập bảng Phong Thần ta chủ khảo,
Càn Khôn biết mặt gậy cùng nai.
38
Hộ Pháp:
Nai vừa vụt nhảy giữa thanh
không,
Bát Quái Ðồ xây đủ chín vòng.
Tứ hướng trung ương hầu Ngũ nhạc,
Thiên
binh thần tướng đến ngàn trùng.
Sáng
lòa sấm nổ hào quang chiếu,
Luân
chuyển khí dồi trận gió giông.
Bát
Quái Ðài xây đầy bữu pháp,
Ðứng
trên điều khiển có Lôi Công.
39
Lôi
Công trở ngoắt ngựa xe bay,
Ðem
bốn đứa tôi đến chót đài,
Rằng
trước cho coi quyền giúp phước,
Rồi
sau tỏ rõ phép giao tài.
Kim
Quang hiền hữu tua ra sức,
Ðiền
Mẫu muội nương khá trổ tài.
Phút
chút Càn Khôn nên sáng suốt,
Máy
linh cơ tạo thảy đều khai.
40
Khai
rồi Ngài múa cặp roi thần,
Chớp
nhoáng hào quang chiếu sáng trâng,
Thế
giái ba ngàn qua có lớp,
Ðịa
hoàn bảy lẻ đến từ tuần.
Bộ
châu bốn cõi người đều đủ,
Ðiện
ngọc cửu nêu Thánh đứng tuần.
Xin
được xem Nam cho thỏa mắt,
Rồi
sau các hướng tới lần lần.
41
Lần
lần thế giái xẹt kim quang,
Bát
Quái Ðài xây giống địa bàn.
Vừa
đứng lại ham màu cảnh vật,
Thoạt trông qua mừng* vẽ giang san. (*Thoạt trông mừng thấy?)
Cảnh vui thú đẹp người hiền hậu,
Nghiệp khéo nghề hay nước lạc nhàn.
Một mối thương tâm còn buộc dạ,
Vì nhiều kẻ khó rách lang thang.
42
Lang thang lưới thưới bắt đau lòng,
Kêu Ðấng Phước Thần hỡi bớ Ông!
Ông
nắm quyền ban, ban chẳng khắp,
Ông
cầm phép thưởng, thưởng không đồng.
Ðể
qua các hướng xem ba chỗ,
Gây
lộn hai ta tính một sòng.
Cười
nói Phước nầy thường ghét Lộc,
Cho
hay Lộc Phước chẳng đồng công.
43
Ðồng
công khó hiệp Ðạo cùng Ðời,
Nhơ
xác tinh thần hết tốt tươi.
Ví
tính cầm quyền toàn trái đất,
Ðừng
lo nâng phận một phương trời.
Nghiệp
nghề đợi lỗ trao cơ thể,
Lợi
lộc phương Nam hưởng cấp thời.
Như
tưởng lời khuyên còn hẹp bụng,
Ðạo
đem đổi Lộc dễ như chơi. (Cười)
44
Như
chơi lời nói rất kỳ khôi,
Ðem
Lộc mua Tiên thấy mấy hồi.
Vùn
vụt tiếng roi quơ nhấp nhoáng,
Mờ
mờ cảnh vật thụt thùi lui.
Vỗ
tay tiếng biểu còn suy nghĩ,
Gây
gổ trí quên hết nhớ hồi.
Thấy
cảnh đẹp xinh điền đất rộng,
Trải
nằm ngửa mặt giống tranh bồi.
45
Tranh
bồi trước cửa kẻ kỳ hình,
Bị
đoạt lại rồi tính muốn xin.
Hung bạo ngoài gian lo lấy trộm,
Nhân từ trong sải cứ làm thinh.
Giữa tờ sơn thủy vừa xôm cẳng,
Sa
chiếc long châu đánh nát mình.
Cõi Bắc ồ ào nghe tiếng ré,
Ghe phun tên lửa bắn tiêu binh.
46
Tiêu binh cảnh vật hiện chơn hình,
Thiên hạ thái bình dứt chiến
tranh*. (*chiến chinh?)
Thầy Sải ngồi ca kinh cứu khổ,
Học trò xúm tụng kệ Quỳnh đình*.
(*Huỳnh đình?)
Trên đầu rực rở vô vi khí,
Trước ngực sáng ngời huệ nhãn
tinh.
Tà quái sau tưng* đeo mắt vẻ, (*sau lưng?)
Ðánh
thoi bổn Ðạo cũng làm thinh.
47
Thinh
không tiếng sấm nổ đùng đùng,
Tà
quái té nhào nhảy tứ tung.
Sót
một Yêu lồi nằm sấp cặp,
Thêm
hai tiểu quỉ đứng bên hông.
Ðứa
cầm dùi đục, thằng nghiên mực,
Cậu
bận áo nâu, chú khố hồng.
Thấy
mắt lưng yêu toan đến gở,
Bút
linh chiếu phép hóa côn trùng.
48
Ngũ
Lôi:
Côn
trùng còn đoạt được nhơn duyên,
Ngũ
bộ Lôi công định sát liền.
Sét
đánh nát thây ra đất cát,
Ðời
mừng dứt giống kết oan khiên.
Xưa
người chẳng sợ điều nghe bóng,
Nay
Phật cho xem cuộc nhãn tiền.
Ví
biết vạn căn thường quả báo,
Chưa
vào Phật vị cũng Thần Tiên.
49
Thần
Tiên từ trước độ loài người,
Ô
trược nay gần sợ hổ ngươi.
Nam
Nhạc cho xem hình trị thế,
U
minh hiểu phỏng luật răn đời.
Dứt
lời vội giục đôi roi phép,
Hiện
tượng liền sanh một cảnh trời.
Trông
núi xa xa nhà lố xố,
Tòa
mây Nam Nhạc ở trên khơi.
50
Trên
khơi nghe tiếng khóc pha cười,
Có
kẻ dị hình, kẻ tốt tươi.
Quỉ
giải Âm ty thì rống khóc,
Thần
dìu Tiên cảnh lại reo cười.
Bọn
dân Ðịa phủ hình đen nám,
Tốp
khách Thiên môn xác sáng ngời.
Chồng
thấy vợ thành, chồng cắn lưởi,
Vợ
xem chồng hiển, vợ than trời.
51
Trời
cho thành đặng dễ gì đâu,
Trước
xuống sông Ngân tắm sạch sầu.
Lò
tạo lửa thiêu, Thần hết trược,
"
Cảnh Minh " sáng chiếu khí tinh màu.
Nam
Tào đến học cho nhuần lễ,
Bắc
Ðẩu vào xin đặng phép mầu.
Ðắc
lịnh Hư cung chầu Bạch ngọc,
Mới
tường căn cội vị mình đâu.
52
Mình
đâu đặng dịp thấy như vầy,
Xin
phép xem tường phía hướng Tây.
Xây
trái Ðài Thần vừa rúng trở,
Sấp
lưng ai nấy cũng đều day.
Kim
Quang Ðiển Mẫu đi tuần tới,
Văn
Khúc Long Vương ở giữa ngày.
Xách
búa Lổ ban đương chỉ vẽ,
Xây
thành cảnh đẹp rất nên hay.
53
Nên
hay Thần phẩm xuống cùng lên,
Dạy
dỗ nhơn sanh phép Ðịa Tiên.
Hồn
trí ngao du trên đảnh núi,
Xác
linh dao động cúi đầu truyền.
Thâu
cơ Tạo hóa chưa vừa sức,
Thủ
máy Càn khôn gẫm đủ quyền.
Xứ
đẹp người xinh giàu có lớn,
Buồn
trông ít thấy bực người hiền.
54
Người
hiền trước có đức thương sanh,
Nay
đến cháu con ở chẳng lành.
Vinh
hiển hưởng thừa dư chút sót,
Tội
tình chất để đã nên thành.
Chờ
xem Thiên luật không tư kỷ,
Mới
rõ Thần minh chẳng vị tình.
Vừa
chỉ roi thần ra trước mắt,
Cảnh
vui đổi thảm thấy mà kinh.
55
Mà
kinh vì thấy cửa nhà tan,
Thành
lũy trở ra đống bụi tàn.
Dưới
đất trồi lên thằng Quỉ chúa,
Trên
Trời khóc dậy lũ hồn oan.
Ðoạt
gươm Ðiển Mẫu làm binh khí,
Múa
búa Lỗ ban lập chiến tràng.
Bảo
cọp thành chiên đời tận diệt,
Dời
non đổi biển hại nhơn gian.
56
Nhơn gian đang chịu khổ đao binh,
Thấy một nàng ra nói cứu mình.
Áo kết trăm hoa thân thể đẹp,
Mão thừa muôn ngọc mặt mày xinh.
Dịu dàng tay mặt lần xâu chuổi,
Yểu điệu tay kia nắm tấm hình.
Ðưa tượng Bạch My ra hiển
hiện,
Chúng
sanh xúm lại gọi Chơn linh.
57
Chơn
linh gẫm cũng thật linh thay!
Cái
sắc tà tinh phép quá tài.
Lũ
quỉ đến nhìn thần trí loạn,
Loài
ma xem thấy tánh tâm say.
Ðể
chơn trên đất đen ra trắng,
Ngó
mắt đến người gái hóa trai.
Tuồng
hát giọng đờn làm kệ sám,
Phồn
hoa xây lấp khắp trong ngoài.
58
Trong
ngoài đã mãn tới đền thờ,
Nàng
cũng không từ để bước nhơ.
Ướm
hỏi Thánh linh đâu vắng dạng,
Mở
lời miệng ngợi nói u ơ.
Nam
phương bay tới ngàn đầu cánh,
Tây
thổ trương lên một lá cờ.
Chính
giữa linh quang xem thấy Phật,
Việc
nàng đuổi quỉ sửa thiên cơ.
59
Hộ
Pháp:
Ngũ
Lôi:
Thiên
cơ chưa rõ máy huyền vi,
Muốn
hiểu việc sau sự tức thì.
Rằng
nếu tỏ tường cơ bí mật,
Phương
nào rõ thấu phép tiên tri.
Cửa
quyền Tây Nhạc kia xem thử,
Mặt
luật Phong Ðô nọ phải tùy.
Phú
Quí Lợi Danh đời gọi phước,
Nào dè là cội của ai bi.
60
Ai bi giọng thảm kể vang vầy,
Hồn kẻ bể đầu, kẻ quẹo tay.
Xúm kiện Long Vương rằng ác
nghiệt,
Ðều thưa Lôi Chấn ở không ngay.
Thằng
hờn đá đánh ông Quan Võ,
Ðứa
giận ném quăng miếng chiến bài.
Oan quỉ không mình la hét ó,
Chữ Công hiện sáng ngó nhăn mày.
61
Nhăn mày lũ khác, khóc rù rù,
Trong đó có vài lão Sải tu.
Mổ bụng độn vàng, quăng phổi
ruột,
Xẻ đầu nhét sách, ốm hình thù.
Xương
tàn sọ thúi gần người trí,
Thuốc
độc gươm trường, cận đứa ngu.
Giành
giựt trước sau tranh giỏi dở,
Chử
" Danh " ngó thấy mắt đui mù.
62
Ðui
mù hiếm kẻ cẳng dò đường,
Mò
cát kiếm vàng thấy thảm thương.
Cắt
xẻ thịt người đem đổi bán,
Sớt
sang máu chúng đựng cân lường.
Cần
cù dấu của trong khuôn sọ,
Lẩn
bẩn tô nhà với bột xương.
Nghĩ
nhớ gia tài xưa khóc mãi,
Trên
đầu chữ " Phú " chiếu như gương.
63
Như
gương nhiều kẻ đẹp xinh thay,
Cũng
đội mão cao cũng áo dài.
Oan
quỉ chạy theo đòi trả mạng,
Cô
hồn níu lại hỏi xin thây.
Trong
đài các thấy đầy xương chất,
Ngoài
áo mão xem máu dẫy đầy.
Xẻ
thịt quỉ ma làm tiệc lớn,
Ánh
lòa chữ " Quí " dọi vào ngay.
64
Hộ
Pháp:
Ngay
gian hai lẽ biết sao thông,
Hình
luật Thiêng liêng mới giữ phòng.
Một
khuyết, một đầy, không đổ đủ,
Một
lui, một tới, khó cân đồng.
Sang
nhờ có khó sang nên mặt,
Khó
chịu nương sang khó bận lòng.
Ðời
tỷ sợi dây đôi trẻ kéo,
Một
đàng thâu đặng, một đàng buông.
65
Buông
là tại dở yếu cam đành,
Ðã
phải tội gì: giỏi, mạnh, lanh.
Ai
cũng thủ thân nơi hổn độn,
Ðời là chiến trận lúc đua tranh.
Dở hay nào để chờ thân chết,
Bươn chãi toan gìn vẹn kiếp sanh.
Ðã gọi trần hoàng là biển khổ,
Nếu không lội lặn tội trầm mình.
66
T. T.Tiên Ông: (1)
Trầm mình giải lý rất buồn cười,
Nói
ngược sao người chẳng hổ ngươi.
Thiên
ý nếu không cho sống thác,
Ðịa
hoàng há dứt lập nên đời.
"
Bởi thương sanh " cậy chưa vừa sức,
"
Vì ái chúng " xin chẳng thuận lời.
Nhơn
mạng là Trời mình để chết,
Dễ
Trời phải chết há là chơi.
67
Chơi
như tánh nết đứa con ranh,
Biết
bánh là ngon cứ việc giành.
Chưa
phải hột cơm phần sống thác,
Ấy
nhờ Thánh chất lượng cao xanh.
Côn
trùng giết chết còn ngăn cấm,
Nhơn
loại hại hao há nỡ đành.
Tiên,
Phật độ sanh là chứng quả,
Nên
người trước đã mới nên mình.
68
Nên
mình khá chọn kế chi nên,
Cái
kiếp nhơn sanh chớ tưởng bền.
Thân
tục lự* gây hoàn xá lợi, (*tục lụy?)
Của
phù du đổi bửu thiêng liêng.
Ðọa
căn lắm kẻ chê điều hậu,
Ðắc
quả ít trang gớm sự tiền.
Chưa
để đeo lưng trăm mối nợ,
Mà
vào cho lọt cửa Thần Tiên.
69
Hộ
Pháp:
Thần
Tiên đã hiểu chán đời rồi,
Có
biết cho người khó vậy ôi!
Chẳng
khác mắt mù đi cảnh tối,
Cũng
như mũi nghẹt hữi mùi hôi.
Hơn thua lưỡi giáo chưa an
đứng,
Giả
thiệt đầu chông khó dể ngồi.
Ba
vạn sáu ngàn ngày ví sống,
Chung
qui nào tưởng "phép luân hồi".
70
Luân
hồi Thánh ngữ để lưu truyền,
Ðời
chẳng tin mà cũng chẳng kiên.
Năm
Ðạo nhiệm mầu răn thế giái,
Chín
Trời yếu trọng độ nhơn duyên.
Lời
lành dầu ghét, ngơ tai điếc,
Hình
dữ cũng ngừa, để dạ kiên.
Duy
biết thiệt, hơn, tai mắt bít,
Thà
ngu hơn trí, ý không hiền.
71
Hiền
lương thường đặng tất tâm linh,
Quảng
đại Càn Khôn hiệp tánh tình.
Lỗi
mọn mình lầm, thường tưởng trọng,
Tội
to kẻ lỡ, lại cho khinh.
Chở
che khách tục hay tha thứ,
Yêu
mến tăng đồ biết vực binh.
Cứu
chuộc lắm gương Tiên Thánh để,
Liều
thân độ chúng dạ khăn thìn.
72
Khăn
thìn nhắc thế lại cho cân,
Hòa
giọt đau thương tắm khách trần.
Nẽo
đọa trầm luân đo chắc thước,
Luật
hình Ngọc điện sửa vừa phân.
Giấc
mê thức tỉnh hồn căn cước,
Cảnh
tịnh dìu an kẻ số phần.
Hễ
thấy nhơn sanh còn thảm khổ,
Liều thân nào nại phận gian truân.
73
Gian truân thay cho* phận làm người,
( *Gian truân cho thấy?)
Oằn
oại cuộc đời gánh hết hơi !
Mình
biết lấy mình tuy chẳng thẹn,
Miệng
chê nhớp miệng cũng ghê lời.
Hình
ma bóng quỉ trêu cay mắt,
Cổ
quái tử tà bẹo xốn ngươi.
Bụm
miệng máu rơi dầu nuốt giận,
Tâm
tu ghét tục thoát xa vời.
74
Dời
qua Bắc hướng đặng xem qua,
Mới
rõ Chánh kia chẳng nệ Tà.
Tà
Chánh thế gian không đặc biệt,
Chánh
Tà tâm nội có đâu xa.
Khử
Tà thân Chánh, Tà kiên Chánh,
Phụ
Chánh cận Tà, Chánh biến Tà.
Người
có chơn hồn, hồn ấy mất,
Muốn
xem hí mắt, ngó sao xa?
75
Xa
trông cảnh vật đã xây tròn,
Bát
hướng Ðài ngừng thấy nước non.
Ðộng
cũ Thần Tiên còn để dấu,
Chùa
xưa Phật tích nát hư mòn.
Chấp kinh Khổng sĩ nho phong giỏi,
Năm nghiệp Ðào quân mãi mại khôn.
Nẽo Thánh tuy quên tay dẩy cỏ,
Nền Văn miếu thấy khói hương còn.
76
Hương còn bát ngát chốn Nam giao,
Thoạt thấy phong ba vụt thổi ào.
Ngọn tháp chín rồng hư xát rạt,
Ngoài
bờ muôn quái dậy lao xao.
Ðảnh
xanh lửa cháy phun muôn ngọn,
Sông
Hắc nước lưng đựng một gào.
Trương
cánh ba yêu ôm thế giái,
Ðều
cầm mỗi đứa một chùm sao.
77
Chùm
sao khi tỏ lại khi mờ,
Thấy
ngọn cờ hồng gió phất phơ.
Cõi
ngoại reo vang quân vị quốc,
Trong thành ong óng tiếng con thơ.
Ruộng
dâu, giáo đóng dầy hơn rạo,
Biển
hoạn, nước xao dẫy quá bờ.
Chộn
nhộn khó phân người với quỉ,
Ðền
vàng người ngựa bóng u ơ...
* * *
Lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc:
1 - Gẫm cuộc đời như buổi chợ mơi. Nhóm đó rồi tan, tan
rồi lại nhóm. Ngày qua, tháng qua, năm qua, kỷ qua, thế qua, nguơn qua, cả thảy
đều qua. Còn buổi chợ vẫn y buổi chợ. ( Diễn văn ĐHP )
2 - Mỗi vị tín đồ đều có cái mão của Giáo Tông và Hộ Pháp
đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy em, chẳng lẽ có một người mà
người đó chết rồi lại tiêu diệt nền Đạo. (Huấn từ của ĐHP)
3 -
Có đủ tự tín, tha tín và thiện tín là mới trọn tin nơi Đức Chí Tôn và mới có đủ
quyền bảo hộ sanh mạng của ta cũng như của toàn thể chúng sanh nơi mặt thế.
4 - Thiên hạ miệt mài chạy theo khoa học văn minh vật
chất, không hấp thụ được đạo đức tinh thần, không rõ biết cơ bảo tồn qui cổ là
gì, cớ đeo đuổi theo nguồn tranh đấu đó là tự đưa mình vào cơ tự diệt.
5 - Bần Đạo dám quả quyết rằng:
"
Luật nhơn quả của nhơn loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc hòa bình
được."
6 - Cái mơ vọng của thiên hạ đạt đặng cùng chăng là khi
nào khối thánh đức của họ cao hơn phàm tâm của họ thì giờ ấy hạnh phúc của họ
mới có và cơ quan cứu khổ của Đức Chí Tôn mới thực hiện được.
7 - Từ xưa đến nay các tôn giáo đem chữ Từ Bi – Bác Ái phổ hóa nhơn sanh, cốt yếu là
để bảo tồn sanh mạng của quần chúng, gây lại sự hạnh phúc cho đời chung hưởng.
8 - Tiếc thay cho nhơn sanh, chớ chi trong thời kỳ Đại
Đạo hoằng khai mà để tâm tín ngưỡng, chung thờ một Tôn Giáo, tròn giữ theo luật
pháp của Đạo, lo trau giồi đức hạnh, làm phải làm lành, liên lạc thương yêu,
thuận hòa cùng nhau thì ngày nay đâu có lâm tai nạn đao binh như thế !
9 - Ngày nào toàn thể nhơn sanh hồi đầu hướng thiện, nhìn
Đạo Trời là một cơ quan cứu thế, thực hành chủ nghĩa thương yêu cho ra thiệt
tướng đặng, đó là buổi hòa bình đại đồng thế giới.
10 - Bần Đạo nói: Từ đây, kể từ ngày nay cửa
thiêng liêng của Đạo đã mở rộng, Bần Đạo kêu toàn thể con cái Đức Chí Tôn, ai
hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm cửu nhị ức nguyên nhân hãy tỉnh mộng lại
đặng về cùng Đức Chí Tôn.
11 - Cửa nầy là cửa các người đến đạt pháp đặng giải thoát
lấy mình, nếu không tự mình đến trong lòng Đức Chí Tôn vì Đức Chí Tôn đã đưa
tay ra nâng đỡ mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến thì sau nầy ắt sẽ bị
đọa lạc nơi cõi phong đô."
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét