V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính Gởi: Hiền Huynh HIẾN
PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo
tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn
để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14
tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
Phụ bản.
LỜI TỰA
Những bài
Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH
chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy.
Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành
cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các
nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc giả đến xem.
Đức HỘ-PHÁP là một trong
các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ
thuyết Tam-Lập: “Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn”.
Về lập đức: thì Đức Ngài
là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho
toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC-CHÍ-TÔN (NGỌC- HOÀNG - THƯỢNG-
ĐẾ ).
Về lập công: thì Đức Ngài
vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt
gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là
một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!
Về lập ngôn: thì Đức Ngài
lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng
thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn
Đạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý
độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính
chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần
thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử : những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch
đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua
các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện
chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau
thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập
những tài liệu này.
Chúng tôi nghĩ rằng : “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung
tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến
cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn
trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng thay
Trời dạy Đạo.
Nếu một may thay thời cuộc
lại biến thiên, có thể các cuộc phần
thư lại tái diễn, thì thiết tưởng trong
số tài liệu này vẫn còn có nhiều người
nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn
Đây không phải là việc làm
của một cá nhân hay một đoàn thể, nhưng
là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình
để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển
tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công
việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.
Việc làm của chúng tôi
không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo
trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU
ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành. Chúng tôi
xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi
chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng
tiếng ngọc của Đức HỘ PHÁP.
Từ đây bản quyền sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để
cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu
ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta
trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ
LỜI CHÚ CỦA NGƯỜI
SOẠN
Kính thưa: Chư Huynh, Tỷ,
Muội cùng các bạn đồng môn.
ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
lúc còn sanh tiền Ngài đã để lại nhiều lời vàng tiếng ngọc dạy dỗ chúng sanh
qua các buổi thuyết Đạo.
Nay kẻ hậu sinh được may
duyên học Đạo với Đấng Thiên Tôn qua các bài Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI
(từ năm 1946 đến năm 1955 do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh
ấn hành), trong những bài giảng nầy, Đức Ngài đã giáo hóa rất nhiều chủ đề về
Đấng Thượng Đế, Tôn Giáo, Nhân Loại ... theo dòng thời gian của từng thời kỳ
lịch sử.
Với lòng tôn kính Đức Tôn
Sư, con xin được sắp xếp các bài giảng theo từng chủ đề để con và các bạn đồng
môn dễ dàng sưu khảo trên đường tu học.
Thành kính cầu nguyện Đức
Tôn Sư luôn luôn dẫn dắt chúng con trên đường phụng sự.
Kỉnh bút
1. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo
Tại Ðền Thánh.
Ngày
19 tháng 4 năm Tân Mão ( 1951 )
Phương
Pháp lập Thiên vị
Ðêm nay Bần Ðạo giảng phương pháp lập thiên vị của
mình. Ngày Bần Ðạo đến tại Trí Huệ Cung, có đặng nhiều bức thơ của mấy bạn xin
nhập vào Trí Huệ Cung một lượt với Bần Ðạo nhiều lắm.Ngày giờ ấy chính mình Bần
Ðạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn linh đem vào cửa Thiêng Liêng
ấy đặng, đang lo không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập Trí Huệ Cung
nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao.
May duyên thay Ðức Chí Tôn thấy không thể giải
quyết đặng, mới cho hội diện cùng các Ðấng cầm quyền Thiêng Liêng của Ðạo. Khi
đặng hiểu rõ rồi, Bần Ðạo lấy làm hân hạnh thấy rằng :
" Cái nền chơn giáo của Ðức Chí Tôn vẫn là
đường ngay chánh, nhứt định về thể pháp chơn truyền, không hề mê hoặc ai cả
thảy."
Và Bần Ðạo cũng quả quyết rằng :
" Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về
đạo lý sẽ bị chơn truyền của Ðức Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết."
Muốn định Thiên Vị của mình, quyền Thiêng Liêng đã
buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có Tam Lập
của mình mới được, gọi là nhơn luân. Ðiều ấy Bần Ðạo có truyền cho chức sắc
Hiệp Thiên Ðài hay trước rồi và dường như Ðức Trần Khai Pháp đã có thuyết minh
điều ấy rồi. Bần Ðạo không cần luận thêm nữa. Bây giờ chỉ nói tại sao phải có
tam lập ấy mà thôi. Nếu người nào không có tam lập thì không có ở chung với ai
được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời, tức nhiên thể pháp mà không
có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có Bí Pháp để đạt pháp, đạt Ðạo. Thể Pháp mà
không làm đặng, Bí Pháp vẫn có, làm sao cho rồi, nếu mà không rồi hành tàng của
họ về Bí Pháp tức nhiên mê hoặc chúng sanh mà thôi. Phải có hình mới có bóng,
khi nào thấy bóng tức nhiên chúng ta quyết định có hình, bóng hình phải tương
liên với nhau mới đặng.
Ấy vậy tam lập là: Lập Ðức, lập Công, lập Ngôn, con
người khi sanh ra mặt địa cầu nầy không có tam lập thì giá trị con người không
có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội
nhơn quần được.
Nếu con người không có đức tin thì làm sao xử sự
trong gia đình, ngoài xã hội đặng.
Con người không có Công thì ở với ai cũng không
được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng không làm gì có
nghĩa với người, với đời thì sống với ai ?
Cũng như người ta thì chơn chất thật thà, hiền
lương đạo đức, còn mình xảo ngữ lường gạt, không chút dạ nhơn từ thì dầu cho
người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thể gì sống với ai được
hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi.
Thuyết Ðạo QIV / tr 24.
* * *
2. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Báo Ân Từ.
Ðêm 10 tháng 11 năm Bính Tuất ( 1946 ).
Tự tín -Tha tín - Thiên tín
Ðức tin chi ra làm ba
phương
diện :
1 . Tự tín 2. Tha tín 3. Thiên tín.
1 ./ Tự Tín là gì ? Là mình tin nơi sở sanh của
mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình. Con người từ buổi ấu thơ đã biết
ăn, biết nói thì biết thương cha mẹ, anh em. Ðến lúc trưởng thành cha mẹ dạy
bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở đời, giao thiệp cùng xã hội nhơn quần, việc
nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẽ phân minh cũng như có một quyển sách
lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy các tấn tuồng
của đời diễn ra từ lớp, hay dỡ tốt xấu, lành dữ, hư nên ta mới lấy đó mà kinh
nghiệm kỹ càng rồi mới lọc được cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại làm
với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh Ðài,
ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và ta đủ đức tin nơi
đó, là cơ bảo tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó, tự tín nghĩ là tu thân.
2 ./ Còn Tha tín nghĩa là gì ?
Là ta biết quan tiền vũ hậu, ta tin nơi ông thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho
nên người cao quí, lại có nhiều người trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ,
mọi điều phải trái lành dữ tội phước thì nó thường hiện ra trước mặt ta, đó là một bài học nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả mọi sự hành vi của người đời, ta sẽ lập
lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta
mới cân phân lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài ( tức
là khối óc của ta ) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn tánh mạng của ta, ấy là
Tha Tín.
3 ./ Thiên Tín: Tự tín và Tha Tín chưa đủ hoàn
toàn, phải có Thiên Tín là trọn đức tin nơi Chí Tôn có đủ quyền bảo hộ sanh
mạng của ta và toàn thể chúng sanh nơi mặt thế. Nếu để trọn đức tin nơi Chí Tôn
và tuân theo bài học của Ðức Chí Tôn dạy từ bi bác ái, nhơn nghĩa thuận hòa và
tất cả đem vào hai quyển sách nói trên hiệp lại thành một khối đức tin đặc sắc,
ta mới dựng lên để tên Cao Ðài rồi ta do đó mà thi hành cho chu đáo, ấy là cơ
bảo tồn trường cửu của ta và tất cả nhơn loại.
Nếu có cái Tự Tín và Tha Tín là cái năng lực hữu
hình, mà không có Thiên Tín là Huyền Pháp vô vi thì cái năng lực ấy nó sẽ cuốn
lôi theo cơ tự diệt, vì vậy nên ta phải có đủ đức tin nơi Chí Tôn, phải trọng
mạng sống của con người, bởi Ðức Chí Tôn hóa sanh một người là một vật báu của
Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu loài vật báu ấy thì phạm Thiên Ðiều tức là đại
tội. Ngày nào toàn thể nhơn loại trên mặt thế giới nầy mà có đủ đức tin nơi Chí
Tôn và thật hành y theo chủ nghĩa "Từ
bi, bác ái, nhơn nghĩa" cho được hoàn toàn thì mới mong chung hưởng
đời thái bình hạnh phúc, ấy là gầy lại đời Minh Ðức, Tân Dân tái lập tân thế
giới.
Thuyết Ðạo QI / tr17.
* * *
3. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại
Khách Thiện Từ
Ngày 15 tháng 11 năm Bính Tuất (
1946 )
Con đường Tu chơn
Muốn đi con đường thứ ba: phải tập mình đừng ham muốn chi cho mình nữa,
hành tàng của Chí Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái hiếu hạnh cùng Chí Tôn
và Phật Mẫu.
Cái yêu ái và hiếu hạnh ấy phải là phi thường do tâm linh điều
khiển, phải thương yêu nhơn sanh và vật loại hơn mình.
Phải tạo dựng cố thủ
Thánh tâm cho nên Chí Thánh và đạt cho đủ ba ngàn công quả thì sẽ đi tới, lướt
đặng và vững vàng thắng muôn điều trở ngại.
Thuyết Ðạo QI / tr 18
* * *
4. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
Ngày 12 tháng 5 năm Mậu Tý ( 18-6-1948 )
Bảo thủ thuần phong mỹ tục
Hôm nay, Bần Ðạo tiếp tục
khảo cứu phong hóa dân tộc Việt Nam đối với
phong hóa các dân tộc khác, cốt yếu xem coi chúng ta có phương gì chỉnh đốn đạo
nhơn luân của họ đặng ?
Mấy kỳ trước Bần Ðạo đã
giảng rằng : Ðạo nhơn luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới
có dân tộc lập thành quốc gia xã hội. Ðương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn luân của các sắc
dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã nghiêng đỗ và lung lạc tất cả, nhứt là bên Âu
Châu, đạo nhơn luân của họ tồi tệ là thường, Bần Ðạo thấy rất nên bại hoại, từ thử đến giờ chưa
ai nghe nói cha lấy con, anh lấy em, mà bên Âu Châu thường có xảy ra điều ấy.
Hại thay ! Trải qua tám chục năm nay những tánh
tình yêu nghiệt ấy lại truyền sang đến nòi giống chúng ta, ngày nay vẫn còn
thấy tấn tuồng đó nữa, yêu nghiệt đã biến tướng biểu sao thiên hạ không loạn
được. Ðạo nhơn luân đã vậy, tinh thần của con người không còn biết phẩm vị,
nhơn cách gì hết, nên hột giống ác nghiệt biến sanh ra mãi thôi. Thành thử nhơn
loại ngày nay quá bạo ngược, tương tàn tương sát lẫn nhau, người đối với người
còn dữ tợn hơn thú đối với thú nữa, vô nhơn vô đạo, cha không xứng phận cha,
con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, chồng không nên
chồng, vợ không đáng vợ, nền luân lý của nhơn loại trên mặt địa cầu nầy không còn
có khuôn khổ gì hết.
May thay ! Ðạo nhơn luân của tổ phụ chúng ta lưu
lại, dầu bị ảnh hưởng của văn minh ngoại bang làm cho ô uế đôi chút, nhưng nhờ
Ðức Chí Tôn đến phổ truyền nền chơn giáo của Ngài nơi đất Việt Nam nầy, có thể
còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn mẫu cho toàn cả các sắc dân nơi địa cầu
nầy bắt chước theo nữa.
Ðạo làm chồng, chúng ta có gương xưa tích cũ, nhờ
nơi Nho Tông rất oai quyền, nghiêm khắc, mặt luật của nó kềm chế tâm lý của con
người. Ðạo nhơn luân của nhà nho ta có cái vẽ đẹp thiên nhiên, ai tiêm nhiễm
đến cũng sanh mê mẫn, cảm kích, vậy mới tạo tâm lý theo Nho Tông làm hình trạng
tinh thần Nho đạo, khuôn luật đó duy ở Việt Nam mới có, còn các tôn giáo khác
hình tướng lại biến ra làm khuôn mẫu riêng trên sân khấu đời, nên đạo Nho Tông
thâm nhập vào cốt thể của cả thảy con người đặng. Bao nhiêu gương để chỉnh đốn
đạo nhơn luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương
cho nhau lập mình lên bực chí Thánh.
Như thời xưa vợ chồng ông Châu Công, Ngài là Tể
Tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ
phu nhân mà cư xử được như vậy thật đáng quí. Kịp đến khi ông hồi hưu, buổi già
cả vợ chồng đối với nhau như chủ khách. Nước ta lại có bà vợ của ông Phan Thanh
Giản, ông xuất sĩ rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào
Trung, không mấy khi vào Nam, bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ hiếu
thay thế cho chồng, xét ra thì gương ấy cả Âu Châu cũng chưa hề có vậy. Ngày
giờ nào, gương mẫu tiết liệt ấy trải ra cho toàn phụ nữ trên mặt địa cầu nầy đồ
theo thì ngày ấy danh thể của phái nữ mới được trọng nể, nhứt là phụ nữ Cao Ðài
cần phải làm cho đặng, hầu sửa đương nền phong hóa của Việt Nam trước đã.
Còn về sự tồi tệ thì chúng ta hằng thấy tích xưa
điển cũ, như có câu : ' Ðố phụ loạn gia.' Lạ lùng thay và khéo léo thay ! Chẳng
phải do ở bọn hàn mặc hoặc thượng lưu trí thức, lại ở nơi một người đàn bà hạng
thường, đủ khôn ngoan đạo đức có đủ hạnh kiểm có thể sửa chồng nên phận được.
Xưa kia có người lính cầm lọng cho Yến Tử là quan
Tể Tướng. Ông nầy thì nhỏ người, còn chú lính cầm lọng thì to lớn kịch cợm. Ông
Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng con người có tánh cách nho nhã, nế nếp
nhà quan, không kiêu hãnh, gương mặt khiêm hòa, còn chú lính cầm lọng lại vênh
mày vênh mặt, bộ tướng nghinh ngang, tưởng rằng không phải Yến Tử mà chính anh
ta là Tể Tướng đầu triều mà chớ ! Lúc Tể Tướng đi ngang qua, người vợ chú lính
núp kẹt cửa thấy vậy, nên khi về nhà mới đòi làm tờ để chia tay. Anh ta hỏi tại
sao ?
Người vợ thưa rằng: " Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy chàng đi ngang, quan Tể Tướng,
Ngài thì nhỏ người mà gương mặt nho nhã, tỏ vẻ hạ mình, còn chàng thân hình to
lớn mà chàng hiên ngang coi trái mắt quá lẽ, vì thế thiếp lấy làm hổ ngươi
không thể ở với chàng nữa."
Nhờ vậy, chú lính ấy biết cảm hóa, sau sửa mình lập
thân trong hàng ngũ quân binh lên đế bực Tướng. Ấy vậy, đạo nhơn luân nếu biết
giữ chặt, thì vợ có thể làm nên cho chồng, dạy chồng nên đạo được. Phụ nữ Cao
Ðài cũng thế đã hai mươi ba năm nay tiêm nhiễm đạo đức tinh thần, tạo đầu óc
tâm não, vậy tìm phương dạy chồng thế nào !
Có nhiều hạng người được vinh vang thì lên mặt
phách xấc, không nhớ đến căn bổn hèn hạ của mình khi trước, phải biết rằng
chúng ta ra đứng đợt với thiên hạ được là nhờ Chí Tôn tô mày vẽ mặt cho đó,
hạng nầy rất nhiều, phụ nữ nên để ý sửa dạy cho họ bớt tâm tự kiêu đôi chút.
Ðối với cha con, Nho Tông để lại nhiều vẻ đẹp của
tổ phụ chúng ta lưu truyền đặng làm chuẩn thằng mà sửa đương xã hội và lập
quốc. Cha hiền mới sanh con thảo, con thảo là hột giống để làm một nền móng
tương lai, tương lai quí hóa không thể tả bởi Tiên Nho chúng ta đã nói : " Vua Nghiêu tìm ông Thuấn để truyền
ngôi ; chẳng vì lẽ gì hơn là nghe danh ông Thuấn chí hiếu, mà một khi ta được
chí hiếu rồi thì không gì sánh bằng. Có hiếu rồi mới có nghĩa, có trung, có
cang, có trí, nghĩa là hễ có hiếu rồi thì có đủ hết tính đức khác."
Ngày xưa người ta tầm hiếu, đến tận nơi thôn lân,
huyện phủ, tỉnh lỵ, để hỏi thăm những gương hiếu thuận. Người ta tìm hiếu tức
là tìm hiền, do cái hiếu ấy suy độ ra cái hiền của bực danh thần triều chánh,
mà muốn có hiếu thì cha phải có từ vậy. Bần Ðạo thấy quốc dân Việt Nam bị ảnh
hưởng của ngoại quốc, con không cần cha, cha không biết đến con, tồi phong tệ
tục ấy đã thấy rõ ràng trước mắt. Bởi vậy, trong xã hội có ba người quan trọng
: Cha, Chủ. Chúa.
Cha là ông chủ của một gia đình, Chủ là ông chủ của
một hương đảng, Chúa là ông chủ của một nước, cả ba vị ấy làm đầu từ gia đình
lên xã hội. Nếu quyền làm cha nắm không kham là do người cha bất lực. Truy căn
nguyên là tại tự do kết hôn, chồng không phải chồng, vợ không phải vợ, cập xách
với nhau rồi tự lập gia đình, đạo nhơn luân không có chỗ nào ràng buộc, chẳng
qua là chơi hoa giởn nguyệt, không căn bản gì hết, biểu sao khi sanh con ra mà
chúng lại không trở nên kẻ vô hồn. Nhứt là hạng Việt Nam lai của ta là tối hại.
Bần Ðạo đã nói để cha mẹ định hôn, như thế có lợi hơn vì như ta vẫn thấy, cả
kiếp sanh lúc còn nhỏ, cha mẹ còn
đủ, đến ông nội, ông cố cũng còn nữa, lớn một chút ta còn thấy đông đảo, đó là
khi chưa biết khôn, khi đã khởi biết
khôn ngoan thì ông nội đã đi đâu rồi, rồi cha mẹ đã già mà mình cũng già nữa,
trong lúc ông bà cha mẹ mất, mình cảm thấy cái quyền trong tâm lý của mình cũng
mất.
Cha mẹ là bực cao kỳ trí thức, đáng kính, đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu
cho chúng ta chưa có tình thương nồng nàn đi nữa, nhưng thời gian qua chừng nào
nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng đã khuất thì vợ nhận thấy ở chồng là hình ảnh người cha của mình, còn chồng nhận thấy ở vợ là hình ảnh của
mẹ mình, nên được khuây khỏa tấm lòng và khắn khít không lìa nhau là vì lẽ ấy.
Nói gì trên bộc trong dâu, một đời nếu không xảy ra điều gì thì thôi, còn
nếu có xảy ra điều chi sanh phiền sanh giận, thì chừng ấy không phương thuốc gì trị được cả, tâm lý phải chia lìa thì tình
kia phải xa cách, mới dễ bỏ nhau thay chồng đổi vợ, con cái sanh ra thấy tấn
tuồng ấy tập tánh học theo, biểu sao tương lai không hư hèn và tánh đức không
lạc lầm phàm tâm lìa đạo đức.
Làm cha mẹ nếu chúng ta biết Tiên Nho đã đối với con người như thế nào và
toàn cả xã hội Việt Nam, cả nòi giống cưng con như thế nào, đến nỗi trong một tông đường
có đứa con nào ngỗ nghịch cha mẹ định từ bỏ thì chỉ nói ngoài cửa miệng chớ chưa thấy ai từ con được bao giờ.
Nhớ lại, khi Bần Ðạo đi ngoài Qui Nhơn, gặp một ông
già tên là ông sáu Chèo, vì ông bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nhìn
thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biểu gì hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ
có một vế thôi " Nhược niệm cửu
huyền chi bổn, khả năng tu tỉnh ngộ thân." Nghĩa là : " Nhớ đến Cửu Huyền thì phải rán gìn
giữ thân mình."
Bần Ðạo thấy thờ có một câu mà không có sơn thủy gì
hết, lấy làm lạ hỏi thì ông nói: "
Một câu đó đủ nghĩa để dạy con cái biết tuân theo, thành tâm tu chỉnh thì Cửu
Huyền sẽ vinh diệu, biết giữ thân mình không bịnh nhược thì sanh con sáng láng
mạnh khỏe khôn ngoan".
Ðời bây giờ thiên hạ mê đường hoa nguyệt phong
tình, sanh con lớn lên thành ho lao, ho tổn hay tật nguyền, có nhiều sắc dân
sanh con thấy tàn tật ghê khiếp lắm, vì cớ mà mấy năm trước đây Hitler thi hành
chánh sách của Ðức Quốc Xã xử tử hay là thiến những kẻ tàn tật, bịnh hoạn, lấy
lý rằng kẻ ấy chẳng giúp gì cho nước, chẳng những thêm một miệng ăn cho xã hội
lại còn di hại cho nòi giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa lại những dân đinh
cường tráng, nhưng vì Ðức Quốc Xã đã làm quá lẽ thành ra tàn ác nghịch Ðạo làm
người.
Tổ phụ chúng ta không thi thố chánh sách ấy, chỉ
dùng tinh thần đặng giữ con cho nó tránh khỏi sự bạc nhược đã nói, mà nòi giống
Việt Nam nầy không bị tiêu diệt là nhờ khéo giữ đạo nhơn luân từ trước đó vậy.
(Thuyết Ðạo QII / tr54).
* * *
5. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh .
Ðêm 19 tháng 5 năm Mậu Tý ( 25-6-1948 )
Phong hóa VN đ/v phong hóa các dân tộc khác
Bần Ðạo giảng tiếp về
khảo cứu phong hóa nước ta đối với các dân tộc vạn quốc.Bần Ðạo đã giảng
rằng trong quốc gia xã hội của chúng ta có ba quyền: Cha, chủ, chúa. Ba quyền
ấy cầm cả chánh trị của nước nhà, có khác nhau chăng duy có nhỏ và lớn, chớ
chánh kiến vốn đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền tảng cho phong hóa chúng ta
vậy
.Hôm nay, Bần Ðạo tiếp giảng về quyền làm cha và
triều chánh của ông cha tức là gia đình liên quan thế nào đối với triều chánh
của làng và triều chánh của nước.
Chúng ta thấy trong ba quyền ấy, duy có quyền chúa
là trên hết, sau biến tướng đến quyền cha, quyền thầy, ấy là Ðạo Tam Cang: Phụ
Tử, Sư Ðệ, Quân Thần. Bần Ðạo sẽ giảng rành mạch về quyền chúa ấy sau.
Bây giờ bần Ðạo giải rõ quyền cha mà thôi.Vả chăng
chúng ta để ý cho tận tường xem coi xã hội chúng ta thấy có điều đặc sắc riêng
biệt không giống với các xã hội khác là từ khi Ðức Khổng Phu Tử hiệp ba quyền
ấy làm Hội Thánh của Ngài. Ông cha tức là thầy của gia đình, ông chủ tức là ông
thầy Cả của làng. Ông vua chúa tức là ông thầy Cả của nước. Vì cớ nên hình trạng
của ba quyền ấy Bần Ðạo nói rõ là lớn nhỏ khác nhau, mà chánh kiến vẫn là một.
Trong gia đình nếu ta không gọi là ông cha thì gọi là ông chúa của gia đình,
cầm đầu cái triều chánh của ông, bà vợ trong gia đình người ta còn gọi là nội
tướng tức là thủ trưởng của gia đình, cả con cái là lục bộ đài quan, tôi tớ
hoặc những công nhân giúp việc trong gia đình tức nhiên là toàn dân vậy.
Ấy vậy, gia đình theo phong hóa Việt Nam ta rất
trọng hệ, ông cha của gia đình cũng như ông chúa của nước vậy, nên xét ra đến
cực điểm phong hóa của ta thì thấy tốt đẹp lạ lùng, chỉ vì ta không quan tâm
đến thôi, nếu để ý ta sẽ vui hứng hạnh phúc đặc biệt, bởi không có dân tộc nào
giống như chúng ta, kỳ dư nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng văn minh như chúng
ta mà cũng không đồng một vẻ hay là giảm bớt thì có.Trọng hệ là gia đình, mà
gia đình có được trọng hệ thì ông chúa của gia đình mới trọng, vì cớ đạo làm
cha, phong hóa chúng ta kính trọng một cách vô đối.
Ðối với xã hội, tổ phụ chúng ta biết con cái lớn
lên phải lập gia thất, nên mới lưu truyền món hương hỏa ấy.
Lấy gia pháp làm chủ đích, gia pháp ấy biến ra gia
nghiêm mà gia nghiêm chặt chịa kềm thúc con cái chẳng có ý chi khác hơn là dụng
oai quyền đó mà tạo một vị chúa tương lai cho gia đình, nên tổ phụ chúng ta
trông nom điều trọng hệ ấy mà hủy bỏ cả hành tàng phụ thuộc ở ngoài là cả sự
sanh hoạt của gia đình, chỉ lo bảo thủ lấy tinh thần làm cha tương lai cho đúng
giá trị của nó.
Lạ chi đối với nòi giống của chúng ta thường nghe
mọi người nói: " Phụ có từ, tử mới
hiếu." mà Bần Ðạo đã nói rằng cả tánh đức của con người đứng đầu trên
hết là Hiếu, Bần Ðạo cũng đã giảng, đời thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do
nơi hiếu, nên vua Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho Ngài là vì ông Thuấn là bậc
chí hiếu, tánh đức hiếu ấy là cái năng lực căn bản của các tánh đức khác, nó là
tánh đức của đạo đức tinh thần và nó đi gần tánh chất của loài người.
Con người đã có hiếu thì các tánh đức tốt đẹp khác
đều là phụ thuộc, bởi vì khởi đoan của tâm hiếu không phải biến sanh một ngày,
một bữa gì mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm căn bản môi giới cho các tánh
đức khác nảy nở mà ta đã thấy và định quyết rằng người đã làm được con hiếu thì
thế nào cũng sẽ là cha từ, mà hạng Phụ từ rất tối cần, tối trọng cho xã hội
vậy.
Ấy vậy, trong gia đình phải có phụ từ, mà tại sao
cha phải từ ? Phương ngôn nói: "Cha
hiền sanh con thảo." Lại có câu : "Hiếu
thuận huờn sanh hiếu thuận, ngỗ nghịch huờn sanh ngỗ nghịch nhi." Sách
xưa truyện cũ ta thấy còn lưu lại nhiều thành tích rất quí hóa, đứa bé thơ kia
học ai trước hết ? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có hình trạng gì,
bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông
vào ai, nhìn ai. Nhìn cha bắt chước cha, nhìn mẹ bắt chước mẹ, nhìn anh em bắt
chước anh em.
Trong gia đình nếu có gương cha lành, thì sự ấy
huyền bí thay ! Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi sơ sanh đứa con chưa biết
nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lý, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân, Bần Ðạo
vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó không mất, dầu đứa con có lơ
lảng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán
ấy, chúng ta không thể tưởng tượng được khi cha mẹ khuất rồi đứa con sẽ tiềm
tàng cái giáo hóa buổi sơ sanh ấy làm căn gốc trong bản tâm của nó.
Làm người cha hiền không làm mất tự do của con,
trái lại còn trọng nữa, trong xã hội chúng ta như vậy đó. Ðừng thấy hình trạng
giáo hóa bề ngoài lấy nghiêm trị làm căn bản mà gọi rằng đối với nòi giống
chúng ta cha mẹ áp chế con làm mất tự do của nó. Không phải như vậy đâu ! Có lẽ
vì nhìn thấy tông đường hư hoại, nên cha mới nghiêm trị con đặng bảo thủ tương
lai của tông đường, chớ chẳng phải cố làm mất quyền tự do của nó.
Bần Ðạo giảng tích nầy cho cả thảy nghe mà suy gẫm,
thì thấy nòi giống chúng ta vốn trọng sự tự do của con cái mà trọng một cách
khéo léo.Ðời tiền Lê có ông Thừa Tướng đầu triều không có con.
Hai ông bà thường đến chùa nầy miễu kia cầu tự'
Nhơn hữu thiện niệm, thiên bất tùng chi' nên bà vợ hạ sanh được một đứa con
trai. Quan Thừa Tướng đã niên cao kỷ trưởng mà có một đứa con trai thì nỗi mừng
vui đó không thể luận được. Người Nam mình hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng
cậu công tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia đình đối với cậu thì ai cũng
là tôi đòi nô lệ hết. Hai ông bà cưng đáo để, lớn lên rồi hễ thấy cưng lại thêm
nhõng nhẽo, rồi du côn, rồi hoang đàng chi địa vô giáo dục. Tấn tuồng xảy ra
như vậy mà quan Thừa Tướng và phu nhân cũng không dám động tới, vì quá cưng thì
ai còn dám động tới cậu nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất gì cũng được.
Ðến tuổi đi học, cho vào trường thì không ai chịu
nổi, con các quan bị cậu đánh luôn, ngày nào cũng có mắng vốn. Thấy tình trạng
như vậy, biết con mình bị cưng qúa không ai động tới được. Ðến khi trưởng thành
17, 18 tuổi, ôi thôi ! thanh lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc, không món nào mà
cậu không có, ngoài ra còn du côn, du đảng, ai thấy gia đình ấy mà không nói
rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải thống khổ tinh thần như vậy.
Nhưng ông bà cũng vẫn cưng, không động gì tới cậu
công tử cả, ông chỉ buồn than nói với ông bạn là Quan Hình Bộ Thượng Thư rằng:
Tôi có một đứa con mà con cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ đỗi, thì ông bạn nói:
" Thưa quan Thừa Tướng, nếu Ngài
giao quyền trọn vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi đặng tôi giáo hóa thử
coi ".
Quan Thừa Tướng đã hết phương rồi, nên giao cho ông
bạn dạy dỗ cũng không được gì hết, cậu công tử vẫn còn buông lung điếm đàng hơn
nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị mới cho quan Thừa Tướng hay : "Tôi phải dùng quyền đối với lịnh lang
mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài vui lòng
như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng. Quan Thừa Tướng chịu: 'bạn làm sao giúp
tôi được thì làm vì tôi cùng đường, hết kế rồi ".
Quan Hình Bộ Thượng Thư thả cho cậu công tử ra
ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thứ rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội nhơn
khác vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu, thông tin về nhà
cho Thừa Tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau lòng vì con, ra chịu tội trước
triều đình, rồi Ngài và quan Hình Bộ Thượng Thư đến người nầy người nọ xin tha
thứ, đi tới đâu dắt công tử theo tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên lương
tâm tự hối, biết tội mình làm để lụy đến cha dường ấy.
Về nhà ông rước thầy cho đi học thêm nữa, vì cậu đã
biết ăn năn, sợ cha mẹ và chịu ở nhà không dám phóng túng chơi bời nữa. Nhưng
trong gia đình cũng không chiều được cậu chỉ kiêng có cha mẹ thôi, ngoài ra
không kể ai cả, nổi giận là cậu đánh đập liền. Ông mới tính một phương thế, lấy
cớ là con nhà trâm anh bắt cậu để móng tay, từ đó cậu ít đi ra ngoài chơi bời
mà cũng hết đánh thiên hạ nữa là vì cũng bị lật móng tay hai ba lần gì đó, nên
hoảng mà thuần nết lại. Ðến khi triều đình mở khoa mục, cậu nhờ trí thông minh
sáng suốt lạ thường lại học giỏi nên được chấm đậu Trạng Nguyên.
Nhà vua và cả mọi người biết tánh đức của cậu trước
như vậy mà nay được như vầy thì ai cũng mừng, trong gia đình còn mừng hơn nữa.
Thiết lễ tân quan, khi vị tân quan vào bái lễ từ đường, rồi trở ra hội yến với
các quan, quan Thừa Tướng mới kêu con lại nói : "Ngày nay con đã vinh hiển rồi sẽ ra làm quan thì móng tay không
để làm chi nữa, con đưa đây cho cha ", ông cắt tử tế, đem vào bàn thờ
từ đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa, đề bốn chữ " Trấn tâm chi bửu " nghĩa là
của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng : "Từ đây trở đi hoặc sau nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều,
vật trấn tâm chi bửu nầy cũng không nên rời con ", thì y như vậy, từ
đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đến đầu
triều, mà cái gói " Trấn tâm chi bửu
" tức là móng tay đó vẫn còn luôn.
Bần Ðạo dám cả gan nói rằng: Nhờ cái phụ giáo như
vậy mà triều chánh Việt Nam ta mới bền bỉ và chắc chắn rằng người đó là kẻ đem
viên đá đầu tiên xây nền độc lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh thần đó mà
chúng ta đạt được tinh thần độc lập ngày nay. Phụ giáo rất cao kỳ quí hóa. Nếu
xét tường tận như vậy thì ta chưa đáng phận làm chúa gia đình. Trước khi tạo
gia đình, cần suy gẫm coi ta có xứng đáng làm chúa làm nội tướng chăng rồi sẽ
tạo, cả khuôn khổ tốt đẹp nòi giống chúng ta đã xao lãng, nào giục tấn, nào cấp
tiến, nào văn minh, nào duy tân đáo để thôi.
Tấn tuồng duy tân vật chất đưa đến tồi phong bại
tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá độc hại vậy.Phong hóa tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi
vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh thần mà đã biết như vậy thì nên bỏ
hay là phải cố thủ ? Phải bảo thủ cái thể chất toàn hảo ấy là điều Chí Tôn mong
muốn hơn hết. Ngài không nở nói ra, mà Ngài trông cho chúng ta biết phục hồi
cái phong hóa của tổ phụ lưu lại, đặng tạo một văn hóa tương lai cho toàn thể
mặt địa cầu nầy vậy. Nếu Ngài nói ra thì nòi giống Việt Nam sẽ nói là Ngài thủ
cựu hay là muốn phá hoại sự tự do của loài người và đời văn minh vật chất nầy
không thể không chỉ trích Chí Tôn với lời lẽ ấy, nên Ngài không nói đó vậy. (Thuyết
Ðạo QII / tr 59)
* * *
6. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại
Ðền Thánh.
Ðêm 23 tháng 5 năm Mậu Tý ( 1948 )
Phong hóa Việt Nam đối với phong hóa các dân tộc khác (Phần 2)
Hôm nay Bần Ðạo tiếp
tục khảo cứu nền phong hóa của chủng tộc Việt Nam đối với các
chủng tộc khác.
Bần Ðạo đã giảng rõ về
đạo làm cha trong xã hội của chúng ta đã tạo thành một nền phong hóa đặc sắc
của nòi giống như thế nào rồi. Vậy, Bần Ðạo lần lượt giảng tiếp về cái quyền của cha. Bần
Ðạo giảng về đạo và quyền của cha trước rồi sẽ giảng về đạo và quyền của chủ,
sau chót mới đến đạo và quyền của nhà vua tức là chúa.
Ai cũng biết điều trọng yếu trong xã hội Việt Nam
ta là tổ phụ là nguồn cội của các tôn giáo, nên từ thượng cổ tổ phụ ta đã lưu
lại cho nòi giống ta cái cảnh tượng là biết tôn trọng cửu huyền thất tổ, dầu
quá vãng hay hiện tiền cũng vậy, sự sùng thượng ấy còn tồn tại trong tâm hồn
mãi thôi, chẳng hề khi nào quên ông bà của chúng ta được. Nên tôn giáo chơn
thật ấy nó buộc vạn quốc nhìn nhận là một tôn giáo đặc sắc của một sắc dân chơn
thật hơn hết. Thế thì đạo nhơn luân của chúng ta là do truyền nối hương hỏa của
cửu huyền thất tổ đó vậy.
Ta chẳng cần luận chi sâu xa hơn nữa, chỉ nói cái
nợ máu thịt mà nòi giống Việt Nam nầy xem mắc hơn các nòi giống khác trên mặt
địa cầu nầy. Vì bởi Tiên Nho chúng ta đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng
chuyên nghiệp để cảm tâm lý của nòi giống chúng ta là 'Bất hiếu hữu tam vô hậu
nhi kế đại' Trọng hệ hơn hết của nền quốc giáo Việt Nam ta là vô hậu kế đại,
tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại, nếu không đương nổi thì
phải chịu thất hiếu với cả tông tộc, cửu huyền thất tổ. Thất hiếu trọn vẹn, mà
đã thất hiếu rồi thì buổi tương lai về cõi hư linh không ngó mặt ông bà ta
đặng.
Vì cớ, nên việc hôn nhân nơi nước ta có vẻ nghiêm
khắc, truyền lại làm căn bản tôn giáo trong nước, dùng khuôn khổ trọng nghiêm
ấy đặng định luật, thì ta chẳng còn ngạc nhiên, hỏi bởi cớ sao luật nhơn luân
gắt gao như vậy ?
Xưa kia, hễ định luật hôn phối với nhau thành chồng
vợ rồi thì chủ hướng duy có một điều là nối truyền hương hỏa. Tiếng tục thường
nói rằng: " Dài dòng cả họ "
nên tông tộc nào dài dòng cả họ thì hạnh phúc đáo để, trước phong hóa mà được
dài dòng cả họ thì được tôn trọng vố đối, tức nhiên buộc đạo nhơn luân phải gắt
gao; khi cưới vợ ba năm mà không sanh con trai nối hậu thì đàng trai đặng phép
để bỏ và lập thứ. Tại sao ? Nếu người đàn ông cả gan vì thương vợ mà không chịu
để bỏ thì mang tội bất hiếu với cửu huyền thất tổ, với cha mẹ kia kìa.
Thấy đạo nhơn luân của chúng ta trọng yếu dường ấy,
mà hễ trọng yếu tức nhiên quyền cha vẫn là cái oai quyền cao trọng, quyền cha
trong phong hóa chúng ta, nếu con bất hiếu có thể lên án tử hình được, lên án
với luật pháp hữu định, bởi vậy nên tổ phụ ta nói:
"
Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu."
Ấy là luật nhơn của ta như vậy đó.
Ðối với các quốc gia, các nòi giống khác, nếu có
công kích thì họ nói đó là làm mất quyền tự do, mất nhơn phẩm của con. Bần Ðạo
dám chắc rằng họ thèm thuồng lắm mà họ làm không được vì tình trạng phong hóa
của ta, các nước Âu Châu không thế đối đặng.
Bần Ðạo giảng về cái quyền cha mà chính mắt Bần Ðạo
trông thấy hiển nhiên là khi Bần Ðạo mới ra trường đi làm việc, đổi xuống Cái
Nhum, có ông Kế Hiền ở làng Chánh An, tên là Kế Hiền Kỷ làm một vị trưởng tộc
trong tông đường, niên kỷ độ lối 55 tuổi. Khi ấy trong nhà thờ tông đường làm
lễ cúng ông Cao, Tằng gì đó, mà lệ trong giòng họ, người nào đến giờ tế tự mà
vắng mặt thì năm đó mất phần hương hỏa. Sự nghiêm trị rất nhẹ rất nhẹ nhàng
nhưng mực thước, nên kẻ nào trong năm đó bị phạt ắt cất đầu không nổi, rồi chỉ
có khóc lóc lén lút vậy thôi, nên cả thảy đều phải đến. Bần Ðạo muốn biết nên
theo coi nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong tông đường của Bần Ðạo gia phong thì
lại khác. Bởi biết ông Kế Hiền Kỷ còn theo Nho lắm, trong lúc ấy Bần Ðạo ngạc
nhiên thấy trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng dầu khinh, mỗi đứa đều
đem tới một món, đi thôi rần rộ, độ bảy giờ cúng thì lối 5 giờ đi rước ông
trưởng tộc, các con cháu xúm khiêng ông, ba bốn chục người giành mà khiêng, còn
bao nhiêu đi theo sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh tiếp, ôi thôi ! Bần Ðạo
tưởng nhà vua cũng không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông
cố hay ông sơ gì đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy. Bần Ðạo tưởng
tượng đó là ông vua, ông chúa của gia đình, rõ ràng như vậy.
Còn nếu biết ông trị nghiêm trong tông đường thế
nào thì lại càng cảm mến hơn nữa, vì bởi từ thử chưa hề có một con cháu nhà nào
đem nhau tới làng mà kiện thưa một việc chi cả, gia luật thật đáo để đẹp đẽ và
nghiêm khắc, như thế mà đã năm sáu đời truyền kế. Tộc phái không kể nội ngoại
gì cũng kế nghiệp được. Trong tộc phái ấy có một bộ tông chi không sót một tên
nào mà vẫn còn giữ vĩnh cửu luôn.
Ngày giờ nầy các nước ngoại quốc kia nói nhà Nam ta
bảo thủ cổ tục ấy, hỏi có ai làm đặng vậy chưa ? Nếu có được thì một phần ít
thôi, mà cũng không có nữa. Tại sao ?
Tại tiêm nhiễm văn hóa Âu Châu rồi đem của quí
liệng đi hốt của bỏ đem vào, tinh thần đã thành ra bạc nhược, thô bỉ, chạy theo
thuyết duy vật của văn minh vật chất, quên hẳn khuôn khổ tổ nghiệp ta để lại
rất đẹp đẽ vô cùng, thâu thập những vật không đáng giá, làm xáo trộn nền phong
hóa tận thiện tận mỹ. Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại trong nước là
tại làm sao chăng ? Cả đạo nhơn luân điên đảo, biểu sao không trộm cướp loạn
lạc, giặc giã tứ tung cho được !
Nền đạo nhơn luân có đủ năng lực bảo trọng tương
lai quốc vận lại đem bỏ đi, lấy cái hoàn thuốc độc của thiên hạ đưa cho, đã
thiệt thòi mà cũng còn rán trướn cổ lên mà nuốt, nuốt cho chết.
Quyền hạn của chúng ta, ngày nào chưa bảo thủ cho
toàn dân tộc được thì đừng mong gì vĩnh cửu. Trái lại cần phải tô điểm Nam
phong do tinh thần tổ phụ ta để lại làm căn bản mới đủ sức mạnh, đủ cường liệt
đứng đợt với toàn cầu vạn quốc. Bằng chẳng vậy thì đừng mong sớm hưởng, còn xa
vời lắm. (Thuyết Ðạo QII / tr 64)
* * *
7. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại
Ðền Thánh,
thời Tý Mồng 1 tháng 6 năm Mậu Tý ( 7-7-1948 ).
Phong hóa VN đ/v phong hóa các dân tộc khác (Phần 3)
Chúng ta hôm nay, tiếp
tục khảo cứu nền phong hóa của nước nhà ta đối với các dân tộc toàn thiên hạ.
Bần Ðạo đã giảng về chủ
quyền thứ ba của xã hội chúng ta, gọi là quyền giáo sư thứ ba theo đạo Nho mà
vị chủ quyền về đạo nhơn luân hay là chủ quyền về gia đình ấy tức là ông cha.
Bần Ðạo đã giảng về đạo và quyền của người rồi, bây giờ tiếp tục giảng về ông chủ quyền
thứ nhì của xã hội. Ông chủ quyền thứ nhì mà cũng là giáo sư văn minh Nho giáo là ông
chủ của hương đảng. Bần Ðạo đã nói chức Ðại Hương Cả hay Kế Hiền là mới bày đặt
sau nầy, chớ Nho giáo chỉ định tới Hương Chủ là hết.
Ta thấy rằng vị đó cầm quyền Hương Thôn, mà thật ra
người cũng là chủ quyền của xã hội. Ta để tâm nghiên cứu coi cái phong hóa của
đệ nhị chủ quyền nằm đó ra thế nào ? Bần Ðạo xin nói trước rằng nó tốt đẹp
không gì bì đặng, hại thay ! Ngày giờ nầy vì quốc dân xu hướng theo văn minh
tân thời muốn phế bỏ hủy hoại và cũng do bởi cớ nên Ðức Thanh Sơn để câu thi tự
hào rằng:
" Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công."
Nền văn hóa đạt được trải qua bốn ngàn năm, không
cần ai dâng công tạo văn hiến khác.
Ðạo của vị Chủ Hương Ðảng là coi sóc sự sanh hoạt
của dân chúng trong thôn hương, chẳng những nắm chủ quyền sự sanh hoạt mà còn
nắm chủ quyền sự chết sống, cầm vận mạng cả thôn hương trong tay nữa. Ðạo của
người là đạo thường, lo phụng thờ tôn miếu của triều đình. Các đình làng đương
nhiên là Công Thần Miếu, thờ những vị công thần bất kỳ nơi nào trong thôn quê
đã xuất hiện những vị trung quân ái quốc, vị quốc vong xu, tô điểm giang san,
binh vực lợi quyền của xã hội ; có công vĩ đại với triều đình, đến khi qui liễu
được nhà vua ân tứ phong cho Thần vị.
Ðiều hay hơn hết là vị công thần đạt vị đó, lại
được trong bổn thôn sanh quán của người thờ người. Sự khéo léo ta thấy hiển
nhiên, vì cớ vị Hương Chủ trong thôn hương cần nhứt tạo hiền tài ; nào là lập
trường học, bố thí kẻ côi cút, không phương học vấn, nào là nâng đỡ các gia
đình hữu học. Khi đạt đặng khoa mục, khỏi làm xâu, bởi gọi hàng khóa sĩ. Bần
Ðạo xin nói rằng chưa nước nào đã làm như nước Nam ta, khi xuất sĩ vị tân khoa
về quê gọi là bái tổ vinh qui, lạy tạ mồ mã tông đường ; ngày đó chẳng cần tả,
sự vinh hiển vô đối của họ nên phương pháp ấy giục tâm toàn quốc cố học, học
đặng hành.
Hại thay ! Trong thôn hương nhiều nhặt nhiệm nên
cũng có sự hay mà cũng có sự dở, là kẻ nào bất tài thiếu học, hay có tánh chất
hèn kém, không đủ tinh thần tế thế an bang ; làm cục bướu của xã hội, nếu kẻ ấy
không lập thân danh đặng thì duy có trốn mà đi chớ không dám ở trong làng mình
nữa. Vì cớ cả quốc dân nong nả học hành, chẳng phải học để lập thân danh mà
thôi, chỉ thấy khuôn khổ nghiêm nghị, dìu dắt chủ hướng người quân tử dù tánh
đức tiểu nhơn mà ở trong làng cũng phải sửa nết lại.
Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sanh mạng nên theo
đàng cựu thì trích đất quốc gia làm công điền ; hồi cựu trào số đất công điền
trong các đất đai của làng rất thặng, vì thuở ấy dân chưa có gia nghiệp tư bản.
Những đất hoang vu, ông Hương Chủ khai mở thành công điền, toàn thể dân đinh
buộc họ duy có làm xâu mà thôi, mà chẳng phải làm xâu như bây giờ, người nào có
làm xâu thì số lúa tư sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ
bị trích mấy phần mười số lúa tư bản của mình đó.
Số sản xuất những công điền ấy chia làm ba phần;
hai phần ba để vào công nhà làng, một phần ba nạp cho triều chánh của nhà vua,
nên không có lấy thuế bằng tiền bạc. Nhà vua buổi nọ muốn thưởng công các quan
duy có đong lương mà thôi, vị nào cao cấp mấy hộc, trung cấp mấy hộc, hạ cấp
mấy hộc; ngoài ra lương ấy nhà vua có phương pháp kêu là ban thưởng đặc biệt về
công nghiệp vĩ đại, ân tứ cho ngựa bốn cặp, sáu cặp hay mưòi cặp, hay xe đôi
chục, năm chục mà thôi, sự khéo léo của quốc gia là giục tâm cho dân cày cấy
ngoài ra sự chăn nuôi súc vật, rồi vì sau nầy việc canh điền nặng nề thì lại
bày ra việc thưởng trâu bò thay thế cho đầu ngựa. Ngày xưa làm quan không ăn
tiền, chỉ lãnh lương nên tiếng tục gọi là "
Ăn lương" là vậy.
Một phần ba số lương triều chánh thâu vào thì nhà
vua dùng phát lương cho các quan, năm nào đặng mùa dư giả thì làm kho dự trữ,
nơi các Hương Ðảng cũng đều phải vậy. Thảng như rủi năm nào thất bác, dân đói
khó, thì lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẩn bần, mà đầu tiên đứng ra tế
chẩn là ông Hương Chủ, khởi phát ở kho lúa của làng trước, khi nào thiếu mới
lấy thêm ở kho quốc gia.
Sự nong nả chẳng phải tìm phương cho dân cày cấy
ruộng nương mà thôi, phải khuyến khích chăn nuôi súc vật, khuếch trương các
tiểu công nghệ trong làng, thúc giục dân nuôi tằm dệt vải làm tơ lụa, các nghề
thợ mộc thợ rèn và các kỹ nghệ nào hay khéo mà dân sở tại làm đặng, quyền ấy là
quyền của ông chủ Hương Ðảng, còn ban Hội Tề, Hương Sư, Hương Hào.v..v. đều là
phụ thuộc vào triều chánh của ông Hương Chủ mà thôi.
Cái Ðạo của vị Hương Chủ là thờ công thần, mà là
thờ mạng sống của toàn dân trong hương nữa, nên cổ tục ấy lưu truyền đến ngày
hôm nay, sống cũng phải lo cho dân, mà chết cũng phải lo cho dân. Vì cớ đồ âm
công phải có sẵn. Hồi cựu trào bất kỳ hạng nào, dầu là một vị quan hồi hưu về ở
trong làng cũng vậy, hễ khi có một đám tử, người dân của làng đã được định làm,
nhưng quan thì bị bắt khiêng đám cũng phải đi không ai khỏi đặng.
Lại nữa, chẳng phải lo việc chết thôi, còn phải lập
nhà thương, nhà nuôi trẻ em, trường học, cả cái khuôn khổ văn minh Hương Ðảng
lưu lại ngày nay là do nơi chủ quyền của Hương Chủ mà ra vậy.Hồi lúc Bần Ðạo
còn nhỏ, nhớ nhứt là khi xay lương và giã lương, hễ lúa đem về kho rồi thì dân
làng nhứt là phụ nữ, xúm lại giã cho trắng đặng nạp về triều kêu là nạp lương,
tục ấy mới bỏ trong thời gian gần đây. Mà xay lương thôi thì đô hội, mệt nhọc
mà vui vẻ lạ lùng. Không thể nói hết đặng, câu hò câu hát còn lưu lại trong dân
gian ngày hôm nay là do nguyên cội xay lương đó. Xay giã xong, 1/3 nộp cho
triều đình, 2/3 để cho Hương Ðảng.
Còn một điều nữa là ở trong làng hễ có người nghèo
khổ cơ hàn, thì Hương Chủ dạy toàn dân làng phải bảo vệ, hễ cưới vợ không được
thì xúm nhau chung tiền lại giúp, cất nhà không nổi thì xúm nhau tạo nhà cho,
khi có bịnh hoạn thì xúm nhau đến thăm viếng và giúp đỡ, tình liên lạc mật
thiết như cốt nhục mà khuôn tuồng đó ngày nay đã mất rồi vì chưng tư lợi tư kỷ
nhiều quá mà cho tiêu diệt hết lòng tương ái tương thân trong hương đảng.
Ta thử nghĩ lại, một ông chủ cầm quyền xã hội dường
đó, chánh sách bằng mấy cộng sản mà là cộng sản tinh thần nên quốc gia chúng ta
có cộng sản thúc nhặt tâm lý làm khuôn phong hóa chung sống cùng nhau, không
cướp bóc, không tranh quyền đoạt vị. Ở trong làng, quyền làm chủ hương thôn ấy
chỉ có truyền biểu mà thôi, dầu trong triều về đó ở mà dân không tín nhiệm thì
cũng không có quyền gì buộc dân đem mình lên đặng.
Phần nhiều triều chánh sau nầy mới có tham ô quan
lại, chớ thời xưa một người làm quan rất sợ điều đó lắm, là vì hễ đã mang danh
tham quan rồi thì về làng không ở với ai được, cả làng mạt sát chịu không nỗi,
cho nên cả cái bí pháp hằng tâm gìn giữ rất nhặt nhiệm, kẻo buổi về già không
chịu nỗi sự trích điểm của thôn lân, được vinh quang chừng nào thì lại càng giữ
gìn tánh đức. Trong làng mà vị nào vì dân, lo cho dân, đủ tánh đức nuôi dạy
dân, thương dân như con đỏ thì dân sanh cử lên, chớ không phải bầu cử hốt mớ,
rồi đưa kẻ bất tài thất đức lên được, vì trong triều chánh của ông hương chủ ở
dưới có ban Hội Tề, đi từ mức đào luyện từ cấp, rồi mới lên đến hương chủ thì
đã sáng suốt mực thước lắm rồi.
Ngoài ra nữa, còn một điều là trong hương đảng coi
chủ quyền ấy như ông tòa, đến bây giờ còn chức tước mà quyền không phải vậy.
Ông chủ của làng làm tòa xử, hòa giải dân tình, nên không có tụng cáo ra triều
đình bao giờ, hay là trừ các án tiết trọng hệ, như cường đồ sát mạng, mới thấu
đến luật hình triều chánh. Trong làng có điều gì chinh tâm với nhau thì ông chủ
của làng xử trước, nếu bất đồng đem nội vụ ra nhà việc, hễ lỗi nhỏ thì nạp tiền
câu tra, tội lớn thì căn nọc đánh giữa dân làng, không đến nỗi chết mà hễ bị
đánh rồi thì về nhà còn có nước trốn đi nơi khác, hoặc đóng cửa đi đâu đi lén
lút khổ não lắm vì bị gièm pha nhạo báng xấu hổ chịu không nỗi.
Còn nói về phụ nữ nhứt là gia đình nào con hát bè
hát bộ, thì có dọn mà đi luôn. Ðến nghiêm luật gái chửa hoang, đẻ lạnh thì cha
ông, con cháu đều bị đòi ra giữa làng hết thảy. Thứ vợ hổn với chồng, chồng
hiếp vợ, con bất hiếu, em vô lễ với anh cũng vậy, đặng giữ nghiêm phong hóa xã
hội do khởi đoan từ hương đảng ra quốc gia xã hội.
Triều đình cốt yếu làm đầu đặng nắm giềng mối, chớ
thật ra cầm quyền xã hội là trong hương đảng, mà quyền trong hương đảng là của
đệ nhị chủ quyền, tức là quyền ông hương chủ đó vậy. (Thuyết Ðạo QII / tr 67)
* * *
8. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh,
thời Tý Mồng 5 tháng 6 năm Mậu Tý ( 11-7-1948 ).
Phương pháp tổ chức xã hội trong hương
thôn VN
Kỳ trước, Bần Ðạo đã giảng về đạo của vị chủ quyền
xã hội chúng ta là ông chủ, nay tiếp thuyết về phương pháp tổ chức xã hội ta
trong hương thôn là thế nào và ai cầm quyền ấy.
Ta đã thấy Nho Ðạo ta lấy gia đình làm căn bản,
bước từ tiểu gia đình là gia tộc, lên đại gia đình là quốc gia, lại thấy sự
khéo léo trong gia đình là phương pháp thực hành. Các phần tử trong gia tộc
hiệp lại thành tông đường, một gia tộc nào đủ nhơn nghĩa đạo đức thì tông đường
đó để mắt nong nả cho có đủ phương pháp thi thố cả sở năng của mình, bởi chỉ
trông cậy nơi mình làm cho gia đình đứng đợt được với thiên hạ một cách vinh
diệu, mà hễ tông đường được vinh diệu, tức nhiên người đại diện cho tông đường
ấy khi ra thay mặt cho tông đường đã đào luyện trí thức tinh thần, sở năng, sở
kiến, đặng thay thế tông đường cho xứng đáng trước luật quan phép nước.
Trong hoàn cảnh kiến thiết xã hội là vậy. Làm đầu
tông đường được, tức nhiên trong hương đảng đã để dành địa vị cho danh thể cao
trọng ấy rồi, thanh niên thì vào hàng thành đinh, niên cao kỷ trưởng thì vào
hàng kỳ lão, lãnh kiến thiết hương đảng, không bỏ một ai. Tuy vậy, Ban Hội Tề
có đông đủ mặc dầu, nhưng Bần Ðạo đã nói rằng Hội Tề bất quá là triều chính của
đệ nhị chủ quyền là ông hương chủ trong hương đảng vậy thôi.
Ấy vậy, trong hương thôn có mặt nào đứng đợt làm
đầu hương thôn, mặt ấy không lẽ triều chíng không biết đặng, nên danh nghĩa
trong hương đảng liên quan mật thiết với triều đình, mà hễ có liên quan tức
nhiên là địa vị triều đình sẽ dành để cho người cầm quyền hương đảng đó vậy.
Tổ chức xã hội chúng ta đi từ tiểu gia đình lên đại
gia đình là quốc gia, vì cớ nên Tiên nho chúng ta, dầu cho đệ tam quyền là ông
cha trong gia đình mà có tội đem ra giữa triều chánh buộc tội là trị đạo bất
nghiêm, còn đệ nhị chủ quyền lại là trị dân không nghiêm cũng gọi là trị đạo
bất nghiêm. Hình phạt nặng nề sẽ định án cho hai chủ quyền là đệ nhị và đệ tam
đó không phương chối cãi.
Cái đạo, nói tiếng đạo, mà người cầm quyền trị đạo
phải thật hành được đạo đã không dễ thì cầm quyền trị đạo lại càng không dễ
nữa. Phải làm thế nào thi thố cho dân sự trong bổn thôn thấy tâm thánh của mình
là thay thế Ðức Khổng Phu Tử làm cha mẹ dân, mà chẳng vậy thôi, còn cầm quyền
làm thầy trong bổn thôn nữa mà chớ,Tổ chức xã hội quốc gia chúng ta không mắc
mỏ mà thật sự thì khó đáo để.
Thuở mà nòi giống nầy còn kêu cha là bố và mẹ là
cái, kẻ nào đạt được vị bố cái hương đảng, tức là cha mẹ của hương đảng, ấy là
lời ban thưởng, tặng khen lớn lao lắm vậy, tức nhiên đệ nhị chủ quyền là quyền
của vị bố cái hương đảng là vinh diệu hơn hết.
Ấy vậy, đệ nhị chủ quyền làm cha, làm thầy trong
hương thôn, ta suy xét tưởng tượng xem phận sự ấy trọng yếu như thế nào ? Coi
dân như con đỏ, làm như cha mẹ dân thay thế cho triều đình, mà muốn nên phận
cha mẹ dân thì vị chủ quyền đó không tư tâm, tư kỷ, hễ tư tâm tư kỷ tức bốc lột
dân, trộm cướp của dân, hiếp bức dân. Ta thấy phương pháp đương nhiên, hiện giờ
còn giữ khuôn khổ ấy, chỉ hại một điều là hương đảng đương nhiên xu hướng tân
thời đã hết làm cha mẹ dân, giở thói tham quan ô lại, làm cục bướu, làm mục ghẻ
tâm lý của dân.
Vì cớ nên giá trị của đệ nhị chủ quyền không còn
năng lực nữa, mà nếu không còn năng lực tức là hết cầm quyền chuyển tâm lý
được, biểu thế nào ngăn cản được dân xu hướng theo văn minh mới, mà nhứt là nòi
giống Việt Nam nầy hay nghinh tân yểm cựu lắm.
Nếu không đủ biệt tài cầm cái khối báu do Chí Tôn
để lại mà trau giồi làm cho có giá trị, cứ do theo điều mới mẽ ấy thì chỉ có
làm cha làm chủ bướng vậy thôi, nên cần phải biết sửa đương lại thì xã hội nầy
sẽ đứng đầu hơn hết. Tại mình làm chủ mà không biết của báu, khinh miệt nên
thiên hạ mới khinh miệt nó.
Ấy vậy, đương thời bây giờ thiên hạ không còn làm
cha mẹ, bố cái hương đảng nữa, nên cái vinh diệu của Tiên nho ta lưu lại đã bị
bại hoại thành hình tướng dị hợm lắm rồi.Vị chủ quyền hương đảng của nhà nho
ta, tuy là tư tưởng tinh thần rất đơn sơ, nhưng nói ít mà làm nhiều, nên vị
hương chủ hồi cựu trào lãnh làm chủ hương đảng thì triều đình phái một vị quan
đến phong quyền cho và thường nói: "
Triều chánh cầu xin một điều là hương chủ làm sao cho xứng đáng phận sự cha mẹ
của dân."
Trước ta đã thấy quyền làm cha mẹ trong gia đình
khó khăn thế nào rồi, thì vị hương chủ lên làm cha mẹ dân trong một làng, lời
xưa thường gọi là bá tánh là vì bởi nhiều tông đường hiệp lại mới thành một
làng. Nên việc làm cha mẹ dân trong một làng không phải dễ, dân đói phải lo,
dân rách phải lo, dân khổ phải lo, một tên dân đau khổ thì ông chủ quyền phải ở
bên mình như cha ở bên mình con vậy, cha nâng đỡ danh thể làm cho con nên thế
nào, thì ông chủ quyền của hương thôn cũng phải làm nên cho dân thế ấy. Nghĩa
là tâm lý của ông cha cầm quyền gia đình trị con thế nào, thì ông chủ cầm quyền
hương lân trị dân cũng như cha trị con vậy.
Nếu từ trước đến giờ còn giữ được khuôn khổ tổ chức
của tổ phụ để lại thì Bần Ðạo tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong đương nhiên và
cầm chắc sự thống khổ loạn lạc chẳng hề có đặng. Ngày hôm nay, phong hóa quốc
gia xã hội ta không còn nguyên hình tướng nữa, đã thay đổi ra thô tục gớm ghiết
quá chừng.
* Ðức
Lý Giáo Tông lập Bàn Tri Sự, Ngài lập chức Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự, rồi
Ngài lại biểu Bần Ðạo lập chức Thông Sự. Ngài nói Phó Trị Sự là Giáo Tông em,
mà nơi làng có Giáo Tông em thì tức nhiên phải có Hộ Pháp em là Thông Sự nữa
chớ. Nếu sự tổ chức hương lân chưa phải cần yếu thì Ðức Lý đã không làm như
vậy.
Ngài đặt chức Chánh Trị Sự tức là ông chủ, đệ nhị
quyền trong thôn lân về phần Ðạo, hỏi vậy mơ vọng của Ðức Lý để Chánh Trị Sự
làm gì ? Ðức Lý có ý đem qui cũ đạo vào đệ nhị chủ quyền, đặng phục hồi lại y
như trước. Ngài quyết định hơn nữa là để vị chức sắc ấy nắm quyền Hội Thánh tức
là vào Thánh Thể của Ðức Chí Tôn, nghĩa là dự định đặng lên Lễ Sanh, rồi lên
Giáo Hữu, tức là vào Thánh Thể đó vậy.
Muốn chỉnh đốn xã hội lại, nên luôn dịp để một
khuôn khổ trị Ðạo cho dân sanh tỉnh giác, biết vật báu ấy mà gìn giữ, tô điểm,
làm cho xã hội thôn lân thêm xinh lịch. Ý muốn là vậy, mà thử hỏi Bàn Trị Sự
toàn thể quốc gia ta ngày kia có đủ năng lực và đủ tinh thần đạo đức để chỉnh
đốn xã hội trong hương thôn, lần lần sửa lại theo tổ chức tối cổ của quốc gia
xã hội ta trước được không ?
Bần Ðạo dám chắc rằng Ðạo Cao Ðài làm đặng và nhờ
bàn tay của toàn thể quốc dân Việt Nam ta đó. Việc làm bất luận lâu hay mau,
miễn đạt được thì thôi, Bần Ðạo sợ e một điều là đầu óc hình thể ta thấy trước
mắt, thay vì chỉnh đốn đi ngược trở lại khuôn cũ, rồi lại còn xu hướng theo tổ
chức xã hội, làm diệt vong phong hóa ; thay vì cứu sống lại cái gia tài, lại
làm tiêu cả sự tốt đẹp thọ hưởng đã 4.000 năm nay còn noi lại.
Bần Ðạo mơ ước một điều là toàn con cái của Ðức Chí
Tôn trong hương thôn tức là Bàn Trị Sự, biết phận sự trọng yếu của mình để đủ
tinh thần làm vừa theo Thánh ý của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Chí Tôn. Bần Ðạo
mong mỏi cả thảy đem cái quí của tổ phụ chúng ta lưu lại chỉnh đốn cho đẹp cho
xinh đủ oai quyền năng lực, đặng ngày kia đem cho toàn các sắc dân khác đồ
theo. Ðương buổi nầy thiên hạ đang thống khổ tâm hồn, nếu họ thấy chánh sách
của ta đạt được, họ sẽ lấy và đồ theo mà lấy trong tay Cao Ðài họ không thẹn
mặt.
Cả thảy nam nữ nhớ lời căn dặn, đặng khi thái bình
trở lại, cho chỉnh đốn Bàn Trị Sự trong hương thôn, để làm nền móng tổ chức
quốc gia ta sống lại đẹp đẽ mỹ mãn cường liệt thì nhờ nơi hương đảng tạo ra ;
nếu mấy người tạo ra thô bỉ thì sự kiến thiết cũng thô bỉ, hễ máy người tạo ra
đẹp đẽ thì sự kiến thiết đẹp đẽ, mạnh mẽ vì bởi khởi đầu đào tạo bằng hột giống
mạnh thì cây lên mạnh, bằng hột giống yếu thì cây sẽ lên yếu. (Thuyết Ðạo QII /
tr72)
* * *
9. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh,
thời Tý Mồng 9 tháng 6 năm Mậu Tý ( 15-7-1948 ).
Ðệ nhứt chủ quyền của xã hội Việt Nam
Ðêm nay Bần Ðạo giảng
tiếp về đệ nhứt chủ quyền của xã hội chúng ta.
Bần Ðạo đã giảng kỳ rồi
về đệ nhị chủ quyền tức là chủ quyền hương đảng và đã giải rõ ràng cái phương pháp kiến
thiết từ thử là lấy gia đình làm căn bản. Tiểu gia đình là trong một nhà liên
quan với cả tông đường gọi là họ, là tánh, trung gia đình tức là tổ chức trong
hương
đảng của đệ nhị chủ quyền, tới đệ nhứt chủ quyền làm đầu một đại gia đình là một nước.
Ta đã tự hiểu Thánh ý của Ðức Chí Tôn sanh ra nòi
gống chúng ta, và đã tạo cả tinh thần của nòi giống chúng ta, không biết chừng
dìu dắt tinh thần ấy để lập chánh kiến quốc gia, là lấy gia đình làm căn bổn.
Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại
gia đình toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nếu Ngài định trước cho một quốc dân
của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn
nhơn loại, lấy cả quyền năng lập quốc cho nước Việt Nam, đặng làm khuôn mẫu
chuẩn đích tương lai lập chánh trị toàn cầu thiên hạ mà chớ. Nếu không tự tôn,
ta cũng nhận thấy rằng điều tưởng tượng ấy không lầm, bởi dầu muốn hay không,
quyền năng vô hình cũng xô đuổi giục tấn các dân tộc vạn quốc phải đi đến sự
chung hiệp vào đại gia đình của toàn nhơn loại mà thôi.
Ấy vậy, Bần Ðạo thuyết đệ nhứt chủ quyền do tổ phụ
chúng ta tổ chức và lưu lại trong văn hiến tức là nhà vua. Ðệ nhứt quyền là
giáo sư, là ông cha của cả nước. Không lạ gì, chúng ta cũng thấy như ông cha
trong tiểu gia đình kia vậy. Ðức Khổng Phu Tử nói: " Ðạo trị dân không khác đạo trị gia đình." Ấy Ðạo của
Ngài vậy.
Chúng ta thấy trước khi lên cầm quyền vì một sơn hà
xã tắc, một nhà đương quyền tại vị, hay đã thoái vị cũng vậy, các vì vương đế
thường có nói nơi cửa miệng hoặc di chúc lại, bao giờ cũng mơ ước cho có người
kế vị xứng đáng làm cha mẹ của nhơn dân bá tánh, văn hiến của ta tuy đơn sơ mà
thâm thúy lắm là nói ít mà làm nhiều, và sự khó khăn trọng yếu chẳng thể tưởng
tượng được.
Bần Ðạo nhắc lại một lần nữa là buổi nòi giống An
Nam ta đây còn kêu cha là bố, mẹ là cái, mà vị đế vương nào lên cầm quyền được
dân tặng là bố cái, như Bố Cái Ðại Vương, thì sự vinh hiển của triều chánh đó
không luận đặng, mà sự vinh hiển của đế vương đó cũng chẳng tả được đối với
lòng dân. Nói ít làm nhiều. Văn hiến của ta do văn hiến của Tàu châm chế sửa
chữa lại, lấy của người làm của mình. Lấy căn bản chánh gốc của người ta làm
của cải riêng của mình với tư cách đặc biệt, tưởng không nước nào khéo léo hơn
nước Việt Nam ta vậy.
Ta thấy lời một vị đế vương để lại cho con lên
truyền kế cho mình như Hớn Chiêu Liệt để lại hậu chúa, có câu căn dặn rằng :
Nếu nhà cầm quyền nào mực thước trị dân, biết tùng theo thì thiên hạ thái bình,
quốc thới dân an, Hớn Châu Liệt sắc Hậu Chúa viết: " Vật dĩ thiện tiểu nhi bất
vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi" ( nghĩa là ông Hớn Chiêu Liệt căn dặn
con truyền kế rằng: Ðừng thấy lành nhỏ
gọi nhỏ mà không làm, đừng thấy ác nhỏ gọi nhỏ mà làm).
Vị đế vương biết rằng trong tay cầm sanh mạng quốc
gia, trị cả bá tánh để lại cho con một di ngôn bất hủ. Nếu cả các đế vương trên
mặt địa cầu nầy, cầm sanh mạng quốc gia biết lấy câu ấy làm "Trấn
tâm chi bửu" cho mình,
Bần Ðạo tưởng chắc, nếu thi hành cho đúng thì cả quốc dân đó hạnh phúc vô cùng.
Tổ phụ chúng ta muốn gì ? Trong nước ta, dân ta, tình của vua đối với dân như
thế nào cho mực thước, chơn thật như cha đối với con, nếu vua đối được với dân
như cha đối với con, tức nhiên lấy tình ái làm quyền hành, công chánh làm mực
thước, tưởng không quốc gia nào trên mặt địa cầu nầy hưởng được hạnh phúc hơn
nữa.
Ta thấy tấn tuồng ly loạn do kẻ cầm quyền định vận
mạng cho nước, cho dân chỉ biết mình, không biết bá tánh. Thường nghe nói: "Thiên hạ vi gia" hại một điều
tuy vậy nhà vua ở với bá tánh như cha ở với con, nên có câu " Thiên hạ vi gia ".
Vậy nhà vua lấy thiên hạ làm nhà, thương dân như
thương con đỏ, trái lại họ lấy thiên hạ làm tôi đòi của cải. Thay vì coi thiên
hạ như nhà như con, họ lại coi thiên hạ như nô lệ, tư nghiệp của mình, tức là
hiểu lầm khuôn khổ của Tiên nho ta đã quyết định vậy.
Tổ chức thật khéo léo làm sao, chính nhà vua cũng
không thoát cái khuôn viên gia đình. Nếu ngôi vua truyền hiền thì chẳng nói
chi, từ khi các vị đế vương truyền tử đến giờ gia đình vẫn ở bên cạnh họ, họ
phải bảo trọng gia đình trước nhứt bởi gia đình của họ là đệ nhứt gia đình
trong quốc gia.
Ta thấy từ khi các quốc gia nầy chẳng chịu ảnh
hưởng của Nho Tông mà lập quốc, đã trở nên suy đồi bởi nguyên căn nào, do trị
gia bất nghiêm ! Cho nên cổ truyền tai hại hơn hết là cái loạn trong cung tần,
trong vòng hoàng tộc mà sản xuất, đã hiển nhiên như vậy không chối cãi được.
Các vì vua trị gia bất nghiêm, biểu không bại hoại sao được, mà đệ nhứt gia
đình thất đạo có liên quan mật thiết đến cả toàn bá tánh thất đạo.
Nhà vua cốt yếu coi bá tánh như con đỏ, coi nước
nhà như đại gia đình, giữ đạo nhơn luân làm trọng hệ, đã có quyền sanh sát, mà
nếu quyền ấy không chuẩn thằng, biểu sao dân trong nước không thống khổ. Khi sự
thống khổ ấy dân chịu đựng nổi chẳng nói chi, thảng như quá sức không chịu nổi
được nữa, sanh loạn lên thì triều chánh và cả nước nhà phải nghiêng đỗ.
Sự kiến thiết quốc gia lấy gia đình làm gốc, ta
không thể chối rằng không biết gia đình ấy hay là từ bỏ đạo nhơn luân duy có
theo lối vô thần thì mới chối đạo nhơn luân đặng, nếu không chối đạo nhơn luân,
tức không chối đạo gia đình, mà không chối đạo gia đình thì cũng không hề chối
tương lai vận mạng của tổ quốc mình được.
Ấy vậy căn bản của phong hóa Việt Nam ta do nơi đạo
nhơn luân, nơi gia đình, dầu ai thuyết minh phong hóa như thế nào đi nữa nguyên
căn tinh túy cũng vẫn do nơi gia đình mà thôi; cho nên gia đình, phân làm ba
hạng: " Hạ, Trung và Thượng gia đình
".
Thượng gia đình là quốc gia, Trung gia đình là
hương đảng, Hạ gia đình là tông đường, không có chi là lạ, là khó, nhưng căn
nguyên ấy ta không sửa đổi đặng bởi ba bực hạ, trung, thượng của cơ tấn hóa thế
nào thì gia đình cũng thế ấy. Cả càn khôn có thượng giái, trung giái, hạ giái,
mặc luật thiên nhiên của sự tiến hóa trật tự ấy không thể tiêu hủy đặng.
Tổ chức xã hội của chúng ta khéo léo làm sao đâu,
Bần Ðạo dám chắc rằng cao thượng hơn hết. Hại thay ! Quốc dân ôm của báu trong
tay mà không biết quí trọng, liệng rồi chạy theo ăn mót đồ bỏ của thiên hạ, lấy
làm của. Ðức Chí Tôn đến đặng thức tỉnh nhơn sanh, nên mới có câu Ngài nói với
nhà vua: " Nam phong thử nhựt biến nhơn phong " là thêm ý rằng:
Tổ phụ chúng bây để lại cho bây một
phong hóa, nó sẽ biến thành phong hóa của toàn nhơn loại vậy.
Ngài cho biết rằng chúng ta vốn có của báu, mà của
báu ấy thiên hạ đang tìm kiếm đặng sống.
(Thuyết Ðạo QII / tr76)
* * *
10. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh.
Ðêm 14 tháng 6 năm Nhâm Thìn ( 1952 )
Tam dục: Thể - Trí - Ðức dục
Ðêm nay Bần Ðạo giảng về Tam Dục, Dục đây là lấy
chữ dục tức nhiên là nuôi.
Vả chăng trong kiếp
sống chúng ta nơi thế gian nầy, chỉ chúng ta có ba món cần ích đặng định mạng
của chúng ta, sống nơi mặt thế nầy 3 món trọng yếu ấy nó phải nuôi dưỡng ta như
: Ðói khát chúng ta phải ăn, phải có nó mới sống. Ba món ấy là: Thể Dục, Trí
Dục và Ðức Dục.
Chúng ta nói chữ dục
tức nhiên chúng ta có thể nói rằng dưỡng dục. Ba món ấy có ba chủ quyền của nó đặc
biệt, thân thể chúng ta đã nên ngươi đây, đang sống đây chúng ta thọ ân vô biên
vô tận trong kiếp sinh của chúng ta là cha là mẹ. Nếu hai đấng ấy không có
dưỡng dục ta thì ta đã chết, đã tiêu xác hồi nào rồi. Ðiều ấy Bần Ðạo không cần
phải minh biện rõ rệt cho lắm, cả toàn thể con cái Ðức Chí Tôn nam cũng vậy, nữ
cũng vậy, các con có hiểu điều ấy. Bởi thế Tiên Nho chúng ta đã có nói: " Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân."
Chúng ta có nuôi con mới biết được ơn cha mẹ đã sanh thành dưỡng dục.
Ấy vậy quyền năng dưỡng dục về Thể Dục ta, đó thuộc chủ quyền cha và mẹ ta, nếu không có nhờ mớm
cơm vú sữa thì thân ta ngày hôm nay không được làm người đấy, thử lãnh đạm đi,
thi hài phàm tục đã bị tiêu hủy rồi, không tiêu hủy về phương diện nầy, cũng
tiêu hủy về phương diện khác, đừng nói chi không có nuôi dưỡng chăm nom săn sóc
thi phàm chúng ta, thử nghĩ coi chúng ta có thể sống được hay chăng.
Ðiều ấy cả thảy đều thấy dễ dàng không cần phải
luận. Trí Dục, trí của chúng ta đã
khôn ngoan tài tình, hễ có trí thì có tài mà ai cần dùng tài của chúng ta và ta
lấy trí ấy nơi đâu mà đặng, tức nhiên ta phải nhớ đồng sống cùng xã hội nhơn
quần, tức nhiên đồng sống cùng chủng tộc, ta mới có thể mở mang trí lự được. Có
đồng sống với họ, họ mới mở quyển sách đời cho ta đủ khôn ngoan tài đức, ta mới
đồng sống với họ đặng.
Thảng như chúng ta thiếu, Bần Ðạo nói thiếu, Bần
Ðạo quả quyết duyên cớ hiển nhiên rằng: Thử bỏ xã hội nhơn quần chúng ta lên
non cao rừng rậm chúng ta ở từ thuở bé xuân, thì con người chúng ta sự khôn
ngoan sẽ thiếu kém, trí thức chúng ta không thể mở mang đặng rộng rãi, hoạt bát
như chúng ta đã đồng sống trong xã hội nhơn quần. Mà xã hội nhơn quần cần yếu
chúng ta có trí tài đặng chi ?
Ðặng chúng ta mới có phương thế giúp ích cho họ,
nếu không đủ trí tài thì chúng ta sẽ làm một con vật mà thôi, làm một vật ăn
bám của xã hội nhơn quần, không có hữu ích gì hết.
Bần Ðạo nói đây cả thảy con cái của Ðức Chí Tôn ngó
thấy một người ngơ ngơ không đủ trí, ngu xuẩn thì bao giờ họ cũng chỉ làm bậy
làm quấy, không thế gì biểu họ làm điều phải với hay cho đặng. Hạng nhứt xã hội
nhơn quần sợ cái đó hơn hết, nên cần nhứt họ phải giáo hóa mở mang trí lự toàn
thể quốc dân của họ. Ấy vậy lập trường họ viết sách, họ luận biện họ thuyết cả
lý do chia sống của chúng ta, họ đem cả phương pháp tạo cho đặng trí tài ấy hầu
giúp ích cho sự sống cùng toàn thể chủng tộc của họ.
Ấy vậy về Trí Dục là về phần của xã hội nhơn quần.
Nói trắng ra thuộc về phận sự tối yếu tối trọng của quốc gia xã hội của nhà
nước.
Ðức Dục: Bây giờ tới Ðức Dục phải lập đức, họ có
kiếm nơi nào không được hay chăng, không phải do quyền Thiêng Liêng mà có,
chúng ta tự tạo lấy mà có, chớ không hề xin ai đặng, chưa xin ai mà đặng. Nơi
mặt thế nầy bao giờ cũng tranh sống thì chẳng hề khi nào chúng ta định quyết họ
đã lập đức với sự tranh đấu kịch liệt của họ, mà họ đã lập đức đặng, chữ Ðức ấy
thiên hạ đã nói khẩu thuyết rất nhiều, mà thiết tưởng của họ tưởng cả phần đông
xã hội nhơn quần nơi mặt thế nầy, giờ phút nầy Bần Ðạo đứng tại tòa giảng nói
rằng: Chưa biết kiếm nơi nào cho đặng phương pháp lập đức ấy, chưa biết nơi đâu
mà họ tìm.
Nếu xã hội nhơn quần mà có đức, cả toàn nhơn loại
mà có đức, thì trường tương tàn tương sát kia đương náo nhiệt không thể có
được, bị họ thiếu đức ấy, mà thiên hạ đã điên đảo, thiên hạ đã thống khổ tương
tàn tương sát với nhau, không buổi nào trên mặt thế gian nầy đặng hòa bình, là
thiên hạ do thiếu đức. Tiên Nho của chúng ta đã có giáo hóa dân mà thôi, nói
một câu rất hay:
"Tích
kim dĩ di tử tôn,
Tử
tôn vị tất năng thủ.
Tích
thơ dĩ di tử tôn,
Tử tôn
vị tất năng độc.
Bất
như tích âm đức"
Ư minh minh chi trung dĩ di tử tôn trường cửu chi
kế.
Nghĩa là: " Chúng ta để vàng cho con chưa biết
con giữ gìn còn hay chăng, chúng ta để sách cho con cốt yếu mong cho nó làm
quan, trên thiên hạ, khôn hơn thiên hạ, giỏi hơn thiên hạ, trí tài hơn thiên
hạ, chưa biết nó đọc hay chăng, chẳng bằng chứa đức lại mà nó vẫn còn tồn tại
mãi thôi."
Lập Ðức, bây giờ chúng ta để dấu hỏi đức ấy tìm đâu
mà có ? Bần Ðạo lại giải nghĩa quả quyết rằng ngoài cửa tinh thần đạo đức ở đâu
mà có được món ăn Thiêng Liêng ấy, duy có trong cửa Ðạo Cao Ðài nầy mà thôi.
Bần Ðạo lại còn nói quả quyết rằng: Bất kỳ tôn giáo
nào giúp cho ta đạt đặng cái đức, nền chơn giáo ấy gọi là chơn. Nhưng bất kỳ
tôn giáo nào dầu họ đem lý thuyết cao siêu bao nhiêu mà giục nhơn sanh tàn ác
vô lương thất đức, thì nền tôn giáo ấy bất quá là giả Ðạo. Chúng ta thử nghĩ
lại coi cửa Ðạo Cao Ðài chúng ta, Ðức Chí Tôn lấy triết lý nó là gì, thử coi
chúng ta lập Ðức được hay không, suy đoán coi ? Ngài đến, Ngài tuyển chọn lương
sanh làm Thánh Thể của Ngài, mà phụng sự cho nhơn loại đang thống khổ, tưởng
không nền chơn giáo nào Tu tâm có năng lực hơn phương pháp ấy. (Thuyết Ðạo QV /
tr 52)
* * *
11. - Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại
.Ðền Thánh.
15 tháng 1 năm Canh Dần ( 1950 ).
Phương lập vị mình trong xã hội
Ðêm nay là đêm rằm Thượng Nguơn, tức
nhiên là cái lễ tối yếu tối trọng của Ðạo buổi Khai Niên đó vậy, bình thường ngoài đời dầu
cho quan dân, tứ dân, tứ thứ: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, họ
thường đi lễ đầu năm kiếm hiểu coi giá trị của mình trong một năm qua
thể nào. Ngày nay Bần Ðạo bắt chước theo họ tìm hiểu cân lường thử coi giá
trị của chúng ta đã là phần tử của Thánh Thể Ðức Chí Tôn ra thể nào.
Hội Thánh, mấy em nam
nữ lưỡng
phái còn trong hàng tín đồ nghe Qua nói rõ: Thánh
Thể Ðức Chí Tôn không phải chức sắc Thiên Phong mà thôi, các phần trong nền
chánh giáo của Ngài mấy em phải biết trong thân thể của mấy em thế nào, chẳng
phải đầu óc mặt mũi tay chân là cơ quan trọng hệ gọi là trọng yếu vậy; các phần tử
trong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn Qua nói rõ chẳng phải chức sắc Thiên Phong
mà trọng yếu, chính mình bản đồ của Ðức Chí Tôn đã vẽ rõ: Trên Ðại Từ Phụ dưới là mấy em đó
đa nghe ! chớ chẳng phải Thánh Thể Ðức Chí Tôn là chức sắc Thiên Phong mà thôi, bây
giờ Qua nói: Qua thuyết đêm nay cho mấy
em tín đồ nam nữ với mấy đứa nhỏ hậu tấn nghe đó vậy phải để ý hơn hết nghe
!
Phàm chúng ta đã sanh
trưởng
làm người đứng giữa xã hội nhơn quần chúng ta đương nhiên phải tìm phương lập vị mình, ai ai cũng
như
ai, nhưng sở dụng của mỗi người đều muốn làm thế nào cho giá trị mình trên
thiên hạ lẽ hằng nó vẫn vậy, khi lập thân danh của mình rồi dầu muốn dầu không
trí não mình vẫn so sánh cân lường định giá trị của nó coi hạng nhơn sanh nào, mình đứng vào
hàng phẩm nào và thân danh của mình giá trị bực nào lẽ tự nhiên trí óc ai cũng
vẫn vậy.
Chúng ta ngó thấy một
vị quan chẳng cần nói cao kỳ cho đến vương đế công thần chỉ lấy bực thường theo
quan viên có sứ mạng cầm quyền trị dân, có cái sở hướng định chí của họ làm
thế nào để lưu lại miệng đời cái danh tiết yếu trọng, danh để cho thiên hạ tôn
sùng kính nể, vì thế cho nên trường quan lại không luận để lại một phương sống là
Tam Cang Ngũ Thường, còn ba hạng nữa, trước khi xuất sĩ buộc mình phải cho
có đủ, là Liêm, Khiết, để lại trong
trí não thiên hạ một cái giá trị.
Nhà giàu làm lụng cực
nhọc cốt yếu làm cho có của tô điểm danh giá của mình; tôi không được sang mà
điều tôi có của tôi làm oai cũng được vậy, lẽ tự nhiên thời đại nó vẫn vậy, lấy
giá trị nó cân lường giá trị, coi nó lập cho mình năng lực bao nhiêu, khinh
trọng quí hèn dường bao.
Chúng ta ngày nay cũng vậy, mấy em cũng vậy, phàm
mấy em cũng nghe một lời huyền bí thiêng liêng của Ðại Từ Phụ đến cùng chúng ta
với một phương pháp phi thường là ngòi bút, đến đặng tương thân tương ái với
chúng ta và cả thảy đều nghe đều ngó thấy đều xu hướng chạy theo Ngài, chịu
biết bao nhiêu khổ não truân chuyên cùng Ðạo, ít nữa mình phải kiếm coi cái hy
sinh của mình ở đâu, chạy theo Ngài giá trị thế nào là lẽ tự nhiên phải vậy, ta
phải làm cho được đặng định giá trị của mình.
Bần Ðạo nói dầu cho bực công khanh, vương hầu,
khanh tể giá như phú hữu tứ hải thế nào đi nữa nội trong một kiếp sanh là hết,
chúng ta ngó thấy trường đời nào là đài Tần đảnh Hớn, ngày nay danh thể có còn
tồn tại chăng ? Chúng ta đặng ngó thấy trên mặt địa cầu nầy đã có một quyền hạn
trị thế biết bao nhiêu danh giá cao trọng, nhơn loại đã lập vị nơi mặt thế nầy,
chúng ta chỉ đọc lại mấy trang sử không có chi lạ, là sự giàu sang của họ tạo
để nơi mặt địa cầu nầy, đời nầy qua đời kia biết bao nhiêu là giai đoạn. Sự tồn
tại của nó chẳng khác như cái bông sớm nở tối tàn không giá trị chi hết.
Chúng ta để trí não so sánh bao nhiêu đi nữa, chúng
ta chỉ ngó thấy hình bóng bất quá như ánh sáng hào quang của mặt trời đi ngang
qua cửa sổ mà thôi, không có chi trọng hệ. Ðương nhiên bây giờ chúng ta đã ngó
thấy con đường trước mắt giục thúc nhơn loại tranh đấu vì danh lợi, quyền thế,
thế nào chúng ta móc cân tinh thần để định giá trị coi, thấy rằng không có giá
trị chi hết, như giấc chiêm bao, giấc huỳnh lương mộng mà thôi.
Chúng ta mang danh ra trước thời kỳ ngộ Ðạo, đứng
giữa con đường Ðức Chí Tôn đi ngang qua đầu chớ không thấy hình ảnh của Ngài,
nhưng chúng ta cũng hưởng được mùi vị sống, mùi vị thiêng liêng của Ngài chỉ
biết được điều mượn mảnh hình hài xác thịt nầy làm con thuyền Bát Nhã độ thế
cứu đời, lấy cả khối trí óc tinh thần nầy làm câu kinh vô tự đặng chuyển cả
tinh thần loài người tiến triển trên mặt nhơn đạo của họ, đặng bảo thủ cái sống
còn trên mặt thế gian nầy, đem mảnh thân nầy đưa trong tay Ðức Chí Tôn cho Ngài
lập phương cứu khổ, chẳng phải sống của đời mà thôi, chúng ta còn đảm nhiệm cái
sứ mạng thiêng liêng quí hóa hơn trước, chúng ta còn lấy linh hồn chúng ta làm
mực thước đặng cứu vớt các linh hồn sa đọa làm cho họ có danh giá cao trọng.
Bần Ðạo nói sơ qua bao nhiêu đó cho cả thảy con cái
Ðức Chí Tôn để ý tìm coi thể nào rồi tự định giá trị lấy mình. (Thuyết Ðạo QIII
/ tr 69)
* * *
12. -
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
Ðêm 14 tháng 11 năm Giáp Ngọ ( 1954 ) .
Lập thân danh bằng hai chữ Tu
Thân
Ðêm nay, Bần Ðạo giảng cho đám thanh
niên nam nữ lưỡng phái. Có lẽ giảng hơi
dài, đừng vì lẽ mệt ngồi ngủ gục, hãy cố gắng lắng tai nghe.
Bần Ðạo giảng phải lập thân danh thế nào và căn bản
nào ? Vả chăng sanh nơi thế kỷ 20 nầy, Bần Ðạo thường nói : Cái phương sống của
con người là tranh đấu cố gắng đem cả trí não khôn ngoan đặng bảo vệ sống còn
của mình.
Có lạ chi, dầu muốn dầu không, dầu thuận tùng hay
là nghịch. Hỏi kiếp sanh của mình đã rủi sanh làm người rồi, thân của chúng ta
ở giữa vạn vật là vật hữu sinh cũng như cả vạn vật kia vậy. Có thân, có phận
thì con người của ta phải lập thân phận thế nào ? Bởi thế bậc hiền triết thường
nói:
" Ðã sanh ra đứng
trong Trời Ðất,
Phải có danh gì với núi sông."
Nếu con người không nên danh phận chi hết, dường
như tinh thần của họ thiếu phận làm người. Cái sống buộc ta phải sống chung
cùng vạn vật, ta phải khôn ngoan khéo léo, biểu ta sống đặng chi ? Ðặng làm gì?
Ta đã đồng sinh cùng vạn vật, tức nhiên giữa khối
sinh lực của ta đã xuất hiện ra, tức ta là một phần tử trong khối sinh lực của
toàn thể chúng sinh. Ta có phận sự phải bảo vệ cái sống ấy. Không có quyền diệt
cái sống hay là nghịch với cái sống. Tỷ như mặt hồ kia đầy nước, mà nếu ta múc
nước trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy sẽ vơi một phần.
Ấy vậy, ta sống ta đã chịu nợ của cái sống. Sống
chung cùng cả bạn đồng sanh, chúng ta phải làm thế nào cho sống ấy tồn tại hiển
hách mãi thôi. Ta không có quyền pháp nào, quyền hành nào làm mất sống ấy, tức
nhiên không quyền diệt sự sống.
Hại thay ! Chúng ta phải hiểu rõ rằng :Sống đây
không phải thú vị vui hứng gì, mà sống đây buộc chúng ta phải tìm phương giải
thoát khỏi sống ấy. Ðương nhiên bây giờ ta vẫn sống, ta không thể chối cãi là
ta đã chung sống cùng bạn đồng sinh của chúng ta là phải lập thân danh đặng bảo
vệ sống ấy.
Vì muốn bảo vệ sống ấy mà Tiên Nho của chúng ta để
lại thuyết: " Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ."
Tu Thân là gì ? Là trau giồi mình, biết mình, biết
người, biết vạn vật đặng định phận của mình. Ta không thế ngu muội, ta phải làm
sao cho khôn ngoan ấy nhờ Tu Thân. Tu thân ấy căn bản là gì ? Dầu cho kinh
thiên vạn điển đi nữa, cốt yếu một điều là tạo tâm đức của ta và dùng cái tình
ái của ta chi có khuôn khổ, có niêm luật, qui định một căn bản chắc chắn là Tu
thân đó vậy.
Ấy vậy, nó chỉ có bấy nhiêu, chúng ta tầm hiểu rằng:
Muốn định phận của mình, muốn tạo công danh của mình phải do căn bản tình đức.
Nếu trái lại do nơi thời may, hoặc là hung bạo, hay là xảo trá, gian lận những
điều ấy đều giả dối hết.
Quan tiền vũ hậu, ta thử xem xét coi cái sống đương
nhiên của bạn đồng sinh, họ đã hành vi và thi thố điều gì ? Dầu cho tên đạo
chích kia nó là kẻ cướp, kẻ hung bạo mà nó chưa hề dám từ bỏ Tam Cang Ngũ
Thường của nó, kẻ hung bạo dối trá chừng nào, càng ép mình trong khuôn khổ tình
đức chừng ấy. Họ mượn màu tình ái đặng lợi dụng lường gạt thiên hạ mới được.
Nếu đi ngược chiều tình đức thì chẳng hề làm lớn với ai được.
Kẻ cướp, kẻ hung bạo, tàn ác, nó muốn làm anh chị thiên
hạ nó muốn mượn màu tình đức ấy, nhơn nghĩa ấy cho tới tận cùng, gạt thiên hạ,
thiên hạ theo mới đặng.
Trái ngược lại, đối với người đã đoạt được khuôn
viên tinh thần tình đức ấy, do tự nhiên nó có, chẳng cần kiếm nó có sẵn hiển
nhiên. Từ cổ chí kim, chúng ta giở lịch sử của nhơn loại, chúng ta thấy rõ ràng
điều ấy. Bất cứ thời buổi nào vị anh hùng nào quán thế, ở thế gian nầy muốn lập
thân danh phải mượn màu tình đức ấy.
Bần Ðạo chỉ cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn
làm chúa thiên hạ, thâu thiên hạ trong tay, phải lấy tình đức đối đãi với kẻ bộ
hạ mới thâu cả xương máu của họ đặng tô điểm địa vị của nó. Trái lại nương nơi
hung bạo lập nghiệp như Sở Bá Vương, như Tần Thủy Hoàng kia thì nó phải tiêu
hủy cả cơ nghiệp. Bần Ðạo đã ngó thấy một điều, nếu để tâm quan sát kỹ hơn nữa,
hễ có tình đức chắc chắn, thì chẳng cần tìm công danh cũng tự nhiên đến, dầu
đến với phương diện nào nó cũng đến.
Tích xưa, một bậc hiền triết là Nguyễn Hiến, học
trò yêu của Ðức Khổng Tử lại là anh ruột của đạo chích. Thầy Nguyễn Hiến, Bần
Ðạo thuật ra cả thảy con cái Ðức Chí Tôn thấy người như thế không có người thứ
hai nữa. Buổi nọ Thầy Tử Cống đi xe bốn ngựa mặc áo lông cừu đi ngang qua nhà
thầy Nguyễn Hiến, thầy Nguyễn Hiến nghèo đến nỗi nhà lợp bằng cỏ tang, vách làm
bằng cỏ du. Nghe thầy Tử Cống đi ngang qua lật đật ra chào đón, lấy áo mặc vô,
vải áo rách, xỏ chân vô tới giày, giày thủng gót, đội mão buộc không nhíp, ra
đứng giữa đường đợi thầy Tử Cống. Thầy Tử Cống đi xe ngang thấy Ngài đứng bên
đường, thầy để lời than: " Ôi ! Ngài
không nghĩ đến công danh ư ?"
Thầy Nguyễn Hiến trả lời, thầy xưa có nói: " Kẻ biết Ðạo dù nghèo cũng không nghèo
tức nhiên không làm quan, ấy là kẻ không mồ. Biết Ðạo không giữ Ðạo là kẻ bịnh.
Tôi chỉ là kẻ không mồ, chớ không phải kẻ bịnh."
Thử coi thầy Nguyễn Hiến nói ai bịnh, phải chăng
thầy Tử Cống bịnh. Công danh mà chi, tới hôm nay nhắc đến công danh thầy Nguyễn
Hiến là người hi hữu danh cần gì cao trọng như hàng phẩm của vị thủ tướng trong
triều đình hay là vua chúa, mới lưu lại danh phận mình.
Ông vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con mới
tìm hiền, lúc chưa gặp ông Thuấn, nghe Hứa Do là người có tài đức mới cho người
dời Hứa Do đến triều. Vua Nghiêu nói: "
Trẫm nghe người tài đức lớn, vậy trẫm muốn nhường ngôi cho người thay trẫm làm
chúa thiên hạ."
Hứa Do trả lời :' Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt
chi, yến thử ẩm hà bất quá mãn phúc. "
Con chim tiêu liêu ở rừng chỉ làm ổ trên một nhánh cây, con yến thử xuống giòng
sông uống nước chẳng qua đầy bụng. Kẻ hạ thần đã quen thú an nhàn cách sống
riêng biệt. Bệ hạ muốn nhường ngôi cho kẻ hạ thần cũng vô ích" .
Nói xong bỏ ra về. Khi đi ngang qua nguồn nước mới
lum khum xuống rửa tai cho hết vấn vít vì nghe thiên hạ nói muốn làm vua kỳ
quá. Ông Sào Phủ là người giữ trâu thôi, dắt trâu xuống giòng nước cho uống,
thấy Hứa Do lum khum rửa tai, Sào Phủ hỏi: Anh làm chi rửa tai vậy ? Hứa Do mới
thuật lại: Vì vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho làm vua, tôi không còn muốn vấn
vít trong lỗ tai nữa. Sào Phủ nói: "Anh làm gì cho thiên hạ biết anh là
hiền đức muốn truyền ngôi cho anh, nếu người ta biết anh là hiền đức, tức nhiên
anh đã muốn làm cho người biết, chắc chắn hơn nữa là tại anh tỏ cho thiên hạ
biết anh là hiền đức. Anh đừng tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức, thì ai
biết anh đâu mà nhường ngôi, cần chi phải rửa tai."
Home [ 1 ] [ 2 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét