Tiểu Sử Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt - 1/2


ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tứ Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn Phòng      
Chưởng Quản 
Hiệp Thiên Ðài
    --------
Số: 186/HP/CQHTР 
HIẾN PHÁP
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ÐÀI

GIỚI THIỆU
Cuốn Tiểu Sử của Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT là một quyển sách quý vô giá vì nó chứa đựng nhiều sự tích lúc Ðạo Cao Ðài sơ khởi, nhứt là trong giai đoạn đầu sự truyền bá Ðạo Cao Ðài rất là khó khăn gay trở, vì lúc đó là lúc nước Việt Nam ta bị Pháp đô hộ.

Nếu chẳng có bàn tay cao độ như Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT thì Ðạo Cao Ðài không thể phổ truyền rộng rãi và mau chóng được, như tất cả mọi người đều thấy rõ.

Nhờ chí cả thương nước và thương đời mà Ngài LÊ VĂN TRUNG, tức Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT đã lướt khỏi các trở lực gặp phải buổi đầu. Ngài có đủ nghị lực và tài năng để đối phó với các trở lực ấy, bằng chứng đã cho ta thấy các văn kiện lưu lại trong cuốn TIỂU SỬ nầy mà tôi xin trân trọng và chân thành giới thiệu cùng bạn đọc bốn phương.
Nay kính
Tòa Thánh, ngày 8 tháng 6 năm Quý Sửu
(Dl 7/7/1973)
HIẾN PHÁP
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ÐÀI
TRƯƠNG HỮU ÐỨC
(Ấn ký)
Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tứ Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Ngày 10 tháng 6 năm Quí Sửu (Dl. 9/7/1973)
Hội Thánh
Cửu Trùng Ðài
Văn Phòng
Ngọc Ðầu Sư 
      -----
Số: 01/NÐS
LỜI GIỚI THIỆU

Năm Bính Dần (1926) ngay sau khi đệ Tờ Khai Ðạo lên Chánh Phủ thuộc địa Pháp lúc bấy giờ, ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ gọi là ÐẠO CAO ÐÀI bắt đầu truyền bá công khai với tôn chỉ: 

TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Thực hành tôn chỉ "QUI NGUYÊN PHỤC NHỨT" là thừa nhận mọi tôn giáo đều do một gốc mà ra, đồng một chơn lý, đồng tôn sùng một Ðấng Chúa Tể càn khôn vũ trụ là Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ.

Tính chất của Ðạo CAO ÐÀI là "ÐẠI ÐỒNG NHƠN LOẠI" có mục đích điều hòa tất cả mọi tín ngưỡng, dung nạp triết lý của NHO, THÍCH, ÐẠO làm căn bản.

Ðạo CAO ÐÀI là ÐẠO TRỜI, một Tôn giáo tổng hợp các Tôn giáo hiện hữu trên mặt địa cầu nầy từ thử, một Ðạo duy nhất có một giá trị tinh thần vô song, cao cả, thiêng liêng và mầu nhiệm.

Người Anh Cả đầu tiên của Ðạo CAO ÐÀI được Ðức CHÍ TÔN tuyển chọn, giao phó thực hành Thiên trách hoằng dương chơn pháp, khai cơ tận độ, chính là Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT đó vậy.

Ðể tưởng niệm công nghiệp phi thường của người Anh Cả khả kính, một bậc tiền bối dày công trong cửa Ðạo, một Ðại Công Thần của Ðức CHÍ TÔN, Ban Ðạo Sử biên soạn cho xuất bản quyển Tiểu Sử của Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG với những tài liệu chính xác, dồi dào, thật là hiếm có.

Một tín hữu CAO ÐÀI mà không biết được Tiểu Sử và công nghiệp của các bậc Tiền bối khai đạo, nhất là Tiểu sử của Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG là một điều thiếu sót lớn lao.

Nhắc đến Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG, hẳn trong Ðạo, ngoài Ðời, hiện tại cũng như dĩ vãng, không mấy ai mà không biết Ðức NGÀI. Sớm mồ côi cha, Ðức Ngài được mẹ hiền chăm sóc, nuôi nấng nên người.

Trên đường hoạn lộ, Ðức Ngài đã đoạt được danh vọng tuyệt đỉnh. Trong Nam dưới thời Pháp thuộc bấy giờ nếu nói người duy nhất đứng đầu quần chúng hướng về hạnh phúc của nhơn sanh, tranh đấu cho dân nghèo cùng khổ thì duy có Ðức Ngài mà thôi, một Thượng Nghị Viên độc nhất được ân thưởng Bắc Ðẩu Bội Tinh.

Kịp đến khi được Thiên lịnh của Ðức CHÍ TÔN, Ðức Ngài lập tức dứt bỏ ngay địa vị công danh, khoác áo nâu sồng, vui bề khổ hạnh. Danh lợi vàng son đối với Ðức Ngài lúc bấy giờ chỉ còn là một bóng mờ, một cơn ảo mộng. Ðức Ngài hiệp cùng Ðức HỘ PHÁP, Ðức CAO THƯỢNG PHẨM, ngày quên ăn, đêm quên ngủ chung lo khai sáng mối Ðạo Trời, mở mang vùng Thánh Ðịa. Ðức Ngài là hiện thân của đức bác ái bao la, của một đức tin vô cùng kiên cố.

Ðạo CAO ÐÀI còn, danh sáng của Ðức Ngài còn, công nghiệp của Ðức Ngài trở thành vĩnh cửu.

Quyển Tiểu Sử Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG do Ban Ðạo Sử xuất bản ghi lại công đức của Ðức Ngài lòa như NHỰT NGUYỆT để hậu thế soi chung, toàn dân chiêm ngưỡng muôn đời. Kẻ hậu sinh sẽ tìm nơi Ðức Ngài một cái gương sáng chói, một hào quang rực rỡ, một ánh đuốc huy hoàng, một lý tưởng cao khiết với lòng tận tụy hy sinh vô bờ bến vì Ðạo, vì Thầy, để noi bước.

Một sáng tác hữu ích, một tài liệu cần thiết cho mỗi gia đình Bổn Ðạo, nên tôi xin có đôi dòng kính giới thiệu quyển Tiểu Sử nầy với toàn Ðạo và chư Huynh Ðệ bốn phương.
Nay kính,
NGỌC ÐẦU SƯ
NGỌC NHƯỢN THANH
Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt

THAY LỜI TỰA

Năm Bính Dần (1926) tân kỷ nguyên Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã mở tại Việt Nam, đem đến cho dân tộc và nhơn loại trên thế giới một chủ thuyết "Nhơn Nghĩa Ðại Ðồng" làm chấn động nô nức, qui tựu mấy triệu tín hữu đang sùng kính và tạo dựng nền móng "Thương yêu" cho thế hệ hiện hữu. Người ta chưa phỏng đoán được tương lai của nền "Tôn Giáo Tân Khai" này còn tăng trưởng đến mức độ nào?

Trong khi những người thức thời đang tìm hiểu ai là bậc vĩ nhân phi thường vâng mạng Trời tạo nên đại nghiệp đó?

Trải qua bao cuộc thăng trầm diễn tiến, những ai có truyền thống hoài bão lịch sử các đấng tiền nhân, không một ai quên lãng về sự nghiệp thân thế các bậc đàn anh của mình.

Ðức Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT (Lê Văn Trung) và Ðức Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC là hai đấng tiền bối duy nhứt của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Sau ngày Ðức Hộ Pháp qui thiên có những phong trào tưởng niệm rất uy nghiêm và cổ võ chủ thuyết "HÒA BÌNH" của Ðức Ngài trọng thể vang lừng khắp nước Việt Nam và cả dư luận trên thế giới.
Cựu Nghị Viên Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ

Trong khi đó, Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, phần đông tưởng nhớ chăng là trong im lặng, hoặc trong thủ tục nghi lễ hằng niên.

Quyển sách nầy góp nhặt những áng văn kiệt tác của Ðức Ngài và các bậc tiền bối lưu lại cho đàn hậu tấn in sâu vào trí não về dĩ vãng và để nơi kho tàng sử liệu của Ðạo làm tiêu chuẩn.

Thiết tưởng, nền chánh giáo mà chúng ta ngày nay đang theo dõi, nên xem qua, tìm hiểu các đấng ngày xưa đã làm gì giúp ích cho Ðời và Ðạo, đàn hậu tấn cần noi gương các đấng tiền bối khai cơ lập thành "Quốc Ðạo" hầu làm tròn nhiệm vụ một tín hữu trung kiên đối với Ðạo nghiệp.

Mong rằng khi tái bản, sẽ đón nhận ý kiến bạn đọc bốn phương sẵn thiện tâm thiện chí bổ túc thêm những khuyết điểm.
Xin chư độc giả nhận nơi đây lời trung thực và biết ơn của chúng tôi.

TÒA THÁNH TÂY NINH, ngày 6 tháng 5 năm Quí Sửu
(Dl. 6/6/1973)
PHÓ TRƯỞNG BAN ÐẠO SỬ
Phối Sư
THƯỢNG CẢNH THANH

Thượng Nghị Viên Lê Văn Trung  độc nhất được ân thưởng Bắc Ðẩu Bội Tinh của Pháp

Những vần thi Ðức Chí Tôn ban cho Ðức Quyền Giáo Tông buổi ban sơ.

            Ngày 5 tháng 12 Ất Sửu (28-1-1926)
Một Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên cơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

            Ðêm 30-12-Ất Sửu (12-2-26)
Ðã thấy ven mây lố mặt Dương,
Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.
Ðạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường.

            Ðêm 9-1 Bính Dần (21-2-26)
            Ðức Thượng Ðế lấy tên của 12 vị Môn đệ đầu tiên cho một bài thi:
Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang; Quí, Giảng thành.
Hậu, Ðức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hườn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.

Phụ ghi: Bài thi sau đây được trích từ Quyển ÐẠO SỬ XÂY BÀN năm Ất Sửu (1925) do Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu biên soạn. (Nguyên bản chánh không có bài thi nầy chúng tôi xin mạo muội thêm vào để cho chư  Ðồng Ðạo lãm tường)
Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Ngài Nguyễn Ngọc Tương.

THẦY,
(Le 11 Janvier 1926 là ngày ông Lê Văn Trung đến nhà Cao Quỳnh Cư hầu Ðức Chí Tôn để nhập môn cầu Ðạo ở Sài Gòn).
Già trí đừng lo trí chẳng già,
Lương tâm mình biết hỏi chi xa.
Thềm đầu Trời ngó lòng Nhơn Ðạo,
Hư thiệt rồi đây cũng biết mà.
                                                                                                          11-1-1926

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ

PHỔ CÁO CHÚNG SANH
Năm Bính Dần (1926)

Ngày 7 Septembre 1926 nhằm ngày mồng một tháng 9 năm Bính Dần, có môn đệ Thiên Phong của Ðức Cao Ðài, là Cựu Hội Ðồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt vâng lịnh Thánh Ngôn đến Khai Ðạo nơi chánh phủ. Trong tờ khai Ðạo ấy có ký tên 247 chư môn đệ phần nhiều đều là Chức Sắc Viên Quan, và có Nữ phái nhiều người danh dự.

Quan nguyên soái Nam kỳ hoan nghinh và khen rằng vì chữ thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng.

Chúng tôi xin phô đôi lời thành thật thô sơ, chư Hòa Thượng, chư Lão Thành, chư Sơn, chư Chức Sắc trong Tam Giáo và chư Thiện nam, Tín nữ xin lưu ý.
Chầy kíp đây chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận Ðạo kỹ thêm nữa.

KHAI ÐẠO NƠI CHÁNH PHỦ
Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1929) ông Cựu Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247 vị tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh phủ.

Tờ Khai Ðạo đến mùng một tháng chín (7-10-1926) mới gởi lên Chánh phủ cho quan Nguyên soái Nam kỳ là ông Le Fol. Trong tờ ấy có 28 người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo.
Tờ khai ấy làm bằng chữ Langsa, phiên dịch ra như vầy:

SAIGON, ngày 7 Octobre 1926.
Kính cùng quan Thống Ðốc Nam kỳ Saigon,

Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho quan lớn rõ:
Vốn từ trước tại cõi Ðông Pháp có ba nền Tôn giáo là: Thích giáo, Lão giáo và Khổng giáo. Tiên nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Ðạo ấy, lại nhờ do theo tôn chỉ quí báu của các chưởng giáo truyền lại mới được an cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: "Gia vô bế hộ, lộ bất thập di", nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến đổi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.

Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy duyên cớ sau nầy:
1 - Những người hành đạo đều phân chia ra nhiều phe, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ tôn chỉ của Tam giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Ðấng Tạo Hóa.
2 - Lại canh cải mối chánh truyền của các Ðạo ấy làm cho thất chơn truyền.
3 - Những dư luận phản đối nhau về Tôn giáo, mà ta thấy hằng ngày cũng tại bã vinh hoa và lòng tham lam của nhơn loại mà ra, nên chi người Annam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.

Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người Annam, vì căn bổn, vì Tôn giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam giáo lại làm một (qui nguyên phục nhứt) gọi là Ðạo Cao Ðài hay là Ðại Ðạo.

May mắn thay cho chúng sanh, thiên tùng nhơn nguyện, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế hằng giáng đàn dạy Ðạo và hiệp Tam giáo lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Nam nầy.

Tam Kỳ Phổ Ðộ nghĩa là đại ân xá lần thứ ba, những lời của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế dạy chúng tôi, đều cốt để truyền bá tôn chỉ Tam giáo.

Ðạo Cao Ðài dạy cho biết:
1 - Luân lý cao thượng của Ðức Khổng Phu Tử.
2 - Ðạo đức của Phật giáo và Tiên giáo là làm lành lánh dữ, thương yêu nhơn loại cư xử thuận hòa, mà lánh cuộc ly loạn giặc giả.

Chúng tôi gởi theo đây cho quan lớn nghiệm xét:
1 - Một bổn sao lục Thánh Ngôn của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
2 - Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.

Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại được cộng hưởng cuộc hòa bình như buổi trước. Ðược như vậy chúng sanh sẽ thấy đặng thời kỳ mới mẻ cực kỳ hạnh phúc không thể nào tả ra đặng.

Chúng tôi thay mặt cho nhiều người Annam, mà đã nhìn nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Ðạo Tịch ghim theo đây, đến khai cho quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ thông Ðại Ðạo khắp cả hoàn cầu.
Chúng tôi xin quan lớn công nhận tờ khai đạo của chúng tôi.

Để có tư cách chính thức với chính quyền thực dân, ngày 7 tháng 10 năm 1926, các tín đồ gởi đến Thống đốc Nam Kỳ Le Fol một bản tuyên cáo khai đạo bằng tiếng Pháp với chữ ký của 28 tín đồ có địa vị cao nhất trong xã hội, kèm theo tờ khai tịch đạo của 245 tín đồ. 

Ký tên:
Mme LÂM NGỌC THANH                                      Nghiệp chủ ở Vũng Liêm.
Mrs LÊ VĂN TRUNG                                               Cựu Thượng Nghị Viện
                                                                                   thọ Ngũ Ðẳng Bửu Tinh (Chợ Lớn).
- LÊ VĂN LỊCH                                                        Thầy tu - làng Long An (Chợ Lớn).
- TRẦN ÐẠO QUANG                                             Thầy tu-làng Hạnh Thông Tây (Gia Ðịnh).
- NGUYỄN NGỌC TƯƠNG                                    Tri phủ-chủ quận Cần Giuộc.
- NGUYỄN NGỌC THƠ                                           Nghiệp chủ - Sài Gòn.
- LÊ BÁ TRANG                                                       Ðốc Phủ Sứ - Chợ Lớn.
- VƯƠNG QUANG KỲ                                            Tri Phủ sở Thuế Thân - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN KINH                                           Thầy tu - Bình Lý Thôn, Gia Ðịnh.
- NGÔ TƯỜNG VÂN                                               Thông Phán - Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN ÐẠT                                             Nghiệp chủ - Sài Gòn.
- NGÔ VĂN KIM                                                      Ðiền chủ - Ðại Hương Cả, Cần Giuộc.
- ÐOÀN VĂN BẢN                                                  Ðốc Học trường Cầu Kho.
- LÊ VĂN GIẢNG                                                    Thơ toán hảng Ippolito - Sài Gòn.
-  HUỲNH VĂN GIỎI                                              Thông Phán sở Tân Ðáo - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN TƯỜNG                                       Thông Ngôn sở Tuần Cảnh - Sài Gòn.
- CAO QUỲNH CƯ                                                  Thư ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- PHẠM CÔNG TẮC                                                Thư ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- CAO HOÀI SANG                                                 Thư ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- NGUYỄN TRUNG HẬU                                        Ðốc Học Trường Tư Thục Ða Kao.
- TRƯƠNG HỮU ÐỨC                                            Thư ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- HUỲNH TRUNG TUẤT                                        Nghiệp chủ Chợ Ðủi - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN CHỨC                                          Cai Tổng - Chợ Lớn.
- LẠI VĂN HÀNH                                                    Hương Cả - Chợ Lớn.
- NGUYỄN VĂN TRÒ                                              Giáo Viên - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN HƯƠNG                                       Giáo Viên - Ða Kao.
- VÕ VĂN KỈNH                                                       Giáo Tập - Cần Giuộc.
- PHẠM VĂN TỶ                                                      Giáo Tập - Cần Giuộc.
Ðiếu :
BẢO ÐẠO CHƠN QUÂN CA MINH CHƯƠNG
Qui vị ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thìn (1927).

Chư Hiền Hữu, Hiền Tỷ, Hiền Muội,
Từ ngày khai đạo, lần nầy là lần thứ ba tôi vì phận sự nên phải dự tiệc tống chung của ba vị đại đức trong Ðại Ðạo Tam Kỳ. Năm Dần ông Thượng Tương Thanh, Thượng Chưởng Pháp ly trần, ngày mồng 5 tháng 11 mãn phục, năm nay tháng ba Ðức Nho Tông Chưởng Pháp Trần Ðại Nhơn liễu Ðạo.

Ấy là hai vị đại đức bên Cửu Trùng Ðài, ngày nay ông Ca Minh Chương thọ Thiên ân Bảo Ðạo Hiệp Thiên Ðài qui Thánh. Theo thế tình tôi cũng rơi lụy mà tỏ lòng bi ai nơi mộ phần chưa ráo đây. Con người thây phàm xác thịt ai tránh khỏi sự yêu thương, tình chồng vợ đầu ấp tay gối, khó giàu có nhau, cang thường nghĩa trọng, cha con hui hút sớm trưa, công sanh thành dưỡng dục bằng non biển, người đồng Ðạo tất con một cha, tâm hiệp ý hòa, chia vui sớt nhọc, ngảnh lại mấy năm tình ấy rồi xem cảnh hôm nay, người qui Thánh nương bóng Ðức Cao Ðài, kẻ còn lao nhao, lố nhố nơi bể khổ sông mê. Ôi! Gặp cuộc phân ly như thế, không ngăn giọt lụy cảnh sầu bi nầy làm cho ruột thắt gan bào. Anh Bảo Ðạo ôi! Thương vì nhớ mấy lúc cùng nhau hội hiệp, khi thi phú, lúc cờ bàn, nơi Tòa Thánh. Nhớ đến tiếng cợt tiếng cười, thương vì nghĩa, rồi đây xác phàm của người phải ở đồng trống sương gieo, thương vì thế, vì bình bồng, có ai giữ mồ trăm năm, lâu rồi cũng là mồ hoang, cỏ loáng, thương nỗi vợ yếu trông chồng nhìn cảnh sầu khuya với ngọn đèn leo lét, thương cuộc con ngây, bặt vắng lời châu ngọc của cha hiền đức, nhìn nơi đây đồng không mông quạnh, nhớ tới xác phàm anh ở chỗ như thế thì khó lấp cơn sầu, mà nghĩ cho kỹ thì chơn linh anh vẫn còn, vì anh hữu duyên nên gặp Ðạo Trời, rộng mở Tam Kỳ Phổ Ðộ. Mấy năm dư anh đã mượn nâu sòng lánh tục, anh vui cùng sanh chúng. Nay hồn lìa khỏi xác, vẹt ngút mây xanh trông vào cực lạc, an nhàn, non chiều hạc gáy, động tối qui chầu, nghĩ đến đó lấp đặng mạch sầu. Nên tôi mới tỏ ít câu sau đây nhắc công lao của anh đối cùng xã hội.
Tôi xin nhắc một ít công lao của Bảo Ðạo trong đường đời và trong Tam Kỳ Phổ Ðộ. Nguyên anh là người nhao rún ở ấp Thanh Ba, làng Mỹ Lộc Tây, Tổng Phước Ðiền Trung, Huyện Phước Lộc; hồi anh thiếu niên (ấu xuân), gặp nhiều Ðấng nho văn hiền triết, cư trú Huyện Phước Lộc Tây như ông Ðồ Chiểu và ông Cống Quỳnh vân vân ...

Ông Ca Minh Chương cũng là chí Thánh lúc làm Giáo huấn là lo Nhơn Ðạo, mà người cũng gần lo Thiên Ðạo. Anh trường trai giữ giới thọ giáo Minh Sư, có câu kinh: " Bá niên vạn kiếp nan tao ngộ" trăm năm muôn kiếp khó mà gặp mối Ðạo khai. Ông Ca Minh Chương hữu duyên hữu phần, nên lúc Trời khai Tam Long Huê hội. Tôi xin nhắc lại: Năm Bính Dần hội Thượng ngươn tôi cùng hai em Cư, Tắc thọ Thánh chỉ gởi đi phổ độ tại quận Phước Lộc nầy, trước hết khi ấy ông Ca Minh Chương có hầu Ðàn nghe lời châu ngọc của Ðấng Ðại Từ Bi.
Người hữu duyên mau hiểu lời Thánh truyền. Nên người nhập môn cầu Ðạo liền, qua hạ tuần tháng hai năm đó, ba anh em tôi thọ Thánh chỉ xuống Vĩnh Nguyên Tự ở 10 ngày học Ðạo, khi đó có ông Ca Minh Chương cũng theo xuống Vĩnh Nguyên Tự, có một bữa Ðại Từ Phụ khai khiếu cho Bảo Ðạo Ca Minh Chương. Hồi mới khai khiếu ba anh em tôi ngơ ngơ ngáo ngáo không hiểu chi hết, tưởng là Ðạo Hữu Chương niên cao kỷ trưởng, mắt mờ mệt nên Ðại Từ Phụ khai khiếu cho sáng láng, ngỏ hầu khi nào Ðại Từ Phụ giáng cơ viết Hớn Tự, Ðạo Hữu coi đọc cho dễ, té ra không phải vậy, mình bàn theo trí phàm, thiệt rất lạc lầm.

Ðấng Chí Tôn khai khiếu cho Chương vẫn để cho người sau phò loan đặng đi phổ độ, không bao lâu người cùng Ðạo Hữu Tươi là hai Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài phò loan đặng phổ độ nhiều nơi, lúc ấy tuy ông Bảo Ðạo sức kém, lực suy mà nhờ huyền diệu thiêng liêng bảo hộ nên người lập công quả.

Nhớ lúc ông dầm mưa trải nắng, thiệp hải đăng sơn, sức suy yếu mà chí chẳng sờn, không kém gì Huỳnh Trung buổi trước, nghĩ mấy hồi ma khảo, người vô tâm ngăn phá Ðạo Trời mà anh cũng thình một dạ, thiệt chí hào kiệt, trí tri dễ núng khiến lụy anh hùng đây. Trước nhờ Ðấng Chí Tôn dìu dẫn hồn anh, đem về cõi thọ.

Ông Bảo Ðạo hồi lúc gần qui vị, linh quang anh thiệt tinh tấn, nhớ đến mấy lời châu ngọc anh than cùng tôi thiệt ruột dường dao cắt, anh nhắc những ân của anh thọ nơi bác tôi, khi anh lo việc hương đảng, anh khiêm từ đến đổi cung tụng, những việc phải của tôi đối đãi với anh, khi anh làm Giáo thọ, ấy nhơn nghĩa anh giữ vẹn, thiệt là anh chí thánh đó, anh than cùng tôi, anh buồn lo vì nhiều kẻ tính riêng, người toan tự lập, còn phận anh thủy chung như nhứt cứ do Tòa Thánh, nay anh về Tiên cảnh xin cũng chung lo giúp trong Ðạo đặng tâm hòa như một, xin anh chứng lòng thảo của mấy em. Hôm nay làm lễ tiễn hành đưa linh hồn anh về Cực Lạc an nhàn Bồng Lai.
Huy Lụy
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

AI ÐIẾU BẢO ÐẠO
Cỡi hạc anh đà tách dậm tây,
Từ nhau oằn oại gánh tình nầy.
Muôn lằn sóng thảm nơi trần tục,
Ngàn dặm bước nhàn tách gió mây.
Cõi thọ anh nương theo huệ bóng,
Thân phàm em trẻ chịu chia bầy.
Vui buồn sớt thảm ơn xưa tạc,
Càng nhớ càng sầu khó giải khuây.
                                                           HỘ PHÁP

HỌA NGUYÊN VẬN
Hoàng hôn ác lặn xế non tây,
Cách trở xui chi cảnh thảm nầy.
Ðộ chúng xưa từng chia gánh khổ,
Lìa trần nay vội tách đàng mây.
Rừng thiên ngắm chạnh nhà chinh bóng,
Ðảnh túy buồn trông én tách bầy.
Lau lụy ít hàng xin kỉnh điếu,
Tình nồng bao thuở dạ đâu khuây.
                                                           THƯỢNG SANH

Một giấc nghìn thu vĩnh biệt nhau,
Người trong tri kỷ ruột gan xào.
Âm dương tuy cách xa muôn dặm,
Son sắt còn ghi tạc một màu.
Khóc phụ con hiền trông cửa trước,
Thương chồng vợ yếu dựa hiên sau.
Êm chơn vội bước tìm nguồn Thánh,
Mà nỡ đành quên nghĩa tấc giao.
                                                           BẢO VĂN PHÁP QUÂN

Tài liệu ảnh: Tòa Thánh mới xây bằng vật liệu nhẹ tại Long Thành; Thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
BÀI GIẢNG ÐẠO
Nhân kỷ niệm 2 năm ngày làm Tờ Khai Ðạo với Chánh phủ thuộc địa Pháp  (*)
23 tháng 8 năm Mậu Thìn ( 6 Octobre 1928).

CHƯ ÐẠO HỮU RẤT YÊU DẤU,
CHƯ ÐẠO TỶ, CHƯ ÐẠO MUỘI,

Tôi rất hữu hạnh vì ngày nay được thay mặt trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đặng thố lộ ít lời nhắc tích ngày kỷ niệm hôm nay.

Máy âm dương chuyển vận, cơ tạo hóa vần xoay, ngày tháng như thoi đưa, ngảnh lại ngày Ðấng Chí Tôn hiệp chúng ta nơi đây đặng lo lập Tờ Khai Ðạo tới nay là hai năm chẵn. Tôi xin nhắc lại cho chư Hiền hữu, chư Hiền muội lãm tường: Ðấng Chí Tôn có dạy:

Bàn Cổ sơ khai nhơn sanh ư Dần cho nên ngày Ðấng Chí Tôn mở Ðạo là ngày mồng một năm Bính Dần. Ngày ấy Thầy sắp đặt mười hai người lo khai Ð. Ð. T. K. P. Ð. mỗi người lãnh phận sự lo đi truyền bá. Bước qua tháng tám năm Bính Dần gần lúc Trung Thu trăng thanh gió mát, tôi cùng hai em Cư, Tắc, cầu nguyện cùng Ðấng Từ Bi xin phép đến bữa nguyệt đáng cho phép sắm lễ cúng Diêu Trì Cung và cầu Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương và chín vị Tiên Nữ hầu bà xin dạy Ðạo. Ðấng Chí Tôn rộng lượng cho cầu Diêu Trì Cung bữa rằm Trung Thu.

Khi cầu cơ thì Ðấng Chí Tôn giáng kêu tôi dạy phải cho môn đệ của Thầy tối 23 tháng 8 tựu tại nhà Ðạo Hữu Tường đây.

Tôi không biết rõ Thánh ý điều tôi vâng mạng cho chư Ðạo Hữu hay lời Thánh truyền tới bữa 23 tháng 8 năm Bính Dần, là ngày 29 Septembre 1926 chư Ðạo Hữu tựu tại đây rồi cầu Ðấng Chí Tôn giáng dạy tôi phải biên tên hết các Nam Nữ lưỡng phái đặng đứng tờ khai Ðạo cho Chánh phủ, khi ấy có mặt tại nơi đàn hết thảy là 240 vị Ðạo Hữu Nam Nữ. Tôi có nạp tên mấy vị ấy tại Chánh phủ, khi tôi dâng tờ khai đạo, là ngày 6 Octobre 1926. Khi ấy tôi có bạch với Ðấng Chí Tôn rằng tôi không có giờ đủ mà đệ tờ khai đạo cho ông Thái Lão Trần Ðạo Quang ký tên, Ðấng Chí Tôn có phán dạy tôi cứ việc đem tên Trần Ðạo Quang vô tờ khai đạo. Ðấng Chí Tôn có phán rằng: "Con cứ đem tên nó vô tờ khai đạo, Ðạo Quang nó không chối cãi đâu mà con phòng ngại".

Thiệt từ ngày ấy, anh cả chúng ta là Trần Ðạo Quang hết lòng sốt sắng vì Ðạo nên Ðấng Chí Tôn phong cho chức Chưởng Pháp trong Ð.Ð.T.K.P.Ð.

Ấy là sự tích ngày kỷ niệm hôm nay. Nhìn mặt nhau đây thì chúng ta thấy chúng ta phản lão hườn đồng, chúng ta trẻ lại hai tuổi, vì chúng ta trở lại thấy việc hai năm trước.

Vậy là ngày vui, ngày quí báu của chúng ta.
Biết vui, biết quí báu chừng nào thì phải biết cái ân huệ của Ðấng Chí Tôn ban thưởng cho chúng ta chừng nấy. Muốn đền ơn quí trọng ấy, phải làm sao? Phải hết lòng vì Ðạo hết lòng tín ngưỡng Ðấng Chí Tôn và chư Phật chư Tiên vì háo sanh, vì cuộc tuần hườn mà gieo mối Ðạo Trời T.K.P.Ð. ngỏ hầu độ rỗi sanh linh khỏi hết trả vay nơi trầm luân khổ hải nầy.

Vì mừng ngày kỷ niệm hôm nay, tôi xin nhắc chư Ðạo Hữu chư Ðạo muội, việc phải lo trong Ðạo.

Nhiều Ðạo Hữu tưởng lầm rằng ngày Ðấng Chí Tôn vì quá thương nhân loại nơi đây, nên gieo truyền mối Ðạo nơi đây, vậy chúng ta cứ ăn chay niệm Phật, thì đắc quả đặng. Nhiều Ðạo Hữu cũng tưởng lầm rằng: Mình hữu duyên hữu phần gặp lúc Ðạo khai, vậy cứ luyện Ðạo thì đắc quả.

Hại thay! Cái tánh cái hạnh phàm phu, sân si ái dục, tham lam, khoe danh cầu tiếng, nhóm lại nghịch lẫn nhau, gièm siểm nhau, lo đứng cho trên người khác chớ không tài liệu biện cho có ích chi cả. Tánh hạnh còn như vậy là tánh chưa thuần dương mà làm sao thành đặng.

Ðấng Chí Tôn hằng nói: "Phần nhiều hữu công mà chưa tận chí, không vì sanh chúng mà giữ phẩm hạnh hoàn toàn, cho nét đường tu của Thầy đã vì các con mà bố hóa..."

Ðấng Chí Tôn vì quá thương nhân loại nơi đây nên cho chúng ta được hưởng cái công khai Ðạo, cái công vẹt ngút mây xanh làm chỗ sáng sủa bạch minh cho bước đường sau nầy cũng do lần dấu ấy mà tầm đến nơi yên tịnh, làm cho khắp cả dân sanh đều được hưởng.

Theo Thánh ý trên đây thì Ðấng Chí Tôn muốn cho chúng ta dìu dắt kết chặt dân sanh nơi vùng Nam nầy đặng cùng nhau chung hiệp, tìm con đường hòa bình, chẫm rãi, lần ra khỏi lối khốn khổ lao lung ở cõi trần nầy, rồi tự toại ngâm câu thái bình. Chừng ấy chim về cội cá về sông, hớn hở, trau lòng thiện niệm mà bước lên nấc thang Thiêng liêng mới đặng.

Ngày nào Ðạo chưa hòa, người chưa đủ sức kềm chế nhau, tương thân tương ái nhau, cho đủ tinh thần mẫn đạt, thương yêu nâng đỡ nhau, Ðạo chưa đủ người ngay chánh hiền lương chỉ nẻo dẫn đường, người Ðạo chưa phủi sự tham danh chác lợi, trong Ðạo chưa biết trật tự kính nhường nhau, thì ngày ấy Ðạo chưa trọn thành, thì chưa một ai mong khỏi nội công mà tầm nơi địa vị Thiêng liêng được.

Thương hại thay! Phần nhiều Ðạo Hữu chưa biết Ðạo là gì? Nếu trong Ðạo mà chưa biết đức nhơn thì bao giờ thành Ðạo nhơn đức được. Là thương xót giúp lẫn nhau, phò nguy tế cấp với nhau, làm âm chất tế độ kẻ nguy cùng.

Mến đức hơn mạng sống của mình. Lòng nhơn phải lấy tánh hiền lương mà dìu kẻ vạy ra chánh ấy là một sự nên làm. Lấy lời cam ngôn mỹ từ, mà khuyên dỗ những kẻ bất bình cho an khuây, lại còn nên làm hơn nữa. Thánh ý muốn cho ta luyện hạnh nết được như vậy thì hòa bình trong Ðạo.

Ngày nào được hòa bình thì cả nhân sanh coi việc hòa bình của chúng ta mà noi theo. Hỏi thử: Chúng ta có làm được muôn một trong mấy điều ấy chưa. Tôi tưởng chắc lỗi thì nhiều, chớ lập chí Thánh thì như mấy lời dạy trên đây chưa có.

Than ôi! Ðã chưa có mà còn tệ hơn nữa là phần nhiều đã xa nền Ðạo cho đến đổi có lời Ðức Lý Giáo Tông trách như vầy: "Người trong Ðạo có số cho đông chớ tâm trung không một mảy chi thành thật; hiệp bề ngoài mà lòng Ðạo chưa thuần, nét thương tâm chưa có, hạnh đức chưa hoàn toàn".

Ngày nào mà Ðạo chưa được hòa, người một Ðạo chưa đồng nhứt tâm, thì đèn rọi thiêng liêng chưa đủ tỏ mà soi cho mấy chục triệu dân sanh nơi đây.

Ngày nào Ðạo chưa hòa, thì không ai được lời Thánh Giáo nữa.

Theo nhân sự làm con mà làm cho ông cha buồn rầu thì cũng thất hiếu! Trong Ðạo mà không hòa thì tự nhiên Ðấng Ðại Từ Phụ cũng sầu não với đám con ngỗ nghịch. Tôn chỉ Ðại Ðạo là đó.

Ngày nay chúng ta thành tâm lập lễ kỷ niệm nầy thì tôi tưởng cũng nên thành tâm mà chọn một người bàn hội cho đủ đạo đức, cho đủ tư cách. Bàn hội ấy hiến công đi dạy dỗ khuyên lơn trong Ðạo Hữu Nam Nữ từ lớn tới nhỏ, phải lo trau giồi hạnh đức như mấy lời tôi thố lộ trên kia. Bàn hội ấy lo cho Ðạo Hữu Thánh Thất Cầu Kho đây, mỗi tuần phải ra công xem xét có việc bất bình trong Họ, thì phải lo phương cứu chữa cho được yên tịnh. Mỗi tuần phải có tờ phúc cho ông làm đầu trong Họ, hay là cho ông Chủ địa phận trong Ðạo.

Tôi sẽ truyền cho mỗi Họ đều sắp đặt như vậy, ấy cũng phương châm chế cho trong Ðạo hòa bình chớ chư Hiền hữu cũng thấy rõ nhiều việc biến trong Ðạo. Trải qua mấy thu rồi, chư Ðạo Hữu, chư Ðạo muội không đặng nghe lời Thánh Giáo, vậy tôi xin đọc một bài Thánh Ngôn của Ðức Ðại Từ Bi dạy Ðạo khi tôi đi phổ thông miền Hậu Giang.
"... Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Giáo Ðạo Nam Phương.

Chư môn đệ và chư nhu nghe:
Chim về cội, nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người giữa thế, chẳng qua là khách đi đường; phận sự muốn cho hoàn toàn, cần phải có bền chí và khổ tâm; có bền chí mới đạt phẩm vị thanh cao; có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh; lăng xăng xạo xự mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc cũng chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng; mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm quyền thế giái ban cho; dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán; ai giữ trọn bực phẩm, thì đặng Tòa Nghiệt Cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa Cầu 68 nầy; ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh, phải bị đọa vào nơi U Minh Ðịa; để trả cho xong tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ; bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên Ðiều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác. Bậc nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm đắm vào số luân hồi; vay trả, trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng. Các bậc Thần, Thánh, nếu chẳng biết mối đạo là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát đặng.

Trời Nam may đặng một yếng sáng của Ðấng Ðại Từ Ðại Bi dẫn khách trần bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê; dụng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng Trời, vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm rừng xanh. Phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị nầy, ấy là một sự khó thi hành của khách phàm tục, mấy ai nong nả tìm đến cảnh thiêng liêng, mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm.

Ðạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần; nếu chẳng biết thế thời, giọt nước nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng." (**)

Trước khi dứt lời, tôi xin chư Ðạo Hữu, chư Ðạo muội bái lạy Ðấng Chí Tôn và rập cùng tôi tung hô cầu chúc: "Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát, xin bố phước lành cho chúng tôi lo cho tròn phận sự ..."
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Phụ ghi:
(*) Chúng tôi thêm vào phần nầy để phân biệt với bài giảng tại nhà ông Cả Hồ văn Nhơn.
(**) Nguyên bản của tài liệu, so với Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1 ngày 10-01-1927 bài 61 ấn bản năm Nhâm Tý (1972) có sự khác biệt về cách chấm câu. Ðể cho sự nhất thống chúng tôi xin thay thế bằng bài Thánh Ngôn nơi TNHT Q1.

Nguyên bản tài liệu gốc:
" ... Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Giáo Ðạo Nam Phương.
Chư môn đệ và chư nhu nghe,
Chim về cội nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người giữa thế chẳng qua là khách đi đàng, phận sự muốn cho hoàn toàn, cần phải có bền chí và khổ tâm. Có bền chí mới đoạt được phẩm vị thanh cao, có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh. Lăng xăng, xạo xự, mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng.

Mỗi bực phẩm đều đặng một vai tuồng của đấng cầm quyền thế giái ban cho. Dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhiệm, hầu buổi chung cuộc hồn lìa khỏi trần, đặng đến nơi khởi hành, mà phục hồi công cán.

Ai giữ trọn bực phẩm thì được Tòa Nghiệt Cảnh tương công chiết tội để vào địa vị thanh cao hơn chốn địa cầu 68 nầy. Ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh phải đi vào nơi u địa để trả cho xong tội tình công quả, cho đến lúc trở về nẻo chánh, đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng chẳng biết sửa mình, thì luật Thiên Ðiều chẳng chấm, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác. Bực nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm đắm, vào sổ luân hồi, vay trả, trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng.

Các bực Thánh Thần nếu chẳng biết mối Ðạo, là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát đặng.

Trời Nam may đặng một yến sáng của Ðấng Ðại Từ Bi dẫn khách bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dùng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng trời vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh Thiêng liêng biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm, rừng xanh, phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị nầy, ấy là một sự khó thi hành cho khách phàm tục. Mấy ai nong nả, tìm đến cảnh Thiêng liêng mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm. Ðạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần, nếu chẳng biết thời thế, giọt nước nhành dương, hết chờ khi rưới khổ đặng."

BÀI GIẢNG ÐẠO
Tại nhà ông Cả Hồ Văn Nhơn Bến Tre
Ngày 24-8 Mậu Thìn (7 Octobre 1928).

Chư Quí Ðạo Hữu, Ðạo Muội, chư Thiện Nam, Tín Nữ,

Ðường xa viễn vọng, cách trở ngàn trùng, anh em chúng tôi chẳng ngại ngùng đi đến đây, trước khai đàn cho ông Cả Hồ Văn Nhơn và vợ là Lê Thị Liêng, sau chỉ rõ anh em được biết mục đích tôn chỉ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Vả chăng hạt Bến Tre đây là chỗ địa linh nhơn kiệt, xuất hiện nhiều nhà thi văn đặc biệt, tôi đâu dám tự phụ tài hay học giỏi mà múa búa trước cửa Lỗ Ban, diễn văn nơi làng Khổng Thánh, nhưng sở dĩ có mấy lời hèn mọn tỏ ra đây mong cho anh em chị em hiểu rõ nguồn cội Ðại Ðạo Tam Kỳ.

Ðạo vẫn rất cao sâu mầu nhiệm, nếu dẫn từ khí Hư vô sanh ra Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng vân vân ... thì dong dài và rất khó hiểu cho phần nhiều trong em út chưa rõ Ðạo. Vậy tôi xin cắt nghĩa cuộc tuần hoàn giác thế, nền Ðạo khai và khai tại nước Nam Việt ta cho chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội hiểu rõ đặng có đủ đức tin, ngõ hầu sốt sắng lo hành đạo theo thời kỳ nầy.

Từng nghe: "Thiên Ðịa tuần hoàn, châu nhi phục thỉ".
Từ tạo Thiên lập Ðịa, càn khôn phát khởi tới ngày nay biết mấy muôn mấy vạn lần xuân qua hè lại, thu mãn, đông tàn, nay tới đời Hạ ngươn mạt kiếp cũng gọi là cuối cùng.

Phàm muôn việc đều có thỉ có chung, có khởi có cùng như một ngày một đêm 12 giờ, khởi ư Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi.

Tới Hợi rồi thì phải khởi lại Tý. Mỗi tháng khởi mồng một tới ba mươi cuối tháng rồi khởi lại mồng một nữa. Năm thì khởi tháng giêng đầu năm, rồi lại tới tháng chạp là cuối năm thì phải khởi lại tháng giêng. Mỗi tháng chia ba tuần, mỗi tuần 10 ngày; mỗi năm chia ra tam ngươn: Thượng ngươn, Trung ngươn, Hạ ngươn. Ấy là luật tuần hườn của Trời phân định, việc thế thì cũng phải có tuần hườn vậy. Hồi tạo Thiên lập Ðịa, càn khôn phát khởi rồi cũng phải tới cuộc cuối cùng, như cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng đêm, cùng giờ, cùng khắc v.v... Nên cũng chia ra tam ngươn: Thượng ngươn, Trung ngươn, Hạ ngươn. Mỗi năm trời đất đều lớn hơn ngươn năm trước. Nay tới đời Hạ ngươn hầu bước qua Thượng ngươn khởi lại nên nhân vật đổi dời. Ðạo là tối trọng tối quí trong đời, Ðạo vẫn có trước rồi mới có đời. Ðạo đời đi cặp nhau. Ðạo như cái lưới bao trùm Càn khôn Thế giới, không có việc chi từ lớn chí nhỏ mà ra khỏi Ðạo. Nay vì cuộc tuần hoàn và vì căn bổn háo sanh nên Ðấng Chí Tôn chuyển Ðạo lại.

Dẫn hồi tạo Thiên lập Ðịa thì nội vùng Á Ðông đây văn minh trước, nên từ Bàn Cổ sơ khai, Ðạo cũng khai bên vùng Á Ðông trước, như: Ðạo Phật thì mở khai tại Thiên Trước là Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, Thích Ca khai Ðạo Phật. Ðại Ðạo là Ðạo Tiên thì Lão Tử khai tại Trung Huê, sau nữa Khổng Phu Tử khai Ðạo Thánh cũng ở Trung Huê là ở miền Á Ðông. Sau lần lần Ðạo trải khắp qua hướng Tây nên Ðức Chúa Giê Su truyền Ðạo Thánh bên hướng Tây. Kế đó Ðạo mới rọi truyền ra khắp năm châu.

Ngày nay là châu nhi phục thỉ, nên Ðại Ðạo phát ra tại Á Ðông nầy. Bởi cớ ấy nên trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ Tổ cho hai câu đầu như vầy:
"Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh thái dương rọi trước phương đông... "

Mặt trời mọc hướng Ðông rồi lần lần lặn thì qua hướng Tây Ðạo truyền ra cũng như thế.

Người nước Nam từ cổ chí kim thiệt không có Ðạo, trong nước nhà mà người Nam ta có tâm đạo; người Nam trổi danh khắp địa cầu về bề tín ngưỡng, Ðạo Phật, Ðạo Tiên, Ðạo Nho tuy khai bên Ấn Ðộ và bên Trung Huê, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái. Ðạo Gia Tô của mấy Linh Mục bên Thái Tây đem gieo truyền bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miểu, đi nhà thờ cầu khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng mộ Trời Phật. Người không đi chùa, đi miểu, không đi nhà thờ, thì trong nhà cũng thờ ông bà cha mẹ quá vãng ấy là Ðạo Nho. Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ rằng người Nam Việt tin tưởng Trời Phật, Thánh Thần, tin tưởng chắc rằng chết thì cái xác phàm nầy chết tiêu diệt, chớ linh hồn bất tiêu bất diệt, vì đạo tâm ấy mà trong thời kỳ chuyển đạo nầy Ðấng Chí Tôn thương lòng thành thật của nhơn sanh nơi đây mà khai Tam Kỳ Phổ Ðộ (ân xá lần thứ ba).

Tuy khai Ðạo tại nước Nam mà cũng khởi ư Ðông. Bàn Cổ sơ khai Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Từ năm Bính Dần, Ðạo phát khai tại Tây Ninh lần lần truyền ra Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Chợ Lớn là mấy hạt ở về hướng Ðông. Qua năm thứ nhì thứ ba, Ðạo mới truyền ra mấy hạt hướng Tây.

Trong thời đại Hạ ngươn đây, nhân loại ở thế gian phần đông vì ham cái văn minh vật chất, ham ăn mặc sung sướng, giành giựt cấu xé mồi phú quí, bả vinh hoa, vẻ cân đai, mùi chung đỉnh, mạnh còn, yếu mất đua chen lẫn lộn.

Than ôi! Nhân loại như thế sao khỏi động lòng Trời!
Ðấng Chí Tôn vì háo sanh, đại từ đại bi, thấy nhân loại đang mờ mịt trong vòng hắc ám, lầm đường lạc nẻo, mới khai Ðại Ðạo để độ dẫn chúng sanh thoát khỏi bến trầm luân khổ hải nầy.

Tôi chỉ rõ cho Thiện Nam Tín Nữ biết rằng: Người Nam không Ðạo nhà, mà nay Ðấng Chí Tôn thương tâm đạo chúng ta nên khai Ðạo tại đây. Hồi năm đầu khai Ðạo, Ðấng Chí Tôn có cho ông Nguyễn Thế Vinh cũng là người đạo đức và con nhà nho phong ở tại Chợ lớn một bài Tứ tuyệt như vầy:
"Từ thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả,
Rằng trẻ noi sau biến hóa già."

Bài Tứ tuyệt nầy chứng tỏ rằng từ cổ chí kim nước ta không Ðạo nhà. Nước mà không Ðạo cũng ví như người ta không hồn, nhà không đạo đức tự nhiên cang thường luân lý phải suy bại.

Ðạo là gì? Ðạo rất cao sâu mầu nhiệm, Ðạo bao trùm Càn khôn Thế giới, không có vật chi, không có việc chi ra khỏi Ðạo, tôi xin diễn tắt rằng hễ có Ðời tức nhiên có Ðạo.

Trong thế sự chia ra hai bên, một bên hữu hình, một bên vô hình. Hữu hình hữu hoại, vô hình bất tiêu bất diệt.

Hữu hình là những vật chi mình rờ nắm được như cái bàn cái ghế, cái xác phàm ta đây là hữu hình, vì ta rờ nắm được, ấy vậy xác phàm ta phải tiêu phải diệt. Còn vô hình như gió như mây, muôn năm ngàn kiếp, gió mây có tận diệt bao giờ, mà có ai bắt gió đón mây cho được. Linh hồn ta cũng như gió như mây vậy bất tiêu bất diệt, nên phải luân hồi chuyển kiếp, tùy theo công quả của ta cấu kết nơi trần thế đây. Hễ hiền thì thăng, dữ thì phải đọa, vay vay, trả trả, y theo Thiên Ðiều phán định, lỗ kim không lọt, một mảy chẳng sai nên Thánh nhơn Ngài có chỉ trong câu: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu!".

Than ôi! Ít người nghĩ cho kỹ, vì trong cuộc trần thế nầy nhiều bẫy rập, níu kéo chúng sanh đem thân trần cấu gieo miền trầm luân. Ai ai cũng tranh giành nhau trên đường danh bể hoạn, lo ăn ngon mặc đẹp, ở lầu cao gác rộng, nhà dọc dãy ngang, thềm gấm sân hoa, tiêu xài huy hoát. Than ôi! Ðường thế bày trò hư hoại, người bị chôn lấp trong chốn hí tràng qua lại ngựa xe. Than ôi! Nhân loại chỉ biết Ðời, bao giờ nghĩ đến Ðạo, người một Ðạo cùng nhau mà nhiều khi nhìn như kẻ Tần người Việt, trong một làng một xóm với nhau mà coi như cách biển Sở sông Ngô, chỉ bo bo lo cho mình, một mình mình ấm, một mình mình no, một mình mình yên vui, một mình mình sung sướng, từ sớm mai đến tối, từ tối đến sáng, thỏn mỏn lần lựa tháng ngày cứ lo giành giựt, giựt giành, lao thân tiêu tứ. Ít ai nghĩ hồn lìa khỏi xác thì đem theo có một chữ tội với một chữ phước. Người có tu tâm dưỡng tánh biết thương đồng loại biết giữ đạo nhơn luân thì hồn được siêu thăng tịnh độ!

Người ít nhơn đức hơn nữa, đều cũng có làm lành lo âm chất trong khi ở thế, thì được đầu thai lại mà hưởng phước. Còn kẻ vô đạo đức, không kể nhơn luân, chẳng biết thờ kính Trời Phật Tiên Thánh thì phải bị đọa A Tỳ, chịu ngục hình khảo phạt trừng trị những tội ác đã kết ra trên thế sự. Ấy là những việc huyền bí nhiệm mầu trong Ðạo.

Người muốn cho linh hồn khỏi mấy điều khổ nhục ấy, thì phải biết đạo mà trau giồi hạnh đức, phải lo tu tâm dưỡng tánh.

Tu nghĩa là trau giồi tánh hạnh.
Tu không phải từ mơi tới chiều tụng kinh gõ mõ mới gọi rằng tu.

Tu có nhiều bực: Bực Thượng thừa phải ép mình hành xác, phải nâu sồng khổ hạnh, lo làm âm chất, lo công quả cho Trời Phật, chừng quả mãn tìm chỗ u nhàn mà luyện đạo, ấy là bực Thượng thừa. Nếu trong thế gian mỗi người đều phế công việc mà tìm chỗ u nhàn như vậy, thì thế sự nầy phải ấm lạnh, có ai đâu mà lo nhơn đạo.

Con người ở thế mỗi cá nhân đều có phận sự, nếu bỏ phận sự thì thất nhơn đạo mà không Ðạo nào tránh khỏi nhơn đạo cho được. Người hành đạo mà bỏ nhơn đạo, không lo nhơn đạo cho hoàn toàn thì hành đạo vô ích.

Ấy vậy trước hết phải biết Ðạo, là biết có Trời, có Phật Tiên Thánh, phải biết có luân hồi chuyển kiếp. Theo nhơn đạo, trai thì lo tam cang ngũ thường, gái thì tam tùng tứ đức. Trước hết lo tu tại gia, tại thiền, tại thị, lo làm lành lánh dữ trau giồi tâm tánh chơn thành, ấy là tu, đạo làm người nhơn nghĩa lễ trí tín phải giữ hẳn hòi, tam cang phải nắm chặt.

Ở thế phải tùng theo luật thế. Ðối với quan viên chức sắc phải biết bổn phận làm dân, phải nhớ câu sám hối:
"Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà".

Nếu mình sanh rối loạn trong xã tắc, nếu mình không tuân pháp luật thì mình là người loạn, có đạo đức chi.

Ðối với cha mẹ, anh em chị em vợ chồng con cái thì phải biết công sanh thành dưỡng dục là ơn trọng không kể xiết, phải giữ câu hiếu để mà bồi đắp ơn sâu.
Anh em cốt nhục đồng bào, phải giữ chữ thuận hòa cho vẹn.
Vợ chồng nghĩa nặng, đối đáp nhau như cân thăng bằng, giữ được vậy mới trọn nghĩa.
Ðạo làm cha là thay mặt cho Tạo hóa đặng dìu dắt linh hồn ấu nhi trọn bề đạo đức.
Người nào giữ Nhơn đạo cho hoàn toàn thì lo gì không gần Thiên đạo.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Phụ ghi: Theo nguyên bản chánh ghi là:
Từ trước nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví dầu ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ roi sao biến hóa già!
Ðối chiếu lại với Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1 Thi Văn Dạy Ðạo bài thi Tứ tuyệt thứ 100 ghi là:
Từ thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả,
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.
Chúng tôi xin căn cứ theo bản in của Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

Ai Ðiếu
THƯỢNG PHẨM CAO QUỲNH CƯ
Ðăng Tiên ngày mồng 1-3 Quí Tỵ (10 Avril 1929).

Quí Ông, Quí Bà,
Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Ngày mồng một tháng nầy vì phận sự tôi phải đi Nha Mân, qua mùng hai tôi đi Vũng Liêm cùng Hiền hữu Ngọc Trang Thanh.

Lúc thượng lộ lòng tôi bắt buồn bực không kể xiết. Tôi thầm hỏi: "Mình đi lo việc đạo, cớ sao không đặng vui như mấy lần khác?"

Sáu giờ rưỡi chiều tới Thánh Thất Vũng Liêm, có Hiền hữu Thái Thơ Thanh, Thượng Giảng Thanh, Thượng Lân Thanh hành lễ vừa rồi chạy ra liền nói:
- Thượng Phẩm décédé.

Nghe qua dường như sấm nổ, người dầu gan sắt, dạ đồng nghe tin nầy cũng bắt động tình thương xót, huống chi tôi cùng Ðức Cao Thượng Phẩm trong mấy năm dư cùng nhau keo sơn gắn chặt, thọ thánh chỉ của Ðấng Chí Tôn đi phổ thông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Nay: Người ly trần cỡi hạc về quê, kẻ nhơn thế còn lo độ chúng.

Khiến cho ta nghĩ:
Nhiều bậc công hầu vương bá, tài lực biết bao, mà chừng Trời không ngó cũng chác sầu tây.

Nay một Ðấng hiền lương đạo đức, chừng Trời kêu đến phải mau hồi cựu vị.

Ấy chỉ rõ quyền Chí Tôn rất lớn lao vô cực, vô đại, mà thương hại cho những người vô đạo đức không suy xét lời Thánh Hiền: "Vạn ban đô thị mạng, bán điểm bất do nhân".
Ấy chỉ rõ Thiên cơ.
Thời kỳ Thầy lập Ðạo vô vi.

Hồi chưa khai Ðạo nhơn sanh còn phàm, nên mượn xác phàm của Tín đồ, Thầy độ rỗi chúng sanh. Nay Ðạo thành có người lập đặng chí Thánh.

Thượng Phẩm là Ðạo phải trở lại Thiêng liêng chi vị đặng đem các chơn hồn vào cửa Thiên.
Suy xét kỹ đâu dám để dạ ưu phiền.
Trách là trách trong Ðạo còn nhiều người tật đố làm cho trong Ðạo nhiều phen bất hòa, khiến thuyền Bát Nhã gần ra khỏi bến.

Than ôi! Nhiều người lấy sức lực phàm phu, không lòng từ bi bác ái, giành xé nhau vì chút quyền vô vị nơi trần thế đây mà làm cho lắm người tâm thành trí vẹn, may chút nữa phải mỏi lòng đạo đức.

Than ôi! Một năm qua rồi nhìn Ðền Thánh như cảnh sầu bi, xem nền Ðạo giống nhà vô chủ!
Kìa cây sầu lá xủ!
Nọ cỏ úa sương gieo!

Thiên ý muốn một điều là phải ăn năn sám hối, ai có lỗi mau mau tự hối cải, tập từ bi bác ái nhịn nhục nhau thì Ðạo mới hòa.

Thầy chỉ rõ: Thiên cơ đã định đều cũng kết một cuộc tương thân tương ái.
Tuy Thượng Phẩm về cùng Thầy là nơi phước hạnh không chi sánh kịp.
Non chiều phụng gáy,
Ðộng Thánh qui chầu.
Là nơi u nhàn cực lạc.

Song nhìn còn tại thế: Một Từ Huyên bóng xế trăng lờ, lại gặp cảnh tre già khóc măng, nhớ con thảo biết bao tình thảm thiết.
Vợ hiền lương lẻ bạn giữa đường,
Mà cuộc gia thê trăm bề quạnh quẻ.
Không xiết nỗi thương!

Ôi! Chiếc nhạn kêu thu cũng là một cảnh sầu nơi trầm luân khổ hải nầy.

Một con thơ còn bơ vơ nơi đất khách, sau dầu bước đặng thang mây, vinh qui bái tổ, ôm Tháp nầy khóc than.
Nhớ cha hiền đà cỡi hạc qui Tiên,
Mẹ góa con côi trăm bề eo hẹp.
Ấy gương nâu sòng chập chồng trên một nền nhà đạo đức.
Ðạo lập thành người chí Thánh đâu ngỡ ngó ngơ.
Hỡi ôi! Thương thay!
                                                                          THƯỢNG TRUNG NHỰT

Tòa Thánh, ngày 14 tháng 7 năm Kỷ Tỵ (dl. 18 Aout 1929).
Lễ phát thưởng cho học sinh Ðạo Ðức Học Ðường

Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Bóng thiều quang nhặt thúc, cuộc ngày tháng lụn qua, Mậu Thìn bước sang Kỷ Tỵ, nay trót ba năm dư, lần tay tính Lễ Trung Ngươn đây là Lễ Trung Ngươn thứ ba. Thiên Ðịa tuần hườn, chia ba ngươn dựng lại, mỗi năm cũng chia ra ba ngươn, cũng như người có tam tiêu, ai biết điều lành chánh lý cũng tùy âm dương vận chuyển, được một điều nên biết trước là đường Ðạo lắm chông gai, hằng ngày lo lắng, bước từ bước gìn cho chặt bước.

Ngoảnh lại, ba năm trước chúng ta là một lũ con hoang, lớn nhỏ mê đường danh lợi, sa đắm trầm luân đã đến đỗi, khi biết hồi đầu toan trở bước, mà chẳng có nhà thọ truyền chánh giáo. Trời hằng thương con dại biết bao, mới vận trù thiết kế lập thế độ nhà Thiền, mượn cảnh Chùa Gò Kén cheo leo, lập Pháp Chánh Truyền mà khai Ðại Ðạo, mười bốn tháng mười (14-10) năm Bính Dần sang năm Ðinh Mão lúc hạ tuần Thượng ngươn, đất bằng sóng dậy. Trời đương thanh bạch, khiến ngút tỏa mây giăng, trong mối Ðạo hằng mang ách nạn, vì có đơn vào nơi Chánh phủ. Bốn muôn dư đồ đệ của Ðấng Chí Tôn lòng dạ ủ ê, ngồi nhìn cảnh non sầu tuyết xủ, giọt lụy tuôn dầm.

Ðêm 13 tháng 2 năm Ðinh Mão (1927) quả Càn Khôn, cốt Phật Tổ, Tòa Bát Quái, Tượng Ngũ Chi, vậy phải dời đi hết. Ðức Lý Giáo Tông truyền dạy mua đất Long Thành, cất chòi tranh, y lời Ngọc Trang Thanh khẩn vái, thảm thiết bấy đêm dời cốt Phật, trời vần vũ tỏ cuộc bi ai, thương bầy con đỏ, đất rung rinh dường đưa cốt Phật qua miền Chùa mới, từ Gò Kén qua tới đây Ðạo Hữu Nam Nữ lao nhao, lố nhố, chen chật đường sá sáng đêm, qua tảo Thìn chư Phật được yên nơi yên chỗ, đều cũng ở ngoài rừng trống, dãi nắng dầm mưa. Kế đó người phá rừng, đánh gốc bứng chồi. Kẻ dỡ gỗ, đánh tranh, tạm một lều tranh che cốt Phật. "Mái tranh thưa thớt, bóng trăng rằm giọi thấu lòng son, vách tre xịch xạc, ngọn gió thổi lồng tạt sương trắng". Ấy cảnh chùa nguồn Ðại Ðạo hồi năm Ðinh Mão, còn kể chi sao xiết, việc đắng cay ngăn đường đón ngõ, như mường tượng phần nho khanh sĩ.

Ôi! Khi ấy, thương bấy chí hào kiệt trí tri chẳng núng, ngày nay nhìn mặt anh hùng nước mắt lại nhỏ sa, tuy mạch sầu như thế. Nhưng Thượng Ðế lắm phen độ chúng sanh qua khỏi tai nàn, cảnh chùa rách Phật vàng chỉ rõ. Tuy tạo phạo chùa tranh, trong Ðạo thật là rất thạnh hành, thảy thảy đều trọn câu Phổ Ðộ; tôi hằng nhớ lễ Trung Ngươn năm Ðinh Mão, nhũ người đến dư muôn, sang Mậu Thìn cuộc tuần hườn cơ tạo hóa vần xây, mà cuộc thạnh suy khiến cái dây liên ái Thầy ung đúc bấy lâu, thế ý cũng muốn lơi. Máu anh hùng không phai lợt, kế tà quái xen vào, xem đường Ðạo thể như dừng bước, người cậy sức, kẻ lại khoe tài, tranh quyền lấn bước, khiếm trật tự, mất khiêm cung, Ðạo rấp lạc đường, người hành Ðạo gần xa Thánh Giáo, kẻ muốn tẻ nẻo, người toan tự lập, đem thế lực phàm phu, đánh đổ lẫn tâm thành, đức vẹn, người hành Ðạo chẳng tôn ti thượng hạ, tranh lấn chẳng khác nào như nước không Vua, như nhà vắng chủ.

Tòa Thánh đìu hiu không người lui tới... trong buổi ấy:
Trống Lôi Âm giéo giắc như khải cơn sầu!
Chuông Bạch Ngọc rền rang dường khêu mạch thảm!

Trách bấy những người gieo ác cảm, làm cho Trời đổ lụy đòi phen, thương bầy con dại cấu xé tranh đua chẳng hòa theo Thiên ý.

Nay Thầy chấn chỉnh nền Ðạo, kêu Chức Sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng có trách nhiệm lớn lao về Tòa Thánh vun trồng cây đức, ba tháng nay nhờ Thiêng liêng giúp sức, cùng anh em xây cật đâu lưng lo chấn hưng chơn Ðạo trở nên thạnh hành, cất tiếng than với người ngoan ngạnh, lỗi một thuở làm chênh nghiêng nền Ðạo. Thiếu chút nữa thuyền Bát Nhã dang ra khỏi bến, nhờ ơn trên Ðại Từ Phụ quá yêu tha lỗi trước, dắt dìu lại nữa, khuyên từ đây phải rèn lòng cải sửa lỗi xưa, bỏ tánh tự kiêu, tự bạo mà trau giồi đạo đức. Vậy rán nhớ các việc hồi năm Mậu Thìn kiêng dè chừa lỗi, nên mấy vị Giáo Hữu, mấy em học sinh, cùng nhi nữ. Trong mấy năm dư Ðạo nghèo, nên mấy em chịu phần hui hút, còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc người đè, cũng không săn sóc mấy em trẻ dại, để mấy em chiu chít như gà kia mất mẹ.

Ít người xét cổ suy kim, mới biết rằng Tôn Giáo nào cũng nhờ học thức mà thìn mối Ðạo, truyền Chánh Giáo mới đặng tròn câu phổ độ. Ðạo nghèo đồng tiền eo hẹp, còn thầy giáo huấn không một đồng lương, lại thêm ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công quả vui cùng sanh chúng, học sinh Ðồng nhi Nam Nữ tập viết bằng lá buông, chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường, bề ăn uống tương rau hẫm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thì giờ, mấy anh đây mới lập trường mà phát thưởng, lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục mấy cháu hết lòng lo đạo đức.

THƯỢNG TRUNG NHỰT
Bài Diễn văn của Thượng Ðầu Sư
VỀ LỄ KỶ NIỆM KHAI ÐẠO
Tòa Thánh, ngày 14 tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1929)

Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Trung Ngươn vừa mãn, Hạ Ngươn vừa qua. Hôm Trung Ngươn tôi đã có nhắc ngày Ðấng CHÍ TÔN hoằng khai Ðại Ðạo Tam Kỳ gieo truyền Chánh Giáo là ngày 15 tháng 10 giờ Tý năm Bính Dần (1926).

Chúng ta biết noi gương hiền triết, cổ nhơn, vầy cùng nhau phủi bụi phồn hoa, đặng tùng theo Tam Giáo là kể từ ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần, nên lấy ngày Lễ Hạ Ngươn đây làm lễ kỷ niệm ngày Ðấng CHÍ TÔN hạ trần tại vùng Nam ta đặng hoằng khai Chánh Giáo để gieo truyền hậu thế.

Xuân qua, hè lại, thu mãn, đông tàn, cuộc tuần hoàn kim cổ, cổ kim, nhơn sanh chung hưởng Thiên ân biết bao.

Hại thay! Ít người hiểu riêng rằng có Thiên lực trợ thế, nên ngày nay cõi dinh hoàn đặng tấn hóa nguy nga, văn minh đồ sộ; hiềm một nỗi nữa là tánh phàm lòng tham không đáy, nên đường đời sanh trăm mối tơ vò, ách nạn không xiết kể.

Từ Hiên Viên Huỳnh Ðế chí dĩ Hạ Ngươn, biết bao nhiêu cuộc tuần hoàn thạnh suy bỉ thới. Xem lắm nghiệp bá đồ vương dựng nền Võ trụ mà rốt cuộc lòng tham tràn nhẫy, tánh bạo ngược lẫy lừng, làm cho nhơn sanh đồ thán. Ðấng Chí Tôn (Hóa công) đòi phen đổ lụy phải lập cuộc tang thương trừng trị, vì câu: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo". Xét cho kỹ Tần Thỉ Hoàng tìm thuốc trường sanh lòng muốn giữ chặt ngôi muôn thuở; ngăn Hồ Lỗ, lập Vạn Lý Trường Thành công sanh mồ hôi giọt nhỏ. Cảnh Ðế Thiên Ðế Thích to tát biết bao, vạn quốc nhận vào cơ xảo tuyệt thế. Gian hùng mưu sâu quyệt kế ai bằng Lữ Bất Vi mà rốt cuộc rồi vi cũng vơ vi.

Hào kiệt sức năng cử đảnh, ít sánh Sở Bá Vương sau cũng dâng thủ cấp cho Ô Giang Ðình Trưởng. Nào Vạn Lý Trường Thành, Ðế Thiên Ðế Thích bền chặt cổ kim ít có, mà cũng hóa ra cuộc thành xiêu vách ngã, cỏ loáng rêu phong; Lữ Bất Vi cùng Sở Bá Vương lịch sử ngàn năm đều nêu danh ác.
Người trong vòng Trời Ðất chẳng nên cãi quá lòng Trời, vì Tạo Hóa rất công, lòng Trời vô tận.
Tôi xin nhắc lại lời Thánh Giáo của một vị Langsa hồi thế kỷ 18e Siècle, Malherbe a dit: "Vouloir ce que Dieu veut c'est la seule science qui nous mettre en repos".

Theo ý Trời muốn là phương châm hay cho làm cho chúng ta êm tịnh. Lời ông hiền triết nầy cũng như lời Thánh trong sách Nho: "Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong".

Một kiếp con người tựa như giấc Huỳnh lương, thì giờ ngắn ngủi, phải tùy theo phận sự trả nợ cho Ðấng Hóa Công, phải tùng chánh lý, từ côn trùng thảo mộc tới bực nhơn sanh các tư kỳ phận, bởi có câu: "Nhứt toán họa phước lập phân". Hại thay cuộc chen lấn ở cõi trần thường giục lẫn người thây phàm hay tự bạo tự kiêu, ít suy, ít nghĩ; còn nơi vinh hoa phú quý thường ngăn cản đường tu, cân đai lòe loẹt hay buộc chặt xác phàm.

Bởi vậy bốn năm dư chuông Thánh truy hồn, thuyền Bát Nhã đổ bến mê tân chờ rước khách trần, hầu tế độ kẻ vô phần không phước, phần nhiều vì mắt thịt với trí phàm xa không thấu đáo Ðại Ðạo Tam Kỳ mà chưa trọn hiểu, tánh vẫn còn mờ hồ kết thêm tội lỗi, vào đường tu mà chưa cổi tánh phàm, còn tranh tranh lấn lấn chức quyền mọn trong Ðạo. Ít người khắc kỷ tu thân, vùi lấp cho chúng sanh mà còn lấn người trong nền Ðạo, mến chỗ cao sang quyền thế như hồi trần thế. Ðã lánh chốn phồn hoa đem gót ngọc dựa cửa thiền, phải rán ngăn ngừa tục lự, mắt ngơ tai điếc, diệt tận phàm tâm trau giồi hạnh đức, cầu khẩn Ðức Từ Bi rưới giọt nhành dương, giục tắt lửa lòng, hằng ngày lo tụng kinh cầu sám chuộc tội tiền khiên nên danh hiền triết.
Mong thay! Mong thay!
THƯỢNG TRUNG NHỰT

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Ngũ Niên)
Tòa Thánh, ngày 28 Décembre 1930.
TÒA THÁNH
      -----         
   Số: 66          

Châu Tri cho chư Hiền Hữu Ðầu Quận Ðạo, Ðầu Họ Ðạo và chủ Thánh Thất.

Chư Hiền Hữu,
Từ cổ chí kim trong Tôn Giáo nào cũng phải có trật tự lễ nghĩa.
Trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã có định:
1 - Trách nhậm của mỗi Chức Sắc.
2 - Kinh sách, Châu Tri, tờ giấy chi cũng do nơi Tòa Thánh ban hành ra cho Ðầu Quận, Ðầu Họ và Chư vị Chủ Thánh Thất do theo mà bố cáo cho Ðạo Hữu thông hiểu.

Mới đây nhiều Chức Sắc không có quyền ban hành việc chi cho chư Hiền Hữu, tự do không tuân luật Ðạo, in kinh sách lấy danh Ð.Ð.T.K.P.Ð. để trên bìa sách mà gởi cho chư Hiền Hữu, ấy là một việc làm cho rối loạn trong nền Ðạo.

Ðức Lý Giáo Tông đã ban hành rành rẽ cho ba vị Chánh Phối Sư Nam Phái và Nữ Chánh Phối Sư lo hành chánh.

Vậy từ đây giấy tờ, kinh sách chi không phải tôi hay là ba vị Chánh Phối Sư ký tên và có đóng dấu của mỗi Phái (Ngọc, Thượng, Thái) của Ðấng Chí Tôn định; và tờ giấy Châu Tri của bà Chánh Phối Sư Nữ Phái Hương Thanh thì bà ký tên và con dấu của bà.

Không phải mấy vị trên đây ký tên và con dấu ấn tích thì đừng tuân theo và đừng nhìn là tờ giấy của Chức Sắc trong Ðạo.

Xin Chư Hiền Hữu lưu ý và phát Châu Tri nầy cho Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự bố cáo cho Chư Ðạo Hữu lưỡng phái biết mà ngăn ngừa những người vì ganh hiền ghét ngõ mà muốn phân chia con cái của Thầy, không khác nào như phân thây xẻ thịt của Thầy.
Nay kính,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ

BỐ CÁO
CÙNG CHƯ ÐẠO HỮU

Nay là buổi Thiên Ðịa tuần huờn, hoằng khai Ðại Ðạo, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế, vì thương nhân loại, rộng mở Ðạo Trời, để dìu dắt sanh linh vào đường đạo đức, hầu hưởng phước về sau.

Trót một năm trường, chúng ta đã chẳng nài khó nhọc, ra công phổ độ khắp nơi, mong sao cả dân chúng cải ác tùng lương mà chung hưởng ngày Nghiêu tháng Thuấn.

Nay Ðại Ðạo lập thành, Tân Luật đã ban ra, chúng ta cứ do theo đó mà hành đạo.

Về phần Thiên Ðạo, phải hết lòng thành kính Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải gắng trau giồi đức hạnh, dưỡng tánh tu tâm mà hồi minh khử ám.

Còn về phần Nhơn Ðạo, ta phải tuân theo phép nước, giữ phận thần dân, làm lành lánh dữ, mỗi mỗi phải do luật pháp mà cư xử, sưu lo thuế đóng, kính trọng quan viên, giúp nạn kẻ khó.
Xin nhớ mấy câu trong Kinh Sám Hối đây cho lắm:
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.

Trong Ðạo Hữu mới nhập môn, có một ít người chưa rõ tôn chỉ tối cao tối trọng của ÐẠO TRỜI buông lời đồn huyễn rằng: Vô Ðạo rồi thì tùng LUẬT ÐẠO mà thôi, khỏi chịu dưới quyền QUỐC PHÁP.

Lời đồn huyễn ấy rất trái lẽ, tuy tu hành mặc dầu, chớ không ra khỏi luật pháp Chánh Phủ đặng. Làm đến bực Hòa Thượng mà có tội cũng chẳng khỏi bị xử theo luật hình mà được.

Về phần tin tưởng tự do, tôi cũng nên tỏ cho chư Ðạo Hữu hay rằng: Không ai đặng phép ngăn cản chúng ta trong việc phụng thờ TRỜI PHẬT. Ta tin tưởng Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ, ta sùng bái Ngài, không một ai phạm đến quyền tự do ấy của ta được.

Chớ nghe đồn huyễn rằng Chánh Phủ bắt Ðạo mà sợ, rồi dẹp Thiên Bàn, cuốn THÁNH TƯỢNG, ấy là một điều đại tội cùng TRỜI PHẬT đó.

Chánh Phủ Ðại Pháp rất công, ai làm lành được bề êm tịnh, ai làm dữ bị tội tù, chúng ta tu là lo làm lành, mà đã lo làm lành thì bị tội nỗi gì?

Nếu Chánh Phủ muốn ngăn cấm điều chi thì chạy tờ Châu Tri, dán Yết Thị khắp nơi cho nhơn dân rõ biết, đâu đó phân minh, đường đường chánh chánh.

Còn nếu không có Châu Tri cùng Yết Thị thì xin chư Ðạo Hữu chớ vội tin mà lầm mưu kẻ nghịch Ðạo.

Trong chư Ðạo Hữu thảng như có ai bị cường quyền áp chế về việc phụng thờ THƯỢNG ÐẾ, xin mau mau gởi thơ cho tôi. Tôi sẽ dụng hết công tâm kêu nài cùng Chánh Phủ để làm cho kẻ ấy biết trọng quyền tin tưởng tự do của chúng ta.
Nay kính,
LÊ VĂN TRUNG
Thiên ân
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Ai Ðiếu
PHỐI SƯ THÁI BÍNH THANH (Rạch Giá)

Quí Ông, Quí Bà, chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Tôi vẫn biết miền Kiên Giang có lắm hiền triết thi văn đặc biệt, tôi đâu dám múa búa trước cửa Lỗ Ban, đọc văn nơi làng Khổng Mạnh.

Vì phận sự trong nền Ðại Ðạo, nên xin lỗi Quí Ông, Quí Bà, cho phép tôi thay mặt chư Hiền Hữu lưỡng phái, tỏ ít lời tâm huyết đưa Hiền Hữu THÁI BÍNH THANH nhàn du Tiên Cảnh. Ðất bằng sóng dậy, nền Ðại Ðạo chuyển xây, trên Tòa Thánh đêm 16, ve ngâm sầu lác đác, kế trưa 17 một mảnh giấy xanh đem tin báo rằng: Anh Phối Sư Thái Bính Thanh liễu Ðạo.
Ðoái Ðiện Bà non sầu tuyết xủ,
Nhìn Thánh Ðịa cây ủ lá rơi.

Chiều năm giờ nơi Bửu Ðiện người cầu kinh không ngăn giọt lụy.

Hỡi ơi! Gương vỡ bình tan!
Châu trầm ngọc nát!

Tưởng câu, nhứt đán mà ngậm ngùi, nghĩ chữ vô thường càng bát ngát, những tưởng trăm năm tuổi hạc, truyền nhơn luân rải khắp non sông, nào hay đâu một phút bóng câu, đem hồn phách gởi theo mây gió, đã biết người tu hành coi qui liễu hằng như Ðạo mở.
Nhưng mà, tình Ðạo Hữu nhìn biệt ly lòng dường muối xát.

Nhớ Linh xưa:
Ý tứ từ hòa, tánh tình liên lạc, nghĩa lân cận không kiêu không hãnh, gặp kẻ nghèo chẳng nỡ làm lơ, tình anh em cư xử chẳng dễ, chẳng khinh, thấy lúc ngặt không hề phai lạt. Lúc khai Ðại Ðạo Tam Kỳ, Thầy dạy làm Quả Càn Khôn. Nhớ anh! Nào ra công, nào tốn của, hiệp cùng Ðạo Hữu mới hoàn thành, khi lập Tân Pháp Chánh Truyền, Thầy bảo lập Tân Luật, nhờ anh, nào sắp ghế, sắp bàn hội với Thiên Phong mới kết tác, buổi dọn đất Tổ Ðình, Thầy chỉ phương hướng cho anh đo độ thước tấc mới thành một cảnh thiên nhiên, khi dựng hình Phật Tổ, Thầy nhắm chỗ cho anh sắp phương hướng mới nên một nền địa hượt.

Ôi! Trước mặt đây, con khóc cha, cha sao nỡ biệt ly, day lưng lại vợ khóc chồng, chồng bao đành phân cách, cảnh dường nầy, anh há vội tách gió lướt mây, tình dường ấy, anh bao đành tầm Tiên cỡi hạc. Thôi! Mây bay vì gió hết nỗi nì nằng, trăng án vì mây, không cùng than thở.

Ô qua, thố lại, cuộc hằng đổi xây, vật đổi sao dời, vân cẩu bóng câu thường tan tác. Vậy thì đồng đạo chẳng chi là trọng, nguyện cho linh hồn tảo đắc siêu thăng, cầu cho được sớm tiêu diêu nơi cõi thọ.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Ngũ Niên)
Tòa Thánh, 20 tháng chạp Canh Ngọ (7 Février 1931).
TÒA THÁNH
       -----        
     Số: 3          

Kính cùng:
- Chư vị Chủ Thánh Thất,
- Chư vị Ðầu Họ Ðạo,
- Ðầu Quận Ðạo,
- Chư Chức Sắc Thiên Phong lưỡng phái,
- Chư Ðạo Hữu Nam Nữ,
- Chư Hiền Hữu, Ðạo Tỷ, Ðạo Muội,

Vừng nhựt nguyệt vần xây,
Bóng thiều quang nhặt thúc.

Ngảnh lại hứng xuân Canh Ngọ chưa đặng bao lâu, nay đã sắp sang Tân Mùi, nền Ðại Ðạo bước qua năm thứ sáu.

Công trình Chư Ðạo Hữu biết bao:

Lắm phen vày vò thân thể, hằng buổi mòn mỏi tinh thần, đặng khuyến nhủ nhau làm lành lánh dữ, cải ác tùng lương, giữ dạ sắt đinh thờ Trời, kỉnh Phật.

Tôi thay mặt Hội Thánh cảm tạ công trình của Chư Ðạo Hữu và hết lòng cầu nguyện Ðấng Chí Tôn ban ơn lành cho Chư Ðạo Hữu lưỡng phái.

Rồi kế đây, đông mãn, xuân sang, chầu lễ Ngươn Ðán, Hội Thánh chúc mừng Tân xuân cho cả thảy chư Ðạo Hữu lưỡng phái.

Chúng ta vui mừng vì có Ðức Lý Giáo Tông cầm quyền. Chúng ta cầu nguyện xin Ngài đem sức Thiêng liêng giúp anh em chị em chúng ta siêng năng sốt sắng đặng mau lập thành Chơn Ðạo.

Tôi chúc mừng cho anh em, chị em, tinh thần minh mẫn, hết lòng hòa nhã, thảo thuận, đặng trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu và lo vun trồng cây đức, độ rỗi nhơn sanh lo làm lành, tránh được hung ác, lánh xa cuộc loạn ly làm cho đổ máu nhơn sanh, khiến cho Thiên sầu Ðịa thảm.
Làm sao cho cảm lòng Trời,
Sửa cơn ly loạn ra đời an vui.
Sửa thế nguy ra an mới vẹn,
Lấy từ bi, vun quén cây nhân.
Ðừng ham gây oán chác hờn,
Phải hơn đạo đức chớ hơn tài tình.
Chi chi cũng có khuôn linh ...

Nay kỉnh đốn,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Lục Niên)
TÒA THÁNH
        -----       
      Số: 11       
CHÂU TRI

- Cho Chư Chức Sắc Thiên Phong,
- Chư vị Chủ Thánh Thất,
- Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự,
- Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,

Chư Hiền Hữu,
Trong 5 năm rồi, nền Ðại Ðạo biết bao khổ não truân chuyên mà tai nạn còn chưa dứt!

Ôi! Mới rồi đây, trong bị Tà quyền tàng ẩn, xô cho chúng ta dang nhau, kẻ tính độc quyền, người toan tự lập, cắn rứt nhau như kẻ khác nhà, gà riêng ổ.

Ngoài người chưa rõ chơn lý Chánh Truyền của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, lại nghe nội công, vì hờn riêng mà phản đối, nên đem lời kích bác Thánh Giáo.

Ấy cũng một hồi thử thất, một lúc khảo căn tu. Khuyên chư Ðạo Hữu chớ sờn chớ rúng, bền lòng chặt dạ, dìu dắt nhau qua khỏi sông mê.

Ðạo khai để tạo thế, sửa đời. Có thiếu mới có tạo, có hư mới có sửa. Vậy thì cái khổ tạo thế, sửa đời vẫn là phận sự của chúng ta đã hẳn. Phải biết phận mình mới an tâm, tỉnh trí, liệu thế chuyển xây. Ðã khó ắt có hay đã gay thì có thuận, bền chí xem mảy mún cơ đời.
Ðã lâu rồi Ðức Lý Giáo Tông cho biết cuộc biến của Ðạo ngày nay.

Xin xem bài thơ dưới đây thì rõ:
Màn trời đặng vẹt ngút mây trương,
Bước đến đài hoa thấy tỏ tường.
Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối mòn động Bích chớ lầm đường.
Chánh tà hai nẻo tua tìm chước,
Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
Mê tỉnh chuông khua, phân biệt tiếng,
Rừng thiền nô nức loáng mùi hương.

Kế đây tôi xin nhắc Chư Hiền Hữu:
Lời chê bai kích bác là thường tình, thế sự, mình cứ mắt ngơ tai điếc, lo tuân theo y Tân Luật mà hành đạo thì đủ rồi, vì Tân Luật làm cơ qui nhứt của Tam Giáo.

Kể từ ngày ban hành Tân Luật Ð.Ð.T.K.P.Ð, thì Ngọc Hư Cung và Lôi Âm Tự đã bác Cựu Luật và Cổ Pháp.

Tôi xin sao lục Thánh Ngôn của Thầy hồi năm Bính Dần ra sau đây, xin Chư Hiền Hữu coi và chiêm nghiệm thì hiểu rõ cái tôn chỉ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Ngày 14 tháng 7 năm Bính Dần
Ðàn tại Vĩnh Nguyên Tự

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ Chư Môn Ðệ,
Lịch: Mời cả Chư Môn Ðệ Minh Ðường của Thầy ra nghe dạy.
Cười ... Các con đừng quấy tưởng rằng vì chia Phái, mà riêng Ðạo. Thầy cắt nghĩa các con nghe.
Nguyên từ buổi bế Ðạo, tuy Chánh Pháp ra cũ mặc dầu, chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền, luật lệ tuy cũ, chớ Ðạo vẫn như nhiên, do công đức mà đặng đắc Ðạo cùng chẳng đặng, nhưng mà có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít. Vì vậy cho nên các con coi thử lại từ hai ngàn năm nay bên Á Ðông đã đặng bao nhiêu Tiên, Phật. Các con duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi. Mạng đổi, chớ luật lệ chưa hề đổi, vì vậy, Thầy buộc các con tùng Cựu Luật, đặng qui phục Tam Giáo làm một.

Các con coi nghĩ sự tu hành khổ hạnh dường nào, đời mạt kiếp nầy dữ nhiều lành ít. Nếu Thầy chuyển pháp lại, thì chưa ai tu đặng trọn Ðạo, nên Thầy lựa Ngọc Ðầu Sư trong hạng thiếu niên mới có đủ công phổ độ. Trong phần nhiều các con chưa vừa lòng cho LỊCH ngồi địa vị ấy, cho nên có điều cản trở trong sự truyền Ðạo. Thầy cũng nhìn như vậy, song vì tiền kiếp LỊCH là nhờ đức TIỂNG, nên Thầy mới phú thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó. Các con đều có Chức Sắc chẳng lớn thì nhỏ, đều thọ Thiên Phong nơi Thầy.

Cứ giữ gìn phẩm vị các con, nhưng Thầy có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi phế hủy nửa chừng. Các con khá gìn luật lệ cho tới ngày Thầy lập thành Tân Luật. Thành cùng chẳng thành, cũng do tại nơi Thầy. Ðương lúc Thầy khởi Ðạo, thì luật pháp rẻ rúng đặng dụ kẻ biếng nhác. Các con đừng phế phận.
Thầy ban ơn cho các con.
THĂNG

Ngày nay Ðại Ðạo lại ban hành Pháp Chánh Truyền Chú Giải, thì Tân Pháp đã đoạt đặng.
Xin Chư Ðạo Hữu, Ðạo Tỷ, Ðạo Muội lãnh mà coi, thì rõ huyền bí trong Ðạo.
Về việc Hành chánh trong Ðạo, thì có Nghị Ðịnh của Ðức Giáo Tông phân quyền rành rẽ cho Chức Sắc Thiên Phong.
Xin Chư vị Thiên Phong rán lo sắp đặt Chánh, Phó Trị Sự, và Thông Sự cho có quyền đặc biệt.
Mỗi làng, cử một Chánh Trị Sự.
Mỗi xóm có một Phó Trị Sự và một Thông Sự coi dìu dắt mấy chục Ðạo Hữu, phải biên tên họ ra và ký tên trong sổ.

Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự cứ lo khuyên Ðạo Hữu làm lành lánh dữ, đừng dự vô cuộc loạn ly hay là việc chi trái đường đạo đức. An phận tùy duyên, lo làm ăn, khi rảnh thì sùng bái Trời Phật.

Thường ngày được vậy, thì khỏe khoắn tinh thần, đã yên lòng mình thì chớ, lại thuận lý Trời, xưa nay, thung dung tự toại, an nhàn, vui vẻ mà ngâm câu của Thánh Hiền đã dạy:
Giàu ngày ba bữa khó ba chiều,
An phận là hơn hết mọi điều.
Khát uống trà mai, hơi bát ngát,
Nực kề hiên trước, gió hiu hiu.
Giang san tám bức là tranh vẽ,
Hoa thảo bốn mùa ấy gấm thêu.
Ðỏng đảnh khuya nằm, sớm thức,
Khác chi dân thuở đời Nghiêu.

** *

Hôm mai gió thổi hiu hiu,
Cỏ hoa là bức gấm thêu nên đồ.
Thanh u sẵn cảnh bốn mùa,
Lựa là cứ chốn giang hồ mới vui?
Cảnh ưa, lâu cũng quen mùi,
Bên song hóng mát, nhớ người hòa thi.
Hẹp hòi nào sá quản chi,
Phen thì dặm liễu, phen thì ngần mai.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Vắn tắt ít lời khuyên nhủ, xin Chư Ðạo Hữu lãm tường.
Tòa Thánh, Rằm tháng 2 Tân Mùi.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Lục Niên)
Tòa Thánh, le 18 Avril 1931
(Ngày 30 tháng 2 năm Tân Mùi).
TÒA THÁNH
      -----         
    Số: 15         
CHÂU TRI

- Cho Chư Chức Sắc Thiên Phong,
- Chư vị Chủ Thánh Thất,
- Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự,
- Chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái.

Chư Hiền Hữu,
Ðạo có một, một gốc, một nguồn mà thôi. Hồi xưa Phật, Tiên, Thánh, mỗi khi truyền Ðạo có người trong Ðạo tẻ ra tự lập, chia phe, phân phái, rốt cuộc rồi vẽ rồng thành rắn; xin Chư Hiền Hữu xét kỹ coi, cổ hà, kim hà?

Từ hồi Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tới giờ, trong nền Ðạo có lắm điều trắc trở truân chuyên là vì không giữ trật tự, không có hòa thuận với nhau, mà huyền bí trong Ðạo là hòa, là trật tự, khiêm cung lễ nghĩa.

Nhiều khi Ðấng Chí Tôn hỏi:
"Các con thấy trong Càn khôn Thế giới, nội trong vạn vật, Thầy hóa sanh ra có giống nào mà không trật tự, đẳng cấp chăng?"

Luôn dịp tôi cũng biên ra đây mấy lời khuyên đời của một vị hiền triết:
Ong kiến là loài rất tế vi,
Nó còn ưu ái chẳng quên nghì.
Làm người ví biết hai điều ấy,
Thử hỏi ai mà lại dám khi?

Chúng ta học làm được như loài kiến vậy, tưởng cũng tốt.
Hồi năm Mậu Thìn, Ðức LÝ GIÁO TÔNG giao cho Ông Phối Sư Thái Ca Thanh lập chương trình Hiến Pháp. Ngày 14 tháng 7 Mậu Thìn (28 Aout 1928) khi Lễ Trung Ngươn có nhóm Hội Thánh, có lập vi bằng ký tên. Tôi xin lục rút tờ Vi Bằng ấy ra sau đây cho Chư Hiền Hữu xem:

Tòa Thánh Tây Ninh, le 28 Aout 1928

VI BẰNG

Chiều ngày 14 tháng 7 Annam, năm Mậu Thìn, y theo tờ mời nhóm của Hiệp Lý "Cửu Trùng Ðài", các Quản Lý "Cửu Viện" tựu tại Tòa Thánh hồi 7 giờ tối với các Chức Sắc Thiên Phong có mặt kể ra sau này:
Ông Phối Sư Thái Ca Thanh đọc chương trình Hiến Pháp.

CHƯƠNG TRÌNH HIẾN PHÁP

CHƯƠNG THỨ V

Ðiều thứ 22: -Nghiêm cấm trong Ðạo không ai đặng lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dùng THIÊN ÂN, THIÊN NHÃN mà đề vào bìa Kinh sách, Bố cáo, vân vân... hay là in Thánh Tượng, Kinh sách (bán hoặc phát không) nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy không có trình ban kiểm duyệt xem xét trước và đóng con dấu kiểm duyệt.

Ðiều thứ 23: - Ai phạm nhằm hai điều lệ trên đây thì các Kinh sách, Tượng ấy phải đem nạp cho Tổng Lý hủy bỏ. Người có lỗi ấy sẽ giao về Bình Viện phân đoán, chiếu theo điều lệ thứ 9 (Chương III)

Thảng như người ngoại Ðạo mà phạm nhằm điều lệ thứ 22 thì Quản Lý Nội Viện chạy tờ Châu Tri cho Chư Ðạo Hữu các nơi biết, mà không dùng đến Kinh sách, Tượng in sái phép ấy.

Ðiều thứ 24: -Kể từ ngày ban hành "Chương Trình Hiến Pháp" duy có một mình Hội Thánh "Cửu Trùng Ðài" được quyền in Kinh sách, Tượng để hiệu "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ".

Lập tại Tòa Thánh, ngày Rằm tháng bảy năm Mậu Thìn.
Ký tên:
Chưởng Pháp:
Trần Ðạo Quang

Ðầu Sư:
Thượng Trung Nhựt - Ngọc Lịch Nguyệt

Chánh Phối Sư:
Ngọc Trang Thanh - Thượng Tương Thanh - Thái Thơ Thanh

Phối Sư:
Thái Ca Thanh - Thái Bính Thanh

Giáo Sư:
Thượng Thành Thanh - Thượng Giảng Thanh -
Thượng Vinh Thanh (Nguyễn thế Vinh) -
Thượng Lai Thanh - Ngọc Tựu Thanh

Giáo Hữu:
Lê Châu Trì - Lê Văn Sanh - Ðỗ Quang Ngự -
Trần Quang Minh - Tuyết Tấn Thành

Lễ Sanh:
Nguyễn Văn Phùng

Lục rút y bổn chánh lưu tại Tòa Thánh.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Tôi cũng xin sao lục Thánh Ngôn của Ðấng Chí Tôn hồi năm 1928 cho Chư Hiền Hữu xem:

THẦY, các con.
Trung! Thầy đã nhiều phen để lời khuyên nhủ các môn đệ về việc dùng công tâm hòa thuận mà hành đạo cho vuông tròn phận sự, mà Thầy những buồn trông thấy các con chưa gì đã vội phân tay chia nẻo, mỗi đứa đều lấy sự háo danh cầu tiếng mà quên cả nghĩa vụ xứng đáng của Thầy đã lắm phen ký thác.

Thầy dẫn các con đến khỏi mấy nơi khốn cùng rồi, mà các con chưa để hết tấc thành, chung lo đặng ngăn ngừa những gay trở xảy đến sau nầy nữa, thì nền Ðạo thế nào lập thành cho kịp ngày giờ mà vớt muôn ngàn sanh chúng. Một đứa vun quén, mười đứa cản ngăn, nhỏ lớn chẳng phân minh, xem Thiên tước của Thầy ban, dường như một chức vô vị ở cõi trần. Lấy thế lớn, bực cao mà ép đè hạnh nhiều, đức cả.

Than ôi! Các con xa Thầy chưa mấy ngày thì mối Ðạo lớn lao đã thành nên một bàn hội vô giá trị ở cõi trần thế nầy. Mấy đứa mong chác sự phá hoại ấy lại là mấy ngọn đèn của Tòa Tam Giáo khêu lên để dìu đường cho cả chúng sanh nữa thì con phải nghĩ đến hành trình của Ðạo phải đến thế nào? Công chỉ dẫn của Thầy đã lững đững theo giọt thủy triều mà rốt cuộc lại, bến khổ cũng chưa xa, ngôi xưa còn lánh mãi. Thảm thay! Tiếc thay! Thầy đã nói bầy hổ lang, lũ quỉ mị đã sẵn bên mình của mỗi đứa, mà con lớn nhỏ gì cũng chẳng để ý đến, Thầy nắm cân Thiêng Liêng, há dễ để tay sửa nét công bình sao? Nhiều đứa lại chẳng kể đến lời Thầy gì cả. Ôi! Con ngỗ nghịch tránh sao chẳng vướng Thiên Ðiều khổ đọa, chúng nó đã gieo ác cảm lừng đến Tam Giáo Ðài, thế thì bước đường sau nầy Thầy khó cứu rỗi được.

Con đã để hết tấc thành vào Ðạo, thế mà cũng khó gỡ sự rối rắm ấy, buộc Thầy phú rủi may của chúng nó cho Tòa Tam Giáo định liệu. Còn sự tự hối của mỗi đứa sau nầy ra sao, thì cân tội phước cũng vì đó mà châm chế.

Trước khi ngưng cơ, Thầy cho lịnh DÙNG CƠ BÚT THẾ NÀO, Thầy tưởng mỗi Thiên Phong đều đặng Thánh Ngôn của con ban hành, sao còn có ra đến việc bất minh ấy, là con chẳng nói tất cho mỗi Thiên Phong rõ và ban hành Thánh ý, để cho chúng nó chác lỗi vào mình, thì con cũng không khỏi chia một phần trong ấy.

Từ đây sao lục Thánh Ngôn nào không có con ký tên và không có con dấu ấn tích của con, thì Chư Tín Ðồ của Thầy được phép không nhìn nhận.
Sao lục y bổn chánh,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Ngày nay, nhiều Chức Sắc Thiên Phong tự tôn, tự đại, chấp bút cầu cơ rồi in Thánh Ngôn, Kinh sám, không màng, không do Hội Thánh.

Như quyển Tu Chơn Thiệp Quyết, Thánh Giáo Chơn Truyền, Thánh Ngôn về Chánh Tà Yếu Lý (Thánh Thất Bạc Liêu, Rạch Giá, Mỹ Tho) cũng lấy danh Ð.Ð.T.K.P.Ð. để ngoài bìa cho Ðạo Hữu Lưỡng Phái và Nhơn sanh tin tưởng lầm của Ðại Ðạo Tam Kỳ nảy ra.

Nhiều vị cũng chấp bút, cầu cơ, phong Giáo Sư, Giáo Hữu, Lễ Sanh, rồi sắm sắc phục và đi các nơi cho Ðạo Hữu biết tước phẩm mình và khoe khoang chỉ cho người luyện Ðạo, khoe mình huyền diệu, vân vân...

Những sự việc xảy ra đây làm cho tôi nhớ lời Thánh Giáo của Ðức Thái Thượng nói tiên tri rằng:
"Rồi đây có kẻ muốn tẻ nẻo, người toan tự lập, trường công quả lao nhao lố nhố.
Người hành đạo không tôn ti cao hạ, tranh tranh, lấn lấn khác nào như nước không vua, nhà vắng chủ. Cái chất mảy mún thiêng liêng của Ðức Chí Tôn gieo vào lòng dạ; vì Tà Thần, lần hồi tiêu tan theo luồng gió. Nhìn lại cho rõ, thì ai cũng còn mang nặng trịu xác thịt, thân phàm.
Xảo trá chưa sánh đặng cùng Tào Mạnh Ðức, chí lớn lo xa chưa bì với Tôn Quyền, đoạt máy Thiên Cơ chẳng bằng muôn một của tài Gia Cát, mà nền Ðạo đã khởi muốn chia ba".

Bởi các cớ ấy, nên Ðức Lý Giáo Tông dạy phải lọc lừa Chức Sắc Thiên Phong lại.

Bởi muốn ngăn ngừa mấy việc bất chính ấy.
Bởi muốn cho Ðạo Hữu lưỡng phái đừng lầm nghe những người, vì hờn riêng, nên đi gieo ác cảm đặng chia lìa con cái của Thầy ra tan tành, manh mún, dường như khuấy tan niềm ân ái, công trình Thầy un đúc xưa nay.

Nên từ đây:
Chư Chức Sắc Thiên Phong, Ðầu Họ, Ðầu Quận Ðạo, đi phổ thông thì có Tờ Thuyên Bổ của Tòa Thánh ban quyền.

Mấy Tờ Thuyên Bổ trước khi lập Tòa Tam Giáo, thì hủy bỏ hết. Tòa Thánh nhìn nhận Tờ Thuyên Bổ ra sau khi Tòa Tam Giáo. Nghĩa là: từ ngày mồng một, tháng chạp, năm Canh Ngũ (1930) sắp tới mà thôi.

Còn tại Tòa Thánh có sai ai đi việc chi trong Ðạo, thì có giấy "Ordre de route". (Lộ trình thơ)

Bất luận Thiên Phong, Chức Sắc hay là Ðạo Hữu đi truyền hay là nói chuyện chi mà không có trình giấy tờ nói trên đây thì là người giả dối, mạo quyền hay là vì hờn riêng mà đi sanh chuyện phá rối trong Ðạo.

Xin lưu ý:
Tòa Thánh không nhìn nhận mấy quyển "TU CHƠN THIỆP QUYẾT, THÁNH GIÁO CHƠN TRUYỀN, THÁNH NGÔN" của (Thánh Thất Bạc Liêu, Rạch Giá, Mỹ Tho).

Ai không tuân thì sẽ bị tội.
Rồi đây sẽ lọc lừa Thánh Thất không tùng Tòa Thánh, thì Tòa Thánh không nhìn Thánh Thất ấy là của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nảy ra.

Xin Chư Hiền Hữu rán lập thế phát Châu Tri nầy ra cho nhiều cho Chư Ðạo Hữu lưỡng phái lãm tường.
Nay kính,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH

Tòa Thánh, ngày 24 tháng 5 năm Nhâm Thân
(Le 27 Juin 1932)

Kính cùng Chư vị Thiên Phong Nam Nữ,
Chư vị Chủ Thánh Thất, cùng Chức Sắc
và Chư Ðạo Hữu lưỡng phái.

Chư Hiền Hữu, Chư Hiền Muội,
Từ ba tháng nay tôi mang bịnh, nên phải an nghỉ không đặng gần gũi với Chư Hiền Hữu và Chư Hiền Muội.

Trong lúc tôi an nghỉ thì tôi có suy xét, thấy ba phương diện trong căn bịnh của tôi:

1/. Một phương diện là theo căn số của tôi năm nay phải mang nạn to, mà nhờ có tu, nên Trời độ qua khỏi nạn, điều cũng phải mang bịnh một ít lâu, ấy là cân công bình thiêng liêng.

2/. Một phương diện thứ nhì nữa, là tôi có tội với Thần Thánh Tiên Phật vì cầm mối Ðạo không vững, nên phải đau chốc ba tháng.

3/. Một phương diện thứ ba là cơ thử Thánh, coi có ngã lòng đổi chí chăng? Và coi trong nền Ðạo có kết mối thương tâm bác ái chăng?

Phép Trời Phật mầu nhiệm, hư hư thiệt thiệt chúng ta mang nặng xác phàm làm sao hiểu thấu.

Có lời Thánh Giáo của Ðức Lý Giáo Tông ngày mồng 5 tháng 11 năm Canh Ngũ (24 Décembre 1930) dạy rằng:
"Lão nên nói rõ rằng: Cơ thưởng phạt của Thiên thơ thì lắm điều trái hẳn với trí người tưởng tượng. Có nhiều khi lấy cơ thưởng của hữu hình mà làm hình phạt vô vi, mà cũng có khi lấy phạt hữu vi mà thưởng thiêng liêng công nghiệp. Vậy cái thưởng cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh Giáo, nhiều khi chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội không phương thấu lý đặng, nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn khùng mang tội thiêng liêng rất uổng".

Trong buổi tôi mang bịnh, tôi thấy rõ trong nền Ðạo có thân mật cùng nhau và bác ái với nhau lung lắm: Ðạo Hữu mỗi nơi xa Tòa Thánh không thể viếng thăm tôi đặng thì cũng đồng tâm rập trí với nhau đặng cầu nguyện cùng Ðại Từ Phụ cho tôi mau lành mạnh, đặng dìu dắt chư Ðạo Hữu lưỡng phái. Còn chư Ðạo Hữu lưỡng phái ở Tòa Thánh hay là ở gần Tòa Thánh cũng vậy đều lắm công phu trong việc nuôi dưỡng tôi và thuốc thang không ngớt, không giờ khắc nào mà chị em anh em không lo cho tôi.

Hồi ở thế, tôi cũng gần nhiều bậc quan lớn, nghiệp cả ngôi cao, và gần nhiều nhà phú hào có sẵn tay chơn bộ hạ nhứt hô bá ứng, mà mấy bậc ấy không đặng ân huệ của Trời ban, khiến cho nhơn sanh thương đều cả như tôi ngày nay vậy. Ấy là ân của Ðại Từ Phụ ban cho những người bỏ dữ theo lành, thuở nay trong nước Nam ta chưa đặng thấy mối thương tâm như ngày nay vậy. Thiệt là từ hồi tạo Thiên lập Ðịa tới giờ chưa thấy sắc dân nào được ân huệ như vầy.

Xin chư Hiền Hữu lưỡng phái phải rán chiêm nghiệm ân huệ quí báu vô giá trị của Thầy rưới cho trong nền Ðạo. Trước lui sau tới cũng đều được vậy.

Tôi mới vừa đặng khỏe trong một tuần nay nên rán đặt mấy lời cảm tạ lòng bác ái thương tâm của cả trong nền Ðạo, cầu nguyện xin Ðức Ðại Từ Bi ban ân lành cho chư Ðạo Hữu lưỡng phái.

Luôn dịp, tôi xin cắt nghĩa cơ thử Thánh hơn một năm rồi cho chư Hiền Hữu rõ.

Khi có một mình tôi lo việc hành chánh tại Tòa Thánh, tôi có nói trước như Châu Tri số 48 ngày 2 Aout 1930 kế đây để chư Ðạo Hữu lưỡng phái rõ:

            Số: 48 
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Ngũ Niên)
Tòa Thánh, le 2 Aout 1930.

Kính cùng Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Buổi nầy là lúc thử Thánh, cho nên có xảy ra nhiều trở ngại bước đường của Ðạo và tai nạn của Chư Ðạo Hữu.

Vậy Chư Ðạo Hữu hãy giữ lòng gan dạ sắt của Thầy đã un đúc bấy lâu mà chống chỏi với những cơ thử Thánh đó, thì sẽ đi cùng bước Ðạo.

Có nhiều Ðạo Hữu chẳng quản khó nhọc mà ra công đi khuyến nhủ Chư Ðạo Hữu cho đặng tâm thành đức vẹn, ấy là một sự công quả rất lớn lao.
Nay kính,
Thượng Ðầu Sư
Chưởng Quản Toà Thánh
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Sau Châu Tri nầy mấy tháng thì khiến có việc làm cho nền Ðạo phải chinh nghiêng trắc trở mường tượng như thuyền Bát Nhã bị bão tố chơi vơi giữa biển, người cầm lái phải ngất ngơ ngất ngưỡng.

Thiên cơ phải vậy. Thầy có tiên tri ngày 20 tháng 6 năm Bính Dần. Lời Thánh Giáo của Thầy có in trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển trương 31 và 32.

Tôi cũng xin tỏ cho Chư Hiền Hữu rõ biết rằng khi Ðức Lý Ðại Tiên tái cầm quyền Giáo Tông, Ngài thấy Tà quái lẫn lộn trong nền Ðạo nhiều lắm, nên Ngài làm cho chường mặt những người phá Ðạo rõ ràng cho chư Ðạo Hữu ngó thấy xa lánh.
Có Thánh Giáo của Ngài, tôi xin sao lục dưới đây cho Hiền Hữu xem tường tận:

BỬU ÐIỆN TÒA THÁNH, ngày mồng một tháng 7 năm Tân Mùi (14 Aout 1931).
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ, LÝ GIÁO TÔNG

Chào Chư Hiền Hữu, Chư Hiền Muội. Có Ðấng CHÍ TÔN ngự, Chư Hiền Hữu, Chư Hiền Muội mừng Người.

Thượng Trung Nhựt, nay Lão đã nhượng nửa quyền hành cho đó, là cố ý để mắt coi Hiền Hữu đáng phận cùng chăng? Lão đã hạ mình bỏ quyền Nhứt Trấn, lãnh việc Giáo Tông mà lập vị cho đoàn em bước đến. Lão đã lắm phen thấy điều khó khăn, mắc mỏ của phần ấy nên ra tay giục loạn đặng phân rõ Chánh Tà hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ khử.

Lão để mắt coi cái công bình phàm của Chư Hiền Hữu giữa TÒA TAM GIÁO là dường nào. Lão lại còn thấy công bình thiêng liêng mà để phương cho mỗi phạm nhơn cải lỗi lấy mình, ấy là thể lòng từ bi của CHÍ TÔN, bằng chẳng thì Lão đã hạ cơ trục xuất cả thảy. Chư Hiền Hữu đừng tưởng lầm rằng: Vì Ðạo chinh nghiêng mà buộc Lão tùng Ðời, ấy là lời tiên ngôn của Lão đã hứa quyết.
Hiền Hữu làm thế nào cho vừa trách nhậm thì làm cho Lão xem thử.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Bởi Thiên cơ tiền định, nên nền Ðạo phải chịu truân chuyên cả năm rồi. Cũng một phương khảo đảo làm cho chúng ta phải từ tâm mà xét lỗi của mình.

Tôi hằng nói:
Nội trong nền Ðạo từ lớn chí nhỏ ai cũng có lỗi, ai cũng có sai lầm, vì lòng nôn nóng lo cho Ðạo không thành lập, sợ để trò cười nơi thế.

Từ bảy năm rồi chúng ta đây như một đám học sanh, từ thuở nay bị trò đời dìu dắt, vùi trong cuộc vinh huê phú quí, ham mùi chung đỉnh bả vinh hoa, tranh tranh đấu đấu, khoe tài trí, có biết Ðạo là gì? Tu làm chi? Nhờ Ðại Từ Phụ thấy bầy con dại đang chui trong hang sâu vực thẳm, bị lượn sóng vô tình gần chụp lấy, Thầy ngồi Huỳnh Kim Khuyết chẳng an nên lo phần thức tỉnh đám thơ ngây, lùa chúng ta vào trường học Ðạo.

Bầy con hoang xa cách bấy lâu mới đem về đặng. Bởi câu PHỤ MẪU ái tử vô ngằn nên Cha khó dạy con, Thầy mới giao cho Ðức Lý Ðại Tiên dạy bảo mấy năm vừa sửa tánh hoang đàng, táo bạo chút ít, kế tới kỳ thi chấm công quả Ðức Lý Ðại Tiên sắp từ bực cho có đẳng cấp mà dạy thêm, ngỏ hầu nhập trường Cao Ðẳng, chớ nào có một ai trong sạch lập thành chí Thánh.

Công lao của Ngài đáng mấy với lũ con hoang của Thầy.
Tội câu kết muôn năm uế trược đầy mình, mới tắm ít gáo làm sao sạch đặng. Công trình Từ Phụ như thế mà cũng chưa vừa lòng làng xa mã. Than ôi! Có kẻ trốn trường bỏ học (nhập môn rồi không thờ không hành đạo) lắm người tính làm reo (grève) phá Ðạo, chuyên quyền tự lập, dỗ dành những người tâm thành đức vẹn theo mình đặng tôn mình là một ông Tôn Sư tại thế. Tội tình biết mấy! Xa Thầy tách bạn, theo tình mới, bỏ nghĩa xưa, là người phi nghĩa, vương nhơn chi ác, bán cú phi ngôn tổn bình sanh chi đức.

Biết như vậy, chớ tôi vừa thức tỉnh nghĩ lại ai cũng còn mang nặng xác phàm sao cho khỏi lầm lạc nên tôi cũng cất đầu lạy xin anh em chị em dứt tánh phàm, rèn lòng nhẫn nại khỏa lấp các việc tình tệ xưa nay trở lại Tòa Thánh thìn lòng học Ðạo ngõ hầu trở về cùng Ðại Từ Phụ kẻo Người trông đợi.

Tôi cũng phát nguyện cùng Ngọc Hư, nghiêng vai gánh vác tội chung của chúng ta hết, dầu tôi phải chuyển thế đời đời công quả đặng chuộc tội cho cả thảy con cái của Thầy thì tôi cũng cam lòng chịu, miễn cho cả thảy về cùng Thầy, thì tôi cũng phỉ nguyện ở chốn nầy độ chúng.
Lòng trông Ðạo Hữu thứ dung,
Hiệp nhau lo Ðạo hưởng chung phước Trời.
Nay kỉnh đốn,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Ai Ðiếu
Cho Vương Thành Tông PHỐI SƯ THƯỢNG TÔNG THANH
Qui liễu ngày 24 tháng 10 năm Quí Dậu (1933)

Quí Ông, Quí Bà, Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,

Gió thu phưởng phất như gợi cơn sầu,
Tiết đông lố dạng dường soi mạch thảm.
Kìa rừng Thiên Nhiên cây sầu lá ủ,
Ðây miền Thánh Ðịa cỏ úa sương gieo,
Thảm thiết bấy trọn tháng trường mưa sa.
Não nồng thay trót tuần hoa sầu rỉ rả!

Ấy cảnh bi ai Trời cho biết trước một vị Ðại Thiên Phong phải qui liễu. Tôi cùng Ðức Hộ Pháp có dạ nghi ngờ, nên cầu hỏi Diêu Trì Cung cho biết chắc Hiền Hữu Thượng Tông Thanh phải qui liễu. Tình đồng đạo kẻ ở người đi xưa nay vẫn có.

Trước khi khép nấm mồ.
Tôi xin bày tỏ lai lịch của Thượng Tông Thanh ngõ hầu ngày sau ghi trong Sử Ðạo.
Hiền Hữu Thượng Tông Thanh sanh trưởng Trung Huê, Quảng Ðông Tỉnh, Triều Châu Phủ. Vì câu: Làm trai hồ thỉ tứ phương, nên thuở 18 tuổi trải qua Nam Việt, hồi buổi ban sơ theo người đồng hương ở Chợlớn lập thân lần đầu, nhờ tánh tình siêng năng hay lo cần kiệm mới có tư bổn riêng, lên Soài Riêng khẩn đất sắm vườn lập nên cơ nghiệp, Trời khéo đưa duyên kết Châu Trần người Nam Việt, sanh con, sanh cháu thiệt đông, nhành quế nảy chồi Chi Lan đượm nhánh, phước hậu nhờ nhiều cháu, nhiều con ít ai bì kịp.

Người Trung Quốc mà lòng rất mến Nam Thổ, tánh tình độ lượng bao dung ngoài xóm làng cũng ngợi khen, gặp người hèn ra tay tế độ, lòng hằng chẳng vạy chẳng tham, nên người Annam và Cao Miên tôn lên làm Hương Cả, giúp việc Ðình, việc Miễu, tu kiều bồi lộ chẳng tiếc công và của, âm chất người đều bổ tứ phương, chí hào kiệt qui dân lập ấp, lòng kia không ngớt, của tiền bù sớt cho anh em Nam Thổ như thể đồng hương.

Tháng qua, ngày lụn tuổi sáu mươi dư, lòng thiết thiết tư tư muốn tầm chốn u nhàn, tu tâm dưỡng tánh. Nghe Gò Kén Thiền Lâm Trời khai Ðại Ðạo, lúc Hạ ngươn năm Bính Dần, thiên hạ tứ phương dư ngàn cầu Ðạo. Thầy giáng cơ kêu: Trung, con mời Vương Thành Tông vô đây Thầy dạy việc. Tôi cùng mấy Môn đệ của Thầy hồi đó không biết kêu ai, nên tôi phải kêu lớn lên, Hiền Hữu Thượng Tông Thanh mới vào đàn nội, tôi biểu trình giấy thuế thân và tờ Sớ thì rõ như tên của Thầy giáng viết ra, Thầy thâu Hiền Hữu Thượng Tông Thanh ở luôn tại Chùa lo làm công quả. Nào làm Thông ngôn tiếng Ðàn Thổ, nào thâu Sớ nhập môn, phát Kinh sách, lo lúa gạo nuôi người tới lui được ba tháng trời, bước qua năm Ðinh Mão, Thầy mới phong Thượng Tông Thanh Phối Sư Phái Thượng.

Ðây qua năm Ðinh Mão lúc hạ tuần Thượng Ngươn đất bằng sóng dậy. Trời đang thanh bạch khiến ngút tỏa mây giăng, mối Ðạo hằng mang ách nạn, nhà thoàn đòi đất Chùa phải trả mau mau vì có đơn vào Chánh Phủ.

Bốn muôn dư Ðồ đệ của Ðấng Chí Tôn lòng dạ ủ ê, ngồi nhìn cảnh non sầu tuyết phủ, giọt lệ tuôn dầm, lo dời quả Càn Khôn cốt Phật Tổ, Tòa Bát Quái, Tượng Ngũ Chi phải đem qua đất mới Long Thành nơi Ðại Từ Phụ và Ðức Lý đã chọn. Hết lớp dời Chùa tới cường quyền áp chế, nếu kể hết truân chuyên khổ não thì Hiền Hữu Thượng Tông Thanh đồng chịu ráo. Tôi nhớ lắm khi hết gạo tôi cùng Hiền Hữu Phối Sư Tông lo sắp lo ngửa đặng nuôi Ðạo Hữu nhứt là Bắc Chiên và Soài Riêng bị lụt, Tòa Thánh phải nuôi ăn hàng ngày trên hai ngàn miệng ăn. Người hùng anh, chí chẳng hề xao lảng, giữ một dạ thủy chung như nhứt, thương mấy hồi khốn cực nhiều nỗi, bị nhiều Ðại Thiên Phong áp bức mà Hiền Hữu Thượng Tông Thanh than cùng tôi rằng: Một lòng son sắt theo cùng tôi như hồi buổi ban sơ Thầy đã dạy bảo. Vì lòng giao hảo nên một tháng trước ngày qui liễu, anh kêu tôi và mượn viết tờ di chúc để dạy cho con cháu.

NHỚ TỚI KHI ẤY:
Tay cầm tay ruột tợ kim châm,
Mặt nhìn mặt khôn ngăn giọt lệ!

Hỡi ôi! Người nước khác mà lòng không khác, nghĩ cùng lý cũng là một cuộc Ðại Từ Phụ tác thành, buộc mối thương tâm, chẳng nệ da vàng trắng đen tinh thần đều vẫn một, thương là thương cũng một người rường cột trong nền Ðại Ðạo, đồng cùng nhau chịu mấy nỗi truân chuyên mà đường qui liễu sớm chầy không cãi số Trời đã định, nơi Bồng Ðảo anh về trước, anh sùng bái Ðấng Chí Tôn, dương trần em ở lại, còn lo độ chúng. Mừng phận anh rảnh nợ tang bồng, song em thấy:

Nầy vợ yếu con thơ, dâu hiền cháu dại vắng người khuyên nhủ. Thảm thiết bấy khoác màn loan, chẳng thấy dạng chồng nhìn bàn thờ khói hương hiu hắt.

Não nùng thay hé cửa ngõ vắng cha, dòm nhà khách gió thổi lai rai.
Gẫm cuộc đời nhiều nỗi đắng cay,
Song xét kỹ cũng vì vay trả,
Biết Ðạo mầu có chi là lạ.

Người qui liễu xác thịt lìa xa chớ hương hồn thường về ám trợ dìu dắt vợ yếu con thơ, giúp Ðại Ðạo về phần vô vi như chúng ta thường thấy.

Lấp mạch sầu, un đúc đức tin rập cùng nhau cầu nguyện cùng Thầy độ rỗi hương hồn Phối Sư Thượng Tông Thanh tiêu diêu cõi thọ, giúp nền Ðại Ðạo dìu dắt chúng sanh rửa sầu thế sự.
THƯỢNG TRUNG NHỰT

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Cửu Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH

BÀI DIỄN VĂN của ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Ðọc tại Tòa Thánh ngày mồng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934)

VÍA ÐỨC PHẬT THÍCH CA
Về: Phương diện Chánh Thể của Ðạo

Chư Ðạo Hữu cùng chư Ðạo Muội,
Buổi chênh nghiêng Ðạo đã hầu qua, tâm lý toàn con cái của Ðức Ðại Từ Phụ dường như đặng chững chàng an tịnh đủ để trọn trí thức tinh thần suy gẫm, nên Tệ Huynh ngày nay toại chí lượm lặt những lời châu ngọc của Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng thuyết giáo đặng chỉ rõ Thánh ý nơi nào để cho Ðạo chịu khảo đảo dường ấy. Cái hữu ích của sự khảo đảo sẽ tỏ tường nơi Bài Thuyết Pháp này, xin chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cố tâm kiếm hiểu.

Các Tôn Giáo đã lập thành tại mặt thế ngày nay đã đoạt đặng một cái quyền hành hữu vi kiên cố, thì trước kia cũng phải chịu khổ hạnh nương lấy một quyền hành bạc nhược yếu ớt của tâm lý mà thôi.

Ôi! Quyền hành tâm lý buổi nào thì cũng gặp sẵn một tay thù địch mạnh mẽ, cường thạnh, oai nghiêm là quyền Ðời hiện hữu; sự xung đột của quyền Ðời và quyền Ðạo từ cổ chí kim tự nhiên đều có, chúng ta đã chán biết rằng những quyền lực hành thế đều nương theo tinh thần mà sản xuất; trứng tinh thần nảy nở sanh quyền lực, vì cớ cho nên các quyền hành đã có đủ thế lực mạnh mẽ nắm thế trị vào tay, hễ vừa thấy trí thức tinh thần của nhơn sanh ướm mòi sản xuất một cái trứng quyền hành chi khác nữa, thì đã sợ lưu hại cho mình nên toan phương đập đổ.

Cuộc kết quả sự phản kháng ấy, hoặc thành hoặc bại, có ảnh hưởng của tương lai sinh hoạt quyền lực đương nhiên của họ, vì cớ mà sự xung đột hằng xem dữ dội.

Ấy là phương khảo thí tài lực của trí thức tinh thần, hầu làm cho trí thức tinh thần sanh điều hay, bày điều dở; hay thì chánh, dở thì tà, chánh thì còn, tà thì dứt. Ấy vậy dầu cho sự xung đột của quyền Ðạo với quyền Ðời, thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Ðạo quyền đi nữa, phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Ðạo. Phận sự bảo trọng lấy mình là dễ, còn phận sự bảo Ðạo vốn khó vô cùng; đáng lẽ những kẻ khuyến khích cho Tệ Huynh bảo trọng lấy mình nên gọi là người ơn, còn những người khuyên lơn bảo tồn nền Ðạo nên cho là kẻ nghịch mới phải. Tệ Huynh tưởng khi chẳng cần nói thì chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cũng đoán biết rằng chẳng lẽ Chí Tôn chọn lựa Tệ Huynh giao cầm giềng mối Ðạo đặng bảo trọng lấy Tệ Huynh mà thôi, trái ngược thì lại nhủ rằng: Phải hủy mình đặng bảo tồn sanh chúng. Chẳng lẽ chúng ta đành cho rằng trọng mình hơn trọng Ðạo là chơn lý?

Ôi! Biết bao phen, đêm khuya thanh vắng Tệ Huynh nằm gát tay lên trán thầm hỏi lấy mình:

Một mảnh thân phàm nầy, cô thân bạc nhược nầy, yếu ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Ðại Từ Phụ lại tin giao một cái giang san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác?

Càng nghĩ, càng lo, lo rồi lại sợ, sợ không kham trách nhậm mạng lịnh Trời; càng suy, càng tủi, tủi rồi lại khóc, khóc sợ không phương nâng đỡ nổi Chơn truyền.

Ðại Từ Phụ lại quy tụ con cái của Ngài gần trên một triệu sanh linh biểu bảo hộ nâng niu dạy dỗ.

Anh thì nghèo, em thì khó, gia nghiệp không mà quyền thế cũng không, bị cưỡng bức ép đè mang khổ hạnh.

Ðã chín năm Tệ Huynh thấy ngờ ngờ trước mắt, nhiều thảm trạng khó khăn, tinh những tiếng khóc than chẳng dứt: Kẻ thì đói, người thì đau; Chức Sắc thì hèn, Tín đồ thì dở, nỗi thương tâm chất chứa đầy lòng, giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt.

An đâu đặng mà tịnh, vui đâu đặng mà nhàn. Chúng sanh thì khóc, Hội Thánh thì than mà chẳng thấy một ai lo trọn Ðạo. Tệ Huynh xem lại những tay yếu trọng chấp chánh Ðạo quyền thay vì chia đau sớt thảm, lo giải khổ cho chúng sanh, lại cố ý giựt giành quyền thế. Nhiều vị lại muốn cho Tệ Huynh ngồi đó điềm nhiên, những thảm khổ ngơ tai, bịt mắt, lại buộc Tệ Huynh phải an tịnh đặng đắc Ðạo thành Tiên dầu mối Ðạo chênh nghiêng đừng ngó đến.

Cái sở vọng của các người ấy, Tệ Huynh để cho chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội kiếm hiểu coi họ để tại nơi nào, không cần cạn tỏ.

Vì Tệ Huynh biết đặng cái bí mật huyền vi ấy, nên không khứng nghe lời mới nảy sanh ra trường ác cảm.

Nào là lường gạt nhơn sanh, nào là tranh giành quyền tước gieo nhục nhã khắp nơi, lấy quyền Ðời chế Ðạo. Một trường ngôn luận xảo ngược, dối gian truyền cùng làng, khắp xóm, nhưng sự kết cuộc cũng không hại chi cho danh thể của Tệ Huynh, duy làm cho thiên hạ chê khinh Chánh giáo. Chẳng biết lương tâm của những kẻ phá Ðạo ngày nay nó phải thế nào, lẽ tà chánh trọng khinh sao chẳng rõ.

Tệ Huynh ngồi nhớ lại đã cách mười năm nghĩa là hạ tuần năm Sửu, Tệ Huynh còn làm Thượng Nghị Viện vào lầu ra các, trong thì bạn, ngoài thì quan, nẻo hoạn lộ hèn sang đã chán; lẽ nhục vinh đã ngán với tuồng đời, mùi cay đắng đã từng quen với mặt thế, nào là mày trung, nào là mặt nịnh, đã trông nom mỏi mắt mòn hơi, nên mới biết chê đời mến Ðạo.

Nay lục tuần hầu đến, lẽ nên hư quyền biến cũng đã thừa; có chi hay phòng mến phòng ưa, có chi trọng phòng yêu phòng chuộng. Tệ Huynh hằng hỏi lấy mình, cái ngày của Ðại Từ Phụ sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội tình nầy phải dâng trọn xác hồn cho Ngài làm lợi khí mở Chơn truyền, nên gọi là ngày hữu duyên hay là ngày trả nợ? Nếu phải trả nợ thì Thầy lẽ nào đành giao một cái gia nghiệp vĩ đại của nhơn sanh cho một kẻ tham gian bạo ngược, còn như gọi rằng duyên thì chắc đủ lực quyền cầm vững Ðạo. Ðã chín năm xông lướt trên con đường đi than lửa, bước chông gai, mà cũng có thể bảo thủ Chơn truyền của Thầy vững vàng toàn hảo, thì không phải là một tay giả mạo hay là một đứa tội nhơn mà làm cho Thánh chất đặng thắng hơn phàm tánh.

Bởi biết mình, bởi biết Thầy, biết người, biết Ðạo, mới yên trí tịnh tâm giữ gìn Ðạo mạch.

Tệ Huynh duy có một sở vọng là ngày nào Ðạo đắc thành, đời đặng thật thái bình thì thối bước lui chơn liền, đặng thích chí du sơn ngoạn thủy, cái vui cùng tận của Tệ Huynh ở tại nơi đó mà thôi, chớ chẳng phải tại mến đời ngồi chịu khổ.

Ngày nay là ngày vía Ðức Thích Ca Mâu Ni mà Tệ Huynh không giải thích Ðức Thích Ca vì chư Hiền Hữu lưỡng phái cũng hiểu rõ tích của Ngài và chư Hiền Hữu cũng thông suốt Phật Ðạo chút ít rồi.

Tệ Huynh chỉ để thì giờ quí báu đặng nhắc cho chư Hiền Hữu lưỡng phái nhớ một hai tôn chỉ quí trọng của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đương thời, nhứt là phương diện chánh thể của Ðạo.

Tuy Tệ Huynh không giảng Phật Ðạo chớ Ðại Ðạo ngày nay cũng là Phật Ðạo vì gồm hết Tam Giáo (Nho, Thích, Ðạo) vì Thích Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích Ca.

Tệ Huynh hằng nhắc chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội rằng Ðạo vẫn một, mà mỗi thời kỳ khai Ðạo thì phương diện khác nhau, vì Ðạo khai phải phù hạp với dân trí đương thời khai Ðạo.

Khi Ðức Thích Ca mở Ðạo Phật thì nhơn sanh buổi ấy còn Thánh Ðức nhiều, cả cá nhân đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế, nên Thiên Ðình phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt Tứ Khổ (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) mà độ chúng.

Ngài cũng bị lắm điều truân chuyên khổ não, lao thân tiêu tứ với đời mà chừng thành Ðạo cũng bị quỉ phá một hồi dữ dội rồi mới thành Ðạo.

Ðức Lão Tử khai Ðạo Tiên thì dùng huyền diệu pháp làm tôn chỉ cao thượng vì đương buổi ấy thì nhơn sanh ưa huyền diệu phép tắc.

Ngài cũng bị nhơn sanh cho là Lão già mê hoặc chúng. Ðệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài cho đến đổi khi Ngài đi ngang qua Hàm Cốc Quan vô Nha môn của Doãn Hỉ đặng độ ông nầy là chơn linh Ngươn Thỉ thì Từ Giáp là học trò hầu cận Ngài vì mê sắc mà sa ngã rồi cũng xa Ngài.
Mà Ðạo Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ phương vậy.

Khổng Phu Tử thọ lịnh Thiên Ðình xuống khai Ðạo Nho đặng sửa nhơn luân trong buổi Châu mạt, vì trong buổi ấy, cang thường luân lý suy đồi, nên nhơn sanh thấy cái Ðạo Nhơn luân của Ngài hay, sửa đời đặng thì khâm phục.

Ngài cũng lắm công nhọc nhằn với đời. Qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt người buộc, ăn vác nằm sương nhọc nhằn biết mấy. Ðến đổi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phần thi khanh Nho (đốt sách chôn học trò), mà Ðạo Nho cũng loan truyền khắp hoàn cầu.

551 năm sau Khổng Phu Tử, mới có khai Ðạo bên Thái Tây nên Thầy cho Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh khai Ðạo Thánh cho phù hạp với dân trí Âu Châu.

Ðức Jésus cũng bị cường quyền Israel áp bức cho đến đổi hồi ban sơ thì có 12 vị Thánh Tông Ðồ theo Ngài mà sau còn có một vị Thánh Pierre mà thôi. Nhưng Người cũng phải chối Chúa ba phen đặng tránh cường quyền bắt buộc.

Chừng Ðạo thành thì có Du Già bắt Ngài mà nạp cho Chánh Phủ hành hình, đóng đinh trên cây Thánh Giá. Hành xác Ngài gớm ghiếc như thế đặng cho nhơn sanh kinh khủng bỏ Ðạo, mà Ðạo Thánh cũng gieo truyền khắp cả hoàn cầu.

Lúc Ðạo Gia Tô truyền qua Ðông Pháp thì vua An Nam cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo Ðạo Gia Tô quá Thập Tự, ai không bước ngang qua thì bị tử hình.

Hình phạt gớm ghê như thế mà cũng có người Chí Thánh thọ tử mà thôi chớ không chịu chối Ðạo.

Xét kỹ lại, thiệt người xưa là Thánh Ðức, ít ai bì kịp, cứ giữ chánh tâm làm trọng, thỉ chung như nhất mà thôi.
Ngảnh lại đời nay mà ngán cho đời!

Ôi! Trong tám năm dư chuông Thánh truy hồn, Ðạo Trời đem tin cứu thế mà hễ có nghe phưởng phất lời đồn huyễn hoặc chi của người toan phá Ðạo thì mau mau cuốn Thánh Tượng, dẹp Thiên Bàn, lòng toan chối Ðạo.

Biết bao nhiêu người nịnh quyền hiếp thế, xu phụ theo nịnh tà mong toan phá Ðạo, rước rắn rừng vô cắn gà nhà, nạp Chí Thánh vô đề lao cho phỉ lòng oán hận.

Con một cha, gà một ổ, mà làm cho đổ lụy rơi châu, gieo thảm sầu cho lắm người tâm thành trí vẹn phải dừng chơn thối bước!

Quạ nuôi tu hú cũng còn biết thương, người đi một đường sao lại nỡ hại nhau như thế?

Ai toan bứng gốc phá chồi của nền Ðạo thì để cho Thiêng liêng quyết đoán, mình cứ nắm giữ luật lệ của Thầy và Ðức Lý Giáo Tông đã thành lập từ buổi ban sơ thì thành Ðạo, vì luật lệ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thể Thiên hành hóa là món binh khí diệt Tà quyền.
Ðời có thạnh có suy,
Ðạo động tịnh chuyển xây,
Lửa thử vàng, gian nan thử Ðạo.

Trong 8 năm qua rồi biết bao phen vẹt mây ngút thấy Trời xanh mà cũng lắm lúc xem đất bằng sóng dậy.

Thầy đã nói tiên tri: "Chi chi qua Quí Dậu cũng phải cho thành Ðạo mà trước khi Ðạo thành thì Tam Thập Lục Ðộng quỉ về phá Tòa Thánh dữ dội lắm mà trừ an nội loạn rồi, mới thành Thiên cơ".

Ngày nay bảo tố dữ dội đã qua rồi, Tệ Huynh nhìn thấy mấy em đã bị bao phen khảo đảo thảm khổ vô cùng, mà mấy em cũng ngồi vững trong thuyền Bác Nhã của Thầy độ rước, Tệ Huynh hết sức vui mừng nên nguyện rằng sẽ đem hết dạ yêu thương mà dìu dắt mấy em về cùng Thầy cho đến chốn.

Các Ðấng Thiêng Liêng cũng có nói trước: "Rồi đây Nguyên Nhân sẽ đến rần rần, có lắm anh hào thành tâm giúp Ðạo".

Cơ Trời mầu nhiệm cao sâu, người đâu thấy đặng!
Từ ngày ác khí nổi lên xung đột, bên bạo tàn trương nanh múa vút thì bên Thánh Ðức hiền lương có lắm anh hào đem hết trí thức tinh thần ra công giúp Ðạo.
Tạo Hóa vần xây chuyển thế,
Âm Dương thiệt khéo đầu cơ.

Khiến cho Tệ Huynh nhớ lời tiên tri của Bát Nương Diêu Trì Cung hồi ban sơ có dặn:
"Hễ gặp người an bang tế thế,
Nên quì mà nghênh lấy lễ trọng người.
Cởi thân ra mảnh áo tơi,
Che mưa đở nắng cho đời nguy nan".

Tôn chỉ cao thượng của Ðại Ðạo Tam Kỳ là lập công quả cùng Thầy, lo độ rỗi nguyên nhân, truyền bá chơn Ðạo cho đời biết chữ nhàn là quí, đức là trọng, đặng hết tranh tranh đấu đấu, lập quyền lấn thế nhau, báng sán nhau, hại sanh chúng nguy nan đời đời kiếp kiếp.

Từ hai mươi năm nay, xem trong hoàn cầu thiệt đâu đâu cũng là một cảnh sầu không tỏa ra cho cùng tận được. Biết bao người bị lượn sóng vô tình vật chất chụp đè trên biển khổ, ham lo sung sướng cho mảnh thi hài, bo bo vừa lòng tình dục. Ít ai ngó xuống thương đồng loại cực khổ biết bao! Kể không xiết số người thất nghiệp truân chuyên, cơm tẻ ngày hai không có, mảnh tơi che cật chẳng lành. Tôi phản Chúa, người phá Ðạo, trò nghịch Thầy, cha lìa con, vợ xa chồng, huynh đệ bất hòa, bằng hữu tranh nhau cũng vì mối nhơn luân suy bại. Chẳng còn thấy Chúa Thánh tôi hiền, phụ từ tử hiếu, trông chi gặp tháng Thuấn ngày Nghiêu nhà nhà lạc nghiệp thái bình âu ca!

Ðấng Hóa Công là Ðại Từ Phụ chung của cả nhơn sanh trông thấy hoàn cảnh như vậy cũng đổ lụy rơi châu với bầy con dại, biết bao thương xót lũ con hoang, ra đường gây tội lỗi; trong mấy muôn năm phải bị luân hồi trả vay mãi mãi như chóng vần xây. Từ việc rất lớn lao tới việc tế vi mảy mún, thạnh suy bỉ thới cũng phải chuyển vần y như luật Trời đã định.

Ðạo Trời đem tin cứu thế, thức tỉnh nhơn sanh phải tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho khỏi nạn luân hồi vay trả, hằng ngày phải nhớ câu: "Oan gia nghi giải bất nghi kiết".

Người phải thương nhau như con một cha, cả hoàn cầu là đại chánh chung của nhơn loại, không hại lẫn nhau, lấy lễ phép mà giao thiệp, lấy công bình mà đối đãi cùng nhau.

Lo cho Ðạo hữu trong nền Ðạo có cơ sở làm ăn, biết làm lành là quí.
Que l'humanité soit une, une comme race, une comme religion, une comme penseé.

Ấy là cuộc sửa đời lập Tân Thế Giới (Ère nouvelle) của Ðại Từ Phụ đã tuyên ngôn từ buổi khai Ðạo.

Theo lý chánh thật hành chỉ rõ trên đây thì nhiều người trong Ðạo lại chê, còn theo việc mị mộng ăn ngọ, ăn chuối, tuyệt cốc, tịnh luyện thì ưa, còn Nguyên Nhân lỡ bước ai lo?

Trong 8 năm qua rồi, Tệ Huynh đây và Hiền Ðệ Phạm Công Tắc là Hộ Pháp của Ð.Ð.T.K.P.Ð. hiệp cùng nhiều Thiên Phong đã để hết tâm thành trí vẹn, đặng thi hành cho hoàn tất mấy điều của Thầy và Ðức Lý Giáo Tông đã dạy bảo.

Ôi! Biết bao phen đánh đổ, lắm người trong Ðạo không hiểu tôn chỉ Ðại Ðạo, lại còn biếm nhẻ nói Tệ Huynh lo việc hữu hình chớ không lo vô vi tịnh luyện.

Bởi vậy mới rồi đây, Tệ Huynh có đắc lịnh dạy bảo phải chỉ rõ phương diện chánh thể của Ðạo, xin giải:

Trước đây, Tệ Huynh có nói: Thầy lập Ðạo kỳ nầy phù hạp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi Ngươn Tấn Hóa đến địa vị tối cao, cho nên chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo hiện thời không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhơn loại.

Theo Chánh thể của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thì có ba Hội đã định quyền hành đặc biệt:

a) . Thứ nhứt là HỘI NHƠN SANH:
Trong Hội Nhơn Sanh thì Chánh Phối Sư phái Thượng là Chủ Trưởng.

Hội Viên từ Lễ Sanh đổ xuống Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự và người Phái Viên thay mặt cho nhơn sanh.
Trong Nội Luật Hội Nhơn Sanh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ thức lệ.

Ấy vậy từ hàng Tín đồ cùng Ðồng nhi đều có người thay mặt đặng xem xét việc Ðạo rồi đệ lên Hội Thánh phán đoán.
Vạn vật cũng có ảnh hưởng trong Hội Nhơn Sanh vì người là Chúa của Vạn vật.
Xét kỹ thì Thầy công bình không xiết kể và lo việc hóa sanh không ngằn, không tận.

2) . Thứ nhì là HỘI THÁNH:
Trong Hội Thánh thì có Thái Chánh Phối Sư làm Chủ Trưởng.
Hội Viên thì từ Giáo Hữu, Giáo Sư và Phối Sư thiệt thọ có trách nhiệm hành chánh đặc biệt.
Trong Nội Luật Hội Thánh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ thức lệ.

Hội Thánh có quyền xem xét các việc của Hội Nhơn Sanh dâng lên và các việc hành chánh trong Ðạo rồi đệ lên Thượng Hội.

3) . Thứ ba là THƯỢNG HỘI:
Thượng Hội thì cũng có Nội Luật chỉ rõ thức lệ. Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Chủ Trưởng, Hộ Pháp làm Phó Chủ Trưởng. Hội Viên thì có:
            * Thượng Phẩm
            * Thượng Sanh
            * Ba vị Chưởng Pháp
            * Ba vị Ðầu Sư
            * Và Ðầu Sư Nữ Phái

Không cần nhắc chi chư Hiền Hữu Lưỡng Phái cũng hiểu rằng mấy Ðại Thiên Phong kể trên đây có hành chánh phận sự lớn lao của mình thì mới đặng vào Thượng Hội.

Thượng Hội để giúp Giáo Tông và Hộ Pháp điều đình cả nền Ðạo lớn lao của Thầy.

Thượng Hội có quyền xem xét các điều nghị luận của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh rồi hoặc đệ lên cho Giáo Tông và Hộ Pháp phê chuẩn hay là trả lại cho Hội Thánh định đoạt lại.

Ba Hội (Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh) toàn nhập lại theo hệ thức, rành rẽ thì gọi là Quyền Vạn Linh chớ không phải ai muốn lập Hội Vạn Linh, tổ chức gì theo ý riêng của mình rồi muốn đem ai lên làm Chủ Trưởng, tổ chức gì cũng được. Như vậy thì có Luật lệ gì đâu?

Mà không Luật lệ thì là không phải Ðạo.
Trên ba Hội thì có Giáo Tông và Hộ Pháp.

Giáo Tông làm Chủ Trưởng Cửu Trùng Ðài thì lo việc Chánh Trị Ðạo, có Chưởng Pháp và Ðầu Sư ở trung gian giúp sức điều hành các Luật lệ truyền xuống cho ba Chánh Phối Sư nắm trọn quyền hành chánh.

Giáo Tông có quyền định đoạt trong việc Chính Trị của Ðạo.

Hộ Pháp thì lo giữ Luật lệ của Ðạo cho khỏi sái Thiên Ðiều vì Luật lệ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ngày nay thì thế cho Thiên Ðiều.

Hộ Pháp có quyền đặc biệt về ân xá cũng như Giáo Tông có quyền chính trị vậy.

Hộ Pháp chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, có Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân giúp sức.

Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một là Quyền Chí Tôn.

Tệ Huynh có thọ lịnh chỉ rõ phương diện chánh thể của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ của Thầy khai trong buổi Hạ Ngươn chuyển thế đây y như trên đó. Xin chư Ðạo Hữu nhớ và lo phận sự đừng trái luật Ðạo mà bị tội, và mình tuân trọn Luật Ðạo của Thầy thì là món binh khí diệt Tà quyền giả mị đó.

Tệ Huynh xin nhắc lời Tuyên ngôn của Ðại Từ Phụ hồi buổi ban sơ, Thầy có nói: "Thầy lập Ðại Ðạo kỳ nầy là lập một cái trường công quả. Nếu các con đi ngoài trường công quả ấy, thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng".

Trường công quả của Thầy có đôi bên: Một bên vô hình là các Ðấng Thiêng Liêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cũng lập công quả trong buổi chuyển thế nầy. Các Ðấng Thiêng Liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám trợ chúng ta về phần vô vi.

Còn các việc hữu hình tại thế, là các việc phải có thi hài như chúng ta bây giờ đây mới đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm, rồi có các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ.

Thí dụ như đi độ rỗi nhơn sanh, phải nói Ðạo cho người nghe, như phải lập mấy cuộc để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc học, nhà thương, nhà dưỡng lão cùng các nghề nghiệp cho Ðạo Hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần che thân ấm cật, v.v... thì chúng ta phải lo hết, rồi các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ cho thành tựu.

Nếu chúng ta làm biếng không làm công quả chi cho Ðạo, bên hữu hình thì các Ðấng Thiêng Liêng theo mình không lập công quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.

Từ hồi tạo Thiên lập Ðịa tới ngày nay, trong mỗi kỳ khai Ðạo, không có thời kỳ nào mà chính mình Thầy là Chủ Tể Càn Khôn Thế Giái xuống mà lập ra, không có một Tôn Giáo nào đặng một vị Ðại Tiên là Ðức Lý Thái Bạch lãnh làm Giáo Tông như ngày nay vậy.

Tệ Huynh đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu hình tại thế cho Ngài rồi ở trong có Ngài ám trợ.

Tệ Huynh xin chỉ rõ quyền hành lớn lao của Ðức Lý Ðại Tiên Thái Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ:
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng dâng thuở Thiên Triều,
Càn Khôn Thế Giái dắt dìu Tinh Quân.

Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Ðường Triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,
Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
Ðộng Ðình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Ðảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các Nguyên Nhân.

Ngài nói rằng: "Hễ Ðạo trọng, thì tức nhiên chư Hiền Hữu trọng, vậy thì chư Hiền Hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.

Từ đây Lão hằng gìn giữ cho chư Hiền Hữu hơn nữa. Nếu thoảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh, là cố ý muốn giá trị chư Hiền Hữu thêm cao trọng hơn nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe!"

Xin chư Hiền Hữu lưỡng phái ghi nhớ mấy lời châu ngọc ấy đặng sửa mình.
Hết lòng cảm tạ mấy em và chư Tôn có công mệt mỏi ngồi nghe mấy lời tôi cạn tỏ rồi đó.
Hết dạ khẩn cầu cho nền Ðạo chóng hoằng khai.

Phụ ghi:
* Bài nầy có trong quyển Ðạo Sử II của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu biên sọan.
* Nguyên bản chánh in là: Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Chủ Trưởng. Hội Viên thì có:...
Theo Luật Lệ của Ba Hội Lập Quyền Van Linh phần Thượng Hội Nội Luật: Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Nghị Trưởng, Hộ Pháp làm Phó Nghị Trưởng. Nghị Viên thì có:...

Ðức Quyền Giáo Tông
giải nghĩa về "Ðức Chí Thành"

ÐỨC CHÍ THÀNH

Ðức chí thành là tánh chất thành thật chơn chánh mà mọi người cần phải có hầu để đối đãi nhau cho ngay thẳng, thật thà trong đường Ðời hay là đường Ðạo. Ðức chí thành là gốc năm thường, là nguồn trăm nết. Có chí thành thì đạo hạnh con người mới đặng rõ ràng sáng tỏ. Không chí thành thì đạo hạnh phải bị tà khuất tối tăm. Cho nên con người ở đời mà không un đúc đặng một khối chí thành là gốc rễ thì trông chi đến việc trau giồi đức hạnh là nhành lá vậy.

Ðức chí thành tỉ như một khối vàng, dùng nó mà chế tạo ra lắm đồ trang sức tốt xinh cao giá. Chí khối vàng ấy phải pha phải trộn thì mất nguyên chất tự nhiên, rồi bảo sao những đồ trang sức làm ra không phải xấu hèn thấp giá.

Người xưa tuy quê hèn, song giữ đặng hai chữ chí thành, đối với nhau chẳng hề dối giả, gạt gẫm là gì. Một tiếng ừ với nhau cầm đáng ngàn vàng, một lời hứa với nhau khư khư giữ chặt.

Người nay tuy gọi văn minh tấn bộ; song cái ánh sáng văn minh chóa ra làm cho con người dường như bị nắng quáng đèn lòa mà xem không rõ cái tướng của đức chí thành đặng vậy. Cũng bởi không chí thành cho nên ở đời mới có người nầy xảo trá, kẻ kia gian tham, sanh lòng nghi kỵ lẫn nhau đến đổi trong một việc làm nhỏ mọn mà có nhiều kẻ chung lo thì cũng hóa ra hư hỏng. Theo đường đời mà đức chí thành còn quan trọng là thế, huống chi đường Ðạo là chỗ cần phải treo lên một tấm gương thanh bạch hầu để soi chung thiên hạ.

Người hành đạo cần phải có đức chí thành, tôn chỉ Ðạo mới đặng quang minh chánh đại, rồi nhơn đó mới đặng lòng tín nhiệm của chúng sanh. Khi tụng kinh cầu nguyện, khẩn vái với Trời Phật, nếu đặng chí thành mới có cảm. Có cảm mới có ứng. Có ứng mới có nghiệm; cho nên có câu: "Hữu thành tất hữu Thần" là vậy đó.

Người làm Ðạo mà chí thành thì chẳng hề để ý chi riêng về việc công quả mà cầu danh, chẳng hề tính lập công quả mà cầu danh. Chẳng hề ỷ mình lập nhiều công quả mà tự kiêu, tự đắc rồi tác oai tác phước, lập thế chuyên quyền, gây ra lắm điều trái Ðạo, ai nói cũng nghe, ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung.

Người làm Ðạo mà chí thành thì chỉ lo cho chúng sanh, chớ không kể đến thân mình, tự buộc mình vào nơi khổ hạnh, đem cả hình hài trí thức làm món hy sinh cho tôn chỉ Ðạo, thân còn chẳng kể huống lựa lợi và danh.

Nói tắt lại một điều là làm Ðạo mà còn chút ý riêng về lợi và danh thì chưa có thiệt là chí thành vậy.

Người theo Ðạo mà không chí thành thì bất quá là: Cầu vui tu bắt chước hoặc là tu "cầu mị" theo ông nọ bà kia đặng có dễ bề thân cận mà chác chuộng mua yêu cùng trông ỷ lại nơi người vậy thôi.

Người theo Ðạo mà không chí thành thì bất quá là mượn danh Ðạo để vụ tất đồng tiền, hoặc bị lợi dụng đức tin của hàng Tín Ðồ thấp thỏi để mưu điều trái Ðạo.

Người giữ Ðạo mà không chí thành, dầu cho bác lãm quần thơ, rõ thông đạo lý đến đâu đi nữa tưởng cũng không trông thành Ðạo.

Ấy vậy, nếu rủi trong Ðạo mà có đại đa số người không chí thành dầu cho tôn chỉ Ðạo cao thượng đến đâu đi nữa, nền Ðạo bất quá cũng để một trò cười cho thiên hạ.

Thánh ngôn Ðức Chí Tôn dạy rằng: " ..... ...... Các con phải biết Ðạo gốc bởi lòng bác ái và chí thành. Bác ái là lòng đại từ bi thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất.

Còn chí thành là mỗi việc đều lấy lòng thành thật mà đối đãi trong Ðời và trong Ðạo. Dầu kẻ phú quí bực nào đi nữa mà không có lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc.

Vậy nên Thầy khuyên các con trước hết phải ở sao cho ra vẻ đạo đức, đừng để ý gì việc công quả mà nêu danh nơi cõi tạm nầy.

Các con phải mở rộng tâm chí ra mà hành Ðạo mới nên cho, chớ đừng mờ hồ rằng Ðạo thành thì mình được làm một vị xứng đáng và đại ích trong Ðạo".

Tóm lại, đức chí thành là gốc của nền Ðạo, tức là tánh mạng của Ðạo vậy, cho nên trong bài Kinh Niệm Hương mở đầu có câu: "Ðạo gốc bởi lòng thành tín hiệp".

Ðức chí thành không cần tập luyện mới có chỉ tại nơi tâm muốn cùng không muốn mà thôi.

LÒNG BÁC ÁI

Trên mặt địa cầu nầy, nhơn loại phần nhiều cũng bởi cái lòng vị kỷ mà gây ra lắm điều bạo ngược. Kẻ tham trộm là bởi quí trọng của mình mà không quí trọng của thiên hạ, vì vậy nên tính lấy của người đặng bổ thêm của mình. Yếu sức thì gạt lường trộm cắp, mạnh thế lại ép đè cướp giựt, có khi còn hại đến mạng người. Ăn thịt một con sanh vật là lấy huyết nhục nó để bồi bổ cho huyết nhục mình tức là quí trọng sanh mạng mình mà không quí trọng sanh mạng nó vậy.

Như hai đàng chiến đấu, bên nào cũng đem hết sức lực để tiêu diệt bên kia, thì đàng nào cũng quí trọng mạng mình mà không quí trọng sanh mạng bên nghịch.

Cái lòng vị kỷ gia hại cho nhơn quần xã hội là thế.

Nay muốn tảo trừ cái điều hại ấy, cần nhứt phải làm thế nào cho thiên hạ ai ai cũng có cái lòng bác ái.

Bác ái là gì?
Bác là rộng, ái là thương. Lòng bác ái tức là lòng thương rộng ra. Ta chẳng những thương ông bà, cha mẹ, vợ con cùng là thân tộc họ hàng, mà ta còn phải thương rộng ra cho đến cả nhơn loại chẳng luận nước nào.

Ta chẳng những thương cả nhơn loại, mà ta còn phải thương rộng ra cho tới cả loài sanh vật khác nữa.
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Phụ ghi:
Ðoạn 6: ...ai nói cũng nghe, ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung... chúng tôi nghĩ là: ...ai nói cũng không nghe, ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung.
Phụ ghi: Bài Ðức Quyền Giáo Tông giải nghĩa về: Ðức Chí Thành & Lòng Bác Ái được trích từ ÐẠO SỬ quyển 2 do Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu biên soạn. (Nguyên bản chánh không có bài nầy chúng tôi xin mạo muội thêm vào để cho chư  Ðồng Ðạo lãm tường)

Bản phiên dịch Việt văn.

TÂY NINH, ngày 01 tháng 12 năm 1931.

Kính gởi quý vị Chủ Tịch
NGHIỆP ÐOÀN BÁO CHÍ THẾ GIỚI
Kính quý vị Chủ Tịch,

Chúng tôi rất hân hạnh và kính cẩn yêu cầu quý Ngài khuyến nhủ tất cả các Giám Ðốc Nhật Báo, các tạp chí định kỳ, dành cho chúng tôi một chỗ để kêu gọi sự thống nhứt đức tin như bản kèm theo đây.

Ðó là một đặc ân mà Báo chí ban cho toàn thể nhân loại, bởi vì nếu sự thống nhứt đức tin được thực hiện, các chủng tộc sẽ xem nhau như anh em và hòa bình thế giới sẽ phát hiện.

Thế giới sẽ được giải thoát khỏi cơn ác mộng ghê gớm về một trận thế chiến sắp xảy đến mà sức phá hoại sẽ mười phần dữ dội hơn trận Thế chiến 1914-1918.

Mong quý vị Chủ Tịch nhận nơi đây những cảm tình kính mến và biết ơn của chúng tôi.
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Ông LÊ VĂN TRUNG,
Người Việt Nam - thuộc Pháp,
Ðệ Ngũ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh,
Nguyên Nghị Viên Hội Ðồng Soái Phủ Ðông Dương;
GIÁO TÔNG "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ"
"Ðại xá kỳ ba của CHÚA ở Ðông Dương"
CAO ÐÀI hay PHẬT GIÁO CHẤN HƯNG
Tại TÂY NINH Nam kỳ thuộc Pháp.

Bản chánh Pháp văn.

TÂY NINH, le 1er Décembre 1931.

À Messieurs les Présidents des Syndicats
de la Presse du Monde Entier,
Messieurs les Présidents,
Nous avons l'honneur de venir respectueusement vous prier de bien vouloir solliciter de tous les Directeurs des Journaux, Revues Périodiques, une large hospitalité à notre Appel à l'Unité de Foi ci-joint.

Ce sera un grand bienfait que la Presse rendra à l'Humanité toute entière, car, si l'Unité de Foi se réalise, les races se fraterniseront et la Paix Universelle règnera.

Le Monde sera délivré de l'horrible cauchemar d'une prochaine guerre mondiale dix fois plus dévastatrice que celle de 1914-1918.

Veuillez agréer, Messieurs les Présidents, l'assurance de nos sentiments respectueux et reconnaissants.
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Monsieur LÊ VĂN TRUNG,
Annamite, Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine;
Chef de la Religion "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové
à TÂY NINH - COCHINCHINE - FRANCAISE.

Bản phiên dịch Việt văn.

TÒA THÁNH TÂY NINH, ngày 01 tháng 12 dl. 1931.

Kính gởi chư vị Hoàng Ðế, Quốc Vương,
Quý vị Nguyên Thủ, Lãnh Ðạo các nước,
Chư vị Giáo Lãnh các Tôn Giáo
TRÊN THẾ GIỚI.
Kính thưa quý Ngài,

Chúng tôi trân trọng và thành kính thông báo cùng quý Ngài: Ðấng TỐI CAO tức là Ðấng THƯỢNG ÐẾ TOÀN NĂNG, mà cũng là ÐẠI TỪ PHỤ của tất cả nhơn loại, đã giáng lập trên một góc của nước Việt Nam, thuộc tỉnh Tây Ninh, một nền Tân Tôn Giáo. Nền Tân Giáo nầy có thể canh tân toàn thể thế giới bằng một lý tưởng cao quí: Ðó là tình thương vạn vật. Rồi đây, bởi sự chuyển xây của Tạo hóa, các sắc dân sẽ đồng tâm hiệp lực, kết tình anh em với nhau và chừng ấy, nền hòa bình thế giới sẽ phát hiện.

Chiến tranh! Cuộc chiến tranh tội lỗi giữa huynh đệ giết nhau một cách ghê tởm, sự ghê tởm của thế kỷ 20 được mệnh danh là tiến bộ văn minh, vẫn có thể tránh được.

Sở dĩ chúng tôi nói đến "TỘI HUYNH ÐỆ GIẾT NHAU" là vì dầu cho chủng tộc nào có phân chia nòi giống, nhưng tất cả đang sống trên quả địa cầu nầy đều là con cái cùng tùy thuộc dưới quyền năng ngự trị của một Ðấng Cha chung là Thượng Ðế, hay nói rõ hơn là Ðấng Chủ Tể cầm vận mạng của họ. Một khi các dân tộc gây hấn chiến tranh với nhau, điều đó có khác nào anh em một cha đã tự diệt nhau đó vậy.

Nhận lãnh nơi Ðức THƯỢNG ÐẾ, bậc Từ Phụ của toàn nhơn loại, chúng tôi có cái sứ mạng truyền bá nền Chánh giáo của Người đến khắp hoàn cầu.

Chúng tôi có đủ bằng chứng về sự giáng hạ của Người trên đất nước nầy: Nhiều phép lạ đã xảy ra giống như thời Chúa JÉSUS ngự đến ban phép lạ xưa kia ở Lourdes và các nơi khác.

Tin tưởng mãnh liệt vào hiệu năng của nền Tân giáo nầy, và hoàn toàn vững tin nơi thiện ý của mình, chúng tôi đã trình lên nhà cầm quyền thuộc địa Pháp một bản Minh thệ viết tay (kèm theo đây có một bản) mà nội dung chúng tôi cam kết với lời hứa chịu tử hình rằng: Chỉ chăm lo về mặt Ðạo giáo chớ không mảy may nào làm rối loạn an ninh trật tự. Ngược lại, chúng tôi yêu cầu được sự giúp đỡ và hộ trợ của nước Pháp để thi hành sứ mạng truyền bá nền Tân giáo nầy khắp hoàn cầu.

Ðối với sự kính trọng của chúng tôi, tiếc thay, các vị đại diện của nhà cầm quyền thuộc địa Pháp vẫn không có hảo ý đáp ứng. Một số ít tỏ ra thông cảm, khoan dung. Một số khác lại áp dụng đủ mọi cách cốt để ngăn chận sự truyền bá nầy.

Ðức THƯỢNG ÐẾ đã giáng dạy chúng tôi hoằng hóa Chánh Ðạo của Người đến khắp hoàn cầu. Chúng tôi quả quyết không có gì lầm lẫn trong sứ mạng ấy. Ðặt mình vào bổn phận, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu quý Ngài thông truyền cho toàn thể nhơn loại thế giới hiểu biết việc làm của chúng tôi, để mọi người hiểu rằng: Giờ ÐẠI XÁ của Ðức THƯỢNG ÐẾ đã điểm... và sự thống hợp của con cái Ðấng Tạo Hóa là để phụng sự cho hòa bình hơn là tiếp tục tìm kiếm kế hoạch thống trị thế giới.

Muốn được vậy, chỉ cần sao cho tất cả người đời biết thương yêu đồng chủng và giữ gìn hạnh đức đúng theo đường lối mà Chí Tôn đã vạch.

Chúng tôi chắc rằng: Hơn ai hết, quý vị Ðế Vương, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Giáo Chủ v.v... đều muốn cho thần dân và thuộc hạ đang sống dưới quyền uy của quí vị, đều được sống mà không bị ám ảnh bởi một sự sợ hãi triền miên về một trận chiến tranh tương lai, mà các vũ khí tối tân sẽ gây nên những sự tàn phá và những sự ghê tởm không tả xiết. Hơn thế nữa, quý Ngài mong muốn họ sống một đời sống an bình, hạnh phúc và vĩnh viễn thoát khỏi cơn ác mộng về một trận chiến tranh cận đại.

Chúng tôi yêu cầu quý Ngài sớm phái đến chúng tôi một số người để họ có thể hiểu rõ hơn những gì mà chúng tôi đã gầy dựng nên.

Ðức THƯỢNG ÐẾ phán dạy chúng tôi như vầy: "Các con, mối Ðạo của Thầy, nếu các con phát trễ một ngày, thì mỗi ngày qua sẽ là dịp để cho hàng trăm ngàn linh hồn đọa lạc nơi chốn trầm luân".

Giờ đây, lời kêu gọi đã được truyền ra khắp chốn, chúng tôi nghĩ rằng mình đã làm tròn bổn phận. Tuy nhiên khi nào có đủ phương tiện, chúng tôi sẽ đi khắp hoàn cầu để truyền đến mỗi dân tộc lời Thánh Giáo mới mẻ nầy.

Kính mong liệt vị chiếu cố và thể nhận nơi đây lòng tôn kính sâu xa của chúng tôi.
Quyền Giáo Tông
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Bản chánh Pháp văn.

TÂY NINH, le 1er Décembre 1931.

À Leurs Majestés les Empereurs et Rois, leurs Excellences
les Chefs d'Etats, les Ministres de toutes les Religions
du MONDE ENTIER
Sires, Excellences,

Nous avons l'honneur de porter respectueusement à votre haute connaissance que l'Être Suprême, DIEU tout Puissant, notre Père Miséricordieux à tous, est venu sur un coin de la terre d'Annam (à Tâyninh - Cochinchine - Indochine Francaise) pour créer une nouvelle Foi capable de rénover le monde entier par un noble Idéal: "L'amour des créatures". De par la volonté divine, les races se fraterniseront et la Paix Universelle règnera.

La guerre, l'horrible guerre fratricide, horreurs du XXè siècle, siècle soi-disant de Progrès, de Civilisation pourra bien être évitée. Nous disons "Fratricide" car, quelle que soit la race dont ils font partie, tous les Enfants de cette terre descendent d'un même Père, c'est DIEU qui préside à leurs destinées. Ainsi lorsque les peuples se font la guerre, c'est exactement comme des frères qui s'entre-tuent.

Nous avons recu de DIEU, Notre Père Miséricordieux à tous, la Mission de propager sa sainte Doctrine à travers le Monde.

Nous avons eu de multiples preuves de sa venue sur cette terre: de nombreux miracles se sont produits comme au Temps de la venue du Christ, comme ceux de Lourdes et d'ailleurs. Fermement convaincus de l'efficacité de la nouvelle Doctrine et forts de la pureté de nos intentions nous avons présenté à l'Administration Coloniale Francaise un serment écrit dont ci-inclus un exemplaire par lequel nous nous engageons, sous peine de mort, à ne nous occuper que des questions religieuses et à ne pas troubler en aucune facon l'ordre établi. En revanche, nous demandons de travailler, avec l'aide et la protection de la France à la propagande de la Nouvelle Foi dans le Monde entier.

Les représentants de l'Administration Coloniale ne se sont pas montrés toujours bienveillants à notre égard, quelques-uns ont été tolérants mais d'autres ont fait leur possible pour empêcher cette propagande.

DIEU est venu nous dire de répandre sa sainte Doctrine à travers le Monde; nous ne saurons donc pas faillir à notre Mission. Aussi nous nous faisons un impérieux devoir de venir respectueusement, Sires, Excellences, porter ce fait à la connaissance de l'Humanité entière, afin que tout le monde sache que l'heure de l'Amnistie divine approche, que le rassemblement des enfants du Créateur doivent se faire pour que la Paix tant recherchée règne dans tout l'Univers.

Il suffira pour cela que les hommes savent aimer leurs semblables et pratiquer la vertu dans le chemin tracé par DIEU.

Nous sommes certains que, plus que quiconque, Sires, Excellences, vous voulez que vos sujets dont la destinée est entre vos mains, ne vivent plus dans la crainte perpétuelle d'une guerre future, avec les horreurs, les ravages que causeront d'engins meurtriers de tout dernier perfectionnement. Mieux vous souhaiterez pour eux une vie paisible, heureuse, toute de vertus, et qu'ils soient délivrés à jamais du terrible cauchemar qu'est la guerre moderne.

Nous vous demandons d'envoyer le plutôt possible vers nous un certain nombre d'entr'eux pourqu'ils puissent se rendre compte de ce que nous avons avancé.

DIEU a dit ceci: "Mes Enfants, si vous tardez à répandre ma Sainte Doctrine, chaque jour de retard occasionnera la perdition des centaines de milliers d'âmes".

Le cri d'appel étant lancé, nous pensons avoir fait notre devoir.

Dès que nos moyens nous le permettront, nous parcourerons le Monde, apportant à chaque Peuple la Nouvelle Évangile.
Daignez agréer, Sires, Excellences, l'hommage de notre profond respect.
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Monsieur LÊ VĂN TRUNG,
Annamite, Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine;
Chef de la Religion "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové
à TÂY NINH - COCHINCHINE - FRANCAISE.

Lời tường thuật của Báo chí và
Thư của Ðức Thánh Cha Nhà Thờ GNOSTIQUE ALLEMAGNE

Bản chánh Pháp văn
1 . Báo chí

EN ALLEMAGNE.

Au cours de l'année 1931, dans les premiers mois plusieurs voyageurs allemands ont visité le phalanstère de Tâyninh, se sont intéressés à la Secte, ont pris des notes et des photos, et sont repartis par le bateau qui avail escalé trois jours à Saigon. On ne les a plus revus, mais le numéro du 21 Juin 1931 du Berliner Illustrierte Zeitung parvenait au Saint-Siège. Il contenait un article avec photographies de Tâyninh, signé W. BOSSARD sur "la plus étrange secte du monde".

Enfin, en Novembre 1931, nouveau document d'Allemagne (ciaprès), en réponse à l'envoi d'une brochure sur le Bouddhisme Rénové fait par LE VAN TRUNG.

2 . Thư của Ðức Thánh Cha Nhà Thờ GNOSTIQUE ALLEMAGNE

ÉGLISE GNOSTIQUE D'ALLEMAGNE

P . Futlingen, den 13 Novembre 1931.

Altesse éminentissime!
Très grand, très puissant et très excellent prince!
Sérénissime Seigneur!

Très Saint-Père!

Votre message a atteint l'Europe Centrale! Le Synode Général de l'Église Gnostique d'Allemagne dont je suis le patriarche, a résolu de préparer son union avec le Caodaisme ...

On m'a chargé de vous faire savoir cette résolution et de vous prier pour des informations sur l'histoire, la constitution, la doctrine et les rites de votre religion Universelle en Francais, Anglais ou Hollandais, afin que le message du Caodaisme puisse se servir de notre organisation ecclésiastique dans les pays des Allemands, Autrichiens, Suisses, Hollandais, Belges, Lithuaniens, Lettens et Esthéniens.

En comptant sur la réalisation de ce désir, je suis votre très humble serviteur.

m.p.

Signé: GODWIN
30330960

Souverain-pontife et
Patriarche de l'Eglise Gnostique d'Allemagne.
Grand Maitre de l'Ordre des Chevaliers de la rose mystique.
Adr: H. GODWIN Stuermer, Tuets (Grenzmard) ALLEMAGNE.

Bản phiên dịch Việt văn.

1 . Báo chí

VỚI ÐỨC QUỐC.

Vào những tháng đầu năm 1931, nhiều du khách người Ðức đến viếng Tòa Thánh Tây Ninh, lưu tâm đến Giáo phái này, đã ghi chép, chụp nhiều hình ảnh; rồi quay về hải thuyền, cập bến Saigon ba hôm. Người ta không còn gặp lại họ nữa, nhưng số báo BERLINER ILLUSTRIERTE ZEITUNG ra ngày 21-6-1931 đã được gởi đến Hội Thánh. Trong đó, có một bài mang nhan đề "Giáo Phái Mới Lạ Nhứt Của Thế Giới" do W. BOSSARD viết, kèm theo nhiều hình ảnh của Tây Ninh.

Sau cùng, đến tháng 11 năm 1931, là văn kiện mới, từ Ðức gởi sang (kèm sau đây), để đáp lại một quyển sách nói về "Phật Giáo Chấn Hưng" do ông LÊ VĂN TRUNG gởi cho họ.

2 . Thư của Ðức Thánh Cha Nhà Thờ GNOSTIQUE ALLEMAGNE

ÉGLISE GNOSTIQUE CỦA ÐỨC QUỐC

P . Futlingen, ngày 13 tháng 11 năm 1931.

Kính thưa Ðức Ngài,
Cao cả, Quyền năng và Thánh thiện.

Thưa Ðức Ngài,
Bức thông điệp của Ðức Ngài đã tới vùng Trung Âu chúng tôi!

Tổng Giáo Hội Église Gnostique Ðức Quốc, mà tôi là Trưởng Lão quyết định chuẩn bị liên hợp với Cao Ðài Giáo...

Tôi được lãnh nhiệm vụ báo tin cho Ðức Ngài biết sự quyết định này và kính xin Ðức Ngài thông truyền cho chúng tôi về Lịch sử, Hiến chương, Giáo lý và những Nghi lễ nền Ðại Ðạo của Ngài bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, hoặc tiếng Hòa Lan; để nhờ đó, chúng tôi có thể tổ chức các Giáo Hội Cao Ðài ở những quốc gia như Ðức, Áo, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Bỉ, Lithuaniens, Lettens và Esthéniens.

Ðể vững tin vào sự thật hiện điều mong ước đó, xin Ðức Ngài hãy xem tôi như người thuộc hạ khiêm tốn của Ðức Ngài vậy.
Ký tên: GODWIN

Thánh Cha và Trưởng Lão cũa Giáo Hội Église Gnostique Ðức Quốc.
Grand Maitre de l'Ordre des Chevaliers de la rose mystique.
Adr: H. GODWIN STUERMER, Tuels (Grenzmard) Ðức Quốc (ALLEMAGNE).

Phụ ghi: Riêng các bản Pháp văn, vì thiếu kỹ thuật nên chúng tôi không thể in đúng một số từ của Pháp chẳng hạn như: Francaise, recu, facon, Maitre , Aout ... xin quí Ðạo huynh thứ cho.   
      Home                                                      [ 1 ]  [ 2 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét