Phạm Hộ Pháp, Thi Tập - 1 / 4


Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, bút hiệu Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo. Sanh ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần ( 21-6-1890 ) tại làng Bình Lập ( Tân An ). Quê quán làng An Hòa, quận Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh. Thân Phụ ông Phạm Công Thiện, thân mẫu bà La Thị Đường.

Thời niên thiếu. Năm17 tuổi, Đức Ngài học trường Chasseloup- Laubat Saigon,
lớn lên trong hòan cảnh lịch sử của một dân tộc bị trị, đầy rẫy bất công. Khi trưởng thành, phong trào chống Pháp nổi dậy khắp nơi, đã có sẵn ý thức về nỗi thống khổ của một dân tộc vong quốc, Đức Ngài tham gia vào phong trào Đông Du năm 1906 lúc 17 tuổi, cùng với các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Khắc Ninh… họat động bí mật đưa người sang Nhật. Sau khi đưa một số người sang Nhật, có lẽ Thượng Đế đã an bài nên chuyến tàu đưa Đức Ngài sang Nhật bị chận lại, Đức Ngài phải tạm trở về quê ẩn dật.

Nằm dưới hiên nhà, ngắm trăng đầu xuân Đinh Mùi ( 1907 ) hận vong quốc ngổn ngang trong lòng, Đức Ngài ngâm bài Vấn Nguyệt, ý thơ nhẹ nhàng, lời thơ truyền cảm, đưa Đức Ngài vào cõi mộng. Không nắng nhưng ánh sáng vẫn trong, ấm dịu chan hòa khắp nơi đầy huyễn ảo : Một cụ già tiên phong đạo cốt, râu tóc bạc phơ, nét mặt nghiêm trang nhưng hiền hòa, phong thái uy nghi tiếp Đức Ngài trong đền ngọc bích nguy nga, cụ dạy Đức Ngài nhiều điều cao siêu huyền bí ở thượng giới, phân tích cho Đức Ngài rõ về phương thức tu, tỏ ý đặt nhiều hy vọng vào Đức Ngài trên đường Đạo. Đây là lần đầu Đức Ngài triều kiến Chí Tôn.

Ngộ Đạo.
Năm 1920-1924, phong trào Thần Linh Học ở Âu Châu tràn sang Việt Nam, trong thời gian nầy Đức Ngài cùng với các ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang.. đêm đêm xây bàn cầu cơ thỉnh các vong linh về họa thi và học hỏi nơi cõi vô hình.

Đêm 15 tháng 7 năm Ất Sửu ( 1925 ) trong số các chơn linh giáng hạ, có một vị không xưng danh mà chỉ xưng là A Ă Â. Mãi đến Noel 1925, ông AĂÂ mới cho biết Ngài là Đức Chí Tôn tức Ngọc Hoàng Thượng Đế, chúa cả vạn loài. Ngài giáng trần lập Đạo… Từ đó Đức Chí Tôn thường giáng dạy Đức Ngài về Đạo lý, cùng các cơ mầu nhiệm ở cõi thiêng liêng.

Đêm mùng 8 tháng 8 năm Ất Sửu ( 24-9-1925 ) Đấng AĂÂ bảo ba Ngài: 15 tháng 8 năm Ất Sửu ( 1-10-1925 ) thiết tiệc chay thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu vị Tiên Nương dự, tiệc ấy gọi là Hội Yến Diêu Trì.

Ngày mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu ( !6-12-1925 ) ba ông lập bàn, quì giữa Trời Vọng Thiên Cầu Đạo y như lời Cửu Thiên Nương Nương giáng dạy.

Ngày 01 tháng 09 năm Bính Dần ( 07-10-1926 ) Đức Ngài cùng các vị tiền bối khác gồm 247 vị đứng đơn xin Khai Đạo. Đạo Cao Đài được chánh thức thành lập và cũng từ ngày đó Đức Ngài xin thôi việc để trọn phế đời hành đạo.

Vào lúc 11 giờ 30 đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính Dần  (đêm25 rạng 26- 4- 1926 ) Đức Ngài được Đức Chí Tôn trục hồn khỏi xác để chơn linh Hộ Pháp ngự vào. Trong Đạo Cao Đài chỉ có Đức Ngài là môn đệ duy nhứt được hưởng đặc ân nầy. Sứ mạng thiêng liêng của Đức Hộ Pháp được mô tả trong mấy câu kinh:
" Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.
Thâu các Đạo hữu hình làm một,
Trường thi Tiên Phật dượt kiếp khiên.
Tạo đời cải dữ ra hiền,
Bảo sanh nằm giữ diệu huyền Chí Tôn."

Đêm 18 tháng 10 năm Mậu Thìn ( 1928 ) Bát Nương giáng cơ tiết lộ:
Năm 1789 sau khi Quang Trung Hoàng Đế đại thắng quân Thanh, triều đình Thanh bên tàu bí mật sai một vị địa lý sang Việt Nam, dùng Long Tuyền Kiếm ếm long mạch, khiến thánh chúa và dũng tướng Việt Nam không xuất hiện được và năm 1917, triều đình Thanh sai thên một vị địa lý khác len lỏi qua Việt Nam kiểm soát lại nơi ếm Long Tuyền Kiếm, rồi dùng linh phù ếm thêm để bảo vệ Long Tuyền Kiếm.
Thiên Đình đã định, Đức Ngài có nhiệm vụ thu hồi Long Tuyền Kiếm để sau nầy Việt Nam có được thánh chúa và tướng tài.

Đêm mùng 28 tháng 2 năm Kỷ Tỵ ( 1929 ) Bát Nương giáng cơ bảo : đã đến thời kỳ Đức Ngài đi thu hồi Long Tuyền Kiếm, và theo sự chỉ dẫn của Bát Nương.

Đức Ngài và một số tín hữu, từ Khổ Hiền Trang ( lúc Đức Ngài xuống làng Phú Mũ Tỉnh Mỹ Tho truyền Đạo, tạo được nơi đây một Thánh Thất lấy tên là Khổ Hiền Trang ) đi thuyền theo kinh chợ Thầy Yến về hướng Đông Bắc độ 5.000 thước, gặp một láng cát, rời thuyền lên bờ đi bộ, băng qua cánh đồng sình lầy, năng lác, khoảng 700 thước gặp một gò đất độ 700 thước vuông, chạy dài theo chiều đông tây. Từ mực nước ở đầu gò hướng đông, đo vào 70 thước, chọn đúng trung tâm, đào xuống 1m3 tấc, gặp một phiến đá lớn, khiên phiến đá ấy lên, đào thêm xuống 3 tấc gặp một khối đá khác, trên mặt khối đá ấy có một hình nhơn bằng đồng đen, cao 1 tấc 8, một lưỡi dao gảy cán đè lên 6 con cờ tướng bằng ngà gồm: 1 con tướng, 2 con sĩ, 2 con xe, 1 con chốt và 6 đồng tiền kẽm để 6 góc, ứng vào 6 cung : chấn, cấn, tốn, ly, khôn, đoài, còn hai cung càn và khảm để trống. Khiên khối đá ấy lên, ở dưới có cái hộp bọc chì dài 9 tấc, rộng 3 tấc, cao 1 tấc 8, Đức Ngài cho biết bên trong hộp ấy có thanh Long Tuyền Kiếm và đạo linh phù. Vừa lấy hộp đựng Long Tuyền Kiếm khỏi lòng đất thì một mạch nước trắng xóa phun lên, Đức Ngài hành phép giải khai long mạch và chỉ dạy tín hữu đào một con rạch dẫn nước từ long mạch ra sông, để được châu lưu khắp giang san Việt.

Ngày 17 tháng 10 năm Ất Hợi (12-11-1935 ) Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh thỉnh Đức Ngài kiêm nhiệm Chưởng quản Cửu Trùng Đài, thiên trách nầy đã được Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chấp thuận, có cho bài thơ khoán thủ: (ĐĐSC – Tg-Trần văn Rạng).
            HỘ giá Chí Tôn trước đến giờ,
            PHÁP luân thường chuyển máy thiên cơ.
            CHƯỞNG quyền cực lạc phân ngôi vị,
            QUẢN xuất càn khôn định cõi bờ.
            NHỊ kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
            HỮU duyên đông á nắm thiên thơ.
            HÌNH hài thánh thể chừ nên tướng,
            ĐÀI trọng hồng ân gắng cậy nhờ.

Trong TNHT cũng có một bài thi khác :
" Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Hành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì."

Ngày 4 tháng 6 năm Tân Tỵ ( 28-6-1941) Đức Ngài bị Pháp bắt đày đi Madagascar ( Phi Châu ), lúc đó việc tạo tác Tòa Thánh đã trải qua được 5 năm gần hoàn thành, các phần chánh yếu căn bản đã xong, công việc phải đình lại chờ ngày Đức Hộ Pháp trở về.

Ngày 4 tháng 8 năm Bính Tuất (30-8- 1946 ) Đức Hộ Pháp được trở về Tòa Thánh sau 5 năm 2 tháng 3 ngày nơi hoang đảo. Ngay sau đó Đức Ngài huy động số công thợ công quả trở lại để tiếp tục phần đắp vẽ, trang trí gắp rút trong vòng 4 tháng và Tòa Thánh được hoàn thành vào ngày 30 tháng 12 năm Bính Tuất ( 21-1-1947 ).

Ngày mùng 3 tháng 1 năm Đinh Hợi ( 24-1-1947 ) Ban xây dựng gồm Tổng Giám Lê văn Bàng, các phó tổng giám và tá lý, đại diện các công thợ nam nữ làm Lễ bàn giao Tòa Thánh cho Hội Thánh.

Ngày mùng 6 tháng 1 năm Đinh Hợi ( 27-1-1947 ) Đức Hộ Pháp thiết lễ Trấn Thần Tòa Thánh ( tức là 3 ngày sau khi bàn giao).

Ngày mùng 8 tháng 1 năm Đinh Hợi ( 29-1-1947 ) Lễ rước Quả Càn Khôn an vị nơi Tòa Thánh.

Ngày mùng 6 tháng 1 năm Ất Mùi ( 29-1-1955 ) Đức Hộ Pháp tổ chức Lễ Khánh Thành Tòa Thánh, nhân dịp lễ vía Chí Tôn một cuộc lễ được tổ chức long trọng kéo dài suốt 10 ngày, nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều tôn giáo và đoàn thể cử phái đoàn ngoại giao đến dự.

Báo Ân Từ được khởi công xây dựng ngày 16-1-Nhâm Thìn ( 11-2-1952 )
Đức Hộ Pháp trấn thần và an vị cúng Đức Phật Mẫu ngày 4-8- Quí Tỵ ( 11-9-1952 )
Khánh thành ngày 6 -1- Ất Mùi, nhân dịp Đại Lễ Khánh Thành Tòa Thánh Tây Ninh.

3 giờ sáng này mùng 5 tháng 1 năm Bính Thân.
( 16-2-1956 ) Đức Hộ Pháp cùng vài vị chức sắc tùy tùng sang Cam Bốt, trước phút ly hương Đức Ngài ký gởi nỗi lòng:
" Khuất mắt không nhìn nước rẽ hai,
Nên cam chịu khổ tự lưu đày.
Biên thùy binh cách còn đe dọa,
Quốc nội chủ quyền lắm đổi thay.
Trị loạn những nhờ người dị chủng,
An dân lại cậy kẻ tay ngoài.
Cơ đồ nếu muốn ngày vinh hiển,
Cứu nước toàn dân phải trổ tài."

Triều Thiên.
Ngày mùng 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi ( 17-5-1959 ) lúc 13 giờ 30 phút, Đức Hộ Pháp thoát xác qui Thiên, để lại bao nổi tiếc thương trong lòng người tín đồ Cao Đài trước một bậc vĩ nhân đã hiến trọn đời mình khai sáng và xây dựng nền chơn giáo của Đức Chí Tôn.

Đức Ngài hưởng thọ được 70 tuổi, Tháp của Đức Ngài được xây dựng tạm nơi phía sau Thánh Thất Nam Vang ( Thủ Đô Cao Miên ).

Đêm mùng 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi, lúc 22 giờ 45, Ngài Hồ Bảo Đạo và Sĩ Tải Bùi Quang Cao phò loan, Đức Ngài giáng cơ dặn dò công việc tế lễ và cho bài thài:
" Ba năm xa cách để chờ may,
Vạn sự do Thiên đã sắp bài.
Chí muốn cao bay trong một kiếp,
Giờ đây nhờ cậy các anh tài.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đấng mày râu chẳng mảy may.
Một kiếp vì đời tua gắng trả,
Cho rồi nợ thế khỏi ai hoài."

Đêm 13 tháng 4 năm Kỷ Hợi, vẫn Hồ Bảo Đạo và Sĩ Tải Cao Phò loan, Đức Ngài giáng cho bài thài khác, dùng hiến lễ Đức Ngài đến mãi sau nầy:
" Trót đã bao năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời."

Thời gian hành đạo của Đức Ngài suốt 34 năm liên tục, trong nội ô Tòa Thánh đâu đâu  cũng thấy được những dấu tích nhắc nhở đến công nghiệp vĩ đại của Đức Ngài. Thể xác Đức Ngài tuy đã khuất nhưng hình ảnh của Đức Ngài vẫn sống mãi trong lòng người tín đồ Cao Đài qua nhiều thế hệ .
Một trong những lãnh đạo tối cao quan trọng nhất của Đạo Cao Đài, đích thân NGƯỜI xây dựng, hình thành và phát triển kiện toàn mô hình hệ thống hành quyền Đại Đạo Cao Đài. NGƯỜI một nhân cách Xã Hội Học, tính Nhân Văn tộc Việt, nhân sĩ trí thức dấn thân nổi tiếng ở Việt Nam vào thế kỷ 20.

NHỮNG BÀI THI TẶNG ĐỨC PHẠM HỘ PHÁP

Đức Chí Tôn giáng cơ cho Đức Hộ Pháp
Ngày 12-2 1926 ( 30-12- Ất Sửu )

" Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng."

Trong chuỗi ngày bị lưu đày nơi hoang đảo Madagascar, ĐHP có lúc ra bãi biển giải khuây, Ngài cầm que củi được các Đấng giáng cho thi, viết dưới cát như chấp bút vậy:
" Quá hải đòi phen đến viếng nhau,
Ngặt không có bút để lời giao.
An nhàn đợi thuở triều binh đến,
Chuyển thế gặp hồi phải búa đao.
Cõi Á đã gầy thành chủng quốc,
Phương Âu đã diệt tận Nô Lao.
Lửa hương đất Việt dầu nhen nhúm,
Nhờ Đàm Trung Quân ở nước Tàu."

*  *  *
" Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám khảo thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt Bổn trừ."


            Đức Lý Đại Tiên làm thi cùng Đức Hộ Pháp:
" Linh quang chiếu diệu giữ trời đông,
Rõ mặt thiên tôn lập đại đồng.
Nắm phướn từ bi dìu chủng tộc,
Cầm quyền bác ái định chơn tông.
Tùy đời chẳng bỏ mưu Hàn Tín,
Trị thế hằng toan kế Tử Phòng.
Xây máy pháp luân nguơn tái tạo,
Sấn tay vẽ đẹp mối Nam phong."

27-5-1954 ( 25-4- Giáp Ngọ ) Đức Hộ Pháp Âu Du.
Lúc 6 giờ sáng Đức Ngài báo tin cho ông Hồ Bảo Đạo. Trong đêm Đức Ngài có hội kiến với Đức Chưởng Đạo, dạy nhiều việc trog nội dung bài thi:
" Khởi điểm vinh quang đã vẽ màu,
Giang san đất Việt giá là bao.
Nền nhân Câu Tiển đà chen bước,
Cửa ải Phù Ta đã bước vào.
Mong lịch duyệt nay đà lịch duyệt,
Muốn thanh cao đã được thanh cao.
Rồng Tiên đã gặp hồi phong vũ,
Thay đổi càn khôn thử thế nào."
                                                                                              Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
*  *  *
" Sáu mươi tám tuổi gánh non sông,
Sinh nhật ân sư chạnh cõi lòng.
Rời khỏi Thánh Tòa lo cứu chúng,
Giáng lâm Tần quốc chuyển Nho tông.
Nâng cây Ma Xử dìu hồn nước,
Phất phướn chí linh hiệp đại đồng.
Cầu phước Thiên Tôn Thầy thọ hưởng,
Lập đời Khai Đạo chuyển thần thông."

Ngày 4 tháng 8 năm Bính Tuất ( 30-8-1946 ).
Khi Đức Hộ Pháp từ Madagascar về Tòa Thánh, Đức Thượng Sanh làm bài thơ để mừng Đức Ngài.
Cảm tác
" Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp bạn nầy đây khóc lộn cười.
Nguồn Đạo xưa trông đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời."
                                                                       Cao Thượng Sanh
Họa nguyên vận
" Sắc son nhuộm tánh đượm màu tươi,
Hay dở khen chê để miệng người.
Đày đọa xét thân không hổ thẹn,
Sang vinh nghĩ phận quá buồn cười.
Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,
Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi.
Ước trả mảy may ơn xã tắc,
Nợ muôn đền một kể chi lời. "
                                                                       Phạm Hộ Pháp

Đêm mùng 3-1- năm Nhâm Thìn ( 1952 )
Đức Hộ Pháp gởi cho Ngài Cao Tiếp Đạo.
Thi
" Chúng ta từ thử bạn đồng tâm,
Dìu bước nhơn sanh khỏi lạc lầm.
Gương huệ sáng soi đường thánh chúa,
Từ bi mở rộng cửa thiền lâm.
Hồn nho tỉnh mộng lìa phường tục,
Phép đạo giác mê sửa nết phàm.
Chấp phướn tiêu diêu tòan cứu khổ,
Chúng ta từ thử bạn đồng tâm."
                                                           ĐHP

Họa nguyên vận
" Hiệp sức đã cùng thệ nhứt tâm,
Đạo mầu vun quén há sai lầm.
Soi đời chẳng có câu thiên mạng,
Tỉnh thế nhờ chung bạn trước lâm.
Bầu ái rưới chan nâng chất thánh,
Nước dương rải khắp gội lòng phàm.
Người sau kẻ trước còn đương sẵn,
Hiệp sức đã cùng thệ nhứt tâm."
                                                           Cao Thượng Sanh

Họa nguyên vận
" Chẳng thẹn ngàn xưa một chữ tâm,
Cùng chung đau khổ há đâu lầm.
Thuyền từ đã trải cơn phong vũ,
Đuốc huệ từng soi bạn hải lâm.
Lừa lọc sẵn nâng gương thánh đức,
Nhộn nhàng chờ dứt tấn tuồng phàm.
Biển trần dìu bước tùng nguơn hội,
Chẳng thẹn ngàn xưa một chữ tâm."
                                                                       Cao Tiếp Đạo



Đêm 12 tháng 10 năm Nhâm Thìn ( 1952 ).
Tại Bửu Tháp Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp đến dự cuộc thi Văn Đàn, Đức Ngài dạy bói trong tờ nhật báo xem trúng chữ gì. Ông Cao Tiếp Đạo chỉ ngón tay, nhằm chỗ Pháp và Việt Minh đánh nhau tại Na Sầm nên lấy đó làm đề tài ( trích theo đặc san thế đạo 5/70 )

Thi
" Na Sầm chưa phải trọn sơn hà,
Khí tiết anh hùng giống Việt ta.
Chước quỉ hỏi ai gây khói lửa,
Mưu thần nào kẻ dẹp can qua.
Trinh trung phục quốc đương tranh đấu,
Chánh nghĩa hưng ban khó giảng hòa.
Thử nghĩ hoàng đồ là nghiệp cả,
Vì đâu chia xẻ đặng làm ba."
                                                           Phạm Hộ Pháp

                        Thi Bát Nương:
" Dám hỏi đại huynh rõ máy trời,
Chừng nào ba lửa cháy ba nơi.
Năm sông đua chảy năm sông cạn,
Bảy núi nổ tan bảy núi dời.
Tận thế Long Hoa sao chẳng thấy,
Cơ trời ngạt khí có hay thôi.
Rồng bay ngựa chạy cho ai cỡi,
Đất dậy chừ bao đổi xác trời."

                        Phạm Hộ Pháp, họa vận trả lời Bát Nương
" Hành tàng hư thiệt tại cha Trời,
Đông Mậu dương hồi hỏa khắp nơi.
Châu ngũ khí hòa tan ác nghiệt,
Thất Sơn náo động thất sơn dời.
Thế tàn xuân kỷ Long Hoa trổ,
Thưởng phạt cuối cùng thánh đức thôi.
Long mã lạc vương tiên trạng kỵ,
Cù phi hải sụp lý thay trời."

* * *

Chúa nhựt ngày 9 tháng 8 năm Giáp Ngọ ( dl 5-9-1954 ).
Nhân chuyến Á du, Đức Hộ Pháp viếng Nhựt Nguyệt Đàm  (Hồ Nhựt Nguyệt ) thắng cảnh đẹp nhứt ở Đảo Đài Loan, ĐHP ngâm bài thi trước phong cảnh hữu tình, thiên nhiên tuyệt mỹ. Nhựt Nguyệt Đàm cách Châu Thành Đài Trung 80 cây số.
" Đây Hồ Nhựt Nguyệt tại đầu non,
Một nửa vòng câu một nửa tròn.
Xanh biếc điểm màu tòng lộn đảnh,
Trắng ngần lộng sắc nước soi gương.
Đầu gành lăn líu chim ca hát,
Kẹt đá ro re suối khải đờn.
Những khách phong lưu ai để bước,
Cảnh nhàn như thế cảnh nào hơn."

            Và một bài thi tứ tuyệt bằng chữ nho:
" Sơn đầu hữu thượng thủy,
Vận vũ tạo tú khí.
Đài Trung Nhựt Nguyệt Đàm,
Thắng cảnh nhứt vô nhị."

* * *
            Cuộc hội ở Kiêm Biên. Thầy nho hỏi:
            ( Nguyễn Trung Hậu hỏi Đức Chí Tôn )
" Đôi lời thành thật kính cùng ông,
Linh hiển sao không cứu giống giòng.
Trăm họ nát tan thân cá chậu,
Muôn dân đồ thán phận chim lồng.
Coi mòi diệt chủng mà đau dạ,
Thấy cảnh vong ân bắt chạnh lòng.
Ách nước nạn dân là thế ấy,
Ngồi mà đạo đức có yên không ?

            Đức Hộ Pháp đáp:
" Vinh hư tiêu trưởng lạ gì ông ?
Đạo đức không tu cứu giống giòng.
Bởi mến mùi thơm thân cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy phận chim lồng.
Đời nay ham sống hơn ham đức,
Phật muốn sửa người trước sửa lòng.
Chừng thấy nhơn dân đời Thuấn Đế,
Như bàn tay trở dễ như không.

*  *  *
XUÂN
" Xuân sắc thiên nhiên vẻ lịch xinh,
Xuân phong đưa đón khách tòan linh.
Xuân hoa rực rỡ muôn màu đẹp,
Xuân cảnh thanh tao một tiếng kình.
Xuân nhựt nhựt tân tình tạo hóa,
Xuân niên niên tải nghĩa quần linh.
Xuân xuân con hỡi mùa xuân đạo,
Xuân đạo về mới dứt chiến chinh."

            20-1-1966. Ngọc Hòang Thượng Đế.
" Chỉ có xuân thì biết thưởng xuân,
Xuân còn nhớ lại cảnh năm dần.
Lưng trời bạch hạc bay vi vút,
Mặt đất Thần Tiên luận nghĩa ân.
Mở khóa người đời tìm thánh đức,
Trao gươm kẻ sĩ học hiền nhân.
Thiên đàng lòng vẫn bâng khuâng nhớ,
Trần thế còn chăng khách thưởng xuân."

            20-1-66. Đức Cao Thượng Phẩm.
" Xuân đến chúc nhau hưởng phước trời,
Xuân đi thăm viếng khắp nơi nơi.
Xuân không phân biệt sang hèn đó,
Xuân chúc mọi người được thảnh thơi."

            21-1-66. Đức Cao Thượng Phẩm.
" Mừng nhau cầu chúc tạm đôi vần,
Hành đạo giúp đời mới gọi xuân.
Xuân đến với đời đời hạnh phúc,
Xuân lai cõi tục tục vui mừng.
Xuân nầy gánh đạo hai chân bước,
Xuân tới cứu đời đôi mắt rưng.
Xuân nữa xuân đi xuân hạnh phúc,
Là ngày thành đạo mới trùng hưng."

            21-1-66. ĐQGT Thượng Trung Nhựt.
" Xuân đến muôn nhà hưởng phước duyên,
Xuân đem hạnh phúc đến muôn miền.
Xuân không phân biệt vàng đen trắng,
Xuân đạo huy hoàng vĩnh vĩnh niên. "

            21-1-66. Đức Hộ Pháp.
" Đổi dời lắm lúc mấu sơn hà,
Xuân vẫn riêng tình với cỏ hoa.
Sắc lẫn hương xuân phơi rỡ rỡ,
Mây hồng ánh nguyệt chiếu lòa lòa.
Ra vẻ thù tròn ơn thượng quốc,
Độc dược cho nên nghĩa kiến hòa.
Hết hạ thu đông xuân cũng đến,
Trời xuân xuân khắp cả bao la."

            21-1-66. Phan Thanh Giản.
" Xuân sang được hưởng trọn ân hồng,
Phước đức do mình lập quả công.
Học bạn học thầy cùng Phật Thánh,
Cho ra hướng đạo hội Long Hoa."

            1-2-66. Đông Phương Chưởng Quản.
Chúc Xuân
" Chào xuân đảnh Việt thấy bay rồng,
Mừng Phạm Thiên Tôn rạng cửa không.
Trường thế rộn ràng vay trả mãi,
Rừng thiền đầm ấm ái hòa đông.
Phướn linh phải buổi dìu nhơn loại,
Phép nhiệm nầy cơn dựng đại đồng.
Ân huệ nhuần chan Hồng Lạc hưởng,
Biên cương vững định giữa trời đông."
                                                                       Cao Tiếp Đạo
Họa nguyên vận
" Giống rồng lại gặp hội mây rồng,
Xuân đến vận thời chẳng lẽ không.
Non nước thấy màu xem hớn hở,
Lê dân thoát ách hết long đong.
Ân hồng đã rảy cùng thôn lý,
Bóng phước phủ che khắp ruộng đồng.
Hồng Lạc từ đây cầm xã tắc,
Muôn chung ngàn tứ sức nào đong."
                                                                       Hộ Pháp
*   *   *
Thi
" Lập trận tru Tiên thấy hãi kinh,
Thần Tiên vào đó cũng ghê mình.
Hào quang chớp nhoáng phân trăm mảnh,
Sát khí mịt mờ bủa lục đinh.
Chấn động Thần Tiên xem héo mặt,
Hai nhà xiểng triệt lộ nguyên hình.
Đường tu ví chẳng dày công đức,
Nhập bảng phong thần khó nổi binh."
                                                                                  Giáo Hữu Thái Đến Thanh

Họa vận
" Tru Tiên nhập trận chẳng hề kinh,
Cầm gậy Giáng Ma thủ hộ mình.
Giáng xuống thần hồn người hóa thú,
Đưa lên quỉ xác sắt ra đinh.
Mau mau giác ngộ lo tu niệm,
Sớm sớm ăn năn sửa lỗi mình.
Ví biết sẽ còn ngôi vị cũ,
Bằng không đừng trách chẳng ai binh."
                                                                       Đức Hộ Pháp.
Thư gửi Hộ pháp Phạm Công Tắc (21-6-1956)
Kính gửi Hộ pháp Phạm Công Tắc,
Nôrôđôm - Phnôm Pênh,
Tôi trân trọng cảm ơn bức điện Cụ gửi cho tôi ngày 26-4-1956 và thành thật hoan nghênh Cụ đã tỏ ý mong muốn nước Việt Nam ta được hoà bình, thống nhất. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, toàn dân ta từ Bắc chí Nam, trong nước và ngoài nước đều đang kiên quyết và bền bỉ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của dân tộc, là làm cho nước Việt Nam ta được hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Cuộc đấu tranh hiện nay của nhân dân ta tuy phải khó khăn và phức tạp, song toàn dân ta đoàn kết một lòng, kiên quyết phấn đấu, cho nên nhất định sẽ thắng lợi.
Tôi xin gửi Cụ lời chào trân trọng.
Thi
" Tôi mới biết ông, ông với tôi,
Hai vai oằn oại khó đi đôi.
Lỡ sanh Nam Bắc chung bờ cõi,
Cùng một ông cha một giống nòi.
Đành chịu cờ tàn thua nửa ngựa,
Cho hay miệng thế mới mười voi.
Mấy lời nhắn gởi xin ông nhớ,
Nước ngược buông câu cá chọn mồi."
                                                           Hồ CMinh

Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 1956
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
HỒ CHÍ MINH.

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, khảng khái hồi âm:

Họa vận
" Ông hướng ông, tôi hướng tôi.
Đạo Đời hai hướng khó đi đôi.
Lỡ sanh đồng chủng đồng tai mắt,
Chẳng nở ngồi yên bỏ giống nòi.
Vì chúng dấn thân vào miệng hổ,
Liều mình đánh cọp cứu đàn voi.
Cờ tàn mới biết tài cao thấp,
Nào phải như ai cá chọn mồi."
                                                                       Phạm Hộ Pháp.
Bản lưu của Viện S Cao Đài.
*  *  *

CÂY CAO & TRÁI THƠM

Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông cùng nhau vịnh trái thơm và cây cao. Hai Ngài giao hẹn, Đức Quyền Giáo Tông sẽ kết thúc bài thơ bằng chữ CAO và Đức Hộ Pháp bằng chữ ĐÀI

Vịnh cây cao
" Chơn bám địa cầu cứng biết bao,
Cả vườn đều thấp có ta cao.
Lưng mang đai bạc mưa càng đượm,
Đầu đội tàn xanh nắng chẳng xào.
Tám tiết chống Trời lòng chẳng mỏi,
Bốn mùa cản gió chí không nao.
Con xanh con đỏ hai vai gánh,
Rường cột nhà Nam cậy có CAO."
                                                                       Đức Quyền Giáo Tông.

Vịnh trái thơm
" Trời sanh hoa quả lắm chông gai,
Người gọi danh thơm tiếng để hoài.
Nghịch tiết sái mùa không trổ mặt,
Thuận thời phải thế mới ra tài.
Trừng trăm con mắt không kiêng chúng,
Mọc một cái đầu chẳng sợ ai.
Gặp lúc nghinh ngang ra giữa chợ,
Chờ khi có việc sẽ lên ĐÀI."
                                                                                  Đức Hộ Pháp.
Văn tế ĐHP đọc ngày 16-19 Ất Hợi ( 1935 )
Nhân ngày Tiểu Tường Đức Quyền Giáo Tông.
" Đoái Nam đảnh mây giăng,
Lượn Long giang sóng bủa.
Hồn Linh điện đeo sầu trang chí sĩ,
Tòa Cao Đài chứa lụy mặt hùng anh.
Nước Việt thường ghi tạc dấu tài lành,
Nòi Hồng Lạc roi truyền gương tiết nghĩa.
Phương độ thế dầu lỡ làng chưa mãn địa,
Phép hóa dân cũng mai mỉa đủ kinh thiên.
Ba mươi lăm năm lẫn lộn cửa quyền,
Hay quan tiền vũ hậu.
Để tài tình ích nước lợi dân,
Trọn một đời người vinh diệu đai cân.
Thường suy cổ nghiệm kim,
Đủ trí thức an bang tế thế.
Sanh gặp lúc ruộng dâu hóa bể,
Phong di tục diệt.
Nhìn nước non tha thiết tấm trung thành,
Ở phải hồi dĩ Lữ diệt Dinh.
Hiền vong ác thạnh,
Tìm công môn xa lánh cửa công khanh."

Nhưng mà :
" Toan cởi lau ẩn dật chốn non xanh,
Thương chủng tộc lao đao vòng tử xích.
Chuông cảnh tỉnh nán khuya đêm tịch mịch,
Trống chiền ga gương khít bóng trời mơi.
Trút bầu linh đổ cam lồ rưới nơi nơi,
Đưa gậy sắt dẹp sầu than cùng chốn chốn.
Qui tâm lý đem nhơn sanh vế một bổn,
Lấy thiên lương làm thiên hạ hiệp trăm nhà.
Cầm cờ tang cầu vạn quốc dẹp can qua,
Đưa gươm huệ khuyên giống nòi thôi loạn lạc.
Mang thiên mạng Chí Tôn phú thác,
Độ quần linh giải thoát trầm luân.
Bố hồng oai Hội Thánh gội nhuần,
Dắt nhơn loại lánh thân ác đạo.
Thuyền bát nhã chở đầy khổ não,
Liền trở lui Bồng Đảo bến xưa.
Cửa thiền lâm êm tịnh mây mưa,
Vội rào chặt Tây phương nẻo cũ."

Anh cả ơi !
" Nầy sự nghiệp nhà Nam đầy nghĩa vụ,
Anh lòng nào bỏ phú cho đám em khờ.
Kìa giang san đất Việt những cơ đồ,
Anh bao nở nấy giao cho đàn trẻ dại.
Nhìn dấu bước in chơn nơi hồ hải,
Giục nhớ người nặng quảy gánh đồ thơ.
Nghe chày kình khua tiếng chốn đền thờ,
Giục nhớ khách dõi khai đường tận độ.
Ngôi còn đó, vị còn đó, đạo còn đó, đời còn đó,
Anh bao đành tìm ngỏ non tiên.
Nhà ở đây, vợ ở đây, con ở đây, bạn ở đây,
Anh nở vui miền cực lạc.
Hay là giận nhơn tình tráo chác,
Bến Ngân Hà tắm mát tâm hồn.
Hay là hờn thế sự dại khôn,
Vào Bát Quái bảo tồn trí giác.
Vài từng rượu lạt,
Ít chén cơm chay.
Hỡi ơi ! Thương thay !
Linh thiêng chứng chiếu ."
                                                                       Hộ Pháp đọc tại Đại Đồng Xã.
11-9- Bính Tuất ( 1946 )
" Nhắn bạn Quyền Giáo Tông.
Hồ lô ai để ở nơi đâu,
Ái quốc Việt Nam nhét bể bầu.
Cứu thế hồng ân chưa rải khắp,
Nâng thuyền lòng nước vốn còn sâu.
Nhơn tài nảy nở tuy trăm bụng,
Dân trí biến sanh bởi một bầu.
Ví nhướng mắt Tiên xem rõ trận,
Cuộc cờ thắng bại tận phao câu."
          
Đức Quyền Giáo Tông giáng cơ họa vận. Bài thi của Đức Hộ Pháp 15-9- Bính Tuất.
" Tách trần tính lại đã là lâu,
Thế giới vân du chỉnh một bầu.
Nguồn đạo bấy chừ bao sức lớn,
Tinh thần từ trước đã gần sâu.
Nhơn tâm gầy khối đều nên mặt,
Tình thế trau nên kiểu vở đầu.
Lừa lọc nên hư do phép tạo,
Hưng suy chỉ định bởi đôi câu."

Đêm 12-10- Kỷ Sửu ( 1949 )
Tại Tháp Đức Quyền Giáo Tông, ĐHP ra đề thi " Thần Lý Ngưng Dương du Nam"
" Bầu linh gậy sắt quảy du Nam,
Nương bóng từ bi đến cõi phàm.
Độ thế so đồng cân nhựt nguyệt,
Phục sinh đổ trọn giỏ hoa lam.
Nẻo Tiên lối cũ thân dầu dại,
Bợn tục đường xưa bước đã nhàm.
Bảy bạn ai còn nơi cõi thế,
Đông Du xin nhắc vụ ông Lam."
                                                                       Hộ Pháp

Ngày 15-10- Giáp Tuất ( 21-10-1934 ).
Trích trong bài văn, Đức Hộ Pháp tế Đức Quyền Giáo Tông .
" Vì thương đời mà khổ hạnh đa đoan,
Bởi mến đạo tân toan lắm nỗi.
Đời hằng đổi lòng kia chẳng đổi,
Non dầu mòn chí nọ không mòn !
Mấy mươi năm phơi trải tấc son,
Trọn một kiếp bảo tồn phong hóa.
Đường thế gập ghềnh chí cả,
Thuyền từ lắc lẻo vững tay chèo.
Trải bao phen lên ải xuống đèo,
Đã lắm lúc đăng sơn quá hải.
Nhớ linh xưa,
Đối cùng bằng hữu hết tình quảng đại.
Xử với gia đình trọn ngãi từ hòa,
Tưởng cùng nhau sum hiệp một nhà.
Hay đâu nỗi người về kẻ ở.
Anh cả ơi !
Đã đành thiên số hữu kỳ,
Nhưng nghĩ đến cũng đau lòng trần khách.
Vậy mấy em tạm vài lời thiết thạch,
Chúc hương hồn nhẹ tách Cửu Tiêu.
Hỡi ơi ! Thương thay !"
                                                                                  Hộ Pháp Phạm Công Tắc
*  *  *
Đức Hộ Pháp, Tế Đức Quyền Giáo Tông

Thi
" Đức Quyền Giáo Tông dày công Khai Đạo,
Chí trung thành hòa hảo từ bi.
Đắc truyền Khai Đạo Tam Kỳ,
Bảo an Tòa Thánh đến kỳ cửu niên.
Chơn linh Ngài Đại Tiên Thiết Quả,
Nắm trọn quyền anh cả nhơn sanh.
Từ bi bác ái trọn lành,
Năm mươi chín tuổi đắc thành qui Tiên.
Công vĩ đại lưu truyền nhơn loại,
Cả nữ nam lưỡng phái bình quyền.
Nhờ Ngài mới đặng phục nguyên,
Ngài xin chính phủ ban quyền tự do.
Trong chín năm lo toan gầy Đạo,
Chịu hàm oan khảo đảo thị phi.
Tánh Ngài quảng đại từ bi,
Ai khen không muốn ai chê không hờn.
Trí hòa hưỡn như đờn trổi nhịp,
Chẳng một ai bì kịp trí tài.
Nhơn sanh biết Đạo Cao Đài,
Muôn năm ghi nhớ ơn Ngài Giáo Tông."


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét