Văn-Phòng Hộ-Pháp-Đường, N°: 209
Phương luyện kỷ
đặng vào con đường thứ ba Đại-Đạo
Phải biết thân-thích cùng cả nhơn vật tức là tìm
nguyên do của Vạn-Linh cùng Chí-Linh.
Phải ân-hậu và khoan-hồng.
Phải thanh-nhàn đừng vị-kỷ.
Phải bình-tĩnh nghĩa là đừng chịu ảnh-hưởng của
họa,
phước, buồn, vui (tập tánh không không đừng nhiểm, vui cũng vui, buồn cũng
buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn tánh).
Phải độ-lượng, khoan-dung, tha-thứ.
Phải vui-vẻ, điều-hoà, tự-chủ, và quyết-đoán.
Giữ linh-tâm làm căn bổn.
Hiếu-hạnh với Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
Phương-pháp trị tâm
vì tâm là hình ảnh của Thiên-lương
Đức-tin và khôn-ngoan là kho chí bữu, ngoài ra là
của bỏ, là đồ vô gíá.
Ai đã cố oán kẻ thù của mình, thì khó giữ thanh tâm
công-chánh cho đặng.
Ai chẳng oán hận mới thắng đặng kẻ thù nghịch cùng
mình.
Sự cừu hận là mối thảm khổ đệ nhứt của nhơn sanh,
nên người hiền thì không biết đến, hay là từ bỏ cừu hận oán ghét.
Thắng đặng khí nộ mình, thì không chọc ai giận dữ.
Lấy thiện mà trừ ác.
Lấy nhơn-nghĩa trừ bạo tàn.
Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp-hòi.
Lấy chánh trừ tà.
Ấy là đường thương huệ kiếm.
Luyện thân, luyện trí
Ẩm-thực tinh-khiết.
Tư-tưởng tinh-khiết.
Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
Thương yêu vô tận.
Ấy là chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Đài tại thế nầy.
Tòa-Thánh, ngày 14 tháng
Giêng năm Đinh-Hợi (1947)
Hộ-Pháp
( Ký tên và đóng dấu )
Lời chỉ-dẫn của Đức Hộ-Pháp về Phương luyện kỷ.
Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham
muốn các điều chi cho mình nữa.
Hành-tàng của Chí-Tôn là phận-sự của mình.
Phải yêu-ái với Chí-Tôn và Phật-Mẫu, cái yêu-ái và
hiếu-hạnh ấy phải là phi-thường do tâm-linh điều khiển.
Phải thương-yêu nhơn-sanh và vật-loại hơn mình và
coi đồng thể, đồng sanh với mình.
Phải tạo dựng cố thủ thâm tâm cho nên chí Thánh, và
đoạt đủ ba ngàn công-quả thì sẽ đi êm bước đặng và mới vững-vàng thắng muôn
điều trở ngại.
Hộ-Pháp
* * *
Phần dẫn-giải
Lời nói đầu
Một viên ngọc quí không trau giồi sẽ trở thành lu
mờ, mất giá-trị. Nhưng người ta chịu khó giồi mài, nó sẽ trở nên sáng chói tốt
tươi.
Con người cũng vậy, vốn tối linh hơn vạn-vật, nhưng
đã sanh ra trong chốn bụi hồng, tiêm-nhiểm biết bao thói hư tật xấu, tánh ác
lẫn ln tánh thiện, nếu không tu luyện, bỏ dữ theo lành, tánh ác càng ngày càng
bộc lộ che khuất ánh sáng của Thiên-lương, thì khác nào viên ngọc không giũa
không mài.
Muốn tập sửa, trau giồi tâm tánh trở nên chí thiện,
phải gắng công bền chí, tập luyện có phương-pháp mới thành công được.
Phương-pháp áp-dụng đó là Phương Luyện Kỷ của Đức Hộ-Pháp ban cho chúng ta từ
ngày 14 tháng Giêng năm Đinh-Hợi ( 1947 ).
Khi bắt đầu thực-hành " Phương Luyện Kỷ " ta phải thành tâm, tận dụng trí não nhận
định cho được tánh nào là Thiện, tánh nào là Ác, cũng như phải biết phân biệt
phải, trái lẫn ln trong bản thân, nhiên hậu ta mới thực-hành Phương Luyện Kỷ
được.
Phương Luyện Kỷ cũng như phép Tu Thân của Nho-Giáo
xưa kia đã áp-dụng một cách kiến hiệu. Trước hết phải Cách-vật, Trí-tri,
Thành-Ý, Chánh-Tâm rồi mới Tu Thân.
- Cách-vật là phải đi đến,
đụng phải vật đó, tức là thông suốt sự vật, mở rộng kiến văn.
- Trí-tri là biết cho rõ
để khỏi nghi hoặc, biết biệt phân phải trái.
- Thành-Ý là giữ ý cho
thành thật, không tự dối mình.
- Chánh-Tâm là giữ Tâm cho
ngay thẳng.
Muốn phân biệt được phải, trái, thiện, ác để tu sửa
bản thân, cần chú ý vào hai điểm: Tự xét mình và phục thiện.
1 / Tự xét mình là tự vấn lương-tâm, tự mình nhìn mình mà kiểm-điểm lỗi lầm.
Không một Tòa-Án nào phán quyết mình chánh bằng
Tòa-Án lương-tâm. Người ngoại cuộc có thể khen ta những điều không đáng khen,
chê ta những điều không đáng chê, nhận định sai lầm. Nhưng Toà-Án lương-tâm
không sai lầm nếu chúng ta thành tâm, thật ý, vô tư xét lại điều mình đã nghĩ,
đã nói, đã làm thì thấy rõ lỗi lầm của chúng ta như thấy hạt bụi trong ly nước
trong ngần.
Khi biết tự xét mình là đã chứng tỏ cái lòng ngay
thật, cái thiện chí muốn tu thân để hiểu rõ chân tướng của bản-ngã mà sống thật
với lòng mình. Nếu thiếu tinh-thần tự xét thì đời sống con người phóng-túng,
ngang-tàng, phạm tội mà không biết tội, nhận tội, nên thường tự mãn, tự cao,
tội-lỗi càng ngày càng chồng-chất.
Các bậc Thánh-Nhân hằng ngày tự kiểm-soát lấy mình,
tự xét lấy mình như Thầy Trình-Tử xưa kia.
"
Mỗi khi làm được một việc Thiện, Thầy bỏ một hột đậu trắng vào trong bình. Mỗi
khi lầm-lỗi, Thầy lại bỏ một hột đậu đen vào trong bình. Cứ mỗi ngày Thầy lại
đổ đậu trong bình ra đếm để kiểm-điểm xem đã làm bao nhiêu điều xấu, bao nhiêu
điều tốt trong ngày.
Lúc
ban đầu đậu đen nhiều, đậu trắng ít, Thầy cố gắng tập sữa thêm nữa cho đến khi
không bỏ đậu đen vào bình nữa mới thôi ".
Nhờ chú trọng đến việc tu thân mà Thầy Trình-Tử đã
trở thành một bậc hiền-triết thời xưa.
2 / Phục thiện là có thiện-chí nhìn nhận lẽ phải và
thật-hành lẽ phải. Nếu biết tự xét thì phải biết phục thiện, hai yếu-tố đó đi
đôi mới được hoàn-hảo.
Tinh-thần phục thiện là tinh-thần sửa chữa lỗi lầm,
thành-thật cải tạo và canh tân. Thông thường, người ta vì thờ-ơ hoặc tự-ái,
hoặc tự dối mình mà không chịu sửa chữa lỗi lầm.
Vậy biết lỗi là một điều cần, nhưng vui lòng sửa
lỗi lại rất cần và đáng quí hơn.
Ngoài việc tự xét để biết lỗi của mình, mình còn
được người ngoài thấy lỗi của mình mà chỉ bảo, trong trường-hợp đó ta nên
vui-vẻ chấp nhận với tinh-thần phục thiện.
Nói về tinh-thần phục thiện, Thầy Mạnh-Tử có đề cập
đến vua Vũ và Thầy Tử-Lộ như sau:
"
Vũ văn thiện ngôn tắc bái. Tử-L nhân cáo chi hữu quá tắc hỉ ". Nghĩa là:
" Vua Vũ khi nghe được lời nói phải thì chấp tay bái tạ. Thầy Tử-L khi
được nghe người chỉ lỗi cho thì tỏ vẻ vui mừng ".
Biết lỗi, nhận lỗi và sửa lỗi là những đức-tính cần
thiết của phép Tu Thân.
Phương Luyện Kỷ của Đức Hộ-Pháp chẳng những giúp ta
về việc tu thân xử thế mà còn dạy ta bí-quyết thành công trong việc tu chơn tầm
Pháp để đoạt Đạo. Đó là chìa khóa mở trí khai tâm tiến đến nẽo siêu phàm nhập
Thánh.
Nếu học Phương Luyện Kỷ rồi bỏ qua, không
phản-tĩnh, chẳng phục thiện, không dốc chí thật hành trau luyện công phu để rồi
tánh nào hườn tật nấy thì rất uổng cho sự học tập, không thu lượm được kết-quả
chi.
Lời dẫn-giải "
Phương Luyện Kỷ " trong những trang sau đây có tánh-cách học tập trong
phạm-vi nội bộ, nếu có điều chi sơ-sót xin quý Tín-hữu vui lòng đóng góp thêm
cho được hoàn-hảo, chúng tôi rất hân-hạnh đón nhận.
Mùa Thu năm Tân-Hợi 1971
Ban Thống-Nhứt
CSHBCS của Đức Hộ-Pháp
* * *
Phương luyện-kỷ
đặng vào con đường thứ ba Đại-Đạo
Luyện-kỷ là sửa mình,
hay là phương-pháp tu thân của con người.
Trên phương-diện " Nhân-sinh-quan ", con người là một thực thể linh-hoạt,
tối linh hơn tất cả muôn loài. Con người có tâm hồn, có tư-tưởng, có tình cảm,
có trí khôn, có khả năng sáng tạo vả tiến-bộ không ngừng.
Vì nhu cầu vật-chất, loài người đã cố-gắng phát
minh cơ năng hữu-tướng đến mức tận mỹ, quên lãng sự trau tâm sửa mình để trở
nên tận thiện. Vì nặng vật-chất hơn tinh-thần nên nhơn-loại đã bôn xu trên nẽo
lợi đường danh gây nhiều tội ác, nghịch thù, xô-xát chém giết lẫn nhau, tạo
cảnh chiến-tranh thảm khốc là tai họa đương nhiên dẫn-dắt đến cơ tận diệt.
Cho nên lấy sự tận thiện của tinh-thần kềm chế đà
tiến-triển của sự tận mỹ vật-chất tức là giục tấn theo Đạo Trung-Dung, tạo cơ
chuyển thế, lập đời Minh-Đức Tân-Dân, tận thiện và tận mỹ.
Con đường thứ ba Đại-Đạo là con đường nào?
Luận xét theo lời chỉ-dẫn về Phương Luyện Kỷ của
Đức Hộ-Pháp ở trang 2 đoạn trước, chúng ta nhận thấy có mấy điểm căn bản:
"
Bảo thủ cho được cái Tâm, tạo dựng cái Tâm cho nên chí Thánh. Muốn được vậy,
phải tập mình đừng ham muốn các điều chi cho mình nữa, phải quên mình để phụng
sự cho Vạn-Linh, đoạt cho được ba ngàn công-quả. Thương yêu nhơn-sanh và vật
loại hơn mình và coi đồng thể đồng sanh với mình. Nhìn vào hành-tàng và sự
thương yêu của Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu đối cùng Vạn-Linh thế nào, chúng ta tập
theo thế ấy, đó mới chính là phận-sự của mình." Đoạn chót của
Phương Luyện Kỷ có câu:
.............................
Thương
yêu vô tận.
Ấy
là chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Đài tại thế nầy ". Như vậy, có thể nói: Vào
con đường thứ ba là tạo cho được cái Tâm chí Thiện chí Ái để bước vào
Bát-Quái-Đài.
Luận cách khác:
Con người có 3 thể: Xác thân, Chơn-Thần, và
Linh-Hồn. Đó là Tam-Bữu: Tinh, Khí, Thần đối chiếu với Tam-Thể của Đại-Đạo là:
Cữu-Trùng-Đài, Hiệp-Thiên-Đài và Bát- Quái-Đài.
Cữu-Trùng-Đài là hình-thể của Đạo, thuộc Tinh.
Hiệp-Thiên-Đài là Chơn-Thần của Đạo, thuộc Khí.
Bát-Quái-Đài là Linh-Hồn của Đạo, thuộc Thần.
Thể thứ nhứt là Tinh, thể thứ nhì là Khí, thể thứ
ba là Thần. Đi vào con đường thứ ba Đại-Đạo tức là bước vào ngưỡng cửa
Bát-Quái-Đài là nơi Tòa ngự của Đức Chí-Tôn và các Đấng Thần, Thánh, Tiên,
Phật. Vì khi con người đã thực-hành được các điều mục trong Phương Luyện Kỷ là
đắc Đạo tại thế rồi vậy.
Phải biết thân-thích cùng cả nhơn vật tức là tìm nguyên do của Vạn-Linh
cùng Chí-Linh.
Đấng Tạo-Hóa hóa sanh muôn vật, Đấng ấy là Đấng
Chí-Linh tức là Trời.
Đấng Chí-Linh sinh ra Vạn-Linh, do đó mới có muôn
loài vạn-vật từ vật-chất, thảo-mộc, thú-cầm đến loài người là phẩm đứng đầu
khôn ngoan hơn vạn-vật. Thế nên, người và vạn-vật là bạn đồng-sanh, cùng chung
một nguồn cội, con chung của hai Đấng Tạo-Đoan, một Ông Cha và một Bà Mẹ
Thiêng-Liêng là Đức Chí-Tôn và Đức Phật-Mẫu. Như vậy thì dầu cho cỏ cây, sắt đá
đến chí thú-cầm và loài người, thảy thảy đều thọ tánh linh của Tạo-Hóa, nhưng
sở dĩ phải phân ra cấp bậc sang hèn, hình-thức khác nhau là vì người đi trước
kẽ đi sau trong trường thi tấn-hóa của cơ luân chuyển.
Là bạn đồng-sanh, chẳng những chúng ta phải biết
bảo trọng mạng sống cho nhau trong tình nhơn-loại, mà chúng ta phải quí trọng
mạng sống của muôn loài với tình thương vô tận cho hạp tánh đức háo-sanh của
Tạo-Hóa để dìu đỡ nhau trên bước đường tấn-hóa hầu đi tt phẩm tới Đấng
Chí-Linh.
Xin trích lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp ngày 29
tháng 7 Canh-Dần (1950):
"
Con người cũng một phần trong vạn-vật. Đức Chí-Tôn định cho loài người làm chúa
của vạn-vật là tại sao? - Bỡi con người có tánh linh hơn vạn-vật là biết thương
yêu bảo tồn chúng nó, ví như mình thương yêu con gà, con chó mình mới nuôi để
cho nó sanh hóa ra nhiều. Hoặc mình thương cái cây, cái trái mới gieo trồng nó,
vô phân tưới nước cho được sung mãn nảy nở thêm ra, mới xứng đáng làm chúa của
vạn-vật ".
Tóm lại, tất cả muôn loài, cầm-thú, côn-trùng,
thảo-mộc .v.v... cũng như loài người, vốn là bạn đồng-sanh cùng một nguồn-gốc
nơi Đấng Chí-Linh. Chúng ta phải biết thân-thích, tức là gần-gủi thương yêu hơn
là bạc-đãi sát hại một cách vô tâm mà trái với đức háo-sanh của Thượng-Đế.
Phải
ân hậu và khoan hồng
Ân là ơn, Hậu là dày-dặn.
Ân-hậu là thi ân nhiều, làm ơn không biết chán.
Người ân-hậu là người có ân đức rộng lớn, ăn ở có thỉ có chung, trước cũng như
sau không thay dạ đổi lòng. Dầu gặp cảnh giàu hay nghèo, đối xử với người vẫn
giữ một mực, biết trọng nghĩa khinh tài, thi ân bất cầu báo, lưu nhơn tình cùng
tất cả mọi người không bao giờ phai lợt.
Khoan-hồng là lòng rộng lượng, quảng đại, không cố
chấp. Lấy tánh khoáng đạt rộng- rãi đối xử với người, không nhỏ nhen, hẹp hòi.
Ân-hậu và khoan-hồng là hai đức tánh liên quan với
nhau nên đã được ghép chung thành một danh-từ khoan-hậu, là tấm lòng rộng-rãi,
đức-độ dày-dặn.
Một sự tích về lòng khoan-hậu:
Bào-Thúc-Nha
và Quản-Trọng
Bào-Thúc-Nha chết, Quản-Trọng thương tiếc, khóc rất
thảm-thiết, nước mắt ướt dầm cả vạt áo.
Có người hỏi: - Ông với Bào-Thúc không phải là họ
hàng thân-thích gì, mà sao ông khóc quá như vậy?
Quản-Trọng nói: - Ngươi không rõ, để ta nói cho mà
nghe. Ta lúc nhỏ khốn-khổ, thường buôn bán chung với Bào-Thúc. Lúc chia lời bao
giờ ta cũng lấy phần hơn mà Bào-Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh
quẩn bách bất đắc dĩ phải lấy như thế. Ta ở chợ búa thường bị lắm kẽ dọa nạt,
Bào-Thúc không cho ta là nhác, biết ta có bụng bao dung. Ta bàn việc với
Bào-Thúc nhiều khi việc hư hỏng, Bào-Thúc không cho ta là ngu, biết lúc may lúc
rủi cho nên công việc có thành có bại. Ta ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi,
Bào-Thúc không cho là bất lực, biết ta chưa gặp thời. Ta ra trận ba lần đánh
thua cả ba, Bào-Thúc không cho ta là bất tài, biết ta còn mẹ già để
phụng-dưỡng. Ta nhẫn-nhục thờ vua Hoàn-Công, Bào-Thúc không cho ta là vô sĩ,
biết ta có chí làm ích-lợi cho cả thiên-hạ.
Sanh ra ta là cha mẹ, biết ta là Bào-Thúc, ta thương
khóc thế nầy đã thấm vào đâu!
(Rút trong Cổ-Học
Tinh-Hoa)
Trên đời, Bá-Nha và
Tử-Kỳ được người ta gọi là bạn tri-âm. Còn Bào-Thúc-Nha và Quản-Trọng người ta gọi là bạn
tri-kỷ.
Bào-Thúc-Nha ng những là bạn tri-kỷ, còn có thể gọi
là người khoan-hậu đối với Quản-Trọng.
Phải
thanh nhàn, đừng vị-kỷ.
Phải thanh nhàn: Chúng ta phải để tâm hồn được
thảnh-thơi, không nên quá ràng buc mình vào vòng danh-lợi, phải lao tâm nhọc
trí.
Chúng ta sống trong cảnh phồn-hoa vật-chất, thường
chịu ảnh-hưởng của ngoại cảnh thế tình, tâm trí không bao giờ được yên tĩnh do
lục-dục thất-tình khuấy đng. Cho nên muốn được thanh-nhàn cần gt bỏ Tham, Sân,
Si là nguồn-gốc đưa con người đến chỗ ham, mê, thù, giận. Một khi trói buc vào
các tánh ấy thì tâm hồn chúng ta lúc nào cũng bận rn, không thảnh-thơi. Vì thế,
cần hái quhì lòng được cởi mở, thơ-thới ung-dung.
Người thanh-nhàn lúc nào cũng biết an phận thủ
thường, không đứng núi nầy trông núi nọ. Biết " thích kỷ tự an " hoặc " tùng ngộ nhi an " nghĩa là biết an vui với số phận mà "lạc tại kỳ trung".
Một
sự tích " Thích kỷ tự an "
Đức Khổng-Tử đi chơi núi Thái-Sơn, gặp ông
Vinh-Khải-Kỳ ngao du ở ngoài đồng, mặc áo cừu, thắc lưng dây, tay khải đàn cầm,
vừa đi vừa hát.
Đức Khổng-Tử hỏi : " Tiên-sinh làm thế nào mà thường vui-vẻ thế ?
Ông Vinh-Khải-Kỳ nói : "Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất, mà ta được làm người, đó
là một điều đáng vui. Trong loài người, đàn ông quí hơn đàn bà, mà ta được làm
đàn ông, đó là hai điều đáng vui. Người ta sanh ra, có người đui què, có người
non yểu, mà ta khỏe mạnh nay đã chín mươi tuổi, là ba điều đáng vui ...... Còn
cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự hết của đời người. Ta nay ở
phận thủ thường đợi lúc chết thì có gì là lo buồn ".
Đức Khổng-Tử nói: "Phải lắm! Thế là Tiên-Sinh biết cách tự làm cho khoan-khoái mà
hưởng sự vui thú ở đời ".
Cái vui sướng không ở đâu xa, mà ở ngay trong mình.
Không ở sự giàu sang, mà ở trong tâm yên vui. Hễ biết sung-sướng thì được
sung-sướng.
Những bậc Thánh-Nhơn biết " tri túc " nghĩa là biết " đủ với mình " hay nói cách
khác là "không thấy mình túng thiếu hay bị ràng buc bỡi điều chi cả"
thì mới được an-nhàn tự-toại.
Nhà Hiền-Triết Hy-Lạp Epicure có câu:
" Se suffire à soi même c'est posséder le plus précieux des biens : la
Liberté ". Nghĩa là: Tự-túc là có được một thứ của quí nhứt trên đời :
Sự tự-do.
Như vậy, thanh nhàn là " Tự-do
của tâm-hồn ".
Đừng vị-kỷ
Kỷ là Ta, là Bản-ngã ( le Moi ).
Vị-kỷ là chỉ biết có Ta, vì Ta, người như thế hoàn-toàn ích-kỷ ( Égoiste ).
Phản nghĩa với "vị-kỷ"
là "vị-tha" hay là "vô ngã" ( la négation de soi ), nghĩa là không có Ta.
Vì chỉ biết ích-lợi riêng cho mình nên không kể đến người. Vì quá bảo-thủ
cho bản thân mà quên mất sự sống còn của người khác. Do đó, tấm lòng
từ-thiện không nảy-nở được để tế khổn phò nguy, giúp kẽ yếu cô hoạn nạn. Nếu
mỗi cá nhân giữ tánh ích-kỷ đó, thì đời sì đời sscủa thành công, cũng là một
đức-tính cần thiết cho người tu hành nói riêng, cho tất cả mọi người nói chung.
Dầu ai dèm pha chê trách mình điều gì cũng đừng nên
vi giận. Nghe thấy ai khen điều gì cũng chưa nên vi mừng. Không quá vui vì được
phước, mà cũng đừng quá buồn khi gặp tai họa.
Con người có lương-tri, lương-năng tức là có
cảm-giác, nên khi gặp vui cũng vui, gặp buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn
vui ăn sâu vào tâm tánh, làm mất sự bình tĩnh tự nhiên thành ra tâm ý xao động,
không còn đủ sáng-suốt để nhận định mọi việc.
Có bình tĩnh mới giữ được tánh không không, lục-dục
thất-tình không chi phối mình được, linh tâm mới mẫn huệ cách-vật, trí-tri.
(Trường hợp Đức Khổng-Tử bị tuyệt lương ở Trần,
Thái - Ngài vẫn vui-vẻ khải đờn. Tôn-Trung-Sơn ở Luân-Đôn nhận được điện-tín
mời về nước để nhận chức Tổng-Thống lâm thời, Tiên-Sinh vẫn thản nhiên như
không có việc đó).
Phải
độ lượng, khoan-dung và tha-thứ.
Độ-lượng là đo lường, xử sự có chừng mực : không
thái quá, không bất cập.
Phàm muốn giải-quyết một vấn-đề gì hay làm một điều
gì cần cân nhắc kỹ-lưỡng. Phê phán người lầm lỗi phải nắm vững tình lý, hoàn
cảnh, thời gian, xét trước xem sau để nhận-định cho công-minh.
Người độ-lượng làm việc gì cũng đắn-đo, nói ra lời
gì cũng suy nghĩ trước, không vui đâu chúc đó, không thương ai nên tốt, ghét ai
nên xấu.
"
Thương ai thương cả lối đi,
Ghét
ai ghét cả tông chi họ hàng ".
Vua nước Vệ, buổi trước rất yêu Di-Tử-Hà. Luật-pháp
nước Vệ, ai đi trm xe của vua thì phải tội chặt chân. Mẹ Di-Tử-Hà đau nặng, đêm
khuya có người đến gọi, Di-Tử-Hà vi-vàng lấy xe vua ra đi, vua nghe thấy khen rằng:
- "Có
hiếu thật! Vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội chặt chân."
Lại một hôm, Di-Tử-Hà theo vua đi chơi ở ngoài
vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt, còn một nửa cho vua ăn. Vua nói: "Yêu ta thật, của đang ngon miệng mà
biết để nhường ta."
Về sau, vua không có lòng yêu Di-Tử-Hà như trước
nữa. Một hôm, Di-Tử-Hà phạm lỗi, vua giận nói rằng: "Di-Tử-Hà trước dám tự tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho
ta ăn quả đào thừa, thật đáng tội với ta đã lâu ngày". Nói xong bắt
đem ra trị tội.
Ôi! Di-Tử-Hà ăn ở với vua trước sau cũng vậy, thế
mà trước vua khen, sau vua bắt tội là chỉ tại khi yêu khi ghét khác nhau mà
thôi. Cho nên:
"Thương
nhau cau bảy bổ ba,
Ghét
nhau cau bảy bổ ra làm mười."
Người có độ lượng thì không xử sự như vua nước Vệ
bao giờ.
Khoan-dung
và tha-thứ là rộng lượng bao dung, hay tha-thứ những điều sai sót lỗi lầm của người
khác đối với mình để cho người có phương giác ng, tự-tĩnh ăn-năn từ việc quấy
trở về với lẽ phải. Người có tánh khoan-dung thì hay tha-thứ vì họ quan-niệm
rằng: Nhơn vô thập toàn. Ở đời không ai sanh ra được toàn thiện, nghĩa là tự
mình kiểm-điểm cũng phải có sơ-sót, vì vậy mà không cố chấp người.
Đó là nói về bậc thường. Còn các bậc Thánh-Nhân,
đức khoan-dung dày-dặn hơn nhiều vì các bậc ấy đầy lòng ái-truất thương sanh,
nặng về giáo-hóa hơn là trừng-trị.
Thuở xưa có ông Lưu-Khoan là một vị quan có tấm
lòng khoan-dung độ-lượng. Buổi sáng, khi mặc áo đi chầu vua, có con thị-tỳ bưng
bát cháo lên hầu, chẳng may làm đổ cháo dính áo. Con thị-tỳ run sợ quá, lấy tay
vuốt áo, nhưng Ông Lưu-Khoan thản nhiên không đổi sắc mặt, còn ôn-tồn hỏi rằng:
- "Cháo
nóng có phỏng tay con không?"
Đó là một tấm lòng khoan-dung đại-lượng, chẳng
những không quở phạt mà còn thương xót kẻ hầu hạ, phát xuất nơi lòng " nhân " mà ra vậy.
Phải
vui-vẻ, điều-hòa, tự-chủ và quyết đoán
Có vui-vẻ thì tâm hồn mới được thơ-thới, có vui-vẻ
mới cởi mở được cỏi lòng vốn hay bực dọc do sự phiền toái hằng ngày. Có vui-vẻ
mới tạo ra bầu không khí khoan-khoái dễ chịu cho riêng mình và cho tất cả mọi
người xung quanh mình. Sự vui-vẻ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, chẳng khác
nào thuốc bổ hổ-trợ con người được tươi-tắn, chậm già trước tuổi và nảy nở
nhiều tánh-đức tốt để thâu phục được cảm-tình của người khác.
Điều-hòa là êm-ái, hòa-thuận. Điều-hòa là
tượng-trưng trật-tự chung trong trời đất (loi d'harmonie), và đạo Trung-dung
của loài người.
Vũ-trụ
có điều-hòa thì càn-khôn mới an tịnh.
Âm-dương
có điều-hòa thì vạn-vật mới được sanh sanh hóa hóa.
Xã-hi
có điều-hòa thì dân chúng mới hưởng sự thanh-bình.
Gia-đình
có điều-hòa thì mọi người mới an vui hạnh-phúc.
Lễ-nhạc
có điều-hòa thì mới có tiết-tấu âm thanh.
Thân-thể
con người có điều-hòa thì máu huyết mới lưu thông, khỏe mạnh.
Tâm-trí
có điều-hòa thì con người mới sáng-suốt.
Trái
với sự điều-hòa là hổn loạn, không trật-tự.
Người luyện-kỷ cần giữ tâm tánh điều-hòa, tức giữ
được cái đạo Trung-dung thì linh- tâm mới thuần nhất mà soi sáng lòng mình hầu
dìu độ đến chỗ tận thiện tận mỹ.
Tự-chủ là tự mình làm
chủ lấy mình không để bị lôi cuốn bởi ngoại vật, ngoại cảnh. Không để ai lợi
dụng sai khiến mình làm việc trái với lương-tâm, trái với lẽ Đạo.
Quyết-đoán: Khi mọi việc
được suy nghĩ tinh-tường, kỹ-lưỡng phù hợp với chánh lý, tức là đã phán-đoán
công-minh rồi nhất định đem ra thực-hành.
Quyết-đoán là cương-quyết,
dứt khoát, không lưng chừng, là yếu-tố đoạt đến mức thành công trong mọi việc.
Giữ
linh-tâm làm căn bổn
Linh-tâm là điểm linh-quang của Đức Chí-Tôn ban cho
mỗi người để làm chủ cả trí-lự và thể-xác.
Linh-tâm là ánh huệ-quang dẫn bước con người trên
đường ngay lẽ phải để lập công đoạt vị.
Đã gọi Linh-tâm là chủ của con người thì mọi việc
chi cũng do Linh-tâm làm căn bổn. Thuận với Linh-tâm là thuận theo Thiên-lý thì
muôn việc đều nên. Nghịch với Linh-tâm tức là xu-hướng theo phàm tánh thì mọi
việc đều sai siển, lỗi lầm.
Muốn giữ được cái tâm cho còn bổn nguyên chí linh,
chí Thánh, thì đừng để lục-dục thất-tình lấn áp, làm mờ tối cái ánh sáng
thiêng-liêng đó, tức là dọn mình cho trong sạch mới thấy được cái Tâm là nơi
cảm ứng với các Đấng Trọn-Lành và cũng là Tòa ngự của Đức Chí-Tôn nơi lòng mình
đó vậy.
Đức Chí-Tôn có cho bài thi :
Bạch-Ngọc
từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng
cần hạ giới vọng cao ngôi.
Sang hèn trối kệ Tâm là quí,
Tâm ấy Tòa Sen của Lão ngồi.
Và trong "Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyể
" quyển 2 có bài thi:
Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,
Đạo Đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đặng đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn
biển,
Tâm hòa thiên-hạ trị
muôn năm.
Đường Tâm cửa Thánh dầu
chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Đạo tầm.
Hiếu
hạnh với Chí-Tôn và Phật-Mẫu
Công-đức sinh thành dưỡng-dục của Cha Mẹ hữu-hình
lớn lao bao nhiêu cũng không sánh bằng công-đức của hai Đấng Tạo-Đoan là Ông
Cha, Bà Mẹ Thiêng-Liêng tối cao tối trọng hơn nhiều.
Cha Mẹ hữu-hình ban cho chúng ta một mãnh thân phàm
xác thịt, thì hai Đấng Phụ-Mẫu Thiêng-Liêng ban cho chúng ta nhứt điểm linh và
một khối Chơn-Thần để làm chủ xác thân ta.
Muốn đền đáp công ơn đó, chúng ta phải hiếu-hạnh.
Hiếu-hạnh với Phụ-Mẫu hữu-hình là sớm thăm tối
viếng, vâng lời chìu lụy, ân cần dưỡng nuôi, tạo danh thơm tiếng tốt, làm đẹp
mặt nở mày Tông-môn Tổ-đường thì đối với Phụ-Mẫu Thiêng-Liêng chúng ta cũng
phải:
Thường xuyên cúng kính, lễ bái thường hành hôm sớm
( nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bày m khang ) cho hằng bữa tâm hồn được gần-gũi ân
điển Thiêng-Liêng, gt rửa chất phàm, giải tiêu oan-nghiệc, tinh-thần trí não
được sáng-suốt để thể Thiên hành Đạo cho đúng với Luật-Pháp Chơn-Truyền. Nghe
và làm theo Thánh-Ngôn các Đấng Thiêng-Liêng, Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu tức là
biết vâng lời phục vụ. Giữ tròn câu minh thệ, xả thân vì Đạo đem hết năng lực
phụng-sự cho Vạn-Linh làm rạng danh Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu tức là báo hiếu đó
vậy.
* * *
Phương-pháp trị tâm
vì tâm là hình ảnh Thiên-Lương
Định-nghĩa
chữ tâm và phép trị tâm theo Nho-Giáo
Trong Nho-Giáo có định-nghĩa: Tâm không phải là cục
máu thịt, không phải quả tim nằm trong lồng ngực của chúng ta. Tâm ở phạm-vi
tinh-thần, chỗ nào có trí-giác tức là Tâm, như tai mắt biết nghe biết thấy,
chân tay biết đau biết ngứa. Sự biết đó là Tâm vậy.
Hiểu rộng thêm, Tâm là một khối Ngươn-Linh của Đức
Thượng-Đế ban cho, vốn trọn lành, nắm phần chủ-tể trong con người. Từ bậc Thánh
đến thường dân, từ hạng ngôi cao lc cả đến hạng khố rách áo ôm, ai cũng có một
cái Tâm ấy mà thôi. Nhưng tại sao cái Tâm tự Trời phú bẩm như nhau, mà người
nầy làm việc Thiện, kẽ kia làm việc Ác ?
Bỡi tại cái Tâm của kẻ làm ác bỏ mất bản-thể.
Bản-thể của Tâm vốn tốt lành trong sạch, nhưng tại người ta đem nhồi bao nhiêu
nhơn-dục thấp hèn nhơ bợn xen vào mà che lấp cả Thiên-lý mới hóa ra ác. Cũng
như đám mây mù che lấp mặt trời mất sáng vậy. Bỡi cớ, cần phải trị cái ác của
Tâm để Tâm trở về Thiên-Lương là cái tánh thiện của Trời phú cho.
Luận về Thiện và Ác của Tâm, Nho-Giáo phân tách :
"
Tâm bao gồm cả Tánh và Tình. Làm chủ thân mình là Tâm, phú bẩm cho mình là
Tánh. Tánh biến ra Tình." Tánh Thiên-Lý tự Trời phú cho, tánh đó vốn lành.
Tánh khí-chất tự người ta tiếp xúc vật-dục mà có,
cái Tánh ấy thường làm điều chẳng lành.
Tình chia làm 7: Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét
và muốn. Nhà Phật gọi là thất-tình của con người.
Phép chế-ngự thất-tình là cần đè sự giận, nén lòng
dục. Nóng giận thì mất cả trí khôn không còn biết phân biệt lẽ phải, vậy trong
cơn giận cần tập tánh ung-dung, điều-hòa để đối phó mọi việc xảy đến cho mình.
Còn đè nén lòng dục thì lòng đừng suy nghĩ sự gì xấu xa nhơ bợn, nghĩa là bỏ
được ác niệm, thì thiện niệm tự nhiên đến, lẽ phải phát hiện ra.
Định-nghĩa
chữ Tâm theo Tân-Pháp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
Đoạn trước, Nho-Giáo đã giải-thích : Tâm sanh Tánh,
Tánh sanh Tình, cho nên mới có câu : Tánh tự Tâm sanh, và triết-học của
Nho-Giáo là: " Tồn Tâm dưỡng
Tánh".
Ngày nay, Đức Chí-Tôn đến khai Đạo, chữ Tâm được
giải rõ hơn và được phân tách như sau, trong bài Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp:
"
Nhà Nho nói : Tánh tự Tâm sanh, đó là lý-thuyết của Đạo Nho. Chỉ biết có một
điều là ta quan-sát cơ thể thấy hiện tượng mà tỏa trạng hình được vì Đạo Nho
chưa phải là một Tôn-Giáo huyền-bí. Còn Đức Chí-Tôn đến dạy ta biết rằng Tánh
là chơn tướng của Chơn-Thần, còn Tâm là chơn tướng của Chơn-Linh. Chí-Tôn dạy:
Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta, hình thể thứ nhứt là Tâm tức
là Chơn-Linh, thứ nhì là Tánh tức là Chơn-Thần, thứ ba là xác-phàm thú chất
nầy. Chí-Tôn hỏi : Tại sao từ trước đến giờ theo triết-lý Đạo Nho lấy nghĩa
" Tánh tự Tâm sanh " mà tả ra ? - Bỡi vì nó có liên-quan mật thiết cùng
nhau, trong Tâm mình như thế nào là xuất Tánh ra y như vậy.
Nhà Nho lấy hiện-tượng mà đặt tên, còn Chí-Tôn chỉ
rõ cho biết: " Chơn-Thần cũng tấn bộ
như Chơn-Linh. Mỗi cá-nhân đều có hai năng-lực ấy có đủ quyền-năng đào tạo ra
hình hài xác thịt của ta. Một Chơn-Linh cao trọng tự nhiên có một Chơn-Thần cao
trọng, bỡi cả hai đi đôi, đồng đường với nhau, cả hai có liên-quan mật thiết,
cùng tấn triển trong con đường Thánh-Đức của Chí-Tôn.
Vì
không có tên nên Nho-Giáo mới đặt linh-thể ấy là Tâm, lấy Tâm đặt tên chơn thể,
chữ Tâm ấy do tướng hình Thiên-Lương vi bổn."
Như vậy, chữ Tâm của Nho-Giáo đã thống hiệp cả
Chơn-Linh và Chơn-Thần làm một, cho nên chữ Tâm của Nho-Giáo gồm có Thiện và
Ác, vì Tâm sanh Tánh, Tánh sanh Tình.
Thầy Mạnh-Tử chủ-trương thuyết " Tính Thiện " lấy câu " Thiên-mạng chi vị Tánh" làm căn-bản, nghĩa là cái
bãn-tánh của Trời phú cho là Thiện. Ta sở dĩ làm điều bất thiện là bỡi ta để
vật-dục lấn át, làm mờ tối cái tánh ấy.
Thầy Tuân-Tử lại chủ-trương thuyết " Tính Ác " chủ ở sự " Kiểu Tính" nghĩa là cái tính
của người ta là Ác, ta phải tìm cách mà uốn nắn cái tính cho hợp Đạo để làm
điều Thiện.
Trong một cái học của Nho-Giáo mà thành ra hai
thuyết tương-phản nhau, tuy vậy phương-pháp giáo-dục cũng tương tợ nhau. Cả hai
đều có quan-niệm riêng về Thiện và Ác tùy theo sự nhận thức của mình, và rốt
lại cho ta thấy Tâm vẫn là nơi chứa cà tính Thiện và tính Ác, cho nên quan-niệm
Thiện và Ác của Nho-Giáo vẫn lẫn-ln và tương phân.
Còn theo Tân-Pháp của Đại-Đạo thì Tâm là chơn-tướng
của Chơn-Linh, là khối Ngươn-Linh của Đức Chí-Tôn vốn trọn lành và hoàn-toàn
sáng-suốt. Chơn-Linh đến loài người để chế-ngự Chơn-Thần là nơi phát sanh ra
Tánh. Nếu Chơn-Thần được định tĩnh, trong sạch, sẽ tiếp được điển của Chơn-Linh
nơi Nê-hườn-cung mà khai Huyền-quang-khiếu, tức là đoạt huệ hay đắc Đạo.
Vậy Chơn-Linh là linh-thể bất nhiểm và chí thiện.
Tánh là chơn-tướng của Chơn-Thần, thuộc thể thứ nhì
của con người do Đức Phật-Mẫu ban cho. Chơn-Thần cũng sáng-suốt như Chơn-Linh,
nhưng vì gần-gũi với thể xác và lấy y khuôn rập của xác thân nên Chơn-Thần,
thay vì làm chủ lục-dục thất-tình, lại hay nuông chìu và nhiểm theo phàm-tánh
của xác thân mà sanh ra những tánh ác, bỏ mất tánh thiện.
Phương-pháp trị tâm là dứt bỏ được cái phàm-tánh
triêm nhiểm trong Chơn-Thần, trở lại bổn nguyên chí Thánh của Thiên-Lương, tức
thị Chơn-Thần hòa-hiệp với Chơn-Linh mà đoạt cơ siêu-thoát.
Phương-pháp
trị Tâm theo Phương Luyện-Kỷ của Đức Hộ-Pháp :
Đức-tin
và khôn ngoan là kho chí bữu,
ngoài
ra là của bỏ, là đồ vô giá
Trong các đức tánh, chỉ có đức-tin và sự khôn ngoan
mới là kho tàng quí báu.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu thế nào là đức-tin.
Đức-tin là một sức mạnh vô hình do tư-tưởng tập
trung hướng vào một mục-đích, một chủ-nghĩa, một cảnh giới vô hình để đoạt một
kết-quả, một chân-lý siêu việt. Đối với Đạo-Giáo, có một đức-tin mới có
cảm-ứng, có sự cảm thông giữa các Đấng Vô Hình và loài người. Vì Thượng-Đế là
Chí-Linh, chúng sanh là Vạn-Linh, nhờ Đức-tin hay Tín-ngưỡng mà Vạn-Linh hiệp
được Chí-Linh. Cho nên, có câu: "
Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên Địa tất giai tri."
Trong buổi Thuyết Đạo tại Đền Thánh ( 15/7/1952 ),
Đức Hộ-Pháp có định-nghĩa danh-từ Tín-ngưỡng và hình-thức Đức-tin như sau:
" Tín-ngưỡng: Tín là tin, ngưỡng là cậy. Tín-ngưỡng tức là tin cậy theo nghĩa
thông thường tiếng Việt từ xưa đến giờ. Ngày xưa, thời gian phong-kiến, danh-từ
Tín-ngưỡng có nghĩa là tin cậy với sự thành kính một Đấng Đế-Vương, hào-kiệt
nào."
Đối với Đạo-Giáo, ý-nghĩa càng thêm cao trọng,
người ta cho nó là cái Đức, gọi là "
Đức-Tin ". Con người cần có Đức-tin, nếu không, chưa hề làm xong
bổn-phận con người. Đức-tin có hai hình-thức: Tha-tín và Tự-tín.
Tha-tín là mình tin nơi người, dầu người có định
hướng nào buc mình phải tin. Còn Tự-tín là ta biết lấy ta, hiểu sở-năng và tin
cậy lấy ta.
Các vị Giáo-Chủ như Đức Thích-Ca, Đức Lão-Tử, Đức
Chúa Jésus Christ, Đức Khổng-Tử dùng tự-tín là đem giáo-lý của mình hiệp với
tha-tín là giáo-lý và phương-pháp của các vị có trước như: "Đức Brahma, Civa, Krishna, Đức Hồng-Quân Lão-Tổ, Thánh Moise mà
truyền giáo."
Ngoài ra, Đức Hộ-Pháp còn phân ra 3 loại Đức-Tin :
1/ Thiên-căn Đức-Tin,
2/ Sám-hối Đức-Tin,
3/ Cầu lợi Đức-Tin.
Thiên-căn
Đức-Tin : là những bậc Nguyên-nhân trọn giữ tánh chất lương-tri, lương-năng vẫn
còn tự nhiên, làm điều gì cũng có đủ Đức-Tin nơi Chí-Tôn là Chủ-Tể trong Càn-khôn
Thế-giới và biết kiên sợ luật-pháp công-bình của Tòa Chánh-trị Thiêng-Liêng đủ
quyền-năng thưởng phạt, cho nên mọi sự hành-trình bao giờ cũng noi theo đường
Thiên-lý thì tự nhiên có các Đấng ám trợ.
Sám-hối
Đức-Tin : là những người không biết tin tưởng Trời, Phật, đến khi lâm nạn mới cầu
khẩn sùng bái, nguyện vái đủ điều may đặng tai qua nạn khỏi thì từ ấy khư khư
vẹn giữ Đức-Tin với Thần, Thánh, Tiên, Phật, biết cải ác tùng lương. Ấy là
Sám-hối Đức-Tin.
Cầu-lợi
Đức-Tin : là những người khẩn cầu về sự làm ăn mua bán, hoặc là cầu nguyện đi cờ
bạc, có đôi khi gặp lúc may đắc lợi thì cũng có Đức-Tin với Thần, Thánh, thường
hay sắm lễ vật cúng kiến luôn. Đến khi thời suy vận bỉ, mọi việc làm thất bại,
thì tự nhiên mất hẳn Đức-Tin, mà còn thốt ra nhiều lời vô độ, phi lễ tổn đức.
Ấy là cầu lợi Đức-Tin, không khi nào bền vững.
Sám-hối Đức-Tin cũng khá, mà chưa bằng Thiên-căn
Đức-Tin thì muôn điều không sai một.
Nếu toàn cả nhơn-sanh mà có đủ Đức-Tin với Đạo
Cao-Đài là một cơ-quan Cứu-Thế, làm khuôn mẫu cho sự hòa-bình thế-giới thì
chúng-sanh không có chịu thống-khổ như ngày nay, mà lại còn chung hưởng hồng-ân
chan rưới.
Vì đức-tin là quí báu, nên trong Kinh Thánh Gia-Tô,
Đức Chúa Jésus Christ khuyên các môn-đồ cần giữ đức-tin. Có đức-tin thì mọi tội
lỗi được cứu rỗi, nhờ có đức-tin mà buổi ấy người què được đi, người điếc được
nghe, người mù được thấy, người chết được sống lại. Đức Chúa Jésus Christ từng
nói với các Sứ-đồ : " Nếu các người
có đức-tin bằng hột cải, sẽ bảo cây sung nầy rằng : Hãy nhổ lên mà trồng xuống
biển, thì nó chắc vâng lời các ngươi ". ( Kinh-Thánh Tân-Ước )
Đức Hộ-Pháp thường dạy: "Nếu chúng ta có đức-tin bằng hột mè, cũng có thể dời non lấp bể
được".
Đức-Tin chỉ bằng hột mè, hột cải mà có năng-lực
dường đó, nếu chúng ta có đức-tin mạnh-mẽ phi-thương thì năng-lực sẽ tăng lên
đến bực nào!
Đã biết năng-lực vô biên của đức-tin là thế nào
rồi, nhưng chúng ta cũng phải chọn đức-tin nào chánh đáng, phù hợp với chơn-lý
Đạo mới là chánh-tín. Nếu không sẽ là mê-tín, cuồng-tín, không còn hạp với
thiên-lý nữa, có thể bị dẫn-dắt vào Tả-Đạo, Bàn-Môn.
Sự
khôn ngoan là vật báu của con người. Nhờ có khôn ngoan mà người được đứng đầu vạn-vật
và tiến-hóa mãi trên đường Đạo cũng như đường Đời, trên phương-diện đạo-đức
tinh-thần cũng như trên phương-diện văn-minh vật-chất.
Nhưng nếu khôn ngoan nào nương theo Thiên-Lương,
hướng-dẫn con người vào đường chí thiện chí mỹ, đó là sự khôn ngoan đạo-đức.
Nhờ sự khôn ngoan nầy mà con người phân biệt được lẽ giả điều chơn, biết thiệt
mà tìm, biết hư mà tránh, biết thiện mà theo, biết ác mà chừa.
Còn nếu nương theo dục vọng thế tình phàm tánh, thì
sự khôn ngoan đó là khôn ngoan xảo quyệt đưa đến việc mua danh chác lợi, cướp
thế lấn quyền, giàu hiếp nghèo, trí hiếp ngu, mạnh đặng yếu thua khôn còn dại
mất.
Người khôn ngoan đạo-đức hay âm thầm làm việc
thiện, xả thân giúp ích cho đời. Còn người khôn ngoan xảo quyệt hay dùng mưu
gian trí xảo giành phần lợi ích riêng cho mình, ích-kỷ hại nhơn gây oan tạo
nghiệt. Người tu hành không phải thiếu sự khôn ngoan thường tình đó, nhưng tâm
linh của họ không muốn xử dụng sự khôn ngoan trái với đạo-đức nhơn-nghĩa để dối
thế hại đời.
Khôn ngoan tài tình như Hàn-Tín là khôn ngoan vì
danh vì lợi, rốt cuộc mang cái thảm họa: chịu chết vì danh vì lợi.
Khôn như Tào-Tháo, người ta gọi là gian ngoan, gian
hùng, chủ trương: Thà mình phụ người chớ không để người phụ mình, cho nên đời
sau phê-bình là " đại gian đại
ác".
Khôn như Phạm-Lải, Trương-Lương, không màng
danh-lợi, biết tùy thời tùy thế, công thành thân thối, xa vòng tục lụy mà ngao
du cùng sơn thủy, rốt cuộc tránh được cái vạ: " Đặng chim bẻ ná, đặng cá quên nôm của Việt-Vương Câu-Tiển và của
Hớn Bái-Công."
Chỉ có khôn ngoan của người mẫn thế, siêu phàm mới
thiệt là khôn, là "tri-thức",
dụng trực-giác của tâm linh (1) hoán thông mọi việc, biết đời là trò mộng ảo,
giả tạm, hữu-hình hữu hoại, đem hết năng lực phụng sự cho Vạn-Linh, tìm cái
sống thiệt và trường tồn nơi cõi Thiêng-Liêng hằng sống.
Ấy vậy, đức-tin và sự khôn ngoan có liên-quan với
nhau. Khôn ngoan hỗ trợ cho đức-tin hướng về chánh-tín, đức-tin giúp sự khôn
ngoan đi đến cái tt cùng của mẫn-huệ.
Cho nên: Đức-tin và khôn ngoan là kho tàng vô giá
vậy.
* * *
(1) Trực-giác: là cái biết của Tâm, không cần suy
lý, kinh-nghiệm, hễ gặp là biết phân biệt liền. Dùng lý-trí thường bị sai lầm,
chớ dùng trực-giác của linh-tâm thì không sai lầm được. Tuy vậy, cũng phải lấy
lý-trí phối kiểm trực-giác, vì trong lúc tâm hồn chưa định tĩnh, trực-giác cũng
có thể bị suy siển vì bị vật-dục xen vào. Trực-giác để biết, lý-trí để kiểm-soát
( Nho-Giáo ).
* * *
Ai
đã cố oán kẻ thù của mình thì khó giữ thanh tâm công chánh cho đặng
Cố oán ai là khư khư giữ sự hờn giận nơi lòng đối
với người không làm vừa ý mình hoặc ám hại mình bất cứ dưới hình-thức nào.
Ở đời, ai ai cũng có tánh tốt, tật xấu, nếu ai xử
dụng tánh tốt đối với mình thì mình cho là bạn là thân với mình, ngược lại, ai
lấy tánh xấu để hại mình thì mình cho là thù.
Bạn thì thương yêu, thù thì oán ghét.
Thương thì chuyện gì dầu trái ý cũng bỏ được, ghét
thì chuyện ít cũng xít ra nhiều. Khi ta ghét một người nào, thì luôn luôn ta
thấy toàn cái xấu của người đó, dầu cho người đó có bao nhiêu cái tốt ta cũng
phủ nhận hoặc cố tình quên đi. Do đó, tâm trí ta bị ám ảnh mãi mãi, chực tìm
cách trả thù báo oán cho thỏa tánh giận ghét của ta. Ở trường-hợp đó, đối với
người mình thù ghét luôn luôn ta phán-đoán sai lầm vì đã phiến diện nhận xét,
nghĩa là chỉ thấy cái khuyết-điểm mà quên mất cái ưu-điểm của người.
Cho nên, ai cố oán kẻ thù thì khó giữ được tâm tánh
thản nhiên và vô-tư. Tâm đã không vô-tư tức là thiên lệch thì làm thế nào giữ
nét công-minh, chơn-chánh đối với người cho được.
Ai chẳng oán hận mới thắng đặng kẻ thù nghịch cùng
mình
Trên kia chúng ta đã quan-niệm thế nào là bạn, thế
nào là thù, và muốn giữ được thanh tâm công-chánh đối với kẻ thù chỉ có một
cách là không cố tâm oán ghét họ. Và muốn thắng được họ cũng chỉ áp dụng
phương-pháp duy nhứt là không nuôi oán hận. Thắng kẻ thù nghịch cùng mình không
phải bằng cách tiêu diệt hay hạ kẻ thù, mà thắng ở đây là thuyết phục bằng cách
cảm hóa lòng người.
Kẻ thù nghịch có thể nói là kẻ có ác ý mưu hại mình
vì ích-kỷ, đố-kỵ, ganh-ghét v.v... hay vì một sơ-xuất nào đó của mình làm cho
họ ng nhận mà sanh ra gây gổ oán thù. Gặp trường-hợp đó, nếu thiếu kiên nhẫn,
ta cũng đố-kỵ, ganh-ghét trả đủa, tức là lấy phàm tánh của mình đối lại phàm
tánh của người thì không bao giờ chấm dứt một tình-trạng căng-thẳng, chống đối
nhau có thể đưa tới sự xung đt, hoặc án mạng.
Vậy oán hận kẻ thù thì ta không khác chi họ. Trái
lại, ta vẫn giữ tánh ôn-hòa, cao thượng quân-tử, không cưu tâm oán hận, bình
thản như không việc gì xảy ra, giữ tâm không không thì dầu kẻ thù có oán giận
bao nhiêu, sớm mun gì cũng suy nghĩ lại tự thấy mình vô lý, và lần hồi mối thù
sẽ phai lợt, tiêu tan.
Chẳng những không cố oán kẻ thù, Đức Hộ-Pháp còn
khuyên chúng ta nên thương kẻ thù theo châm-ngôn sau đây:
- Chúng ta thương yêu bà con thân tc là kiếm xu và
bạc cắc mà thôi.
- Còn thương rộng ra nhơn quần xã-hi, đồng chủng
quốc-dân, thì chúng ta kiếm bạc đồng và bạc chục.
- Nếu thương yêu cho được kẻ thù của mình tức là
kiếm bạc trăm, vàng khối đó vậy.
Sự
cừu hận là khối thảm khổ đệ nhứt của nhơn-sanh, nên người hiền thì không biết
đến hay là từ bỏ cừu hận oán ghét
Oán giận nảy sanh căm thù. Căm thù đưa đẩy con
người đến chỗ tương-tàn tương-sát, gây nên trường thảm khổ và tội lỗi.
Sự cừu hận là mầm mống gây oan tạo nghiệt, luân hồi
chuyển kiếp vay trả không ngừng, lẫn-quẩn trong vòng sanh tử biết bao giờ
giải-thoát kiếp trần là chốn phiền não ưu sầu nầy.
Người học Đạo, hành Đạo, tu luyện nên bậc chí Thánh
chí Hiền thì không oán ghét thù hận ai cả. Không từ bỏ cừu hận thì tâm trí mãi
buộc ràng bỡi mưu sâu kế đc tàn hại lẫn nhau, khối thiên-lương vì đó mà bị che
mờ tâm tối.
Từ bỏ được sự cừu hận, oán ghét thì tánh tình
vui-vẻ điều-hòa, lương-tâm bình thản, thanh khiết mới cảm ứng với các Đấng
Trọn-Lành, lý-trí được sáng-suốt mà thực thi điều đạo-đức nhân-nghĩa giúp đời
tệ hóa ra hay và linh-hồn mình cũng được tiêu-diêu thoát tục.
Ngày xưa, Giáo-chủ Mahômet bị một người hành hung
làm cho Ông đổ máu ở trán, Ông bình tĩnh nói kẻ ấy rằng : "Sự tha-thứ bao giờ cũng đẹp hơn trả thù".
Câu chuyện: * "Người
chết còn báo oán"
Vào khoảng cuối năm 1886, tại đường Sainte
Marcelle, bây giờ là đường Sergent Blandan (Pháp-Quốc), có một người đàn bà bị
nhốt đã 15 năm rồi vì bịnh điên. Bà bị nhốt như vậy đã nhiều lần tại nhiều nhà
nuôi bịnh nhưng không mạnh được. Người trong thân của bà mới tính cầu cứu nơi
phép Thần-Linh.
Lúc đó có ông Bouvier thường hay thông công với các
Đấng Thần-Linh và nhờ đồng cốt của tên Isidore. Ông mới lập đàn cầu hỏi thì
được biết rằng người đàn bà ấy bị một vong hồn theo trả thù. Muốn cho bịnh đặng
mạnh thì ông Bouvier phải ra công khuyến thiện cái vong hồn đó cho nó hiểu biết
Luật nhơn-quả, bỏ cựu thù mà chặt đứt dây oan oan tương báo đi, như vậy sẽ làm
một công mà được hai việc là: " Cứu
người bịnh đang sống, và thức tỉnh vong hồn kẽ đã chết".
Nghe theo lời Thần-Linh, ông mới triệu hồn người nhập
xác điên đó về, thì vong hồn ấy về nói như vầy:
"
Trong một kiếp trước kia, tôi là một người con trai nước Nga, sanh trong nhà
Hoàng-tộc, tôi có hai người chị. Hai chị tôi muốn đoạt trọn gia tài nên kiếm
chuyện hại tôi cho bị giam cầm mà chết trong khám. Chết rồi tôi nguyện trả thù
cho đặng mới nghe. Kiếp rồi Thượng-Đế cho chúng tôi trở lại cõi trần trong một
gia-đình, một đàng là chị dâu, một đàng là em chồng. Chị em ở chung một nhà, mà
chẳng biết tại sao tôi lại ghét chị dâu tôi quá lẽ, ghét cho đến ngày tôi từ
trần. Sau nầy, tôi mới hiểu rõ chị dâu của tôi đó là chị rut của tôi kiếp
trước. Biết vậy nên tôi theo hoài mà báo thù, vì khi xưa chị tôi đã làm cho tôi
chết trong chỗ giam cầm, thì tôi cũng làm cho chị phải chết trong nhà giam như
vậy. Nhưng hôm nay, nhờ ông tế-độ, dạy tôi phải biết Luật Quả-báo, Luân-hồi.
Nếu cứ trả oán như vậy đã không có ích gì cho phần linh-hồn của tôi mà lại gây
ra sự trả vay chẳng dứt. Vậy tôi cám ơn ông và xin vâng theo lời ông chỉ dạy và
tôi cũng xin lỗi chị tôi. " Chị ôi!
Xin chị tha-thứ cho em đã lỗi lầm, làm cho chị 15 năm trời không an phần xác
..."
Nói rồi đồng-tử lại gần bà B. là người điên, mà ôm
bà, rồi hai người khóc òa như mưa, làm cho ai nấy động lòng cũng tuôn rơi nước
mắt.
Liền hồi đó, bà B. hết điên và sống khỏe mạnh cho
đến năm được 72 tuổi mới chết. (Chuyện nầy ai cũng biết là bà B. phát điên từ
khi em chồng bà chết, và khi còn sống người em chồng ghét bà lắm!)
Trong Phương Luyện-Kỷ có câu: " Sự cừu hận là khối thảm khổ đệ nhứt của nhơn-sanh, nên người hiền
thì không biết đến, hay là từ bỏ cừu hận oán ghét", và sách có câu: "Oan gia nghi giải bất nghi kết". Nghĩa
là: "Nên cỡi mở sự thù oán chớ không
nên buộc chặc".
Thắng
đặng khí nộ mình thì không chọc ai giận dữ
Khí nộ là sự nóng giận, một đặc tính trong 7 tình:
Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, -, Dục. Vì sự nóng giận hay bộc phát nên người ta ví như
ngọn lửa lòng, khi phát cháy làm mờ ám tâm trí mình mà còn cháy lây qua người
khác, nghĩa là chọc người khác cũng giận như mình.
Người ta thường nói: " No mất ngon, giận mất khôn ". Khi con người nổi cơn nộ
khí thì tâm trí bị kích-thích giao động đến mất bình tĩnh, không còn khôn ngoan
sáng-suốt nhận định lẽ phải trái, lời nói thốt ra trong lúc giận không còn đếm
xỉa đến ai, cho nên cộc-cằn thô-lỗ, thất lễ với mọi người chung quanh, chạm
tự-ái kẽ khác, kích-thích cho người phát cơn giận dữ, cải vả đến xô-xát nhau
làm mất vẻ đạo-đức ôn-hòa.
Vì vậy, khi gặp việc bực tức đến đâu, mình cũng cố
gắng dằn cơn nóng giận để khòi sanh lắm chuyện phiền-phức cho mình và cho người
khác.
Phương-pháp
dằn cơn nóng giận Người ta thường nói: " Dây dùn khó đứt " hay " Anh nóng còn tôi nguội". Đó là câu nói của những người
biết dằn cơn giận bằng sự kiên nhẫn nhịn-nhục, và thường được kết-quả tốt.
Phàm ai cũng có tánh nóng giận, hằng ngày xảy ra
luôn vì sự va chạm tâm-lý, tự-ái cá-nhân ... Cho nên, những vị tu tâm luyện
tánh rất sợ cơn nóng giận hằng tìm phương dứt bỏ. Các vị ấy đặt ra nhiều
phương-pháp :
- Khi nóng giận, đi uống một ly nước lạnh. - Khi
nóng giận, đi kiếm chuyện khác làm: rửa mặt, tắm ... - Khi nóng giận, thì nói
thầm như vầy: Tôi không nên nóng nảy. - Khi nóng giận, có người lại nói : Luôn
luôn tôi vui-vẻ ôn-hòa.
Tuy đặt ra nhiều phương cách, nhưng tùy trường-hợp
áp-dụng cách nào có hiệu-quả là được.
Cách
làm cho khỏi tức giận
( Rút trong Cổ-Học Tinh-Hoa)
Người ta ở đời đối với nhau, người mà gặp phải kẻ
xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như đi trong bụi rậm, áo vướng
phải gai, chỉ nên thong-thả đứng lại gở lần ra mà thôi. Cái gai gốc kia có biết
gì mà đáng giận?
Xử được như thế thì tâm mình không phiền não mà bao
nhiêu nỗi oán giận cũng tiêu tan được ngay. Cổ-nhân có câu nói :
"
Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không, lở đâm phải
ta, như cơn gió dữ lở tạt phải ta, ta nghĩ cho cùng, có gì mà đáng giận".
Giận lên là phát cơn điên,
Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu.
Lấy
Thiện mà trừ Ác
Thiện là lành, Ác là dữ.
Lành, dữ là hai đối tượng trong tâm tánh loài
người.
Khi định-nghĩa chữ Tâm, Thánh-Nhân đã phân tách
những tánh tốt và tánh xấu của con người rõ-ràng minh bạch, rồi chung kết lại
trong hai danh-từ: Thiện và Ác.
Tánh Thiện tuy được suy rộng nhưng đại để có thể
gồm trong giáo-điều của các Tôn-Giáo. Phật-Giáo dạy: Từ-bi, bác-ái; Khổng-Giáo
dạy: Tam-cang, ngũ-thường (Nhơn, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Thiên-Chúa-Giáo dạy:
Thương yêu, khoan dung, tha thứ v.v...
Nghịch với tánh Thiện là tánh Ác.
Nhưng kẻ hung dữ, bạo tàn, cướp của giết người thì
gọi là làm ác. Những người ăn ở thất đức bất nhân, oán thù cừu hận, ích-kỷ tham
lam cũng là làm ác.
Làm thế nào để trừ được ác ?
Về nội tâm, không thể trong một lúc người ta vừa
làm ác vừa làm thiện. Nếu để cho cái ác dấy động trong tâm thì đã mất tánh
thiện. Còn vận dụng cho được tánh thiện thì tự nhiên tánh ác lu mất. Vậy muốn
trừ ác trong nội tâm thì tập trung cho được tánh thiện.
Đối xử với người ngoài: Đức Hộ-Pháp dạy: " Lấy Thiện mà trừ Ác", có
nghĩa là lấy ân báo oán hay dĩ đức báo oán, nghĩa là lấy cái ân đức, cử chỉ
đạo-đức của mình để cảm hóa người làm ác, thì mới sửa được cái ác của người.
Có câu :
Lấy đức báo oán, oán nọ phải tiêu.
Lấy oán báo oán, oán còn mãi mãi.
Thí dụ :
Người có tánh ích-kỷ, ta phải vị-tha.
Người có tánh ghét ganh, ta phải thương yêu.
Người có tánh cố chấp, ta phải rộng lượng.
Người có tánh ác bạo, ta phải hiền đức.
- Chuyện :
Tưới
dưa cho người
"........Ông
Tống-Tựu làm quan Huyện nước Lương, giáp ranh nước Sở. Dân hai bên Lương, Sở
cùng trồng dưa.
Người bên Lương siêng năng tưới nước nên dưa tốt,
người bên Sở làm biếng ít tưới nên dưa xấu. Người nước Sở thấy dưa bên Lương
tốt, bên mình xấu thì sanh ra ganh ghét, đêm đêm cứ lẻn sang cào dưa bên Lương
đến đổi dưa bên ấy phải héo chết một ít.
Sau người bên Lương biết chuyện, tức giận muốn qua
cào dưa bên Sở, ông Tống-Tựu hay được mới bảo rằng: " Ôi, tại sao thế! Làm như thế chỉ là cách gây thù oán, chuốc tai
vạ thôi. Nầy ta bảo ngươi, chớ sang cào dưa của người ta, cứ đêm đến lẻn sang
tưới dưa cho người ta mà đừng để cho người ta biết.
Người nước Lương cứ thế mà làm.
Sau dưa bên Sở mỗi ngày một tốt, người nước Sở lấy
làm lạ, xét mãi mới biết người nước Lương làm giúp. Quan Huyện bên nước Sở hay
được việc ấy lấy làm khen ngợi tâu lên vua Sở. Vua Sở buồn bả và có ý thẹn,
nghĩ rằng:
Ngoài cái tội đi cào dưa của người ta, chắc còn
nhiều việc khác đáng tội với người ta nữa. Vua bèn lấy nhiều của cải sang tạ
tội vua Lương và xin giao hiếu, nghĩ rằng dân mà còn được như vậy ắt người
lãnh-đạo phải đạo-đức nhân-nghĩa.
Phê bình chuyện nầy, Đức Lão-Tử có nói: "Báo oán dĩ đức " nghĩa là đem
cái đức để báo oán.
Ôi,
ở đời người ta đã làm không phải, sao ta lại còn bắt chước người ta. Sao không
lấy thiện mà trừ ác.......... " ( Cổ-Học Tinh-Hoa )
Lấy
nhơn-nghĩa trừ bạo tàn
Nhân là lòng thương yêu người, vật chẳng luận sang
hèn.
Nghĩa là làm những việc đáng làm để giúp ích cho
người.
Nhân-nghĩa nói chung là thương người mến vật, không
tham lam lợi lộc, biết giúp khó trợ nguy.
Bạo tàn là hung ác, hành động trái với công-lý và
nhân-đạo.
Lấy nhân-nghĩa trừ bạo tàn, cũng như lấy Thiện mà
trừ Ác.
Đời Đông-Châu, các Liệt Quốc tranh hùng, nước lớn
hiếp nước nhỏ, người trí hiếp người ngu, sự tàn ác dẫy đầy, loạn-lạc khắp nơi.
Đức Khổng-Phu-Tử đem Nho-Giáo truyền bá cốt để sửa
đời tồi tệ hóa ra đời Thánh-Đức. Trong các thuyết Ngài dạy chỉ có Nhân-Nghĩa là
đứng đầu trong khi Ngài châu du các nước để dạy các bậc vua chúa.
Thuyết "
Nhân-Nghĩa Đạo-Đức " đã làm sáng tỏ, phân biệt hai chủ-thuyết
Vương-Đạo và Bá-Đạo.
Vương-Đạo thi-hành đạo-đức, nhân-nghĩa.
Bá-Đạo chủ-trương độc đoán bạo tàn.
Dụng đạo-đức, nhân-nghĩa thì đời thạnh trị, dụng
bạo-tàn thì đời loạn. Trong thế tranh hùng thu phục dân tâm qua các triều-đại
xưa thì nhơn-nghĩa luôn luôn thắng bạo tàn.
Văn-Vương thắng được Trụ lập nhà Châu, cũng nhờ
nhân-nghĩa.
Tần-Thỉ-Hoàng bạo ác bị mất nước chỉ vì thiếu
nhân-nghĩa.
Hớn-Bái-Công và Sở Bá-Vương tranh nhau vào chiếm
Hàm-Dương lật đổ nhà Tần, Hớn-Bái-Công thành công, Sở Bá-Vương thất bại cũng vì
Hớn-Bái-Công biết thiệt dụng nhân-nghĩa của Vương-Đạo, còn Sở Bá-Vương thì
bạo-hành theo Bá-Đạo.
Nhân-nghĩa đứng đầu các đức-tính cho nên Thầy
Mạnh-Tử dụng hai chữ nhân-nghĩa để làm bản tính cho con người, việc chính-trị
cũng phải lấy nhân-nghĩa làm gốc.
Đức Hộ-Pháp có dạy :
Tu nhơn thành Thần,
Niệm nhơn thành Thánh,
Hành nhơn thành Tiên,
Đắc nhơn thành Phật.
Và trong Kinh Sám-Hối có câu :
Làm người nhân-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong
chẳng sờn.
Làm người nhân-nghĩa giữ
tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng
còn bay xa.
Lấy
lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp hòi
Quảng-đại là rộng lớn bao la.
Lòng quảng-đại là lòng rộng-rãi, không gò bó vào việc nhỏ mọn
tội-tiết. Người có lòng quảng-đại thường
có những đức-tính khoan dung đại lượng, tha-thứ và không hay cố-chấp.
Tâm-lý hẹp-hòi là tánh hay tị-hiềm, cố-chấp, so đo vụn-vặt
không có tầm hiểu biết rộng-rãi để làm được việc gì lớn lao có ích cho đồng-bào
xã-hội. Tâm-lý hẹp hòi sanh ra tánh ích-kỷ, bòn chen, chỉ biết có lợi ích cho
riêng mình.
Người có tánh hẹp hòi ít chịu
rộng lượng tha-thứ ai, cho nên trong gia-đình thường hay xích-mích bất hòa chỉ
vì hay câu chấp khắc-khe với nhau. Ngoài xã-hi hay gò bó, cấu kết những chuyện
nhỏ nhen.
Vậy muốn mở tâm-lý hẹp hòi, cần phải có lòng quảng-đại, chấp nhận sự rộng
lượng, khoan dung, thay vào những tánh tỳ ố, bắt bẻ, so hơn tính thiệt từ những
chuyện vụn-vặt không đáng.
Khi đã tập được lòng quảng-đại thì tự thấy tâm hồn
mình được thoải-mái, thanh-nhàn, gây bầu không khí cởi mở, êm dịu chung quanh
mình, không còn những bất mãn, bứt rứt lương-tâm như trước nữa.
Một
gương quảng-đại và quân-tử: * Lạn-Tương-Như
và Liêm-Pha.
".......
Lạn-Tương-Như và Liêm-Pha là môn hạ nước Triệu của Huệ-Văn-Vương thời
Chiến-quốc. Vì Lạn-Tương-Như có công đoạt lại viên ngọc-bích của vua Triệu nơi
tay vua Tần, sau lại cứu vua Triệu khỏi bị vua Tần làm nhục nên vua Triệu nhớ
ơn, nói với các quan :
"
Ta được Lạn-Tương-Như chẳng khác nào được ngồi trên tảng núi, chẳng lo gì sóng
gió. Nay ta phong cho Lạn-Tương-Như chức Thượng-Tướng cũng chưa xứng
đáng".
Liêm-Pha thấy vậy sanh lòng tị-hiềm :
" Ta có công to đánh thành cướp đất, còn Lạn-Tương-Như chỉ nhờ chút công chót lưỡi mà được làm đến
chức Thượng-Tướng trên mình. Vả lại, hắn là một tên xá-nhân của kẻ
hoạn-quan, xuất thân hèn mọn, ta đời nào chịu đứng dưới hắn. Nếu gặp hắn, ta
giết ngay."
Lạn-Tương-Như nghe những lời nói ấy, mỗi khi gặp buổi chầu đều cáo bịnh không
đến, không chịu cùng Liêm-Pha gặp mặt.
Bọn xá-nhân đều cho Lạn-Tương-Như là nhát, nhìn nhau mỉm miệng chê cười.
Có lần, Lạn-Tương-Như ra đường, gặp Liêm-Pha trước
sau có quân tả hữu theo hầu. Tương-Như thấy vậy, bảo tên đánh xe tránh vào ngõ
hẻm, chờ cho Liêm-Pha qua khỏi mới đi. Kẻ thủ-hạ thấy vậy tức giận, xúm lại nói
với Lạn-Tương-Như:
"
Chúng tôi bỏ làng xóm, xa thân-thích, đến đây hầu-hạ Ngài, coi Ngài là bậc
Trượng-phu. Ngày nay, Ngài cùng Liêm-Pha Tướng-quân đồng phò một vua, ngôi thứ
lại ở trên, thế mà bị Liêm-Tướng-Quân nói một câu hăm doạ chẳng dám đến triều,
lại lánh mặt cả ngoài đường. Tại sao Ngài lại sợ Liêm-Tướng-Quân quá vậy ?
Chúng tôi lấy làm xấu hổ, không muốn theo phò Ngài nữa!"
Lạn-Tương-Như hỏi:
-Các ngươi xem Liêm-Tướng-Quân uy lực có bằng vua
Tần không?
Bọn xá-nhân đáp:
- Không bằng.
Lạn-Tương-Như nói:
- Lấy cái uy-lực của vua Tần trong thiên-hạ không
ai dám chống, thế mà ta dám đương nhiên mắng vào mặt vua Tần, làm nhục cả quần
thần nước Tần. Ta đây dầu hèn, há sợ Liêm-Pha hay sao? Tuy nhiên, ta nghĩ lại,
sở dĩ nước Tần không dám đánh Triệu là vì có ta và Liêm-Pha. Nay nếu ta và
Liêm-Pha hiềm khích, hại lẫn nhau, ắt Tần thừa cơ chia rẽ của chúng ta mà đem
quân đánh Triệu thì nguy hại là dường nào. Vì vậy ta xem việc nước là trọng, mà
thù riêng là khinh.
Bọn xá nhân nghe nói đều kính phục.
Mãi
đến sau Liêm-Pha hiểu được Lạn-Tương-Như, lấy làm xấu hổ, ăn năn đến xin tạ
tội. Từ đó, hai người kết làm anh em trọn đời không thay dạ đổi lòng.
Lạn-Tương-Như
đã biết nhẫn-nhục, không oán hận người thù ghét mình, sử-dụng tấm lòng
quảng-đại để lo việc lớn, nhờ vậy mà cởi mở được tâm tánh hẹp hòi của Liêm-Pha.
Rốt lại, những đức-tính của Lạn-Tương-Như đã đem đến một sự tốt đẹp cho cả đại
nghiệp nước Triệu và cho chính mình............"
Lấy
chánh trừ tà.
Chánh là chánh đáng,
ngay thẳng, chơn thật.
Tà là cong vạy, xéo xiên, giả dối.
Chánh là con đường ngay thẳng, con đường đạo-đức nhân-nghĩa. Tà là con
đường cong queo, con đường gian ác quỉ quyệt.
Muốn đi con đường thẳng trước hết phải giữ cái Tâm cho chơn chánh ngay
thật, vì vậy, trong phép tu thân phải chánh tâm trước rồi sau mới tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên-hạ.
Chánh tâm là giữ cái Tâm cho chơn chánh theo ý thiện, nương theo đường chánh Đạo, thuận tùng thiên-lý. Muốn giữ tâm chánh phải thành ý, tức là giữ cái ý cho thành, không để
tư-tưởng buôn lung, phóng túng theo đường tà vạy. Kềm được cái ý thì định được
cái tâm.
Tâm chánh là công-bình, chánh-trực, trung hiếu, trung tín, tiết nghĩa,
thanh-liêm v.v... Ngưởi hành Đạo giữ đúng luật-pháp chơn-truyền không theo
Tả Đạo, mê tín dị đoan.
Nghịch với chánh tâm là tà tâm.
Tà tâm là: bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, bội sư,
phản bạn, bội tín, lường gạt, dua nịnh, gian tham ...
Giữ được chánh tâm thì đức được sáng, tâm được
minh, tà thần xa lánh, Thần Thánh hộ trì. Có câu: " Đức trọng quỉ thần
kinh ", nghĩa là người công-bình chánh trực, đạo-đức hiền lương thì kẽ vạy
tà xa lánh, đến các bậc Thần-Linh cũng mến chung giúp vùa.
Trong một bài thi của Đức Lý Đại-Tiên có câu:
"
Chánh-trực kinh oai loài giả dối,
Công-bình
vùa sức kẻ chơn thành."
Ấy vậy, lấy chánh trừ tà là trụ vững cái chánh tâm
để khuất phục lòng tà vạy; dụng nét công-bình sửa nét xéo-xiên.
Một
sự tích: " Chánh-trực cảm hóa lòng
người " * Triệu-Thuẩn can vua.
".........
Thời Đông-Châu Liệt-Quốc, Tấn-Linh-Công là vị vua vô đạo, ham mê tửu sắc, lấy
việc giết người làm vui thú."
Quan Tướng-Quốc Triệu-Thuẩn đón xa giá ở dọc đường
để can vua, vua xiêu lòng hẹn sẽ sửa chửa. Có tên nịnh thần là Đồ-Ngạn-Giả hay
được đem lời sàm tấu, Tấn-Linh-Công nghe theo, tìm phương ám hại Triệu-Thuẩn.
Đồ-Ngạn-Giả bày kế:
"
Tôi có biết một người tên Thư-Nghê, người ấy nghèo, lâu nay vẫn được tôi châu
cấp, vì cảm cái ơn của tôi dẫu chết cũng chẳng dám chối từ. Nay sai Thư-Nghê
đến giết Triệu-Thuẩn ắt xong."
Tấn-Linh-Công nói: " Nếu làm được việc ấy, công của nhà ngươi rất lớn." Đêm
hôm ấy, Đồ-Ngạn-Giả gọi Thư-Nghê đến nói:
"
Triệu-Thuẩn chuyên quyền, nay ta phụng chiếu sai ngươi đi giết Triệu-Thuẩn. Vậy
nhà ngươi nai nịt hẵn hòi, sáng mai chực ở cửa tư dinh Triệu-Thuẩn, chờ
Triệu-Thuẩn vào triều thì xông ra đâm chết. Việc làm phải thận trọng chớ để
hỏng việc."
Thư-Nghê vâng mạng, giắt một con dao vào mình thẳng
đến cửa dinh Triệu-Thuẩn. Lúc đó, trời lờ-mờ sáng, xe đã chực sẵn trước cửa,
Thư-Nghê lẻn vào trong trông thấy Triệu-Thuẩn đã mặc áo đại triều, đầu đi mũ,
tay cầm hốt, vẻ mặt trầm tư, đang ngồi đợi đến giờ triều kiến.
Thư-Nghê trông thấy thất kinh nghĩ thầm:
-
" Kẻ lo việc nước là bậc trung thần, cớ sao vua lại truyền giết đi? Nay ta
nghe lời Đồ-Ngạn-Giả giết một tôi trung là bất trung, mà không giết thì trái
mạng vua, ta lại là kẻ bất tín."
Nghĩ rồi liền đứng trước cửa nói lớn. cố ý cho
Triệu-Thuẩn nghe: " Tôi là Thư-Nghê
đây, vâng mạng đến giết ông, nhưng thà trái mạng vua, chớ không nỡ hại kẻ trung
lương ". Nói xong, rút lưỡi dao trong mình tự-tử.
Triệu-Thuẩn
là người trung-trực, dám liều chết can vua, mặc dù vua nghe lời sàm nịnh sai
người thích khách, nhưng nội tâm Triệu-Thuẩn phát hiện ra ngoài một thể cách
anh phong của bậc trung thần, đường đường chánh chánh, thì dù cho kẻ nịnh là
Đồ-Ngạn-Giả cũng khó nhẫn tâm thi-hành thủ đoạn, huống chi Thư-Nghê là người
nghĩa khí làm sao khỏi cảm-xúc tâm linh, tự xử lấy mình bằng cái chết để vẹn
toàn trung nghĩa đối với vua là người mình thọ ơn. Tuy vân, Thư-Nghê cũng đã
khéo léo, nói lớn cho Triệu-Thuẩn nghe cốt ý cho Triệu-Thuẩn biết mà tránh họa.
Đó là thêm một đức-tính của người ân-hậu vậy............."
Để kết-luận đoạn 2, chúng tôi xin lập lại nguyên
văn :
Lấy Thiện mà trừ Ác.
Lấy nhơn-nghĩa trừ bạo tàn.
Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp hòi.
Lấy chánh trừ tà.
Ấy là đường thương huệ kiếm.
Vậy thiện, nhơn-nghĩa, lòng quảng-đại, chánh là
phần thể của huệ kiếm. Còn trừ ác, trừ bạo tàn, mở tâm lý hẹp hòi, trừ tà là
phần dụng của huệ kiếm. Bốn câu có chữ "Lấy" đứng đầu là bốn chiêu
thức hay bốn đường thương của huệ kiếm.
Phương-pháp trị tâm gồm 9 điều-mục. Năm điều-mục
trên thuộc về phần hàm dưỡng tâm-linh tức rèn huệ kiếm. Từ điều-mục " Lấy thiện trừ ác " trở
xuống, tâm-linh đã trụ tức là huệ kiếm đã thành-hình mới dùng bốn chiêu thức
sau cùng mà quét sạch tàn tích uẩn-trược.
Ấy
là đường thương huệ kiếm
Huệ
kiếm hay là gươm thần huệ là tượng trưng lợi khí sắc bén về tinh-thần, có
năng-lực chặt lìa oan nghiệt, đoạn dứt trái oan, trị xảo trừ tà.
Trong kinh sách ta thường nghe :
Nương gươm thần huệ đoạn trừ nghiệt căn.
Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà
Nương gươm thần huệ vào bờ vĩnh-sanh.
Cầm gươm huệ chặt tan-tành cung thương.
Gươm thần-huệ là huệ-trí, là sự sáng-suốt của
tâm-linh.
Tâm-linh sáng-suốt mới phân biệt thiện ác, tà
chánh. Có phân biệt được thiện ác, tà chánh mới có thể luyện kỷ tu thân, lấy
thiện mà trừ ác, lấy chánh trừ tà, lấy thương yêu xóa bỏ hận thù.
Những tánh của con người tạo nên 7 tình, hình thành
7 dây oan nghiệt, chỉ nhờ cái gươm, cái kéo vô hình mà cắt đứt được. Đó là gươm
thần-huệ hay "đường thương huệ kiếm".
Chúng ta rèn luyện cho tâm được minh, tánh được
thông suốt thì tâm tánh sẽ biến thành gươm thần-huệ, không còn là phàm nữa, tức
là chúng ta sẽ đoạt được con đường siêu-thoát.
* * *
Luyện thân, luyện trí.
Trong đoạn trước, Đức
Hộ-Pháp dạy về phương-pháp trị Tâm, là rèn luyện cái Tâm được ngay chánh, trong
sạch, không để nhiểm bỡi thất-tình, lục-dục, gt bỏ những tánh hư tật xấu, để trở
nên bậc chí Thánh, chí Hiền.
Trong đoạn nầy, Đức Hộ-Pháp dạy luyện thân, luyện
trí. Luyện Tâm chưa đủ, cần phải trau dồi cái thân và cái trí mới đủ yếu-tố cấu
tạo nên một con người.
Người có tam bữu là TINH, KHÍ, THẦN.
TINH thuộc về xác
thân. ( Đệ nhứt xác thân )
KHÍ thuộc về trí não,
tinh thần. ( Đệ nhị xác thân )
THẦN thuộc về
linh-hồn. ( Đệ tam xác thân )
Cả ba món báu nầy hợp lại gọi là " Tam thể xác thân ", hay là
tam bữu của loài người.
Trong phương-pháp luyện thân, luyện trí, Đức
Hộ-Pháp dạy:
- Ẩm-thực tinh khiết.
- Tư-tưởng tinh khiết.
- Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
- Thương yêu vô tận.
Ấy là chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Đài tại thế nầy.
Ẩm-thực
tinh khiết
Ẩm là uống, thực là
ăn.
Xác thân hữu-hình của con người sống được là nhờ ăn
với uống, đó là khuôn luật tự nhiên của Đấng Tạo-Đoan. Sự sống của con người
cũng giống như sự sống của muôn loài vạn-vật, có khác hơn là con người được Đức
Chí-Tôn và Phật-Mẫu ban cho Chơn-Linh và Chơn-Thần để đủ ba món báu nói trên.
Nếu biết trau luyện ba món báu nầy, thì bước được vào ngưỡng cửa Thần, Thánh,
Tiên, Phật trong cảnh giới vô hình.
Xác thân là kỵ-vật của linh-hồn, là con ngựa của ta
cỡi để đi trong một khoảng đường đời. Không có xác thân, linh-hồn không nơi
nương tựa để lập công. Không có linh-hồn thì xác thân chỉ còn là xác thú như
tất cả loài thú khác. Vậy chơn-linh muốn lập công phải nương nhờ xác thân. Xác
thân có cường-tráng khoẻ mạnh thì mới sống lâu, dùng đặng lâu dài. Cho nên việc
ăn uống là điều cần thiết, nhưng nếu ta ăn uống thiếu điều-độ, dùng món ăn thức
uống không hạp với cơ thể, không đúng phép dưỡng-sinh, phải sanh ra bịnh tật và
có hại cho tinh-thần.
Ăn uống tinh-khiết không phải chỉ rửa sạch món ăn
mới gọi là tinh-khiết. Tinh-khiết có nghĩa thực-vật nào ăn vào không hại đến
sức khỏe, uống vào không kích thích làm rối loạn tinh-thần.
Những món ăn không phương hại đến sức khỏe phần
nhiều như rau, đậu, khoai củ, trái cây ... Còn những món ăn như cá, thịt các
nhà phân-chất-học cho rằng thịt cá chứa nhiều chất đc, nếu ăn toàn thịt, người
ta sẽ bị nhiểm đc, sinh ra nhiều chứng bịnh hiểm nghèo. Ngoài ra, thịt còn làm
hại cho tinh-thần, vì loài thú tiến hóa chậm, ta ăn thịt thú tức là mượn thịt
thú làm thân xác mình, thì tránh không khỏi ảnh-hưởng thú-chất vốn hay sanh
nóng nảy và nhiều dục-tính.
Trích lục Thánh-Giáo Đức Cao-Thượng-Phẩm ngày 9
tháng 12 Tân-Mão ( 1952 ) dạy về đệ nhứt xác thân :.................. " Nói về ảnh-hưởng tốt xấu của sự ăn
chay và nhục-thực, thì nhục-thực phần nhiều trong các con vật hay có các
vi-trùng, nếu ăn thịt thì những vi-trùng ấy trn theo vi-tố mà phá hoại. Lại
nữa, thịt là chất sanh hơi đc, vì vậy làm cho thân thể hóa ra mệt nhọc biếng
nhác. Đó là cái hại cho thể xác. Còn cái hại cho tinh-thần thì trong thịt đã
chứa sẵn các thú-chất, do đó làm cho tinh-thần thường bị mê-mui, nhứt là cái hại
cho đệ lục giác-quan. Đệ lục giác-quan là Thần. (I)
Còn ăn chay thì khỏi bị vi-trùng phá-hoại và không
bị hơi đc làm cho mệt nhọc. Thoảng như thảo-thực ( ăn chay ) mà nhuốm bịnh thì
chỉ có nhịn đói, uống nước chín có chút đường sẽ lành mạnh.
"Còn
như nhục-thực thì phải cần thuốc, bỡi vì hơi đc và vi-trùng phá hoại cơ
thể."
(I) Mỗi Tôn-Giáo đều có danh-từ triết-học riêng
biệt. Đây là danh-từ triết-học của Đạo Cao-Đài.
Những thức uống không hại sức khỏe như nước sông,
nước mưa, nước giếng được lọc hoặc đun sôi. Những thức uống, nếu dùng quá độ có
hại sức khỏe như rượu trắng, các thứ rượu mạnh Âu Mỹ.
Rượu mạnh uống vào làm máu huyết vận-chuyển không
điều-hòa, tinh-thần rối loạn, không còn biết phải trái, không biết sợ sệt và
không việc gì không dám làm, vì không còn tự-chủ được lấy mình.
(Xem trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển I có bài
Thánh-Giáo của Đức Chí-Tôn về giới tửu.)
Có một câu chuyện Á-Rập đời xưa như sau :
"..........
Ngày kia, có một vị hung-thần hiện ra nói với anh nọ như vầy : " Số ngươi
phải chết, song ta tha thứ cho ngươi nếu ngươi làm được một trong ba điều nầy :
Giết cha ngươi, đánh chị ngươi, hay là ngươi uống rượu ". Người đó mới
nghĩ: " Giết người sanh ra mình sao
nỡ, còn đánh chị mình sao đành, thôi thì uống rượu. Nào dè trong lúc uống rượu
say, va giết ông cha rồi đánh luôn chị va. "
Câu chuyện cho chúng ta thấy sự nguy-hiểm của rượu
khi ta uống quá say và ghiền phải nó là như thế nào!
Cho nên, muốn luyện thân, luyện trí, cần chú-trọng
đến việc ăn uống. Các Tôn-Giáo khuyên người theo Đạo nên ăn chay và kiêng rượu
( giới sát sanh và giới tửu ). Nếu chay trường không được, nên giữ trai kỳ, đó
là phương-pháp tập giảm bớt sát sanh thú vật và tiến lần đến việc luyện tánh tu
tâm.
Đức Hộ-Pháp không buộc chúng ta ăn chay trường,
nhưng với những vị nào muốn vào Tịnh-Thất thì trước đó sáu tháng phải
trường-trai để có đủ thời giờ cho máu huyết được thay đổi, cơ thể được lọc-lượt
cho hết chất thịt cá.
Việc ăn chay và kiên rượu rất hệ-trọng, cho nên: " Ấm-thực tinh-khiết " là điều
quan-yếu trong phương-pháp luyện trí, luyện thân.
Tư-tưởng
tinh khiết
Tư-tưởng là sự suy nghĩ,
tưởng đến một chuyện gì.
Tư-tưởng ở trong đệ nhị
xác thân, do trí ý phát sanh. Tư-tưởng là động cơ khuấy động lục-dục thất-tình
chỗi dậy trong tiềm-thức của con người.
Lục-dục là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
Sắc là mắt thấy sắc đẹp mà động.
Thinh là tai nghe âm thanh mà mê.
Hương là mủi hửi mùi thơm mà muốn.
Vị là lưỡi nếm vị ngon mà thèm.
Xúc là tay chơn thân thể biết cảm-giác nóng, lạnh.
Pháp là trí ý biết run cảm.
Cái " Ý
", người ta tạm gọi là giác-quan thứ sáu, Phật-Giáo gọi là "Thức", vì nó ở ngoài năm
giác-quan ta trông thấy được như : tai, mắt, mủi ... Tư-tưởng ở trong giác-quan
thứ sáu hay là "Thức", hằng
ngày diển-biến không ngừng. Khi ta ngồi một mình, ta cảm thấy tư-tưởng phóng
nhanh, lao-chao, bận rn như con bướm chuyền từ bông nọ đến bông kia. Vừa suy
nghĩ chuyện nầy chưa xong bắt suy nghĩ chuyện khác, cứ như thế suốt ngày đêm,
khi nào ngủ mới thôi.
Tư-tưởng sanh ra lời nói và hành-động. Tư-tưởng có
tốt có xấu. Tư-tưởng tốt thì lời nói việc làm tốt, tư-tưởng xấu thì lời nói
việc làm xấu. Ta không nên khinh thường, cho rằng tư-tưởng không đáng kể, mà
chỉ biết có hành-động. Những người có huệ-nhản thấy được tư-tưởng diển-biến
nhiều hình-dạng, màu sắc và có sức mạnh, mau lẹ lạ thường.
Vì có hình-dạng cho nên tư-tưởng cũng yếu, cũng
mạnh, cũng sống, cũng thác. Nếu mình cứ tưởng mãi vào một việc thì hình
tư-tưởng việc đó trưởng-thành và sống lâu, còn tư-tưởng một lần rồi bỏ qua thì
hình tư-tưởng đó lần lần tiêu mất. Những tư-tưởng sống lâu có thể giúp ta hay
là hại ta tùy theo tư-tưởng lành hay dữ. Nếu tư-tưởng lành thì giục ta làm việc
thiện, tư-tưởng dữ thì giục làm ác.
Vì có màu sắc cho nên các Đấng Vô-Hình xem qua
tư-tưởng biết ta toan tính những gì, không cần tra hỏi. Thí dụ: Lòng Từ-Bi
Bác-Ái thì tư-tưởng màu sáng chói, sự nóng giận sanh ra màu đỏ bầm, tánh ích-kỷ
thì màu vàng sậm và tối, tánh nào thì có màu sắc của tánh đó.
Trong một Đàn cúng, nếu mỗi người đều phát ra những
tư-tưởng không tốt, thì bầu không khí nơi đó trở nên ô-trược đối với các Đấng
Thiêng-Liêng, tức là Đàn không nghiêm, phải thất lễ. Còn trái lại, mỗi người
định tâm cầu nguyện vào việc lành như : thương yêu, hòa thuận, thiên-hạ
thái-bình, thì các luồng tư-tưởng sẽ hiệp thành sức mạnh và lẽ dĩ nhiên sẽ được
kết-quả tốt.
Tư-tưởng có sức mạnh và di chuyển mau lẹ, cho nên
các nhà thôi miên biết điều-khiển tư-tưởng mà sai khiến mọi việc theo ý muốn.
Các nhà chuyên khoa Pháp-môn tập trung tư-tưởng truyền từ-điển cho người bịnh ở
cách xa cả mấy trăm cây số để trị hết bịnh.
Đã nhận-thức được tác-dụng và sự lợi hại của
tư-tưởng cho nên những vị tu tâm luyện tánh hằng giữ gìn tư-tưởng từng giờ từng
phút, vì tư-tưởng tốt chẳng những có lợi cho bản thân mà còn giúp cho người
khác chung quanh mình biến đổi từ tánh xấu đến tánh tốt do nơi sự rung cảm của
tư-tưởng tốt của mình, làm kích-thích cái trí của người kia trở thành tư-tưởng
thanh cao như vậy.
Trái lại, tư-tưởng xấu của ta bay đi, xúi người
khác làm quấy do sự run cảm tư-tưởng của ta đồng bản tánh với người đó. Ngoài
ra, tư-tưởng xấu như tánh ích-kỷ, sự thù hằn, lòng đố kỵ v.v... làm mờ tối
lý-trí gây ra những thành-kiến đối với người khác chỉ vì nhận-định người khác
không đúng, chẳng khác nào ta đeo kính màu mà xem đồ vật thì màu xanh thấy đen
vậy.
Tóm lại, tư-tưởng quấy có ba điều hại :
a / Ta làm cái trí trở nên xấu là ta hại ta trước đã.
b / Ta hại những người ở chung quanh ta.
c / Ta thêm sự khổ cho đời do ảnh-hưởng xấu của
tư-tưởng ta.
Muốn giữ tư-tưởng được tinh-khiết phải làm chủ được
tư-tưởng, định tâm định trí hướng-dẫn tư-tưởng theo điều lành điều phải, bằng
không thì sự phóng-túng của tư-tưởng kéo lôi theo phàm tánh, tạo nguyên-nhân
tội lỗi mà chính ta vô tình không hay, không biết.
* * *
Phần
phụ:
Luật
phản-kích (Loi du choc en retour)
Nếu tư-tưởng hung ác xông vào một cái hào-quang
thanh bạch ( đệ nhị xác thân của người hiền-đức ) thì nó bị di trở lại rất
mạnh. Khi di ra nó phải tìm con đường nào phù hạp với nó, mà con đường phù hạp
là con đường của nó mới đi đó.
Như thế nó sẽ di trở lại cho con người làm ra
tư-tưởng hung ác, đó là " Luật
Phản-Kích ". Cái ác mà trước kia va muốn gây cho người nay chính va
phải mang lấy. Cho nên nói rằng: "Làm ác thì gặp ác, làm lành thì gặp
lành" là vậy.
Đối với một người hiền-lương và tấn-hóa cao mà ta
lại có ý muốn hảm hại thì chẳng khác nào ta sắp trở giáo đâm ta vậy. Những hình
tư-tưởng hung tợn khi đến hào-quang (I) của người kia, chẳng những không làm
được một mảy may thiệt hại gì mà nó còn di trở lại cho ta để phạt ta đau khổ về
Thân, Tâm và Trí một lượt.
( Rút trong quyển " Cái trí " của ông Bạch-Liên ), ( Rút trong quyển " Cái trí " của ông Bạch-Liên
)
- Đó là: "
Lấy Thiện trừ Ác, lấy Tốt trừ Xấu " rất hiệu-nghiệm như đoạn trước
" Phương Luyện-Kỷ " đã dạy. (I) Hào-quang: Mỗi người đều có hào-quang
hoặc ít hoặc nhiều, hoặc tốt hoặc xấu do cái Vía và cái Phách chiếu ra.
* * *
Tín-ngưỡng
mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu
Tín là tin, không
nghi-ngờ điều chi cả.
Ngưỡng là ngẫng mặt nhìn
lên - kính mến.
Tín-ngưỡng ( Foi, Croyance ) là lòng tin-tưởng chơn
thật một cách kính mến đối với các Đấng Thiêng-Liêng, các bậc cao siêu.
( Xin xem phần giải-thích về " Đức Tin " nơi Đoạn 2 trang ??? ).
Chí-Tôn
và Phật-Mẫu là ai? Tại sao chúng ta tín-ngưỡng mạnh mẽ nơi hai Đấng?
Đức
Chí-Tôn: Hán-văn viết Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, người Việt-Nam thường gọi là Ông Trời,
Âu Mỹ gọi là Dieu, dân cổ Do-Thái ( Hebreux ) gọi Jéhovah ... v.v... là Đấng
Tạo-Đoan cả Càn-Khôn Vũ-Trụ, làm chủ phần Dương, là Ngôi Thứ Nhứt (Premier
Logos), Chúa Tể cả muôn loài vạn-vật. Quyền hành Đức Chí-Tôn đã tả trong bài
"Ngọc-Hoàng Kinh".
Đức Phật-Mẫu: Hán-tự viết Thiên-Hậu Chí-Tôn ( Bà
Vua Trời ), người Á-đông nhứt là Trung-Hoa và Việt-Nam gọi là Bà Mẹ Sanh của
con người, của cả muôn loài vạn-vật trong Càn-Khôn Võ-Trụ, làm chủ phần Âm, là
Ngôi Thứ Hai ( Deuxième Logos ), kế Đức Chí-Tôn. Quyền-hành và diệu-pháp của
Đức Phật-Mẫu đã tả trong bài "Phật-Mẫu Chơn-Kinh", Đức Hộ-Pháp có
giải-thích trên giảng đài Đền Thờ Phật-Mẫu nhơn ngày Vía Phật-Mẫu năm Đinh-Hợi
( 1947 ).
Đối với Đức Chí-Tôn và Đức Phật-Mẫu, chúng ta phải
đặt cả sự tin-tưởng chân thành, nên đem cả thể xác lẫn tâm hồn làm tế-vật hiến
dâng cho hai Đấng xử dụng. Vì cả thân thể, trí não, tâm hồn chúng ta đều do hai
Đấng Tạo-Hóa tạo nên. Hai Đấng Tối Cao là Toàn-Linh, Toàn-Tri, Toàn-Năng,
Quyền-Pháp vô đối, Huyền-Diệu vô biên, Ái-Yêu vô tận, nên chúng ta để trọn
đức-tin một cách mãnh liệt, đặt hết tinh-thần noi theo gương của Người,
hy-sinh, phụng-sự, thực-thi Chơn-Pháp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Đặt trọn Đức-Tin vào hai Đấng thì tâm hồn chúng ta
không còn mãnh-lực nào chi phối, dẫn-dắt. Năng-lực Đức-Tin giúp ta thành công
trên đường đời bao nhiêu thì năng-lực đó đối với Đức Chí-Tôn và Đức Phật-Mẫu là
Đấng Tự-Hữu Hằng-Hữu sẽ ban cho chúng ta nhiều ân-huệ phi thường để thành công
trong nghiệp Đạo bấy nhiêu.
Ấy vậy, "
Tín-ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu" là nguyên động-lực giúp ta đi
đến thành công trên con đường Tu Thân Luyện Kỷ. Đó là bí-quyết đoạt Đạo-Pháp vô
biên."
Thương
yêu vô tận.
Ấy
là chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Đài taị thế nầy.
Thương yêu vô tận, tức là thể hiện lòng Từ-Bi,
Bác-Ái.
Bác-Ái là lòng thương rộng rãi, xuất phát nơi lòng
Nhân, bao la vô cùng tận.
Đức Thượng-Đế là Đấng háo sanh muôn vật, nên gọi là
Đấng Tạo-Đoan, là hình tướng của khối thương yêu bao trùm cả Càn-Khôn Thế-Giới.
Bao nhiêu tinh đẩu, bao nhiêu giải Ngân-Hà của vũ-trụ bao la kia nếu ta đếm
không nỗi, tính không hết, thì lòng thương của Đức Đại-Từ-Phụ và Đại-Từ-Mẫu
cũng rộng lớn vô biên mà trí phàm không hạn định được.
Thu hẹp lại trong cảnh giới chúng ta đang ở, chỉ là
một hột cát trong sa-mạc, nơi nào có sự hóa sanh của vạn-vật hữu-hình thì sự
thương yêu của Đức Chí-Tôn tới đó.
Chúng ta cũng là một thực-thể, một sức sống hữu
linh thì lẽ đương nhiên chúng ta đã thụ hưởng một di-sản " THƯƠNG YÊU " của Tạo-Hóa.
Đã là vật hữu linh trong Trời-Đất, con người cũng
phải đồng tánh cùng Trời-Đất, phải nuôi dưỡng tánh " Thương yêu " mới hòa đồng cùng Trời-Đất. Nghịch lại với
tánh thương yêu là nghịch với cơ sanh hóa, là tự diệt. Vì vậy, trong
Thánh-Ngôn, Đức Chí-Tôn có dạy:
"
Các con là cơ-thể của sự thương yêu mà các con không hiểu sự thương yêu là gì ?
Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn-Khôn Thế-Giái. Có thương yêu, nhơn loại
mới hòa-bình, càn-khôn mới an-tịnh. Đặng an-tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau,
mới giữ bền cơ sanh hóa. Còn nghịch với cơ sanh hóa là Quỉ- Vương, Quỉ-Vương là
tay diệt hóa. Vậy Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ sức thương yêu thì cũng
chẳng đặng ghét nhau nghe à !"
Rồi Đức Chí-Tôn còn dạy: "Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong
Thánh-đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam Thập Lục Thiên, Cực-Lạc
Thế-Giới và Bạch-Ngọc-Kinh ."
Chơn-tướng
của sự thương yêu
Về chơn-tướng của sự thương yêu, Đức Hộ-Pháp có
giảng như sau:
"
Từ buổi sơ khai, Đức Chí-Tôn lập ra một Chơn-Luật, buộc cả nhơn-loại phải thi
hành tức là một con đường " Thiên-Linh " của Chí-Tôn đào tạo để cho
nhơn-sanh do theo con đường ấy mà tiến-hóa lên đến các bậc Thần, Thánh, Tiên,
Phật. Hễ tấn-bộ thì đoạt Đạo, còn thối bộ thì sa ngã theo tà-quái. Luật-pháp
của các nhà Tôn-Giáo xưa nay lập ra nhiều khoản, nhơn-sanh người thông-minh thì
ít, kẻ dốt nát là phần đông nên không thế thi-hành cho trọn.
Còn
Chơn-Luật của Đức Chí-Tôn chẳng có nhiều, duy cần yếu hai chữ "Thương
Yêu" mà thôi, thì nhơn-sanh dầu hạng nào cũng có thể thi-hành được tất cả.
Đến
như loài tế-vi là mối, ong, kiến cũng biết giữ luật Thương Yêu, thuận-hòa cùng
nhau kết dây đoàn-thể, tương-thân tương-ái với nhau tạo thành hang ổ có trật-tự
phân minh, ấy là cơ tấn-hóa mạnh mẽ của loài động-vật.
Nói
về gia-đình thì có cha, con, chồng, vợ, anh, em lan tràn ra cho tới nhơn-quần
xã-hi, đồng-chủng quốc-dân cũng do nơi mặt luật Thương Yêu mà được hòa- bình,
an cư lạc-nghiệp. Nếu cả thảy chẳng thật-hành y theo Chơn-Luật ấy thì tức nhiên
mất sự điều-hòa, đã chẳng đặng tấn-hóa đến cảnh Thiêng-Liêng mà trái lại nảy
sanh ra một trường tranh cạnh thù nghịch lẫn nhau, tức là tạo thành cơ tự-diệt.
Sự
thương yêu của Đức Chí-Tôn đối với nhơn-loại vô lượng vô biên, không có
giới-hạn nào mà tả ra cho cùng tận được. Ví như một gia-đình phận làm cha mẹ
thấy một bầy con nghèo nàn khổ não thì biết rằng cha mẹ thương con là thể nào.
Còn trong thế-giới từ vật-chất côn trùng, thảo mộc, thú cầm cho tới nhơn-loại
đều là con chung của Đấng Tạo-Hóa thì sự thương yêu của Đức Chí-Tôn bao la
quảng-đại chẳng biết tới đâu là bờ bến. Những sự bi ai thống-khổ của chúng-sanh
ở cõi trần nầy bao nhiêu, thì sự thương-tâm đau đớn của Đức Chí-Tôn cũng bao
nhiêu.
Chơn-Luật
Thương Yêu của Thầy lập ra, nhơn-sanh chưa thi-hành thì mặt luật ấy đã buộc
Thầy thực-hành trước hết. Nên Thầy giáng cơ nói rằng: " Sự khổ hạnh của
các con chưa than, thì Thầy đã than trước. Các con chưa khóc thì Thầy đã khóc
rồi.
Ngày
nào toàn cả nhơn-sanh biết thật-hành chủ-nghĩa Thương Yêu cho ra chơn tướng thì
tức nhiên là ngày của nhơn-sanh thoát khổ."
Tóm lại: Con người cùng vạn-vật đều do nơi luật
Thương Yêu mà tiến-hóa lên đến các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, hiệp một cùng
Đức Chí-Tôn gọi là cơ đoạt Đạo.
"
Thương Yêu là chìa khóa mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh ".
Làm
thế nào thực-hiện sự Thương Yêu?
Vẫn biết mặt luật Thương Yêu là như thế nào rồi,
danh-từ Thương Yêu ai cũng biết nói nhưng khó thật-hành cho ra chơn-tướng.
Thử nghĩ : Anh em trong gia-đình bất hòa là do đâu
? - Là do không biết thương yêu với tình cốt-nhục. Vợ chồng gây gỗ, chia rẽ
nhau là do đâu ? - Là do không còn giữ sự thương yêu như buổi ban đầu. Anh em
bậu bạn bất hòa, xích-mích, thù nghịch là do đâu ? - Là do thiếu sự thương yêu.
Một đoàn-thể rối loạn, hàng ngũ ly tán là do đâu ? -Là do thiếu sự đoàn-kết
thương yêu. Nhơn-loại bất hòa, sát hại lẫn nhau, sanh ra chiến-tranh là do đâu
? - Là do đã mất sự thương yêu trong tình đồng-loại. Sự thương yêu xuất phát
nơi lòng nhân, thương người mến vật, khoan-dung rộng lượng trước sự sơ-sót, lỗi-lầm
của người. Biết đau đớn khi thấy cái khổ của người. Biết gây cảm tình trước
nghịch cảnh. Biết động lòng trắc-ẩn trước cảnh-trạng bi-đát thương tâm của
người.
Thương yêu đối với một người mà ta kính, ta mến, ta
ưa thì rất dễ. Trái lại, thương yêu người đang ghét ta, đang thù ta mới là khó,
nhưng khó mà làm đặng mới đáng quí, mới phi thường.
Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Jésus Christ có dạy :
" Hãy thương yêu kẻ thù nghịch mình. Làm lành
cho kẻ ghen ghét mình. Chúc phước cho người nguyền rủa mình. Cầu nguyện cho kẻ
lăng mạ mình. Ai vả má ngươi bên nây, hãy đưa luôn má bên kia.
Nếu các ngươi thương yêu kẻ thương mình thì có ơn
chi ? Vì ai ai cũng thương yêu kẻ thương yêu mình. Nếu các ngươi làm lành cho
kẻ làm lành với mình thì có ơn chi ? Vì ai ai cũng làm như vậy được."
Đức Hộ-Pháp cũng đã dạy :
" Chúng ta thương yêu bà con thân thuộc là
kiếm xu và bạc cắc. Thương rộng ra nhơn-quần xã-hội là kiếm bạc đồng bạc chục.
Thương cho được kẻ thù của mình là kiếm vàng khối đó vậy."
Nếu chúng ta thật hành được sự thương yêu tức là
chúng ta đã đạt được Chơn Luật của Đức Chí-Tôn, là bí-quyết của cơ đắc Đạo. Đó
là "Chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Đài
tại thế nầy vậy "./.
Phụ bản tiếng Anh.
Dai Dao Tam Ky Pho Do
Nhi Thap nhi nien
Toa Thanh Tay Ninh
* * *
Van Phong Ho-Phap
Duong, N°: 209
METHOD OF TRAINING THE SELF
TO ENTER THE THIRD GREAT WAY /CAODAISM
Be closely related to
all beings,
i.e seek the source of
all living creatures and spirits.
Be graceful and
tolerant.
Be free in your mind,
never selfish.
Be serene, i.e do not
be influenced by bad or good luck/karma,
sorrow or joy -
ultimate being, accept happiness and sorrow ,
but do not let the
poisonous barbs of happiness and sorrow
permeate your true
nature.
Be generous,
considerate and forgiving.
Be cheerful, moderate,
self controlled and decisive.
Conscience is the
principle for all.
Have filial piety to
God and the Holy Mother.
METHOD OF CULTIVATING THE HEART-MIND
AS IT IS THE IMAGE GOD'S CONSCIENCE
Faith and wisdom are
the most valuable treasure;
anything else is
wasteful.
Those who hate their
enemies
cannot be calm and
impartial persons.
Those who do not hate
will win over their enemies.
Hatred is the greatest
sorrow of human beings.
Therefore a true person
(good person) never thinks of it or avoids it.
Overcome your anger so
that you do not enrage others.
Use good to overcome
evil.
Use kindness to
overcome cruelty.
Be generous to overcome
selfishness.
Use right to overcome
wrong.
That is the Magic Sword
of Wisdom.
METHOD OF TRAINING
THE PHYSICAL BODY AND THE MIND
Eat pure food.
Think pure thoughts.
Have a strong faith in
God and the Holy Mother.
Love immensely.
All this is the key to
open the door of
Bat-Quai-Dai rightly in
this earthly life.
Toa Thanh, ngay 14
thang Gieng nam Dinh Hoi (1947)
Ho-Phap
(Ky ten & dong dau
)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét