THƯ
CỦA ÔNG ERNEST OUTREY GỞI CHO ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Paris, ngày 2 Février 1933.
Kính thưa Ông,
Sở dĩ tôi chậm hồi âm cho ông rõ: Là vì đã bấy lâu
tôi chưa quyết đoán mục đích của Ðạo CAO ÐÀI, nếu hứa ngay theo lời ông xin,
tôi sợ e làm cho Ðạo phát triển rồi có thể nguy khốn cho tới xứ Nam Kỳ.
Nay tôi công nhận rõ rệt Ðạo Cao Ðài không có điều
chi như lời người ta phao vu, nên tôi viết thư trả lời cho ông. Nhơn vì Ðạo Cao
Ðài có cái mục đích chánh đáng như thế, tôi mới dám hứa chắc với các Ðạo hữu
của ông, tôi sẽ tận tâm xin cho Ðạo Cao Ðài được nhiều tự do, mà nước Ðại Pháp
đã mấy phen ban bố cho các Tôn giáo.
Song le, ông để cho tôi khuyên các bổn đạo Cao Ðài,
nên dùng cái thế lực của mình mà tuyên truyền một cách chơn thật, cái chánh
sách Pháp Việt đề huề, vì theo lời ông nói, tôn chỉ của Cao Ðài Giáo là mưu
cuộc hòa bình thế giới cho các dân tộc, nếu quả thật như vậy, thì ai là người
biết điều mà còn dám đứng lên phản đối một cái lý thuyết tối cao như thế.
Nầy ông bạn, vả lại ông tin cậy vào tôi, ông đã
phân trần với tôi mọi lẽ, vậy tôi xin ông nếu có hoàn cảnh thì cứ tuyên bố ngay
rằng: Cuộc giao hảo của hai nước Pháp Việt là điều cần thiết. Theo tôi thiết
tưởng, điều đó là một phương pháp có thể đánh đổ các điều nghi kỵ, người ta vẫn
còn đối với Ðạo Cao Ðài là một Tôn giáo mà ông đương tô điểm một cách nhiệt
thành. Tôi suy xét biết ông là một bực thượng trí, đủ công tâm chánh trực nên
viết cho ông bức thư nầy gọi là đáp tấm lòng tín nhiệm của ông đối với tôi.
ERNEST
OUTREY
THƯ
ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG GỞI CHO ÔNG ERNEST OUTREY
TÒA THÁNH, ngày 20 Mars 1933.
Cùng ông Nghị Outrey,
Tôi lấy làm hân hạnh tiếp đặng thư ông, đề ngày 2
tháng 2 năm 1933. Nay lấy thư ra xem lại thì cặp mắt chan lụy, bèn thầm nói một
mình: Thật là người thật tâm thương xứ Nam Kỳ và có lòng yêu mến người bổn xứ.
Ðã hơn 40 năm, ông nhiệt thành lo khai hóa quê
hương chúng tôi, ông dụng phương kế mưu hạnh phúc cho dân tộc Langsa và Annam,
cả đời của ông là để thật hành chánh sách Pháp Việt đề huề. Ông đối với dân tộc
Việt Nam có ban nhiều ân huệ cho những người theo ông, nhưng ông là bực Chí sĩ
nên chẳng lưu tâm đến công lao của ông đối với kẻ thọ ân ông.
Riêng về phần tôi, tôi nói thiệt, tôi chẳng có ở
vào cái hạng đó bao giờ, nếu ông thi ân cho tôi, hoặc cho thân quyến của tôi
thì tôi trách ông liền. Tôi giúp việc nhà nước đã lâu, ra gánh vác nhiệm vụ Hội
Ðồng Quản Hạt, và có chưn trong Ban Hội Ðồng Thượng Thẩm ở Ðông Dương. Tôi đây
vẫn biết rằng: Thì giờ của ông rất quí báu, nhưng tôi đến bận lòng ông về vấn
đề Cao Ðài Giáo là vì tôi vâng mạng lịnh của Thượng Ðế và nguyện vọng của hơn
muôn sanh linh, nào Langsa, nào Annam, nào Cao Miên, nào Trung Huê cả thảy ai
ai cũng công nhận Ðạo Cao Ðài là một con đường duy nhứt để đoạt đến chánh sách
Pháp Việt tương kết dân tộc bác ái hầu bước lên đại đồng chủ nghĩa.
Bên Âu Châu nhiều sách tiên tri rằng: Trên một góc
Trời kia sẽ phát hiện ra một Ðại Tôn giáo bao gồm tất cả các Tôn giáo khác, tồn
lại trên quả địa cầu nầy, cốt gây ra một thời đại mới mẻ, chúng ta cũng thấy
các tiên ngôn ấy trong Kinh Phật Annam và Cao Miên.
Nước Ðại Pháp được thấy trên miếng đất của mình đã
ra tâm khai hóa ngót trên 60 năm trời, ngày nay phát hiện một Tôn giáo tối tân
như thế, thì tấm lòng rất tự toại và hân hoan dường nào? Ðối với bậc vĩ nhân
thì điều đó là một cái thành công, mà nước Pháp chưa hề gây sáng bao giờ, là
một cái kho tàng vô tận, quí hơn ngọc ngà châu báu muôn phần.
Than ôi! Nhiều nhà thống trị chểnh vểnh trên ngai
cao, lấy cặp mắt thị đời khinh rẻ cái thiên chức của Thượng Ðế phó thác cho hai
dân tộc Tây, Nam để khuyến dụ nhơn sanh.
Kinh Thánh tiên tri rằng: Nước Pháp ngày sau sẽ
đứng lên truyền bá sự sáng suốt và cứu khổ cho nhơn loại đương mài miệt chìm
đắm trong khoa học, mục đích để tương tàn và tương diệt với nhau mà thôi.
Vậy thì nước Pháp sở dĩ qua chinh phục Ðông Dương
đây là cũng bởi tại thiên định, vì Thượng Ðế muốn cho nước văn minh dìu dắt các
tiểu bang lên con đường tấn bộ, cho ngang hàng hầu tạo lập ra cuộc hòa bình thế
giới ngày sau, nhờ chúng tôi tin tưởng Thánh giáo, tin tưởng một cách quả
quyết, nên đã 8 năm nay chúng tôi đủ tinh thần chịu hết các điều hành khắc của
chánh phủ, chánh phủ dụng ác tâm mà hại Ðạo, nhưng chúng tôi không sờn lòng,
mòn dạ, cứ một lòng hạ phục cầu xin các bực quyền tước kiểm soát chúng tôi,
trong khi chúng tôi lấy đường Ðạo mà nâng trình độ tinh thần của đồng bào chúng
tôi, hầu gây nên một đoàn thể bác ái sau nầy. Chúng tôi tin chắc rằng, nhờ ơn
điển Thượng Ðế, chúng tôi sẽ đoạt mục đích một cách dễ dàng, vì dân tộc Việt
Nam khao khát một Chánh giáo, vừa hạp với hoàn cảnh sanh hoạt, vừa dung hợp các
Tôn giáo hiện tại.
Có nhiều lúc chúng tôi tuyên bố rằng: Chúng tôi
công nhận quyền thống trị của nước Pháp và giải thuyết rằng: Chỉ có đường Ðạo
mới có thể làm cho Pháp Việt được thỏa hiệp mà thôi. Nhưng than ôi! Cái thuyết
của chúng tôi không ăn chung gì. Nên việc tàn khốc vẫn còn tăng thêm một cách
thậm tệ, thành thử những việc bất hòa mỗi ngày thêm rộng thâm sâu cho hai nước.
Tuy bị phao vu, tuy bị khổ khắc, chúng tôi cũng cứ lo hành Ðạo cho đến cùng.
Chúng tôi biết Ngài là người để tâm đến dân tộc Việt Nam, nên mới đến công luận
với Ngài, nhờ Ngài lấy tài hùng biện giữa nghị trường đặng xin cho chúng tôi
được tự do tín ngưỡng mong sau nầy nhân loại khỏi tai họa lớn là nạn chiến
tranh.
Cái giờ mà tôi mượn cây bút để tiếp xúc với Ngài
đây, là cái giờ ưu liệt mà Ðạo Hữu Cao Ðài phải khổ tâm lận đận với cái chánh
sách tàn khốc của Chánh phủ, nhơn sanh ôm ấp cái bầu nhiệt huyết đối với Thượng
Ðế là Ðấng Chí Tôn có quyền gầy dựng ra Trời Ðất muôn vật mà còn bị nhơn sanh
ràng thúc hủy hoại, thì còn chi là Thượng Ðế.
Bởi vậy, chúng tôi có cái cảm động lạ thường, và
hằng ngày trông mong đến Pháp Quốc giải khổ cho thiện nhơn chúng tôi. Chúng tôi
có lòng mong mỏi đến Ngài, và cầu xin Ngài dùng hết nghị lực mà làm cho xứ Ðông
Dương phất phới ngọn cờ tự do tín ngưỡng, hầu bảo tồn tập tục thiên cổ của
chúng tôi. Ngài mà xin được cho chúng tôi rồi, chẳng những bên Âu Châu hoan
nghinh Ngài, mà chúng tôi rất ca tụng cái công đức của Ngài.
Chúng tôi thành tâm mong mỏi đến cái thời kỳ hoàn
toàn hạnh phúc, và tiện đây chúng tôi xin Ngài cho các nhà thống trị biết, nếu
chúng tôi mà không được tự do cúng tế, hơn muôn sanh linh đồng đứng xin, thì
chúng tôi sẽ cho toàn quốc hay rằng: Tuy chúng tôi không có hân hạnh tham gia
trong cái hội nghị hòa bình, nhưng chúng tôi cũng hết sức mưu cho thế giới đặng
điều hòa và ổn thỏa.
LÊ
VĂN TRUNG
THƠ
CỦA ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Gởi
cho Giám Quốc Pháp
Bản
phiên dịch Việt văn.
Thưa Ông,
Tôi xin hoàn lại nơi tay ông cái Médaille điều của
Chánh phủ Pháp ban thưởng cho tôi hồi năm 1912.
Ra làm việc quan trong 12 năm, ai ai cũng đều mến
yêu và khen ngợi, làm Hội đồng Quản Hạt trong 8 năm, lại có chưn trong ban Hội
đồng Thượng Thơ Ðông Dương được 12 năm cả thảy là 32 năm trời. Tôi lấy lòng
trung thành lo việc cho Quốc Pháp nên mới có một cái vinh diệu xứng đáng như
thế.
Nhiệm vụ của tôi đối với đời đã mãn hạn, tôi sắp
sửa về nghỉ an dưỡng lão. Bổng chốc Ðức Chí Tôn gọi tôi ra gánh vác nền Ðạo đức
để dung hợp cái Giáo lý với thế gian, hầu gieo khắp trên võ trụ, sự ham muốn
điều qui thiện và lòng yêu thương đồng loại, sự nhiệt thành đạo đức đặng cho
loài người biết công lý và quả báo tương lai. Trót 8 năm nay, tôi nhiệt tâm mưu
kết sự thương yêu tình nhân loại trong các chủng tộc, vì tôi đây nhận chắc Giáo
lý tân khai nầy để làm tài liệu cho chúng sanh bước lên hòa bình thế giới. Ðạo
Cao Ðài ngày nay tính ra trên một triệu Tín đồ, phần nhiều là người Việt Nam,
còn bao nhiêu người Langsa, người Cao Miên, người Lào, người Sơn Cước và người
Tàu; có lẽ Chánh phủ thuộc địa chưa có hiểu tâm lý của chúng tôi, cho nên Tín
đồ của Ðức Chí Tôn thường thường bị người bạc đãi áp chế một cách vô lý, mỗi
lần chúng tôi yêu cầu xin xỏ điều chi, thì mỗi lần Chánh phủ lấy võ lực can
thiệp khuấy rối người hành đạo.
Trong thời buổi nầy Chánh phủ lại dùng đủ phương
sách để đánh đổ người đứng ra sáng lập nền Giáo lý của Ðức Chí Tôn. Tôi xin
trích lục nhiều đoạn tôi đã viết một cái thơ gởi cho Tham Biện Vilmont ở Tây
Ninh: "Ông đã làm ăng kết (enquête) rồi, vậy xin ông cho chúng tôi biết
chừng nào mãn cái qui định cúng tế đã tổ chức ra đây. Còn những chuyện lôi thôi
mà ông đã lược thuật cho tôi biết trong thơ của ông, tôi xin lỗi, chớ phải chi
ông cố cập đến tôi một chút ít, nghĩa là: Nếu ông không nhìn nhận tôi là Giáo
Tông, thì ít nữa cũng nhìn nhận tôi là chủ Thánh Thất Long Thành, thì đâu có
xảy ra mấy vụ lôi thôi như thế.
Vả lại chúng tôi đây, không phải là người tổ chức
các vụ ấy, cuộc hội nghị tại Thánh Thất, rồi ông có lòng khinh khi miệt thị một
người tôi tớ trung thành lão nhược của Chánh phủ Pháp, người tớ ấy tức là tôi
đây, mà ngặt nỗi tôi đây có cái hân hạnh được Chánh phủ Pháp ban thưởng
Médaille điều, tôi vì mạng lịnh của Ðức Chí Tôn mà tận tâm mưu công ích cho hai
nước Pháp Việt cho dân tộc được đề huề một cách chơn thật, cùng sống mà hưởng
lợi quyền như nhau, mà ngày nay lại thấy thân giam hãm vào trong nghịch cảnh
nầy, thì thật là khổ tâm cho tôi là dường nào?" Tôi viết thơ phân trần mọi
lẽ mà Chánh phủ đáp lại bằng cách bạo ngược. Mới rồi đây, hôm ngày 22 tháng 2,
có 34 người Ðạo của tôi thiếu thuế mà Chánh phủ lại bắt bỏ tù tôi, một ông già
60 tuổi có mày đai điều, vô cớ ngồi tù hai ngày giữa mặt Chánh phủ thuộc địa.
Vậy cái Médaille quí báu kia có giá trị gì? Vậy lỗi
ấy do bởi Chánh phủ Pháp Quốc không biết chọn người cho xứng đáng. Kể từ đây
tôi không muốn theo cái danh vị gì nữa, danh vị dầu cao trọng thế mấy, Chánh
phủ thuộc địa coi cũng không ra gì, mà lại không thể chứng cái lòng trìu mến
của tôi đối với nước Pháp.
Tuy nhiên, tôi cũng vẫn còn hy vọng đến ông thần
công lý của Pháp Quốc mà bấy lâu thiên chức của tôi, hầu có ngày tự biết điều
quấy của mình và rõ thấy Ðạo Cao Ðài không ngoài cái mục đích đem thế giới lên
con đường hòa bình và thân ái.
Kính chào ông.
LÊ VĂN TRUNG
Bản chánh Pháp văn.
Tây Ninh, le 4 Mars 1934.
A Monsieur le Président de la République Francaise
PARIS
Monsieur le Président de la République,
J'ai l'honneur de venir très respectueusement remettre entre vos mains la
Décoration de Chevalier de l'Ordre National de Légion d'honneur que ma conférée
la République Francaise par Décret du 18 Mai 1912.
Fonctionnaire apprécié et estimé pendant douze ans, Conseiller Colonial
ensuite pendant huit ans, enfin Membre du Conseil du Gouverment de l'Indochine
pendant douze ans, telles sont les trente-deux années de vie mises loyalement au
service de la France, qui m'ont valu cette haute récompense de la République.
Après ma vie publique, je m'apprêtais à finir mes vieux jours dans un coin
oublié de terre en Cochinchine, quand soudain (1926) je fus appelé par
l'invisible à reprendre ma tâche pour l'unification de toutes les religions
existantes, pour "semer parmi les peuples l'amour du bien et des créatures
de Dieu, la pratique de la vertu, apprendre à aimer la justice et la
résignation: révéler aux humains les conséquences posthumes de leurs actes,
tout en assainissant leur âme".
Depuis huit ans je me consacre entièrement à cette oeuvre de fraternisation
des races, convaincu que la nouvelle religion constitue un des puissants
facteurs indispensables à la réalisation d'une collaboration loyale et sincère
de tous les peuples, d'une paix mondiale durable.
Le Caodaisme comprend aujourd'hui plus d'un million de fidèles composé
d'Annamites en très grande partie et de Francais, Combodgiens, Laotiens, Mois
et Chinois.
Nous ne sommes pas compris peut-être par le gouvernement Colonial?
Toujours est-il que le Caodaisme est sans cesse injustement frappé.
À nos doléances et à nos réclamations, on répond par des actes arbitraires
et des persécutions religieuses.
À l'heure qu'il est en fait tout pour atteindre le promoteur de cette
nouvelle église dans son honneur.
Dans de nombreux documents, je me permets d'extraire les passages édifiants
ci-après d'une lettre que j'ai écrite récemment à Monsieur l'Administrateur
Vilmont, chef de la Province de Tây Ninh Cochinchine.
"En ce qui concerne vos récentes instructions, je vous serais très
obligé de bien vouloir me faire connaitre jusqu'à quand est applicable cette
nouvelle règlementation des cultes.
Quant aux évènements dont vous avez fait allusion dans votre lettre, je me
permets de vous faire remarquer que si vous aviez bien voulu tenir compte de
mes requêtes et de mes droits sinon de chef du Sacerdoce Caodaisme, du moins de
chef du Temple de Long Thanh (Tây Ninh) ces "désordres" n'auraient
jamais au lieu. Mieux que tout autre vous saviez que les désordres que vous
signalez aujourd'hui ne venaient pas de nous.
Le réunion du 24 Novembre dernier, autorisée par vous à se tenir dans mon
Temple, à des personnes tout à fait étrangères à la religion et malgré ma lettre
No 394 du 22 Novembre 1933, est un véritable défi, sinon une insulte, jeté sans
motif à la face qu'un vieux et loyal serviteur de la France doublé d'un décoré
de la Légion d'honneur.
Il m'est vraiment pénible de constater ces choses à l'heure où tous mes
efforts et tout mon dévouement sont mis sincèrement au service de la cause
commune des deux peuples, c'est-à-dire à l'entente cordiale et sincère les deux
races applelées par la volonté du tout puissant à vivre en communauté de vie et
l'interêts."
Naturellement ces doléances sont restées sans réponse, par contre les
persécutions se sont de plus belle.
La dernière en date fut mon emprisonnement, le 22 Février dernier, pour
dette due au fisc par trente-quatre de mes coreligionnaires, prétexte tout à
fait falicieux.
Le Chevalier de Légion d'Honneur, à l'aurore de sa soixantième d'année, fut
jeté en prison sans qu'aucune formalité prescrite par la loi ne fut observée.
J'ai séjourné deux jours et demi dans une cellule de la prison de Tây Ninh
avec mon ruban arboré et la carte de Chevalier sur moi.
Ainsi aux yeux du Gouvernement Colonial, la Légion d'honneur ne signifie
rien, l'infâmie peut atteindre.
Tout le tort revient-il à la République qui ne devait pas conférer cet
insigne honneur à un pauvre indigène?
J'accomplis mon geste avec d'amers regrets, mais je préfère ne plus porter
une très haute distinction à laquelle le Gouvernement Colonial n'a aucun égard
et qui ne peut même plus devenir un éclatant témoignage de mon attachement à la
France.
Cependant, confiant en la justice de cette France douce et généreuse que
j'ai toujours aimée, je poursuivrai jusqu'au bout ma tâche sans passion et sans
haine, espérant qu'on voudra bien un jour se rendre compte des erreurs commises
et rendre justice à une religion qui n'a d'autre prétention que celle
d'apporter au monde la paix et la concorde.
Veuillez agréer, Monsieur le Président de la République, l'expression de
mon plus profond respect.
LÊ VĂN TRUNG
LÊ VĂN TRUNG Pâpe Intérimaire
du Bouddhisme rénové ou Caodaisme,
Ancien Conseiller Colonial,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Long Thành Tây Ninh
(Cochinchine).
Pièce jointe: Un certificat de Monsieur le Grand Chancelier de l'Ordre
National de la Légion d'Honneur.
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Cửu Niên)
Văn Phòng
Nội Chánh
-----
Số: 16
TÒA THÁNH TÂY NINH
CHÂU TRI
Cho Chư Ðầu Tỉnh Ðạo, Ðầu Họ Ðạo,
Ðầu Quận Ðạo, Chư Chức Việc và Chư Ðạo Hữu lưỡng phái.
Kính Chư Hiền Huynh và Chư Hiền Tỷ,
Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ rất đau đớn mà cho
chư Hiền Huynh, Hiền Tỷ hay tin buồn rằng: Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung
Nhựt đã qui tiên tại Giáo Tông Ðường (Tòa Thánh Tây Ninh) ngày 13 tháng 10 năm
Giáp Tuất (19 Novembre 1934) hồi 3 giờ chiều, người hưởng thọ đặng 59 tuổi.
Lễ tống chung định tới ngày 26 tháng 10 năm Giáp
Tuất đúng 9 giờ sớm mai nhằm ngày Dimanche, 2 Décembre 1934.
Cuộc lễ nầy là tang chung cho toàn Ðạo, vậy nên Hội
Thánh sau khi hội nghị, định cho cả Chức Sắc CỬU TRÙNG ÐÀI có tùng luật Hội
Thánh, nghĩa là từ Giáo Hữu trở lên từ nay cho tới ngày an táng được về Tòa
Thánh mà viếng Liên Ðài Ðức Quyền Giáo Tông và thành tâm tang phục cho người;
còn ai về không được thì phải hiệp nhau nơi Thánh Thất sở tại mà cầu nguyện và
tang chế, y như lệ tang phục Hội Thánh định sau nầy:
1/. Chức Sắc từ Giáo Hữu trở lên bịt khăn tang mà
thôi cho tới ngày mãn phục là một năm.
2/. Từ Lễ Sanh đến Tín Ðồ thì tùy ý, nghĩa là vị
nào thành tâm thương tiếc Ðức Quyền Giáo Tông thì tùy tâm, hoặc bịt khăn tang,
hoặc dùng được để một miếng vải tang bề ngang chừng 0m08 buộc nơi tay trái cùng
tang phục cho hạng này để tự lòng thương tưởng của mọi người, Hội Thánh không
nhứt định.
HỘI THÁNH xin để lời cần yếu hơn hết, là kể từ nay
nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ mới khuyết một vị Ðại Ðức như Ðức Quyền Giáo Tông, sở
dĩ Hội Thánh bố cáo cùng toàn Ðạo rõ, xin tạm ngưng các việc vui trong ba tháng
để thành tâm chia buồn cùng Hội Thánh.
Lập tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 13 tháng 10 năm
Giáp Tuất
(19 Novembre 1934)
NAY KÍNH,
Thái Chánh Phối Sư
Khai Ðạo H. T. Ð.
PHẠM TẤN ÐÃI
Thượng Chánh Phối
Khai Thế H. T. Ð.
THÁI VĂN THÂU
Ngọc Chánh Phối Sư
Khai Pháp H. T. Ð.
TRẦN DUY NGHĨA
Nữ Chánh Phối Sư
HƯƠNG THANH
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Thập Niên)
CHƯƠNG TRÌNH
LỄ TÁNG PHẦN XÁC ÐỨC QUYỀN
GIÁO TÔNG
Ngày 15 tháng 10:
* Lễ thành phục.
* Chức Sắc Hiệp
Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài từ Giáo Hữu đổ lên, phải thọ tang một năm. Ðể một
cái khăn.
* Từ Lễ Sanh đến Tín
đồ tùy ý.
Từ ngày 15 đến ngày 24:
* Quàn Liên Ðài tại
Giáo Tông Ðường.
Ngày 24, 8 giờ rưởi sớm
mơi:
* Di Liên Ðài ra Tòa
Thánh, Lễ Sanh phái Thượng phải luân phiên hầu.
Ngày 25:
6 giờ chiều:
* Di Liên Ðài ra Ðại
Ðồng Xã để trên Vọng Ðài, Lễ Sanh và Giáo Hữu Phái Thượng phải luân phiên hầu
bốn bên Liên Ðài.
8 giờ tối:
* Lễ tế của Chức Sắc nam nữ,
Chức Việc và Ðạo Hữu tại Tòa Thánh.
9 giờ:
* Lễ tế của Tỉnh Biên Hòa và
Bà Rịa.
9 giờ rưởi:
* Tân An và Gò Công.
10 giờ:
* Vĩnh Long và Bến Tre.
10 giờ rưỡi:
* Trà Vinh, Sóc Trăng, và
Bạc Liêu.
11 giờ:
* Thủ Dầu Một và Sa Ðéc.
11 giờ rưởi:
* Hà Tiên và Châu Ðốc.
12 giờ:
* Cần Thơ và Rạch Giá.
12 giờ rưỡi:
* Mỹ Tho.
1 giờ khuya:
* Long Xuyên.
1 giờ rưởi:
* Gia Ðịnh.
2 giờ:
* Chợ Lớn
2 giờ rưởi:
* Tây Ninh.
3 giờ:
* Phạm Môn.
3 giờ rưởi:
* Hạnh Ðường.
4 giờ sáng:
* Ðường Nhơn (Chợlớn).
Ngày 26:
Từ 4 giờ đến 5 giờ rưởi
sáng:
* Lễ tế không có cho hay
trước.
6 giờ sáng:
* Hội Thánh Ngoại
Giáo.
6 giờ rưởi:
*Ðầu Tỉnh Ðạo nữ phái.
7 giờ:
* Nữ Chánh Phối Sư.
7 giờ rưởi:
* Nghe Tòa Thánh
giọng ba hồi chuông trống thì Chư Chức Sắc Thiên Phong nam nữ, Chư Chức Việc
phải mặc Thiên phục vào Ðại Ðồng Xã, đến chỗ mình mà đứng.
* Chức Sắc Hiệp
Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài nam nữ, từ Giáo Hữu trở lên, đứng trên giàn chữ A;
nam theo nam, nữ theo nữ. Tang gia đứng một phần trên giàn chữ A, một phần trên
sân số 3, Tam Giáo Ngũ Chi và thân bằng cố hữu đứng bên giàn chữ B.
* Giáo Nhi nữ phái
dẫn Ðồng Nhi nữ đứng trong sân số 1. Giáo Viên nam phái dẫn Ðồng Nhi nam đứng
trong sân số 2.
* Lễ Sanh nữ đứng
trong sân số 4, Lễ Sanh nam đứng sân số 5, Chánh Trị Sự nữ đứng trong sân số 6,
Phó Trị Sự nữ đứng trong sân số 7, Thông Sự nữ đứng trong sân số 8, Ðạo Hữu nữ
đứng trong sân số 9, Chánh Trị Sự nam đứng trong sân số 10, Phó Trị Sự nam đứng
trong sân số 11, Thông Sự nam đứng trong sân số 12, Ðạo Hữu Ðường Nhơn, Tần
Nhơn, Tà Mun v.v... đứng trong sân số 13, Ðạo Hữu nam đứng trong sân 14.
* Ðạo Hữu nam nữ
phải mặc toàn đồ trắng.
8 giờ:
* Lễ Cầu Vong và Cầu Siêu.
*Ðổ ba tiếng chuông
nhứt: Ðồng Nhi nữ ra đứng tại sân số 15, Ðồng Nhi nam đứng tại sân số 16.
* Ðổ ba tiếng chuông
nhì: Ngọc Chánh Phối Sư ra chứng lễ với Giáo Sư Thượng Thành Thanh, Giáo Sư
Ngọc Trọng Thanh, và tang gia. Lễ thành rồi vào trong hết đặng để cho Chức Sắc
ra bái.
* Ba tiếng chuông
ba: Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ra bái rồi vào chỗ cũ đứng.
* 3 tiếng chuông
bốn: Chức Sắc nữ phái từ Chánh Phối Sư, Lễ Sanh ra bái rồi vào chỗ cũ đứng.
* 3 tiếng chuông
năm: Chức Sắc nam phái từ Chánh Phối Sư đến Lễ Sanh ra bái rồi vào chỗ cũ đứng.
* 3 tiếng chuông
sáu: Ngũ Chi Tam Giáo và thân bằng cố hữu ra bái.
* 3 tiếng chuông
bảy: Chức Việc nữ phái ra bái.
* 3 tiếng chuông
tám: Chức Việc nam phái ra bái.
* 3 tiếng chuông
chín: Ðạo Hữu nữ phái ra bái (chia từng đợt ra bái).
* 3 tiếng chuông
mười: Ðạo Hữu Ðường Nhơn, Tần Nhơn, Tà Mun v.v... ra bái.
* 3 tiếng chuông
mười một: Ðạo Hữu nam phái ra bái (chia ra từng lượt ra bái). Vị nào bái rồi
phải vào chỗ cũ đứng.
9 giờ:
* Hộ Pháp đọc bài ai
điếu.
9 giờ 15:
* Nữ Chánh Phối Sư đọc bài
ai điếu.
9 giờ rưởi:
Ngọc Chánh Phối Sư đọc bài ai điếu.
9 giờ 45:
* Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo đọc
bài ai điếu.
10 giờ:
* Ðánh một hồi trống, nhưng quan và
Ðạo Tỳ vào làm lễ, rồi chia ra hai tốp, một tốp ra đẩy Long Mã Phụ Ðồ để ngay
dưới Vọng Ðài, còn một tốp lên Vọng Ðài đặng triệu Liên Ðài lên Long Mã Phụ Ðồ.
* Ðánh một hồi trống
nữa thì vị Lễ Sanh Thượng Nghĩa Thanh ra cầm phướn Thượng Phẩm, hai vị Lễ Sanh
Thái Có Thanh và Ngọc Thọ Thanh đi hai bên. Vị Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh dẫn lộ
và ra ngay cửa giữa Ðại Ðồng Xã đứng.
* Theo thì xếp đặt
thứ tự như sau nầy:
° Nhạc.
° Bàn đưa (theo số thứ tự mà
đi).
° Bàn vong, có 6 Lễ Sĩ hầu.
° Nhạc.
° Ðồng Nhi nữ.
° Ðồng Nhi nam.
° Giáo Nhi.
° Lễ Sanh phái Thái và Ngọc.
° Long Mã Phụ Ðồ có Lễ Sanh
phái Thượng hầu hai bên tang gia.
° Hộ Pháp và Chức Sắc Hiệp
Thiên Ðài.
° Nữ Chánh Phối Sư và Chức
Sắc nữ phái từ Lễ Sanh đổ lên (đi một hàng ba vị).
° Thái, Thượng, Ngọc Chánh
Phối Sư và Chức Sắc từ Giáo Hữu đổ lên (một hàng ba vị).
° Tam Giáo Ngũ Chi và thân
bằng cố hữu.
° Chánh Trị Sự nữ phái (một
hàng bốn vị).
° Phó Trị Sự nữ phái.
° Thông Sự nữ phái.
° Chánh Trị Sự nam phái.
° Phó Trị Sự nam phái.
° Thông Sự nam phái.
° Ðạo Hữu Ngoại Giáo (Ðường
Nhơn, Tần Nhơn, Tà Mun v.v...).
° Ðạo Hữu nữ phái.
° Ðạo Hữu nam phái.
* Ra cửa Ðại Ðồng Xã, đi
theo đường Bình Dương Ðạo, quẹo qua Thái Hòa Lộ và Oai Linh Tiên, đến Phước Ðức
Cù rồi trở ra Bình Dương Ðạo đến Tháp.
Tòa Thánh, ngày 22 tháng
10 năm Giáp Tuất
(le 28 Novembre 1934)
HỘI THÁNH
ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ
Thập Niên)
TÒA
THÁNH TÂY NINH
THẬP
NGOẠT, NHỊ THẬP NGŨ NHỰT
VĂN
TẾ
của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài về phần Giáo lý
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong,
Chư Ðạo Hữu Nam Nữ,
Chư Quí Ông, Quí Bà.
Giữa thế kỷ hai mươi nầy, toàn địa cầu nhơn sanh
đều xu hướng về đường vật chất, đua tranh náo nhiệt, mạnh đặng yếu thua, khôn
thì còn, dại thì thác, làm cho cả cá nhơn hay là trọn xã hội nào, cũng vì sanh
hoạt khó khăn, mà quên hẳn tinh thần vi chủ.
Hại thay! Cơ quan của đời hiện hữu lại do nơi quyền
năng vật dục mà thành hình, đến đổi trừ tinh thần ra, thì trí thức con người
cũng lậm nhiểm lấy quyền duy vật, đạo đức tinh thần xem ra càng ngày càng mòn
mỏi. Nếu chúng ta thấy cơ quan hành động của các Tôn giáo còn mảy may duy trì
lại có đặng là nhờ khuôn viên tập tục, chớ chẳng phải nơi tâm lý chuẩn thằng.
Qua trận sát khí Âu Châu, những bậc ưu thế, mẫn
thời để tâm nghiên cứu nguyên thủy sự bất hòa của toàn cầu do đâu mà sản xuất,
thì đã thấy đặng hiển nhiên rằng: Tại dân hóa khiếm phần đạo đức, những Tôn
giáo đương thời hoặc là bị buộc ràng vào tôn chỉ hẹp hòi, hay là bị triết lý
oai nghiêm mà làm cho phân chia tâm lý, nên không thể dung hòa làm môi giới cho
đại đồng thiên hạ. Thuyết giao tình các Tôn giáo là thuyết trọng yếu của nhà
hiền triết Á Âu buổi nầy.
Ôi! Hạng trí thức nhơn sanh ấy, khi xem đặng con
đường nguy hiểm của văn minh duy vật giong ruổi thẳng tới chừng nào thì lại
càng âu lo khủng khiếp cho tương lai nhơn loại buổi sau kia chừng nấy.
Ðời chẳng khác nào như chiếc thuyền chịu sóng gió
ba đào lênh đênh khổ hải. Những khách giang hồ của tạo công ai lại chẳng phập
phồng rơi châu đổ ngọc. Trong cơn khổ não tâm hồn ngẫu nhiên lại gặp cứu tinh
giải nạn là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ của Thượng Ðế chấn hưng Tôn giáo.
Người đến đặng nhìn nhận các Ðạo là phương giáo hóa
của Người và dung hợp các triết lý của đời dưới phép lương tâm làm chủ. Dầu ai
để chút tâm nghiên cứu thì đủ hiểu cơ quan chuyển thế rõ ràng nên không cần
luận giải.
Từ năm Bính Dần (1926) là năm Ðạo mở tại Nam Kỳ,
đến nay Anh Cả chúng tôi là Lê Văn Trung, Ðạo Tịch Thượng Trung Nhựt ra đảm
nhiệm vai tuồng rất lớn lao, quan hệ là phổ độ dìu dắt nhơn sanh vào đường
Chánh giáo.
Một mối Ðạo rất cao thâm mầu nhiệm mà chính mình
Ðức Thượng Ðế đem gieo truyền trong nước nhỏ nhen như Việt Nam ta đây, thiết
tưởng sự khó khăn chẳng nhỏ, mà Anh Cả chúng tôi trọn chịu 9 năm trường, chẳng
quản nhọc nhằn, tay chống vững Ðạo thuyền, bền chí lướt qua khổ hải.
Ðạo mở vào buổi nhơn sanh đang khuynh hướng về đường
vật chất thì cái tôn chỉ Ðạo tất phải có thiệt lực gì cực kỳ mãnh liệt mới dung
hòa nỗi hai thuyết duy tâm và duy vật và phải hạp thời thì nhơn sanh mới chịu
hoan nghinh mà bước vào cửa Ðạo. Nếu Ðạo mà không có cái Tôn chỉ duy tân cải
cách theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh thì Ðức Thượng Ðế chẳng cần nhọc công
tái lập, vì Ðạo vẫn có từ tạo Thiên lập Ðịa mà trong nhân gian cũng đã lập
thành nhiều nền Tôn giáo, để tùy thời mà tế độ quần linh. Trong các Tôn giáo ấy
như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, Cơ Ðốc giáo, cũng có nhiều triết lý cao
siêu, có thể cứ do theo đó mà hành Ðạo cũng đặng tiến hóa, nhưng mỗi Tôn giáo
ấy đều có một tôn chỉ đặc biệt, có thể hạp với mỗi phong hóa tùy mỗi thời đại,
chớ không đặng một tôn chỉ thống nhứt hạp theo thời đại buổi bây giờ. Ðạo đã có
những điều kiện tối tân như thế thì tất phải có người tài đức ra làm hướng đạo
mới hiểu rõ tôn chỉ của Ðạo mà truyền bá cho nhơn sanh, khỏi lầm đường lạc lối,
và cũng phải có đại hùng đại lực mới gánh vác nổi trách nhiệm lớn lao của Ðại
Ðạo. Anh Cả chúng tôi đây, trước khi vào Ðạo vẫn là người duy vật cũng như mọi
người khác, ngoài đời vì đường danh lợi, Người cũng chẳng nhượng chi ai, kịp
khi Ðạo mở Ðức Thượng Ðế kêu đích danh Người mà phú thác Ðạo Trời.
Phong trào duy vật đang sôi nổi, người lại đương
thời phấn đấu, mà Người cũng vui lòng phế hết việc đời để hiến thân cho Ðạo.
Buổi ban sơ mới có vài ba anh em trong Ðạo, cũng có kẻ trắng người đen, không
đồng tâm chí, lẩn nghịch cùng nhau, rồi nào ai dám chắc sẽ ra làm sao đâu?
Nhưng vì lòng háo đức của Người sẵn có, nên Người không chút ngại ngùng bạo gan
chí sỹ mà hiến mình trọn vẹn lập Ðạo mới thành, công ấy, thưởng nầy làm Anh Cả
chúng sanh cũng đáng.
Vào Ðạo rồi, khi thì lập Ðàn thỉnh giáo cùng các
Ðấng Thiêng Liêng, khi đi phổ độ khắp Nam Kỳ, không nói ra ai ai cũng rõ, những
nỗi khó khăn về sự hội hiệp ở xứ mình cho nên lúc khai Ðạo phải gặp nhiều nỗi
tân khổ, lại còn nhiều nỗi cam go, đối với Ðạo Hữu các nơi. Khi Ðạo đã có mòi
hoằng hóa, sau lại Hội Thánh Ngoại Giáo thành lập ở Kim Biên, tuy gặp lắm nỗi
truân chuyên, mà Người cũng cứ nhứt tâm, nhứt đức do đường thẳng tiến hành,
không bao giờ nản lòng thối chí.
Vì sao Ðức Thượng Ðế không chọn người nào khác, lại
đem mối Ðạo lớn lao mà trao lại cho Người lúc ban sơ? Mà những người có công tu
luyện theo Ðạo này, Ðạo khác cũng chẳng hiếm gì, mà sao Ðấng Chí Tôn không dùng
ai trước?
Có ai dám nói Ðấng Chí Tôn dùng lầm.
Vậy thì, tôn chỉ của Ðại Ðạo đã biểu lộ ra rõ ràng,
bí quyết đoạt Ðạo chẳng phải do một mặt yểm thế để tịnh dưỡng tinh thần, mà lại
phải lịch lãm nhơn sự và phải siêu quần xuất chúng, rồi lấy đạo đức mà cứu vớt
nhơn quần.
Xã hội phải tùy sở như của chúng sanh mà lập phương
phổ hóa, thì cái công tu luyện kia mới bổ ích cho. Vì vậy mà Anh Cả chúng tôi
mới đắc dụng trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Anh Cả chúng tôi là người gồm có nhiều điều kiện
hạp với tân thời, mà cũng không nghịch với phong hóa cũ.
Vậy nên , Ðấng Chí Tôn mới dùng người để làm mô
phạm cho anh em Ðạo Hữu và cho đời thấy rõ một phần chơn lý trong tôn chỉ Ðại Ðạo.
Theo thời đại khoa học đương nỗ lực phát dương này,
nếu đem cái thuyết duy tâm cực đoan mà phổ hóa chúng sanh không khỏi bỉ lậu,
còn nếu chuyên một mặt duy vật mà tiến hành thì xã hội phải có ngày tiêu diệt
về nạn cạnh tranh phấn đấu. Vậy phải chiết trung hai thuyết mà dung hòa thì đời
mới đặng vừa tấn hóa theo văn minh khoa học, vừa duy trì đặng tâm hồn đạo đức.
Nhờ hiểu ý nghĩa cao thâm như vậy mà Anh Cả chúng tôi không vì hoàn cảnh mà
phải quá ư thiên lệch về một mặt nào.
Chúng tôi còn nhớ lời tuyên bố rất thành thật của
Anh Cả chúng tôi như vầy:
"Ngày nào nhơn sanh còn khốn khổ, thì chưa
phải ngày anh tọa hưởng an nhàn. Dầu anh đắc quả mà qui tiên đặng sớm, anh cũng
nguyện tái kiếp để độ tận chúng sanh".
Hùng hồn thay! Bác ái thay là lời tuyên bố ấy!
Không cần khoe khoang bằng văn chương tuyệt bút mà những lời chất phác trên kia
cũng tỏa đặng tâm tình của một trang đại đức.
Theo thế thường người nào đi tu cũng có cái hy vọng
đắc Ðạo thành Tiên, chớ ít ai lẫn lộn trong chốn trần la vì sợ khổ tâm nhọc
trí. Vậy mà Anh Cả chúng tôi chẳng hề nao núng, thậm chí có người lo sợ dùm,
nên đến khuyên Người giải quyền nhập tịnh cho yên, mà Người nói rằng: "Dầu
phải thời tử Ðạo, Người cũng vui lòng, chớ Người không vì sợ chết mà bỏ phận
sự". Xem đó thì đủ thấy cái đại chí của Người vì Người thấu mục đích tối
cao của Ðạo. Mà tôn chỉ của Ðạo có cái ý nghĩa "không dữ mà hùng, hòa mà
không nhược".
Cái ý nghĩa đó Anh Cả chúng tôi hiểu thấu mà cũng
đã thật hành rồi, nền Ðạo mới đứng vững đến ngày nay.
Anh Cả chúng tôi lại còn hiểu rộng cái nghĩa
"từ bi, bác ái" mênh mông lai láng, nên phải gặp nhiều cái phản động
lực của những người thiển kiến.
Bởi vì từ bi bác ái mà hiểu nghĩa hẹp hòi quanh
quẩn trong hoàn cảnh của mình thì cũng còn là "ích kỷ". Anh Cả chúng
tôi không vì sự thương thấp thỏi của thường tình mà bỏ cái thương đại đồng thế
giái, cho nên phải gặp nhiều nỗi tân toan. Tuy vậy mà Anh Cả chúng tôi vì công
đức hơn là vì tư đức, dầu ai muốn nói sao thì nói, làm sao thì làm, Người cứ
một mực tiến hành, miễn là trong tâm nhứt quyết đuổi theo một chủ nghĩa cao
siêu của bề trên phú thác vì lòng tín ngưỡng của Người rất là đặc biệt, ít ai
sánh kịp.
Ngày nay Anh Cả chúng tôi đã vào cõi hư vô rồi,
thiết tưởng những phản động lực kia cũng lần lần giảm bớt. Anh em trong Ðạo
cũng đã rõ thấy mà nhận thức cái chơn lý sờ sờ kia vậy. Cái khó nhất là phải có
đủ đức kiên nhẫn để chống lại với các phản động lực ở trong Ðạo và ngoài Ðời.
Trong Ðạo cũng vậy, mà ngoài Ðời cũng vậy, có nhiều lý thuyết tương phản nhau
vì trí độ phàm của con người không thể đồng nhau đặng. Kẻ thì ưa thuyết duy
tâm, rồi cứ chuyên chú một mặt tiêu cực, còn người lại thích duy vật thì chuyên
chú một mặt tích cực, mà mỗi phía đều cực đoan thì tránh sao khỏi xung đột. Hai
phía xung đột nhau mà bắt Ðạo ở trung gian làm nơi chiến địa thì kẻ cầm quyền
trong Ðạo tránh sao khỏi những nỗi khó khăn, vì vậy mà Anh Cả của chúng tôi
chịu nhiều đau đớn. Ôi! Một Ðấng anh hùng như thế, một tay kiện tướng của Ðạo
như thế, nay đã ra người thiên cổ.
Dẫu phải gan sắt dạ đồng cũng phải rơi châu mà
thương tiếc.
Anh Cả ơi!
Trong mấy năm Ðạo mở, biết bao nhiêu công nghiệp
với giang san.
Vì
thương Ðời mà khổ hạnh đa đoan,
Bởi
mến Ðạo tân toan lắm nỗi.
Ðời
hằng đổi lòng kia chẳng đổi,
Non
dầu mòn chí nọ không mòn!
Mấy
mươi năm phơi trải tấc son,
Trọn
một kiếp bảo tồn phong hóa.
Ðường
thế gập ghềnh bền chí cả,
Thuyền
từ lắc lẻo vững tay chèo.
Trải
bao phen lên ải xuống đèo,
Ðã
lắm lúc đăng sơn quá hải.
Nhớ Linh xưa:
Ðối
cùng bằng hữu hết tình quảng đại,
Xử
với gia đình trọn ngãi từ hòa.
Tưởng
cùng nhau sum hiệp một nhà,
Hay
đâu nỗi người về kẻ ở.
Anh Cả ơi!
Ðã
đành rằng thiên số hữu kỳ,
Nhưng
nghĩ đến cũng đau lòng trần khách.
Vậy
mấy em tạm vái lời thiết thạch,
Chúc
hương hồn nhẹ tách Cửu Tiêu.
Hỡi ôi! Thương thay!
Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài
đồng huy lụy!
Hộ Pháp
PHẠM
CÔNG TẮC
ÐIẾU
VĂN
của
Hội Thánh Nữ Phái.
Ứa lụy đôi hàng, kính cáo Ðức HỘ PHÁP,
Ðồng Ðạo lưỡng phái, Chức Sắc, Liệt vị dự lễ Tống
táng này.
Nay Ðức Quyền Giáo Tông đăng tiên, tôi xin phép
thay mặt Nữ phái tiễn biệt Ngài đôi lời.
Sách có câu: "Nhơn
thân điển ảnh hữu hoàn vô", kiếp sống con người như lằn chớp nháng,
thấy đó rồi mất đó. Vậy thì tử sanh hữu mạng, thiên số an bày, xưa nay dầu mấy
bực vĩ nhân cũng không thoát bến đò tạo hóa.
Nhưng về tình cảnh Ðức Quyền Giáo Tông, phái nữ tôi
rất có hai mối sầu tâm thương tiếc và thống tức. Thương tiếc vì tài trí và từ
tâm Ngài, vì Ngài là một vị cột rường trong nền Ðại Ðạo. Năm Bính Dần Ðạo Thầy
mới mở thì chỉ có tiên linh Ðức Cao Thượng Phẩm và Ðức Hộ Pháp với Ngài hiệp
trí chung lo vạch ngõ tìm đường, nhọc nhằn nhiều nỗi, phần người ngoại Ðạo biếm
bày, phần thì người trong Ðạo trường nghịch lẫn, bước Ðạo gay go, đường đi hiểm
trở, vậy mà Ngài vẫn một lòng cứng cỏi, đem nghị lực chống chỏi với phong trào,
đủ trí thức, đủ tài năng, không hề thối bước, ấy cái sức Ngài đủ ra gánh vác
cái trách nhậm nặng nề dựng trụ đá giữa dòng sông cho chúng ta dìu dắt, lại còn
từ tâm khiêm đức nhẫn nại thiệt thòi, ngậm đắng ăn cay, cố ý mở mang mối Ðạo
thiêng liêng tế độ nhơn sanh qua cơn biển khổ, quên ăn bỏ ngủ, xác ốm thân gầy.
Ngài chỉ biết nền Ðạo Thầy, chớ còn xác thịt thân Ngài xem như cỏ rác, Ngài
không hay tuổi Ngài đã già, sức Ngài đã yếu, ngày qua tháng lại, lo làm việc
Ðạo, nhứt bất tạm nhàn, phần lo sắp đặt bên Nam, phần lo giúp dùm bên Nữ; thảm
thiết bấy trong mấy cuộc thời gian, Ðạo thường hay xảy ra nhiều điều rắc rối,
riêng về phần Ngài đã sầu muộn khuynh nguy vậy còn sợ chúng ta buồn lòng, nên
Ngài thường lấy lời khuyên dỗ cho vui lòng em trẻ. Ngài lại thường nói sự chết
Ngài không sợ, chỉ thương hại cho nhơn sanh, gẫm trong lời nói đó cũng thấy rõ
lòng bác ái của Ngài lộ ra hiển nhiên. Vậy Thầy sắp đặt là Trưởng Huynh của
chúng ta, như Ngài thiệt tư cách đoàn hoàn, đáng làm mảnh gương nền Ðạo, tuy
linh hồn đã chơi mây cỡi gió, mà những lời từ bi trắc đạt của Ngài còn văng
vẳng bên tai khiến cho chúng ta nhớ lại phải ủ mặt châu mày, không nguôi tấc
dạ, tuôn sầu đổ lụy, chứa thảm tình, ngó trước Liên Ðài, xiết bao là thương
tiếc, vậy mà rất thổn thức cho kiếp sanh đau đớn của Ngài, bởi Ðạo tâm Ngài vẫn
trọn lành, trọn báu, hẳn như gương không bụi, nước không nhơ, khốn thay cảnh
ngộ, Ngài gặp những người ganh hiền ghét ngõ, nghịch lẫn chông gai, nay gieo ác
cảm nầy, mai sanh nghiệp chướng khác, năm sáu năm về trước đã một trận chinh
nghiêng, tới hiện giờ đây một lần điên đảo, mạnh ai thì nấy nói, không nghĩ chi
trật tự tôn ti, vậy mà rất thương hại cho Ngài giữ một bề ẩn nhẫn làm thinh,
dầu sự phải, sự không, sự ức, sự oan, Ngài cũng cam tâm nhận lỗi. Bởi Ngài là
một vị Trưởng Huynh tôn quí, Ngài chỉ lo làm sao chìu lụy lòng dạ nhơn sanh cho
an ổn thuận hòa, hầu chung sức nhau mà truyền bá nền Ðạo Thầy cho mau phát đạt.
Ðạo Thầy thịnh vượng đặng, thì dẫu Ngài nhục nhã thế gì cũng vui dạ sẵn lòng.
Ôi thôi! Vì vậy rồi mấy người nghịch lẫn kia đắc
thế hoành hành lẫy lừng oai gió, mượn đạo đức mà lăm le nọc rắn, giả chơn thành
mà châm chích kim ong, đặt ra Tòa Vạn Linh vấn nạn Ngài, đòi trục xuất cho khỏi
nơi Thánh Ðịa ra tờ Châu Tri khắp nơi Thánh Thất đánh đổ Ngài, vậy mà còn chưa
vừa lòng, nên đến Chánh phủ vọng ngữ vu ngôn, cố ý đưa Ngài cho tới hầm nai bẩy
thỏ.
Ôi! Người cũng đồng Ðạo, Ðạo sao nỡ ở lòng nham
hiểm trở mặt hại nhau như vậy. Ôi! Nói tới đây thật là động mối tâm sầu, ngùi
ngùi dạ ngọc. Hiền Huynh ôi! Nhắc sự tích sầu tuôn trăm đoạn, tỏ khúc nôi ruột
thắt chín chiều, kiếp phù sanh anh mang nặng nợ trần, nên thân thể phải chịu
lăn, chịu lóc, chịu trộn, chịu nhồi cho đến đổi. Nay một giấc Nam Kha an nghỉ,
chốn Thiên đường tự toại tiêu diêu, cổi lốt trần từ cách cõi nhơn gian, nơi Tòa
Thánh giả người giả kiểng, cơn tiễn biệt non sông còn ứa lụy, nghĩa đồng bào
xiết nỗi sầu tư, cảnh vắng vẻ cây cỏ thảy đều buồn, niềm đồng Ðạo biết bao là
quạnh quẻ, chuông Bạch Ngọc ngân nga đêm như giọng khóc than, trống Lôi Âm vắng
dõi canh chầy, động lòng ái mộ, Người tuy mất danh còn để lại, nơi Ðạo trường
chạnh nhớ bóng người xưa, theo ý em tưởng, ấy là nợ trần ai đã trả xong, nên
Thầy ban ân huệ cho Hiền Huynh trở lại Thiêng liêng cựu vị.
Vậy bên Nữ tôi kính chúc hương hồn hiển hích, trên
liên tòa tường vân chiếu gương huệ nhãn quang minh soi xét Ðạo trường, cho rõ
thấy gan dạ người nào chơn giả, xin hồn linh mật hộ, tử giả như sanh, dìu dắt
mấy em an đường tấn Ðạo, còn cuộc tương lai cũng nhờ ân công vạn hóa sắp đặt
một người hoàn toàn đức hạnh ra chấn chỉnh mối Ðạo Thầy.
Vậy chúng tôi nên gạt giọt lụy sầu, mà gội nhuần
giọt nước hồng ân phước huệ.
Tòa Thánh, ngày 26 tháng
10 Giáp Tuất.
Nữ Chánh Phối Sư
LÂM
HƯƠNG THANH
ÐIẾU
VĂN
của
Cửu Trùng Ðài Nam Phái.
Thưa Quí Ông, Quí Bà,
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong,
Chư Ðạo Hữu Nam Nữ.
Tôi xin thay mặt cho Chức Sắc Cửu Trùng Ðài Nam
Phái mà đọc bài Ai điếu tiễn Anh Cả chúng tôi là Ðức Quyền Giáo Tông Thượng
Trung Nhựt.
Phúc Âm: Theo lời di truyền của Ông THÁNH LUC chép
truyện Ðức Chúa JÉSUS trước khi chịu đóng đinh trên cây Thánh giá để chuộc tội
cho chúng sanh, có đoạn thuộc về lúc Ngài ở Jérusalem như vầy: Chừng Ngài đi
khỏi nơi đó, Ngài cùng các Thánh Tông Ðồ đến một nơi là hòn núi Olivier, đến đó
rồi thì Ngài dạy các Tông Ðồ bảo phải cầu nguyện đừng để cho sa đắm, đoạn Ngài
đi ra một nơi xa xa quì cầu nguyện mà nói rằng: Cha ôi! Nếu như Cha sẵn lòng
muốn cho con xa lánh chốn đắng cay nầy, thì con đội ơn Cha, song muôn việc chi
con cũng đều tuân theo mạng lịnh của Cha. Ngài vừa dứt lời thì các Thiên Thần
hiện ra trên thinh không mà an ủi, tuy nhiên Ngài cũng cứ tâm thần thất thố,
Ngài còn cầu nguyện thêm và mấy giọt huyết của Ngài rơi tràn dưới đất. Cầu
nguyện xong, Ngài bèn trở lại chỗ các Thánh Tông Ðồ, thấy mấy ông nầy, vì bởi
buồn rầu ngủ gục, Ngài nói với họ tại sao mà các con ngủ như vậy? Dậy mà cầu
nguyện cho khỏi sa đắm. Ðoạn trên đây có lẽ lại là một cái "đặc sắc" vẻ vang của Ðạo Thiên Chúa. Ông Giáo Chủ sanh
tại Galilée khác hẳn hơn mấy ông Giáo Chủ khác. Cái chết của tấm thân xác thịt
không phải là một cơ hội để thoát hóa lên chốn Cực Lạc, tiêu diêu, mà lại là
dịp đau đớn, dầu cho mình là con Ðức Chúa Trời mà gặp phải khi ấy thì cũng
chẳng có chi khác với con của Ngài. Chẳng những vậy thôi lại còn biết mình chết
đây là để chuộc tội cho thế gian, mà trước khi chết cũng vẫn cứ thở than cầu
nguyện: Cha ôi! Nếu như Cha sẵn lòng muốn con xa lánh chén thuốc đắng cay nầy
thì con đội ơn Cha.
Thưa Quí Ngài, đối với người tu niệm như chúng tôi
đây, chẳng có đức nào lớn hơn đức khiêm nhượng, thì thế các Ngài cũng biết
trước rằng: Tôi sở dĩ dẫn lời Phúc Âm của ông Thánh LUC vào đây, mà không có
ích chi, dám đem Ðức Chúa Jésus, ví với Người Anh Cả của chúng tôi, mà để chỉ
tỏ ra rằng: Người trong Ðạo, người ngoài Ðời, bao giờ cũng đau đớn với cái
chết, cũng ngại ngùng với nó, cũng như một cái cơ cấu mầu nhiệm, một cái quyền
riêng của Ðấng Tạo Hóa đã cầm chặt vào trong tay, chẳng có người tham dự đến.
Than ôi! Ðức Chúa Jésus là người đã biết rằng: Chết
để chuộc tội cho thế gian mà húy như thế! Thì Anh Cả chúng tôi ngày nay mới là
đau đớn dường nào?! Bỏ hết công danh thế sự, nương theo cửa Ðạo, tám chín năm
nay, bây giờ ra đi, dầu có lên Tiên, lên Thánh, lên Phật đi nữa, mà đem lòng
bác ái phổ độ, nhớ lại chúng sanh đương cơn khốn đốn, nền Ðạo lắm lúc nghiêng
suy, thì làm sao cho khỏi buồn khỏi tủi.
Tuy nhiên, cái buồn cái tủi của Anh Cả chúng tôi
dầu cho nó sâu lớn thế nào nó cũng vẫn thản nhiên, vì đã làm tròn hết phận sự,
khổ là khổ cho chúng tôi đây, rầu buồn cái chết của Người bao nhiêu, lại ngại
ngùng lo sợ cho cái sống của mình bấy nhiêu, và vì bởi ngại ngùng lo sợ như
thế, nên chi chúng tôi mới vâng lịnh các Chức Sắc Thiên Phong Nam Phái mà thuật
lại, chẳng phải là mượn cái dịp các Ngài đã niệm tình đến đây điếu tang, đặng
phô trương công nghiệp của Ðức Quyền Giáo Tông mà chỉ để làm một bài học cố
nhiên cho tất cả mấy trăm ngàn Chức Sắc, Tín Ðồ trong Ðạo. Chúng tôi đã nói đến
sự nghiệp của Ngài thì tất nhiên phải nói cả về sự nghiệp ngoài Ðời, với sự
nghiệp hành Ðạo, song tôi xin phép quí Ngài đặng bỏ qua những chuyện ngoài Ðời,
như là đắc cử Hội Ðồng Quản Hạt, làm Thượng Nghị Viện, hưởng thọ Bắc Ðẩu Bội
Tinh... những việc ấy chẳng phải là quí, song nó chỉ quí với những người chưa
lấy lòng tín ngưỡng làm phương châm cho sự hành vi, chưa lấy được đức Bác ái
phổ độ làm mục đích cho cái đời sống.
Tôi chỉ muốn lần mấy trương lịch sử ngoài Ðời của
Ngài để tìm thử coi có chi phù hạp với cái cử chỉ của Ngài từ khi lập Ðạo
chăng?
Thưa Quí Ngài, thưa Quí Khách, thưa Chư Chức Sắc
Thiên Phong, thưa Chư Ðạo Hữu nam nữ. Nếu như ai đã chịu khó lục lại những tờ
biên bản của Hội Ðồng Quản Hạt từ năm 1906 đến khi Âu Châu đại chiến năm 1914,
và những báo chí đương buổi bấy giờ thì họ sẽ thấy, sau khi phản đối bản dự
thảo Lục hạng điền, sau khi lập xong Nữ Học Ðường thì Ngài đã đọc một bài Diễn
Văn yêu cầu với Chánh Phủ, lấy một phần số tiền công nho của làng phụ trội của
tất cả các làng khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, đặng lập ra tại Saigon một cái Hội Quán
gọi là "La Grande Maison Commune
Annamite" - Nhà Ðại Ðồng Của Người An Nam. Ðại Ðồng ở ngoài Ðời lúc
bấy giờ với cái Ðại Ðồng trong Ðạo ngày nay có khác chi đâu. Ngay trước mặt của
Ngài sau lưng Liên Ðài, các Ngài đã thấy bốn chữ thật lớn: "NGÃ THIÊN THỊ THÍNH", nghĩa là: Sự nghe và sự thấy của
Thầy chúng ta. Nghĩa câu đó là do mấy câu ở trong Thi Kinh: "Thiên thị tại ngã, dân thị Thiên
thính; tại ngã dân thính" - Sự thấy của Trời ở nơi sự nghe của dân,
Trời tức là dân, dân tức là Trời. Tôn chỉ Ðạo của chúng tôi chỉ ở trong bốn chữ
"Thiên Ðạo và Nhơn Ðạo".
Cái đời hành Ðạo của Ðức Quyền Giáo Tông chúng tôi cũng chỉ khế xướng có bấy
nhiêu thôi. Nếu đem cái kết quả sau khi chín năm hành Ðạo mà so với cái tôn chỉ
mục đích của Ðạo chúng tôi, thì chẳng khác nào nhìn vào giọt nước ở biển đông,
hột cát ở giữa đồng sa mạc, tuy vậy mặc dầu, Anh Cả của chúng tôi lúc sanh tiền
hằng dạy chúng tôi rằng: Ðức Chúa Jésus Ngài đã nói: " Ðức tin của người ta nó mạnh cho đến đổi dời núi chỗ nầy đem
sang chỗ khác". Câu đó là câu kết luận của Bài Diễn Văn nầy, mà cũng
câu từ đây về sau mỗi ngày chúng tôi đều đứng trước vong linh Anh Cả chúng tôi
mà tụng niệm vậy.
Ôi! Huy lụy.
Tòa Thánh, ngày 26 tháng
10 năm Giáp Tuất (1934).
Ngọc Chánh Phối Sư
Khai Pháp HIỆP THIÊN ÐÀI
TRẦN
DUY NGHĨA
ÐIẾU
VĂN
của
Hội Thánh Ngoại Giáo.
Kính Chư Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài,
Kính Chư Chức Sắc Cửu Trùng Ðài Lưỡng Phái,
Kính Chư Ðạo Hữu Nam Nữ,
Nơi đây, là đối với cơ hữu hình chúng ta đành vĩnh
biệt một Ðấng đáng yêu đáng kính ngàn thu. Ðức Quyền Giáo Tông thoát xác, tin
buồn nầy làm cho trong Ðạo lớn nhỏ gần xa đều đáng thương tiếc. Than ôi! Cơ đời
vẫn thế đã chịu luật sanh hóa trên cõi trần hoàn cả vạn linh dầu thú cầm thảo
mộc cũng không tránh khỏi vòng sống thác. Có sanh ắt có diệt, có, không, còn,
mất, thấy có rồi không, thấy còn bổng mất, cho hay, khách trần sống ở thác về,
câu "vạn sự viết vô" đã chỉ rõ.
Chúng ta đưa Ðức Quyền Giáo Tông đến đây chẳng phải
để lòng thương mến Ngài mà thôi, mà cũng là dịp cuối cùng để nhắc nhở công đức
Ngài trong chín năm lao nhọc vì chủ nghĩa thương đời. Ðức Hộ Pháp, bà Nữ Chánh
Phối Sư và ông Ngọc Chánh Phối Sư mới đây, đã nhân danh Hiệp Thiên Ðài và Cửu
Trùng Ðài mà trạng tỏ lịch sử công nghiệp hạnh đức của Ngài và tôn chỉ Ðạo. Giờ
chót này tôi xin nhân danh Hội Thánh Ngoại Giáo mà nhắc nhở chút đỉnh công
nghiệp của Ngài đối với Cơ Truyền Ðạo tha phương hầu tỏ chút lòng cảm mến trong
buổi chung qui.
Hội Thánh Ngoại Giáo:
Ðức Chí Tôn có dạy rằng: "Nền Ðạo chẳng phải riêng gì cho nước Nam, mà chung cho cả nhơn
loại trên mặt địa cầu nầy". Người lại dạy: " Ðời là cõi khổ đã loạn, muốn giải khổ cho đời, đổi loạn ra trị
mà cứu vớt lấy con cái của Người, bất câu là dân tộc nào, thì chỉ có Ðại Ðạo là
nguồn cội của sự thương yêu. Nếu sự thương yêu đã nhiễm vào lòng thì không
tranh đấu, không thù hiềm, nhơn loại sẽ tự đổi họa thành phước mà lập thành cơ
tương thân thế giái đại đồng".
Song đó là về tương lai, sự kết quả thế nào thời
gian sẽ trả lời cho chúng ta biết. Nhưng kẻ dìu đường của Ðại Ðạo chỉ lo phận
sự. Bởi thế mà Ðức Quyền Giáo Tông là một Ðại Thiên Phong có trách nhiệm lớn
lao, một mặt thì lo phổ độ đồng chủng, một mặt thì lo truyền Ðạo tha phương.
Hội Thánh Ngoại Giáo lập thành là do đó.
Than ôi! Công trình cực nhọc của Ngài đối với Ðạo
từ buổi sơ khai đến nay, ai là người nhiệt thành với Ðạo đều thấy rõ.
Chúng tôi thương Ngài tấm thân vất vả, chịu tiếng
thị phi, song bao giờ cũng vẫn quả quyết ung dung hòa hưỡn, phấn đấu mà làm
phận sự cho đến cùng.
Riêng về phần Hội Thánh Ngoại Giáo thì chúng tôi có
cảm tình với Ngài rất đặc biệt.
Trong 7 năm trường kể từ xứ Cao Man có Ðạo Cao Ðài,
Ngài là một người chung chịu cùng với chúng tôi, các điều khổ sở áp bức, chẳng
có cái nguy nào mà Ngài lánh, cái nạn nào mà Ngài từ. Còn nhớ khi Ngài đến Kim
Biên lần chót cùng chúng tôi đem mình ra trước cửa công, Ngài than rằng: "Em ôi! Thân của Qua mất còn bao quản,
luật Ðời chỉ cản ngăn xác thịt, chớ không buộc trói được tinh thần. Qua lo là
lo gánh nặng đường xa, không người đồng chí, Qua còn đây thì chẳng nói gì, chớ
mai kia mốt nọ Qua mất rồi thì thương cho con cái của Thầy phải chịu liu chiu
lít chít".
Ngậm ngùi thay! Giọt nước mái nhà lắm khi xoi mòn
tảng đá, cái chí quả quyết của Ngài vì Ðạo với bao nhiêu sự khó khăn của cơ đời
chẳng phút nào lay, tấm thân dầu nát, trái tim dầu ngưng, cái lòng hăng hái của
Ngài về cột tình thân ái của dân Nam, do đường đạo đức không mòn không rúng.
Câu than ấy cũng tưởng buồn mà than, Ngài có giã từ trần thế nào cũng trong một
vài năm nữa, nào dè bóng cờ Ðạo vừa phất phơ thì Ngài đã xủ xong áo tục!
Thương ôi!
U hiển dầu phân hai ngã, nhiệt tâm dẫn khách đồng
thuyền, muốn gặp nhau chăng xin chờ giấc mộng! Thương nghiệp quốc đầy giọng
thảm, luộc mình tầm nặng lòng tơ. Nhớ nhau chăng hồn linh ta biết. Thưa Ðức
Quyền Giáo Tông, hiền xưa có nói: "Nhơn
sanh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh".
Ðạo hôm nay đã lần sang ngoại quốc, cái thác của
Ngài còn lưu lại một tấm lòng son, chẳng những đối với quê hương của chúng tôi,
mà đối với bất kỳ dân tộc nào, mến chủ nghĩa bác ái hòa bình, sẽ rạng nêu nơi
cửa Ðạo muôn năm về sau. Về phần đời với non sông đất Việt trong buổi hiện thời
Ngài đã làm tròn phận sự, về phần Ðạo đối với cơ Thiêng liêng Ngài đã tuân y
Thánh Giáo, gắng khổ chìu tâm, nâng cao hạnh đức mà gìn trọn thái độ kẻ tu
hành. Em xin cùng chư Thiên Phong Hội Thánh Ngoại Giáo nghiêng mình trước Liên
Ðài của Ngài lần cuối cùng mà tỏ lòng thương vô hạn và cầu chúc cho linh hồn
Ngài sớm hưởng phước thanh nhàn tiêu diêu nơi cõi thọ.
Hỡi ôi! Thương thay!
Hỡi ôi! Tiếc thay!
Tòa Thánh, le 2 Décembre 1934,
(ngày 26 tháng 10 năm Giáp Tuất).
Tiếp Ðạo
CAO ÐỨC TRỌNG
Phụ ghi: Nguyên bản chánh in
là: Nhơn sanh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đoan tâm chiếu hãng thanh. Chúng tôi nghĩ là: Nhơn sanh tự cổ thùy vô
tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ðan
tâm: Lòng son, lòng trung thực, bụng tốt.
Hãn:
Hãn có nghĩa là hiếm, ít có như chữ thế gian hãn hữu.
CAO ÐÀI THỌ TANG
Quyền GIÁO TÔNG ÐẠO TAM KỲ
Ông LÊ VĂN TRUNG tạ thế.
Ngày 13 tháng 10 năm
Giáp Tuất, nhằm ngày 19 Novembre 1934 vào buổi trưa.
Quyền Giáo Tông Ðạo Cao Ðài, ông Thượng Trung Nhựt
tức Lê Văn Trung tạ thế!
Cái tin truyền ra làm náo động cả xứ Nam Kỳ và nhứt
là Tỉnh Tây Ninh bao nhiêu Tín đồ đều bi lụy.
Ai ai cũng lấy làm thương tiếc ông Lê Văn Trung
lắm! Ông là một viên Chức Sắc lớn, người cầm đầu và có công nhứt với nền Ðại
Ðạo.
Ông Lê Văn Trung sanh năm 1875, hưởng thọ được 59
tuổi. Lúc nhỏ học tại trường bổn quốc (Chasseloup), ông vốn có tiếng là thông
minh và siêng năng lắm. Ðến năm 19 tuổi vừa ra trường liền được bổ vào ngạch
thơ ký tại Soái Phủ Nam Kỳ (nhằm ngày 14 Juillet 1894).
Năm 1900, ông đắc cử Hội Ðồng Quản Hạt, sau lại
được cử vào làm Hội Ðồng Chánh Phủ (Thượng Nghị Viện) và ân tứ Ngũ đẳng Bắc Ðẩu
Bội Tinh (Chevalier de la Légion d'Honneur).
Ðịa vị ấy cũng sang cả lắm rồi! Song le dường như
tánh khí tự do của ông không chịu điều ràng buộc như vậy nên thường suy nghĩ
...
Thấy đường đời gai gốc khổ sở, ông vẫn tha thiết
xót thương!
Và cái quan niệm về đạo đức cũng phát sanh từ đó,
rồi sau nầy cũng nhờ tấm lòng thiện niệm cân nhắc ông lên một địa vị khá cao
trong đạo đức. Giới Ðại Ðạo Cao Ðài khai sáng vào ngày mồng một tháng Giêng năm
Bính Dần (13 Février 1926, nhưng ông vào Ðạo trước ngày ấy là ngày 28 Janvier
1926). Vì chính Ðạo đã nảy nở một cách ngấm ngầm từ hồi năm 1919 do nơi Quan
Phủ quá cố là ông Ngô Văn Chiêu khởi xướng lúc ấy. Ông Chiêu còn ngồi Quận tại
Tỉnh Hà Tiên hay lập Ðàn thỉnh Tiên thường có một vị giáng cơ xưng là Cao Ðài,
dạy cách tu hành và thờ phượng.
Việc Ðạo cũng như việc Ðời bao giờ ông Lê Văn Trung
vẫn sốt sắng cần mẫn luôn.
Một năm, Tín Ðồ trong Ðạo Cao Ðài thiếu thuế, ông
phải ra trả. Nhưng sau khi thua lỗ về lò giấy Thủ Ðức ông đem tiền bạc dư lại
vào giúp hết cho công việc Ðạo nên không còn đủ đóng cho nhà nước mà ông bị bắt
giam. Vì lòng khuẩn uất ông tuyệt thực mới được thả ra.
Hồi Ðạo Thầy bị áp bức tại Kim Biên, ông phải đem
mình ra cửa công thay mặt cho Tín Ðồ mà kêu ca với Chánh phủ.
Ðạo mở chưa đầy 9 năm, mà Tín Ðồ được một phần ba
dân số ở Nam Kỳ tín nhiệm, không kể những người Cao Miên, khách trú và đồng bào
thiểu số.
Sau nầy ông lại vận động truyền bá chủ nghĩa Ðạo
Cao Ðài tận bên Pháp nữa. Công dày đức lớn, địa vị ông kể cũng đã là xứng đáng
lắm, nhưng tiếc thay!
Ông vì lo Ðạo bị muổi cắn và rét rừng mà mang bịnh,
ông đã nằm nhà thương, song chưa thật hết ông lại ra, nên bây giờ bịnh trở lại
nặng phải bỏ mình.
Ông Trung mất ai là người sẽ thay quyền ông để chấp
chưởng việc Ðạo, sự ấy còn lâu ông có để tờ chúc ngôn lại, nhưng đương lúc tang
lễ ông, còn linh đình người ta chưa nói tới, hãy còn lo việc an táng phần xác
ông trước. Xác ông được khâm liệm ngồi vào Liên Ðài bát giác (hòm tám góc) làm
bằng thiếc hàn thật kỹ, trên có búp bông sen giả. Ngày chúa nhựt 2 Décembre
1934 sau khi quàn tại Vọng Ðài hơn 10 bữa để chờ Tín Ðồ ở các nơi xa về chiêm
bái xong, thì hôm nay lễ an táng bắt đầu cử hành. Trước khi đến giờ ông Hộ Pháp
Phạm Công Tắc có đứng lên đọc Ðiếu văn lời lẽ rất bi ai cảm động! Kế đó là Nữ
Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, ông Ngọc Chánh Phối Sư Trần Duy Nghĩa và ông Cao
Ðức Trọng Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo. Mỗi người đều đọc một bài Ai điếu
rất dài.
Có trên 5 ngàn Tín Ðồ theo hộ tống, Long Mã (Linh
xa hình con rồng kết bằng bông hoa) chở Liên Ðài đi khắp trong địa phận Tòa
Thánh, rồi đem về để vào Tháp, chính quan chủ Tỉnh Tây Ninh cũng thân hành dự
lễ, vẻ vang thay!
Hôm nay các bạn đồng nghiệp Tây Nam ở Saigon đã
đăng Ai tín và mở cuộc điều tra phỏng vấn, song chỉ có một mình "Niết
Bàn" thì im hơi vắng tiếng. Tưởng đâu chúng tôi vô tình lắm! Nhưng không
phải thế, vì Tạp chí chúng tôi hằng tháng ra đôi lần, nên muốn chờ sau khi tống
chung xong rồi sẽ viết bài tường thuật. Song nói cũng chỉ có kể đại lược mà
thôi. Chúng tôi muốn nêu một cái gương tốt trong làng Ðạo để bạn tu hành soi
chung vậy.
Ðến đây chúng tôi không thể quên mà không nhắc lại
một câu nói lúc ông Lê Văn Trung còn sanh tiền: "Tấm thân của anh quản bao mất còn, miễn sao cho Ðạo của Thầy đặng
chúng sanh sùng bái là vui lòng anh lắm vậy thôi". Cái đức tánh thiện
mỹ "vì Ðạo quên mình ấy", dù là người ở Tôn giáo nào cũng phải cần
có.
Nhơn tiện để lời chia buồn cùng tang quyến, các
Chức Sắc Thiên Phong trong Ðạo và chư Tín Ðồ lưỡng phái, chúc hương hồn Quyền
Giáo Tông được tiêu diêu nơi Bồng Ðảo.
Thương thay! Tiếc thay!
Bộ
Biên tập và Ty Quản lý Niết Bàn tạp chí.
Số
29 ngày 31-12-1934.
LỜI
TƯỜNG THUẬT
của
nhựt báo "GRINGOIRE"
Paris,
6 Décembre 1934
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nào những đoàn người từ các nơi xa gần, đi bằng xe
hơi, xe cam nhông, xe bò, xe đạp, nào là ghe thuyền chở đầy Tín đồ, đàn ông,
đàn bà, con nít, thảy đều chí quyết đi mau tới Tòa Thánh đặng thọ tang, có
người lại bịt khăn tang trắng trước khi thọ lễ.
Suốt ngày đêm, mọi người gồm cả nam phụ lão ấu luân
phiên nhau lập thành hàng ngũ chỉnh tề đến lễ bái trước Liên Ðài hình bát giác,
trong ấy xác thể được tẩn liệm cẩn thận bằng cách ngồi "Kiết già" y như thể thức của Ðức Phật đang ngồi tọa
thiền nhập định.
Về những cuộc tế lễ ban đêm, khi Bộ Lễ sắp đặt trật
tự cho Chức Sắc, Chức Việc và cho Ðạo Hữu đứng có hàng ngũ chỉnh tề trên những
kệ ván đặt chung quanh Cửu Trùng Thiên. Trước Liên Ðài thì hàng hàng lớp lớp có
trật tự quì giữa sân van vái thì thầm tiếng vội ra làm cho người ta có cảm
tưởng như sóng bủa trên gành ở phương xa vọng lại khi trầm, lúc bổng, một giọng
thống thiết như xé nát tâm can, ai bi não nuột. Ðó là những lời cầu nguyện thốt
ra tiếng thì thầm tưởng niệm vong linh của người quá vãng, một giọng khẩn vái
đều đều, tỏ lòng mến tiếc đau thương. Những khẩn nguyện rì rào ấy thình lình bị
áp hẳn bởi một âm thanh hòa điệu của đoàn phụ nữ và Ðồng nhi tụng Kinh Cầu
Siêu, nhịp nhàng như giọng hát trầm bỗng, khiến cho thính giả đều xúc động.
Một chập sau mãn lễ, đoàn người lần lần rút lui;
sân Ðại Ðồng Xã trở về cảnh trống trải của màn đêm trên nền trời tím thẳm, các
vì tinh tú thay phiên nhấp nhoáng. Các ngọn đuốc bằng mủ dầu chay soi sáng
chung quanh Liên Ðài, với những làn khói đen theo chiều gió mùa đông lạnh buốt.
Bấy giờ chỉ còn lại có 36 vị Chức Sắc Phái Thượng
hầu chung quanh Liên Ðài, họ xem thường mỏi mệt, rét lạnh giữa tiết đông.
Qua ngày thứ mười ba là lễ an táng chánh thức, số
Tín đồ nam nữ đã đông, lại càng đông hơn. Theo phong tục, mà nhứt là thủ tục
Cao Ðài, thì mọi người đều mặc y phục trắng, đầu bịt khăn trắng, để tang xen
lẫn với những Chức Sắc mặc áo rộng màu xanh, màu đỏ, màu vàng.
Dưới ánh sáng ban mai, dưới nền trời quang đãng,
trên Liên Ðài có gắn một đóa hoa sen lớn trải cánh hồng hấp dẫn nhãn quang của
tất cả mọi người.
Rồi bỗng nhiên tiếng hòa tấu của giàn nhạc bổn xứ
trổi lên như khóc như than gợi nỗi bi ai thống thiết của những người đi dự lễ.
Bà góa phụ Lê Văn Trung tiến lên trước Liên Ðài,
nhờ có mấy vị Chức Sắc dìu đỡ.
Tiếng âm nhạc hòa điệu theo nghi lễ, tám vị Lễ Sĩ
mặc sắc phục màu vàng, xanh, đỏ, tiến từ bước một với bộ điệu rập ràng khoan
nhặt theo nhịp của tiếng đờn, tiếng trống, trên hai tay họ bưng nhang đèn, hoa
quả, rượu trà, đưa lên ngang trán, đó là lễ dâng Tam Bữu.
Và đây là lễ bái rất tôn nghiêm của toàn thể Tín đồ
trước Liên Ðài. Nhìn quang cảnh ấy, có thể nói họ là những người theo cổ tục
không ai bằng, họ vẫn có tinh thần trung kiên với truyền thống tổ phụ không đâu
hơn. Tuy nhiên, ở Ðông Dương, thuyết Canh tân Chủ Nghĩa Ðại Ðồng được an hảo
với cổ truyền là nhờ sự điều hòa trung thứ của thuyết "Qui Nguyên Thượng Cổ" vậy.
Ai có biết chắc bàn tròn để giữa kệ trên Cửu Trùng
Thiên để làm gì chăng?
Trên bàn ấy có đặt sẵn một máy thâu và phát thanh.
Trước là Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, kế đó là ba vị Chức Sắc cao cấp đại diện
cho các cơ quan của Ðạo lần lượt đọc bài Ai điếu với giọng mến thương, nhắc lại
bao nhiêu công nghiệp dĩ vãng của một bậc vĩ nhân đã vì đời mà tận tụy cả kiếp
sanh đầy gian lao khổ hạnh, nhứt là bài Ðiếu văn tuyệt bút của Ðức Hộ Pháp, hàm
xúc nhiều ý nghĩa bi hùng bóng bẫy và khích lệ tinh thần đối với thế hệ mai
sau. Toàn thể đám tang im phăng phắc trong bầu không khí trầm lặng, chú ý nghe
từ câu văn, giọng đọc qua làn sóng điện phát thanh vang dội khắp cả núi rừng
đất Việt.
Thế là xong, chiếc Liên Ðài có hoa sen tươi thắm ấy
được kiệu lên lưng Long Mã, để toàn Ðạo đưa Ðức Ngài đến nơi an nghĩ ngàn thu
mà Hội Thánh đã chu tất sẵn. Giờ đây, xác thể của Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung không còn nữa! Nhưng Chức Sắc Cao Ðài vẫn tiếp tục hoạt động khuếch
trương nền Ðạo.
Phóng
viên: Jean DORSENNE
ÐÔI
VÃN CỦA KÝ GIẢ NAM ÐÌNH ÐIẾU ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.
- Sắc tướng vẫn không mấy mươi năm dài dặc, cõi
Diêm Phù Thầy vội dắt dìu về Lạc quốc.
- Nhân duyên phải có ức muôn triệu say mê đường vật
chất, ai quyền phổ độ ở Trần gian.
Phụ ghi:
Hai câu đối trên, chúng tôi nghĩ dấu phẩy như thế nầy
sẽ chỉnh hơn, có phải vì lý do kỹ thuật in ấn?
- Sắc tướng vẫn không mấy mươi năm dài dặc cõi Diêm
Phù, Thầy vội dắt dìu về Lạc quốc.
- Nhân duyên phải có ức muôn triệu say mê đường vật
chất, ai quyền phổ độ ở Trần gian.
TIỂU SỬ
Vài ngày sau khi Ông Lê Văn Trung tạ thế, nhơn tôi
có tỏ dấu thương tiếc với một người bạn thanh niên du học, người ấy liền nói:
- Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì mà anh thương
tiếc?
- Vậy chớ gần một thế kỷ nay những người An Nam "sống lâu ra lão làng" như anh
với tôi đã làm được cái quái chi?
Ðối với câu nói sắp nhập như kia tất phải có câu
trả lời tiêu cực như thế. Chớ xét ra, ở giữa thời kỳ "nước nhà nhiều nạn" nói khó, tư tưởng cũng còn khó thay, huống
chi là việc làm, thì hễ ai làm được điều chi, dầu cho sự ích lợi của nó nhỏ
nhen thế nào, mà mình đã có thể biểu dương được thì cũng nên biểu dương.
Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì?
Ðiều đó chưa biết. Cái điều mà ai cũng nên biết là
phải tìm coi cho rõ Ông Trung đã làm được cái chi chưa?
Ai là người đã nghĩ rằng Ông Lê Văn Trung chẳng hề
làm được điều chi đáng cho chúng ta chú ý, thì hiện nay chắc họ cũng ăn năn,
nhận sự lầm lỗi của họ.
Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì?
Ðiều đó chưa biết. Chúng tôi chỉ biết rằng từ hôm
ông chết đến nay, ở Tòa Thánh Cao Ðài Tây Ninh, số người mỗi ngày đến chịu
tang, lấy muôn mà kể. Già trẻ, bé lớn, đàn ông, đàn bà ở Lục Tỉnh, ở Nam Vang,
ở Lèo, thảy đều thương tiếc, khóc than, chẳng khác nào con mất cha mẹ. Nếu như
có thể lấy những "Chuôn"
vải trắng bịt trên đầu để làm thước đặng đo sự nghiệp, công đức của một người
quá vãng, thì ta có thể nói rằng sự nghiệp, công đức của Ông Lê Văn Trung là
lớn nhất ở Nam Kỳ nầy vậy.
Trái lại, dầu cho có ai bảo rằng sự nghiệp ngưỡng
mộ ấy đều do ở điều mê tín tàm vơ mà sanh ra, thì họ cũng phải công nhận rằng
đó là một cái tâm lý quần chúng cần phải nghiên cứu, là một "việc xã hội" cần phải điều
tra.
Muốn nghiên cứu tâm lý ấy, muốn điều tra "việc xã hội" ấy, thì tôi
tưởng chẳng chi hay hơn là xét cho rõ lai lịch của người đã đào tạo ra tâm lý
ấy và "việc xã hội" ấy.
Ý nghĩa của vài tờ tiểu sử nầy là vậy đó.
Huống chi, "Nữ
vị duyệt kỷ giả dung, Sĩ vị tri kỷ giả tử". Tôi tuy không phải là
người trong Ðạo Cao Ðài, song từ ấy đến nay và nhứt là trong hai năm gần đây,
Ông Giáo Tông Lê Văn Trung bao giờ cũng lấy tình của người bạn vong niên mà đãi
tôi.
Tôi còn nhớ, cách chừng một năm nay, sau khi ông
NGUYỄN PHAN LONG lấy tư cách Giáo Sư Cao Ðài lên Tòa Thánh Tây Ninh ngồi làm
Chủ Tọa "Hội Vạn Linh" để
buộc tội Ông Giáo Tông mà rồi cũng không có hiệu quả, Ông LÊ VĂN TRUNG kêu tôi
mà nói: "Cái kết quả của "Hội
Vạn Linh" nầy không phải là để rửa sạch những điều họ đã vu cáo cho tôi,
mà chính là để cho "Ðạo" được thêm một Tín đồ trí thức NGUYỄN PHAN
LONG".
Lại một hôm, nhơn bàn về vấn đề Tôn giáo, tôi nói với
Ông LÊ VĂN TRUNG:
- Tôi nhớ như tuồng một nhà Văn sĩ Ăng Lê kia đã
nói: "Tôn giáo nầy mà khác với Tôn
giáo kia cũng giống như những nhà đăng cao, tuy là khi mới trèo lên, thì người
ở bên chơn núi nầy, kẻ ở chơn núi kia, chớ chừng đến trên đảnh cũng gặp nhau
một chỗ".
Ông trả lời:
- Ðạo Cao Ðài chúng tôi cũng vậy. Song chỉ có một
điều khác, là muốn sao từ khi đương ở dưới chơn núi, thì tất cả các nhà đăng
cao đều đã biết nhau, yêu nhau.
Gần đây, sau khi Ông đi diện yết Quan Toàn Quyền
Robin vừa ra, tôi hỏi:
- Quan Toàn Quyền có hỏi chi đến việc Ngài trả Bắc
Ðẩu Bửu Tinh lại cho Chánh phủ chăng?
- Có, Quan Toàn Quyền có khuyên tôi lấy lại. Song
tôi đã bẩm với Ngài rằng: Trả hay không trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh là một việc nhỏ dễ
tính.
Cái người của ông, bình sanh, bất kỳ là đối với
việc gì, cảnh ngộ nào, ông cũng ung dung, hòa nhã; nói chậm rãi mới nghe qua
như tuồng thờ ơ, mà xét kỹ lại, thì thâm trầm, ý vị.
Chỉ duy trong những lúc đêm tàn, canh vắng, bên
ngọn đèn khuya, hay là dưới bóng trăng nuối, ông mới đem ít nhiều tâm sự mà
than thở với những người bạn thanh niên như chúng tôi đây.
Cái tâm sự mà ông đã đặt tên cho nó là "Nhơn Ðạo".
Cái "Nhơn Ðạo" ấy, ai là người trong Ðạo
Cao Ðài sẽ kế chí ông?
Về phần tôi, tôi chỉ biết lấy tình tri kỷ mà vẽ sơ
lại con đường của ông đã trải qua, để họa may gần đây sẽ có kẻ nối theo đó mà
đi cho đến mục đích của ông đã tự kỳ: Do Thiên Ðạo mà lo Nhơn Ðạo, lo Nhơn Ðạo
cho xong để tròn phận sự đối với Thiên Ðạo.
Ông LÊ VĂN TRUNG, người hạt Chợlớn, con ông LÊ VĂN
THANH và bà VĂN THỊ XUÂN, sanh tại làng Phước Lâm, tổng Phước Ðiền Trung, trong
năm 1875. (1)
Sanh ra được vài tháng, thì ông thân của Ngài tạ
thế.
Tuy là sớm phải gặp cảnh mồ côi cha, song cũng nhờ
gốc thuần phong mỹ tục của nhà ruộng rẫy xứ nầy, và sự dạy dỗ có nghĩa phương
của một bà từ mẫu, nên việc học vấn của ông cũng tuần tự theo trình độ trí thức
của phần đông lúc bấy giờ mà mỗi ngày mỗi được tăng tấn.
Qua năm 18 tuổi, nhằm ngày 14 Juillet 1893, thì ông
đã được bổ vào ngạch thơ ký Chánh phủ Nam Kỳ.
Chẳng bao lâu ông lại từ chức, ra tranh cử Hội Ðồng
Quản Hạt quận nhì (Gia Ðịnh - Chợlớn - Tây Ninh - Thủ Dầu Một - Bà Rịa -
Cap-St-Jacques).
Ông thường hay nhắc lại việc nầy mà nói: "Cái ma lực buộc người hay có xa vọng
về chánh trị nó mạnh lạ thường. Tranh cử lúc đó còn phải tốn tiền hơn bây giờ
xấp trăm, xấp ngàn. Vậy mà tiền không, thế lực nỏ có, thì tranh cử cái gì, mà
tôi cũng xin thôi việc quan đặng ra tranh cử?".
"Người ta là con vật chánh
trị!". Văn sĩ xưa nào đã
nói như vậy.
Ông đắc cử vào làm Nghị viên Quản Hạt lần thứ nhứt
nhằm khoản năm 1906.
Thầy thư ký mồ côi, nhà nghèo, thiếu trước hụt sau,
mà nay đã nghiễm nhiên là một ông dân biểu, lại thêm nhằm lúc dân trí chưa mở
mang, Hội Ðồng Quản Hạt chỉ còn là cái máy ghi chép "đít cua" thì đáng lẽ ông cũng theo thường, "quì quì, dạ dạ" để xin "mày đai" Huyện hàm, khẩn đất
mà thủ lợi.
Thế mà không, sau khi đắc cử, Hội Ðồng mới nhóm một
kỳ đầu tiên, thì đã gặp ngay bản dự thảo thuộc về "Lục hạng điền" của ông Outrey, quyền Thống Ðốc Nam Kỳ,
trình xin Hội Ðồng phải thảo luận và thừa nhận.
Ông và ông Diệp Văn Cương, Hội Ðồng Bến Tre, đứng
ra cầm đầu cho tất cả 6 ông Quản Hạt Annam phản kháng lại bản dự thảo của Chánh
phủ.
Song, số Nghị Viên Annam lúc bấy giờ chỉ bằng phân
nửa số Nghị Viên Langsa, thì dầu cho có phản kháng kịch liệt thế nào, cứu cánh
rồi cũng chẳng có kết quả.
Tình thế chính trị như vậy mặc dầu, ông cùng các
người đồng chí cũng chẳng chịu thua Hội Ðồng Quản Hạt, với mười mấy lá thăm
Langsa, vừa thừa nhận khoản thuế "Lục
hạng điền" thì bên nầy, tất cả sáu ông Hội Ðồng Quản Hạt Annam đều gởi
đơn từ chức.
Ðối với thái độ ấy, có lẽ ngày nay chúng ta chẳng
lấy chi làm lạ. Song nếu chúng ta thử tưởng tượng lại cái hoàn cảnh chánh trị
cách 30 năm nay, thì dám làm như thế, dám phản kháng Chánh phủ một cách công
nhiên như họ đã làm, thật là một việc đáng khen, và không phải là không có chi
nguy hiểm cho những người xướng xuất.
Từ chức xong, tất cả sáu ông đều ra ứng cử lại và
thảy đều được tái cử. Trừ duy ông Hội Ðồng Hoài, bị ông Bùi Quang Chiêu a phụ
với ông Outrey xúi người bà con là ông Bùi Thế Khâm ra phá nên thất cử.
Hội Ðồng Quản Hạt mà được trở nên một Nghị trường
có nhiều ít thanh thế một đôi vẻ chánh trị có lẽ cũng là nhờ vụ "Lục hạng điền" làm nước bước
đầu tiên vậy.
Trong bước đầu tiên ấy, ông Lê Văn Trung lại là một
người hướng đạo rất khẳng khái.
Thế lực chánh trị của ông, từ đó về sau, mỗi ngày
mỗi càng lớn thêm. Ðối với cử tri, lúc bây giờ tức là các Hương chức, thì ông
là một người đã bảo thủ quyền lợi của nông dân điền chủ, đối với Chánh phủ, thì
ông là một người trong những người mà các nhà đương đạo khó khinh thường.
Nhờ thế lực ấy, nên trong năm 1911 ông mới hiệp sức
với một vài nhà trí thức, quyền bính Sàigòn, Chợlớn mà khởi xướng được một vài
việc rất mới mẻ có quan hệ mật thiết, ảnh hưởng lớn lao ở giữa xã hội Việt Nam
ngày nay.
Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường.
Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn
ông, còn hãy phôi thai, cậu nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự thánh,
tự thần, xách đi cùng Lục tỉnh đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh
chàng du học đem về được cái bằng cấp Tú tài, thì đã hô lớn lên một cách rất
vinh diệu, tự đắc rằng mình quên hết tiếng Annam; đương giữa buổi mà khắp cả
cha mẹ trong nước đều công nhận rằng: Cho con gái có nhiều ít học thức là một
mối hại lớn cho gia đình, cho xã hội; đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề
xướng nữ học, xin lập trường Nữ học để dạy bên gái bằng như bên trai, có phải
là một việc quá bạo gan chăng? Những người đề xướng có phải là những bực tiên kiến
chăng?
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy
giờ, như tuồng cũng cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong
tục cũ kỹ của Annam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất
công nho ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc
quyên, góp của công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy
ở đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài
trong nữ giới.
Vậy mà nếu ai chịu khó lật cuốn sổ lạc quyên năm nọ
ra xem, thì sẽ thấy ở dưới mấy lời tuyên bố có tên của ông Lê Văn Trung là
người khởi xướng đứng kế phương danh bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ Hữu.
Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới chế độ
chẳng phải khinh thường mà đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên đây,
thời tuy nó chưa phải là những sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế cũng
đủ gọi rằng khỏi mang tiếng "quì quì, dạ dạ" là cái danh hiệu của
phần đông trong mấy ông Hội Ðồng, từ xưa đến nay, ở xứ này.
Ðó là sự nghiệp.
Còn công danh, nếu lấy theo nghĩa hẹp của nó và
theo thế tình, thì ông Lê Văn Trung, Hội Ðồng Quản Hạt, Nghị viên Thượng Nghị
Viện, thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, sanh tiền cũng đã từng có đủ công danh.
Nhưng, than ôi! Dầu cho những điều đó mà có thể gọi
là công danh, sự nghiệp đi nữa, đối với người đã lấy lòng tín ngưỡng làm phương
châm cho sự hành vi, lấy đức bác ái, phổ độ làm mục đích cho cái đời sống, thì
công danh, sự nghiệp cũng chẳng nên nhắc lại làm chi.
Vả trước khi đem thân phàm tục để nhờ con "Mắt" huyền diệu của Thầy soi
thấu, thì Ông Lê Văn Trung cũng đã lãnh đạm với công danh sự nghiệp ấy.
Ba bốn tháng trước khi nhập Ðạo, Ông Lê Văn Trung
đã gởi đơn đề ngày 6 Octobre 1925 cho Quan Thống Ðốc Nam Kỳ mà xin từ chức Nghị
Viên Thượng Nghị Viện.
"Mãi
đến ngày mồng năm tháng Chạp năm Ất Sửu (28 Janvier 1926) ở Saigon, Ðức THƯỢNG
ÐẾ giáng cơ dạy hai ông Cư và Tắc, đem cơ vô nhà ông Trung (Chợlớn, Quai
Testard) cho "Ngài" dạy việc. Hai ông này lấy làm bợ ngợ, vì thuở nay
chưa hề quen biết ông Trung ..."
Chuyện trên đây tôi do ở cuốn sách "Ðại Ðạo
Căn Nguyên" của Ðạo Cao Ðài mà chép ra và chỉ để ghi lấy ngày nhập Ðạo cho
tiện sự chia cái đời của ông ra làm hai đoạn.
Ðoạn trước, ở thế gian, từ ngày 14 Juillet 1893,
ông được bổ ra làm thơ ký, cho đến 6 Octobre 1925 là ngày ông từ chức Nghị viên
Thượng Nghị Viện.
Ðoạn sau, thuộc về đời hành đạo, đời tu niệm của
Ông, từ 28 Janvier 1926 cho đến 19 Novembre 1934.
Bước đường ở ngoài thế gian trong khoản 32 năm được
hanh thông chừng nào, thì 9 năm trong Ðạo lại càng mắc phải nhiều khổ hạnh
chừng nấy.
Sau khi nhập Ðạo chưa đầy một năm, Ông với các Ðạo
hữu đi thuyết đạo khắp cùng Lục Tỉnh và nội trong mấy tháng mà số người theo
Ðạo Cao Ðài tính hơn một triệu, thì ông cùng bà Lâm Hương Thanh, Chánh Phối Sư,
với 247 người Ðạo hữu đứng vào một lá đơn trình với Chánh phủ xin phép khai
Ðạo.
Lá đơn ấy đề ngày 29 Septembre 1926. Nó là tấm Giấy Khai Sanh của Ðạo vậy.
Lúc bấy giờ, Ðàn cầu cơ đã có
khắp cả mọi nơi, Cầu Kho, Chợlớn, Tân Kim, Lộc Giang, Tân Ðịnh, Thủ Ðức, mỗi chỗ đều có người chủ trương riêng. Vì Ðạo Cao Ðài là do
ở Cơ
bút phát sanh; điều đó ai cũng biết.
Tuy nhiên, chí kinh dinh kiến tạo của Ông ở ngoài
đời Ông vẫn đem nó theo để làm cho đạt một mục đích khác.
Vì Ông nóng lòng về sự lo cho nền Ðạo được thống
nhứt, nên nội trong năm đó, ngày 19 Novembre, đêm 14 rạng mặt Rằm tháng Mười
năm Bính Dần, thì làm lễ Khánh Thành Thánh Thất ở Từ Lâm Tự và lễ chánh thức
Khai Ðạo.
Tính từng ngày một, từ 19 Novembre 1926, ngày Khai
Ðạo cho đến 19 Novembre 1934, ngày ông mất, cộng là 8 năm, không thiếu, không
dư một bữa.
Trong điều đó có chi huyền diệu chăng?
Huyền diệu hay không, tôi tưởng ai là Tín đồ Cao
Ðài, thời cũng phải lấy ngày đó làm một ngày kỷ niệm rất quí hóa, kỷ niệm lễ
chánh thức khai Ðạo, kỷ niệm húy nhựt của Ông Quyền Giáo Tông và kỷ niệm cho
nhớ rằng hành đạo là một việc khó, cơ bút thường hay có những điều lưu tệ. Vì
chánh ngay đêm đó, có hai Tín đồ nam và nữ tự xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, và
Quan Âm Bố Tát nhảy lên làm cho công chúng thất vọng.
Và cũng vì việc rắc rối ấy mà làm cho ai nấy đều
ngã lòng, thối chí, thành thử nổi lên một cuộc công kích rất kịch liệt do những
người hoặc vì thiển kiến, hoặc vì tư lợi mà sanh ra.
Có một điều lạ chẳng ai ngờ, là cái hiệu quả của
cuộc công kích ấy chỉ làm cho số Tín đồ Cao Ðài mỗi ngày mỗi đông thêm.
Cách đó chẳng bao lâu, Thánh Thất Cao Ðài lại phải
dời về nơi sở rừng 140 mẫu, tọa lạc tại làng Long Thành, Tây Ninh, cho đến bây
giờ.
Trong khoảng thời gian từ ngày lập Ðạo cho đến lúc
dời Thánh Thất về làng Long Thành, ông Lê Văn Trung đã trải biết bao nhiêu công
khó mới gầy dựng nên được cơ sở vững chặt ngày nay. Song Ông thường hay nói với
tất cả mọi người:
-
"Công khó ấy đều nhờ ở lòng tín ngưỡng thành kính của anh em, chị em trong
Ðạo. Công của tôi chẳng bao giờ lớn hơn công của một "Tiểu Giáo Nhi"
nào.
Tuy nhiên, trong lúc vừa dời Tòa Thánh về làng Long
Thành Tây Ninh, thì các Chức Sắc, các Giáo Hữu, các Tín đồ đều đã rõ thấu công
lao của Ông đối với nền Ðạo, nên ai nấy đều vui mừng về việc ông được tôn lên
Quyền Giáo Tông nhằm ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930).
Vả lúc ấy, là lúc Ðạo đương trải qua thời kỳ toàn
thạnh mà chủ quyền lại được thống nhứt về trong tay của một người nhiều kinh
lịch, đủ nghị lực như ông Lê Văn Trung thì ai cũng tưởng nền Ðạo từ đó về sau sẽ
được vững chải hơn.
Ai ngờ hai chữ "Giáo
Tông" lại thành ra cái cớ để khiến những tay cầm quyền Ðạo đương thời
họ đã làm cho nảy sanh chẳng biết bao nhiêu việc chia lìa, oán khích. Chẳng
những là ở trong Ðạo thì họ đã buộc tội, viết tờ Châu Tri để thống mạ, mà ngoài
đời, thì họ lại còn xúi giục Tín đồ lầm lạc đem những việc phi lý, vô bằng đến
Tòa mà kiện và vu cáo với các nhà đương quyền rằng để cho Ông Lê Văn Trung cầm
quyền Ðạo tức Cao Ðài là dung dưỡng cho một ổ cách mạng, họ đã làm cho đến nỗi
lúc bấy giờ chẳng có ngày nào, mà Ông Lê Văn Trung chẳng bị ông Thẩm án nầy đòi
hay là Tòa kia đem ra xử. Còn những Chức Sắc nào trong Ðạo mà ái mộ Ông Giáo
Tông, thì họ lại kiếm phương nầy thế khác mà làm cho bị tù bị tội.
Ðương giữa buổi nguy nan như thế, Ông Lê Văn Trung
vẫn cứ điềm tỉnh, ngồi lo sắp đặt công việc bên Nữ phái trong Ðạo, mong sao cho
Nam, Nữ được bình quyền mà nói rằng: "Ðiều
ấy là một cái xa vọng của tôi đã có từ khi đương còn ở ngoài đời, cho đến ngày
nhập Ðạo. Lúc trước tôi đã giúp bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ Hữu lập trường Nữ Học, bây
giờ tôi hiệp sức với bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh tổ chức các Nữ Viện, cũng
đồng một ý nghĩa. Tôi chỉ ước ao sao cho Nam-Nữ bất bình đẳng ở ngoài đời chẳng
còn trong Ðạo nữa".
Có nhiều người thấy Ông điềm nhiên như vậy, thì tức
mà hỏi:
- Ngài không dùng phương pháp chi để đối phó với
mấy kẻ tiểu nhơn kia sao?
- Sao mà lại được kêu những kẻ ấy là tiểu nhơn? Nếu
may mà mình phải, thời tự nhiên một ngày kia người ta sẽ biết quấy, lo ngại chi
sự ấy.
Song, than ôi! Lời nói đó chỉ là đúng với lý tưởng
của người lương thiện, tu hành. Chớ thật tế ở đời nầy có đâu được như thế.
Sau khi đối với Ðạo, Ðạo biết Ông vô tội; đối với
Tòa, Tòa biết Ông vô tội; cái danh hành Ðạo của Ông được trắng như tuyết.
Ông Lê Văn Trung, nguyên Thượng Nghị Viện thưởng
thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, Giáo Tông Cao Ðài, lại do hai cái án "tuần cảnh" phạt hai tên đánh xe bò của Tòa Thánh về tội
không thấp đèn và bò thiếu dây buộc ách mà phải bị bắt vô chịu tù ở khám đường
Tây Ninh. Ngày Ông vô khám nhằm lễ khai hạ, mồng bảy Tết năm Giáp Tuất (1934)
trước Vía Trời vài ba bữa.
Tôi còn nhớ khi sơn đầm đem hai bổn sao lục của hai
cái án nói trên đây vô Giáo Tông Ðường đặng bắt Ông ra Tòa Bố Tây Ninh, thì ông
chậm rãi, khăn áo chỉnh tề, mang Bắc Ðẩu Bửu Tinh và huy hiệu Giáo Tông vào rồi
đi theo sai nha không nói một tiếng chi khác hơn là dặn các Giáo Hữu, các Tín
đồ hãy yên lặng mà lo việc cúng Vía.
Mấy ngày Ông ngồi trong khám, ngoài Tòa Thánh từ
các Chức Sắc cho đến Tín đồ họ đều nhịn đói mà chờ Ông.
Mãn hạn ba ngày, Ông về Tòa Thánh, Chức Sắc, Tín đồ
người khóc kẻ ôm tay Ông hun, Ông xem cũng như tuồng có ý cảm động nhiều hơn
trong những dịp khác.
Làm Lễ vía Trời vừa xong, thì Ông liền viết một bức
thơ gởi cho Chánh phủ mà xin trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại.
Thơ ấy có nhiều câu ý vị sâu xa. Song tôi không
muốn thuật ra đây, vì sau khi Quan Toàn Quyền ROBIN qua trấn nhậm, Ông đã có
vào diện yết Ngài và hai đàng cũng đã điều đình công việc "tự do tín ngưỡng" của Ðạo, thì nhắc lại chuyện cũ sợ e
có hại đến hòa khí của Ông đã đào tạo ra.
Tôi chỉ muốn thêm rằng trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh là một "việc làm" sau hết của cái đời
sống của ông và nhắc lại lời của ông đã cắt nghĩa "việc làm" ấy:
-
"Ðừng tưởng tôi trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh mà còn có ý chi phiền Chánh phủ,
trách những nhà đương quyền lúc bấy giờ. Danh giá thể thống của Viện Bửu Tinh
buộc tôi phải làm như vậy. Tôi mà nói đây chẳng phải vì nghi sợ điều chi mà chỉ
vì ước ao ai nấy đều hiểu rằng tôn chỉ, mục đích của Ðạo chúng tôi là hòa bình,
thân ái khắp cả chúng sanh "nhứt thị đồng nhơn" thì chúng tôi đâu
được phép phiền trách hờn giận. Huống chi, theo thiển kiến của tôi đối với vấn
đề thực dân, thì dầu cho lúc ban sơ nó là "việc làm do ở cường quyền"
song dần dần bên cai trị và bên bị cai trị cùng nhau tiếp xúc, rồi biết rõ nhau
mà yêu nhau, thì chúng ta lại có thể hi vọng rằng cái "việc làm do ở cường
quyền" kia sẽ thành ra một mối dây đoàn thể, thân thiện của dân tộc nầy
đối với dân tộc khác".
Ðã nói đến thân thế sự nghiệp của Ông LÊ VĂN TRUNG
tất nhiên là phải bàn đến Ðạo Cao Ðài. Vì ông là một người sáng lập, lại là một
ông Giáo Chủ. Ðạo Cao Ðài mà phải, thì ông là công Thủ, Ðạo Cao Ðài mà quấy,
thì ông lại là tội Khôi.
Song tôi còn nhớ Chương Thái Viêm, một nhà bác học
Tàu mỗi khi thảo luận đến các vấn đề Tôn giáo đều có nói:
-
"Thiên trung điểu tích, họa giả giai nan" - Dấu chơn của con
chim bay trên không, thợ vẽ nào cũng phải chịu là khó.
Thật thế, người ta mà muốn tìm ra cội rễ của Tôn
giáo thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chơn của chim bay trên không.
Huống chi, Ðạo Cao Ðài mới phát hiện ra ở xứ nầy
chưa đầy chín năm, bao nhiêu những lý thuyết hình thức của Ðạo hiện đương còn ở
thời kỳ phôi thai và do Cơ bút mà có, thì chẳng thế chi nghị luận cho được xác
đáng.
Người tín ngưỡng do sự thần bí mà tín ngưỡng đã
đành; chí như những kẻ công kích mà cũng đem sự thần bí ra đặng công kích thì
thật là lạ.
Song dầu chi đi nữa, tôi cũng nhớ rằng cái
"biết" của loài người ngày nay chưa có thể chi giải quyết được những
chỗ khuyết nghi ấy và ở trong khoản vài chục trương giấy viết ra cho kịp ngày
điếu tang, thì tôi đâu dám đem một vấn đề trọng đại như vấn đề Tôn giáo mà nghị
luận.
Tuy nhiên, trước khi ngừng bút, tôi còn muốn đứng
về phương diện xã hội mà Ông Lê Văn Trung sanh tiền, thường gọi là Nhơn Ðạo, mà
kết luận:
Sự hành động của Ðạo Cao Ðài, từ khi sáng lập đến
nay, không phải là mỗi mỗi đều được tận thiện tận mỹ. Ở trong đời có chi là tận
thiện tận mỹ? - Song nếu xét ra cho thật công bình, thì Ðạo Cao Ðài chưa hề làm
điều chi có hại đến nhân quần xã hội. Trái lại, Ðạo Cao Ðài đã nhờ truyền bá
giỏi, tổ chức hay mà gây nên tình thân ái, đoàn thể trong một triệu mấy dân Nam
Kỳ là một việc đáng làm cho ai cũng nên kính phục.
Ðó là tôi chưa nói đến cái đức tin rất mạnh mẽ của
Tín đồ. Tôi chưa nói, là vì trước khi tôi muốn nhắc cho các Thiên Phong Chức
Sắc trong Ðạo có trách nhậm kế chí của Ông Giáo Tông, đều nhớ rằng: Ðức tin là
một con dao hai lưỡi. Nếu dùng nó phải, thì chẳng chi lợi bằng, nếu dùng nó
quấy, thì chẳng hại nào hơn.
Và chỗ đó là tội là công của Ông Lê Văn Trung vậy.
Viết tại Saigon ngày 28
Novembre 1934.
DIỆP
VĂN KỲ
(1) Ghi chú:
Theo trong Giấy Căn Cước của ông thời 1876, theo trong
Bằng cấp Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại là 1875. Ông tuổi Tý, thì có lẽ là 1875 đúng hơn.
CẨN
ÐỀ:
ÐỨC
QUYỀN GIÁO TÔNG TRÊN DÒNG ÐẠO SỬ
Nét son di lại mãi ngàn sau,
Công nghiệp Giáo Tông sử chép
làu.
Liêm chính gương trong lồng Thượng Viện,
Khoan
hồng lượng cả tạc Ðài Cao.
Trường
đời xa lánh lòng thư thái,
Bến
giác quay về gót nhẹ phao.
Thọ
mệnh ... lo tròn vai lãnh Ðạo,
Xây nền phổ độ lắm gian lao.
14 tháng 7 Quí Sửu (12
Aout 1973)
HUỆ NGÀN
VĂN TẾ
Tiểu Tường Ðức Quyền Giáo Tông
Ðọc ngày 16 tháng 10 năm Ất Hợi
Ðoái Nam đảnh mây giăng,
Lượn Long giang sóng bủa.
Hồn Linh điện đeo sầu trang chí sỹ,
Tòa Cao Ðài chứa lụy mặt hùng anh.
Nước Việt Thường ghi tạc
dấu tài lành,
Nòi
Hồng Lạc roi truyền gương tiết nghĩa.
Phương
độ thế dầu lỡ làng chưa mãn địa,
Phép
hóa dân cũng mai mỉa đủ kinh thiên.
Ba
mươi lăm năm lẫn lộn cửa quyền,
Hay
quan tiền vũ hậu,
Ðể
tài tình ích nước lợi dân.
Trọn
một đời người vinh diệu đai cân,
Thường
suy cổ nghiệm kim,
Ðủ trí thức an bang tế thế.
Sanh gặp lúc ruộng dâu hóa bể,
Phong di tục diệt,
Nhìn nước non tha thiết tấm
trung thành.
Ở
phải hồi dĩ Lữ diệt Dinh,
Hiền
vong ác thạnh,
Tìm
công môn xa lánh cửa công khanh.
Nhưng
mà: Toan cỡi lao ẩn dật chốn non xanh,
Thương
chủng tộc lao đao vòng tử xích.
Chuông
cảnh tỉnh nán khua đêm tịch mịch,
Trống
chiền già gượng khít bóng trời mơi.
Trúc
bầu linh đổ Cam Lồ rưới nơi nơi,
Ðưa
gậy sắt dẹp sầu than cùng chốn chốn.
Qui
tâm lý đem nhơn sanh về một bổn,
Lấy
thiên lương làm thiên hạ hiệp trăm nhà.
Cầm
cờ tang cầu Vạn quốc dẹp can qua,
Ðưa
gươm huệ khuyên giống nòi thôi loạn lạc.
Mang
Thiên mạng Chí Tôn phú thác,
Ðộ
quần linh giải thoát trầm luân.
Bố
hồng oai Hội Thánh gội nhuần,
Dắt
nhơn loại lánh thân ác Ðạo.
Thuyền
Bát Nhã chở đầy khổ não,
Liền
trở lui Bồng Ðảo bến xưa.
Cửa
Thiền Lâm êm tịnh mây mưa,
Vội
rào chặt Tây Phương nẻo cũ.
Anh Cả ơi!
Nầy
sự nghiệp nhà Nam đầy nghĩa vụ,
Anh
lòng nào bỏ phú cho đám em khờ.
Kìa giang san đất Việt những cơ đồ,
Anh bao nỡ nấy giao cho đàn trẻ dại.
Nhìn dấu bước in chơn nơi hồ hải,
Giục
nhớ người nặng quảy gánh đồ thơ.
Nghe
chày kình khua tiếng chốn đền thờ,
Giục
nhớ khách dõi khai đường tận độ.
Ngôi
còn đó, vị còn đó, Ðạo còn đó, Ðời còn đó,
Anh
bao đành tìm ngỏ non Tiên.
Nhà
ở đây, vợ ở đây, con ở đây, bạn ở đây,
Anh
nỡ vui miền Cực Lạc.
Hay
là giận nhơn tình tráo chác,
Bến
Ngân Hà tắm mát tâm hồn.
Hay
là hờn thế sự dại khôn,
Vào
Bát Quái bảo tồn trí giác.
Vài
từng rượu lạt,
Ít
chén cơm chay.
Hỡi ơi! Thương thay!
Linh thiêng chứng chiếu!
Ðức
Hộ Pháp đọc tại Ðại Ðồng Xã.
NỮ
PHÁI
Kính cùng Hiền Huynh, Hiền Tỷ,
Hiền Ðệ, Hiền Muội và Chư Quí vị,
Ngày 13 tháng mười nầy, chính là ngày Tiểu Tường
cho Ðức Trưởng Huynh chúng ta, vì nhớ công ơn Trưởng Huynh nên hội hiệp nơi đây
làm lễ kỷ niệm. Vậy xin Chư vị cho phép tôi thay mặt Nữ phái đọc đôi lời, hầu
tỏ tấm lòng ai thống của chị em tôi bấy lâu nay, xin Chư vị miễn chấp.
Nay em Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh hiệp đồng
Nữ phái đẵng.
Phục vọng thiêng linh Quyền Giáo Tông Thượng Trung
Nhựt liên tọa tiền.
Trưởng Huynh ôi! Bóng quang âm thấm thoát một năm
trời xa cách cõi trần gian, niềm đồng đạo nhớ thương, ba tấc đất nhìn xem rơi
lụy ngọc, từ Huynh Trưởng về nơi cựu vị, mảnh linh hồn an hưởng đặng tiêu diêu,
chúng em nay còn nặng nợ trần, hình xác thịt biết bao là đè nén, lòng chan chứa
một bầu thống tức, luống trêu cay nuốt đắng cho qua ngày, vừa hôm nay gặp lễ
Tiểu Tường, thấy khói tỏa mây bay mà chạnh nhớ!
Nhớ Huynh Trưởng khi cầm quyền khai Ðạo, chữ công
bình, chữ bác ái, tánh tự nhiên giữ một mực hiền lành, thương chúng em như ruột
thịt thân sanh, một tiếng nói, một việc làm, cưng phận trẻ không điều chi xích
mích, sự hành đạo lấy công tâm làm trước, không hề ích kỷ tư gia, đường lập thân
dùng khiêm tốn làm đầu, chẳng chút cậy quyền ỷ thế! Bề sắp đặt các ban Hành
chánh, Ðầu Tỉnh, Ðầu Họ, Ðầu Quận Ðạo muốn thuyên bổ sao cho thuận tiện dễ
dàng, lo dắt dìu Nữ phái Ðạo đồ, dạy ăn, dạy nói, dạy học hành, mà phận sự
chẳng lạm quyền xăm chức. Muốn bàn tính sự chi trong Ðạo, Nam bằng lòng, Nữ
thuận nguyện, mấy em ưng thì anh mới làm sau.
Sóng phong trào dấy động nhiều phen, người kích bác
kẻ biếm bài, anh chịu lỗi cho các em đặng phải. Bởi anh nghĩ Ðạo nghĩa là từ
thiện, thân thấp hèn thì thể Ðạo mới cao. Tu chủ là độ nhơn, người qui mộ thì
đường tu mới chắc. Thà cam chịu mảnh thân đày đọa đặng phổ thông mối Ðạo, ngày
thêm rộng tháng càng cao. Chẳng ỷ mình đại vị tước quyền mà áp chế nhơn sanh
cho kẻ ngã lòng người thối chí, già lụm cụm năm mươi chín tuổi, quên ăn, quên
ngủ lo phổ độ nhơn sanh, thân nhọc tám chín năm trường, chịu thiệt, chịu thòi
đặng mở mang Ðại Ðạo, công đức ấy kể sao cho xiết, nói bao nhiêu thêm xót dạ
bấy nhiêu. Ðạo Trường nay buồn lắm nỗi buồn, nghĩ mỗi đoạn thêm đau lòng từ
đoạn.
Em rất tiếc! Thầy dời anh quá vội, cây trụ lương
bỗng gãy thình lình, khiến xui nền Ðạo phải lúc đeo sầu, luồng ác cảm thừa cơ
dập dã. Buồn vì Ðạo thêm lo cho Ðạo, Ðạo ngày nay xin Huynh Trưởng xét soi dùm,
than cho anh cũng tiếc vì anh, anh quá vãng biết người nào thay thế đặng. Nay
lễ mọn kính dâng trước án, tay bưng chén rượu lệ hai hàng, dạ trai thành tỏ
chút lời quê, mắt ngó ngọn đèn lòng chín khúc.
Tang phục mãn, lòng thương đâu có mãn, trước linh
sàng phưởng phất như sanh, bóng người xa, dấu tích vẫn không xa, tới cửa Ðạo
bồi hồi niềm cựu.
Chúc câu hiển hích anh linh, bố hóa hồng ân, mặc hộ
nền Tôn giáo an hòa bình tịnh. Nữ và Nam liên lạc vẻ đồng tâm, độ sanh nhơn qui
chánh cải tà, lớn chí nhỏ cao siêu miền giác ngạn.
Kính chúc,
NỮ
CHÁNH PHỐI SƯ
LÂM
HƯƠNG THANH đọc trước Cửu Trùng Thiên
nơi Ðại Ðồng Xã ngày 16
tháng 10 năm Ất Hợi.
LỄ
ÐẠI TƯỜNG
CỦA
ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT
Tưởng từ ngày khai Ðạo đến giờ, chưa có cuộc lễ nào
long trọng bằng, và đối với các lễ lớn ngoài đời, cũng chưa có lễ nào hơn được.
Trên một tháng trước ngày lễ, Chức Việc và Ðạo Hữu
các nơi đã lần lượt về Tòa Thánh đặng công quả về các việc sắp đặt tại Ðại Ðồng
Xã. Ngày mùng 8, số về trước kể về Nam Nữ và đồng nhi có trên một ngàn rưởi,
làm cho quang cảnh tại Tòa Thánh rất nên náo nhiệt và vui vẻ vô cùng.
Ban ngày thì lớp lo xây dựng cho hoàn thành Báo Ân
Từ, lớp phá hai bên rừng Thiên nhiên, lớp khai đường đắp lộ, lớp cưa cây, cất
giàn, đóng cầu, lớp vẽ sơn thủy, lớp may cờ.v..v... Chiều thì mấy vị Giáo Viên,
Thơ Ký và Giáo Nhi dắt đồng nhi Nam Nữ ra dượt lễ mừng Ðạo. Tối thì nào là tập
Lễ Sĩ, nào là tập học sanh trường Ðạo Ðức diễn tuồng Thánh Tâm Ái, nào là
Thuyết Ðạo.v.v... Trọn ngày từ sớm mơi tới khuya đi đến đâu cũng thấy Ðạo Hữu
lo làm việc rất hăng hái.
Càng đến gần ngày lễ thì Ðạo Hữu lại về càng đông,
cái quang cảnh càng rộn rịp, nhưng vẫn được ở luôn luôn trong một bầu thanh khí
nồng nàn mùi hòa ái. Quả thật một cảnh Bồng Lai ở một góc trời Nam ta vậy.
Ðạo Hữu các nơi về đều hân hoan là vì thấy trong
một thời gian rất ngắn và giữa lúc nền kinh tế trong xứ bị khó khăn mà Hội
Thánh rán tạo lập được nhiều nơi đẹp đẽ.
Tới Tòa Thánh đã thấy được một cái cửa vô đồ sộ, kế
ở bên trong hai nhà kỷ niệm Nam Nữ rất ngộ nghĩnh. Từ cửa vô tới Ðại Ðồng Xã,
tới Giáo Tông Ðường, Hộ Pháp Ðường, Báo Ân Từ.v.v... thì cờ Ðạo phất phới xem
rất vui mắt.
Công cuộc sắp đặt tại Ðại Ðồng Xã có trật tự và oai
nghiêm lắm.
Ngang qua cái hầm Bát Quái trước Tòa Thánh có bắt
một cái cầu rộng lớn mà Ðạo Hữu đều gọi là Ngân Hà Kiều. Qua cầu rồi tới một
cái cửa Tam Quan bề cao trên bảy thước, bề dài 12 thước, trên hết có vẽ thật
lớn mấy chữ "Ðại Ðồng Xã và Place de
la Fraternité universelle". Trên đầu cửa giữa có để năm "1925 - 1936", hai bên là hai
câu liễn Giáo Tông như vầy:
"Giáo
hóa nhơn sanh nhựt nhựt trung tâm qui thiện quả".
"Tông
khai tăng chúng thì thì trọng Ðạo hiệp chơn truyền".
Hai cửa vô hai bên là cửa "Nữ Phái" và "Nam
Phái" trên có vẽ nhành nho có lá và trái để thể Tinh, Khí, Thần hiệp
nhứt.
Hai bên cửa giữa có treo những hình của Ðức Quyền
Giáo Tông một bên về phần đời, một bên về phần Ðạo của Ngài. Hai bên cửa Nam Nữ
thì treo hình lễ an táng của Ngài. Cả lịch sử vẻ vang của Ngài đều bày giải rõ
tại đó cho mỗi người đều được biết.
Vào khỏi cửa Ðại Ðồng Xã rồi thì thấy chính giữa
sân một cây cờ Ðạo rất lớn, cờ màu trắng có ba vòng xanh, vàng, đỏ kết tréo
ngang thể Tam Giáo qui nhứt.
Ở mút đầu sân Ðại Ðồng là đài Cửu Trùng Thiên bề cao 9 thước, bề dài 20
thước, chính giữa có một chữ VẠN màu vàng thật lớn, trên hết là bức chơn dung
của Ðức Quyền Giáo Tông vuông vức
mỗi bề tám thước.
Hai bên Cửu Trùng Thiên từ hai góc bức chơn dung,
hơn 16 thước bề cao, có giăng qua hai bên rừng Thiên Nhiên hai hàng cờ Pháp
Quốc và Vạn Quốc.
Dài theo hai bên rừng Thiên Nhiên là giàn để cho
Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu ngồi đặng xem lễ, chung quanh sân Ðại Ðồng Xã có
cắm cờ Ðạo và thắt tuội, treo bông, đốt đèn điện, xem rất ngoạn mục.
Chung quanh Ðại Ðồng Xã có quán nhỏ bán đủ thứ món
ăn chay và giải lao, còn dài theo lộ mới, chạy từ sân Ðại Ðồng Xã ra Xóm Mới
thì có trên 50 cái quán cơm chay đông nức người ra vô hằng ngày.
NGÀY
12 THÁNG MƯỜI
Ngày 12 là ngày định cho các Họ Ðạo, và Tỉnh Ðạo
phải tựu tại Bến Kéo trước khi vô Tòa Thánh.
Ðúng ngày ấy, có trên năm trăm chiếc ghe do tàu kéo
về, Ðạo Hữu xuống bến trùng trùng điệp điệp, tiếng kêu chào, tiếng reo mừng inh
ỏi. Ngoài đời có thừa dịp cất quán bán cơm chay tại đó, có bán đủ thứ món giải
lao, coi như ở một nơi thị tứ lắm vậy.
Số Ðạo Hữu về đường sông tại Bến Kéo đặng bốn mươi lăm
ngàn người.
Trong lúc đi đường tỉnh tới Tây Ninh vui lắm, có
tàu bay đáp xuống sông xem, có hành lễ dưới ghe, có múa lân mỗi ngày, hai bên
sông thiên hạ chạy ra xem không biết bao nhiêu.
Có người đồn rằng: Ðạo kỳ nầy về Tây Ninh sẽ bị bắt
vì... vì lẽ gì họ cũng không biết, nhưng cũng tại vậy mà có nhiều người không
dám về Tòa Thánh, sau nghe nói lại cuộc lễ được kết quả rất mỹ mãn họ tiếc vô
cùng.
Từ Bến Kéo vô Tòa Thánh có trên 8 cây số mà Ðạo Hữu
đi nườm nượp luôn luôn, đi từng tốp có, đi đoàn dài có, coi trắng giả trên
đường.
Một chập lại nghe kèn thổi, trống đánh, lân múa
thiên hạ rủ ra xem, ấy là một Tỉnh Ðạo nào đó đang điệu cộ nhập Tòa Thánh.
Ðó là nói về đường sông, còn về đường bộ thì chuyến
xe đò nào cũng chật nức đạo hữu. Trong mấy bữa lễ, xe đò chạy luôn từ Saigon
lên Tây Ninh không dứt, tới khuya mà cũng còn chuyến về. Họ nhờ Ðạo mới có bộ
hành nhiều như vậy mà lại thừa dịp lên giá quá lẽ. Ngày thường từ Saigon lên
Tây Ninh có năm cắc, mấy bữa đó họ lên tới một đồng, còn tiền chở đồ nặng phải
tính riêng là khác nữa.
NGÀY
13 THÁNG MƯỜI
Ngày 13, số Ðạo Hữu về Tòa Thánh có trên sáu chục
ngàn người.
Với số ấy tức nhiên Tòa Thánh không đủ nhà để cho
Ðạo Hữu nghỉ ngơi và lương thực cũng phải thiếu kém. Hội Thánh cũng không dè kỳ
nầy Ðạo Hữu về đông đảo như vậy. Sánh với kỳ lễ táng và mấy kỳ lễ lớn trước thì
thường thường về chừng bảy, tám ngàn tới một muôn là cùng, cho nên có phỏng
định chừng hai chục ngàn, dè đâu lại về đến gắp ba số phỏng định, thì thế nào
cũng phải có nhiều sơ thất, buộc một phần Ðạo Hữu phải lót đệm, lót chiếu, nghỉ
đở ở hai bên rừng Thiên Nhiên và bề ăn uống cũng phải bị thất thường, song le
toàn Ðạo đều biết rõ tình cảnh ấy và đều vui lòng chịu vậy, không có một ai để
lời chi thán oán cả. Trái lại mỗi người đều tươi cười hớn hở vì thấy nền Ðạo
được thạnh hành, đức tin được vững chặt, quyền hành Hội Thánh được mạnh mẽ,
tình yêu thương nhau đặng khắn khít nhiều lắm.
KHỞI
HÀNH CUỘC LỄ
Sớm mơi ngày 13, đúng 5 giờ rưởi sáng, nghe đổ ba
hồi chuông, cả Chức Sắc đều tề tựu tại Giáo Tông Ðường đặng hành lễ di linh vị
của Ðức Quyền Giáo Tông lên Cửu Trùng Thiên.
Di linh vị có Long Mã và Lân của Tỉnh Ðạo Long Hồ
và Rồng, cộ của Tỉnh Ðạo Chợ lớn đưa đi .
Qua chiều đúng 4 giờ hết thảy các cộ đều sắp dài
theo đại lộ Thượng Trung Nhựt, trước sau như vầy:
Hội Thánh Ngoại Giáo (Mission Étrangère)
1 - Phong cảnh Ðế Thiên.
2 - Bát Tiên.
3 - Vạn Quốc.
Tỉnh Ðạo Biên Hòa (Biên Hòa - Thủ Dầu Một - Bà Rịa)
1 - Ngoại Quốc.
2 - Phong Thần Ðài.
3 - Tứ Linh.
Tỉnh Ðạo Gia Ðịnh (Gia Ðịnh - Tân An - Chợ lớn)
1 - Ông Ðịa.
2 - Bàn hương án Ðức Quyền
Giáo Tông.
3 - Cộ Tam Thanh.
4 - Tam Tạng thỉnh
kinh.
5 - Thích Ca kỵ mã
thoát trần.
6 - Thanh Long.
7 - Bạch Tượng.
Tỉnh
Ðạo Long Hồ (Cần Thơ -Vĩnh Long - Trà
Vinh - Sóc Trăng)
1 - Bát Tiên kỵ thú.
2 - Hòn non bộ có hình Ðức Quyền Giáo Tông.
3 - Long Mã, Lân.
4 - Pháo bông.
Tỉnh Ðạo An Giang (Hà Tiên - Châu Ðốc - Long Xuyên - Rạch Giá - Bạc
Liêu)
1 - Pháo bông.
2 - Bàn hương án Ðức Quyền
Giáo Tông trên lưng voi.
3 - Hòn non bộ có hình Ðức Quyền Giáo Tông.
4 - Cộ Jeanne d'Arc.
Tỉnh
Ðạo Ðịnh Tường (Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre)
1 - Hòn non bộ.
2 - Bản Ðạo.
Phước
Thiện
1 - Long Mã.
2 - Cốt Ðức Lý Ngưng Vương.
Ðúng 6 giờ chiều, nghe đổ ba hồi chuông, hết thảy
Ðạo Hữu nam nữ đều vào Ðại Ðồng Xã đặng chờ Chức Sắc Thiên Phong đến.
Tại Giáo Tông Ðường có thiết tiệc đãi các khách
quan Tây, Nam ở tại Sàigòn lên.
Bữa tiệc có trên 60 người, có nhiều phóng viên các
báo dự.
Tiệc vừa xong thì quan Chủ tỉnh Vilmont cũng vừa
đến, đoạn cùng nhau ra Ðại Ðồng Xã xem lễ.
Ðổ một hồi chuông, cả Chức Sắc Thiên Phong vào, lễ
nhạc rước rất long trọng.
Ai nấy đều an vị xong xuôi rồi thì cộ mới bắt đầu
vô.
Trên Cửu Trùng Thiên, một cây pháo bông đốt lên đỏ
ửng trời, kế thấy tấm màn che chơn dung của Ðức Quyền Giáo Tông giũ xuống lộ ra
khuôn mặt trọn lành của Ngài. Liền đó, các ngọn đèn "pin" đều chói ngời lên Cửu Trùng Thiên, chiếu rõ chữ Vạn
và bức chơn dung.
Tại cửa Tam Quan, pháo phát nổ lên rồi một cây pháo
bông rất lớn phực ra mấy chữ:
"ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ"
"LỄ
ÐẠI TƯỜNG CỦA ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG"
Pháo nổ vừa dứt, Ðức Thái Ðầu Sư Thái Thơ Thanh lên
ống truyền thinh đọc bài diễn văn khai mạc sau nầy:
"Thưa
cùng Chư quí Quan khách,
Quí
Ông, quí Bà,
Tôi
xin thay mặt cho Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ để lời cám ơn quan lớn Chủ
tỉnh Tây Ninh và bà Vilmont, chư quí khách quan, quí ông và quí bà đã sẵn lòng
đến dự cuộc lễ Ðại Tường của Anh Cả chúng tôi là Ðức Quyền Giáo Tông Thượng
Trung Nhựt.
Chúng
tôi vẫn cố tâm lo cho cuộc tiếp rước quí ông và quí bà được trang hoàng, nhưng
chắc thế nào cũng có điều sơ thất nên xin quí ông, quí bà vui lòng lượng thứ.
Thưa
cùng Ðức Hộ Pháp, Chư Chức Sắc Thiên Phong nam nữ, chư Chức Việc và Ðạo Hữu
lưỡng phái,
Tôi
xin khai mạc cuộc lễ Ðại Tường nầy và xin thay mặt cho Hội Thánh để lời chào
mầng tất cả Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu đã không nại đường sá xa xuôi, vầy
đoàn về Tòa Thánh đông nức như vầy đặng tiên hiến Anh Cả chúng ta một cuộc đại
lễ rất long trọng. Từ Nam chí Bắc, từ Ðông chí Tây, nơi nào cũng có người thay
mặt về Tòa Thánh tỏ dấu rằng chúng ta đều biết trọng ơn của một bậc vĩ nhân đã
đem hết tài trí đỡ nâng mối Ðạo Trời. Ngày nay tuy đã đăng Tiên, nhưng cũng còn
dùng cái sự chết của Người để đem nền Ðại Ðạo của Chí Tôn lên một bực cao trọng
vô cùng.
Thì
mới hai năm nay, chúng ta còn nghe tiếng nói của Anh Cả chúng ta, còn thấy
Người vùi thân với Ðạo, chẳng quản tuổi cao sức yếu, dầu cực khổ đến bực nào,
cũng không thối chí, không nao lòng.
Kiếp
sanh của Ngài là một mảnh gương thanh bạch để chứng rằng Ðạo của Chí Tôn là
chơn thật là chánh đáng, hiệp với tâm lý và cao trọng của toàn sanh chúng.
Chính vì cái chơn thật và chánh đáng đó mà quan Toàn Quyền Robin mới ký mạng
lịnh cho Ðạo được tự do tín ngưỡng và quan Chưởng Lý Dupré mới bãi các cuộc bó
buộc Ðạo Hữu các nơi, Hội Thánh chẳng hề quên ơn trọng của hai người, và luôn
đây tôi cũng xin có lời cảm tạ quan Thống Ðốc Pagès đã sẵn lòng giúp cho Ðạo
đặng tự do truyền bá.
Kể
từ đêm nay, cuộc lễ sẽ cử hành luôn qua ngày mai và ngày mốt, vậy tôi xin mời
chư quí khách quan, quí ông và quí bà thừa lúc nhàn rỗi đến chung cùng với anh
em chúng tôi, chúng tôi rất thâm cảm thạnh tình".
Dứt bài khai mạc rồi, cộ khởi đi ba vòng trong Ðại
Ðồng Xã. Còn chính giữa sân thì Long Mã, Lân, Rồng, Voi, Nai, Phụng.v.v... múa.
Pháo bông lại đốt tiếp luôn nhiều kiểu rất khéo. Thiên hạ đi xem và Ðạo Hữu đều
vỗ tay khen ngợi như pháo nổ.
Ống truyền thinh tuyên bố những cộ được chấm
thưởng:
- Hạng nhứt: An Giang và Long Hồ.
- Hạng nhì: Biên Hòa và Phước Thiện.
-
Hạng ba: Hết thảy các cộ còn lại.
Ðạo Hữu Nguyễn Văn Boi ở làng Bình Ðức, Tỉnh Long
Xuyên được phần thưởng đặc biệt về pháo bông.
Chấm thưởng rồi, cộ kéo ra khỏi Ðại Ðồng Xã đặng
khởi sự hành lễ xả tang.
Nhạc trổi trong ống
truyền thinh. Ðạo Hữu đứng sắp hàng có trật tự, lễ xướng, Ðức Thái Ðầu
Sư
chứng lễ với ba Chánh Phối Sư và chư vị Giáo Sư.
Mười sáu cặp Lễ Sĩ đi lễ có thứ tự xem rất đẹp.
Dưới
đây là bài văn tế của Ðức Thái Ðầu Sư đọc trong lúc hành lễ xả tang:
Trước
Ðại Ðồng Xã đây:
Giữa
nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tôi xin thố lộ ít lời bi tâm thống khổ, Anh Cả ta là
Ðức Quyền Giáo Tông.
Ôi!
Kể từ ngày Ðại Hiền Huynh vâng lịnh Chí Linh ra mở Tam Kỳ Phổ Ðộ đầu năm Bính
Dần trên nhờ Ðại Từ Phụ ban bố hồng ân, sắc lịnh cho Nhị vị Hiệp Thiên Ðài là
Ðức CAO THƯỢNG PHẨM và PHẠM HỘ PHÁP, nắm Cơ bút mà dắt đường chỉ nẻo, Ðức Ðại
Từ Phụ lại cho rằng Ðại Hiền Huynh với ngu Tệ Ðệ là hai ngọn đèn Thiêng liêng
để soi sáng cho chúng sanh thấy đường mà đi, vì vậy mà anh em chúng ta tậm tâm
quyết chí, kẻ bỏ chức quan tột bực, người đành hủy hết sự sản thế gian.
Ngày
lo đêm tính theo phận Hiền Huynh đã thổ tận tinh thần đến ngày hôm nay mới đặng
về gần Ðại Từ Phụ.
Than
ôi! Lúc hành Ðạo tại thế, kể từ ngày nương thuyền Bát Nhã, bốn anh em ta là Ðức
Cao Thượng Phẩm, Ðức Phạm Hộ Pháp, với Ðại Hiền Huynh cùng ngu Tệ Ðệ, ngày đêm
chẳng kể trú dạ bất lưu đình, linh đinh ngoài sương gió đặng đem hột Thánh Cốc
gieo truyền khắp miền Nam Việt lao khổ không từ, gian nan chẳng kể, rồi về đến
Gò Kén khai Ðàn lập Ðạo, thì Hiền Huynh lo tần chạy tảo trên thì đối đãi với
tân trào Chánh phủ, dưới lại cao rao phổ thông nền Ðại Ðạo, chác tiền chạy gạo
mà cơ khảo đảo lại dập dồn, chịu dày bừa tiếng tăm đồn đãi, rồi lại bị bắt
giam, nhịn đói nhịn khát chừng khỏi nơi ràng rạt kế đến ngày cỡi hạc đăng Tiên.
Nhớ
thương thay!!!
Ðại
Hiền Huynh thừa mạng lịnh mà lãnh chức Giáo Tông quyền, ngày ngồi không yên,
đêm nằm không ngủ, vì bị phe nghịch kẻ mới người cũ, quanh mình lũ khũ, theo
Hiền Huynh là vị Giáo Chủ, đạp thoi đấm cú cho rủ xác tục mới ra hình Tiên
Phật, ấy là luật tạo vật đương nhiên, đến nay Ðức Quyền Giáo Tông, cùng Ðức Cao
Thượng Phẩm đã được đăng Tiên ở cảnh Thiêng liêng, nên cầu xin Ðại Hiền Huynh
đoái thương chúng em dại, còn tại nơi trần thế nầy bị khảo đảo nhiều bề, mơi lo
chiều tính, chưa hề rời rảnh. Nên chúc nguyện anh linh của Ðại Hiền Huynh tưởng
tình bố hóa, cho các em đặng ổn thỏa tâm thần hỉ hạ đặng nối gót với Hiền
Huynh.
Nhớ
Linh xưa!
Dung
mạo đoan nghiêm, nết na tề chỉnh, vẹn gìn hiếu Ðạo, lúc vào cửa công đặng phong
Hội Ðồng Thượng Nghị, trãi hết gan óc trí não mà giúp Ðời lắm lời kêu ca cùng
Chánh phủ đặng bên vực cho sanh chúng nhà Nam, đã làm đặng nhiều gương bổ ích
cho nhơn quần xã hội, rồi kế đến hồi Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðại Hiền Huynh thượng lộ,
cổ động Lôi Âm, kích chung Bạch Ngọc, mà vun đắp nền Ðại Ðạo, chịu dày bừa cơn
khảo đảo, mới lập thành nền Tôn giáo.
Ðến
nay cờ Ðại Ðạo đã phất phơ, phướn Tam Kỳ đã vẩn vơ cùng Vạn Quốc, mà Hiền Huynh
lại khuất mặt chẳng có hiện tiền, đặng vui mừng cuộc vui mỹ mãn với mấy em cho
tạng.
Khá
thương thay!
Nhựt
lạc tây trầm,
Cổ
kim hãn hữu.
Ðường
ngàn dặm xa xa, chí sức già còn hăng hái, kia rừng từ bi, nọ bể Nam Hải. Thiệt
uất ức thay! Ði chưa đến nơi, trách phần số cướp người về Thiên cổ.
Ðạo
muôn năm, vặc vặc dấu xa thơ, quyết chẳng dùng dằng, nào lối bình dương, nào
đường tự tại, ngao ngán bấy, phăng vừa ra mối, giục lòng ta thương Ðạo lại
thương Thầy.
Rất
cảm thay!
Kiếp
vô thường ai dễ sống đời đời,
Người
bất hủ ta nên ghi mãi mãi.
Làm
thành hồn Ðạo ấy tình sâu,
Kỷ
niệm anh linh là lẽ phải.
Thống
thiết bấy kiết thành câu đối:
"Mộ
Ðạo nhứt tâm kiên, mà bất lẫn, niết bất truy, thiên giả sanh di, sanh bất
quí".
"Tích
Ðức vạn cổ trọng, sử do truyền, kinh do lục, nhơn thùy vô tử, tử do vinh".
Diễn
nôm:
"Yêu
Ðạo bền một lòng, mài không mòn, nhuộm không đen, trời sanh ra, sanh không tủi
hổ, hổ mà an".
"Mến
đức để muôn đời, sử còn trọng, sách còn truyền, lời không lục, ai người không
chết, chết còn vinh".
Ô
hô!
Ðịa
cửu thiên trường, du hữu tận đầu chi nhựt,
Sanh
ly tử biệt, vĩnh vô tức hận chi kỳ.
Hỡi
ơi!
Khá
thương thay!
Khá
tiếc thay!
BÀI
DIỄN VĂN CỦA BÀ NỮ CHÁNH PHỐI SƯ
Chủ
Trưởng Chức Sắc Nữ Phái, đọc trong cuộc Lễ Ðại Tường của Ðức Quyền Giáo Tông
Cung Bạch Ðức Hộ Pháp,
Cùng Nam Nữ lưỡng phái Chức Sắc Thiên Phong,
Chư Quí vị,
Hôm nay đến ngày Ðại Tường Tiên Linh Trưởng Huynh Quyền
Giáo Tông, anh em, chị em ta hội hiệp nơi đây, thạnh trần đại lễ rất nên long
trọng, ấy cho rõ ràng, niềm đồng Ðạo tương ái tương thân, thỉ chung như nhứt
bia tạc theo câu chữ: "Thận chung
truy viễn", để làm gương trong Ðạo Hữu Tín Ðồ.
Ðối với cuộc lễ nầy, tôi rất có lòng ngậm ngùi cảm
khái, vì mối cảm khái đau đớn trong lòng tôi, bức rứt trong dạ tôi, nên thường
tư tưởng vẩn vơ, sực nhớ công ơn Trưởng Huynh lúc sanh tiền, xiết bao là thê
thảm!
Hồi tưởng lại, nền Ðại Ðạo ban sơ khởi phát, đương
lúc cuộc đời sôi nổi, thế Ðạo chưa mở mang, một bầu võ trụ minh mông, nào ai
biết ảnh Thiên Nhãn của Thầy thế nào là sáng láng?
May thay! Có Trưởng Huynh xuất thế, hiểu biết Thiên
Ðình mở cửa, đã tới kỳ Giáo Ðạo Nam Phương, tuy vơi vơi trong biển trầm luân, vô
hình vô ảnh, vô sắc vô thinh, mà Thầy đã chớm mở mối Ðạo huyền vi, độ rỗi nhơn
sanh lên miền Tịnh Cảnh. Nhưng vì chưa có người thể Thiên hành Hóa, nên gương
Ðại Ðạo chưa soi khắp cõi bờ, Trưởng Huynh bèn phát nguyện tu hành, phế hết
cuộc đời bước qua đường Ðạo, vưng lịnh trên Cơ bút, lòng lo vì Ðạo vì nhơn
sanh, sẵn trong tay một ngọn phướn vô hình, đi truyền bá phổ thông, tỉnh giấc
hồn say cho đoàn em thơ dại. Ấy lòng anh chánh, lấy chữ từ bi làm căn cội, mà
sẵn lòng bác ái trong đạo đồ, không một chút chi tự đắc tự đa, mà cũng không
một mảy chi tranh quyền tranh tước; nhưng hiềm nỗi, cảnh ngộ của Trưởng Huynh
lại gặp nhiều phen phong trào rắc rối ác cảm lạ lùng. Ôi! Người bài biếm thế
nầy, kẻ kích bác bề kia, muốn đưa Trưởng Huynh cho tới nơi ác đạo. Vậy mà rất
cảm thay, Trưởng Huynh một lòng nhẫn nại giữ chữ làm thinh, luống trêu cay nuốt
đắng cho qua ngày, chớ chẳng hề nói lại nói đi, sợ e buồn lòng em trẻ; ấy chánh
bởi Trưởng Huynh đúng đắn một người đạo đức rộng, học thức cao, đủ tư cách cầm
quyền Giáo Chủ, mãng những lo làm sao cho Ðạo Thầy đặng hoằng khai phát đạt,
nhơn sanh đặng siêu độ mở mang, thì dầu cho lao thân tổn trí thế nào hay là
mang lời chịu tiếng thế nào, vẫn cũng vui lòng an dạ.
Cho nên Trưởng Huynh, bên đường đời Hội Ðồng Thượng
Nghị Viện một cuộc hiển vinh, mà đành coi cái tước quyền kia nhẹ như mảy lông,
không hề đoái hoài. Ấy tấm lòng của Trưởng Huynh tu trai hành Ðạo, minh bạch
giữa nhơn sanh, nhưng vì trong em trẻ vẫn đông người, nên có người hiểu đặng ý
Trưởng Huynh, mà cũng có người lục trần chưa tịnh, tam chướng chưa trừ, có ra
lời chi quá đáng với Trưởng Huynh, thì Trưởng Huynh cũng sẵn lòng hỉ xả. "Nhẫn nhứt thời chi nộ, miễn bá nhựt
chi ưu", đặng an dưỡng tánh tình đắp bồi Tôn Giáo, trước khỏi phụ lòng
Thầy phú thác, sau nữa dìu dắt nhơn sanh, đem hết cả phần xác và phần hồn, gánh
gồng trách nhậm, quyền tri Nam Phái mà cũng sẵn lòng giùm giúp nữ lưu, trải mấy
năm sắp đặt điều qui, lại dạy học dạy hành, chỉ rõ chữ thiện chữ ác, chữ chánh
chữ tà, cho đạo đồ thông hiểu.
Bởi Trưởng Huynh hiểu biết người sanh trong hoàn vũ
bấy lâu nay chỉ lo xu hướng cuộc danh lợi, còn về phần đạo đức thiêng liêng, ít
có người hiểu thấu, nếu nay chẳng ra công chỉ bảo, thì làm sao mở đặng tánh
linh, mà tánh giác chưa mở mang, thì làm sao tạo được "Hòa Bình Thế Giới"; huống chi Ðại Ðạo ra đời, chủ nghĩa
dùng nghị lực thiêng liêng dồi mài thế lộc, đặng un đúc vận hội thăng bình,
trên Chánh phủ đã có lòng vì Ðạo mở mang, thì chúng ta phải liệu làm sao cho
khỏi phụ hồng ân của lượng bề trên chiếu cố.
Vậy nên Trưởng Huynh đã có tài tiên tri tiên giác,
thì gắng lòng chỉ dẫn cho các bậc đạo đồ.
Thảm thiết thay! Trường trai khổ hạnh xác ốm thân
gầy, lo Ðạo siêng năng tự ngày chí tối, tuổi đã cao đầu đã bạc, mà mảnh lòng vì
Ðạo cứng vững thiết đinh; ấy hẳn rõ ràng, Thầy tuyển trạch một người xuất chúng
siêu quần, giáng sanh trong cõi hồng trần đặng truyền khai Ðạo Giáo. Người thế
ấy, đức thế ấy, mà đạo tâm lại thế ấy, trong Ðạo trường ta đáng nên tưởng
thưởng xiết bao!
Phải chi Trưởng Huynh còn mạnh khỏe tuổi qui, thì
nền Ðạo hiện giờ chắc còn thêm nhiều bề tiến bộ; nhưng rất thống thiết thay!
Lịnh Thầy sớm rước, cảnh nhà xưa, người cũ vội về, chín từng mây cánh hạc xa
bay, cửa Ðạo bơ vơ vắng vẻ tăm tích, bóng quang âm thấm thoát, ác tà thỏ lặn
giáp đã ba năm, chúng em đây vì lòng thương tiếc anh, trông nhớ anh, nên hội
hiệp ngày nay kính dưng lễ mọn, người tuy xa, tích tuy cũ, mà trông lên liên
tọa mường tượng như có thấy dạng linh quang của Trưởng Huynh phưởng phất giáng
lâm. Vậy em xin kính chúc Tiên linh anh:
Miền
Vân Ðộng thảnh thơi nhẹ bước,
Dấu
Xích Tòng tiếp rước lần theo.
Chơi
trăng cỡi gió dập dìu,
Huân
thiên nhạc tấu tiêu thiều đơn ca.
Anh
vui thú ta bà thế giới,
Chúng em nay diệu vợi trần gian.
Cuộc đời hiệp hiệp tan tan,
Mưa sầu gió thảm nhớ than xiết cùng.
Nhớ Huynh Trưởng sanh tồn tại thế,
Mảnh
phương danh ghi để Ðạo trường.
Dày
công khai ngỏ tìm đường,
Tam
Kỳ Phổ Ðộ cột rường từ nay.
Lằn
sóng Ðạo đổi day trăm ngã,
Vững
như trồng sắt đá không xiêu.
Thương
em bày dạy dắt dìu,
Từ
bi bác ái gương treo rõ ràng.
Cuộc
sum họp còn đang vui vẻ,
Thình
lình đâu vội vẽ bèo mây.
Xuân
qua hạ lại bấy chầy,
Quang
âm nhấp nháng đã đầy ba năm.
Gẫm
tình cảnh đầm đìa lụy nhỏ,
Lễ
Ðại Tường kính tỏ lòng son.
Ôi thôi trong cuộc mất còn,
Nhớ càng thêm tiếc, tiếc càng thêm thương.
Nơi
liên tọa mùi hương bát ngát,
Ruột
chín chiều tan nát tả tơi.
Bồng
Lai cảnh nọ xa khơi,
Linh
hồn hiển hích về nơi Ðạo trường.
Chứng
lễ mọn lòng thương lấy thảo,
Chút
tình si bổ báo ơn xưa.
Linh
hồn về chốn Thiên Thai,
Hãy
xin nhớ lại Cao Ðài nơi đây.
Ơn
mặc hóa giúp hay em trẻ,
Chống
thuyền từ độ thế cứu nhơn.
May
thay bước Ðạo trùng hưng,
Thiên
đăng chiếu rạng bĩ ngàn lần lên.
Muôn
năm đặng vững bền mối Ðạo,
Nhờ
Tiên linh Chưởng Giáo thiêng liêng.
Ðơn
tâm ngưỡng vọng bệ tiền . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . .
Hỡi ôi!
Hiển linh chứng chiếu!
Lễ xả tang xong rồi, Ðạo Hữu Hà Thị Hoa lên ống
truyền thinh tụng Di Lặc Chơn Kinh. Ðổ một hồi chuông, toàn Ðạo đều ra bái và
giải tán hồi 1 giờ khuya.
Tập chí ÐẠI ÐẠO, số 5 ngày
10 Janvier 1937
Báo quán: 156, rue d'Espagne, SAIGON.
BÀI XƯNG TỤNG ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Quyền Giáo Tông đại công khai
Ðạo,
Chí trung thành hòa hảo từ bi.
Ðắc truyền Ðại Ðạo Tam Kỳ,
Bảo an Tòa Thánh đúng kỳ cửu
niên.
Chơn
linh (Ngài?) "Ðại Tiên Thiết Quả",
Ðược
cầm quyền Anh Cả nhơn sanh.
Từ
bi bác ái trọn lành,
Năm
mươi chín tuổi đắc thành qui Tiên.
Công
vĩ đại lưu truyền nhơn loại,
Cả
Nữ Nam lưỡng phái bình quyền.
Nhờ
Ngài mới đặng phục nguyên,
Ngài xin Chính phủ ban quyền tự do.
Trọn chín năm toan lo gầy Ðạo,
Chịu hàm oan khảo đảo thị phi.
Chí Ngài quảng đại từ bi,
Ai khen chẳng muốn, ai khi chẳng hờn.
Chí hòa hưỡn nhiều cơn liên hiệp,
Chẳng
một ai bì kịp chí Ngài.
Việc
làm bặt thiệp quí thay,
Thiệt
người đủ trí đủ tài phân minh.
Tâm
trung chánh công bình trong
sạch,
Chí hiền lương trải sạch bốn phương.
Quan
viên ai cũng kính nhường,
Muôn
ngàn dân chúng đồng thương mến Ngài.
Chư
Ðạo Hữu hằng ngày ghi nhớ,
Nhớ
khi anh nâng đỡ các em.
Lập
nên danh thể Nữ Nam,
Biết
phương hành đạo biết làm công văn.
Biết
hội nghị tài năng luận biện,
Biết
phổ thông khuyến thiện nhơn sanh.
Biết
tu bỏ dữ theo lành,
Biết
ơn Trời Phật Thánh Thần Tiên nương.
Biết
tội lỗi biết đường phước đức,
Biết
làm lành lánh dữ tu thân.
Biết
trung biết nghĩa biết nhân,
Biết
tôi biết chúa biết thần biết quân.
Biết
thâu phục nhơn quần xã hội,
Biết
tổ chung nguồn cội sanh thành.
Biết
thương tất cả nhơn sanh,
Nhờ
Ngài mới biết ngọn ngành Nam bang.
Công
vĩ đại muôn ngàn ân đức,
Ðáng
lạy quì đáng chúc tụng Ngài:
Vạn
bang biết Ðạo Cao Ðài,
Muôn
năm ghi nhớ ơn Ngài Giáo Tông.
Ngài
khai Ðạo lập xong chơn tướng,
Cả
chúng sanh tín ngưỡng tự do.
Lập
Tòa Thánh Tổ Tây Ninh,
Lập
thành Quốc Ðạo giao cho Lạc Hồng.
Cầu
Tiên Phật Thánh Thần dạy bảo,
Cả
chúng sanh hòa hảo khương ninh.
Làm
cho thế giới hòa bình,
Ngài
làm Vạn Quốc biết nhìn Chí Tôn.
Chư
Ðạo Hữu học thông lý Ðạo,
Cả
năm châu hội giáo cộng đồng.
Ngài
qui hiệp cả giống dòng,
Ngài
làm phục nhứt đại đồng năm châu.
Thâu
biển Á trời Âu hiệp nhứt,
Chọn
trung thành học thức tài ba.
Làm
cho xã hội cộng hòa,
Khai
cơ chuyển thế lập Tòa Thánh Tông.
Q. Ðầu Quận Ðạo
HUỲNH THIỆN CHƠN
Phụ ghi: Chữ (Ngài?) trong bản chánh không có, chúng tôi nghĩ có thể do kỷ thuật in
ấn mà thiếu chăng?
Hai
chữ HUỆ CĂN
Ðưa
mắt ngó muôn ngàn tử đệ,
Phật
Thích Ca người khẻ thở dài.
Rằng:
"Trong thế giới muôn loài,
Nếu
chưa giác ngộ, ta ngồi chưa an.
Phải
lìa chốn Niết Bàn giáng thế,
Ðem
thân mình vớt kẻ trầm luân".
Ðó là lời Phật phân trần,
So cùng Người có đôi phần giống nhau.
Xin
ghi chép một câu lịch sử,
Mà
ai kia đã tự kỳ ra:
"Lỗi
sanh từ trẻ tới già,
Ðạo
Ðời hai lẽ, phải hòa hợp nhau.
Do Thiên Ðạo trau giồi Nhơn Ðạo,
Nhơn Ðạo tròn hoài bảo mới nên.
Nghĩa là bổn phận trọn niềm,
Ðạo người trọn vẹn mới nên Ðạo Trời". (1)
Ai đã thốt nên lời như vậy,
Ðã
phân rành: phải, quấy, đục, trong?
Xin thưa: Ông Lê Văn Trung,
Mà ta xưng tụng Giáo Tông Cao Ðài.
Tập thơ ngắn đôi lời vắn tắt,
Tài
thiển sơ dám thuật dông dài.
Nhắc
qua tiểu sử của Ngài,
Những
ai đã biết, những ai chưa tường.
Ðều
thấy rõ việc làm thuở trước,
Của
những người vì nước vì dân.
Vì
đạo đức, vì nghĩa nhân,
Mà cam lao khổ, gian truân một thời.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Quân Ðội Cao Ðài
(1) Nguyên văn: Do Thiên Ðạo mà lo Nhơn Ðạo, lo Nhơn Ðạo cho xong để
tròn phận sự đối với Thiên Ðạo.
ÐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ÐẠO
Tại Tháp của Ðức Quyền Giáo Tông.
Hồi 8 giờ ngày 13 tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947).
Ngày nay là ngày kỷ
niệm Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, ấy là ngày Bần Ðạo quả
quyết rất trọng hệ và quí hóa cho Cửu Trùng Ðài.
Bần Ðạo quả quyết nói
với bằng chứng hiển nhiên là bạn đồng thuyền, Bần Ðạo biết rõ giá trị của Thượng Trung Nhựt là
dường nào.
Tuy vân, ngôi vị Giáo Tông Ðạo Cao Ðài do Ðức Lý
cầm quyền gìn giữ Thánh chất dung hòa nửa Thánh nửa phàm còn tạo ngôi vị tại
thế là Thượng Trung Nhựt đó. Ấy vậy Thượng Trung Nhựt tạo ngôi vị Giáo Tông cho
Ðạo Cao Ðài như ông Thánh Saint Pierre tạo ngôi Thánh Hoàng cho Pha-Pha tại
Rome vậy.
Ôi! Buổi Chí Tôn đến một cách đột ngột tình cờ, đến
trong thế kỷ 20 nầy mà nhơn loại đang sống thảm khổ từ thể chất đến tinh thần,
Ngài xưng tên làm cho cả thảy ngạc nhiên, nhứt là chúng tôi buổi nọ đang đi
trong con đường thế tối tăm ngày ấy người niên kỷ cao hơn hết là Thượng Trung
Nhựt, chúng tôi có hỏi Người: Est ce possible? (Có thể có không?) vì còn đang
mờ hồ, chúng tôi chẳng khác chi ở trong địa huyệt đang tiềm tàng con đường
sáng, chúng tôi còn tăm tối, may thay! Người có duyên tiền định đến dìu dắt
chúng tôi ra khỏi chốn địa huyệt âm u, nhờ hai con mắt sáng của người làm dẫn
đạo.
Khi chúng tôi hỏi: Est ce possible? (Có thể như vậy chăng?). Người trả lời:
C'est bien possible (Có thể có như vậy lắm). Bởi thiên hạ đang khổ thảm nên
Ðấng ấy đến không phải là lạ. Ta thấy trong gia đình đau khổ, mà ông cha chưa phải chết thì sự thương yêu đối với con cái nồng nàn sẽ được ông cha
ấy hiện diện. Người quả quyết rằng: "Ðấng ấy đến buổi nầy thật là Chí Tôn
đó vậy". Nếu không phải Chí Tôn không ai chịu nổi đau thảm kia được.
Vì thành tâm, nguyện vọng của Người cảm xúc tới cõi
Hư Linh làm cho Chí Tôn và cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều động lòng. May
thay! Chí Tôn đến lập nền Quốc Ðạo cho chúng ta tại nước Việt Nam thì không có
gì vinh diệu cho giống nòi chúng ta hơn nữa.
Thảng sau nầy, Tôn Giáo Cao Ðài sẽ làm môi giới
chuẩn thằng cho một nền văn minh tối đại thì tôi quả quyết rằng nền văn minh ấy
sản xuất ra do tâm lý của Thượng Trung Nhựt mà chớ. Ôi! Bao nhiêu công nghiệp,
chúng ta nghĩ lại đều nhớ buổi ban sơ đương lúc tâm lý hoang mang tranh đấu sự
sống còn, nhứt là tâm lý nòi giống Việt Nam đương mưu đồ giải thoát ách nô lệ,
ai còn tin khi ta nói ra những điều mà ai cũng cho là mơ hồ, bởi cả tâm lý còn
hoang mang. Ðến các bạn đồng thuyền, đồng chung tâm lý với Người có đủ trí thức
hiểu biết chí hướng cao thượng của Người mới theo Người, mà trong cảnh hoang
mang còn phản phúc thay, huống chi quốc dân Việt Nam. Ngài đã để đức tin quyết
tạo nên hình thể Quốc Ðạo cho quốc dân Việt Nam, thì chính quốc dân trở lại
nghịch thù, làm cho trọn một kiếp sanh của Người phải đau thảm đổ lụy bao phen
trước khi chết.
Bần Ðạo quả quyết rằng: Trót một đời người, tìm
chưa ra một mặt biết thương nòi giống với một tâm lý nồng nàn như Thượng Trung
Nhựt, Bần Ðạo chưa thấy được hai người như vậy, nếu chẳng vì tình yêu ái vô hạn
thì người chẳng hề hủy thân danh tạo nên hình thể Ðạo để lại cho quốc dân, cái
đại nghiệp tinh thần nầy sâu xa chừng nào quốc dân hưởng lâu chừng nấy, sâu xa
chừng nào lại càng quí hóa thêm nữa càng ngày càng tăng giá trị và thiên hạ sẽ
biết tấm lòng yêu ái của Thượng Trung Nhựt biến ra một quốc hồn kiên cố.
Cả thảy ai là quốc dân Việt Nam đều phải cúi đầu và
vâng theo ý chí cao thượng ấy, không có một lưỡi gươm nào tiêu diệt được nghiệp
của Người để lại cho nòi giống Việt Nam đó vậy.
Bài Thuyết Ðạo nầy có trong quyển Lời Thuyết Ðạo của
Ðức Hộ Pháp, quyển nhứt, 13-10-Ðinh Hợi (dl. 25-11-1947) Tại tháp của Ðức Quyền
Giáo Tông.
ÐỨC
HỘ PHÁP THUYẾT ÐẠO
Tại Tháp Ðức Quyền GIÁO TÔNG
8 giờ sáng ngày 13 tháng 10 Mậu Tý (1948).
LỄ
KỶ NIỆM ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Ngày hôm nay chúng ta làm lễ Kỷ niệm Ðức Quyền Giáo
Tông. Chơn linh của Ngài cả toàn con cái Ðức Chí Tôn nam, nữ đều biết là Chơn
linh Ðức Lý Ngưng Vương. Mười bốn (14) năm chúng ta chịu tâm tang nơi lòng, vì
mất một vị mà Ðức Chí Tôn chọn lựa, một vị Ðại Tiên đến mở cơ quan cứu thế cho
đời. Chúng ta tưởng niệm lại trong buổi sanh tiền của Ngài, Ngài đào tạo cho
thành nền Chơn giáo Cao Ðài; Ngài đã chịu bao khổ hạnh. Giữa thế kỷ 20 nầy, tâm
lý nhơn sanh thất đạo, đem một cái hòa bình nêu cao lên làm trung tâm điểm cho
tinh thần đạo đức nơi cõi Á Ðông, đã mỏi tay giống trống Lôi Âm, reo chuông
Bạch Ngọc, mà nhơn loại giả vờ điếc đui không biết cơ quan cứu thế là gì hết.
Ðem cái khối sanh quang phục sống cho họ trong chốn tử địa sắp tới đây, mà họ
chưa tỉnh ngộ đặng lo bảo trọng sanh mạng, biểu sao kẻ đại diện của Ðức Chí Tôn
thuở sanh tiền không bị thiên hạ khinh rẻ. Vì tâm lý chia rẽ đó, ngày nay có
nạn tàn sát tiêu diệt nhau. Ta nhớ lại, 14 năm Ngài đã khuất dạng, tạo dựng
được cho khối tinh thần thống nhứt cả lương tri của toàn con cái Ðức Chí Tôn.
Còn cả thảy hình ảnh nền Chơn giáo Ðức Chí Tôn chưa có hiện diện gì hết. Cũng
vì chịu tâm tình ấy, Bần Ðạo ra gánh vác trách nhiệm nặng nề trong buổi nền
Chơn giáo Chí Tôn phải chiến đấu đặng đem sự chơn thật, đặng đem công lý gieo
vào tinh thần loài người. Biết bao nhiêu lực lượng đối phương đã thống nhứt lại
với nhau đặng toan diệt Ðạo. Trong 14 năm khuất bóng Ngài, Bần Ðạo chịu khổ
hạnh 6 năm đồ lưu, còn trụ lực lượng đặng tạo hình thể nền Chơn giáo chỉ có 8
năm mà thôi. Bao giờ cũng vậy, năng lực tinh thần chẳng có lực lượng hữu hình
nào tiêu diệt nó đặng. Nhờ âm điệu điều hòa trong khuôn luật mà ngày nay Ðạo
Cao Ðài đã nên hình tướng, đã đứng giữa hoàn vũ nầy một cách vinh quang. Nhờ lẽ
chơn thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào trị tinh thần đặng, thì không có lực
lượng nào đè nén đặng. Nó phải thắng đời để cứu đời. Một nền Chơn giáo cao thâm
tinh thần dường nầy sẽ bất tiêu bất diệt. Nhờ ơn đầu tiên của Ngài khai mở,
chúng ta hãy cúi đầu cầu nguyện và cảm tạ ơn Ngài.
Bài Thuyết Ðạo nầy có trong quyển Lời Thuyết Ðạo của
Ðức Hộ Pháp, quyển nhì, 13 tháng 10 Mậu Tý (dl. 13-11-1948).
PHẦN
THI VĂN
Ðức
Quyền GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT
Càn
khôn quen thú phước linh tiêu,
Thấy
khổ trần gian nghịch Thánh điều.
Mượn
xác phàm riêu cây phất chủ,
Nương
cơ tạo xủ phướn tiêu diêu.
Bầu
linh khổ hải đưa thiêu cạn,
Gậy
sắt nhơn sanh chống dắt dìu.
Muôn
dặm cửa Tiên chờ bước tục,
Cỡi
lau trở gót ruột trăm chiều. (1)
(1) Ðức Hộ Pháp dạy lấy bài thi trên đây làm bài thài
cúng Ðức Quyền Giáo Tông.
NHẮN BẠN QUYỀN GIÁO TÔNG
Hồ
lô ai để ở nơi đâu?
Ái
quốc Việt Nam nhét bể bầu.
Cứu
thế hồng ân chưa rải khắp,
Nâng
thuyền lòng nước vốn còn sâu.
Nhơn
tài nảy nở tuy trăm bụng,
Dân
trí biến sanh bởi một đầu.
Ví
nhướng mắt Tiên xem rõ trận,
Cuộc
cờ thắng bại tận phao câu.
11. 9. Bính Tuất (1946)
PHẠM HỘ PHÁP
ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Giáng cơ họa vận bài thi của ÐỨC HỘ PHÁP
Tách
trần tính lại đã là đâu,
Thế
giới vân du chỉnh một bầu.
Nguồn
Ðạo bấy chừ bao sức lớn,
Tinh
thần từ trước đã gần sâu.
Nhơn
tâm gầy khối đều nên mặt,
Tình
thế trau nên kiểu vở đầu.
Lừa
lọc nên hư do phép tạo,
Hưng
suy chỉ định bởi đôi câu.
15. 9. Bính Tuất
(1946)
***
Ðường
trần hạnh phúc đã là đâu?
Chí
bẳng Càn khôn quảy một bầu.
Ðủ
hiểu tâm phàm lòng lạc lẽo, (lạt?)
Dư
xem bước tục chí cao sâu.
Thiên
quân ví chẳng ra tiền đạo,
Tướng
soái khó toan chiếm địa đầu.
Vạn
pháp đem khoe tài Hộ Pháp,
Cũng
như đực rựa sánh kim câu.
28.4. Mậu Tý
(1948)
***
Lưỡi
liềm chi dễ sánh kim câu,
Gây
sự bởi ai tạo buổi đầu.
Ðông
hải mênh mông còn phải cạn,
Tây
hồ chật hẹp độ bao sâu.
Tài
ba Ðộng Bích bao nhiêu sức,
Quyền
phép Côn Lôn sẵn mấy bầu.
Quyết
đoán cuộc cờ ai thắng bại,
Chỉnh
xem Tiên Phật hướng về đâu?
1950
***
Học
vấn từ đây Ðạo mở đường,
Luyện
trau Chức Sắc kỷ hòa cương.
Quyền
đời hóa chúng còn phô đức,
Cửa
Thánh độ người há kém phương.
Giáo
lý dồi dào nung khách trí,
Nho phong nhuần gội vững can trường.
Lập
công đem đổi nên Thiên vị,
Ðèn
sách bền theo nhọc chớ màng.
1957
***
Cơ đời biến chuyển tổng do
Thiên,
Ðại
Ðạo hoằng khai đủ diệu huyền.
Thế
giới chiến tranh đời loạn lạc,
Càn
khôn sở định Ðạo qui nguyên.
Bạo
tàn noi bước đường tà mị,
Lương
thiện học theo sách Thánh Hiền.
Hữu
phước đặng xem ngươn tái tạo,
Cố
công vun quén miếng tâm điền.
1955
THƯỢNG TRUNG NHỰT
LỄ
KỶ NIỆM ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Ngày 13 tháng 10 Tân Mão (14-11-1951)
Kỷ
niệm tượng trưng mối cảm tình,
Tình
hoài nghĩa đệ với ân huynh.
Liên quan thân mật tuy là bóng,
Hội hiệp yêu đương thể có hình.
Một kiếp phù sinh đời vật chất,
Muôn năm trường cửu điểm Chơn
linh.
Xác hồn đoàn kết xây thời thế,
Thế sự do Thiên hưởng thái bình.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
KÍNH HỌA VẬN
Trường
Ðạo chung pha giọt lệ tình,
Tình
yêu Tổ quốc chạnh Hiền Huynh.
Xe
mây nhẹ lướt miền vô thượng,
Bầu
ái nồng chan cảnh hữu hình.
Ðảnh
Việt làu soi gương huệ đức,
Tranh
hồng tươi điểm nét thư linh.
Ðịa
hoàng biến chuyển xoay thời cuộc,
Cuộc
diện trùng hưng nước thanh bình.
CAO TIẾP ÐẠO
***
Bao
năm chi xiết nỗi ân tình,
Hồi
tưởng thâm giao nghĩa đệ huynh.
Ngắm
vật nhớ người đà vắng bóng,
Nhìn
pho bửu ảnh vẫn mơ hình.
Hoằng
khai Ðại Ðạo nêu gương Thánh,
Phổ
độ quần sanh hiệp Chí linh.
Tam
Giáo Ngũ Chi đồng thống nhứt,
Mong
chờ vận hội dựng hòa bình.
HIẾN PHÁP
TÙNG NGUYÊN VẬN
Nhớ
ngày kỷ niệm chạm thâm tình,
Muôn
thuở không quên nghĩa Ðại Huynh.
Tuy
cách âm dương còn bí tích,
Dầu
phân kim cổ tạc chơn hình.
Giáng
cơ giáo hóa đầy tương ứng,
Chuyển
thế quyền năng thật hiển linh.
Bác
ái khuyên người mau thể hiện,
Ðời an lạc nghiệp Ðạo thanh bình.
THÁI ÐẾN THANH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét