
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tứ Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn Phòng
Chưởng Quản
Hiệp Thiên Ðài
--------
Số: 186/HP/CQHTÐ
HIẾN PHÁP
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ÐÀI
GIỚI THIỆU
Nếu chẳng có bàn tay cao độ như Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG
THƯỢNG TRUNG NHỰT thì Ðạo Cao Ðài không thể phổ truyền rộng rãi và mau chóng
được, như tất cả mọi người đều thấy rõ.
Nhờ chí cả thương nước và thương đời mà Ngài LÊ VĂN
TRUNG, tức Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT đã lướt khỏi các trở lực gặp
phải buổi đầu. Ngài có đủ nghị lực và tài năng để đối phó với các trở lực ấy,
bằng chứng đã cho ta thấy các văn kiện lưu lại trong cuốn TIỂU SỬ nầy mà tôi
xin trân trọng và chân thành giới thiệu cùng bạn đọc bốn phương.
Nay kính
Tòa Thánh, ngày 8 tháng 6
năm Quý Sửu
(Dl 7/7/1973)
HIẾN PHÁP
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ÐÀI
TRƯƠNG HỮU ÐỨC
(Ấn ký)
(Tứ Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Ngày 10 tháng 6 năm Quí
Sửu (Dl. 9/7/1973)
Hội Thánh
Cửu Trùng Ðài
Văn Phòng
Ngọc Ðầu Sư
-----
Số: 01/NÐS
LỜI GIỚI THIỆU
Năm Bính Dần (1926) ngay sau khi đệ Tờ Khai Ðạo lên
Chánh Phủ thuộc địa Pháp lúc bấy giờ, ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ gọi là ÐẠO CAO ÐÀI
bắt đầu truyền bá công khai với tôn chỉ:
TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT
TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT
Thực hành tôn chỉ "QUI NGUYÊN PHỤC NHỨT" là thừa nhận mọi tôn giáo đều do
một gốc mà ra, đồng một chơn lý, đồng tôn sùng một Ðấng Chúa Tể càn khôn vũ trụ
là Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ.
Tính chất của Ðạo CAO ÐÀI là "ÐẠI ÐỒNG NHƠN LOẠI" có mục đích điều hòa tất cả mọi tín
ngưỡng, dung nạp triết lý của NHO, THÍCH, ÐẠO làm căn bản.
Ðạo CAO ÐÀI là ÐẠO TRỜI, một Tôn giáo tổng hợp các
Tôn giáo hiện hữu trên mặt địa cầu nầy từ thử, một Ðạo duy nhất có một giá trị
tinh thần vô song, cao cả, thiêng liêng và mầu nhiệm.
Người Anh Cả đầu tiên của Ðạo CAO ÐÀI được Ðức CHÍ
TÔN tuyển chọn, giao phó thực hành Thiên trách hoằng dương chơn pháp, khai cơ
tận độ, chính là Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT đó vậy.
Ðể tưởng niệm công nghiệp phi thường của người Anh
Cả khả kính, một bậc tiền bối dày công trong cửa Ðạo, một Ðại Công Thần của Ðức
CHÍ TÔN, Ban Ðạo Sử biên soạn cho xuất bản quyển Tiểu Sử của Ðức QUYỀN GIÁO
TÔNG với những tài liệu chính xác, dồi dào, thật là hiếm có.
Một tín hữu CAO ÐÀI mà không biết được Tiểu Sử và
công nghiệp của các bậc Tiền bối khai đạo, nhất là Tiểu sử của Ðức QUYỀN GIÁO
TÔNG là một điều thiếu sót lớn lao.
Nhắc đến Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG, hẳn trong Ðạo, ngoài
Ðời, hiện tại cũng như dĩ vãng, không mấy ai mà không biết Ðức NGÀI. Sớm mồ côi
cha, Ðức Ngài được mẹ hiền chăm sóc, nuôi nấng nên người.
Trên đường hoạn lộ, Ðức Ngài đã đoạt được danh vọng
tuyệt đỉnh. Trong Nam dưới thời Pháp thuộc bấy giờ nếu nói người duy nhất đứng
đầu quần chúng hướng về hạnh phúc của nhơn sanh, tranh đấu cho dân nghèo cùng
khổ thì duy có Ðức Ngài mà thôi, một Thượng Nghị Viên độc nhất được ân thưởng
Bắc Ðẩu Bội Tinh.
Kịp đến khi được Thiên lịnh của Ðức CHÍ TÔN, Ðức
Ngài lập tức dứt bỏ ngay địa vị công danh, khoác áo nâu sồng, vui bề khổ hạnh.
Danh lợi vàng son đối với Ðức Ngài lúc bấy giờ chỉ còn là một bóng mờ, một cơn
ảo mộng. Ðức Ngài hiệp cùng Ðức HỘ PHÁP, Ðức CAO THƯỢNG PHẨM, ngày quên ăn, đêm
quên ngủ chung lo khai sáng mối Ðạo Trời, mở mang vùng Thánh Ðịa. Ðức Ngài là
hiện thân của đức bác ái bao la, của một đức tin vô cùng kiên cố.
Ðạo CAO ÐÀI còn, danh sáng của Ðức Ngài còn, công
nghiệp của Ðức Ngài trở thành vĩnh cửu.
Quyển Tiểu Sử Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG do Ban Ðạo Sử
xuất bản ghi lại công đức của Ðức Ngài lòa như NHỰT NGUYỆT để hậu thế soi
chung, toàn dân chiêm ngưỡng muôn đời. Kẻ hậu sinh sẽ tìm nơi Ðức Ngài một cái
gương sáng chói, một hào quang rực rỡ, một ánh đuốc huy hoàng, một lý tưởng cao
khiết với lòng tận tụy hy sinh vô bờ bến vì Ðạo, vì Thầy, để noi bước.
Một sáng tác hữu ích, một tài liệu cần thiết cho
mỗi gia đình Bổn Ðạo, nên tôi xin có đôi dòng kính giới thiệu quyển Tiểu Sử nầy
với toàn Ðạo và chư Huynh Ðệ bốn phương.
Nay kính,
NGỌC ÐẦU SƯ
Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
THAY LỜI TỰA
THAY LỜI TỰA
Năm Bính Dần (1926) tân kỷ nguyên Ðại Ðạo Tam Kỳ
Phổ Ðộ đã mở tại Việt Nam, đem đến cho dân tộc và nhơn loại trên thế giới một
chủ thuyết "Nhơn Nghĩa Ðại
Ðồng" làm chấn động nô nức, qui tựu mấy triệu tín hữu đang sùng kính
và tạo dựng nền móng "Thương
yêu" cho thế hệ hiện hữu. Người ta chưa phỏng đoán được tương lai của
nền "Tôn Giáo Tân Khai" này
còn tăng trưởng đến mức độ nào?
Trong khi những người thức thời đang tìm hiểu ai là
bậc vĩ nhân phi thường vâng mạng Trời tạo nên đại nghiệp đó?
Trải qua bao cuộc thăng trầm diễn tiến, những ai có
truyền thống hoài bão lịch sử các đấng tiền nhân, không một ai quên lãng về sự
nghiệp thân thế các bậc đàn anh của mình.
Ðức Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT (Lê Văn
Trung) và Ðức Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC là hai đấng tiền bối duy nhứt của Ðại Ðạo
Tam Kỳ Phổ Ðộ. Sau ngày Ðức Hộ Pháp qui thiên có những phong trào tưởng niệm
rất uy nghiêm và cổ võ chủ thuyết "HÒA
BÌNH" của Ðức Ngài trọng thể vang lừng khắp nước Việt Nam và cả dư
luận trên thế giới.
Cựu Nghị Viên Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ
Trong khi đó, Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, phần đông tưởng nhớ chăng là trong im lặng, hoặc trong thủ tục nghi lễ hằng niên.
Quyển sách nầy góp nhặt những áng văn kiệt tác của
Ðức Ngài và các bậc tiền bối lưu lại cho đàn hậu tấn in sâu vào trí não về dĩ
vãng và để nơi kho tàng sử liệu của Ðạo làm tiêu chuẩn.
Thiết tưởng, nền chánh giáo mà chúng ta ngày nay
đang theo dõi, nên xem qua, tìm hiểu các đấng ngày xưa đã làm gì giúp ích cho
Ðời và Ðạo, đàn hậu tấn cần noi gương các đấng tiền bối khai cơ lập thành "Quốc Ðạo" hầu làm tròn nhiệm
vụ một tín hữu trung kiên đối với Ðạo nghiệp.
Mong rằng khi tái bản, sẽ đón nhận ý kiến bạn đọc
bốn phương sẵn thiện tâm thiện chí bổ túc thêm những khuyết điểm.
Xin chư độc giả nhận nơi đây lời trung thực và biết
ơn của chúng tôi.
TÒA THÁNH TÂY NINH, ngày 6
tháng 5 năm Quí Sửu
(Dl. 6/6/1973 )
PHÓ TRƯỞNG BAN ÐẠO SỬ
Phối Sư
THƯỢNG CẢNH THANH
Những vần thi Ðức Chí Tôn ban cho Ðức Quyền Giáo
Tông buổi ban sơ.
Ngày 5 tháng 12 Ất Sửu
(28-1-1926)
Một
Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy
dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm
mối Thiên cơ lo cứu chúng,
Ðạo
người vẹn vẻ mới thành Tiên.
Ðêm 30-12-Ất Sửu (12-2-26)
Ðã
thấy ven mây lố mặt Dương,
Cùng
nhau xúm xít dẫn lên đường.
Ðạo
cao phó có tay cao độ,
Gần
gũi sau ra vạn dặm trường.
Ðêm 9-1 Bính Dần (21-2-26)
Ðức Thượng Ðế lấy tên của
12 vị Môn đệ đầu tiên cho một bài thi:
Chiêu,
Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản
đạo khai Sang; Quí, Giảng thành.
Hậu,
Ðức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hườn,
Minh, Mân đáo thủ đài danh.
Phụ ghi: Bài thi sau đây được trích từ Quyển ÐẠO SỬ XÂY BÀN năm Ất
Sửu (1925) do Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu biên soạn. (Nguyên bản chánh không có bài
thi nầy chúng tôi xin mạo muội thêm vào để cho chư Ðồng Ðạo lãm tường)
THẦY,
(Le 11 Janvier 1926 là ngày ông Lê Văn Trung đến
nhà Cao Quỳnh Cư hầu Ðức Chí Tôn để nhập môn cầu Ðạo ở Sài Gòn).
Già
trí đừng lo trí chẳng già,
Lương
tâm mình biết hỏi chi xa.
Thềm
đầu Trời ngó lòng Nhơn Ðạo,
Hư
thiệt rồi đây cũng biết mà.
11-1-1926
PHỔ CÁO CHÚNG SANH
Năm Bính Dần (1926)
Ngày 7 Septembre 1926 nhằm ngày mồng một tháng 9
năm Bính Dần, có môn đệ Thiên Phong của Ðức Cao Ðài, là Cựu Hội Ðồng Thượng
Nghị Viện Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt vâng lịnh Thánh Ngôn
đến Khai Ðạo nơi chánh phủ. Trong tờ khai Ðạo ấy có ký tên 247 chư môn đệ phần
nhiều đều là Chức Sắc Viên Quan, và có Nữ phái nhiều người danh dự.
Quan nguyên soái Nam kỳ hoan nghinh và khen rằng vì
chữ thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng.
Chúng tôi xin phô đôi lời thành thật thô sơ, chư
Hòa Thượng, chư Lão Thành, chư Sơn, chư Chức Sắc trong Tam Giáo và chư Thiện
nam, Tín nữ xin lưu ý.
Chầy kíp đây chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận
Ðạo kỹ thêm nữa.
KHAI
ÐẠO NƠI CHÁNH PHỦ
Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1929) ông Cựu
Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247
vị tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh
phủ.
Tờ Khai Ðạo đến mùng một tháng chín (7-10-1926) mới
gởi lên Chánh phủ cho quan Nguyên soái Nam kỳ là ông Le Fol. Trong tờ ấy có 28
người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo.
Tờ khai ấy làm bằng chữ Langsa, phiên dịch ra như
vầy:
SAIGON, ngày 7 Octobre 1926.
Kính
cùng quan Thống Ðốc Nam kỳ Saigon,
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho quan lớn
rõ:
Vốn từ trước tại cõi Ðông Pháp có ba nền Tôn giáo
là: Thích giáo, Lão giáo và Khổng giáo. Tiên nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Ðạo
ấy, lại nhờ do theo tôn chỉ quí báu của các chưởng giáo truyền lại mới được an
cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: "Gia vô bế hộ, lộ bất thập di",
nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến đổi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà,
còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.
Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy
duyên cớ sau nầy:
1 - Những người hành đạo đều phân chia ra nhiều
phe, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ tôn chỉ của Tam giáo đều như một là
làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Ðấng Tạo Hóa.
2 - Lại canh cải mối chánh truyền của các Ðạo ấy
làm cho thất chơn truyền.
3 - Những dư luận phản đối nhau về Tôn giáo, mà ta
thấy hằng ngày cũng tại bã vinh hoa và lòng tham lam của nhơn loại mà ra, nên
chi người Annam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.
Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều
người Annam, vì căn bổn, vì Tôn giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam giáo lại làm
một (qui nguyên phục nhứt) gọi là Ðạo Cao Ðài hay là Ðại Ðạo.
May mắn thay cho chúng sanh, thiên tùng nhơn
nguyện, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế hằng giáng đàn dạy Ðạo và hiệp Tam giáo lập
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Nam nầy.
Tam Kỳ Phổ Ðộ nghĩa là đại ân xá lần thứ ba, những
lời của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế dạy chúng tôi, đều cốt để truyền bá tôn chỉ
Tam giáo.
Ðạo Cao Ðài dạy cho biết:
1 - Luân lý cao thượng của Ðức Khổng Phu Tử.
2 - Ðạo đức của Phật giáo và Tiên giáo là làm lành
lánh dữ, thương yêu nhơn loại cư xử thuận hòa, mà lánh cuộc ly loạn giặc giả.
Chúng tôi gởi theo đây cho quan lớn nghiệm xét:
1 - Một bổn sao lục Thánh Ngôn của Ðức Ngọc Hoàng
Thượng Ðế.
2 - Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.
Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại
được cộng hưởng cuộc hòa bình như buổi trước. Ðược như vậy chúng sanh sẽ thấy
đặng thời kỳ mới mẻ cực kỳ hạnh phúc không thể nào tả ra đặng.
Chúng tôi thay mặt cho nhiều người Annam, mà đã
nhìn nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Ðạo Tịch ghim theo đây, đến
khai cho quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ thông Ðại Ðạo khắp
cả hoàn cầu.
Chúng tôi xin quan lớn công nhận tờ khai đạo của
chúng tôi.
Để có tư cách chính thức với
chính quyền thực dân, ngày 7 tháng 10 năm 1926, các tín đồ gởi đến Thống đốc
Nam Kỳ Le Fol một bản tuyên cáo khai đạo bằng tiếng Pháp với chữ ký của 28 tín
đồ có địa vị cao nhất trong xã hội, kèm theo tờ khai tịch đạo của 245 tín đồ.
Ký tên:
Mme LÂM NGỌC THANH Nghiệp
chủ ở Vũng Liêm.
Mrs LÊ VĂN TRUNG Cựu
Thượng Nghị Viện
thọ Ngũ Ðẳng Bửu
Tinh (Chợ Lớn).
- LÊ VĂN LỊCH Thầy tu - làng
Long An (Chợ Lớn).
- TRẦN ÐẠO QUANG Thầy
tu-làng Hạnh Thông Tây (Gia Ðịnh).
- NGUYỄN NGỌC TƯƠNG Tri
phủ-chủ quận Cần Giuộc.
- NGUYỄN NGỌC THƠ Nghiệp
chủ - Sài Gòn.
- LÊ BÁ TRANG Ðốc
Phủ Sứ - Chợ Lớn.
- VƯƠNG QUANG KỲ Tri
Phủ sở Thuế Thân - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN KINH Thầy
tu - Bình Lý Thôn, Gia Ðịnh.
- NGÔ TƯỜNG VÂN Thông
Phán - Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN ÐẠT Nghiệp
chủ - Sài Gòn.
- NGÔ VĂN KIM Ðiền
chủ - Ðại Hương Cả, Cần Giuộc.
- ÐOÀN VĂN BẢN Ðốc
Học trường Cầu Kho.
- LÊ VĂN GIẢNG Thơ
toán hảng Ippolito - Sài Gòn.
- HUỲNH VĂN
GIỎI Thông
Phán sở Tân Ðáo - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN TƯỜNG Thông
Ngôn sở Tuần Cảnh - Sài Gòn.
- CAO QUỲNH CƯ Thư
ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- PHẠM CÔNG TẮC Thư
ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- CAO HOÀI SANG Thư
ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- NGUYỄN TRUNG HẬU Ðốc
Học Trường Tư Thục Ða Kao.
- TRƯƠNG HỮU ÐỨC Thư
ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- HUỲNH TRUNG TUẤT Nghiệp
chủ Chợ Ðủi - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN CHỨC Cai
Tổng - Chợ Lớn.
- LẠI VĂN HÀNH Hương
Cả - Chợ Lớn.
- NGUYỄN VĂN TRÒ Giáo
Viên - Sài Gòn.
- NGUYỄN VĂN HƯƠNG Giáo
Viên - Ða Kao.
- VÕ VĂN KỈNH Giáo
Tập - Cần Giuộc.
- PHẠM VĂN TỶ Giáo
Tập - Cần Giuộc.
Ðiếu :
BẢO
ÐẠO CHƠN QUÂN CA MINH CHƯƠNG
Qui vị ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thìn (1927).
Chư Hiền Hữu, Hiền Tỷ, Hiền Muội,
Từ ngày khai đạo, lần nầy là lần thứ ba tôi vì phận
sự nên phải dự tiệc tống chung của ba vị đại đức trong Ðại Ðạo Tam Kỳ. Năm Dần
ông Thượng Tương Thanh, Thượng Chưởng Pháp ly trần, ngày mồng 5 tháng 11 mãn
phục, năm nay tháng ba Ðức Nho Tông Chưởng Pháp Trần Ðại Nhơn liễu Ðạo.
Ấy là hai vị đại đức bên Cửu Trùng Ðài, ngày nay
ông Ca Minh Chương thọ Thiên ân Bảo Ðạo Hiệp Thiên Ðài qui Thánh. Theo thế tình
tôi cũng rơi lụy mà tỏ lòng bi ai nơi mộ phần chưa ráo đây. Con người thây phàm
xác thịt ai tránh khỏi sự yêu thương, tình chồng vợ đầu ấp tay gối, khó giàu có
nhau, cang thường nghĩa trọng, cha con hui hút sớm trưa, công sanh thành dưỡng
dục bằng non biển, người đồng Ðạo tất con một cha, tâm hiệp ý hòa, chia vui sớt
nhọc, ngảnh lại mấy năm tình ấy rồi xem cảnh hôm nay, người qui Thánh nương
bóng Ðức Cao Ðài, kẻ còn lao nhao, lố nhố nơi bể khổ sông mê. Ôi! Gặp cuộc phân
ly như thế, không ngăn giọt lụy cảnh sầu bi nầy làm cho ruột thắt gan bào. Anh
Bảo Ðạo ôi! Thương vì nhớ mấy lúc cùng nhau hội hiệp, khi thi phú, lúc cờ bàn,
nơi Tòa Thánh. Nhớ đến tiếng cợt tiếng cười, thương vì nghĩa, rồi đây xác phàm
của người phải ở đồng trống sương gieo, thương vì thế, vì bình bồng, có ai giữ
mồ trăm năm, lâu rồi cũng là mồ hoang, cỏ loáng, thương nỗi vợ yếu trông chồng
nhìn cảnh sầu khuya với ngọn đèn leo lét, thương cuộc con ngây, bặt vắng lời
châu ngọc của cha hiền đức, nhìn nơi đây đồng không mông quạnh, nhớ tới xác
phàm anh ở chỗ như thế thì khó lấp cơn sầu, mà nghĩ cho kỹ thì chơn linh anh
vẫn còn, vì anh hữu duyên nên gặp Ðạo Trời, rộng mở Tam Kỳ Phổ Ðộ. Mấy năm dư
anh đã mượn nâu sòng lánh tục, anh vui cùng sanh chúng. Nay hồn lìa khỏi xác,
vẹt ngút mây xanh trông vào cực lạc, an nhàn, non chiều hạc gáy, động tối qui
chầu, nghĩ đến đó lấp đặng mạch sầu. Nên tôi mới tỏ ít câu sau đây nhắc công
lao của anh đối cùng xã hội.
Tôi xin nhắc một ít công lao của Bảo Ðạo trong
đường đời và trong Tam Kỳ Phổ Ðộ. Nguyên anh là người nhao rún ở ấp Thanh Ba,
làng Mỹ Lộc Tây, Tổng Phước Ðiền Trung, Huyện Phước Lộc; hồi anh thiếu niên (ấu
xuân), gặp nhiều Ðấng nho văn hiền triết, cư trú Huyện Phước Lộc Tây như ông Ðồ
Chiểu và ông Cống Quỳnh vân vân ...
Ông Ca Minh Chương cũng là chí Thánh lúc làm Giáo
huấn là lo Nhơn Ðạo, mà người cũng gần lo Thiên Ðạo. Anh trường trai giữ giới
thọ giáo Minh Sư, có câu kinh: " Bá
niên vạn kiếp nan tao ngộ" trăm năm muôn kiếp khó mà gặp mối Ðạo khai.
Ông Ca Minh Chương hữu duyên hữu phần, nên lúc Trời khai Tam Long Huê hội. Tôi
xin nhắc lại: Năm Bính Dần hội Thượng ngươn tôi cùng hai em Cư, Tắc thọ Thánh
chỉ gởi đi phổ độ tại quận Phước Lộc nầy, trước hết khi ấy ông Ca Minh Chương
có hầu Ðàn nghe lời châu ngọc của Ðấng Ðại Từ Bi.
Người hữu duyên mau hiểu lời Thánh truyền. Nên
người nhập môn cầu Ðạo liền, qua hạ tuần tháng hai năm đó, ba anh em tôi thọ
Thánh chỉ xuống Vĩnh Nguyên Tự ở 10 ngày học Ðạo, khi đó có ông Ca Minh Chương
cũng theo xuống Vĩnh Nguyên Tự, có một bữa Ðại Từ Phụ khai khiếu cho Bảo Ðạo Ca
Minh Chương. Hồi mới khai khiếu ba anh em tôi ngơ ngơ ngáo ngáo không hiểu chi
hết, tưởng là Ðạo Hữu Chương niên cao kỷ trưởng, mắt mờ mệt nên Ðại Từ Phụ khai
khiếu cho sáng láng, ngỏ hầu khi nào Ðại Từ Phụ giáng cơ viết Hớn Tự, Ðạo Hữu
coi đọc cho dễ, té ra không phải vậy, mình bàn theo trí phàm, thiệt rất lạc
lầm.
Ðấng Chí Tôn khai khiếu cho Chương vẫn để cho người
sau phò loan đặng đi phổ độ, không bao lâu người cùng Ðạo Hữu Tươi là hai Chức
Sắc Hiệp Thiên Ðài phò loan đặng phổ độ nhiều nơi, lúc ấy tuy ông Bảo Ðạo sức
kém, lực suy mà nhờ huyền diệu thiêng liêng bảo hộ nên người lập công quả.
Nhớ lúc ông dầm mưa trải nắng, thiệp hải đăng sơn,
sức suy yếu mà chí chẳng sờn, không kém gì Huỳnh Trung buổi trước, nghĩ mấy hồi
ma khảo, người vô tâm ngăn phá Ðạo Trời mà anh cũng thình một dạ, thiệt chí hào
kiệt, trí tri dễ núng khiến lụy anh hùng đây. Trước nhờ Ðấng Chí Tôn dìu dẫn
hồn anh, đem về cõi thọ.
Ông Bảo Ðạo hồi lúc gần qui vị, linh quang anh
thiệt tinh tấn, nhớ đến mấy lời châu ngọc anh than cùng tôi thiệt ruột dường
dao cắt, anh nhắc những ân của anh thọ nơi bác tôi, khi anh lo việc hương đảng,
anh khiêm từ đến đổi cung tụng, những việc phải của tôi đối đãi với anh, khi
anh làm Giáo thọ, ấy nhơn nghĩa anh giữ vẹn, thiệt là anh chí thánh đó, anh than
cùng tôi, anh buồn lo vì nhiều kẻ tính riêng, người toan tự lập, còn phận anh
thủy chung như nhứt cứ do Tòa Thánh, nay anh về Tiên cảnh xin cũng chung lo
giúp trong Ðạo đặng tâm hòa như một, xin anh chứng lòng thảo của mấy em. Hôm
nay làm lễ tiễn hành đưa linh hồn anh về Cực Lạc an nhàn Bồng Lai.
Huy Lụy
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
AI ÐIẾU BẢO ÐẠO
Cỡi
hạc anh đà tách dậm tây,
Từ
nhau oằn oại gánh tình nầy.
Muôn
lằn sóng thảm nơi trần tục,
Ngàn
dặm bước nhàn tách gió mây.
Cõi
thọ anh nương theo huệ bóng,
Thân
phàm em trẻ chịu chia bầy.
Vui
buồn sớt thảm ơn xưa tạc,
Càng
nhớ càng sầu khó giải khuây.
HỘ PHÁP
HỌA NGUYÊN VẬN
Hoàng
hôn ác lặn xế non tây,
Cách
trở xui chi cảnh thảm nầy.
Ðộ
chúng xưa từng chia gánh khổ,
Lìa
trần nay vội tách đàng mây.
Rừng
thiên ngắm chạnh nhà chinh bóng,
Ðảnh
túy buồn trông én tách bầy.
Lau
lụy ít hàng xin kỉnh điếu,
Tình
nồng bao thuở dạ đâu khuây.
THƯỢNG SANH
Một
giấc nghìn thu vĩnh biệt nhau,
Người trong tri kỷ ruột gan
xào.
Âm
dương tuy cách xa muôn dặm,
Son
sắt còn ghi tạc một màu.
Khóc
phụ con hiền trông cửa trước,
Thương
chồng vợ yếu dựa hiên sau.
Êm
chơn vội bước tìm nguồn Thánh,
Mà
nỡ đành quên nghĩa tấc giao.
BẢO VĂN PHÁP QUÂN
Tài liệu ảnh: Tòa Thánh mới xây bằng vật liệu nhẹ tại Long Thành; Thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
BÀI GIẢNG ÐẠO
Nhân kỷ niệm 2 năm ngày làm Tờ Khai Ðạo với Chánh
phủ thuộc địa Pháp (*)
23 tháng 8 năm Mậu Thìn ( 6 Octobre 1928).
CHƯ ÐẠO HỮU RẤT YÊU DẤU,
CHƯ ÐẠO TỶ, CHƯ ÐẠO MUỘI,
Tôi rất hữu hạnh vì ngày nay được thay mặt trong
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đặng thố lộ ít lời nhắc tích ngày kỷ niệm hôm nay.
Máy âm dương chuyển vận, cơ tạo hóa vần xoay, ngày
tháng như thoi đưa, ngảnh lại ngày Ðấng Chí Tôn hiệp chúng ta nơi đây đặng lo
lập Tờ Khai Ðạo tới nay là hai năm chẵn. Tôi xin nhắc lại cho chư Hiền hữu, chư
Hiền muội lãm tường: Ðấng Chí Tôn có dạy:
Bàn Cổ sơ khai nhơn sanh ư Dần cho nên ngày Ðấng
Chí Tôn mở Ðạo là ngày mồng một năm Bính Dần. Ngày ấy Thầy sắp đặt mười hai
người lo khai Ð. Ð. T. K. P. Ð. mỗi người lãnh phận sự lo đi truyền bá. Bước
qua tháng tám năm Bính Dần gần lúc Trung Thu trăng thanh gió mát, tôi cùng hai
em Cư, Tắc, cầu nguyện cùng Ðấng Từ Bi xin phép đến bữa nguyệt đáng cho phép
sắm lễ cúng Diêu Trì Cung và cầu Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương và chín vị Tiên
Nữ hầu bà xin dạy Ðạo. Ðấng Chí Tôn rộng lượng cho cầu Diêu Trì Cung bữa rằm
Trung Thu.
Khi cầu cơ thì Ðấng Chí Tôn giáng kêu tôi dạy phải
cho môn đệ của Thầy tối 23 tháng 8 tựu tại nhà Ðạo Hữu Tường đây.
Tôi không biết rõ Thánh ý điều tôi vâng mạng cho
chư Ðạo Hữu hay lời Thánh truyền tới bữa 23 tháng 8 năm Bính Dần, là ngày 29
Septembre 1926 chư Ðạo Hữu tựu tại đây rồi cầu Ðấng Chí Tôn giáng dạy tôi phải
biên tên hết các Nam Nữ lưỡng phái đặng đứng tờ khai Ðạo cho Chánh phủ, khi ấy
có mặt tại nơi đàn hết thảy là 240 vị Ðạo Hữu Nam Nữ. Tôi có nạp tên mấy vị ấy
tại Chánh phủ, khi tôi dâng tờ khai đạo, là ngày 6 Octobre 1926. Khi ấy tôi có
bạch với Ðấng Chí Tôn rằng tôi không có giờ đủ mà đệ tờ khai đạo cho ông Thái
Lão Trần Ðạo Quang ký tên, Ðấng Chí Tôn có phán dạy tôi cứ việc đem tên Trần
Ðạo Quang vô tờ khai đạo. Ðấng Chí Tôn có phán rằng: "Con cứ đem tên nó vô tờ khai đạo, Ðạo Quang nó không chối cãi đâu
mà con phòng ngại".
Thiệt từ ngày ấy, anh cả chúng ta là Trần Ðạo Quang
hết lòng sốt sắng vì Ðạo nên Ðấng Chí Tôn phong cho chức Chưởng Pháp trong
Ð.Ð.T.K.P.Ð.
Ấy là sự tích ngày kỷ niệm hôm nay. Nhìn mặt nhau
đây thì chúng ta thấy chúng ta phản lão hườn đồng, chúng ta trẻ lại hai tuổi,
vì chúng ta trở lại thấy việc hai năm trước.
Vậy là ngày vui, ngày quí báu của chúng ta.
Biết vui, biết quí báu chừng nào thì phải biết cái
ân huệ của Ðấng Chí Tôn ban thưởng cho chúng ta chừng nấy. Muốn đền ơn quí
trọng ấy, phải làm sao? Phải hết lòng vì Ðạo hết lòng tín ngưỡng Ðấng Chí Tôn
và chư Phật chư Tiên vì háo sanh, vì cuộc tuần hườn mà gieo mối Ðạo Trời
T.K.P.Ð. ngỏ hầu độ rỗi sanh linh khỏi hết trả vay nơi trầm luân khổ hải nầy.
Vì mừng ngày kỷ niệm hôm nay, tôi xin nhắc chư Ðạo
Hữu chư Ðạo muội, việc phải lo trong Ðạo.
Nhiều Ðạo Hữu tưởng lầm rằng ngày Ðấng Chí Tôn vì
quá thương nhân loại nơi đây, nên gieo truyền mối Ðạo nơi đây, vậy chúng ta cứ
ăn chay niệm Phật, thì đắc quả đặng. Nhiều Ðạo Hữu cũng tưởng lầm rằng: Mình
hữu duyên hữu phần gặp lúc Ðạo khai, vậy cứ luyện Ðạo thì đắc quả.
Hại thay! Cái tánh cái hạnh phàm phu, sân si ái
dục, tham lam, khoe danh cầu tiếng, nhóm lại nghịch lẫn nhau, gièm siểm nhau,
lo đứng cho trên người khác chớ không tài liệu biện cho có ích chi cả. Tánh
hạnh còn như vậy là tánh chưa thuần dương mà làm sao thành đặng.
Ðấng Chí Tôn hằng nói: "Phần nhiều hữu công mà chưa tận chí, không vì sanh chúng mà giữ
phẩm hạnh hoàn toàn, cho nét đường tu của Thầy đã vì các con mà bố hóa..."
Ðấng Chí Tôn vì quá thương nhân loại nơi đây nên
cho chúng ta được hưởng cái công khai Ðạo, cái công vẹt ngút mây xanh làm chỗ
sáng sủa bạch minh cho bước đường sau nầy cũng do lần dấu ấy mà tầm đến nơi yên
tịnh, làm cho khắp cả dân sanh đều được hưởng.
Theo Thánh ý trên đây thì Ðấng Chí Tôn muốn cho
chúng ta dìu dắt kết chặt dân sanh nơi vùng Nam nầy đặng cùng nhau chung hiệp,
tìm con đường hòa bình, chẫm rãi, lần ra khỏi lối khốn khổ lao lung ở cõi trần
nầy, rồi tự toại ngâm câu thái bình. Chừng ấy chim về cội cá về sông, hớn hở,
trau lòng thiện niệm mà bước lên nấc thang Thiêng liêng mới đặng.
Ngày nào Ðạo chưa hòa, người chưa đủ sức kềm chế
nhau, tương thân tương ái nhau, cho đủ tinh thần mẫn đạt, thương yêu nâng đỡ
nhau, Ðạo chưa đủ người ngay chánh hiền lương chỉ nẻo dẫn đường, người Ðạo chưa
phủi sự tham danh chác lợi, trong Ðạo chưa biết trật tự kính nhường nhau, thì
ngày ấy Ðạo chưa trọn thành, thì chưa một ai mong khỏi nội công mà tầm nơi địa
vị Thiêng liêng được.
Thương hại thay! Phần nhiều Ðạo Hữu chưa biết Ðạo
là gì? Nếu trong Ðạo mà chưa biết đức nhơn thì bao giờ thành Ðạo nhơn đức được.
Là thương xót giúp lẫn nhau, phò nguy tế cấp với nhau, làm âm chất tế độ kẻ
nguy cùng.
Mến đức hơn mạng sống của mình. Lòng nhơn phải lấy
tánh hiền lương mà dìu kẻ vạy ra chánh ấy là một sự nên làm. Lấy lời cam ngôn
mỹ từ, mà khuyên dỗ những kẻ bất bình cho an khuây, lại còn nên làm hơn nữa.
Thánh ý muốn cho ta luyện hạnh nết được như vậy thì hòa bình trong Ðạo.
Ngày nào được hòa bình thì cả nhân sanh coi việc
hòa bình của chúng ta mà noi theo. Hỏi thử: Chúng ta có làm được muôn một trong
mấy điều ấy chưa. Tôi tưởng chắc lỗi thì nhiều, chớ lập chí Thánh thì như mấy
lời dạy trên đây chưa có.
Than ôi! Ðã chưa có mà còn tệ hơn nữa là phần nhiều
đã xa nền Ðạo cho đến đổi có lời Ðức Lý Giáo Tông trách như vầy: "Người trong Ðạo có số cho đông chớ tâm
trung không một mảy chi thành thật; hiệp bề ngoài mà lòng Ðạo chưa thuần, nét
thương tâm chưa có, hạnh đức chưa hoàn toàn".
Ngày nào mà Ðạo chưa được hòa, người một Ðạo chưa
đồng nhứt tâm, thì đèn rọi thiêng liêng chưa đủ tỏ mà soi cho mấy chục triệu
dân sanh nơi đây.
Ngày nào Ðạo chưa hòa, thì không ai được lời Thánh
Giáo nữa.
Theo nhân sự làm con mà làm cho ông cha buồn rầu
thì cũng thất hiếu! Trong Ðạo mà không hòa thì tự nhiên Ðấng Ðại Từ Phụ cũng
sầu não với đám con ngỗ nghịch. Tôn chỉ Ðại Ðạo là đó.
Ngày nay chúng ta thành tâm lập lễ kỷ niệm nầy thì
tôi tưởng cũng nên thành tâm mà chọn một người bàn hội cho đủ đạo đức, cho đủ
tư cách. Bàn hội ấy hiến công đi dạy dỗ khuyên lơn trong Ðạo Hữu Nam Nữ từ lớn
tới nhỏ, phải lo trau giồi hạnh đức như mấy lời tôi thố lộ trên kia. Bàn hội ấy
lo cho Ðạo Hữu Thánh Thất Cầu Kho đây, mỗi tuần phải ra công xem xét có việc bất
bình trong Họ, thì phải lo phương cứu chữa cho được yên tịnh. Mỗi tuần phải có
tờ phúc cho ông làm đầu trong Họ, hay là cho ông Chủ địa phận trong Ðạo.
Tôi sẽ truyền cho mỗi Họ đều sắp đặt như vậy, ấy
cũng phương châm chế cho trong Ðạo hòa bình chớ chư Hiền hữu cũng thấy rõ nhiều
việc biến trong Ðạo. Trải qua mấy thu rồi, chư Ðạo Hữu, chư Ðạo muội không đặng
nghe lời Thánh Giáo, vậy tôi xin đọc một bài Thánh Ngôn của Ðức Ðại Từ Bi dạy
Ðạo khi tôi đi phổ thông miền Hậu Giang.
"...
Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Giáo Ðạo Nam Phương.
Chư môn đệ và chư nhu nghe:
Chim
về cội, nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người giữa thế, chẳng qua là khách đi
đường; phận sự muốn cho hoàn toàn, cần phải có bền chí và khổ tâm; có bền chí
mới đạt phẩm vị thanh cao; có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh; lăng xăng xạo
xự mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc cũng chẳng khác chi một giấc huỳnh
lương mộng; mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm quyền thế giái ban
cho; dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi
chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán; ai
giữ trọn bực phẩm, thì đặng Tòa Nghiệt Cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị
cao hơn chốn Ðịa Cầu 68 nầy; ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh, phải bị đọa vào
nơi U Minh Ðịa; để trả cho xong tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh
đường ngay mà phục hồi ngôi cũ; bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên Ðiều
chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác. Bậc nhơn sanh
vì đó mà phải chịu thiên niên chìm đắm vào số luân hồi; vay trả, trả vay, căn
quả chẳng bao giờ tiêu đặng. Các bậc Thần, Thánh, nếu chẳng biết mối đạo là
phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong
thoát đặng.
Trời
Nam may đặng một yếng sáng của Ðấng Ðại Từ Ðại Bi dẫn khách trần bước lần ra
con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê; dụng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm
thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng Trời, vẹt ngút
mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn
thanh nhã, núi thẳm rừng xanh. Phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị nầy, ấy là một
sự khó thi hành của khách phàm tục, mấy ai nong nả tìm đến cảnh thiêng liêng,
mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm.
Ðạo
Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần; nếu chẳng biết thế thời, giọt
nước nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng." (**)
Trước khi dứt lời, tôi xin chư Ðạo Hữu, chư Ðạo
muội bái lạy Ðấng Chí Tôn và rập cùng tôi tung hô cầu chúc: "Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma
Ha Tát, xin bố phước lành cho chúng tôi lo cho tròn phận sự ..."
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Phụ ghi:
(*) Chúng tôi thêm vào phần nầy để phân biệt với bài
giảng tại nhà ông Cả Hồ văn Nhơn.
(**) Nguyên bản của tài liệu, so với Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển Q.1 ngày 10-01-1927 bài 61 ấn bản năm Nhâm Tý (1972) có sự khác biệt về
cách chấm câu. Ðể cho sự nhất thống chúng tôi xin thay thế bằng bài Thánh Ngôn
nơi TNHT Q1.
Nguyên bản tài liệu gốc:
" ... Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Giáo Ðạo
Nam Phương.
Chư môn đệ và chư nhu nghe,
Chim về cội nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người
giữa thế chẳng qua là khách đi đàng, phận sự muốn cho hoàn toàn, cần phải có
bền chí và khổ tâm. Có bền chí mới đoạt được phẩm vị thanh cao, có khổ tâm mới
rõ tuồng đời ấm lạnh. Lăng xăng, xạo xự, mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc
chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng.
Mỗi bực phẩm đều đặng một vai tuồng của đấng cầm quyền
thế giái ban cho. Dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách
nhiệm, hầu buổi chung cuộc hồn lìa khỏi trần, đặng đến nơi khởi hành, mà phục
hồi công cán.
Ai giữ trọn bực phẩm thì được Tòa Nghiệt Cảnh tương
công chiết tội để vào địa vị thanh cao hơn chốn địa cầu 68 nầy. Ai chẳng vẹn
trách nhậm nhơn sanh phải đi vào nơi u địa để trả cho xong tội tình công quả,
cho đến lúc trở về nẻo chánh, đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng chẳng biết
sửa mình, thì luật Thiên Ðiều chẳng chấm, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời
mà đền tội ác. Bực nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm đắm, vào sổ
luân hồi, vay trả, trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng.
Các bực Thánh Thần nếu chẳng biết mối Ðạo, là phương
châm tìm nguồn trong rửa bợn tục thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát
đặng.
Trời Nam may đặng một yến sáng của Ðấng Ðại Từ Bi dẫn
khách bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dùng nâu sồng thế cân
đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng
trời vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh Thiêng liêng biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm
khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm, rừng xanh, phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị
nầy, ấy là một sự khó thi hành cho khách phàm tục. Mấy ai nong nả, tìm đến cảnh
Thiêng liêng mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm. Ðạo Trời qua bến tục, đường
Thánh dẫn khách trần, nếu chẳng biết thời thế, giọt nước nhành dương, hết chờ
khi rưới khổ đặng."
BÀI
GIẢNG ÐẠO
Tại nhà ông Cả Hồ Văn Nhơn Bến Tre
Ngày 24-8 Mậu Thìn (7 Octobre 1928).
Chư Quí Ðạo Hữu, Ðạo Muội, chư Thiện Nam, Tín Nữ,
Ðường xa viễn vọng, cách trở ngàn trùng, anh em
chúng tôi chẳng ngại ngùng đi đến đây, trước khai đàn cho ông Cả Hồ Văn Nhơn và
vợ là Lê Thị Liêng, sau chỉ rõ anh em được biết mục đích tôn chỉ Ðại Ðạo Tam Kỳ
Phổ Ðộ.
Vả chăng hạt Bến Tre đây là chỗ địa linh nhơn kiệt,
xuất hiện nhiều nhà thi văn đặc biệt, tôi đâu dám tự phụ tài hay học giỏi mà
múa búa trước cửa Lỗ Ban, diễn văn nơi làng Khổng Thánh, nhưng sở dĩ có mấy lời
hèn mọn tỏ ra đây mong cho anh em chị em hiểu rõ nguồn cội Ðại Ðạo Tam Kỳ.
Ðạo vẫn rất cao sâu mầu nhiệm, nếu dẫn từ khí Hư vô
sanh ra Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng vân vân ... thì dong dài và rất khó hiểu
cho phần nhiều trong em út chưa rõ Ðạo. Vậy tôi xin cắt nghĩa cuộc tuần hoàn
giác thế, nền Ðạo khai và khai tại nước Nam Việt ta cho chư Ðạo Hữu, chư Ðạo
Muội hiểu rõ đặng có đủ đức tin, ngõ hầu sốt sắng lo hành đạo theo thời kỳ nầy.
Từng nghe: "Thiên Ðịa tuần hoàn, châu nhi phục thỉ".
Từ tạo Thiên lập Ðịa, càn khôn phát khởi tới ngày
nay biết mấy muôn mấy vạn lần xuân qua hè lại, thu mãn, đông tàn, nay tới đời
Hạ ngươn mạt kiếp cũng gọi là cuối cùng.
Phàm muôn việc đều có thỉ có chung, có khởi có cùng
như một ngày một đêm 12 giờ, khởi ư Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu
Tuất Hợi.
Tới Hợi rồi thì phải khởi lại Tý. Mỗi tháng khởi
mồng một tới ba mươi cuối tháng rồi khởi lại mồng một nữa. Năm thì khởi tháng
giêng đầu năm, rồi lại tới tháng chạp là cuối năm thì phải khởi lại tháng
giêng. Mỗi tháng chia ba tuần, mỗi tuần 10 ngày; mỗi năm chia ra tam ngươn:
Thượng ngươn, Trung ngươn, Hạ ngươn. Ấy là luật tuần hườn của Trời phân định,
việc thế thì cũng phải có tuần hườn vậy. Hồi tạo Thiên lập Ðịa, càn khôn phát
khởi rồi cũng phải tới cuộc cuối cùng, như cùng năm, cùng tháng, cùng ngày,
cùng đêm, cùng giờ, cùng khắc v.v... Nên cũng chia ra tam ngươn: Thượng ngươn,
Trung ngươn, Hạ ngươn. Mỗi năm trời đất đều lớn hơn ngươn năm trước. Nay tới
đời Hạ ngươn hầu bước qua Thượng ngươn khởi lại nên nhân vật đổi dời. Ðạo là
tối trọng tối quí trong đời, Ðạo vẫn có trước rồi mới có đời. Ðạo đời đi cặp
nhau. Ðạo như cái lưới bao trùm Càn khôn Thế giới, không có việc chi từ lớn chí
nhỏ mà ra khỏi Ðạo. Nay vì cuộc tuần hoàn và vì căn bổn háo sanh nên Ðấng Chí
Tôn chuyển Ðạo lại.
Dẫn hồi tạo Thiên lập Ðịa thì nội vùng Á Ðông đây
văn minh trước, nên từ Bàn Cổ sơ khai, Ðạo cũng khai bên vùng Á Ðông trước,
như: Ðạo Phật thì mở khai tại Thiên Trước là Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, Thích Ca
khai Ðạo Phật. Ðại Ðạo là Ðạo Tiên thì Lão Tử khai tại Trung Huê, sau nữa Khổng
Phu Tử khai Ðạo Thánh cũng ở Trung Huê là ở miền Á Ðông. Sau lần lần Ðạo trải
khắp qua hướng Tây nên Ðức Chúa Giê Su truyền Ðạo Thánh bên hướng Tây. Kế đó
Ðạo mới rọi truyền ra khắp năm châu.
Ngày nay là châu nhi phục thỉ, nên Ðại Ðạo phát ra
tại Á Ðông nầy. Bởi cớ ấy nên trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ Tổ cho hai câu đầu
như vầy:
"Biển
trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh
thái dương rọi trước phương đông... "
Mặt trời mọc hướng Ðông rồi lần lần lặn thì qua
hướng Tây Ðạo truyền ra cũng như thế.
Người nước Nam từ cổ chí kim thiệt không có Ðạo,
trong nước nhà mà người Nam ta có tâm đạo; người Nam trổi danh khắp địa cầu về
bề tín ngưỡng, Ðạo Phật, Ðạo Tiên, Ðạo Nho tuy khai bên Ấn Ðộ và bên Trung Huê,
sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái. Ðạo Gia Tô của mấy Linh Mục bên
Thái Tây đem gieo truyền bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều
trong người Nam thì hay đi chùa, đi miểu, đi nhà thờ cầu khẩn, vọng tưởng hết
lòng, ngưỡng mộ Trời Phật. Người không đi chùa, đi miểu, không đi nhà thờ, thì
trong nhà cũng thờ ông bà cha mẹ quá vãng ấy là Ðạo Nho. Mấy bằng cớ trên đây
chỉ rõ rằng người Nam Việt tin tưởng Trời Phật, Thánh Thần, tin tưởng chắc rằng
chết thì cái xác phàm nầy chết tiêu diệt, chớ linh hồn bất tiêu bất diệt, vì
đạo tâm ấy mà trong thời kỳ chuyển đạo nầy Ðấng Chí Tôn thương lòng thành thật
của nhơn sanh nơi đây mà khai Tam Kỳ Phổ Ðộ (ân xá lần thứ ba).
Tuy khai Ðạo tại nước Nam mà cũng khởi ư Ðông. Bàn
Cổ sơ khai Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Từ năm Bính Dần,
Ðạo phát khai tại Tây Ninh lần lần truyền ra Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một,
Chợ Lớn là mấy hạt ở về hướng Ðông. Qua năm thứ nhì thứ ba, Ðạo mới truyền ra
mấy hạt hướng Tây.
Trong thời đại Hạ ngươn đây, nhân loại ở thế gian
phần đông vì ham cái văn minh vật chất, ham ăn mặc sung sướng, giành giựt cấu
xé mồi phú quí, bả vinh hoa, vẻ cân đai, mùi chung đỉnh, mạnh còn, yếu mất đua
chen lẫn lộn.
Than ôi! Nhân loại như thế sao khỏi động lòng Trời!
Ðấng Chí Tôn vì háo sanh, đại từ đại bi, thấy nhân
loại đang mờ mịt trong vòng hắc ám, lầm đường lạc nẻo, mới khai Ðại Ðạo để độ
dẫn chúng sanh thoát khỏi bến trầm luân khổ hải nầy.
Tôi chỉ rõ cho Thiện Nam Tín Nữ biết rằng: Người
Nam không Ðạo nhà, mà nay Ðấng Chí Tôn thương tâm đạo chúng ta nên khai Ðạo tại
đây. Hồi năm đầu khai Ðạo, Ðấng Chí Tôn có cho ông Nguyễn Thế Vinh cũng là
người đạo đức và con nhà nho phong ở tại Chợ lớn một bài Tứ tuyệt như vầy:
"Từ
thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay
Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví
bằng ai hỏi sao bao nả,
Rằng
trẻ noi sau biến hóa già."
Bài Tứ tuyệt nầy chứng tỏ rằng từ cổ chí kim nước
ta không Ðạo nhà. Nước mà không Ðạo cũng ví như người ta không hồn, nhà không
đạo đức tự nhiên cang thường luân lý phải suy bại.
Ðạo là gì? Ðạo rất cao sâu mầu nhiệm, Ðạo bao trùm
Càn khôn Thế giới, không có vật chi, không có việc chi ra khỏi Ðạo, tôi xin
diễn tắt rằng hễ có Ðời tức nhiên có Ðạo.
Trong thế sự chia ra hai bên, một bên hữu hình, một
bên vô hình. Hữu hình hữu hoại, vô hình bất tiêu bất diệt.
Hữu hình là những vật chi mình rờ nắm được như cái
bàn cái ghế, cái xác phàm ta đây là hữu hình, vì ta rờ nắm được, ấy vậy xác
phàm ta phải tiêu phải diệt. Còn vô hình như gió như mây, muôn năm ngàn kiếp,
gió mây có tận diệt bao giờ, mà có ai bắt gió đón mây cho được. Linh hồn ta
cũng như gió như mây vậy bất tiêu bất diệt, nên phải luân hồi chuyển kiếp, tùy
theo công quả của ta cấu kết nơi trần thế đây. Hễ hiền thì thăng, dữ thì phải
đọa, vay vay, trả trả, y theo Thiên Ðiều phán định, lỗ kim không lọt, một mảy
chẳng sai nên Thánh nhơn Ngài có chỉ trong câu: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu!".
Than ôi! Ít người nghĩ cho kỹ, vì trong cuộc trần
thế nầy nhiều bẫy rập, níu kéo chúng sanh đem thân trần cấu gieo miền trầm
luân. Ai ai cũng tranh giành nhau trên đường danh bể hoạn, lo ăn ngon mặc đẹp,
ở lầu cao gác rộng, nhà dọc dãy ngang, thềm gấm sân hoa, tiêu xài huy hoát.
Than ôi! Ðường thế bày trò hư hoại, người bị chôn lấp trong chốn hí tràng qua
lại ngựa xe. Than ôi! Nhân loại chỉ biết Ðời, bao giờ nghĩ đến Ðạo, người một
Ðạo cùng nhau mà nhiều khi nhìn như kẻ Tần người Việt, trong một làng một xóm
với nhau mà coi như cách biển Sở sông Ngô, chỉ bo bo lo cho mình, một mình mình
ấm, một mình mình no, một mình mình yên vui, một mình mình sung sướng, từ sớm
mai đến tối, từ tối đến sáng, thỏn mỏn lần lựa tháng ngày cứ lo giành giựt,
giựt giành, lao thân tiêu tứ. Ít ai nghĩ hồn lìa khỏi xác thì đem theo có một
chữ tội với một chữ phước. Người có tu tâm dưỡng tánh biết thương đồng loại
biết giữ đạo nhơn luân thì hồn được siêu thăng tịnh độ!
Người ít nhơn đức hơn nữa, đều cũng có làm lành lo
âm chất trong khi ở thế, thì được đầu thai lại mà hưởng phước. Còn kẻ vô đạo
đức, không kể nhơn luân, chẳng biết thờ kính Trời Phật Tiên Thánh thì phải bị
đọa A Tỳ, chịu ngục hình khảo phạt trừng trị những tội ác đã kết ra trên thế
sự. Ấy là những việc huyền bí nhiệm mầu trong Ðạo.
Người muốn cho linh hồn khỏi mấy điều khổ nhục ấy,
thì phải biết đạo mà trau giồi hạnh đức, phải lo tu tâm dưỡng tánh.
Tu nghĩa là trau giồi tánh hạnh.
Tu không phải từ mơi tới chiều tụng kinh gõ mõ mới gọi rằng tu.
Tu có nhiều bực: Bực Thượng thừa phải ép mình hành xác, phải nâu sồng khổ hạnh, lo làm âm chất, lo công quả cho Trời
Phật, chừng quả mãn tìm chỗ u nhàn mà luyện đạo, ấy là bực Thượng thừa. Nếu
trong thế gian mỗi người đều phế công việc mà tìm chỗ u nhàn như vậy, thì thế
sự nầy phải ấm lạnh, có ai đâu mà lo nhơn đạo.
Con người ở thế mỗi cá nhân đều có phận sự, nếu bỏ
phận sự thì thất nhơn đạo mà không Ðạo nào tránh khỏi nhơn đạo cho được. Người
hành đạo mà bỏ nhơn đạo, không lo nhơn đạo cho hoàn toàn thì hành đạo vô ích.
Ấy vậy trước hết phải biết Ðạo, là biết có Trời, có
Phật Tiên Thánh, phải biết có luân hồi chuyển kiếp. Theo nhơn đạo, trai thì lo
tam cang ngũ thường, gái thì tam tùng tứ đức. Trước hết lo tu tại gia, tại
thiền, tại thị, lo làm lành lánh dữ trau giồi tâm tánh chơn thành, ấy là tu,
đạo làm người nhơn nghĩa lễ trí tín phải giữ hẳn hòi, tam cang phải nắm chặt.
Ở thế phải tùng theo luật thế. Ðối với quan viên
chức sắc phải biết bổn phận làm dân, phải nhớ câu sám hối:
"Chớ
làm con giặc tôi loàn,
Thuế
sưu đóng đủ đừng toan kế tà".
Nếu mình sanh rối loạn trong xã tắc, nếu mình không
tuân pháp luật thì mình là người loạn, có đạo đức chi.
Ðối với cha mẹ, anh em chị em vợ chồng con cái thì
phải biết công sanh thành dưỡng dục là ơn trọng không kể xiết, phải giữ câu
hiếu để mà bồi đắp ơn sâu.
Anh em cốt nhục đồng bào, phải giữ chữ thuận hòa
cho vẹn.
Vợ chồng nghĩa nặng, đối đáp nhau như cân thăng
bằng, giữ được vậy mới trọn nghĩa.
Ðạo làm cha là thay mặt cho Tạo hóa đặng dìu dắt
linh hồn ấu nhi trọn bề đạo đức.
Người nào giữ Nhơn đạo cho hoàn toàn thì lo gì
không gần Thiên đạo.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Phụ ghi: Theo nguyên bản chánh ghi là:
Từ trước nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví dầu ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ roi sao biến hóa già!
Ðối chiếu lại với Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1 Thi Văn
Dạy Ðạo bài thi Tứ tuyệt thứ 100 ghi là:
Từ thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả,
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.
Chúng tôi xin căn cứ theo bản in của Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển.
Ai Ðiếu
THƯỢNG PHẨM CAO QUỲNH CƯ
Ðăng Tiên ngày mồng 1-3 Quí Tỵ (10 Avril 1929).
Quí Ông, Quí Bà,
Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Ngày mồng một tháng nầy vì phận sự tôi phải đi Nha
Mân, qua mùng hai tôi đi Vũng Liêm cùng Hiền hữu Ngọc Trang Thanh.
Lúc thượng lộ lòng tôi bắt buồn bực không kể xiết.
Tôi thầm hỏi: "Mình đi lo việc đạo,
cớ sao không đặng vui như mấy lần khác?"
Sáu giờ rưỡi chiều tới Thánh Thất Vũng Liêm, có
Hiền hữu Thái Thơ Thanh, Thượng Giảng Thanh, Thượng Lân Thanh hành lễ vừa rồi
chạy ra liền nói:
- Thượng Phẩm décédé.
Nghe qua dường như sấm nổ, người dầu gan sắt, dạ
đồng nghe tin nầy cũng bắt động tình thương xót, huống chi tôi cùng Ðức Cao
Thượng Phẩm trong mấy năm dư cùng nhau keo sơn gắn chặt, thọ thánh chỉ của Ðấng
Chí Tôn đi phổ thông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Nay: Người ly trần cỡi hạc về quê, kẻ nhơn thế còn
lo độ chúng.
Khiến cho ta nghĩ:
Nhiều bậc công hầu vương bá, tài lực biết bao, mà
chừng Trời không ngó cũng chác sầu tây.
Nay một Ðấng hiền lương đạo đức, chừng Trời kêu đến
phải mau hồi cựu vị.
Ấy chỉ rõ quyền Chí Tôn rất lớn lao vô cực, vô đại,
mà thương hại cho những người vô đạo đức không suy xét lời Thánh Hiền: "Vạn ban đô thị mạng, bán điểm bất do
nhân".
Ấy chỉ rõ Thiên cơ.
Thời kỳ Thầy lập Ðạo vô vi.
Hồi chưa khai Ðạo nhơn sanh còn phàm, nên mượn xác
phàm của Tín đồ, Thầy độ rỗi chúng sanh. Nay Ðạo thành có người lập đặng chí
Thánh.
Thượng Phẩm là Ðạo phải trở lại Thiêng liêng chi vị
đặng đem các chơn hồn vào cửa Thiên.
Suy xét kỹ đâu dám để dạ ưu phiền.
Trách là trách trong Ðạo còn nhiều người tật đố làm
cho trong Ðạo nhiều phen bất hòa, khiến thuyền Bát Nhã gần ra khỏi bến.
Than ôi! Nhiều người lấy sức lực phàm phu, không
lòng từ bi bác ái, giành xé nhau vì chút quyền vô vị nơi trần thế đây mà làm
cho lắm người tâm thành trí vẹn, may chút nữa phải mỏi lòng đạo đức.
Than ôi! Một năm qua rồi nhìn Ðền Thánh như cảnh
sầu bi, xem nền Ðạo giống nhà vô chủ!
Kìa
cây sầu lá xủ!
Nọ
cỏ úa sương gieo!
Thiên ý muốn một điều là phải ăn năn sám hối, ai có
lỗi mau mau tự hối cải, tập từ bi bác ái nhịn nhục nhau thì Ðạo mới hòa.
Thầy chỉ rõ: Thiên cơ đã định đều cũng kết một cuộc
tương thân tương ái.
Tuy Thượng Phẩm về cùng Thầy là nơi phước hạnh
không chi sánh kịp.
Non
chiều phụng gáy,
Ðộng
Thánh qui chầu.
Là nơi u nhàn cực lạc.
Song nhìn còn tại thế: Một Từ Huyên bóng xế trăng
lờ, lại gặp cảnh tre già khóc măng, nhớ con thảo biết bao tình thảm thiết.
Vợ
hiền lương lẻ bạn giữa đường,
Mà
cuộc gia thê trăm bề quạnh quẻ.
Không
xiết nỗi thương!
Ôi! Chiếc nhạn kêu thu cũng là một cảnh sầu nơi
trầm luân khổ hải nầy.
Một con thơ còn bơ vơ nơi đất khách, sau dầu bước đặng
thang mây, vinh qui bái tổ, ôm Tháp nầy khóc than.
Nhớ cha hiền đà cỡi hạc qui Tiên,
Mẹ góa con côi trăm bề eo hẹp.
Ấy gương nâu sòng chập chồng trên một nền nhà đạo
đức.
Ðạo lập thành người chí Thánh đâu ngỡ ngó ngơ.
Hỡi ôi! Thương thay!
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Tòa Thánh, ngày 14 tháng 7 năm Kỷ Tỵ (dl. 18 Aout
1929).
Lễ
phát thưởng cho học sinh Ðạo Ðức Học Ðường
Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Bóng thiều quang nhặt thúc, cuộc ngày tháng lụn
qua, Mậu Thìn bước sang Kỷ Tỵ, nay trót ba năm dư, lần tay tính Lễ Trung Ngươn
đây là Lễ Trung Ngươn thứ ba. Thiên Ðịa tuần hườn, chia ba ngươn dựng lại, mỗi
năm cũng chia ra ba ngươn, cũng như người có tam tiêu, ai biết điều lành chánh
lý cũng tùy âm dương vận chuyển, được một điều nên biết trước là đường Ðạo lắm
chông gai, hằng ngày lo lắng, bước từ bước gìn cho chặt bước.
Ngoảnh lại, ba năm trước chúng ta là một lũ con
hoang, lớn nhỏ mê đường danh lợi, sa đắm trầm luân đã đến đỗi, khi biết hồi đầu
toan trở bước, mà chẳng có nhà thọ truyền chánh giáo. Trời hằng thương con dại
biết bao, mới vận trù thiết kế lập thế độ nhà Thiền, mượn cảnh Chùa Gò Kén cheo
leo, lập Pháp Chánh Truyền mà khai Ðại Ðạo, mười bốn tháng mười (14-10) năm
Bính Dần sang năm Ðinh Mão lúc hạ tuần Thượng ngươn, đất bằng sóng dậy. Trời
đương thanh bạch, khiến ngút tỏa mây giăng, trong mối Ðạo hằng mang ách nạn, vì
có đơn vào nơi Chánh phủ. Bốn muôn dư đồ đệ của Ðấng Chí Tôn lòng dạ ủ ê, ngồi
nhìn cảnh non sầu tuyết xủ, giọt lụy tuôn dầm.
Ðêm 13 tháng 2 năm Ðinh Mão (1927) quả Càn Khôn,
cốt Phật Tổ, Tòa Bát Quái, Tượng Ngũ Chi, vậy phải dời đi hết. Ðức Lý Giáo Tông
truyền dạy mua đất Long Thành, cất chòi tranh, y lời Ngọc Trang Thanh khẩn vái,
thảm thiết bấy đêm dời cốt Phật, trời vần vũ tỏ cuộc bi ai, thương bầy con đỏ,
đất rung rinh dường đưa cốt Phật qua miền Chùa mới, từ Gò Kén qua tới đây Ðạo
Hữu Nam Nữ lao nhao, lố nhố, chen chật đường sá sáng đêm, qua tảo Thìn chư Phật
được yên nơi yên chỗ, đều cũng ở ngoài rừng trống, dãi nắng dầm mưa. Kế đó
người phá rừng, đánh gốc bứng chồi. Kẻ dỡ gỗ, đánh tranh, tạm một lều tranh che
cốt Phật. "Mái tranh thưa thớt, bóng
trăng rằm giọi thấu lòng son, vách tre xịch xạc, ngọn gió thổi lồng tạt sương
trắng". Ấy cảnh chùa nguồn Ðại Ðạo hồi năm Ðinh Mão, còn kể chi sao
xiết, việc đắng cay ngăn đường đón ngõ, như mường tượng phần nho khanh sĩ.
Ôi! Khi ấy, thương bấy chí hào kiệt trí tri chẳng
núng, ngày nay nhìn mặt anh hùng nước mắt lại nhỏ sa, tuy mạch sầu như thế.
Nhưng Thượng Ðế lắm phen độ chúng sanh qua khỏi tai nàn, cảnh chùa rách Phật
vàng chỉ rõ. Tuy tạo phạo chùa tranh, trong Ðạo thật là rất thạnh hành, thảy
thảy đều trọn câu Phổ Ðộ; tôi hằng nhớ lễ Trung Ngươn năm Ðinh Mão, nhũ người
đến dư muôn, sang Mậu Thìn cuộc tuần hườn cơ tạo hóa vần xây, mà cuộc thạnh suy
khiến cái dây liên ái Thầy ung đúc bấy lâu, thế ý cũng muốn lơi. Máu anh hùng
không phai lợt, kế tà quái xen vào, xem đường Ðạo thể như dừng bước, người cậy
sức, kẻ lại khoe tài, tranh quyền lấn bước, khiếm trật tự, mất khiêm cung, Ðạo
rấp lạc đường, người hành Ðạo gần xa Thánh Giáo, kẻ muốn tẻ nẻo, người toan tự
lập, đem thế lực phàm phu, đánh đổ lẫn tâm thành, đức vẹn, người hành Ðạo chẳng
tôn ti thượng hạ, tranh lấn chẳng khác nào như nước không Vua, như nhà vắng
chủ.
Tòa Thánh đìu hiu không người lui tới... trong buổi
ấy:
Trống
Lôi Âm giéo giắc như khải cơn sầu!
Chuông
Bạch Ngọc rền rang dường khêu mạch thảm!
Trách bấy những người gieo ác cảm, làm cho Trời đổ
lụy đòi phen, thương bầy con dại cấu xé tranh đua chẳng hòa theo Thiên ý.
Nay Thầy chấn chỉnh nền Ðạo, kêu Chức Sắc Hiệp
Thiên và Cửu Trùng có trách nhiệm lớn lao về Tòa Thánh vun trồng cây đức, ba
tháng nay nhờ Thiêng liêng giúp sức, cùng anh em xây cật đâu lưng lo chấn hưng
chơn Ðạo trở nên thạnh hành, cất tiếng than với người ngoan ngạnh, lỗi một thuở
làm chênh nghiêng nền Ðạo. Thiếu chút nữa thuyền Bát Nhã dang ra khỏi bến, nhờ
ơn trên Ðại Từ Phụ quá yêu tha lỗi trước, dắt dìu lại nữa, khuyên từ đây phải
rèn lòng cải sửa lỗi xưa, bỏ tánh tự kiêu, tự bạo mà trau giồi đạo đức. Vậy rán
nhớ các việc hồi năm Mậu Thìn kiêng dè chừa lỗi, nên mấy vị Giáo Hữu, mấy em
học sinh, cùng nhi nữ. Trong mấy năm dư Ðạo nghèo, nên mấy em chịu phần hui
hút, còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc người đè, cũng không săn sóc mấy em trẻ
dại, để mấy em chiu chít như gà kia mất mẹ.
Ít người xét cổ suy kim, mới biết rằng Tôn Giáo nào
cũng nhờ học thức mà thìn mối Ðạo, truyền Chánh Giáo mới đặng tròn câu phổ độ.
Ðạo nghèo đồng tiền eo hẹp, còn thầy giáo huấn không một đồng lương, lại thêm
ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công quả vui cùng sanh chúng, học sinh Ðồng
nhi Nam Nữ tập viết bằng lá buông, chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường, bề ăn uống
tương rau hẫm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thì giờ, mấy anh đây mới lập trường
mà phát thưởng, lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục mấy cháu hết lòng lo đạo đức.
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Bài
Diễn văn của Thượng Ðầu Sư
VỀ
LỄ KỶ NIỆM KHAI ÐẠO
Tòa Thánh, ngày 14 tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1929)
Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Trung Ngươn vừa mãn, Hạ Ngươn vừa qua. Hôm Trung
Ngươn tôi đã có nhắc ngày Ðấng CHÍ TÔN hoằng khai Ðại Ðạo Tam Kỳ gieo truyền
Chánh Giáo là ngày 15 tháng 10 giờ Tý năm Bính Dần (1926).
Chúng ta biết noi gương hiền triết, cổ nhơn, vầy
cùng nhau phủi bụi phồn hoa, đặng tùng theo Tam Giáo là kể từ ngày 15 tháng 10
năm Bính Dần, nên lấy ngày Lễ Hạ Ngươn đây làm lễ kỷ niệm ngày Ðấng CHÍ TÔN hạ
trần tại vùng Nam ta đặng hoằng khai Chánh Giáo để gieo truyền hậu thế.
Xuân qua, hè lại, thu mãn, đông tàn, cuộc tuần hoàn
kim cổ, cổ kim, nhơn sanh chung hưởng Thiên ân biết bao.
Hại thay! Ít người hiểu riêng rằng có Thiên lực trợ
thế, nên ngày nay cõi dinh hoàn đặng tấn hóa nguy nga, văn minh đồ sộ; hiềm một
nỗi nữa là tánh phàm lòng tham không đáy, nên đường đời sanh trăm mối tơ vò,
ách nạn không xiết kể.
Từ Hiên Viên Huỳnh Ðế chí dĩ Hạ Ngươn, biết bao
nhiêu cuộc tuần hoàn thạnh suy bỉ thới. Xem lắm nghiệp bá đồ vương dựng nền Võ
trụ mà rốt cuộc lòng tham tràn nhẫy, tánh bạo ngược lẫy lừng, làm cho nhơn sanh
đồ thán. Ðấng Chí Tôn (Hóa công) đòi phen đổ lụy phải lập cuộc tang thương
trừng trị, vì câu: "Thiện ác đáo đầu
chung hữu báo". Xét cho kỹ Tần Thỉ Hoàng tìm thuốc trường sanh lòng
muốn giữ chặt ngôi muôn thuở; ngăn Hồ Lỗ, lập Vạn Lý Trường Thành công sanh mồ
hôi giọt nhỏ. Cảnh Ðế Thiên Ðế Thích to tát biết bao, vạn quốc nhận vào cơ xảo
tuyệt thế. Gian hùng mưu sâu quyệt kế ai bằng Lữ Bất Vi mà rốt cuộc rồi vi cũng
vơ vi.
Hào kiệt sức năng cử đảnh, ít sánh Sở Bá Vương sau
cũng dâng thủ cấp cho Ô Giang Ðình Trưởng. Nào Vạn Lý Trường Thành, Ðế Thiên Ðế
Thích bền chặt cổ kim ít có, mà cũng hóa ra cuộc thành xiêu vách ngã, cỏ loáng
rêu phong; Lữ Bất Vi cùng Sở Bá Vương lịch sử ngàn năm đều nêu danh ác.
Người trong vòng Trời Ðất chẳng nên cãi quá lòng
Trời, vì Tạo Hóa rất công, lòng Trời vô tận.
Tôi xin nhắc lại lời Thánh Giáo của một vị Langsa hồi thế kỷ 18e Siècle,
Malherbe a dit: "Vouloir ce que Dieu
veut c'est la seule science qui nous mettre en repos".
Theo ý Trời muốn là phương châm hay cho làm cho chúng ta êm tịnh. Lời ông
hiền triết nầy cũng như lời Thánh trong sách Nho: "Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong".
Một kiếp con người tựa như giấc Huỳnh lương, thì
giờ ngắn ngủi, phải tùy theo phận sự trả nợ cho Ðấng Hóa Công, phải tùng chánh
lý, từ côn trùng thảo mộc tới bực nhơn sanh các tư kỳ phận, bởi có câu: "Nhứt toán họa phước lập phân". Hại
thay cuộc chen lấn ở cõi trần thường giục lẫn người thây phàm hay tự bạo tự
kiêu, ít suy, ít nghĩ; còn nơi vinh hoa phú quý thường ngăn cản đường tu, cân
đai lòe loẹt hay buộc chặt xác phàm.
Bởi vậy bốn năm dư chuông Thánh truy hồn, thuyền
Bát Nhã đổ bến mê tân chờ rước khách trần, hầu tế độ kẻ vô phần không phước,
phần nhiều vì mắt thịt với trí phàm xa không thấu đáo Ðại Ðạo Tam Kỳ mà chưa
trọn hiểu, tánh vẫn còn mờ hồ kết thêm tội lỗi, vào đường tu mà chưa cổi tánh
phàm, còn tranh tranh lấn lấn chức quyền mọn trong Ðạo. Ít người khắc kỷ tu
thân, vùi lấp cho chúng sanh mà còn lấn người trong nền Ðạo, mến chỗ cao sang
quyền thế như hồi trần thế. Ðã lánh chốn phồn hoa đem gót ngọc dựa cửa thiền,
phải rán ngăn ngừa tục lự, mắt ngơ tai điếc, diệt tận phàm tâm trau giồi hạnh
đức, cầu khẩn Ðức Từ Bi rưới giọt nhành dương, giục tắt lửa lòng, hằng ngày lo
tụng kinh cầu sám chuộc tội tiền khiên nên danh hiền triết.
Mong thay! Mong thay!
THƯỢNG TRUNG NHỰT
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Ngũ Niên)
Tòa Thánh, ngày 28
Décembre 1930.
TÒA THÁNH
-----
Số: 66
Châu Tri cho chư Hiền Hữu Ðầu Quận Ðạo, Ðầu Họ Ðạo
và chủ Thánh Thất.
Chư Hiền Hữu,
Từ cổ chí kim trong Tôn Giáo nào cũng phải có trật
tự lễ nghĩa.
Trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã có định:
1 - Trách nhậm của mỗi Chức Sắc.
2 - Kinh sách, Châu Tri, tờ giấy chi cũng do nơi Tòa
Thánh ban hành ra cho Ðầu Quận, Ðầu Họ và Chư vị Chủ Thánh Thất do theo mà bố
cáo cho Ðạo Hữu thông hiểu.
Mới đây nhiều Chức Sắc không có quyền ban hành việc
chi cho chư Hiền Hữu, tự do không tuân luật Ðạo, in kinh sách lấy danh
Ð.Ð.T.K.P.Ð. để trên bìa sách mà gởi cho chư Hiền Hữu, ấy là một việc làm cho
rối loạn trong nền Ðạo.
Ðức Lý Giáo Tông đã ban hành rành rẽ cho ba vị
Chánh Phối Sư Nam Phái và Nữ Chánh Phối Sư lo hành chánh.
Vậy từ đây giấy tờ, kinh sách chi không phải tôi
hay là ba vị Chánh Phối Sư ký tên và có đóng dấu của mỗi Phái (Ngọc, Thượng,
Thái) của Ðấng Chí Tôn định; và tờ giấy Châu Tri của bà Chánh Phối Sư Nữ Phái
Hương Thanh thì bà ký tên và con dấu của bà.
Không phải mấy vị trên đây ký tên và con dấu ấn
tích thì đừng tuân theo và đừng nhìn là tờ giấy của Chức Sắc trong Ðạo.
Xin Chư Hiền Hữu lưu ý và phát Châu Tri nầy cho
Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự bố cáo cho Chư Ðạo Hữu lưỡng phái biết mà ngăn
ngừa những người vì ganh hiền ghét ngõ mà muốn phân chia con cái của Thầy,
không khác nào như phân thây xẻ thịt của Thầy.
Nay kính,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
BỐ CÁO
CÙNG CHƯ ÐẠO HỮU
Nay là buổi Thiên Ðịa tuần huờn, hoằng khai Ðại
Ðạo, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế, vì thương nhân loại, rộng mở Ðạo Trời, để dìu dắt
sanh linh vào đường đạo đức, hầu hưởng phước về sau.
Trót một năm trường, chúng ta đã chẳng nài khó
nhọc, ra công phổ độ khắp nơi, mong sao cả dân chúng cải ác tùng lương mà chung
hưởng ngày Nghiêu tháng Thuấn.
Nay Ðại Ðạo lập thành, Tân Luật đã ban ra, chúng ta
cứ do theo đó mà hành đạo.
Về phần Thiên Ðạo, phải hết lòng thành kính Ðức
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải gắng trau giồi đức
hạnh, dưỡng tánh tu tâm mà hồi minh khử ám.
Còn về phần Nhơn Ðạo, ta phải tuân theo phép nước,
giữ phận thần dân, làm lành lánh dữ, mỗi mỗi phải do luật pháp mà cư xử, sưu lo
thuế đóng, kính trọng quan viên, giúp nạn kẻ khó.
Xin nhớ mấy câu trong Kinh Sám Hối đây cho lắm:
Chớ
làm con giặc tôi loàn,
Thuế
sưu đóng đủ đừng toan kế tà.
Trong Ðạo Hữu mới nhập môn, có một ít người chưa rõ
tôn chỉ tối cao tối trọng của ÐẠO TRỜI buông lời đồn huyễn rằng: Vô Ðạo rồi thì
tùng LUẬT ÐẠO mà thôi, khỏi chịu dưới quyền QUỐC PHÁP.
Lời đồn huyễn ấy rất trái lẽ, tuy tu hành mặc dầu,
chớ không ra khỏi luật pháp Chánh Phủ đặng. Làm đến bực Hòa Thượng mà có tội
cũng chẳng khỏi bị xử theo luật hình mà được.
Về phần tin tưởng tự do, tôi cũng nên tỏ cho chư
Ðạo Hữu hay rằng: Không ai đặng phép ngăn cản chúng ta trong việc phụng thờ
TRỜI PHẬT. Ta tin tưởng Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ, ta sùng bái Ngài, không một
ai phạm đến quyền tự do ấy của ta được.
Chớ nghe đồn huyễn rằng Chánh Phủ bắt Ðạo mà sợ,
rồi dẹp Thiên Bàn, cuốn THÁNH TƯỢNG, ấy là một điều đại tội cùng TRỜI PHẬT đó.
Chánh Phủ Ðại Pháp rất công, ai làm lành được bề êm
tịnh, ai làm dữ bị tội tù, chúng ta tu là lo làm lành, mà đã lo làm lành thì bị
tội nỗi gì?
Nếu Chánh Phủ muốn ngăn cấm điều chi thì chạy tờ
Châu Tri, dán Yết Thị khắp nơi cho nhơn dân rõ biết, đâu đó phân minh, đường
đường chánh chánh.
Còn nếu không có Châu Tri cùng Yết Thị thì xin chư
Ðạo Hữu chớ vội tin mà lầm mưu kẻ nghịch Ðạo.
Trong chư Ðạo Hữu thảng như có ai bị cường quyền áp
chế về việc phụng thờ THƯỢNG ÐẾ, xin mau mau gởi thơ cho tôi. Tôi sẽ dụng hết
công tâm kêu nài cùng Chánh Phủ để làm cho kẻ ấy biết trọng quyền tin tưởng tự
do của chúng ta.
Nay kính,
LÊ VĂN TRUNG
Thiên ân
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Ai
Ðiếu
PHỐI
SƯ THÁI BÍNH THANH (Rạch Giá)
Quí Ông, Quí Bà, chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Tôi vẫn biết miền Kiên Giang có lắm hiền triết thi
văn đặc biệt, tôi đâu dám múa búa trước cửa Lỗ Ban, đọc văn nơi làng Khổng
Mạnh.
Vì phận sự trong nền Ðại Ðạo, nên xin lỗi Quí Ông,
Quí Bà, cho phép tôi thay mặt chư Hiền Hữu lưỡng phái, tỏ ít lời tâm huyết đưa
Hiền Hữu THÁI BÍNH THANH nhàn du Tiên Cảnh. Ðất bằng sóng dậy, nền Ðại Ðạo
chuyển xây, trên Tòa Thánh đêm 16, ve ngâm sầu lác đác, kế trưa 17 một mảnh
giấy xanh đem tin báo rằng: Anh Phối Sư Thái Bính Thanh liễu Ðạo.
Ðoái
Ðiện Bà non sầu tuyết xủ,
Nhìn
Thánh Ðịa cây ủ lá rơi.
Chiều năm giờ nơi Bửu Ðiện người cầu kinh không
ngăn giọt lụy.
Hỡi ơi! Gương vỡ bình tan!
Châu trầm ngọc nát!
Tưởng câu, nhứt đán mà ngậm ngùi, nghĩ chữ vô
thường càng bát ngát, những tưởng trăm năm tuổi hạc, truyền nhơn luân rải khắp
non sông, nào hay đâu một phút bóng câu, đem hồn phách gởi theo mây gió, đã
biết người tu hành coi qui liễu hằng như Ðạo mở.
Nhưng mà, tình Ðạo Hữu nhìn biệt ly lòng dường muối
xát.
Nhớ Linh xưa:
Ý tứ từ hòa, tánh tình liên lạc, nghĩa lân cận
không kiêu không hãnh, gặp kẻ nghèo chẳng nỡ làm lơ, tình anh em cư xử chẳng
dễ, chẳng khinh, thấy lúc ngặt không hề phai lạt. Lúc khai Ðại Ðạo Tam Kỳ, Thầy
dạy làm Quả Càn Khôn. Nhớ anh! Nào ra công, nào tốn của, hiệp cùng Ðạo Hữu mới
hoàn thành, khi lập Tân Pháp Chánh Truyền, Thầy bảo lập Tân Luật, nhờ anh, nào
sắp ghế, sắp bàn hội với Thiên Phong mới kết tác, buổi dọn đất Tổ Ðình, Thầy
chỉ phương hướng cho anh đo độ thước tấc mới thành một cảnh thiên nhiên, khi
dựng hình Phật Tổ, Thầy nhắm chỗ cho anh sắp phương hướng mới nên một nền địa
hượt.
Ôi! Trước mặt đây, con khóc cha, cha sao nỡ biệt
ly, day lưng lại vợ khóc chồng, chồng bao đành phân cách, cảnh dường nầy, anh
há vội tách gió lướt mây, tình dường ấy, anh bao đành tầm Tiên cỡi hạc. Thôi!
Mây bay vì gió hết nỗi nì nằng, trăng án vì mây, không cùng than thở.
Ô qua, thố lại, cuộc hằng đổi xây, vật đổi sao dời,
vân cẩu bóng câu thường tan tác. Vậy thì đồng đạo chẳng chi là trọng, nguyện
cho linh hồn tảo đắc siêu thăng, cầu cho được sớm tiêu diêu nơi cõi thọ.
Thượng
Ðầu Sư
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Ngũ Niên)
Tòa Thánh, 20 tháng chạp
Canh Ngọ (7 Février 1931).
TÒA THÁNH
-----
Số: 3
Kính cùng:
- Chư vị Chủ Thánh Thất,
- Chư vị Ðầu Họ Ðạo,
- Ðầu Quận Ðạo,
- Chư Chức Sắc Thiên Phong lưỡng phái,
- Chư Ðạo Hữu Nam Nữ,
- Chư Hiền Hữu, Ðạo Tỷ, Ðạo Muội,
Vừng
nhựt nguyệt vần xây,
Bóng
thiều quang nhặt thúc.
Ngảnh lại hứng xuân Canh Ngọ chưa đặng bao lâu, nay
đã sắp sang Tân Mùi, nền Ðại Ðạo bước qua năm thứ sáu.
Công trình Chư Ðạo Hữu biết bao:
Lắm phen vày vò thân thể, hằng buổi mòn mỏi tinh
thần, đặng khuyến nhủ nhau làm lành lánh dữ, cải ác tùng lương, giữ dạ sắt đinh
thờ Trời, kỉnh Phật.
Tôi thay mặt Hội Thánh cảm tạ công trình của Chư
Ðạo Hữu và hết lòng cầu nguyện Ðấng Chí Tôn ban ơn lành cho Chư Ðạo Hữu lưỡng
phái.
Rồi kế đây, đông mãn, xuân sang, chầu lễ Ngươn Ðán,
Hội Thánh chúc mừng Tân xuân cho cả thảy chư Ðạo Hữu lưỡng phái.
Chúng ta vui mừng vì có Ðức Lý Giáo Tông cầm quyền.
Chúng ta cầu nguyện xin Ngài đem sức Thiêng liêng giúp anh em chị em chúng ta
siêng năng sốt sắng đặng mau lập thành Chơn Ðạo.
Tôi chúc mừng cho anh em, chị em, tinh thần minh
mẫn, hết lòng hòa nhã, thảo thuận, đặng trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ
mầu và lo vun trồng cây đức, độ rỗi nhơn sanh lo làm lành, tránh được hung ác,
lánh xa cuộc loạn ly làm cho đổ máu nhơn sanh, khiến cho Thiên sầu Ðịa thảm.
Làm
sao cho cảm lòng Trời,
Sửa cơn ly loạn ra đời an vui.
Sửa
thế nguy ra an mới vẹn,
Lấy
từ bi, vun quén cây nhân.
Ðừng
ham gây oán chác hờn,
Phải
hơn đạo đức chớ hơn tài tình.
Chi
chi cũng có khuôn linh ...
Nay kỉnh đốn,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Lục Niên)
TÒA THÁNH
-----
Số: 11
CHÂU
TRI
- Cho Chư Chức Sắc Thiên
Phong,
- Chư vị Chủ Thánh Thất,
- Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự,
- Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Chư Hiền Hữu,
Trong 5 năm rồi, nền Ðại Ðạo biết bao khổ não truân
chuyên mà tai nạn còn chưa dứt!
Ôi! Mới rồi đây, trong bị Tà quyền tàng ẩn, xô cho
chúng ta dang nhau, kẻ tính độc quyền, người toan tự lập, cắn rứt nhau như kẻ
khác nhà, gà riêng ổ.
Ngoài người chưa rõ chơn lý Chánh Truyền của Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, lại nghe nội công, vì hờn riêng mà phản đối, nên đem lời
kích bác Thánh Giáo.
Ấy cũng một hồi thử thất, một lúc khảo căn tu.
Khuyên chư Ðạo Hữu chớ sờn chớ rúng, bền lòng chặt dạ, dìu dắt nhau qua khỏi
sông mê.
Ðạo khai để tạo thế, sửa đời. Có thiếu mới có tạo,
có hư mới có sửa. Vậy thì cái khổ tạo thế, sửa đời vẫn là phận sự của chúng ta
đã hẳn. Phải biết phận mình mới an tâm, tỉnh trí, liệu thế chuyển xây. Ðã khó
ắt có hay đã gay thì có thuận, bền chí xem mảy mún cơ đời.
Ðã lâu rồi Ðức Lý Giáo Tông cho biết cuộc biến của
Ðạo ngày nay.
Xin xem bài thơ dưới đây thì rõ:
Màn
trời đặng vẹt ngút mây trương,
Bước
đến đài hoa thấy tỏ tường.
Ngọc
sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối
mòn động Bích chớ lầm đường.
Chánh
tà hai nẻo tua tìm chước,
Hư
thiệt muôn phần gắng định phương.
Mê
tỉnh chuông khua, phân biệt tiếng,
Rừng
thiền nô nức loáng mùi hương.
Kế đây tôi xin nhắc Chư Hiền Hữu:
Lời chê bai kích bác là thường tình, thế sự, mình
cứ mắt ngơ tai điếc, lo tuân theo y Tân Luật mà hành đạo thì đủ rồi, vì Tân
Luật làm cơ qui nhứt của Tam Giáo.
Kể từ ngày ban hành Tân Luật Ð.Ð.T.K.P.Ð, thì Ngọc
Hư Cung và Lôi Âm Tự đã bác Cựu Luật và Cổ Pháp.
Tôi xin sao lục Thánh Ngôn của Thầy hồi năm Bính
Dần ra sau đây, xin Chư Hiền Hữu coi và chiêm nghiệm thì hiểu rõ cái tôn chỉ
của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Ngày 14 tháng 7 năm Bính Dần
Ðàn tại Vĩnh Nguyên Tự
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT
CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ,
Lịch: Mời cả Chư Môn Ðệ Minh Ðường của Thầy ra nghe
dạy.
Cười ... Các con đừng quấy tưởng rằng vì chia Phái,
mà riêng Ðạo. Thầy cắt nghĩa các con nghe.
Nguyên từ buổi bế Ðạo, tuy Chánh Pháp ra cũ mặc
dầu, chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền, luật lệ tuy cũ, chớ Ðạo vẫn như nhiên, do
công đức mà đặng đắc Ðạo cùng chẳng đặng, nhưng mà có một điều là Ngọc Hư Cung
bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít. Vì vậy cho nên các con
coi thử lại từ hai ngàn năm nay bên Á Ðông đã đặng bao nhiêu Tiên, Phật. Các
con duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi. Mạng đổi, chớ luật lệ chưa
hề đổi, vì vậy, Thầy buộc các con tùng Cựu Luật, đặng qui phục Tam Giáo làm
một.
Các con coi nghĩ sự tu hành khổ hạnh dường nào, đời
mạt kiếp nầy dữ nhiều lành ít. Nếu Thầy chuyển pháp lại, thì chưa ai tu đặng
trọn Ðạo, nên Thầy lựa Ngọc Ðầu Sư trong hạng thiếu niên mới có đủ công phổ độ.
Trong phần nhiều các con chưa vừa lòng cho LỊCH ngồi địa vị ấy, cho nên có điều
cản trở trong sự truyền Ðạo. Thầy cũng nhìn như vậy, song vì tiền kiếp LỊCH là
nhờ đức TIỂNG, nên Thầy mới phú thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó. Các con
đều có Chức Sắc chẳng lớn thì nhỏ, đều thọ Thiên Phong nơi Thầy.
Cứ giữ gìn phẩm vị các con, nhưng Thầy có một điều
yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi
phế hủy nửa chừng. Các con khá gìn luật lệ cho tới ngày Thầy lập thành Tân
Luật. Thành cùng chẳng thành, cũng do tại nơi Thầy. Ðương lúc Thầy khởi Ðạo,
thì luật pháp rẻ rúng đặng dụ kẻ biếng nhác. Các con đừng phế phận.
Thầy ban ơn cho các con.
THĂNG
Ngày nay Ðại Ðạo lại ban hành Pháp Chánh Truyền Chú
Giải, thì Tân Pháp đã đoạt đặng.
Xin Chư Ðạo Hữu, Ðạo Tỷ, Ðạo Muội lãnh mà coi, thì
rõ huyền bí trong Ðạo.
Về việc Hành chánh trong Ðạo, thì có Nghị Ðịnh của
Ðức Giáo Tông phân quyền rành rẽ cho Chức Sắc Thiên Phong.
Xin Chư vị Thiên Phong rán lo sắp đặt Chánh, Phó
Trị Sự, và Thông Sự cho có quyền đặc biệt.
Mỗi làng, cử một Chánh Trị Sự.
Mỗi xóm có một Phó Trị Sự và một Thông Sự coi dìu
dắt mấy chục Ðạo Hữu, phải biên tên họ ra và ký tên trong sổ.
Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự cứ lo khuyên Ðạo Hữu
làm lành lánh dữ, đừng dự vô cuộc loạn ly hay là việc chi trái đường đạo đức.
An phận tùy duyên, lo làm ăn, khi rảnh thì sùng bái Trời Phật.
Thường ngày được vậy, thì khỏe khoắn tinh thần, đã
yên lòng mình thì chớ, lại thuận lý Trời, xưa nay, thung dung tự toại, an nhàn,
vui vẻ mà ngâm câu của Thánh Hiền đã dạy:
Giàu
ngày ba bữa khó ba chiều,
An phận là hơn hết mọi điều.
Khát
uống trà mai, hơi bát ngát,
Nực
kề hiên trước, gió hiu hiu.
Giang
san tám bức là tranh vẽ,
Hoa
thảo bốn mùa ấy gấm thêu.
Ðỏng
đảnh khuya nằm, sớm thức,
Khác
chi dân thuở đời Nghiêu.
** *
Hôm
mai gió thổi hiu hiu,
Cỏ
hoa là bức gấm thêu nên đồ.
Thanh
u sẵn cảnh bốn mùa,
Lựa
là cứ chốn giang hồ mới vui?
Cảnh
ưa, lâu cũng quen mùi,
Bên
song hóng mát, nhớ người hòa thi.
Hẹp
hòi nào sá quản chi,
Phen
thì dặm liễu, phen thì ngần mai.
. .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Vắn tắt ít lời khuyên nhủ, xin Chư Ðạo Hữu lãm
tường.
Tòa Thánh, Rằm tháng 2 Tân
Mùi.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Lục Niên)
Tòa Thánh, le 18 Avril
1931
(Ngày 30 tháng 2 năm Tân
Mùi).
TÒA THÁNH
-----
Số: 15
CHÂU
TRI
- Cho Chư Chức Sắc Thiên Phong,
- Chư vị Chủ Thánh Thất,
- Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự,
- Chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái.
Chư Hiền Hữu,
Ðạo có một, một gốc, một nguồn mà thôi. Hồi xưa
Phật, Tiên, Thánh, mỗi khi truyền Ðạo có người trong Ðạo tẻ ra tự lập, chia
phe, phân phái, rốt cuộc rồi vẽ rồng thành rắn; xin Chư Hiền Hữu xét kỹ coi, cổ
hà, kim hà?
Từ hồi Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tới giờ, trong nền
Ðạo có lắm điều trắc trở truân chuyên là vì không giữ trật tự, không có hòa
thuận với nhau, mà huyền bí trong Ðạo là hòa, là trật tự, khiêm cung lễ nghĩa.
Nhiều khi Ðấng Chí Tôn hỏi:
"Các
con thấy trong Càn khôn Thế giới, nội trong vạn vật, Thầy hóa sanh ra có giống
nào mà không trật tự, đẳng cấp chăng?"
Luôn dịp tôi cũng biên ra đây mấy lời khuyên đời
của một vị hiền triết:
Ong kiến là loài rất tế vi,
Nó còn ưu ái chẳng quên nghì.
Làm người ví biết hai điều ấy,
Thử
hỏi ai mà lại dám khi?
Chúng ta học làm được như loài kiến vậy, tưởng cũng
tốt.
Hồi năm Mậu Thìn, Ðức LÝ GIÁO TÔNG giao cho Ông
Phối Sư Thái Ca Thanh lập chương trình Hiến Pháp. Ngày 14 tháng 7 Mậu Thìn (28
Aout 1928) khi Lễ Trung Ngươn có nhóm Hội Thánh, có lập vi bằng ký tên. Tôi xin
lục rút tờ Vi Bằng ấy ra sau đây cho Chư Hiền Hữu xem:
Tòa Thánh Tây Ninh, le
28 Aout 1928
VI BẰNG
Chiều ngày 14 tháng 7
Annam, năm Mậu Thìn, y theo tờ mời nhóm của Hiệp Lý "Cửu Trùng Ðài", các Quản Lý "Cửu Viện" tựu tại Tòa Thánh hồi 7 giờ tối với các Chức
Sắc Thiên Phong có mặt kể ra sau này:
Ông Phối Sư Thái Ca Thanh
đọc chương trình Hiến Pháp.
CHƯƠNG TRÌNH HIẾN PHÁP
CHƯƠNG THỨ V
Ðiều thứ 22: -Nghiêm cấm trong Ðạo không ai đặng
lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dùng THIÊN ÂN, THIÊN NHÃN mà đề vào bìa Kinh
sách, Bố cáo, vân vân... hay là in Thánh Tượng, Kinh sách (bán hoặc phát không)
nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy không có trình ban kiểm duyệt xem xét trước và
đóng con dấu kiểm duyệt.
Ðiều thứ 23: - Ai phạm nhằm hai điều lệ trên đây thì
các Kinh sách, Tượng ấy phải đem nạp cho Tổng Lý hủy bỏ. Người có lỗi ấy sẽ
giao về Bình Viện phân đoán, chiếu theo điều lệ thứ 9 (Chương III)
Thảng như người ngoại Ðạo mà phạm nhằm điều lệ thứ
22 thì Quản Lý Nội Viện chạy tờ Châu Tri cho Chư Ðạo Hữu các nơi biết, mà không
dùng đến Kinh sách, Tượng in sái phép ấy.
Ðiều thứ 24: -Kể từ ngày ban hành "Chương Trình Hiến Pháp" duy
có một mình Hội Thánh "Cửu Trùng
Ðài" được quyền in Kinh sách, Tượng để hiệu "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ".
Lập tại Tòa Thánh, ngày Rằm tháng bảy năm Mậu Thìn.
Ký tên:
Chưởng Pháp:
Trần Ðạo Quang
Ðầu Sư:
Thượng Trung Nhựt - Ngọc
Lịch Nguyệt
Chánh Phối Sư:
Ngọc Trang Thanh - Thượng
Tương Thanh - Thái Thơ Thanh
Phối Sư:
Thái Ca Thanh - Thái Bính
Thanh
Giáo Sư:
Thượng Thành Thanh - Thượng
Giảng Thanh -
Thượng Vinh Thanh (Nguyễn
thế Vinh) -
Thượng Lai Thanh - Ngọc
Tựu Thanh
Giáo Hữu:
Lê Châu Trì - Lê Văn Sanh
- Ðỗ Quang Ngự -
Trần Quang Minh - Tuyết
Tấn Thành
Lễ Sanh:
Nguyễn Văn Phùng
Lục rút y bổn chánh lưu
tại Tòa Thánh.
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Tôi cũng xin sao lục Thánh
Ngôn của Ðấng Chí Tôn hồi năm 1928 cho Chư Hiền Hữu xem:
THẦY, các con.
Trung! Thầy đã nhiều phen để lời khuyên nhủ các môn
đệ về việc dùng công tâm hòa thuận mà hành đạo cho vuông tròn phận sự, mà Thầy
những buồn trông thấy các con chưa gì đã vội phân tay chia nẻo, mỗi đứa đều lấy
sự háo danh cầu tiếng mà quên cả nghĩa vụ xứng đáng của Thầy đã lắm phen ký
thác.
Thầy dẫn các con đến khỏi mấy nơi khốn cùng rồi, mà
các con chưa để hết tấc thành, chung lo đặng ngăn ngừa những gay trở xảy đến
sau nầy nữa, thì nền Ðạo thế nào lập thành cho kịp ngày giờ mà vớt muôn ngàn
sanh chúng. Một đứa vun quén, mười đứa cản ngăn, nhỏ lớn chẳng phân minh, xem
Thiên tước của Thầy ban, dường như một chức vô vị ở cõi trần. Lấy thế lớn, bực
cao mà ép đè hạnh nhiều, đức cả.
Than ôi! Các con xa Thầy chưa mấy ngày thì mối Ðạo
lớn lao đã thành nên một bàn hội vô giá trị ở cõi trần thế nầy. Mấy đứa mong
chác sự phá hoại ấy lại là mấy ngọn đèn của Tòa Tam Giáo khêu lên để dìu đường
cho cả chúng sanh nữa thì con phải nghĩ đến hành trình của Ðạo phải đến thế
nào? Công chỉ dẫn của Thầy đã lững đững theo giọt thủy triều mà rốt cuộc lại,
bến khổ cũng chưa xa, ngôi xưa còn lánh mãi. Thảm thay! Tiếc thay! Thầy đã nói
bầy hổ lang, lũ quỉ mị đã sẵn bên mình của mỗi đứa, mà con lớn nhỏ gì cũng
chẳng để ý đến, Thầy nắm cân Thiêng Liêng, há dễ để tay sửa nét công bình sao?
Nhiều đứa lại chẳng kể đến lời Thầy gì cả. Ôi! Con ngỗ nghịch tránh sao chẳng
vướng Thiên Ðiều khổ đọa, chúng nó đã gieo ác cảm lừng đến Tam Giáo Ðài, thế
thì bước đường sau nầy Thầy khó cứu rỗi được.
Con đã để hết tấc thành vào Ðạo, thế mà cũng khó gỡ
sự rối rắm ấy, buộc Thầy phú rủi may của chúng nó cho Tòa Tam Giáo định liệu.
Còn sự tự hối của mỗi đứa sau nầy ra sao, thì cân tội phước cũng vì đó mà châm
chế.
Trước khi ngưng cơ, Thầy cho lịnh DÙNG CƠ BÚT THẾ
NÀO, Thầy tưởng mỗi Thiên Phong đều đặng Thánh Ngôn của con ban hành, sao còn
có ra đến việc bất minh ấy, là con chẳng nói tất cho mỗi Thiên Phong rõ và ban
hành Thánh ý, để cho chúng nó chác lỗi vào mình, thì con cũng không khỏi chia
một phần trong ấy.
Từ đây sao lục Thánh Ngôn nào không có con ký tên
và không có con dấu ấn tích của con, thì Chư Tín Ðồ của Thầy được phép không
nhìn nhận.
Sao lục y bổn chánh,
Thượng Ðầu
Sư
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Ngày nay, nhiều Chức Sắc Thiên Phong tự tôn, tự đại,
chấp bút cầu cơ rồi in Thánh Ngôn, Kinh sám, không màng, không do Hội Thánh.
Như quyển Tu Chơn Thiệp Quyết, Thánh Giáo Chơn
Truyền, Thánh Ngôn về Chánh Tà Yếu Lý (Thánh Thất Bạc Liêu, Rạch Giá, Mỹ Tho)
cũng lấy danh Ð.Ð.T.K.P.Ð. để ngoài bìa cho Ðạo Hữu Lưỡng Phái và Nhơn sanh tin
tưởng lầm của Ðại Ðạo Tam Kỳ nảy ra.
Nhiều vị cũng chấp bút, cầu cơ, phong Giáo Sư, Giáo
Hữu, Lễ Sanh, rồi sắm sắc phục và đi các nơi cho Ðạo Hữu biết tước phẩm mình và
khoe khoang chỉ cho người luyện Ðạo, khoe mình huyền diệu, vân vân...
Những sự việc xảy ra đây làm cho tôi nhớ lời Thánh
Giáo của Ðức Thái Thượng nói tiên tri rằng:
"Rồi
đây có kẻ muốn tẻ nẻo, người toan tự lập, trường công quả lao nhao lố nhố.
Người
hành đạo không tôn ti cao hạ, tranh tranh, lấn lấn khác nào như nước không vua,
nhà vắng chủ. Cái chất mảy mún thiêng liêng của Ðức Chí Tôn gieo vào lòng dạ;
vì Tà Thần, lần hồi tiêu tan theo luồng gió. Nhìn lại cho rõ, thì ai cũng còn
mang nặng trịu xác thịt, thân phàm.
Xảo
trá chưa sánh đặng cùng Tào Mạnh Ðức, chí lớn lo xa chưa bì với Tôn Quyền, đoạt
máy Thiên Cơ chẳng bằng muôn một của tài Gia Cát, mà nền Ðạo đã khởi muốn chia
ba".
Bởi các cớ ấy, nên Ðức Lý Giáo Tông dạy phải lọc
lừa Chức Sắc Thiên Phong lại.
Bởi muốn ngăn ngừa mấy việc bất chính ấy.
Bởi muốn cho Ðạo Hữu lưỡng phái đừng lầm nghe những
người, vì hờn riêng, nên đi gieo ác cảm đặng chia lìa con cái của Thầy ra tan
tành, manh mún, dường như khuấy tan niềm ân ái, công trình Thầy un đúc xưa nay.
Nên
từ đây:
Chư Chức Sắc Thiên Phong, Ðầu Họ, Ðầu Quận Ðạo, đi
phổ thông thì có Tờ Thuyên Bổ của Tòa Thánh ban quyền.
Mấy Tờ Thuyên Bổ trước khi lập Tòa Tam Giáo, thì
hủy bỏ hết. Tòa Thánh nhìn nhận Tờ Thuyên Bổ ra sau khi Tòa Tam Giáo. Nghĩa là:
từ ngày mồng một, tháng chạp, năm Canh Ngũ (1930) sắp tới mà thôi.
Còn tại Tòa Thánh có sai ai đi việc chi trong Ðạo,
thì có giấy "Ordre de route".
(Lộ trình thơ)
Bất luận Thiên Phong, Chức Sắc hay là Ðạo Hữu đi
truyền hay là nói chuyện chi mà không có trình giấy tờ nói trên đây thì là
người giả dối, mạo quyền hay là vì hờn riêng mà đi sanh chuyện phá rối trong
Ðạo.
Xin
lưu ý:
Tòa Thánh không nhìn nhận mấy quyển "TU CHƠN THIỆP QUYẾT, THÁNH GIÁO CHƠN
TRUYỀN, THÁNH NGÔN" của (Thánh Thất Bạc Liêu, Rạch Giá, Mỹ Tho).
Ai không tuân thì sẽ bị tội.
Rồi đây sẽ lọc lừa Thánh Thất không tùng Tòa Thánh,
thì Tòa Thánh không nhìn Thánh Thất ấy là của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nảy ra.
Xin Chư Hiền Hữu rán lập thế phát Châu Tri nầy ra
cho nhiều cho Chư Ðạo Hữu lưỡng phái lãm tường.
Nay kính,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Tòa Thánh, ngày 24 tháng 5
năm Nhâm Thân
(Le 27 Juin 1932)
Kính
cùng Chư vị Thiên Phong Nam Nữ,
Chư
vị Chủ Thánh Thất, cùng Chức Sắc
và
Chư Ðạo Hữu lưỡng phái.
Chư Hiền Hữu, Chư Hiền Muội,
Từ ba tháng nay tôi mang bịnh, nên phải an nghỉ
không đặng gần gũi với Chư Hiền Hữu và Chư Hiền Muội.
Trong lúc tôi an nghỉ thì tôi có suy xét, thấy ba
phương diện trong căn bịnh của tôi:
1/. Một phương diện là theo căn số của tôi năm nay
phải mang nạn to, mà nhờ có tu, nên Trời độ qua khỏi nạn, điều cũng phải mang
bịnh một ít lâu, ấy là cân công bình thiêng liêng.
2/. Một phương diện thứ nhì nữa, là tôi có tội với
Thần Thánh Tiên Phật vì cầm mối Ðạo không vững, nên phải đau chốc ba tháng.
3/. Một phương diện thứ ba là cơ thử Thánh, coi có
ngã lòng đổi chí chăng? Và coi trong nền Ðạo có kết mối thương tâm bác ái
chăng?
Phép Trời Phật mầu nhiệm, hư hư thiệt thiệt chúng
ta mang nặng xác phàm làm sao hiểu thấu.
Có lời Thánh Giáo của Ðức Lý Giáo Tông ngày mồng 5
tháng 11 năm Canh Ngũ (24 Décembre 1930) dạy rằng:
"Lão
nên nói rõ rằng: Cơ thưởng phạt của Thiên thơ thì lắm điều trái hẳn với trí
người tưởng tượng. Có nhiều khi lấy cơ thưởng của hữu hình mà làm hình phạt vô
vi, mà cũng có khi lấy phạt hữu vi mà thưởng thiêng liêng công nghiệp. Vậy cái
thưởng cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh Giáo, nhiều khi chư Hiền Hữu, chư
Hiền Muội không phương thấu lý đặng, nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn
khùng mang tội thiêng liêng rất uổng".
Trong buổi tôi mang bịnh, tôi thấy rõ trong nền Ðạo
có thân mật cùng nhau và bác ái với nhau lung lắm: Ðạo Hữu mỗi nơi xa Tòa Thánh
không thể viếng thăm tôi đặng thì cũng đồng tâm rập trí với nhau đặng cầu
nguyện cùng Ðại Từ Phụ cho tôi mau lành mạnh, đặng dìu dắt chư Ðạo Hữu lưỡng
phái. Còn chư Ðạo Hữu lưỡng phái ở Tòa Thánh hay là ở gần Tòa Thánh cũng vậy
đều lắm công phu trong việc nuôi dưỡng tôi và thuốc thang không ngớt, không giờ
khắc nào mà chị em anh em không lo cho tôi.
Hồi ở thế, tôi cũng gần nhiều bậc quan lớn, nghiệp
cả ngôi cao, và gần nhiều nhà phú hào có sẵn tay chơn bộ hạ nhứt hô bá ứng, mà
mấy bậc ấy không đặng ân huệ của Trời ban, khiến cho nhơn sanh thương đều cả
như tôi ngày nay vậy. Ấy là ân của Ðại Từ Phụ ban cho những người bỏ dữ theo
lành, thuở nay trong nước Nam ta chưa đặng thấy mối thương tâm như ngày nay
vậy. Thiệt là từ hồi tạo Thiên lập Ðịa tới giờ chưa thấy sắc dân nào được ân
huệ như vầy.
Xin chư Hiền Hữu lưỡng phái phải rán chiêm nghiệm
ân huệ quí báu vô giá trị của Thầy rưới cho trong nền Ðạo. Trước lui sau tới
cũng đều được vậy.
Tôi mới vừa đặng khỏe trong một tuần nay nên rán
đặt mấy lời cảm tạ lòng bác ái thương tâm của cả trong nền Ðạo, cầu nguyện xin
Ðức Ðại Từ Bi ban ân lành cho chư Ðạo Hữu lưỡng phái.
Luôn dịp, tôi xin cắt nghĩa cơ thử Thánh hơn một
năm rồi cho chư Hiền Hữu rõ.
Khi có một mình tôi lo việc hành chánh tại Tòa
Thánh, tôi có nói trước như Châu Tri số 48 ngày 2 Aout 1930 kế đây để chư Ðạo
Hữu lưỡng phái rõ:
Số: 48
ÐẠI ÐẠO
TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Ngũ Niên)
Tòa Thánh, le 2 Aout 1930.
Kính cùng Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Buổi nầy là lúc thử Thánh, cho nên có xảy ra nhiều
trở ngại bước đường của Ðạo và tai nạn của Chư Ðạo Hữu.
Vậy Chư Ðạo Hữu hãy giữ lòng gan dạ sắt của Thầy đã
un đúc bấy lâu mà chống chỏi với những cơ thử Thánh đó, thì sẽ đi cùng bước
Ðạo.
Có nhiều Ðạo Hữu chẳng quản khó nhọc mà ra công đi
khuyến nhủ Chư Ðạo Hữu cho đặng tâm thành đức vẹn, ấy là một sự công quả rất
lớn lao.
Nay kính,
Thượng Ðầu Sư
Chưởng Quản Toà Thánh
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Sau Châu Tri nầy mấy tháng thì khiến có việc làm
cho nền Ðạo phải chinh nghiêng trắc trở mường tượng như thuyền Bát Nhã bị bão
tố chơi vơi giữa biển, người cầm lái phải ngất ngơ ngất ngưỡng.
Thiên cơ phải vậy. Thầy có tiên tri ngày 20 tháng 6
năm Bính Dần. Lời Thánh Giáo của Thầy có in trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển trương
31 và 32.
Tôi cũng xin tỏ cho Chư Hiền Hữu rõ biết rằng khi
Ðức Lý Ðại Tiên tái cầm quyền Giáo Tông, Ngài thấy Tà quái lẫn lộn trong nền
Ðạo nhiều lắm, nên Ngài làm cho chường mặt những người phá Ðạo rõ ràng cho chư
Ðạo Hữu ngó thấy xa lánh.
Có Thánh Giáo của Ngài, tôi xin sao lục dưới đây
cho Hiền Hữu xem tường tận:
BỬU
ÐIỆN TÒA THÁNH, ngày mồng một tháng 7 năm Tân Mùi (14 Aout 1931).
ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ, LÝ GIÁO TÔNG
Chào Chư Hiền Hữu, Chư Hiền Muội. Có Ðấng CHÍ TÔN
ngự, Chư Hiền Hữu, Chư Hiền Muội mừng Người.
Thượng Trung Nhựt, nay Lão đã nhượng nửa quyền hành
cho đó, là cố ý để mắt coi Hiền Hữu đáng phận cùng chăng? Lão đã hạ mình bỏ
quyền Nhứt Trấn, lãnh việc Giáo Tông mà lập vị cho đoàn em bước đến. Lão đã lắm
phen thấy điều khó khăn, mắc mỏ của phần ấy nên ra tay giục loạn đặng phân rõ
Chánh Tà hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ khử.
Lão để mắt coi cái công bình phàm của Chư Hiền Hữu
giữa TÒA TAM GIÁO là dường nào. Lão lại còn thấy công bình thiêng liêng mà để
phương cho mỗi phạm nhơn cải lỗi lấy mình, ấy là thể lòng từ bi của CHÍ TÔN,
bằng chẳng thì Lão đã hạ cơ trục xuất cả thảy. Chư Hiền Hữu đừng tưởng lầm
rằng: Vì Ðạo chinh nghiêng mà buộc Lão tùng Ðời, ấy là lời tiên ngôn của Lão đã
hứa quyết.
Hiền Hữu làm thế nào cho vừa trách nhậm thì làm cho
Lão xem thử.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Bởi Thiên cơ tiền định, nên nền Ðạo phải chịu truân
chuyên cả năm rồi. Cũng một phương khảo đảo làm cho chúng ta phải từ tâm mà xét
lỗi của mình.
Tôi hằng nói:
Nội trong nền Ðạo từ lớn chí nhỏ ai cũng có lỗi, ai
cũng có sai lầm, vì lòng nôn nóng lo cho Ðạo không thành lập, sợ để trò cười
nơi thế.
Từ bảy năm rồi chúng ta đây như một đám học sanh,
từ thuở nay bị trò đời dìu dắt, vùi trong cuộc vinh huê phú quí, ham mùi chung
đỉnh bả vinh hoa, tranh tranh đấu đấu, khoe tài trí, có biết Ðạo là gì? Tu làm
chi? Nhờ Ðại Từ Phụ thấy bầy con dại đang chui trong hang sâu vực thẳm, bị lượn
sóng vô tình gần chụp lấy, Thầy ngồi Huỳnh Kim Khuyết chẳng an nên lo phần thức
tỉnh đám thơ ngây, lùa chúng ta vào trường học Ðạo.
Bầy con hoang xa cách bấy lâu mới đem về đặng. Bởi
câu PHỤ MẪU ái tử vô ngằn nên Cha khó dạy con, Thầy mới giao cho Ðức Lý Ðại
Tiên dạy bảo mấy năm vừa sửa tánh hoang đàng, táo bạo chút ít, kế tới kỳ thi
chấm công quả Ðức Lý Ðại Tiên sắp từ bực cho có đẳng cấp mà dạy thêm, ngỏ hầu
nhập trường Cao Ðẳng, chớ nào có một ai trong sạch lập thành chí Thánh.
Công lao của Ngài đáng mấy với lũ con hoang của
Thầy.
Tội câu kết muôn năm uế trược đầy mình, mới tắm ít
gáo làm sao sạch đặng. Công trình Từ Phụ như thế mà cũng chưa vừa lòng làng xa
mã. Than ôi! Có kẻ trốn trường bỏ học (nhập môn rồi không thờ không hành đạo)
lắm người tính làm reo (grève) phá Ðạo, chuyên quyền tự lập, dỗ dành những
người tâm thành đức vẹn theo mình đặng tôn mình là một ông Tôn Sư tại thế. Tội
tình biết mấy! Xa Thầy tách bạn, theo tình mới, bỏ nghĩa xưa, là người phi
nghĩa, vương nhơn chi ác, bán cú phi ngôn tổn bình sanh chi đức.
Biết như vậy, chớ tôi vừa thức tỉnh nghĩ lại ai
cũng còn mang nặng xác phàm sao cho khỏi lầm lạc nên tôi cũng cất đầu lạy xin
anh em chị em dứt tánh phàm, rèn lòng nhẫn nại khỏa lấp các việc tình tệ xưa
nay trở lại Tòa Thánh thìn lòng học Ðạo ngõ hầu trở về cùng Ðại Từ Phụ kẻo
Người trông đợi.
Tôi cũng phát nguyện cùng Ngọc Hư, nghiêng vai gánh
vác tội chung của chúng ta hết, dầu tôi phải chuyển thế đời đời công quả đặng
chuộc tội cho cả thảy con cái của Thầy thì tôi cũng cam lòng chịu, miễn cho cả
thảy về cùng Thầy, thì tôi cũng phỉ nguyện ở chốn nầy độ chúng.
Lòng
trông Ðạo Hữu thứ dung,
Hiệp
nhau lo Ðạo hưởng chung phước Trời.
Nay kỉnh đốn,
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Ai
Ðiếu
Cho
Vương Thành Tông PHỐI SƯ THƯỢNG TÔNG THANH
Qui liễu ngày 24 tháng 10 năm Quí Dậu (1933)
Quí Ông, Quí Bà, Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Gió
thu phưởng phất như gợi cơn sầu,
Tiết
đông lố dạng dường soi mạch thảm.
Kìa
rừng Thiên Nhiên cây sầu lá ủ,
Ðây
miền Thánh Ðịa cỏ úa sương gieo,
Thảm
thiết bấy trọn tháng trường mưa sa.
Não
nồng thay trót tuần hoa sầu rỉ rả!
Ấy cảnh bi ai Trời cho biết trước một vị Ðại Thiên
Phong phải qui liễu. Tôi cùng Ðức Hộ Pháp có dạ nghi ngờ, nên cầu hỏi Diêu Trì
Cung cho biết chắc Hiền Hữu Thượng Tông Thanh phải qui liễu. Tình đồng đạo kẻ ở
người đi xưa nay vẫn có.
Trước khi khép nấm mồ.
Tôi xin bày tỏ lai lịch của Thượng Tông Thanh ngõ
hầu ngày sau ghi trong Sử Ðạo.
Hiền Hữu Thượng Tông Thanh sanh trưởng Trung Huê,
Quảng Ðông Tỉnh, Triều Châu Phủ. Vì câu: Làm trai hồ thỉ tứ phương, nên thuở 18
tuổi trải qua Nam Việt, hồi buổi ban sơ theo người đồng hương ở Chợlớn lập thân
lần đầu, nhờ tánh tình siêng năng hay lo cần kiệm mới có tư bổn riêng, lên Soài
Riêng khẩn đất sắm vườn lập nên cơ nghiệp, Trời khéo đưa duyên kết Châu Trần
người Nam Việt, sanh con, sanh cháu thiệt đông, nhành quế nảy chồi Chi Lan đượm
nhánh, phước hậu nhờ nhiều cháu, nhiều con ít ai bì kịp.
Người Trung Quốc mà lòng rất mến Nam Thổ, tánh tình
độ lượng bao dung ngoài xóm làng cũng ngợi khen, gặp người hèn ra tay tế độ,
lòng hằng chẳng vạy chẳng tham, nên người Annam và Cao Miên tôn lên làm Hương
Cả, giúp việc Ðình, việc Miễu, tu kiều bồi lộ chẳng tiếc công và của, âm chất
người đều bổ tứ phương, chí hào kiệt qui dân lập ấp, lòng kia không ngớt, của
tiền bù sớt cho anh em Nam Thổ như thể đồng hương.
Tháng qua, ngày lụn tuổi sáu mươi dư, lòng thiết
thiết tư tư muốn tầm chốn u nhàn, tu tâm dưỡng tánh. Nghe Gò Kén Thiền Lâm Trời
khai Ðại Ðạo, lúc Hạ ngươn năm Bính Dần, thiên hạ tứ phương dư ngàn cầu Ðạo.
Thầy giáng cơ kêu: Trung, con mời Vương Thành Tông vô đây Thầy dạy việc. Tôi
cùng mấy Môn đệ của Thầy hồi đó không biết kêu ai, nên tôi phải kêu lớn lên,
Hiền Hữu Thượng Tông Thanh mới vào đàn nội, tôi biểu trình giấy thuế thân và tờ
Sớ thì rõ như tên của Thầy giáng viết ra, Thầy thâu Hiền Hữu Thượng Tông Thanh
ở luôn tại Chùa lo làm công quả. Nào làm Thông ngôn tiếng Ðàn Thổ, nào thâu Sớ
nhập môn, phát Kinh sách, lo lúa gạo nuôi người tới lui được ba tháng trời,
bước qua năm Ðinh Mão, Thầy mới phong Thượng Tông Thanh Phối Sư Phái Thượng.
Ðây qua năm Ðinh Mão lúc hạ tuần Thượng Ngươn đất
bằng sóng dậy. Trời đang thanh bạch khiến ngút tỏa mây giăng, mối Ðạo hằng mang
ách nạn, nhà thoàn đòi đất Chùa phải trả mau mau vì có đơn vào Chánh Phủ.
Bốn muôn dư Ðồ đệ của Ðấng Chí Tôn lòng dạ ủ ê,
ngồi nhìn cảnh non sầu tuyết phủ, giọt lệ tuôn dầm, lo dời quả Càn Khôn cốt
Phật Tổ, Tòa Bát Quái, Tượng Ngũ Chi phải đem qua đất mới Long Thành nơi Ðại Từ
Phụ và Ðức Lý đã chọn. Hết lớp dời Chùa tới cường quyền áp chế, nếu kể hết
truân chuyên khổ não thì Hiền Hữu Thượng Tông Thanh đồng chịu ráo. Tôi nhớ lắm
khi hết gạo tôi cùng Hiền Hữu Phối Sư Tông lo sắp lo ngửa đặng nuôi Ðạo Hữu
nhứt là Bắc Chiên và Soài Riêng bị lụt, Tòa Thánh phải nuôi ăn hàng ngày trên
hai ngàn miệng ăn. Người hùng anh, chí chẳng hề xao lảng, giữ một dạ thủy chung
như nhứt, thương mấy hồi khốn cực nhiều nỗi, bị nhiều Ðại Thiên Phong áp bức mà
Hiền Hữu Thượng Tông Thanh than cùng tôi rằng: Một lòng son sắt theo cùng tôi
như hồi buổi ban sơ Thầy đã dạy bảo. Vì lòng giao hảo nên một tháng trước ngày
qui liễu, anh kêu tôi và mượn viết tờ di chúc để dạy cho con cháu.
NHỚ TỚI KHI ẤY:
Tay
cầm tay ruột tợ kim châm,
Mặt
nhìn mặt khôn ngăn giọt lệ!
Hỡi ôi! Người nước khác mà lòng không khác, nghĩ
cùng lý cũng là một cuộc Ðại Từ Phụ tác thành, buộc mối thương tâm, chẳng nệ da
vàng trắng đen tinh thần đều vẫn một, thương là thương cũng một người rường cột
trong nền Ðại Ðạo, đồng cùng nhau chịu mấy nỗi truân chuyên mà đường qui liễu
sớm chầy không cãi số Trời đã định, nơi Bồng Ðảo anh về trước, anh sùng bái
Ðấng Chí Tôn, dương trần em ở lại, còn lo độ chúng. Mừng phận anh rảnh nợ tang
bồng, song em thấy:
Nầy vợ yếu con thơ, dâu hiền cháu dại vắng người
khuyên nhủ. Thảm thiết bấy khoác màn loan, chẳng thấy dạng chồng nhìn bàn thờ
khói hương hiu hắt.
Não nùng thay hé cửa ngõ vắng cha, dòm nhà khách
gió thổi lai rai.
Gẫm
cuộc đời nhiều nỗi đắng cay,
Song
xét kỹ cũng vì vay trả,
Biết
Ðạo mầu có chi là lạ.
Người qui liễu xác thịt lìa xa chớ hương hồn thường
về ám trợ dìu dắt vợ yếu con thơ, giúp Ðại Ðạo về phần vô vi như chúng ta
thường thấy.
Lấp mạch sầu, un đúc đức tin rập cùng nhau cầu
nguyện cùng Thầy độ rỗi hương hồn Phối Sư Thượng Tông Thanh tiêu diêu cõi thọ,
giúp nền Ðại Ðạo dìu dắt chúng sanh rửa sầu thế sự.
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
ÐẠI
ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Cửu Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
BÀI
DIỄN VĂN của ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Ðọc tại Tòa Thánh ngày mồng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất
(1934)
VÍA
ÐỨC PHẬT THÍCH CA
Về:
Phương diện Chánh Thể của Ðạo
Chư Ðạo Hữu cùng chư Ðạo Muội,
Buổi chênh nghiêng Ðạo đã hầu qua, tâm lý toàn con
cái của Ðức Ðại Từ Phụ dường như đặng chững chàng an tịnh đủ để trọn trí thức
tinh thần suy gẫm, nên Tệ Huynh ngày nay toại chí lượm lặt những lời châu ngọc
của Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng thuyết giáo đặng chỉ rõ Thánh ý nơi
nào để cho Ðạo chịu khảo đảo dường ấy. Cái hữu ích của sự khảo đảo sẽ tỏ tường
nơi Bài Thuyết Pháp này, xin chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cố tâm kiếm hiểu.
Các Tôn Giáo đã lập thành tại mặt thế ngày nay đã
đoạt đặng một cái quyền hành hữu vi kiên cố, thì trước kia cũng phải chịu khổ
hạnh nương lấy một quyền hành bạc nhược yếu ớt của tâm lý mà thôi.
Ôi! Quyền hành tâm lý buổi nào thì cũng gặp sẵn một
tay thù địch mạnh mẽ, cường thạnh, oai nghiêm là quyền Ðời hiện hữu; sự xung
đột của quyền Ðời và quyền Ðạo từ cổ chí kim tự nhiên đều có, chúng ta đã chán
biết rằng những quyền lực hành thế đều nương theo tinh thần mà sản xuất; trứng
tinh thần nảy nở sanh quyền lực, vì cớ cho nên các quyền hành đã có đủ thế lực
mạnh mẽ nắm thế trị vào tay, hễ vừa thấy trí thức tinh thần của nhơn sanh ướm
mòi sản xuất một cái trứng quyền hành chi khác nữa, thì đã sợ lưu hại cho mình
nên toan phương đập đổ.
Cuộc kết quả sự phản kháng ấy, hoặc thành hoặc bại,
có ảnh hưởng của tương lai sinh hoạt quyền lực đương nhiên của họ, vì cớ mà sự xung
đột hằng xem dữ dội.
Ấy là phương khảo thí tài lực của trí thức tinh
thần, hầu làm cho trí thức tinh thần sanh điều hay, bày điều dở; hay thì chánh,
dở thì tà, chánh thì còn, tà thì dứt. Ấy vậy dầu cho sự xung đột của quyền Ðạo
với quyền Ðời, thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Ðạo
quyền đi nữa, phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Ðạo. Phận sự bảo
trọng lấy mình là dễ, còn phận sự bảo Ðạo vốn khó vô cùng; đáng lẽ những kẻ
khuyến khích cho Tệ Huynh bảo trọng lấy mình nên gọi là người ơn, còn những
người khuyên lơn bảo tồn nền Ðạo nên cho là kẻ nghịch mới phải. Tệ Huynh tưởng
khi chẳng cần nói thì chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cũng đoán biết rằng chẳng lẽ
Chí Tôn chọn lựa Tệ Huynh giao cầm giềng mối Ðạo đặng bảo trọng lấy Tệ Huynh mà
thôi, trái ngược thì lại nhủ rằng: Phải hủy mình đặng bảo tồn sanh chúng. Chẳng
lẽ chúng ta đành cho rằng trọng mình hơn trọng Ðạo là chơn lý?
Ôi! Biết bao phen, đêm khuya thanh vắng Tệ Huynh
nằm gát tay lên trán thầm hỏi lấy mình:
Một mảnh thân phàm nầy, cô thân bạc nhược nầy, yếu
ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Ðại Từ Phụ lại tin giao một cái giang san
sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác?
Càng nghĩ, càng lo, lo rồi lại sợ, sợ không kham
trách nhậm mạng lịnh Trời; càng suy, càng tủi, tủi rồi lại khóc, khóc sợ không
phương nâng đỡ nổi Chơn truyền.
Ðại Từ Phụ lại quy tụ con cái của Ngài gần trên một
triệu sanh linh biểu bảo hộ nâng niu dạy dỗ.
Anh thì nghèo, em thì khó, gia nghiệp không mà
quyền thế cũng không, bị cưỡng bức ép đè mang khổ hạnh.
Ðã chín năm Tệ Huynh thấy ngờ ngờ trước mắt, nhiều
thảm trạng khó khăn, tinh những tiếng khóc than chẳng dứt: Kẻ thì đói, người
thì đau; Chức Sắc thì hèn, Tín đồ thì dở, nỗi thương tâm chất chứa đầy lòng,
giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt.
An đâu đặng mà tịnh, vui đâu đặng mà nhàn. Chúng
sanh thì khóc, Hội Thánh thì than mà chẳng thấy một ai lo trọn Ðạo. Tệ Huynh
xem lại những tay yếu trọng chấp chánh Ðạo quyền thay vì chia đau sớt thảm, lo
giải khổ cho chúng sanh, lại cố ý giựt giành quyền thế. Nhiều vị lại muốn cho
Tệ Huynh ngồi đó điềm nhiên, những thảm khổ ngơ tai, bịt mắt, lại buộc Tệ Huynh
phải an tịnh đặng đắc Ðạo thành Tiên dầu mối Ðạo chênh nghiêng đừng ngó đến.
Cái sở vọng của các người ấy, Tệ Huynh để cho chư
Hiền Hữu, chư Hiền Muội kiếm hiểu coi họ để tại nơi nào, không cần cạn tỏ.
Vì Tệ Huynh biết đặng cái bí mật huyền vi ấy, nên
không khứng nghe lời mới nảy sanh ra trường ác cảm.
Nào là lường gạt nhơn sanh, nào là tranh giành
quyền tước gieo nhục nhã khắp nơi, lấy quyền Ðời chế Ðạo. Một trường ngôn luận
xảo ngược, dối gian truyền cùng làng, khắp xóm, nhưng sự kết cuộc cũng không
hại chi cho danh thể của Tệ Huynh, duy làm cho thiên hạ chê khinh Chánh giáo.
Chẳng biết lương tâm của những kẻ phá Ðạo ngày nay nó phải thế nào, lẽ tà chánh
trọng khinh sao chẳng rõ.
Tệ Huynh ngồi nhớ lại đã cách mười năm nghĩa là hạ
tuần năm Sửu, Tệ Huynh còn làm Thượng Nghị Viện vào lầu ra các, trong thì bạn,
ngoài thì quan, nẻo hoạn lộ hèn sang đã chán; lẽ nhục vinh đã ngán với tuồng đời,
mùi cay đắng đã từng quen với mặt thế, nào là mày trung, nào là mặt nịnh, đã
trông nom mỏi mắt mòn hơi, nên mới biết chê đời mến Ðạo.
Nay lục tuần hầu đến, lẽ nên hư quyền biến cũng đã
thừa; có chi hay phòng mến phòng ưa, có chi trọng phòng yêu phòng chuộng. Tệ
Huynh hằng hỏi lấy mình, cái ngày của Ðại Từ Phụ sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem
lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội tình nầy phải dâng trọn xác hồn cho Ngài làm
lợi khí mở Chơn truyền, nên gọi là ngày hữu duyên hay là ngày trả nợ? Nếu phải
trả nợ thì Thầy lẽ nào đành giao một cái gia nghiệp vĩ đại của nhơn sanh cho
một kẻ tham gian bạo ngược, còn như gọi rằng duyên thì chắc đủ lực quyền cầm
vững Ðạo. Ðã chín năm xông lướt trên con đường đi than lửa, bước chông gai, mà
cũng có thể bảo thủ Chơn truyền của Thầy vững vàng toàn hảo, thì không phải là
một tay giả mạo hay là một đứa tội nhơn mà làm cho Thánh chất đặng thắng hơn
phàm tánh.
Bởi biết mình, bởi biết Thầy, biết người, biết Ðạo,
mới yên trí tịnh tâm giữ gìn Ðạo mạch.
Tệ Huynh duy có một sở vọng là ngày nào Ðạo đắc
thành, đời đặng thật thái bình thì thối bước lui chơn liền, đặng thích chí du
sơn ngoạn thủy, cái vui cùng tận của Tệ Huynh ở tại nơi đó mà thôi, chớ chẳng
phải tại mến đời ngồi chịu khổ.
Ngày nay là ngày vía Ðức Thích Ca Mâu Ni mà Tệ
Huynh không giải thích Ðức Thích Ca vì chư Hiền Hữu lưỡng phái cũng hiểu rõ
tích của Ngài và chư Hiền Hữu cũng thông suốt Phật Ðạo chút ít rồi.
Tệ Huynh chỉ để thì giờ quí báu đặng nhắc cho chư
Hiền Hữu lưỡng phái nhớ một hai tôn chỉ quí trọng của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
đương thời, nhứt là phương diện chánh thể của Ðạo.
Tuy Tệ Huynh không giảng Phật Ðạo chớ Ðại Ðạo ngày
nay cũng là Phật Ðạo vì gồm hết Tam Giáo (Nho, Thích, Ðạo) vì Thích Ca cũng là
Thầy, Thầy là Thích Ca.
Tệ Huynh hằng nhắc chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội rằng
Ðạo vẫn một, mà mỗi thời kỳ khai Ðạo thì phương diện khác nhau, vì Ðạo khai
phải phù hạp với dân trí đương thời khai Ðạo.
Khi
Ðức Thích Ca mở Ðạo Phật thì nhơn sanh buổi ấy còn Thánh Ðức nhiều, cả cá nhân
đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế, nên Thiên Ðình phú cho Ngài lấy tôn chỉ
tiêu cực diệt Tứ Khổ (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) mà độ chúng.
Ngài cũng bị lắm điều truân chuyên khổ não, lao
thân tiêu tứ với đời mà chừng thành Ðạo cũng bị quỉ phá một hồi dữ dội rồi mới
thành Ðạo.
Ðức
Lão Tử khai Ðạo Tiên thì dùng huyền diệu pháp làm tôn chỉ cao thượng vì
đương buổi ấy thì nhơn sanh ưa huyền diệu phép tắc.
Ngài cũng bị nhơn sanh cho là Lão già mê hoặc
chúng. Ðệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài cho đến đổi khi Ngài đi ngang qua
Hàm Cốc Quan vô Nha môn của Doãn Hỉ đặng độ ông nầy là chơn linh Ngươn Thỉ thì
Từ Giáp là học trò hầu cận Ngài vì mê sắc mà sa ngã rồi cũng xa Ngài.
Mà Ðạo Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ
phương vậy.
Khổng
Phu Tử thọ lịnh Thiên Ðình xuống khai Ðạo Nho đặng sửa nhơn luân trong
buổi Châu mạt, vì trong buổi ấy, cang thường luân lý suy đồi, nên nhơn sanh
thấy cái Ðạo Nhơn luân của Ngài hay, sửa đời đặng thì khâm phục.
Ngài cũng lắm công nhọc nhằn với đời. Qua Tề bị Yến
Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt người buộc, ăn vác nằm sương
nhọc nhằn biết mấy. Ðến đổi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phần thi khanh Nho
(đốt sách chôn học trò), mà Ðạo Nho cũng loan truyền khắp hoàn cầu.
551 năm sau Khổng Phu Tử, mới có khai Ðạo bên Thái
Tây nên Thầy cho Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh khai Ðạo Thánh cho phù hạp
với dân trí Âu Châu.
Ðức Jésus cũng bị cường quyền Israel áp bức cho đến
đổi hồi ban sơ thì có 12 vị Thánh Tông Ðồ theo Ngài mà sau còn có một vị Thánh
Pierre mà thôi. Nhưng Người cũng phải chối Chúa ba phen đặng tránh cường quyền
bắt buộc.
Chừng Ðạo thành thì có Du Già bắt Ngài mà nạp cho
Chánh Phủ hành hình, đóng đinh trên cây Thánh Giá. Hành xác Ngài gớm ghiếc như
thế đặng cho nhơn sanh kinh khủng bỏ Ðạo, mà Ðạo Thánh cũng gieo truyền khắp cả
hoàn cầu.
Lúc Ðạo Gia Tô truyền qua Ðông Pháp thì vua An Nam
cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo Ðạo Gia Tô quá Thập Tự, ai không bước ngang
qua thì bị tử hình.
Hình phạt gớm ghê như thế mà cũng có người Chí
Thánh thọ tử mà thôi chớ không chịu chối Ðạo.
Xét kỹ lại, thiệt người xưa là Thánh Ðức, ít ai bì
kịp, cứ giữ chánh tâm làm trọng, thỉ chung như nhất mà thôi.
Ngảnh lại đời nay mà ngán cho đời!
Ôi! Trong tám năm dư chuông Thánh truy hồn, Ðạo
Trời đem tin cứu thế mà hễ có nghe phưởng phất lời đồn huyễn hoặc chi của người
toan phá Ðạo thì mau mau cuốn Thánh Tượng, dẹp Thiên Bàn, lòng toan chối Ðạo.
Biết bao nhiêu người nịnh quyền hiếp thế, xu phụ
theo nịnh tà mong toan phá Ðạo, rước rắn rừng vô cắn gà nhà, nạp Chí Thánh vô
đề lao cho phỉ lòng oán hận.
Con một cha, gà một ổ, mà làm cho đổ lụy rơi châu,
gieo thảm sầu cho lắm người tâm thành trí vẹn phải dừng chơn thối bước!
Quạ nuôi tu hú cũng còn biết thương, người đi một
đường sao lại nỡ hại nhau như thế?
Ai toan bứng gốc phá chồi của nền Ðạo thì để cho
Thiêng liêng quyết đoán, mình cứ nắm giữ luật lệ của Thầy và Ðức Lý Giáo Tông
đã thành lập từ buổi ban sơ thì thành Ðạo, vì luật lệ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
thể Thiên hành hóa là món binh khí diệt Tà quyền.
Ðời
có thạnh có suy,
Ðạo
động tịnh chuyển xây,
Lửa thử vàng, gian nan thử Ðạo.
Trong 8 năm qua rồi
biết bao phen vẹt mây ngút thấy Trời xanh mà cũng lắm lúc xem đất bằng sóng
dậy.
Thầy đã nói tiên tri: "Chi chi qua Quí Dậu cũng phải cho
thành Ðạo mà trước khi Ðạo thành thì Tam Thập Lục Ðộng quỉ về phá Tòa
Thánh dữ dội lắm mà trừ an nội loạn rồi, mới thành Thiên cơ".
Ngày nay bảo tố dữ dội đã qua rồi, Tệ Huynh nhìn
thấy mấy em đã bị bao phen khảo đảo thảm khổ vô cùng, mà mấy em cũng ngồi vững
trong thuyền Bác Nhã của Thầy độ rước, Tệ Huynh hết sức vui mừng nên nguyện
rằng sẽ đem hết dạ yêu thương mà dìu dắt mấy em về cùng Thầy cho đến chốn.
Các Ðấng Thiêng Liêng cũng có nói trước: "Rồi đây Nguyên Nhân sẽ đến rần rần, có
lắm anh hào thành tâm giúp Ðạo".
Cơ Trời mầu nhiệm cao sâu, người đâu thấy đặng!
Từ ngày ác khí nổi lên xung đột, bên bạo tàn trương
nanh múa vút thì bên Thánh Ðức hiền lương có lắm anh hào đem hết trí thức tinh
thần ra công giúp Ðạo.
Tạo
Hóa vần xây chuyển thế,
Âm
Dương thiệt khéo đầu cơ.
Khiến cho Tệ Huynh nhớ lời tiên tri của Bát Nương
Diêu Trì Cung hồi ban sơ có dặn:
"Hễ
gặp người an bang tế thế,
Nên
quì mà nghênh lấy lễ trọng người.
Cởi
thân ra mảnh áo tơi,
Che
mưa đở nắng cho đời nguy nan".
Tôn chỉ cao thượng của Ðại Ðạo Tam Kỳ là lập công
quả cùng Thầy, lo độ rỗi nguyên nhân, truyền bá chơn Ðạo cho đời biết chữ nhàn
là quí, đức là trọng, đặng hết tranh tranh đấu đấu, lập quyền lấn thế nhau,
báng sán nhau, hại sanh chúng nguy nan đời đời kiếp kiếp.
Từ hai mươi năm nay, xem trong hoàn cầu thiệt đâu
đâu cũng là một cảnh sầu không tỏa ra cho cùng tận được. Biết bao người bị lượn
sóng vô tình vật chất chụp đè trên biển khổ, ham lo sung sướng cho mảnh thi
hài, bo bo vừa lòng tình dục. Ít ai ngó xuống thương đồng loại cực khổ biết
bao! Kể không xiết số người thất nghiệp truân chuyên, cơm tẻ ngày hai không có,
mảnh tơi che cật chẳng lành. Tôi phản Chúa, người phá Ðạo, trò nghịch Thầy, cha
lìa con, vợ xa chồng, huynh đệ bất hòa, bằng hữu tranh nhau cũng vì mối nhơn
luân suy bại. Chẳng còn thấy Chúa Thánh tôi hiền, phụ từ tử hiếu, trông chi gặp
tháng Thuấn ngày Nghiêu nhà nhà lạc nghiệp thái bình âu ca!
Ðấng Hóa Công là Ðại Từ Phụ chung của cả nhơn sanh
trông thấy hoàn cảnh như vậy cũng đổ lụy rơi châu với bầy con dại, biết bao
thương xót lũ con hoang, ra đường gây tội lỗi; trong mấy muôn năm phải bị luân
hồi trả vay mãi mãi như chóng vần xây. Từ việc rất lớn lao tới việc tế vi mảy
mún, thạnh suy bỉ thới cũng phải chuyển vần y như luật Trời đã định.
Ðạo Trời đem tin cứu thế, thức tỉnh nhơn sanh phải
tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho khỏi nạn luân hồi vay trả, hằng ngày
phải nhớ câu: "Oan gia nghi giải bất
nghi kiết".
Người phải thương nhau như con một cha, cả hoàn cầu
là đại chánh chung của nhơn loại, không hại lẫn nhau, lấy lễ phép mà giao
thiệp, lấy công bình mà đối đãi cùng nhau.
Lo cho Ðạo hữu trong nền Ðạo có cơ sở làm ăn, biết
làm lành là quí.
Que l'humanité soit une, une comme race, une comme
religion, une comme penseé.
Ấy là cuộc sửa đời lập Tân Thế Giới (Ère nouvelle)
của Ðại Từ Phụ đã tuyên ngôn từ buổi khai Ðạo.
Theo lý chánh thật hành chỉ rõ trên đây thì nhiều
người trong Ðạo lại chê, còn theo việc mị mộng ăn ngọ, ăn chuối, tuyệt cốc,
tịnh luyện thì ưa, còn Nguyên Nhân lỡ bước ai lo?
Trong 8 năm qua rồi, Tệ Huynh đây và Hiền Ðệ Phạm
Công Tắc là Hộ Pháp của Ð.Ð.T.K.P.Ð. hiệp cùng nhiều Thiên Phong đã để hết tâm
thành trí vẹn, đặng thi hành cho hoàn tất mấy điều của Thầy và Ðức Lý Giáo Tông
đã dạy bảo.
Ôi! Biết bao phen đánh đổ, lắm người trong Ðạo
không hiểu tôn chỉ Ðại Ðạo, lại còn biếm nhẻ nói Tệ Huynh lo việc hữu hình chớ
không lo vô vi tịnh luyện.
Bởi vậy mới rồi đây, Tệ Huynh có đắc lịnh dạy bảo
phải chỉ rõ phương diện chánh thể của Ðạo, xin giải:
Trước đây, Tệ Huynh có nói: Thầy lập Ðạo kỳ nầy phù
hạp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi Ngươn Tấn Hóa đến địa vị tối cao,
cho nên chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo hiện thời không đủ sức kềm chế đức
tin của toàn nhơn loại.
Theo Chánh thể của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thì có ba
Hội đã định quyền hành đặc biệt:
a) . Thứ nhứt là HỘI NHƠN SANH:
Trong Hội Nhơn Sanh thì Chánh Phối Sư phái Thượng
là Chủ Trưởng.
Hội Viên từ Lễ Sanh đổ xuống Chánh Trị Sự, Phó Trị
Sự, Thông Sự và người Phái Viên thay mặt cho nhơn sanh.
Trong Nội Luật Hội Nhơn Sanh của ba Chánh Phối Sư
lập ra có chỉ rõ thức lệ.
Ấy vậy từ hàng Tín đồ cùng Ðồng nhi đều có người
thay mặt đặng xem xét việc Ðạo rồi đệ lên Hội Thánh phán đoán.
Vạn vật cũng có ảnh hưởng trong Hội Nhơn Sanh vì
người là Chúa của Vạn vật.
Xét kỹ thì Thầy công bình không xiết kể và lo việc
hóa sanh không ngằn, không tận.
2) . Thứ nhì là HỘI THÁNH:
Trong Hội Thánh thì có Thái Chánh Phối Sư làm Chủ
Trưởng.
Hội Viên thì từ Giáo Hữu, Giáo Sư và Phối Sư thiệt
thọ có trách nhiệm hành chánh đặc biệt.
Trong Nội Luật Hội Thánh của ba Chánh Phối Sư lập
ra có chỉ rõ thức lệ.
Hội Thánh có quyền xem xét các việc của Hội Nhơn
Sanh dâng lên và các việc hành chánh trong Ðạo rồi đệ lên Thượng Hội.
3) .
Thứ ba là THƯỢNG HỘI:
Thượng Hội thì cũng có Nội Luật chỉ rõ thức lệ.
Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Chủ Trưởng, Hộ Pháp làm Phó Chủ Trưởng. Hội
Viên thì có:
* Thượng Phẩm
* Thượng Sanh
* Ba vị Chưởng Pháp
* Ba vị Ðầu Sư
* Và Ðầu Sư Nữ Phái
Không cần nhắc chi chư Hiền Hữu Lưỡng Phái cũng
hiểu rằng mấy Ðại Thiên Phong kể trên đây có hành chánh phận sự lớn lao của
mình thì mới đặng vào Thượng Hội.
Thượng Hội để giúp Giáo Tông và Hộ Pháp điều đình
cả nền Ðạo lớn lao của Thầy.
Thượng Hội có quyền xem xét các điều nghị luận của
Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh rồi hoặc đệ lên cho Giáo Tông và Hộ Pháp phê chuẩn
hay là trả lại cho Hội Thánh định đoạt lại.
Ba Hội (Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh)
toàn nhập lại theo hệ thức, rành rẽ thì gọi là Quyền Vạn Linh chớ không phải ai
muốn lập Hội Vạn Linh, tổ chức gì theo ý riêng của mình rồi muốn đem ai lên làm
Chủ Trưởng, tổ chức gì cũng được. Như vậy thì có Luật lệ gì đâu?
Mà không Luật lệ thì là không phải Ðạo.
Trên ba Hội thì có Giáo Tông và Hộ Pháp.
Giáo Tông làm Chủ Trưởng Cửu Trùng Ðài thì lo việc
Chánh Trị Ðạo, có Chưởng Pháp và Ðầu Sư ở trung gian giúp sức điều hành các
Luật lệ truyền xuống cho ba Chánh Phối Sư nắm trọn quyền hành chánh.
Giáo Tông có quyền định đoạt trong việc Chính Trị
của Ðạo.
Hộ Pháp thì lo giữ Luật lệ của Ðạo cho khỏi sái
Thiên Ðiều vì Luật lệ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ngày nay thì thế cho Thiên
Ðiều.
Hộ Pháp có quyền đặc biệt về ân xá cũng như Giáo
Tông có quyền chính trị vậy.
Hộ Pháp chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, có Thượng Phẩm,
Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân giúp sức.
Giáo
Tông và Hộ Pháp hiệp một là Quyền Chí Tôn.
Tệ Huynh có thọ lịnh chỉ rõ phương diện chánh thể
của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ của Thầy khai trong buổi Hạ Ngươn chuyển thế đây y
như trên đó. Xin chư Ðạo Hữu nhớ và lo phận sự đừng trái luật Ðạo mà bị tội, và
mình tuân trọn Luật Ðạo của Thầy thì là món binh khí diệt Tà quyền giả mị đó.
Tệ Huynh xin nhắc lời Tuyên ngôn của Ðại Từ Phụ hồi
buổi ban sơ, Thầy có nói: "Thầy lập
Ðại Ðạo kỳ nầy là lập một cái trường công quả. Nếu các con đi ngoài trường công
quả ấy, thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng".
Trường công quả của Thầy có đôi bên: Một bên vô
hình là các Ðấng Thiêng Liêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cũng lập công quả trong
buổi chuyển thế nầy. Các Ðấng Thiêng Liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám
trợ chúng ta về phần vô vi.
Còn các việc hữu hình tại thế, là các việc phải có
thi hài như chúng ta bây giờ đây mới đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm,
rồi có các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ.
Thí dụ như đi độ rỗi nhơn sanh, phải nói Ðạo cho
người nghe, như phải lập mấy cuộc để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy
kẻ cô độc học, nhà thương, nhà dưỡng lão cùng các nghề nghiệp cho Ðạo Hữu có
phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần che thân ấm cật, v.v... thì
chúng ta phải lo hết, rồi các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ cho thành tựu.
Nếu chúng ta làm biếng không làm công quả chi cho
Ðạo, bên hữu hình thì các Ðấng Thiêng Liêng theo mình không lập công quả được
thì tội trọng về phần mình chịu lấy.
Từ hồi tạo Thiên lập Ðịa tới ngày nay, trong mỗi kỳ
khai Ðạo, không có thời kỳ nào mà chính mình Thầy là Chủ Tể Càn Khôn Thế Giái
xuống mà lập ra, không có một Tôn Giáo nào đặng một vị Ðại Tiên là Ðức Lý Thái
Bạch lãnh làm Giáo Tông như ngày nay vậy.
Tệ Huynh đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài
đặng lo làm các việc hữu hình tại thế cho Ngài rồi ở trong có Ngài ám trợ.
Tệ Huynh xin chỉ rõ quyền hành lớn lao của Ðức Lý Ðại
Tiên Thái Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ:
Ánh
Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng dâng thuở Thiên Triều,
Càn Khôn Thế Giái dắt dìu Tinh Quân.
Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Ðường Triều mới biến thân.
Thái
Bạch Kim Tinh đương trị thế,
Trường
Canh Trích Tử đến thăm trần.
Ðộng
Ðình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng
Ðảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng
lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam
Kỳ độ rỗi các Nguyên Nhân.
Ngài nói rằng: "Hễ
Ðạo trọng, thì tức nhiên chư Hiền Hữu trọng, vậy thì chư Hiền Hữu biết mình
trọng mà lo sửa vẹn người đời.
Từ
đây Lão hằng gìn giữ cho chư Hiền Hữu hơn nữa. Nếu thoảng Lão ép lòng cầm quyền
thưởng phạt phân minh, là cố ý muốn giá trị chư Hiền Hữu thêm cao trọng hơn
nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe!"
Xin chư Hiền Hữu lưỡng phái ghi nhớ mấy lời châu
ngọc ấy đặng sửa mình.
Hết lòng cảm tạ mấy em và chư Tôn có công mệt mỏi
ngồi nghe mấy lời tôi cạn tỏ rồi đó.
Hết dạ khẩn cầu cho nền Ðạo chóng hoằng khai.
Phụ ghi:
* Bài nầy có trong quyển Ðạo Sử II của Bà Nữ Ðầu Sư
Hương Hiếu biên sọan.
* Nguyên bản chánh in là: Trong Thượng Hội thì Giáo
Tông làm Chủ Trưởng. Hội Viên thì có:...
Theo Luật Lệ của Ba Hội Lập Quyền Van Linh phần Thượng
Hội Nội Luật: Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Nghị Trưởng, Hộ Pháp làm Phó
Nghị Trưởng. Nghị Viên thì có:...
Ðức
Quyền Giáo Tông
giải
nghĩa về "Ðức Chí Thành"
ÐỨC
CHÍ THÀNH
Ðức chí thành là tánh chất thành thật chơn chánh mà
mọi người cần phải có hầu để đối đãi nhau cho ngay thẳng, thật thà trong đường
Ðời hay là đường Ðạo. Ðức chí thành là gốc năm thường, là nguồn trăm nết. Có
chí thành thì đạo hạnh con người mới đặng rõ ràng sáng tỏ. Không chí thành thì
đạo hạnh phải bị tà khuất tối tăm. Cho nên con người ở đời mà không un đúc đặng
một khối chí thành là gốc rễ thì trông chi đến việc trau giồi đức hạnh là nhành
lá vậy.
Ðức chí thành tỉ như một khối vàng, dùng nó mà chế
tạo ra lắm đồ trang sức tốt xinh cao giá. Chí khối vàng ấy phải pha phải trộn
thì mất nguyên chất tự nhiên, rồi bảo sao những đồ trang sức làm ra không phải
xấu hèn thấp giá.
Người xưa tuy quê hèn, song giữ đặng hai chữ chí
thành, đối với nhau chẳng hề dối giả, gạt gẫm là gì. Một tiếng ừ với nhau cầm
đáng ngàn vàng, một lời hứa với nhau khư khư giữ chặt.
Người nay tuy gọi văn minh tấn bộ; song cái ánh
sáng văn minh chóa ra làm cho con người dường như bị nắng quáng đèn lòa mà xem
không rõ cái tướng của đức chí thành đặng vậy. Cũng bởi không chí thành cho nên
ở đời mới có người nầy xảo trá, kẻ kia gian tham, sanh lòng nghi kỵ lẫn nhau
đến đổi trong một việc làm nhỏ mọn mà có nhiều kẻ chung lo thì cũng hóa ra hư
hỏng. Theo đường đời mà đức chí thành còn quan trọng là thế, huống chi đường
Ðạo là chỗ cần phải treo lên một tấm gương thanh bạch hầu để soi chung thiên
hạ.
Người hành đạo cần phải có đức chí thành, tôn chỉ
Ðạo mới đặng quang minh chánh đại, rồi nhơn đó mới đặng lòng tín nhiệm của
chúng sanh. Khi tụng kinh cầu nguyện, khẩn vái với Trời Phật, nếu đặng chí
thành mới có cảm. Có cảm mới có ứng. Có ứng mới có nghiệm; cho nên có câu: "Hữu
thành tất hữu Thần" là vậy đó.
Người làm Ðạo mà chí thành thì chẳng hề để ý chi
riêng về việc công quả mà cầu danh, chẳng hề tính lập công quả mà cầu danh.
Chẳng hề ỷ mình lập nhiều công quả mà tự kiêu, tự đắc rồi tác oai tác phước,
lập thế chuyên quyền, gây ra lắm điều trái Ðạo, ai nói cũng nghe, ai khuyên
cũng không nạp, ai trách cũng không dung.
Người làm Ðạo mà chí thành thì chỉ lo cho chúng
sanh, chớ không kể đến thân mình, tự buộc mình vào nơi khổ hạnh, đem cả hình
hài trí thức làm món hy sinh cho tôn chỉ Ðạo, thân còn chẳng kể huống lựa lợi
và danh.
Nói tắt lại một điều là làm Ðạo mà còn chút ý riêng
về lợi và danh thì chưa có thiệt là chí thành vậy.
Người theo Ðạo mà không chí thành thì bất quá là:
Cầu vui tu bắt chước hoặc là tu "cầu
mị" theo ông nọ bà kia đặng có dễ bề thân cận mà chác chuộng mua yêu
cùng trông ỷ lại nơi người vậy thôi.
Người theo Ðạo mà không chí thành thì bất quá là
mượn danh Ðạo để vụ tất đồng tiền, hoặc bị lợi dụng đức tin của hàng Tín Ðồ
thấp thỏi để mưu điều trái Ðạo.
Người giữ Ðạo mà không chí thành, dầu cho bác lãm
quần thơ, rõ thông đạo lý đến đâu đi nữa tưởng cũng không trông thành Ðạo.
Ấy vậy, nếu rủi trong Ðạo mà có đại đa số người
không chí thành dầu cho tôn chỉ Ðạo cao thượng đến đâu đi nữa, nền Ðạo bất quá
cũng để một trò cười cho thiên hạ.
Thánh ngôn Ðức Chí Tôn dạy rằng: " ..... ...... Các con phải biết Ðạo
gốc bởi lòng bác ái và chí thành. Bác ái là lòng đại từ bi thương xót sanh linh
hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên
hạ trọng bằng Trời Ðất.
Còn
chí thành là mỗi việc đều lấy lòng thành thật mà đối đãi trong Ðời và trong
Ðạo. Dầu kẻ phú quí bực nào đi nữa mà không có lòng bác ái và chí thành thì
không làm chi nên việc.
Vậy
nên Thầy khuyên các con trước hết phải ở sao cho ra vẻ đạo đức, đừng để ý gì
việc công quả mà nêu danh nơi cõi tạm nầy.
Các
con phải mở rộng tâm chí ra mà hành Ðạo mới nên cho, chớ đừng mờ hồ rằng Ðạo
thành thì mình được làm một vị xứng đáng và đại ích trong Ðạo".
Tóm lại, đức chí thành là gốc của nền Ðạo, tức là
tánh mạng của Ðạo vậy, cho nên trong bài Kinh Niệm Hương mở đầu có câu: "Ðạo gốc bởi lòng thành tín hiệp".
Ðức chí thành không cần tập luyện mới có chỉ tại
nơi tâm muốn cùng không muốn mà thôi.
LÒNG
BÁC ÁI
Trên mặt địa cầu nầy, nhơn loại phần nhiều cũng bởi
cái lòng vị kỷ mà gây ra lắm điều bạo ngược. Kẻ tham trộm là bởi quí trọng của
mình mà không quí trọng của thiên hạ, vì vậy nên tính lấy của người đặng bổ
thêm của mình. Yếu sức thì gạt lường trộm cắp, mạnh thế lại ép đè cướp giựt, có
khi còn hại đến mạng người. Ăn thịt một con sanh vật là lấy huyết nhục nó để
bồi bổ cho huyết nhục mình tức là quí trọng sanh mạng mình mà không quí trọng
sanh mạng nó vậy.
Như hai đàng chiến đấu, bên nào cũng đem hết sức
lực để tiêu diệt bên kia, thì đàng nào cũng quí trọng mạng mình mà không quí
trọng sanh mạng bên nghịch.
Cái lòng vị kỷ gia hại cho nhơn quần xã hội là thế.
Nay muốn tảo trừ cái điều hại ấy, cần nhứt phải làm
thế nào cho thiên hạ ai ai cũng có cái lòng bác ái.
Bác ái là gì?
Bác là rộng, ái là thương. Lòng bác ái tức là lòng thương rộng ra. Ta chẳng
những thương ông bà, cha mẹ, vợ con cùng là thân tộc họ hàng, mà ta còn phải
thương rộng ra cho đến cả nhơn loại chẳng luận nước nào.
Ta chẳng những thương cả nhơn loại, mà ta còn phải
thương rộng ra cho tới cả loài sanh vật khác nữa.
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Phụ ghi:
Ðoạn 6: ...ai nói cũng nghe, ai khuyên cũng không nạp,
ai trách cũng không dung... chúng tôi nghĩ là: ...ai nói cũng không nghe, ai
khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung.
Phụ ghi: Bài Ðức Quyền Giáo
Tông giải nghĩa về: Ðức Chí Thành & Lòng Bác Ái được trích từ ÐẠO SỬ quyển
2 do Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu biên soạn. (Nguyên bản chánh không có bài nầy chúng
tôi xin mạo muội thêm vào để cho chư Ðồng
Ðạo lãm tường)
Bản
phiên dịch Việt văn.
TÂY NINH, ngày 01 tháng 12 năm 1931.
Kính
gởi quý vị Chủ Tịch
NGHIỆP
ÐOÀN BÁO CHÍ THẾ GIỚI
Kính quý vị Chủ Tịch,
Chúng tôi rất hân hạnh và kính cẩn yêu cầu quý Ngài
khuyến nhủ tất cả các Giám Ðốc Nhật Báo, các tạp chí định kỳ, dành cho chúng tôi
một chỗ để kêu gọi sự thống nhứt đức tin như bản kèm theo đây.
Ðó là một đặc ân mà Báo chí ban cho toàn thể nhân
loại, bởi vì nếu sự thống nhứt đức tin được thực hiện, các chủng tộc sẽ xem
nhau như anh em và hòa bình thế giới sẽ phát hiện.
Thế giới sẽ được giải thoát khỏi cơn ác mộng ghê
gớm về một trận thế chiến sắp xảy đến mà sức phá hoại sẽ mười phần dữ dội hơn
trận Thế chiến 1914-1918.
Mong quý vị Chủ Tịch nhận nơi đây những cảm tình
kính mến và biết ơn của chúng tôi.
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Ông LÊ VĂN TRUNG,
Người Việt Nam - thuộc Pháp,
Ðệ Ngũ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh,
Nguyên Nghị Viên Hội Ðồng Soái Phủ Ðông Dương;
GIÁO TÔNG "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ"
"Ðại xá kỳ ba của CHÚA ở Ðông Dương"
CAO ÐÀI hay PHẬT GIÁO CHẤN HƯNG
Tại TÂY NINH Nam kỳ thuộc Pháp.
Bản
chánh Pháp văn.
TÂY
NINH, le 1er Décembre 1931.
À
Messieurs les Présidents des Syndicats
de
la Presse du Monde Entier,
Messieurs
les Présidents,
Nous avons l'honneur de venir respectueusement vous
prier de bien vouloir solliciter de tous les Directeurs des Journaux, Revues
Périodiques, une large hospitalité à notre Appel à l'Unité de Foi ci-joint.
Ce sera un grand bienfait que la Presse rendra à
l'Humanité toute entière, car, si l'Unité de Foi se réalise, les races se
fraterniseront et la Paix Universelle règnera.
Le Monde sera délivré de l'horrible cauchemar d'une
prochaine guerre mondiale dix fois plus dévastatrice que celle de 1914-1918.
Veuillez agréer, Messieurs les Présidents,
l'assurance de nos sentiments respectueux et reconnaissants.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Monsieur LÊ VĂN TRUNG,
Annamite, Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de
l'Indochine;
Chef de la Religion "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové
à TÂY NINH - COCHINCHINE - FRANCAISE.
Bản phiên dịch Việt văn.
TÒA THÁNH TÂY NINH, ngày 01 tháng 12 dl . 1931.
Kính gởi chư vị Hoàng Ðế, Quốc Vương,
Quý
vị Nguyên Thủ, Lãnh Ðạo các nước,
Chư
vị Giáo Lãnh các Tôn Giáo
TRÊN
THẾ GIỚI.
Kính
thưa quý Ngài,
Chúng tôi trân trọng và thành kính thông báo cùng
quý Ngài: Ðấng TỐI CAO tức là Ðấng THƯỢNG ÐẾ TOÀN NĂNG, mà cũng là ÐẠI TỪ PHỤ
của tất cả nhơn loại, đã giáng lập trên một góc của nước Việt Nam, thuộc tỉnh
Tây Ninh, một nền Tân Tôn Giáo. Nền Tân Giáo nầy có thể canh tân toàn thể thế
giới bằng một lý tưởng cao quí: Ðó là tình thương vạn vật. Rồi đây, bởi sự
chuyển xây của Tạo hóa, các sắc dân sẽ đồng tâm hiệp lực, kết tình anh em với
nhau và chừng ấy, nền hòa bình thế giới sẽ phát hiện.
Chiến tranh! Cuộc chiến tranh tội lỗi giữa huynh đệ
giết nhau một cách ghê tởm, sự ghê tởm của thế kỷ 20 được mệnh danh là tiến bộ
văn minh, vẫn có thể tránh được.
Sở dĩ chúng tôi nói đến "TỘI HUYNH ÐỆ GIẾT
NHAU" là vì dầu cho chủng tộc nào có phân chia nòi giống, nhưng tất cả
đang sống trên quả địa cầu nầy đều là con cái cùng tùy thuộc dưới quyền năng
ngự trị của một Ðấng Cha chung là Thượng Ðế, hay nói rõ hơn là Ðấng Chủ Tể cầm
vận mạng của họ. Một khi các dân tộc gây hấn chiến tranh với nhau, điều đó có
khác nào anh em một cha đã tự diệt nhau đó vậy.
Nhận lãnh nơi Ðức THƯỢNG ÐẾ, bậc Từ Phụ của toàn
nhơn loại, chúng tôi có cái sứ mạng truyền bá nền Chánh giáo của Người đến khắp
hoàn cầu.
Chúng tôi có đủ bằng chứng về sự giáng hạ của Người
trên đất nước nầy: Nhiều phép lạ đã xảy ra giống như thời Chúa JÉSUS ngự đến
ban phép lạ xưa kia ở Lourdes và các nơi khác.
Tin tưởng mãnh liệt vào hiệu năng của nền Tân giáo
nầy, và hoàn toàn vững tin nơi thiện ý của mình, chúng tôi đã trình lên nhà cầm
quyền thuộc địa Pháp một bản Minh thệ viết tay (kèm theo đây có một bản) mà nội
dung chúng tôi cam kết với lời hứa chịu tử hình rằng: Chỉ chăm lo về mặt Ðạo
giáo chớ không mảy may nào làm rối loạn an ninh trật tự. Ngược lại, chúng tôi yêu
cầu được sự giúp đỡ và hộ trợ của nước Pháp để thi hành sứ mạng truyền bá nền
Tân giáo nầy khắp hoàn cầu.
Ðối với sự kính trọng của chúng tôi, tiếc thay, các
vị đại diện của nhà cầm quyền thuộc địa Pháp vẫn không có hảo ý đáp ứng. Một số
ít tỏ ra thông cảm, khoan dung. Một số khác lại áp dụng đủ mọi cách cốt để ngăn
chận sự truyền bá nầy.
Ðức THƯỢNG ÐẾ đã giáng dạy chúng tôi hoằng hóa
Chánh Ðạo của Người đến khắp hoàn cầu. Chúng tôi quả quyết không có gì lầm lẫn
trong sứ mạng ấy. Ðặt mình vào bổn phận, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu quý Ngài
thông truyền cho toàn thể nhơn loại thế giới hiểu biết việc làm của chúng tôi,
để mọi người hiểu rằng: Giờ ÐẠI XÁ của Ðức THƯỢNG ÐẾ đã điểm... và sự thống hợp
của con cái Ðấng Tạo Hóa là để phụng sự cho hòa bình hơn là tiếp tục tìm kiếm
kế hoạch thống trị thế giới.
Muốn được vậy, chỉ cần sao cho tất cả người đời
biết thương yêu đồng chủng và giữ gìn hạnh đức đúng theo đường lối mà Chí Tôn
đã vạch.
Chúng tôi chắc rằng: Hơn ai hết, quý vị Ðế Vương,
Quốc Vương, Quốc Trưởng, Giáo Chủ v.v... đều muốn cho thần dân và thuộc hạ đang
sống dưới quyền uy của quí vị, đều được sống mà không bị ám ảnh bởi một sự sợ
hãi triền miên về một trận chiến tranh tương lai, mà các vũ khí tối tân sẽ gây
nên những sự tàn phá và những sự ghê tởm không tả xiết. Hơn thế nữa, quý Ngài
mong muốn họ sống một đời sống an bình, hạnh phúc và vĩnh viễn thoát khỏi cơn
ác mộng về một trận chiến tranh cận đại.
Chúng tôi yêu cầu quý Ngài sớm phái đến chúng tôi
một số người để họ có thể hiểu rõ hơn những gì mà chúng tôi đã gầy dựng nên.
Ðức THƯỢNG ÐẾ phán dạy chúng tôi như vầy: "Các
con, mối Ðạo của Thầy, nếu các con phát trễ một ngày, thì mỗi ngày qua sẽ là
dịp để cho hàng trăm ngàn linh hồn đọa lạc nơi chốn trầm luân".
Giờ đây, lời kêu gọi đã được truyền ra khắp chốn,
chúng tôi nghĩ rằng mình đã làm tròn bổn phận. Tuy nhiên khi nào có đủ phương
tiện, chúng tôi sẽ đi khắp hoàn cầu để truyền đến mỗi dân tộc lời Thánh Giáo
mới mẻ nầy.
Kính mong liệt vị chiếu cố và thể nhận nơi đây lòng
tôn kính sâu xa của chúng tôi.
Quyền
Giáo Tông
Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Bản chánh Pháp văn.
TÂY NINH, le 1er Décembre 1931.
À
Leurs Majestés les Empereurs et Rois, leurs Excellences
les
Chefs d'Etats, les Ministres de toutes les Religions
du
MONDE ENTIER
Sires,
Excellences,
Nous avons l'honneur de porter respectueusement à
votre haute connaissance que l'Être Suprême, DIEU tout Puissant, notre Père
Miséricordieux à tous, est venu sur un coin de la terre d'Annam (à Tâyninh -
Cochinchine - Indochine Francaise) pour créer une nouvelle Foi capable de
rénover le monde entier par un noble Idéal: "L'amour des créatures".
De par la volonté divine, les races se fraterniseront et la Paix Universelle
règnera.
La guerre, l'horrible guerre fratricide, horreurs
du XXè siècle, siècle soi-disant de Progrès, de Civilisation pourra bien être
évitée. Nous disons "Fratricide" car, quelle que soit la race dont
ils font partie, tous les Enfants de cette terre descendent d'un même Père,
c'est DIEU qui préside à leurs destinées. Ainsi lorsque les peuples se font la
guerre, c'est exactement comme des frères qui s'entre-tuent.
Nous avons recu de DIEU, Notre Père Miséricordieux
à tous, la Mission de propager sa sainte Doctrine à travers le Monde.
Nous avons eu de multiples preuves de sa venue sur
cette terre: de nombreux miracles se sont produits comme au Temps de la venue
du Christ, comme ceux de Lourdes et d'ailleurs. Fermement convaincus de
l'efficacité de la nouvelle Doctrine et forts de la pureté de nos intentions
nous avons présenté à l'Administration Coloniale Francaise un serment écrit
dont ci-inclus un exemplaire par lequel nous nous engageons, sous peine de
mort, à ne nous occuper que des questions religieuses et à ne pas troubler en
aucune facon l'ordre établi. En revanche, nous demandons de travailler, avec
l'aide et la protection de la France à la propagande de la Nouvelle Foi dans le
Monde entier.
Les représentants de l'Administration Coloniale ne
se sont pas montrés toujours bienveillants à notre égard, quelques-uns ont été
tolérants mais d'autres ont fait leur possible pour empêcher cette propagande.
DIEU est venu nous dire de répandre sa sainte
Doctrine à travers le Monde; nous ne saurons donc pas faillir à notre Mission.
Aussi nous nous faisons un impérieux devoir de venir respectueusement, Sires,
Excellences, porter ce fait à la connaissance de l'Humanité entière, afin que
tout le monde sache que l'heure de l'Amnistie divine approche, que le
rassemblement des enfants du Créateur doivent se faire pour que la Paix tant recherchée
règne dans tout l'Univers.
Il suffira pour cela que les hommes savent aimer
leurs semblables et pratiquer la vertu dans le chemin tracé par DIEU.
Nous sommes certains que, plus que quiconque,
Sires, Excellences, vous voulez que vos sujets dont la destinée est entre vos
mains, ne vivent plus dans la crainte perpétuelle d'une guerre future, avec les
horreurs, les ravages que causeront d'engins meurtriers de tout dernier
perfectionnement. Mieux vous souhaiterez pour eux une vie paisible, heureuse, toute
de vertus, et qu'ils soient délivrés à jamais du terrible cauchemar qu'est la
guerre moderne.
Nous vous demandons d'envoyer le plutôt possible
vers nous un certain nombre d'entr'eux pourqu'ils puissent se rendre compte de
ce que nous avons avancé.
DIEU a dit ceci: "Mes Enfants, si vous tardez
à répandre ma Sainte Doctrine, chaque jour de retard occasionnera la perdition
des centaines de milliers d'âmes".
Le cri d'appel étant lancé, nous pensons avoir fait
notre devoir.
Dès que nos moyens nous le permettront, nous
parcourerons le Monde, apportant à chaque Peuple la Nouvelle Évangile.
Daignez agréer, Sires, Excellences, l'hommage de
notre profond respect.
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Monsieur LÊ VĂN TRUNG,
Annamite, Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de
l'Indochine;
Chef de la Religion "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové
à TÂY NINH - COCHINCHINE - FRANCAISE.
Lời tường thuật của Báo chí và
Thư của Ðức Thánh Cha Nhà Thờ GNOSTIQUE ALLEMAGNE
Bản chánh Pháp văn
1 . Báo chí
EN ALLEMAGNE.
Au cours de l'année 1931, dans les premiers mois plusieurs voyageurs
allemands ont visité le phalanstère de Tâyninh, se sont intéressés à la Secte,
ont pris des notes et des photos, et sont repartis par le bateau qui avail
escalé trois jours à Saigon. On ne les a plus revus, mais le numéro du 21 Juin
1931 du Berliner Illustrierte Zeitung parvenait au Saint-Siège. Il contenait un
article avec photographies de Tâyninh, signé W. BOSSARD sur "la plus étrange secte du monde".
Enfin, en Novembre 1931, nouveau document d'Allemagne (ciaprès), en réponse
à l'envoi d'une brochure sur le Bouddhisme Rénové fait par LE VAN TRUNG.
2 . Thư của Ðức Thánh Cha Nhà Thờ GNOSTIQUE
ALLEMAGNE
ÉGLISE GNOSTIQUE D'ALLEMAGNE
P . Futlingen, den 13 Novembre 1931.
Altesse éminentissime!
Très grand, très puissant et très excellent prince!
Sérénissime Seigneur!
Très Saint-Père!
Votre message a atteint l'Europe Centrale! Le Synode Général de l'Église
Gnostique d'Allemagne dont je suis le patriarche, a résolu de préparer son
union avec le Caodaisme ...
On m'a chargé de vous faire savoir cette résolution et de vous prier pour
des informations sur l'histoire, la constitution, la doctrine et les rites de
votre religion Universelle en Francais, Anglais ou Hollandais, afin que le
message du Caodaisme puisse se servir de notre organisation ecclésiastique dans
les pays des Allemands, Autrichiens, Suisses, Hollandais, Belges, Lithuaniens,
Lettens et Esthéniens.
En comptant sur la réalisation de ce désir, je suis votre très humble
serviteur.
m.p.
Signé: GODWIN
30330960
Souverain-pontife et
Patriarche de l'Eglise Gnostique d'Allemagne.
Grand Maitre de l'Ordre des Chevaliers de la rose mystique.
Adr: H. GODWIN Stuermer, Tuets (Grenzmard) ALLEMAGNE.
Bản phiên dịch Việt văn.
1 . Báo chí
VỚI ÐỨC QUỐC.
Vào những tháng đầu năm 1931, nhiều du khách người Ðức đến viếng Tòa Thánh
Tây Ninh, lưu tâm đến Giáo phái này, đã
ghi chép, chụp nhiều hình ảnh; rồi quay về hải thuyền, cập bến Saigon ba hôm.
Người
ta không còn gặp lại họ nữa, nhưng số báo
BERLINER ILLUSTRIERTE ZEITUNG ra ngày 21-6-1931 đã được gởi đến Hội Thánh. Trong đó, có một bài mang nhan đề "Giáo Phái
Mới Lạ Nhứt Của Thế Giới" do W. BOSSARD viết, kèm theo nhiều hình ảnh của
Tây Ninh.
Sau cùng, đến tháng 11 năm 1931, là văn kiện mới, từ Ðức gởi sang (kèm sau
đây), để đáp lại một quyển sách nói về "Phật Giáo Chấn Hưng" do ông
LÊ VĂN TRUNG gởi cho họ.
2 . Thư của Ðức Thánh Cha Nhà Thờ
GNOSTIQUE ALLEMAGNE
ÉGLISE GNOSTIQUE CỦA ÐỨC QUỐC
P . Futlingen, ngày 13 tháng 11 năm 1931.
Kính thưa Ðức Ngài,
Cao cả, Quyền năng và Thánh thiện.
Thưa Ðức Ngài,
Bức thông điệp của Ðức Ngài đã tới vùng Trung Âu chúng tôi!
Tổng Giáo Hội Église Gnostique Ðức Quốc, mà tôi là Trưởng Lão quyết định chuẩn bị liên hợp với Cao Ðài
Giáo...
Tôi được lãnh nhiệm vụ báo tin cho Ðức Ngài biết sự quyết định này và kính
xin Ðức Ngài thông truyền cho chúng tôi về Lịch sử, Hiến chương, Giáo lý và những Nghi lễ nền Ðại Ðạo của Ngài bằng
tiếng Pháp, tiếng Anh, hoặc tiếng Hòa Lan; để nhờ đó, chúng tôi có thể tổ chức
các Giáo Hội Cao Ðài ở những quốc gia như Ðức,
Áo, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Bỉ, Lithuaniens, Lettens và Esthéniens.
Ðể vững tin vào sự thật hiện điều mong ước đó, xin Ðức Ngài hãy xem tôi như người thuộc hạ
khiêm tốn của Ðức Ngài vậy.
Ký tên: GODWIN
Thánh Cha và Trưởng Lão cũa Giáo Hội Église
Gnostique Ðức Quốc.
Grand Maitre de l'Ordre des Chevaliers de la rose mystique.
Adr: H. GODWIN STUERMER, Tuels (Grenzmard) Ðức Quốc (ALLEMAGNE).
Phụ ghi: Riêng các bản Pháp văn, vì thiếu kỹ thuật nên chúng
tôi không thể in đúng một số từ của Pháp chẳng hạn như: Francaise, recu, facon,
Maitre , Aout ... xin quí Ðạo huynh thứ cho.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét