(tiếp theo)
Huống
chi vợ nắm quyền nội trợ,
Mà
khinh khi làm lỗi ra hèn.
Tuy
cho rằng tục cũ lề quen,
Mình
có thể sửa hèn ra trọng.
Chẳng
phải nhủ gái trai theo Khổng,
Nhưng mà,
Cuộc
giao hôn trân trọng sửa đôi điều.
Tỉ như:
Tài
bắn sẻ trai dầu chẳng thiếu,
Thì
phép hòa tiêu gái liệu cho vừa.
Hễ
đôi đàng ý hiệp duyên ưa,
Khoan.
Đừng
vội đổ mây mưa trên đảnh giáp.
Chửng mới,
Tìm
Trí-Viễn là tay diệu pháp,
Đưa
đường phàm cho ráp cung thiềm.
Sông
Ngân-hà sóng gió coi êm,
Cậy
quạ bắt cầu thêm cho dễ gặp.
Chừng đó,
Đờn
Tư-Mã lên dây cao thấp,
Trác
Văn-Quân đường lấp cũng leo tường.
Hễ
thiệt thương ắt gặp người thương,
Khi
giao mặt kỉnh nhường câu tuyết ngọc.
Đừng
ham thói trên dâu dưới bộc,
Muốn
yêu nhau đừng học chước khi nhau.
Nữ
hễ khôn đào lý ngăn rào,
Càng
chặt giữ càng cao trọng giá.
Trai
đừng thấy đỗ hoa vội vã,
Thả
con ong nút phá nhụy hồng.
Gái
có chồng trước lúc động phòng,
Trai
có vợ trước dâng lễ hỏi.
Nếu
phải nợ tránh đâu cho khỏi,
Phòng
dụng tình buộc trói lấy nhau!
Đừng
làm cho hổ phận má đào,
Xưng
quân tử làm sao đáng mặt.
Chồng
vợ ví keo sơn gắn chặt,
Càng
thương nhau thường nhắc lúc sơ giao.
Nếu
trước xuân để thẹn má đào,
Hễ
càng nhắc đến càng đau lòng bạn.
E
cho gái để lòng xét cạn,
Thấy
gió trăng mà ngán tánh ông chồng.
Nghĩ đa!
Nghĩ
đến cảnh mình còn như thế cảnh ai không,
Chàng
sao ắt đổi lòng bỏ thiếp.
Duyên
dầu đặng tâm đầu ý hiệp,
Cũng
ngại lo chầy kíp phụ phàng nhau.
Cứ
nâng niu trao đóa yêu đào,
Sợ
rủi úa phai màu chồng chẳng ngó.
Mới
sanh tật ngăn mưa đón gió,
Sợ
chồng tham sắm đó cùng đăng.
Chờ
gặp cơn hoa cợt đài trăng,
Bủa
lưới bắt ả Hằng đem nhốt rọ.
Tánh
đoan chánh dầu cho chẳng có,
Vợ
nghi hoài cũng khó cho mình.
Mỗi
bước đường đi cũng theo rình,
Ghen
nói bướng người khinh thêm khó chịu.
Bởi
trước chẳng dằn lòng khéo liệu,
Vợ
ghen rồi khó biểu đừng ghen.
Cũng
như người ghiền rượu đã quen,
Hễ
vừa bắt hơi men thì ngáp vắn.
Khá
giữ dạ lời xưa căn dặn,
Dạy
vợ hay nhờ đặng buổi sơ giao.
Mình
không cao nếu muốn làm cao,
Gặp
gió ái đừng xao đầu tử trước.
Tục
thường ví Nữ Nam như lửa nước,
Dựa
mình ngà nhịn được mới là hay.
Khó
mà hơn mới gọi là tài,
Dễ
mà thắng nào ai chẳng có.
Đợi
chi gặp tiểu thơ mặt lọ,
Mới
dằn lòng chẳng ngó cuộc truy hoan.
Dầu
may duyên gặp khách quảng hàn,
Cũng
cột chặt vững vàng gió túi.
Đừng
tập tục vào lòn ra cúi,
Nổi nợ duyên may rủi phú tay mai.
Đừng ngại gì hai chữ gái trai,
Nếu không có gái trai không chồng vợ.
Đã quyết đoán may duyên rủi nợ,
Thà nợ duyên hay dở định nơi mình.
May gặp duyên há hỏi ai xin,
Rủi gặp nợ ai binh toan đến gỡ.
Nhiều trai gái duyên hài lỡ dở,
Tại chim xanh dụng mở mối đường.
Đạo vợ chồng là đạo tào khương,
Mình
đi nỡ cậy nương ai lập sẵn.
Tình
chung thủy ví dầu nồng mặn,
Lại
nhờ ai lên thẳng mối tơ.
Nổi
tông môn hương lửa phụng thờ,
Dạy
con cháu há chờ kẻ giúp.
Gây
sự nghiệp sang hèn vinh nhục,
Đừng
cho ai kể chút công gì.
Gẫm
sự đời thị thị phi phi,
Hễ
nhiều cậy e khi ra nhiều nhục.
Lắm
mồm mép so đo từ chút,
Hằng
kể ơn lúc giúp chọn đôi.
Hễ
thọ ơn người thì phải trả cho rồi,
Ơn
định vợ nghĩ thôi nên thẩm trọng.
Thà
chịu khổ a vào lạy khống,
Cùng
nhạc thân mềm mỏng cầu duyên.
May
gặp cơn lặng nước êm thuyền,
Mình
dễ thế giao nguyền cùng thục nữ.
Đừng
chùng lén mà ra sanh sự,
Hạnh
đoan nghiêm giữ tánh trang hoàng.
Gặp
điều chi ví muốn hỏi han,
Cứ
cửa giữ chun ngang định liệu.
Phải
xét nét phận mình đủ thiếu,
Liệu
coi mình có hiểu bước đào nguyên.
Tỉ
nhạc thân đòi ngọc Lam Điền,
Mình
phải đủ phép Tiên trồng đặng ngọc.
Đừng
đợi đến ôm cầu mà khóc,
Nước
ngập mình tơ tóc đều trôi.
Chừng ấy,
Đừng
than rằng mạng bạc như vôi.
Tại mình,
Mua
vung chẳng nhắm nồi miệng méo.
Phải
cho khéo mới ra tài khéo,
Liệu
vụng đừng nắm kéo cắt đồ.
Lỡ
tay làm ra áo lộn hò,
Mà
bị chúng phạt cho bận trái.
Muốn
cho đặng cao nhơn trọng ngãi,
Nhứt
bộ dầu tam bái cũng cam đành.
Thà
cầm đèn thủ tiết tàn canh,
Hơn
thụt lỏ như mèo rình ăn vụng.
Làm
bên gái mẹ cha nghi bụng,
Sợ
khó bề lấy thúng úp voi.
Hễ
đuổi dê thì cậy con roi,
Muốn
rượt thịt thổi còi khiển chó.
Cha
mẹ gái mắt hay dòm ngó,
Sự
dại khôn hiểu rõ hơn mình.
Nỗi
sợ con giá ngọc chẳng gìn,
Sợ
nỗi rể đoạn tình chẳng cưới.
Cô
bác gái mất ăn xúm chưởi,
Bị
khô mồm miệng lưỡi đều khua.
Nỗi
xóm riềng xúm lại nói hùa,
Xử
đặng thất hơn thua cho té thịt.
Già
lụm cụm chúng hành sanh nghịch,
Giận
lẩy đương xích mích rể con.
Ví
biết trai nhơn nghĩa giữ tròn,
Để
liếm láp sợ mòn chi chút gái.
Trông
gặp rể đông sàng biết phải,
Bên
nhạc gia cũng lạy mà dâng.
Vì
sợ e bụng gái không chừng,
Giận
Nam Việt vùng ưng Ngoại quốc.
Ấy,
Bần
Đạo cũng là còn giữ tật,
Quen
hoa lơn lất khất ghẹo đời.
Gặp
mấy cô nghiêm chỉnh ít cười,
E lỡ
tiếng chọc cười trổ quạu.
LÀM
VỢ
(Làm dâu)
Gái
dầu giữ tam tùng trọn đạo,
Vâng
lịnh chồng dạy bảo cũng như cha.
Thân
lìa cha lìa mẹ lìa nhà,
Tỷ
chẳng khác như hoa lìa cội.
Chịu
phận gái kiếp sanh đã rủi,
Đành
ép mình lòn cúi nhà người.
Đạo
dâu con vui chẳng dám cười,
Đôi
phen gạt lụy rơi không dám khóc.
Tiếng
đời ví dâu là nội bộc,
Lại
gọi rằng ngoại tộc nữ sanh.
Giây
cát đằng tỉ phận mỏng mành,
Cội
tòng bá đã đành nương gởi phận.
Còn
chịu tiếng yếm mang quần vận,
Đành
cho ai hiếp lẫn cứ theo chiều.
Một
nhành xuân giá đáng bao nhiêu,
Cũng
đành chịu nạp liều tay quân tử.
Thân
yểu điệu chịu danh thục nữ,
Để
cho ai rộng chữ hảo cừu.
Hễ
bỏ qua bên đám nữ lưu,
Giống
như hạng đồ lưu ra ngoại bộ.
Ôi,
xấu kiếp số, thảm cho kiếp số,
Gẫm
sự đời đáng hổ kiếp hồng nhan.
Chẳng
khác nào vật dụng dưới màng,
Vì
đẹp mắt món hàng ra quí lạ.
Ủa lạ này:
Phàm
quí lạ thì là trọng giá,
Vì
cớ nào ném bạ bỏ thừa.
Cũng tại bởi:
Gương
tích ghi để lại từ xưa,
Sức
gái chẳng so vừa bên nam tử.
Chẳng
biết trọng lấy mình khéo giữ,
Lại
hạ mình làm thứ trò chơi.
Nhục
thanh lâu kìa trước con người,
Hổ
thay chúng miệng cười chẳng nhiếp.
Cớ
hiển hiện nào ai nói hiếp,
Phòng
toan phương ứng tiếp binh lời.
Bụng
mang đầy quyền phép nắn đời,
Đời
trở nhục ai ơi có thấu!
Đã
đủ thế sửa đời tốt xấu,
Mà
hổ hang cô lậu tại nơi nào.
Bởi
bo bo chuộng nết yêu đào,
Chẳng
đếm bực thư hào đồng phẩm vị.
Tưởng
sắc đẹp Tây Thi là quí,
Chẳng
học đòi mưu trí Lệ Quân.
Ham
Chiêu Quân trọn nghĩa phụ thần,
Hơn
giúp Hớn Tôn Phu-Nhân gươm cật ngựa.
Dầu
phải nợ ba sanh hương lửa,
Kết
bạn nhau phải lựa khách tâm đầu.
Mặt
anh hùng ở tại nơi đâu,
Phải
kén chọn gieo cầu cho đáng.
Ở
trần thế phẩm người nhiều hạng,
Phải
trí mưu tính toán liệu vừa đôi.
Cá
nhỏ to câu bởi miếng mồi,
Thấy
chồng định biết ngôi của vợ.
Đừng
chụp giựt thành ra hốt mớ,
Rủi
một hồi làm vở lỡ đến trăm năm.
Lại
sợ ai ăn trộm ở thầm,
Coi
phải phận trao trâm đừng ái ngại.
Đừng
cậy kẻ nhủ lời khôn dại,
Cuộc
nợ duyên trái phải tự nơi mình.
Hễ
mình khinh thiên hạ mới xem khinh,
Còn
mình trọng ai mong làm mất trọng.
Niềm
chồng vợ vui buồn chung cộng,
Chữ
ái ân thác sống gởi thịt xương.
Đã
biết nhau nên đạo cang thường,
Đã
thương khá bền thương đừng đổi dạ.
Đẹp
chi giống quần van áo vá,
Mà
đổi thay mới lạ khách tình chung.
Nếu
trăm năm thề vẹn câu tùng,
Dầu
sống thác chữ đồng hằng nắm chặt.
Như
cầm viết, viết ra cũng ngặt,
Lắm
đờn bà tốt mặt xấu lòng.
Đời
hằng chê nhà gái lộn chồng,
Ông trước mắt còn mong loan chạ.
Nghĩ xưa buộc chính chuyên chẳng
lạ,
Vì
sợ đời dĩ Mã diệt Ngưu.
Nối
tông môn dài đến cửu lưu,
Nếu
chẳng giữ thước cưu pha lẫn giống.
Lòng
vợ khó biết sao khinh trọng,
Như
cầm hoa khó hứng mùi hoa.
Lỡ
bất bình con chẳng giống
cha,
Làm lếu giống chà và ma ní.
Vô phước chịu trồng bầu ra bí,
Chẳng
khác nào mua khỉ làm chồn.
Chừng đó mới:
Không
lẽ đem đào lỗ mà chôn,
Đành
nhìn nhận đồng phồn cùng kẻ lạ.
Thiệt
bịnh liến của tôi cũng quá,
Vẽ
thật tình mấy ả chênh lòng.
Thôi,
nói sơ sơ như thế cũng xong,
Kẻo
họ xé sách không thèm đọc.
Đạo
chồng vợ muốn bền tơ tóc,
Gương
tề mi khá học Mạnh Quang.
Đã
vợ chồng đừng kể hèn sang,
Dầu
chồng kẻ bần hàn cũng chúa.
Vợ
chồng phải xứng đôi như đũa,
Đừng
ỷ giàu có của dể duôi chồng.
Dầu
nghèo hèn chồng của vợ công,
Hiệp
sức tát biển đông cũng cạn.
Đừng
thấy khó mà lòng xao lãng,
Chuộng
nơi sang đổi bạn thay đôi.
Biển
ái kia bờ lỡ khó bồi,
Non
thề nọ đảnh trôi khôn lấp.
Gọi
duyên nợ đừng lòng cố chấp,
Sự rủi may cao thấp cam đành.
Xưa Nga Hoàng lại với Nữ
Anh,
Theo
vào chốn điền canh cùng ông Thuấn.
Trước
ưng chịu duyên vầy Tần-Tấn,
Hơn
thua chi còn lấn hiếp nhau.
Tay
trượng phu cầm mảnh má đào,
Tranh
vai kép vai đào chi cho rộn.
Lỡ
gặp phải ông chồng ngu độn,
Đừng
ỷ khôn nói hỗn ngang tàng.
Rủi
đụng chồng đói khó nghèo nàn,
Đừng
lấn lướt làm ngang nhiếc lúng.
Đừng
dọ ý chồng thương chiều bụng,
Mà
bắt hơi làm nũng đòi bồng.
Đừng
thấy chồng tình ái mặn nồng,
Mà
cậy chút vẻ hồng làm lợi khí.
Chồng
dầu nghĩ thương yêu tuân vị,
Đừng
dùng lời hồ mị xúi hư.
Đừng
thấy chồng có dạ nhân từ,
Mà
trổ dữ làm nư lấn lướt.
Chồng
đạo đức biết cân tội phước,
Đừng
sanh tâm gian ngược dối lường.
Đừng
thấy sanh con dại chồng thương,
Ỷ
chức mẹ dựa nương lấn thế.
Đừng
thấy đặng nghiệp nhà tử tế,
Mà
toan mưu tính kế buộc ràng.
Lời xưa ví:
Hễ
vợ khôn chồng đặng nên quan,
Còn
chồng khéo vợ sang đi dõn.
Chẳng
cần kể ra chi nhiều món,
May chồng hên vợ bón cũng no.
Nếu ông chồng đủ vững tay co,
Vợ đau bịnh giả đò cũng hốt thuốc.
Cười chơi:
Đạo
chồng vợ duyên Trời đã buộc,
Giữa trần hoàn gây cuộc tang thương.
Chồng
như người dẫn lộ chỉ đường,
Vợ
là kẻ dựa nương theo bước.
Khi
đau ốm nào ai gần được,
Lo
đỡ nâng thang thuốc hơn chồng.
Cơn
sản sanh bếp lửa nồi xông,
Nuôi
con dại, vợ bồng, chồng dắt.
Càng
đau khổ trong cơn nghèo ngặt,
Càng
yêu nhau giữ chặt chung tình.
Hễ
trông con ơn nghĩa vẹn gìn,
Nhớ
pha lẫn máu tinh nhồi nắn.
Cực
với trẻ nghĩa nhơn càng nặng,
Hình
hài con há đặng xẻ chia đôi.
Hễ
cát đằng nhảy lá xanh chồi,
Thân
tòng bá càng tươi thêm vẻ đẹp.
Chồng
ví đặng cửa quyền nắm phép,
Phàm
chăn dân phải ép giữ nghiêm hình.
Vợ
nhơn từ lê thứ đều bình,
Dẫu
tội trọng cầu xin chồng chế giảm.
Phải
thường viếng tù lao nơi khám,
Mà
khuyên lơn kẻ phạm răn mình.
Đờn
bà thường có phép hiển linh,
Người
vâng phục vì tình dạy dỗ.
Cứu
bịnh hoạn giúp người nghèo khổ,
Thế
cho chồng cứu độ muôn dân.
Dầu
giàu sang ăn kiệm ở cần,
Nhịn
mớ áo che thân cho kẻ khó.
Năng
thân cận những trang hiền ngỏ,
Trọng
tôn ti tỏ rõ phẩm người lành.
Xa
những phường trục lợi xu danh,
Đến
bợ đỡ đặng dành đi ngõ hậu.
Tránh
những bọn tay dơ miệng xấu,
Hễ
trị người phải biết thấu tánh tâm người.
Làm
sao cho đảng nịnh hổ ngươi,
Người
trung đặng vui cười hớn hở.
Phải
phân biệt hay hay, dở dở,
Đặng
toan phương thế đỡ nâng người.
Đừng
dựa chồng ỷ thế ỷ thời,
Vinh
một thuở trọn đời còn để tiếng.
Lời
tục ví: Làm quan hai miệng,
Ngoài
miệng ông trong khiến miệng bà.
Mình
vợ quan đáng phận mẹ cha,
Phải
yêu mến trăm nhà như con đỏ.
Rủi
để bước cửa công là khó,
Phần
nhiều xem dễ khó tại nơi bà.
Bà
những hay có tánh lo xa,
Lo
hưu trí về nhà toại hưởng.
Ý, chà chà,
Trí
Bần Đạo ngày nay sanh chướng,
Viết
tầm khào nói bướng chọc hờn.
May là:
Mấy
chị mình đạo đức phần hơn,
Nên
chẳng kể chẳng sờn lời bậy bạ.
Chồng
giàu có ruộng sâu trâu cả,
Sự
nông tang lúa mạ phải rành nghề.
Phải
chăm nom cấy, gặt, đập, dê,
Nuôi
công đủ mọi bề đừng thiếu thốn.
Phân
mắc rẻ lòng đừng sợ tốn,
Bỏ
cho nhiều ruộng trộn cho đều.
Hễ
tốt phân thì gặt lúa nhiều,
Đừng
hà tiện bỏ liều lúa thất.
Dạy
trẻ tớ sự nhà tiêm tất,
Cuốc,
cày, bừa còn mất phải coi chừng.
Hễ
tiếng còi vừa túc bửng tưng,
Phải
thức sớm theo chân công cấy.
Nghề
nghiệp cũ từ xưa giữ vậy,
Việc
cày bừa phải quấy để ông chồng.
Làm
sao ra mười giạ một công,
Vợ
cứ chỏng chòng mong cấy gặt.
Cho vay lúa miễn đừng tính mắc,
Đừng thấy người thắt ngặt bắt đong nhiều.
Lúa mình nhiều lúa lép phải dêu,
Đừng để vậy trộn đều đong bán.
Phàm tiếng giạ thì là một hạng,
Đừng đong non góp xáng giạ già.
Ép tá điền lễ vịt lễ gà,
Đến khi chết làm ma tu hít.
Đừng ham nặng cân nhiều lúa ít,
Ngâm lúa cho nở hít cho tròn.
Nếu lái buôn biết kế đút lòn,
Hại lúa phải nảy con ra mộng.
Trâu cày cấy bớt điều đòn bọng,
Nuôi kỹ cang nó sống mình giàu.
Giảm bớt nghề ăn mắm và rau,
Thường thịt cá giải lao trẻ
ở.
Vì
thấy cực không làm mắc cỡ,
Phận
nông tang hay dở lắm điều cười.
Vậy
thôi thì Bần Đạo giữ lời,
Bớt
bớt sự nói chơi kẻo tội.
Trăm
nghề nghiệp dầu nghề hát bội,
Tập
ông chồng nói lối cho hay.
Chồng
rao nam hơi chẳng đặng dài,
Vợ
hát khách bằng hai giúp sức.
Nghề
đờn thổi chồng hay đúng bực,
Hát cho hay chồng tức hòa theo.
Giọng éo le đổ hột cho reo,
Chồng rán chí nhấn theo đúng ngón.
Nghề thầy pháp là nghề tiểu mọn,
Chồng lấy Hồng đừng đón đánh ghen.
Chồng có tài theo phía thợ rèn,
Vợ phải tập cho quen thổi bễ.
Nghề thợ mộc tuy coi rằng dễ,
Đồ không hay cũng tệ món hàng.
Vợ xem chừng bào, búa, đục, chàng,
Coi có lụt làm ngang mài bén.
Những kiểu vỡ thợ hay coi lén,
Thấy chi hay quen tiếng khen dồi.
Đồ xấu đem đi bán lôi thôi,
Đồ khéo cứ để ngồi nhóng giá.
Hàng ngày kiếm kiểu hay mới lạ,
Dục cho chồng nghề khá nghiệp hay.
Người thợ hay dầu đủ thiên
tài,
Cũng
kiếm đặng cơm nhai hai bữa.
Hễ
biết dở thường ngày chế sửa,
Nghề
hay làm thường bữa mới rành nghề.
Có
chi hèn hơn tiếng vợ chê,
Dầu
cứng cổ cũng ghê miệng vợ.
Thấy
mỏi mệt để lời bợ đỡ,
Mồ
hôi tuông khá nhớ lau dùm.
Thương
thân chồng chẳng đặng thong dong,
Nuôi
con vợ đủ dùng tay chẳng nghỉ.
Hễ
làm vợ để lòng xét kỹ,
Nhọc
thân chồng càng nghĩ trọng ân tình.
Rủi
nghèo hèn đói khó hỏi ai xin,
Cũng
một mảnh thân hình chồng lam lụ.
Với thế sự muốn cho no đủ,
Phải cậy công kêu hú ông tiền.
Hễ có tiền thì mới có quyền,
Nghèo dầu ở thị thiềng thân cô độc.
Sợ viết nữa đờn bà lại khóc,
Mình nhẹ lòng họ chọc rơi châu.
Mình
đa sầu đừng ghẹo thêm sầu,
Thà
cà rỡn vinh râu chơi khoái chí.
Hàng
dầu chẳng nên ra giá quý,
Quý
là vì tình ý người buôn.
Trả
thấp cao phải chẳng đừng buồn,
Với
ai cũng ra tuồng dịu ngọt.
Người
đời có tánh ưa nịnh hót,
Mình
mỏng mềm mới gọt cho trơn.
Nhiều
bạn hàng làm bảnh nói hơn,
Mình
vui vẻ đừng hờn lại trọng.
Gặp
lắm đứa du côn tánh nóng,
Mình
bãi buôi trở giọng hiền từ.
Dầu
chê hàng đồ bỏ của hư,
Cũng
nhẫn nhịn cứ ừ chịu phải.
Lời
tục ví: Mua xin, bán lạy,
Hễ
kết nhiều nhân ngãi đắt hàng.
Mắt
tinh đời độ khách dân, quan,
Hèn
sang cũng bạn hàng đồng thể.
Gặp
quan cũng đãi đằng tử tế,
Gặp
dân thì thủ lễ kỉnh nhường.
Chiêu
mối hàng đặng kẻ yêu đương,
Ắt
có thuở khai trương tiệm lớn.
Đừng
hổ thẹn đôi khi phải giỡn,
Cùng
người mua lấy trớn đến thường.
Nhiều
đờn ông có tánh hay thương,
Thấy
tử tế tư lương nhớ đến.
Làm
sao đặng người người đều mến,
Lấy
ngôn từ rủ quến người mê.
Đờn
bà hay quen tánh nhúng trề,
Ở
chiều dạ đừng chê tánh hạnh.
Hễ
họ muốn hay so hay sánh,
Mình
lại thường khoe lãnh, khoe hàng.
Hễ
họ mê những ngọc những xoàn,
Mình
lại cứ khoe vàng kiểu mới.
Hễ
thấy họ phấn son thơ thới,
Mình
lại dâng cho tới dầu thơm.
Hễ
gặp người ham đẹp chờm hờm,
Dầu
của quí đừng hờn nhịn lại.
Muốn
ra mặt là người xử phải,
Vật
ít tiền đừng ngại cho không.
Rán
chung lo buôn bán cùng chồng,
Đờn
bà bán đờn ông coi tính toán.
Phải
dậy sớm đừng ham ngủ nán,
Đứa
ở ăn đứng bán khuân đồ.
Thăm
chừng hàng tính số ra vô,
Định
giá trước món đồ thường dụng.
Nhớ
những vật người ta ưng bụng,
Tính
tiền bằng cho đúng kỳ giao.
Miễn
bán nhiều hàng chạy đặng mau,
Dầu
lời ít, lời cao hơn mắc giá.
Coi
đứa ở hay tham bậy bạ,
Thấy
nhà quê nói giá thêm cao.
Bán
lấy lời đặng bỏ hồ bao,
Làm
mích bụng ngày sau người chẳng đến.
Vợ
dầu đặng ông chồng yêu mến,
Sự
nhọc nhằn rù quến tình nhau.
Đợi
chi xinh mày liễu má đào,
Mới bền giữ phụng giao chung gối.
Dầu bãi biển, năm non cũng lội,
Lựa cực thân gia nội thế quyền.
Lấy đau thương làm thuốc cầm duyên,
Pha thảm khổ hương nguyền kia
mới đượm.
Vợ
chồng khó muối dưa tối sớm,
Còn
thương nhau hơn bợm sang giàu.
Thà
tảo tần mơi cháo, chiều rau,
Biết
thủ nghĩa hơn nhà cao cửa rộng.
Đừng
học khách lầu hồng đánh bóng,
Nói
với chồng dùng giọng cầu cao.
Lo
điểm trang phấn sắc áo màu,
Coi
tương tợ như đào hát bội.
Muốn
dạy biểu ông chồng quì gối,
Chịu
cúc cung đặng dọi mới vừa.
Bắt
lễ nghi muốn buộc chồng thưa,
Muôn
sự khiến phải thừa theo lịnh.
Tóm
quyền thế một tay chấp chánh,
Bắt
chồng hầu như lính hầu quan.
Những
điều chi của lịnh bà tràng,
Ông
không phép hỏi han đến nữa.
Sự
ăn uống phát phân từ bữa,
Đến
việc chơi cũng lựa cho chơi.
Đày
đọa chồng thở chẳng ra hơi,
Buộc
chồng sợ vâng lời nhắc nhắc.
Tưởng
bà mẹ có lòng khổ khắc,
Chưa
hành con thắt ngặt dường này.
Đạo
vợ chồng như thể sợi dây,
Kéo
thẳng quá có ngày phải đứt.
Chồng
dầu thiệt là anh ngỗng đực,
Hiếp
quá chừng phát tức trổ hành hung.
Nổi
tam bành xô hất khỏi mùng,
Chừng
ấy khóc lo chung xuống ghế.
Một
hạng nữa lại thêm quá tệ,
Đời
ngạo kêu là bọn ế chồng.
Hằng
gọi mình trí sáng chữ thông,
Xem
dưới mắt ít đờn ông đáng mặt.
Những
mảng tính kén tài lựa sắc,
Nỗi
thân mình lại ngặt không duyên.
Muốn
qua sông mà để lựa thuyền,
Tới
rút cuộc kết nguyền cùng chú lái.
Lái
thì lác, lời xưa chẳng sái,
Đem
văn chương thết đãi không ưa.
Lại
ép lòng chú họa thơ xưa,
Chú
ngơ ngáo thừa ưa lén trốn.
Chừng ấy mới:
Tính
lời lớn mà ra lỗ vốn,
Nhưng mà:
Nhắm
đoàn buôn còn bộn bạn hàng.
Viết
diễn văn đem dán cùng đàng,
Trông
có mặt người sang giúp sức.
Ngồi
mà đợi vắng hoe cũng ức,
Mới
mang hàng lấy lực ra rao.
Khắp
xóm làng chẳng kẻ mời vào,
Hàng
xấu mã giá cao đành bán ế.
Hễ
nghèo ngặt tính ra bề thế,
Ngồi
đầu đường quạt trà quế kiếm tiền.
May có ngày gặp đặng ông Tiên,
Ông thương buộc mình ghiền cũng chịu.
Hay cho điệu mà cũng quê cho điệu,
Vì:
Trong phong trần hằng thiếu khách đồ thơ.
Để cho ai phải phận dật dờ,
Mà chẳng kẻ tay dơ bộ sách.
Dầu
xử thế cũng cho biết cách,
Đạo
vợ chồng hắc bạch cứ phân minh.
Mình
kiếm tình ắt đặng gặp tình,
Nếu
ưa nghiệt không xin mình sẵn nghiệt.
Xem
từ trước anh thư nữ liệt,
Dầu
đến điều chẳng tiếc phận đào thơ.
Đạo
tam tùng nhờ một lòng thờ,
Tay
yểu điệu dám dơ nâng thổ võ.
Kìa
tích đẹp gương hay rán ngó,
Tập
cho nên chồng ngỏ vợ hiền.
Nhờ
Ơn Trên dầu toại thửa nguyền,
Đành
có thuở vợ Tiên, chồng Phật.
LÀM
DÂU
Ơn cha mẹ sánh tày Trời
Đất,
Nỗi hiếu thân đừng thất
đạo hằng.
Cha mẹ chồng tuy gọi tiếng
rằng,
Phải cung phụng cũng bằng
ruột thịt.
Đời hằng nói dâu hiền thì
ít,
Còn những nàng ngổ nghịch
thì nhiều.
Đừng ỷ chồng có dạ mến
yêu,
Mà khi dễ chẳng chiều cha
mẹ.
Tuy vân chẳng công sanh
công đẻ,
Trời đổi thay cha mẹ lẽ
cân đồng.
Hễ đã sanh ra đặng ông
chồng,
Còn chồng vợ lại hòa chung
huyết khí.
Muốn suy nghĩ ra cho cạn
lý,
Hễ sanh chồng tức thị sanh
mình.
Ruột của chồng vợ chẳng
phép khinh,
Vì chồng vợ đã đành hòa
lại một.
Đã cha mẹ đừng chê xấu
tốt,
Chẳng lẽ già da lột sống
đời.
Nợ dưỡng sinh gắng trả cho
rồi,
Khi hôm sớm dưỡng nuôi hết
dạ.
May cha mẹ của tiền
đặng khá,
Rán kiếm dâng miếng lạ
mùi ngon.
Giữ công cô trọn phận
dâu con,
Đừng để đến hao mòn
thân thể.
Già răng rụng cắn cơm
không bể,
Dâu kiếm phương nhai
thế đút mồi.
Già yếu lưng khó nỗi đứng
ngồi,
Dâu mạnh mẽ rán hơi bồng
ẵm.
Như mỏi gối chân đi lẫm
đẫm,
Dâu chuyển gân chẩm hẩm
dắt dìu.
Già run en nói chẳng ra điều,
Dâu nháy tiếng cho kêu cần cổ.
Già lụm cụm nói năng lẫn lộ,
Dâu có khôn phải độ nghĩa cho ngoan.
Già mập mờ đôi mắt có làng,
Dâu rán chỉ rõ ràng cho thấy thiệt.
Già rủi bị hai tai đều điếc,
Dâu cứ gần giữ việc thông ngôn.
Nàng dâu nào nếu thiệt là khôn,
Thì cứ dính theo trôn bà mẹ.
Chồng đố dám một lời nạnh hẹ,
Chọc bà già bả chưởi mẹ cha.
Sợ bả gan chưởi tới ông
bà,
Lấy trớn chưởi cả nhà ông
vải.
Chừng ấy muốn biết ai khôn
dại,
Tra cho chồng cục ngải
cứng mồm.
Bà rút roi giả bộ theo ôm,
Đưa cán quạt cho bà đơm ít
phát.
Rồi xúi nhỏ thà là mẹ
phạt,
Nịnh mẹ ưng mời bác lại
quì.
Còn làm hơi dính cướng sân
si,
Mét bả tụng đại bi ít
hiệp.
Hễ nghe lịnh mẹ hô ứng
tiếp,
Chẳng mặt nào lấn hiếp
đặng mình.
Chồng hoang đàng cũng cứ
làm thinh,
Chờ gặp dịp cho rinh ống
xoáy.
Hễ lấp ló vào buồng làm
ngãi,
Thì làm tuồng gà mái, nằm
nơi.
Hành chết thèm, chết khát
đã đời,
Rồi cũng cứ khuấy chơi
theo mét mẹ.
Bần Đạo chắc dầu chồng ông
kẹ,
Bị vài lần có lẽ cũng nhăn
răng.
Hễ trừ yêu thì triệu bà
chằng,
Trị chồng dữ băng hăng mét
mẹ.
Cần chi phải đánh ghen cấu
xé,
Muốn trừng heo dụng kế
treo hèm.
Dầu vật ngon ăn quá cũng
đã thèm,
Chừng nhớ mắm mình đem bán
mắc.
Việc chi trọng nhờ cơn
thắt ngặt,
Dầu cũ co bán đắt mắc
thành vàng.
Đừng để ai ỷ của làm
ngang,
Hễ quá phép la làng đến bắt.
Xin đừng tưởng lời tôi bày đặt,
Mẹ cưng dâu trước mắt thấy thường.
Nếu dâu ngoan hiếu hạnh kỉnh nhường,
Mẹ chồng chắc thương hơn gái ruột.
Cơn bịnh hoạn ân cần
thang thuốc,
Khi rầu buồn dịu ngọt
khuyên lơn.
Làm cho vui đừng chọc cho
hờn.
Già giận dữ một cơn đủ
chết.
Lo dòm sắc coi chừng khỏe
mệt,
Coi miếng ăn, ăn hết ăn
còn.
Nếm đồ ăn miếng dở vật
ngon,
Xem từ món, món hiền, món
độc.
Đồ y phục cần lo chăm sóc,
Dưỡng song thân khó nhọc
đừng sờn.
Chồng dầu sang trọng tước
cao quờn,
Vợ thủ hiếu cho hơn mới
phải.
Lời tục ví dâu hiền là
gái,
Lại gọi rằng rể thảo ấy là
trai.
Làm sao cho nở mặt nở mày,
Cha mẹ ruột có tài dạy
trẻ.
Giữ khuôn phép vào ra thủ
lễ,
Nghe lịnh trên nhậm lẹ
vâng lời.
Nhà vẻn van giữ sạch nơi
nơi,
Trong bếp núc trách nồi
đậy điệm.
Nơi phòng ngủ mùng màn
giặt diệm,
Chốn khách đàng trang điểm
đồ dùng.
Để gió vô khoản khoát cho
thông,
Mặt trời rọi cho cùng khắp
chốn.
Trong hóc hiểm đừng cho
muỗi trốn,
Rưới nước hôi (crésyl)
đừng sợ tốn tiền.
Nhà tối tăm bực bội gợi
phiền,
Còn sáng láng tự nhiên
vui vẻ.
Đồ màu trắng nấu cho
sạch sẽ,
Màu trắng xem thấy khỏe
con người.
Kiễng vật thường tưới nước
cho tươi,
Có cây cối thở hơi tinh
khiết.
Sự mạnh giỏi phép nhà khá
biết,
Giữ vệ sinh cho thiệt nhặt
nghiêm.
Ở trong nhà nuôi thú nuôi
chim,
Nghe có tiếng càng thêm
vui vẻ.
Sắm vật liệu trong nhà đẹp
đẽ,
Đừng kịch thô mất vẻ thanh
nhàn.
Năng chùi lau, tủ, kiếng,
ghế, bàn,
Đừng để đóng làng khan bụi
nhện.
Làm cho kẻ vào nhà thì
mến,
Dầu không mời không quến
khách liền liền.
Cũng có ngày con phải ra
riêng,
Lo học tập cho yêu nghề nội
trợ.
Vợ cần kiệm không cần giỏi
dở,
Dầu dở hay cũng đỡ cho
chồng.
Rán tập rèn nữ hạnh, nữ
công,
Dầu chẳng đặng giàu to
không nổi thiếu.
Khá học phép nuôi con cho
hiểu,
Đặng ngày kia có liệu
phương nhà.
Đạo vợ chồng kế tới đạo mẹ
cha,
Phàm sanh đứng người ta
đều phải vậy.
Bần Đạo viết tới đây hết
giấy,
Luận đạo đời phải quấy nối
theo sau.
Thơ rằng:
Vợ
chồng dầu chẳng phải đồng bào,
Xương
thịt hòa chung buộc nghĩa nhau.
Ngó
trẻ nhìn duyên cơn bạc tóc,
Trông
xuân gìn nguyện buổi xanh đầu.
Thấy
chồng nhọc, vợ thương cha khổ,
Xem
vợ sầu, chồng nhớ mẹ lao.
Thảm
sớt buồn chia trăm tuổi chịu,
Giàu
sang đừng phụ bạn sơ giao.
PHẬN
LÀM CHA
Cha
mẹ rủi sanh con hung bạo,
Tội
dưỡng nhi bất giáo đã đành.
Với
hình hài mình đã sanh thành,
Thì
chữ đạo chữ tình cân đúng giá.
Cơ
chuyển thế nơi tay đả quả,
Thay
mặt cho Tạo Hóa dựng đời.
Vật
tối linh thiên hạ là người,
Cha
mẹ vốn là Trời phần xác thịt.
Phận
nuôi dưỡng tuy vân cần ích,
Phải
dạy răn kẻo nghịch lòng Trời.
Đã
lập đời ắt phải dạy đời,
Đừng
dưỡng ác hại người mang nghiệp chướng.
Khá
nhớ đạo nhơn luân là trượng,
Phép
gia đình có ảnh hưởng đến nhơn quần.
Hễ
biết mình trọng trách thần dân,
Thì
phải biết ân cần bề giáo dục.
Đời
ví gọi phương nhà hạnh phúc,
Là
con nhà nêu đặng chút danh thơm.
Đừng
sanh con đời thấy bắt nhờm,
Tránh
nòi dữ bằng hơn tránh rắn.
May
đạo đức nghiệp nhà có sẵn,
Phương
tề gia khá gắng giữ gìn.
Hằng
bữa trau tánh đức minh minh,
Lúc
chồng vợ giao tình tua để dạ.
Luyện
trí thức thông minh hòa nhã,
Tứ
đổ tường chẳng khá nên gần.
Hễ
thân mình thiểu khí loạn thần,
Thọ
khí bẩm nhâm thần con dại dột.
Cữ
hoa nguyệt bớt đi thì tốt,
Tinh
khí đầy hài cốt trẻ tráng cường.
Khi
giao hoan có độ có lường,
Vợ
bịnh yếu chớ thường lân cận.
Đừng
nhè lúc vợ chồng đương giận,
Mới
vừa vui vầy trận tam bành.
Cũng
đừng quen theo phép dỗ dành,
Ép
buộc vợ thỏa tình hoa nguyệt.
Khi
thấy dạng nhụy hoa đã kết,
Thì
phải toan dứt tuyệt đường ong.
Nghén
ba trăng phải gắng gia công,
Dạy con trẻ còn trong bụng mẹ.
Phải tiếp dưỡng vợ thường mạnh khỏe,
Kiếm
phương làm vui vẻ hằng ngày.
Lựa
chuyện xưa tích cũ cho hay,
Điều
mở trí thường hay luận biện.
Coi
chừng lựa sách, thơ, tuồng, truyện,
Những
phong tình đừng khiến cho coi.
Sự uống ăn xem sóc hẳn hòi,
Trong đi đứng chơi bời cho phải cách.
Thân thể dạy giữ gìn tinh sạch,
Thường thuốc men cho huyết
mạch điều hòa.
Tập quen vui nhắm nguyệt xem hoa,
Ghẹo tính toán cho ra cách trí.
Chọc cho có dịp suy, dịp nghĩ,
Đừng cho gần mấy chị đàn bà.
Hay bày điều nói quỷ nói ma,
Dùng những tiếng rủa gà mắng vịt.
Phép dạy trẻ dạy điều cần ích,
Từ khi còn con nít tới nên người.
Chừng
coi mòi đã đến gần nơi,
Thường
chọc vợ vui cười hằng bữa.
Sắp
đặt trước đừng lòng dụ dựa,
Lo
sẵn sàng bếp lửa nồi xông.
Khi
sản sanh phải có mặt chồng,
Cơn
đau đớn giải lòng người đẻ chửa.
Bút
Bần Đạo ngưng khoan viết nữa,
Đặng
phân tường có chửa dạy con.
Đừng
ngờ con trong bụng còn non,
Hiểu
chi đặng phòng toan dường ấy.
Tưởng
dạy vợ họa may phải vậy,
Nói
dạy con lẽ quấy khó tin lời.
Bần
Đạo đâu vọng ngữ nói chơi,
Dạy
vợ chửa tức thời dạy trẻ.
Những
trí thức tinh thần có lẽ,
Nhiễm
vào tâm chửa đẻ trọn tinh thần.
Có
tinh thần mới có xác thân,
Biến
thân đủ tinh thần quán chúng.
Trí
cao thượng nhiễm từ trong bụng,
Con
đẻ ra chắc đúng bực thông minh.
Tỷ
khác nào tấm kiếng chụp hình,
Có bóng chói đã in mọi vật.
Đầu mới tượng óc còn thiếu chất,
Phân thông minh lật đật bỏ vào.
Cây hưởng phân quý sẽ dường
bao,
Thì
óc trẻ lại nào có khác.
Tính
cha đã thông minh mẫn đạt,
Con chắc là bác lãm quần thi.
Thần mẹ thêm cách vật trí tri,
Con ắt đặng quảng tri thế sự.
Dầu vợ dốt hay là hay chữ,
Nghe điều hay cư xử gia đình.
Phép truyền thần dầu chẳng đặng
linh,
Việc dạy dỗ vợ mình còn chế sửa.
Để ý thấy trẻ thơ nhiều đứa,
Tánh thông minh từ thuở mới lên
ba.
Ấy là nhờ tánh chất mẹ cha,
Gặp phải phép hiệp hòa sanh đặng
vậy.
Một điều nữa đời hằng khó thấy,
Trai gái nhau đẻ quấy giống như
khuôn.
Vì nhiều thương ít gặp nên buồn,
Khi
gặp mặt khó buông nhau đặng.
Khi
chửa nghén tình thương đeo đắn,
Nhớ
hình đi tướng đứng bộ ngồi.
Trông
dạng hình lòng nhớ không nguôi,
Hình
dường rọi vào nơi tử phủ.
Hễ trẻ
mới tượng hình vừa đủ,
Thì
mẹ đà bảo phủ ngoài khuôn.
Sanh
đẻ con ưa thảm ưa buồn,
Ít
có đứa ra tuồng vui vẻ.
Lại
cũng thấy người ta mà đẻ,
Đứa
con đầu giống nghé giống bò.
Tại
mẹ thường hay sợ hay lo,
Gặp
trâu chém bò xô, nên đẻ giống.
Vợ
thầy pháp quỷ ma thường lộng,
Đẻ
ra hình như giống ếch bà.
Bởi
vẽ hình tướng tá cùng nhà,
Vợ
ghê sợ đẻ ra in dạng.
Nếu
để ý xét suy cho cạn,
Cả
sự thương, sự sợ, giảm tinh thần.
Tinh
thần hay liên tiếp nhâm thần,
Trí
hóa nhập vào thân đứa chửa.
Xin tiếp:
Món
ăn uống nên coi chọn lựa,
Cho
hiền lành có sữa cho nhiều.
Vợ
dầu buồn cũng rán theo chiều,
Con
tắm rửa nôi niêu cho sạch sẽ.
Thường
bồng đặng thăm con nặng nhẹ,
Muốn
cho con khỏi ghẻ rán chăm nom.
Đừng
để dơ cứt đái thúi òm,
Quần
áo trẻ thăm lom coi giặt.
Giữ
đừng để quàu mày, quàu mặt,
Mấy
móng tay phải cắt mới bồng con.
Tắm
và lau thì dụng bông gòn,
Trẻ
mới đẻ da non đừng động mạnh.
Phải
nhớ thử khí trời nóng lạnh,
Muốn
nuôi con khỏe mạnh khá thăm chừng.
Phải phủ che cho ấm tay chơn,
Nơi mỏ ác tốt hơn thường đắp ấm.
Từ sáu tháng khá thường bồng ẵm,
Mơi bưng tưng, chiều xẩm mặt trời.
Ngoài đồng không đặng thở tốt hơn,
Mơi thì hứng mặt trời cho khỏe.
Mỗi tháng nhớ cân con nặng nhẹ,
Đặng thăm chừng con trẻ lớn bao nhiêu.
Những áo quần rán sắm nhiều nhiều,
Giữ tinh sạch mơi chiều thay đổi.
Mùng
màn phải quạt giăng buổi tối,
Đừng
bỏ quên để muỗi chung vào.
Nọc
muỗi hành con trẻ phải đau,
Nhiều
cơn hại hư hao huyết mạch.
Khi
vừa mới biết bò biết mách,
Đừng
cho người chọc cách dữ dằn.
Phải
dặn chừng con vú đứa chăn,
Chơi
vui vẻ nói năng đằm thắm.
Chừng
đến lúc biết đi lẫm đẫm,
Có
tập đi đừng nắm mạnh tay chơn.
Đừng
để con quen thói giận hờn,
Vừa
ré khóc khuyên lơn bồng dỗ.
Nghe
đỏng đảnh lời con nói ngộ,
Đừng
cầu vui giả bộ nói chơi.
Dạy
cho con nói rõ từ lời,
Khi chơi giỡn vui cười cho phải
lẽ.
Hễ
dạy dỗ dùng lời nhỏ nhẹ,
Tập
nói năng nhậm lẹ khôn ngoan.
Mỗi
tiếng nào con nói ngang tàng,
Thì
để ý vội vàng cải sửa.
Dạy
con trẻ mọi điều chọn lựa,
Đừng
phú con cho đứa ở ăn.
Buông
những câu tục tĩu cộc cằn,
Con
bắt chước khó răn khi lớn tuổi.
Chừng
nên sáu dạy con phải buổi,
Tập
lần con lòn cúi biết vâng lời.
Ở
với con như trẻ đồng thời,
Thường
với trẻ vui chơi đặng dạy.
Chẳng
nên phạt bắt con quì lạy,
Sự
giả hờn là máy răn trừng.
Hễ
giỏi thời lại trọng lại cưng,
Dở
lại bớt nâng niu hun hít.
Dạy
đi đứng nghiêm trang bộ tịch,
Dạy nói năng cho lịch cho ngoan.
Dạy biết điều luận luận bàn bàn,
Dạy cho cạn suy suy xét xét.
Tập cho biết buồn vui có nết,
Điều dở hay cho biết ngọn ngành.
Muôn vật cho biết tánh biết danh,
Giá mua bán cho rành cho rõ.
Mới sáu tuổi tuy rằng còn nhỏ,
Mình cũng nên mở khó lần lần.
Muốn dạy con học đặng chữ vần,
Có một thế nên cần mượn cách.
Trước
sân quét một nơi cho sạch,
Cát
trắng dùng làm sách dạy con.
Bóng
mặt trời vừa khuất đầu non,
Coi
ánh sáng chiều còn tỏ rõ.
Nháy
vợ biểu bồng con hứng gió,
Ra
trước sân làm bộ đi chơi.
Mượn
lời khen đứa nhỏ gần nơi,
Rằng
đọc sách in hơi thầy giáo.
Rồi
lựa thứ vật chơi con hảo,
Giã
như tuồng khuyên bảo đem cho.
Thưởng
tên Xoài đáng mặt học trò,
Học thông thái dám so người lớn.
Giả
buồn bực đương khi chơi giỡn,
Con
dầu theo mơn trớn cũng đừng vui.
Làm
như người trong dạ ngậm ngùi,
Rầu
con dốt lo nuôi uổng gạo.
Tánh
con nít thì hay láo táo,
Hễ
nghe cha chế nhạo nổi hành hung.
Ủa!
Ai
anh hùng mình cũng anh hùng,
Theo
dọ hỏi cách dùng chữ nghĩa.
Thừa
dịp đặng treo giò chú Lía,
Láy
vợ hiền người xỉa miệng vô.
Con
xin cha dạy viết tập đồ,
Vần
cho thuộc kết vô nên tiếng.
Hễ
viết chữ là mình nói chuyện,
Chữ
ráp nhau trở biến thành lời.
Hễ A B thuộc lãu tới nơi,
Làm
vần ngược vần xuôi ráp lại.
Hễ
thuộc đặng hăm lăm chữ cái,
Muôn
điều chi cũng phải vào vòng.
Miễn
là con gắng sức gia công,
Học
thuộc mặt hăm lăm chữ cái.
Mẹ
xúi trẻ đến cầu cha dạy,
Cha
làm hơi như ngại con ngu.
Mới
giao kèo đổi chữ với xu,
Thuộc
thì thưởng hễ ngu trừ cấn.
Lạ
chi trẻ nghe chê thì giận,
Mình
mượn mưu dìu dẫn lấy con.
Sẵn
tay cầm lấy cán ba ton,
Vẽ
một chữ cho tròn cho lớn.
A B thuộc dỗ con lấy trớn,
Cứ mỗi ngày vui giỡn dạy lần.
Chừng coi mòi thuộc hết chữ vần,
Đọc chữ đặng dạy lần tính toán.
Dùng kiểng vật đá cây làm bảng,
Dạy đếm cho biết đặng đến mười.
Lấy ba ton vòng kiểng hai nơi,
Hai
một ngã ba thời một ngã.
Hễ học cộng con nhờ có má,
Hai với ba cộng cả bao nhiêu.
Nói trúng cha mầng vội nâng niu,
Còn trật lại ra chiều buồn bực.
Bà mẹ gắng để lòng chịu cực,
Cứ theo con giúp sức tính dùm.
Con nói thông cha giả khen um,
Làm như bộ vui mừng con học
giỏi.
Khoanh
năm món chung nhau rồi hỏi,
Cha
truất hai con nói sót bao nhiêu.
Mẹ
quen nghề dạy lén nói liều,
Miễn
lảu thuộc cứ chiều theo vậy.
Cộng
trừ thuộc rồi mình mới dạy,
Cho cầm cây viết lấy chữ vần.
Viết thuộc làu với tấm bảng sân,
Mình mới dạy viết lần vô giấy.
Trối kệ trẻ vẽ quàu viết quấy,
Trong một năm thì thấy vừa thông.
Ấy kế hay dạy trẻ vỡ lòng,
Rồi mới dắt vào trong trường học.
Mới
lạ bước trẻ thường sợ khóc,
Nhờ
mẹ thương lăn lóc đi theo.
Trong
đôi tuần coi đã quen vèo,
Con ham học vui theo chúng bạn.
Mới vô học ham chơi lơ lãng,
Nong chí con cho rán buổi đầu.
Con lo bài biết sợ biết rầu,
Theo dịu ngọt khuyên cầu con học hỏi.
Trong muôn việc đừng làm biếng nói,
Dạy con thông sự giỏi điều hay.
Mỗi bước đi cùng trẻ ra ngoài,
Gặp chi cũng làm bài dạy trẻ.
Phải chìu tánh trí con lanh lẹ,
Hay tối tăm giải lẽ cho vừa.
Phải chìu con lòng dạ ghét ưa,
Dầu
quấy phải cũng thừa dạy dỗ.
Khi
dắt trẻ đi chơi lựa chỗ,
Có
văn nhơn thái độ tài tình.
Chẳng
khác nào dắt trẻ chụp hình,
Nơi đẹp đẽ đặng in vào trí.
Về
nhà chọc cho con luận lý,
Mở
trí con xét kỹ hiểu cùng.
Tập
tánh con quảng đại bao dung,
Hay
thương mến thuận cùng bạn tác.
May phước đặng sanh con mẫn đạt,
Mình
khởi toan phú thác việc đời.
Dầu
hư nên đến sự chơi bời,
Cũng
cho hưởng đủ mùi đắng ngọt.
Sự
sướng cực đừng cho thiếu sót,
Miễn
mọi điều đừng lọt tay mình.
Con
biết phân điều trọng lẽ khinh,
Vào
ngã ái đường tình cũng chẳng buộc.
Để
gây hại, hại vừa đến gót,
Mình
ở sau lót tót đến binh.
Thừa
cơ mầu khuyên trẻ răn mình,
Tự
nhiên trẻ kính tinh đạo hạnh.
Dầu trẻ đã phong lưu quen tánh,
Mình
dừng ngăn trẻ lánh điều vui.
Trong trần ai cũng để cho vùi,
Thân ô trược mình chùi sạch lại.
Dầu con có tánh ham quỷ quái,
Đừng thèm phân phải trái răn trừng.
Mượn tay hay của đám người dưng,
Làm thiệt hại vài lần đủ tởn.
Rủi gặp phải đứa con dữ tợn,
Cậy những người quyền lớn ép đè.
Mang tội hình đừng chở đừng che,
Để chúng hiếp chúng chê cho đáng kiếp.
Mình biết Đạo hằng ngày gặp dịp,
Đặng dạy con nề nếp làm người.
Hễ
làm người thì biết hổ ngươi,
Lấy
gương trẻ trêu cười con xét phận.
Cha
chẳng phép để lòng hờn giận,
Mà
lẫy đương bỏ lẫn con hư.
Đành
lòng nào lại chối lại từ,
Mình
dở dạy tội qui ư trưởng.
Đạo
cha mẹ phải cho độ lượng,
Hễ
làm cha đừng tưởng độc quyền.
Con
lớn khôn mình chớ tự chuyên,
Con
đủ trí lời khuyên tua nhậm lẽ.
Dầu
còn ở dưới quyền cha mẹ,
Đừng
ỷ mình làm nhẹ thể con.
Một
lòng thương sau trước vuông tròn,
Con
khôn lớn cũng còn yêu trọng.
Gia
tài định rồi đừng đá động,
Cho
con riêng làm lụng lập thân.
Nên
hay hư đừng kể quan dân,
Tài
sản tính chia phần đều đủ.
Trai
cùng gái để lời khuyến dụ,
Biết
trọng thân tự chủ lấy mình.
Khuyên chung cùng hiệp sức anh em,
Mạnh thế lực đua tranh cùng chúng bạn.
Khuyên trẻ biết trí mưu quyết đoán,
Sự
nên hư đừng tính toán rán đua bơi.
Khuyên
bền lòng tùng thế tùy thời,
Phải
quyền biến với đời gầy sự nghiệp.
Khuyên
con sửa tánh hòa tâm hiệp,
Đặng
ngày sau theo kịp thế tình.
Khuyên
con coi nghĩa trọng tài khinh,
Lòng
quảng đại mới điều đình thế sự.
Khuyên
con nhớ hằng ngày tự xử,
Ấy
là phương vẹn giữ nhơn luân.
Khuyên
con ưa trân trọng tinh thần,
Khinh
vật chất ắt thân bền giữ.
Khuyên
con học cho thông mọi sự,
Dầu
nghề hèn nghiệp dữ cho rành.
Nếu
cầm chèo đẩy mái không lanh,
Thì
cũng chịu đã đành phận dốt.
Trong
trần thế phân chi xấu tốt,
Tốt
xấu cùng chú dốt khó phân trần.
Làm
con người mà muốn lấn phần,
Hơn
địa vị phải cần hay khéo.
Dạy
trẻ hiểu những mưu những mẹo,
Của
người đời khôn khéo đua tranh.
Chỉ
điều nào đời giựt đời giành,
Phần
dở thiệt, phần lanh lấn hưởng.
Dạy
căn cớ làm thân cực sướng,
Người
ngồi ăn người làm mướn bởi nơi nào.
Dạy
nhục vinh hai lẽ dường bao,
Người
quan cả người sao dân mạt.
Dạy
trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,
Cần
lập thân mới thoát phận tôi đòi.
Hiếu
con dầu ví kẻ cày voi,
Không
đạo hạnh đừng coi là trọng.
Dạy
cho hiểu mảnh thân dầu sống,
Cũng
nhờ nương dưới bóng hóa công.
Thường
cho xem vẻ đẹp non sông,
Đặng
con trẻ thề lòng thương tưởng.
Hay
chi kiếp sướng xin vui mượn,
Mà
phòng tham toan vướng nợ trần.
Hễ
có thân âu biết thương thân,
Lấy
trí thức định phân cho cạn.
Ba
giềng với năm hằng khá đoán,
Hư
nên đừng xao lãng chí nam nhi.
Để
mặc đời thị thị phi phi,
Chưa
ai rõ trong chì có bạc.
Dạy
con giữ tấm lòng chất phác,
Có
chánh tâm không lạc bước đời.
Biết
tu thân ắt cải vận thời,
Cơ
giải kiết lẽ trời đã định.
Không
vị kỷ nào sờn luật lịnh,
Tỉ
không mua ai tính đòi tiền.
Giữ
lễ nghi mọi kẻ không riêng,
Nào
có chọc ai phiền phòng kết oán.
Hễ
khử tối thì dùng bóng sáng,
Phải
khôn ngoan mới quáng thế tình.
Mình
nên người trí thức mà lành,
Ngôi
Tiên Phật đã đành tay nắm.
Nẻo
danh lợi vào ra ai cấm,
Mắt
sáng soi cái dậm quan hà.
Đừng
học đồ phách quế hồn ma,
Dầu
bỏ xác không xa phường tục.
Trăm
năm lẻ như thoi nhặt thúc,
Ngảnh
lại đời mà nhục thầm đời.
Mảng
đeo đai hai chữ vận thời,
Như
bèo bọt nổi trôi giòng khổ thủy.
Coi
lại thấy có chi gọi quý,
Ham
đỉnh chung mà lụy tấm thân người.
Đếm
thử coi mấy lúc thảnh thơi,
Thì
hằng thấy trận cười đem đổi khóc.
Có
chi lạ dạy con rán học,
Không
lẽ đem lợi lộc đặt nên bài.
Có
chi tài dạy trẻ đặng hay,
Chẳng
nỡ lấy cân đai làm biểu hiệu.
Có
chi khéo dạy con nên hiểu,
Há
nỡ so mạnh yếu để nêu gương.
Chỉ
cầu con để một dạ thương,
Thương
mình vậy thương ai cũng vậy.
Lòng
tình ái sao cho lừng lẫy,
Cái
khí thương động dậy trời già.
Chẳng
phải thương mà trọng người ta,
Dầu
cầm thú cỏ hoa cũng đoái.
Thương
chẳng biết biệt phân phải trái,
Dầu
khôn ngoan ngu dại cũng là thương.
Phàm
tình thương chẳng có độ lường,
Thương
cho đến hơi sương giọt nước.
Tình
thương vốn ngoài vòng tội phước,
Với
kẻ thù thương được cũng là thương.
Tình
thương kia ví đặng phi thường,
Hòa
giọt lụy đau thương lau thế sự.
Tập
trẻ đặng rộng lòng tha thứ,
Thì
trẻ đà lánh dữ gần hiền.
Hễ
gần hiền, lành đặng tự nhiên,
Mới
hạp tánh Thiêng Liêng tạo thế.
Một
câu sách nơi đây nên để,
Đặng
làm phương truyền kế tông môn.
Chứa
vàng nhiều để lại cho con,
Con
chưa ắt giữ còn bền lộc.
Chứa sách để cho con sau học,
Chưa chắc con biết đọc cùng chăng.
Chứa đức kia bền vững không ngằn,
Con cháu hưởng lâu bằng Trời Đất.
Sợ Bần Đạo dịch ra có trật,
Cứ nguyên văn viết tất ra đây:
Tích kim vĩ di tử tôn,
Tử tôn vị tất năng thủ.
Tích thơ vĩ di tử tôn,
Tử tôn vị tất năng đọc.
Tích âm đức ư minh minh
chi trung trường cửu chi kế.
Hễ đã trễ thời đành chịu trễ,
Ngưng viết chờ có thế in ra.
Mang
hoằng vai một gánh đạo nhà,
Chia
giờ khắc nôm na toan giúp ích.
Nên
chẳng quản lời thô tiếng kịch,
Cầu
đàn bà con nít đọc cho nhiều.
Cứ
lần lần năm đạo nối điêu,
Ít
tài đức tùy theo hành đạo.
CHUNG
Phương
Tu Đại Đạo I
Bản chánh. Tái bản. Ý nghĩa của từ ngữ trong
VN Tự Điển.
quá lẻ quá lẽ lẽ: hơn mức thường.
nâng niêu nâng niu o bế, săn
sóc.
lặn lặng im, không tiếng động.
nổi nỗi tình cảnh.
cưởi cửi nghề dệt.
trả mấm trã mắm trã: thứ
nồi tròn bằng đất mắm: tôm cá ướp muối.
mãng mảng cứ như thế mãi.
cử cữ khoảng thời kỳ.
lẩn lẫn lộn, lầm.
nương niếu nương níu nương dựa.
lẻ lẽ lý do.
đủa đũa cặp que để gắp.
quyễn quyển nói để thuyết phục.
hửng hờ hững hờ hờ hững.
lẫn lẩn quây quần.
lý lắc lí lắc liến.
rắng mắt rắn mắt chọc phá.
hềm hiềm giận, bất mãn, ghim trong lòng.
cẳng nhẳng cẳn nhẳn cằn nhằn.
gày gài cài, giắt.
quãu, sàn quảu, sàng quảu: thúng
nhỏsàng: cái tràn to lỗ.
phiếm phím miếng gỗ
hay xương gắn cách khoảng trên cần cây đàn.
bức bứt dùng tay giật cho đứt.
trăm trâm vật trang sức của đàn bà giắt cho
chặt búi tóc.
xui dục xui giục xúi giục.
nghiên nghiêng xiên,
lệch về bề đứng.
rễ rể vai chồng.
mả mã vẻ đẹp bên ngoài.
Phương
Tu Đại Đạo II
Bản chánh in là. Tái
bản. Ý nghĩa của từ ngữ trong VN Tự Điển.
kiếp kiếp chóng.
quãng hàng quảng hàn tên gọi cung trăng.
chung ngan chun ngang chun:cúi
đầu đi qua ngang:đường song song với mặt nước.
thục lỏ thụt lỏ thụt ló, ló
ra thụt vô, nhút nhát.
quạo quạu cáu
giận và gây gổ luôn.
vỉ Mã diệt Ngưu dĩ
Mã diệt Ngưu lấy họ Mã làm tiêu
họ Ngưu.
liếng liến lí
lắc, hay trững giỡn.
đủa đũa que để gắp.
dễ dui dể duôi khinh
thường.
ngan tàng ngang tàng ngông nghênh
không khuất phục.
chìu chiều chiều
chuộng, chiều ý.
dỏn dõn đồ
mang dưới chưn của đàn bà như giày nhưng mũi quớt gót thấp.
thắc ngặt thắt ngặt ngặt
nghèo, bắt buộc.
kỷ cang kỹ cang kỹ càng,
vén khéo.
lục lụt mòn
mép, không bén.
bảy buôi bãi buôi ngọt
dịu, vui vẻ, bặt thiệp.
náng nán ở
lại một lúc.
ráng rán cố
gắng, tận lực.
rung run giựt
giựt tay chân.
xoái xoáy ống
ngoáy.
quáng chúng quán
chúng hơn người, hơn phần đông thiên hạ.
kiến kiếng kính.
tục tỉu tục
tĩu tục
tằn.
nâng niêu nâng niu o bế, săn
sóc.
kiển kiểng cảnh,
hình sắc sự vật trước mắt.
lãu lảu làu
thông.
quỷ quáy quỷ quái xảo
quyệt, tinh ranh.
máy mái tiếng gọi cây chèo, cây
giầm chèo ghe.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét