
Kinh Đưa Linh Cữu (1)
(Giọng
Nam-Ai)
Cầu các Trấn
Thần linh trợ lịnh,
Giữ chơn-hồn
xa lánh xác trần.
Nam-Mô
Địa-Tạng thi ân,
Đưa đường
Thiên-cảnh, lánh gần Phong-Đô.
Nam-Mô Tam-Trấn
hư-vô,
Oai-nghiêm
độ rỗi Cao-Đồ qui-nguyên.
Nam-Mô
Tam-Giáo diệu-huyền,
Tuyệt luân
Bát-Nhã đưa thuyền độ vong.
Thần, Tiên,
Thánh, Phật mở vòng trái oan.
Nam-Mô Thượng-Đế
Ngọc-Hoàng,
Mở cơ tận độ
nhẹ-nhàng chơn-linh.
Cửa Cực-Lạc thinh
thinh rộng mở,
Tòa sen báu
vật xin đưa,
Chơn-linh an
ngự cho vừa quả duyên.
Nam-Mô
Cao-Đài . . . (Niệm 3 lần)
NGUYỆT-TÂM
CHƠN-NHƠN
(1) Đồng-nhi tụng tới chừng hạ-huyệt mới thôi.
*
* *
Kinh Hạ Huyệt
(Giọng Nam-Ai)
Thức giấc mộng
huỳnh-lương vừa mãn,
Tiếng phồn-ba hết
thoáng bên tai.
Giải thi lánh chốn
đọa-đày,
Chơn linh trong sạch
ra ngoài Càn-Khôn.
Phép giải-oan độ
hồn khỏi tội,
Phướn tiêu-diêu
nắm mối trường-sanh.
Ơn nhờ hồng-phước
Chí-Linh,
Lôi-Âm tự-toại,
Bồng-Dinh hưởng nhàn.
Nhờ Hậu-Thổ xương
tàn gìn-giữ,
Nghĩa CHÍ-TÔN tha
thứ tiền-khiên.
Đưa tay vịn phép
diệu-huyền,
Ngọc-Hư lập vị cửu
tuyền lánh chơn.
Ngó Cực Lạc theo
huờn Xá-lợi,
Cửu-Trùng-Thiên mở
lối qui-nguyên.
Rõ-ràng Phật cốt
tiền duyên, [1]
Nước Cam-Lồ rửa
sạch thuyền độ nhân.
(tụng 3 lần)
THƯỜNG CƯ NAM-HẢI
QUAN-ÂM NHƯ-LAI
(Tụng kinh nầy rồi tụng
tiếp Chú Vãng-Sanh)
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ......
[1] - Rỡ ràng Rõ-ràng Phật
cốt Tiên duyên tiền duyên,
Nước Cam-Lồ rửa sạch
thuyền độ nhân.
*
* *
Vãng Sanh Thần Chú
Nam-mô A-Di-Đa Bà Dạ, Đa
Tha Dà Đa Dạ Đa Điệt Dạ Tha, A-Di Rị-Đô Bà-Tì, A-Di Rị-Đa Tất Đam Bà-Tì, A-Di
Rị-Đa, Tì-Ca Lan-Đế, A-Di Rị-Đa Tì-Ca-Lan-Đa, Dà Di-Nị-Dà Dà-Na Chỉ-Đa Ca-Lệ
Ta-Bà-Ha (3 lần).
Rồi niệm câu chú:
Nam-Mô Cao-Đài
Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
*
* *
Kinh Khai Cửu
Đại Tường và
Tiểu-Tường
(Giọng Nam-Xuân)
Đã quá chín tầng
Trời đến vị,
Thần đặng an, Tinh, Khí cũng an.
Tầng Trời gắng bước lên thang,
Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.
Cõi thảm khổ đã
vừa qua khỏi.
Quên trần-ai mong
mỏi Động-Đào.
Ngó chi khổ-hải
sóng xao,
Đoạn tình yểm dục
đặng vào cõi thiên.
Giọt lụy của
Cửu-huyền dầu đổ,
Chớ đau lòng thuận
nợ trầm-luân.
Nắm cây huệ-kiếm
gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ
trần từ đây. (1)
THƯỜNG-CƯ NAM-HẢI
QUAN-ÂM NHƯ-LAI
(1) Mỗi tuần cửu phải tụng bài kinh nầy trước
rồi tiếp tụng bài Nhứt Cửu hay Nhị Cửu v.v..., hoặc Tiểu-Tường hay Đại-Tường
(tụng 3 lần như vậy)
*
* *
Kinh Đệ Nhứt Cửu
(Giọng Nam-xuân)
Vườn Ngạn-Uyển
sanh hoa đã héo,
Khối hình-hài đã
chịu rã tan.
Bảy dây oan-nghiệt
hết ràng,
Bợn trần rửa sạch
muôn ngàn đau thương.
Kìa Thiên-cảnh con
đường vòi-vọi,
Ánh Hồng-Quân
đương chói Ngọc-Lầu.
Cung Thiềm
gắng bước cho mau,
Thoát ba
Thần phẩm đứng đầu Tam-Thiên.
Khá tỉnh
thức tiền-duyên nhớ lại,
Đoạn cho rồi
oan-trái buổi sanh.
Đem mình nương bóng
Chí-Linh,
Định tâm chí Thánh
mới gìn ngôi xưa.
Hồn định tỉnh đã
vừa định tỉnh,
Phách
anh-linh ắt phải anh-linh.
Quản bao
thập ác lục hình,
Giải thi
thoát khổ diệt hình đoạn căn. [1]
Nam-Mô
Cao-Đài . . . (Niệm 3 lần)
NHỨT-NƯƠNG DIÊU-TRÌ-CUNG
Kinh Thiên
Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
[1] - Giải
thi thoát khổ diệt hình đoạt đoạn căn.
........
KINH ĐỆ NHỊ CỬU
(Giọng
Nam-Xuân)
Tây-Vương-Mẫu
vườn Đào ướm chín,
Chén trường-sanh
có lịnh ngự ban.
Tiệc hồng đã dọn
sẵn-sàng,
Chơn-Thần khá đến
hội hàng chư-linh.
Đã thấy đủ
Thiên-đình huyền pháp,
Cổi giác thân lên
đạp Ngân-Kiều.
Đẩu-Tinh chiếu
thấu Nguyên-Tiêu,
Kim-Quang kiệu đỡ
đến triều Ngọc-Hư.
Khí trong trẻo
dường như băng tuyết,
Thần im-đìm dường
nét thiều-quang.
Xa chừng thế-giái
Địa-hoàn,
Cõi Thiên đẹp thấy
nhẹ-nhàng cao thăng.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
NHỊ-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
KINH ĐỆ TAM CỬU
(Giọng Nam-Xuân)
Cõi Thanh-Thiên
lên miền Bồng-Đảo,
Động Thiên-Thai
bảy lão đón đường.
Cam-Lồ rưới giọt
nhành dương,
Thất tình lục-dục
như dường tiêu-tan.
Cung Đẩu-Tốt (1)
nhặt khoan tiếng nhạc,
Đệ lịnh bài cánh
hạc đưa linh.
Tiêu thiều lấp
tiếng dục-tình,
Bờ dương bóng
phụng đưa mình nâng thân.
Cung Như-Ý
Lão-Quân tiếp khách,
Hội Thánh-minh
giao sách Trường-xuân.
Thanh quang rỡ rỡ
đòi ngàn,
Chơn hồn khoái-lạc
lên đàng vọng Thiên.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
TAM-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
CHÁNH VĂN Cung Đẩu-Suất
KINH ĐỆ TỨ CỬU
(Giọng Nam-Xuân)
Sắc huỳnh chiếu
roi vàng đường hạc,
Cõi Huỳnh-Thiên
nhẹ thoát chơn Tiên.
Năm Rồng đỡ nổi
đầu thuyền,
Vào cung Tuyệt-khổ
kiến Huyền-Thiên-Quân.
Trừ quái khí roi
thần chớp-nhoáng,
Bộ Lôi-Công giải
tán trược-quang.
Cửa lầu Bát-Quái
chun ngang,
Hỏa-Tinh Tam-muội
thiêu tàn oan-gia.
Đạp Thái-Sơn nhảy
qua Đẩu-Suất,
Định Kim-Câu đến
chực Thiên-môn. [1]
Chơn-thần đã nhập
Càn-khôn,
Thâu quyền độ thế
bảo-tồn chúng-sanh.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
TỨ-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
Đạp Thái-Sơn nhảy qua
Đẩu-Suất,
[1] - Vịn Định Kim-Câu đến chực Thiên-môn.
... ... ...
KINH ĐỆ NGŨ CỬU
(Giọng Nam-Xuân)
Ánh hồng chiếu
đường mây rỡ rỡ,
Cõi Xích-Thiên vội
mở ải-quan.
Thiên-Quân diêu
động linh-phan,
Cả miền Thánh-vức
nhộn-nhàng tiếp nghinh.
Đài Chiếu-giám
cảnh minh nhẹ bước,
Xem rõ-ràng tội
phước căn sinh.
Lần vào cung Ngọc
diệt hình,
Khai kinh Vô-Tự
đặng nhìn quả duyên.
Đắc văn-sách thông
Thiên định Địa,
Phép huyền-công
trụ nghĩa hóa thân.
Kỵ kim-quang kiến
Lão-Quân,
Dựa xe Như-Ý oai
thần tiễn thăng.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
NGŨ-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
KINH ĐỆ LỤC CỬU
(Giọng Nam-Xuân)
Bạch-Y-Quan mở
đàng rước khách,
Cõi Kim-Thiên nhẹ
tách Tiên xa.
Vào cung Vạn-Pháp
xem qua,
Cho tường cựu
nghiệp mấy tòa thiên-nhiên.
Cung Lập-khuyết
tìm duyên định ngự,
Lãnh Kim-sa đặng
dự Như-Lai.
Minh-Vương
Khổng-Tước cao bay,
Đem chơn-thần đến
tận đài Huệ-Hương.
Mùi ngào ngọt thơm
luôn Thánh-thể, [1]
Trừ tiêu tàn ô-uế
sinh-quang.
Thiên thiều trổi
tiếng nhặt khoan,
Đưa linh thẳng đến
Niết-Bàn mới thôi.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
LỤC-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
.........
[1] - Mùi ngào ngạt ngọt thơm luôn Thánh-thể,
Trừ tiêu tàn ô-uế
sinh-quang.
.........
KINH ĐỆ THẤT CỬU
(Giọng Nam-Xuân)
Nhẹ phơi-phới
dồi-dào không-khí, [1]
Hạo-Nhiên-Thiên đã
chí môn-quan.
Đẹp xinh cảnh vật
đòi ngàn,
Hào-quang chiếu
diệu khai đàng thăng Thiên.
Cung Chưởng-Pháp
xây quyền Tạo-hóa,
Kiến Chuẩn-Đề
thạch-xá giải thi.
Dà-Lam dẫn nẻo Tây-Qui,
Kim chung mở lối
kịp kỳ kỵ sen.
Động Phổ-Hiền Thần
Tiên hội hiệp,
Dở Kim-Cô đưa tiếp
linh-quang.
Im-lìm kìa cõi
Niết-Bàn,
Lôi-Âm trống thúc
lên đàng thượng Thiên. [2]
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
THẤT-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
[1] - Nhẹ phơ-phới phơi-phới dồi-dào không-khí,
Hạo-Nhiên-Thiên đã chí
môn-quan.
... ... ...
Im-lìm kìa cõi Niết-Bàn,
[2] - Lôi-Âm trống thúc
lên đàng Thượng Tiêu thượng Thiên.
KINH ĐỆ BÁT CỬU
(Giọng Nam-Xuân)
Hơi Tiên-tửu
nực-nồng thơm ngọt,
Phi Tưởng-Thiên để
gót tới nơi.
Mùi trần khi đã xa
khơi,
Say sưa bầu khí
bồi-hồi chung phong.
Cung Tận-Thức
thần-thông biến hóa,
Phổ-Đà-Sơn giải
quả Từ-Hàng.
Cỡi Kim-Hẩu đến
Tịch-San,
Đẩu-vân nương phép
Niết-Bàn đến xem.
Cung Diệt-Bửu ngọc
rèm đã xủ,
Nghiệp hữu-hình
tượng đủ vô-vi.
Hồ Tiên vội rót
tức thì,
Nước Cam-Lồ rửa ai
bi kiếp người.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
BÁT-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
KINH ĐỆ CỬU CỬU
(Giọng Nam-Xuân)
Vùng thoại-khí bát
hồn vận-chuyển,
Tạo-Hóa-Thiên sanh
biến vô cùng.
Hội Bàn-Đào
Diêu-Trì-Cung,
Phục sinh đào hạnh
rượu hồng thưởng ban.
Cung Bắc-Đẩu xem
căn quả số,
Học triều-nghi vào
ở Linh-Tiêu.
Ngọc-Hư-Cung, sắc
lịnh kêu,
Thưởng, phong,
trừng trị, phân điều đọa thăng.
CỬU-NƯƠNG
DIÊU-TRÌ-CUNG
Nơi Kim-Bồn
vàn-vàn nguơn chất,
Tạo hình-hài các
bậc nguyên nhân.
Cung Trí-Giác, trụ
tinh thần,
Huờn hư mầu-nhiệm
thoát trần đăng Tiên.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU
*
* *
Kinh Tiểu-Tường
(200 ngày) [1]
(Giọng Nam-Xuân)
Tịnh niệm phép
Nhiên-Đăng tưởng tín,
Hư-Vô-Thiên đến
thính Phật-điều.
Ngọc-Hư đại hội
ngự triều,
Thiều quang nhị bá
Thiên-Kiều để chơn.
Bồ-Đề-Dạ dẫn hồn
thượng tấn,
Cực-Lạc-Quan đẹp
phận Tây-Qui.
Vào Lôi-Âm, kiến
A-Di,
Bộ Công Di-Lặc
Tam-Kỳ độ sanh.
Ao Thất-Bửu gội mình
sạch tục,
Ngôi liên-đài quả
phúc Dà-Lam.
Vạn-Linh trổi
tiếng mầng thầm,
Thiên-thơ Phật tạo
độ phàm giải căn.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU
[1] - Nghĩa là khi
làm tuần cửu cửu rồi, đếm đủ 200 ngày thì làm Tiểu-Tường
*
* *
Kinh Đại Tường
(300 ngày) [1]
(Giọng Nam-Xuân)
Hỗn-Nguơn-Thiên
dưới quyền Giáo-chủ,
Di-Lặc đương thâu
thủ phổ duyên.
Tái sanh sửa đổi
chơn-truyền,
Khai cơ tận độ
cửu-tuyền diệt vong.
Hội Long-Hoa tuyển
phong Phật vị,
Cõi Tây-phang đuổi
quỉ trừ ma.
Giáng linh Hộ-Pháp
Di-Đà,
Chuyển cây Ma-Xử
đuổi tà trục tinh.
Thâu các Đạo
hữu-hình làm một,
Trường thi Tiên,
Phật dượt kiếp khiên.
Tạo Đời cải dữ ra
hiền,
Bảo-sanh nắm giữ
diệu huyền CHÍ-TÔN.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
THÍCH-CA MÂU-NI
VĂN-PHẬT
[1] Nghĩa là khi làm
Tiểu-Tường rồi, đếm đủ 300 ngày thì làm Đại-Tường.
*
* *
Di - Lặc Chơn Kinh
BÀI KHAI KINH
(Giọng
Nam-Xuân)
KHAI
KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp
nan tao ngộ.
Ngã kim thính văn
đắc thọ trì,
Nguyện giải
Tân-kinh chơn thiệt nghĩa.
THÍCH-CA MÂU-NI
VĂN PHẬT thuyết
DI-LẶC CHƠN KINH
Thượng Thiên Hỗn-nguơn
hữu: Brahma Phật, Çiva Phật, Christna Phật, Thanh-Tịnh Trí Phật, Diệu Minh-Lý
Phật, Phục-Tưởng Thị Phật, Diệt-Thể Thắng Phật, Phục-Linh Tánh Phật, nhứt thiết
chư Phật, hữu giác, hữu cảm, hữu sanh, hữu tử, tri khổ nghiệp-chướng
luân-chuyển hóa sanh, năng du ta bà thế-giái độ tận Vạn-Linh đắc qui Phật-vị.
Hội Nguơn-Thiên hữu:
Trụ-Thiện Phật, Đa-Ái Sanh Phật, Giải-Thoát Khổ Phật, Diệu-Chơn-Hành Phật,
Thắng-Giái-Ác Phật, nhứt thiết chư Phật tùng lịnh DI-LẶC-VƯƠNG PHẬT, năng chiếu
diệu-quang tiêu trừ nghiệt chướng.
Nhược hữu chúng-sanh văn
ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng thị Pháp-điều
Tam-Kỳ Phổ-Độ, tất đắc giải-thoát luân hồi, đắc-lộ Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề thị
chi chứng quả Cực-Lạc Niết-Bàn.
Nhược nhơn đương sanh,
nhược nhơn vị sanh nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp, nhược nhơn hữu tội,
nhược nhơn vô tội, nhược nhơn hữu niệm, nhược nhơn vô niệm, thính đắc ngã ngôn,
phát tâm thiện niệm, tất đắc A-Nậu Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề tất đắc giải thoát.
Nhược hữu nhơn thọ-trì
khủng kinh ma-chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam-mô DI-LẶC VƯƠNG BỒ-TÁT, năng cứu
khổ ách, năng cứu tam-tai, năng cứu tật-bịnh, năng độ-dẫn chúng sanh thoát chư
nghiệt-chướng tất đắc giải-thoát.
Hư-Vô Cao-Thiên hữu:
Tiếp-Dẫn Phật, Phổ-Tế Phật, Tây-Qui Phật, Tuyển-Kinh Phật, Tế-Pháp Phật,
Chiếu-Duyên Phật, Phong-Vị Phật, Hội-Chơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư
Phật tùng lịnh NHIÊN-ĐĂNG CỔ-PHẬT, dẫn-độ CHƠN-LINH đắc Pháp, đắc Phật, đắc
duyên, đắc vị, đắc A-NẬU ĐA-LA TAM-DIỆU TAM-BỒ-ĐỀ chứng quả nhập CỰC-LẠC Quốc,
hiệp chúng đẳng chư Phật tạo-định Thiên-Thi tận-độ Chúng Sanh đắc qui Phật-vị.
Nhược hữu thiện nam-tử,
thiện nữ-nhân tu trì thính ngã dục đắc Chơn-Truyền niệm thử NHIÊN-ĐĂNG CỔ-PHẬT
thường du ta bà Thế Giái, giáo-hóa Chơn-Truyền phổ tế Chúng Sanh giải-thoát
lục-dục thất tình thoát đọa luân hồi tất đắc giải-thoát.
Tạo-Hóa Huyền-Thiên hữu:
Quảng-Sanh Phật, Dưỡng-Dục Phật, Chưởng-Hậu Phật, Thủ-Luân Phật, dữ Cữu-vị Nữ
Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh KIM-BÀN PHẬT-MẪU năng tạo,
năng hóa VẠN-LINH, năng du ta bà thế-giái dưỡng-dục quần sanh qui nguyên
Phật-vị.
Nhược hữu thiện nam-tử,
thiện nữ-nhân thính ngã dục tu phát nguyện: Nam-mô KIM-BÀN PHẬT-MẪU dưỡng-dục
quần linh, nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược
hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, hườn hư thi hình đắc
A-NẬU ĐA-LA Tam-Diệu Tam Bồ-Đề Xá-Lợi-Tử qui-nguyên Phật-vị tất đắc giải-thoát.
Phi-Tưởng Diệu-Thiên hữu:
Đa-Pháp Phật, Tịnh-Thiện-Giáo Phật, Kiến-Thăng Vị Phật, Hiển-Hóa-Sanh Phật,
Trục Tà-Tinh Phật, Luyện-Đắc Pháp Phật, Hộ-Trì Niệm Phật, Khai-Huyền-Cơ Phật,
Hoán-Trược-Tánh Phật, Đa Phúc-Đức Phật, như thị đẳng hằng-hà sa số chư Phật, tùng
lịnh TỪ-HÀNG BỒ-TÁT, năng du Ta-Bà Thế-Giái thi pháp hộ-trì Vạn-Linh
Sanh-Chúng.
Nhược hữu thiện nam-tử,
thiện nữ-nhân tín ngã ưng đương phát nguyện Nam-mô TỪ-HÀNG BỒ-TÁT, năng cứu tật
bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận Chúng-Sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma,
năng trừ nghiệt-chướng, tất đắc giải-thoát.
Hạo-Nhiên Pháp Thiên hữu:
Diệt-Tướng Phật, Đệ-Pháp Phật, Diệt-Oan Phật, Sát-Quái Phật, Định-Quả Phật,
Thành-Tâm Phật, Diệt-Khổ Phật, Kiên-Trì Phật, Cứu-Khổ Phật, Xá-Tội Phật,
Giải-Thể Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh CHUẨN-ĐỀ BỒ-TÁT,
PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT thường du ta-bà thế-giái độ-tận Vạn-linh.
Nhược hữu thiện nam-tử,
thiện nữ-nhân tín ngã ưng đương phát nguyện Nam-mô CHUẨN-ĐỀ BỒ-TÁT, PHỔ-HIỀN
BỒ-TÁT, năng trừ ma-chướng quỉ tai, năng cứu khổ-ách nghiệt-chướng, năng độ
chúng sanh qui ư Cực-Lạc, tất đắc giải thoát. (1)
(1) Tụng đến đây rồi niệm
danh chư Phật, hễ niệm danh mỗi vị lạy 1 lạy.
Nam-Mô - DI-LẶC
VƯƠNG PHẬT
- Brahma Phật
- Civa Phật
- Christna Phật
- Thanh-Tịnh Trí Phật
- Diệu-Minh-Lý Phật
- Phục-Tưởng Thị Phật
- Diệt-Thể Thắng Phật
- Phục-Linh Tánh Phật
- Trụ-Thiện Phật
- Đa-Ái-Sanh Phật
- Giải-Thoát Khổ Phật
- Diệu-Chơn Hành Phật
- Thắng-Giái Ác Phật
Nam-Mô - NHIÊN-ĐĂNG
CỔ-PHẬT
- Tiếp-Dẫn Phật
- Phổ-Tế Phật
- Tây-Qui Phật
- Tuyển-Kinh Phật
- Tế-Pháp Phật
- Chiếu-Duyên Phật
- Phong-Vị Phật
- Hội-Chơn Phật
Nam-Mô - KIM-BÀN PHẬT-MẪU
- Quảng-Sanh Phật
- Dưỡng-Dục Phật
- Chưởng-Hậu Phật
- Thủ-Luân Phật
- Cửu Vị Nữ Phật
Nam-Mô - TỪ-HÀNG BỒ-TÁT
- Đa-Pháp Phật
- Tịnh-Thiện-Giáo
Phật
- Kiến-Thăng Vị Phật
- Hiển-Hóa Sanh Phật
- Trục-Tà-Tinh Phật
- Luyện-Đắc-Pháp Phật
- Hộ-Trì Niệm Phật
- Khai-Huyền-Cơ Phật
- Hoán-Trược-Tánh Phật
- Đa-Phúc-Đức Phật
Nam-Mô - CHUẨN-ĐỀ
BỒ-TÁT
- PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT
- Diệt-Tướng Phật
- Đệ-Pháp Phật
- Diệt-Oan Phật
- Sát-Quái Phật
- Định-Quả Phật
- Thành-Tâm Phật
- Diệt-Khổ Phật
- Kiên-Trì Phật
- Cứu-Khổ Phật
- Xá-Tội Phật
- Giải-Thể Phật [1]
(1) Tụng đến đây, niệm câu
chú của Thầy (3 lần và lạy 12 lạy)
*
* *
Kinh Sám Hối
(Giọng
Nam-Xuân)
(1) Kinh nầy
tụng ngày Sóc Vọng, còn ngày thường lỡ có lầm-lỗi điều chi, phải tụng mà xin tội.
Cuộc danh lợi là
phần thưởng quí,
Đấng Hóa-Công xét
kỹ ban ơn.
Lòng đừng so
thiệt tính hơn,
Ngày đêm
than thở dạ hờn ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần
luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng
khác như mây,
Khi tan khi hiệp
đổi xây không thường.
Việc sanh tử như
đường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày
tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch
linh hồn,
Rèn lòng sửa nết
đức tồn hậu lai.
Điều họa phước
không hay tìm tới,
Tại mình dời nên
mới theo mình.
Cũng như bóng nọ
tùy hình,
Dữ lành hai lẽ
công bình thưởng răn.
Khi vận thới
lung-lăng chẳng kể,
Lúc suy-vi bày lễ
khẩn-cầu.
Sao bằng ở phải
buổi đầu,
Thần-minh
chánh-trực có đâu tư vì.
Người làm phước có
khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng
mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.
Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền.
Đó là báo-ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng
hao mòn thân-thể,
Ham làm giàu
của để bằng non.
Một mai nhắm
mắt đâu còn.
Đem vàng
chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.
Trên đầu có
bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem
người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành
đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng
nham hiểm lộc quyền giảm thâu.
Đừng tính kế
độc sâu trong dạ,
Mà gổ-ganh
oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác
mối tơ,
Rối rồi không gỡ
bao giờ cho ra.
Thấy hình khổ dạ
ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành
trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết
ăn-năn,
Ở cho nhân hậu chế
răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già
thương khó,
Chớ đem lòng lấp
ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ
tật nguyền,
Đỡ nâng yếu thế
binh quyền mồ côi.
Làm con phải
trau-giồi hiếu-đạo,
Trước là lo trả
thảo mẹ cha.
Lòng thành thương
tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội
mới là tu mi.
Giá trong sạch
nữ-nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn
trinh-liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận
đạo dâu,
Thờ chồng tiết
hạnh mới hầu gái ngoan.
Đừng có cậy giàu
sang chẳng nể,
Không kiên chồng
khi dể công-cô.
Ấy là những gái
hung-đồ,
Xúi chồng
tranh-cạnh hồ-đồ sân-si.
Tánh ngoan-ngạnh
không vì cô bác,
Thói lăng-loàn bạn
tác khinh-khi.
Ngày sau đọa chốn
Âm-Ty,
Gông kềm khảo kẹp
ích gì rên la.
Người tai mắt đạo
nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử
thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả
giềng ba,
Kính anh mến chị
thì là phận em.
Trên thương dưới
xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ
tránh xa.
Cũng là một gốc
sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ
ruột-rà thương nhau.
Người trung-trực
lo âu nợ nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc
tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ
đừng toan kế tà.
Phận làm tớ thật-thà
trung-tín,
Với chủ nhà trọn
kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng
ngày,
Của người châu cấp
ơn dày nghĩa sâu.
Đừng gặp việc
câu-mâu biếng nhác,
Mà quên lời
phú-thác dặn dò.
Trước người giả bộ
siêng lo,
Sau lưng gian-trá
so-đo tấc lòng,
Phải chừa
thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi
khỉ dạo dòm nhà,
Gìn lòng
ngay thẳng thật-thà,
Nói năng
minh chánh lời ra phải nhìn.
Chớ quyệt
ngữ mà khinh kẻ dại
Đừng gian
mưu hãm-hại người hiền.
Anh em bằng-hữu
kết nguyền,
Một lòng tin cậy
phải kiêng phải vì.
Chẳng thấy khó mà
khi mà thị,
Gặp người giàu mà
vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc
gian-truân,
Cũng đồng giúp ích
chớ đừng mặt ngơ.
Làm người phải
kỉnh thờ Thần, Thánh,
Giữ lời nguyền
tâm-tánh tưởng tin.
Hễ là niệm Phật
tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết
khá in như nguyền.
Chừa thói xấu
đảo-điên trong dạ,
Muôn việc chi
chẳng khá sai lời.
Dối người nào khác
dối Trời,
Trời đâu dám dối
ra đời ngỗ-ngang.
Chớ lầm tưởng
trong hang vắng tiếng,
Mà dể-duôi sanh
biến lăng-loàn.
Con người có trí
khôn-ngoan,
Tánh linh hơn vật
biết đàng lễ nghi.
Phải cho biết kỉnh
vì trên trước,
Đừng buông lời lấn
lướt hồ-đồ.
Thuận cùng chú bác
cậu cô,
Bà con chòm xóm ra
vô khiêm-nhường.
Thấy già yếu hẹp
đường nhượng tránh,
Đừng chỗ đông
buông tánh quá vui.
Cợt người ra dạ
dể-duôi,
Sanh điều
xích-mích đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn
chớ dể,
Việc quan, hôn,
thủ lễ nghiêm-trang.
Gìn lòng chẳng khá
lăng-loàn,
Lễ-nghi vẹn giữ
vững-vàng chớ quên.
Giàu sang ấy Ơn
Trên giúp sức,
Phước ấm no túc
thực túc y.
Thấy người gặp lúc
tai nguy,
Ra tay tế độ ấy
thì lòng nhơn.
Thương đồng loại
cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường
miểng bát, miểng chai.
Hoặc là đinh nhọn,
chông gai,
Mau tay lượm lấy
đoái hoài kẻ sau.
Ấy làm phước khỏi
hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn
vốn thâm tiền.
Bắc cầu đắp sửa
đường liền,
Kẻ qua người lại
bước yên gọn-gàng.
Thi ân hậu bạc
ngàn khó sánh,
Rán tập thành sửa
tánh từ hòa.
Việc lành chẳng
khá bỏ qua,
Tuy rằng nhỏ-nhít
cũng là công phu.
Năng làm phải,
nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính
đếm có dư.
Phước nhiều tội
quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng
phạt không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ
nghi chẳng hại,
Thường dạn làm tội
lại hằng-hà.
Vì chưng tựu thiểu
thành đa,
Họa tai báo ứng
chẳng qua mảy hào.
Giữa bụi thế giữ
sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét
lấy sửa lòng.
Làm người
nhơn-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc
long-đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ
ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ
vội khoe ra.
Việc chi cũng có
chánh tà,
Làm điều phải
nghĩa lánh xa vạy-vò.
Khi gặp chuyện khá
dò xét cạn,
Liệu sức mình cho
hẳn sẽ làm.
Chớ đừng thấy của
dấy tham.
Giục người làm
quấy ắt cam đồng hình.
Ở ngay thẳng
Thần-minh bảo hộ,
Nết xéo-xiên gặp
chỗ rạt tù.
Trong đời rất hiếm
võ-phu,
Lường cân, tráo
đấu, dối tu cúng chùa.
Còn hoi-hóp tranh
đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi
thảy lợi danh.
Lương-tâm thường
xét cho rành,
Của không phải
nghĩa chớ sanh lòng tà.
Người quân-tử
chẳng thà chịu khổ,
Đâu làm điều nhục
tổ hổ tông.
Đứa ngu thấy của
thì mong,
Không gìn tội-lỗi
phép công nước nhà.
Bày chước độc, xúi
ra việc quấy,
Tổn cho người mà
lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động
đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy không
kiêng chút nào.
Người nghèo khổ
biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy
thế ỷ quyền.
Làm quan tính kế
đảo điên,
Gạt thâu gia sản,
đất điền của dân.
Thả tôi-tớ thôn
lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép
thiếp đòi hầu.
Trong lòng mưu
chước rất sâu,
Mai sau suy sụp
đáo đầu ra chi.
Gái xướng-kỵ, trai
thì du-đãng,
Phá tan
hoang gia sản suy-vi.
Làm người phải khá xét
suy,
Của rơi chớ lượm,
tham thì phải thâm.
Còn một nỗi
gian-dâm đại tội,
Lấy vợ người làm
lỗi tiết-trinh.
Tuy là Trời Đất
rộng thinh,
Mắt dường sao nháy
chiếu minh lòng người.
Lương-tâm biết hổ
ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng
đội lông mang.
Việc lành, việc dữ
đồn vang,
Tuy là khuất bóng
xương tan tiếng còn. [1]
Gái tiết-hạnh giữ
tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả
gà đồng.
Làm điều nhục-nhã
tổ-tông,
Tiếng nhơ giặt rửa
biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu
sửa trau ba mối,
Đừng buông lung
lầm-lỗi năm hằng.
Hung-hoang tội báo
nghiệt căn,
Kẻ chê người thị
không bằng cỏ cây.
Thà tiết-kiệm hằng
ngày no đủ,
Tánh siêng-năng
lam-lụ làm ăn.
Lòng chừa biếng
nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí
không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời Đất
thương đều muôn vật,
Đức háo-sanh Tiên,
Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú
lao-xao,
Côn-trùng thảo-mộc
loài nào chẳng linh.
Nó cũng muốn như
mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt
giống dứt nòi.
Bền công kinh sách
xem coi,
Vô can sát
mạng thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế
gọi ngoan xảo-trá.
Lưới rập chim,
thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá
noãn lẫy-lừng,
Tội căn báo-ứng
biết chừng nào an.
Lại có kẻ
hung-hoang ác-nghiệt,
Cướp giựt rồi chém
giết mạng người,
Đoàn năm, lũ bảy
dạo chơi,
Hiếp người
lương-thiện, phá đời hại dân.
Tua khá tưởng
thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng
sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc
lận nhau,
Rủ ren rù quến,
lấy xâu ăn đầu.
Phải hiểu biết máy
sâu họa kín,
Thánh, Thần đâu tư
lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần
khắp xét tra,
Phạt người hung-ác
đọa sa A-Tỳ.
Sống dương-thế
hành thì căn bịnh,
Xui tai-nàn
dấp-dính theo mình.
Ăn-năn khử ám hồi
minh,
Từ-bi Trời Phật
rộng tình xét cho.
Đừng cố oán thầm
lo gây họa,
Đem lòng thù hăm
dọa rắp đường.
Đốt nhà, tháo
cống, phá mương,
Nước tràn lụt ngập
ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng
đặng toan đổ tội,
Cho người hiền
chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần
gian,
Hóa ra
ngạ-quỷ cơ-hàn khổ thân.
Đời nhiều kẻ khi
Thần thị Thánh,
Ám-muội lòng tánh
hạnh gỗ-ganh.
Thấy ai làm phải
làm lành,
Xiểm-gièm cho đặng
khoe danh của mình.
Lại còn có tánh
tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân
tộc ruột-rà.
Làm cho chồng vợ
lìa xa,
Cả đời nghiệt-báo
oan-gia chẳng rời.
Muốn tránh đặng
khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà chẳng
khá nên gần.
Thí tiền, thí bạc,
chẩn bần,
Người đau thí
thuốc, Thánh, Thần phước ban.
Đêm thanh vắng chớ
toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ
lầm-lỗi ngỗ-ngang.
Âm đài gông tróng
sẵn-sàng,
Chờ khi thác xuống
cổ mang hành hình.
Các thơ truyện huê
tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy
luân-thường.
Nói lời tục tĩu
không nhường,
Tội hành cắt lưỡi
trăm đường ghê thay!
Lại có kẻ miệng
ngay lòng vạy,
Tởi làm
chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xới
bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật
hành Diêm-vương.
Thêm những sãi giả
nương cửa Phật,
Của thập phương
châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc
Âm-Ty,
Thường thường khảo
kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt
rơi lượm lấy,
Đốt ra tro bỏ chảy
dòng sông.
Thủy-triều vận-tải
biển đông,
Lòng hằng dường ấy
phước đồng ăn chay.
Chịu cực khổ đắng
cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa,
gieo, cấy, gặt, đong,
Làm ra lúa gạo dày
công,
Dầm mưa dan nắng
kẻ nông nhọc-nhằn.
Nhờ Diêm-Đế đức
cao ân nặng,
Tìm lúa khoai
người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng
niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại
mới phòng khỏi hoang.
Chớ hiểm độc dạ
lang lần lựa,
Nhơn thất mùa bế
dựa gắt-gao.
Chờ khi lúa phát
giá cao,
Khai ra bán mắc
Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo
đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa
đạo với đời.
Túng cùng vay mượn
của người,
Vui lòng tính trả
vốn lời cho kham.
Chớ oán-chạ
tham-lam ngược-ngạo,
Bội nghĩa ân
trở-tráo chước sâu.
Luân-hồi thưởng
phạt rất mầu,
Chuyển thân tái
thế ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun
nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp
sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước
hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn
kẻ nghèo xiết than.
Làm mặt phải bạc
ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất
cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật
đồng thương,
Có đâu hưởng của
bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy
lời nhỏ-nhẹ,
Mà nghiêm-trừng
mấy kẻ tôi-đòi.
Đừng lòng nham
hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa
đòn roi không từ.
Tánh độc-ác tội dư
tích trữ,
Chốn Âm-Cung luật
xử nặng-nề.
Đánh đòn khảo kẹp
gớm-ghê,
Hành hình khổ-não
chẳng hề nới tay.
Miền âm-cảnh nhiều
thay hình lạ,
Cõi dương-trần tội
quá dẫy đầy.
Thánh-hiền Kinh
sách dạy bày,
Lòng người ám-muội
lỗi gây ra hoài.
Kẻ lỗ-mãng chê bai
khinh-dể,
Rằng thác rồi còn
kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả
tức thì,
Tội dư con cháu
một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng
luân-hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng
nghĩ chẳng suy.
Thi-hài như gỗ
biết gì,
Linh-hồn là chủ
thông tri việc đời.
Lúc chung mạng dứt
hơi, hồn xuất,
Quỉ vô-thường sẵn
chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn
Âm-Ty,
Xét xem công quả
chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra
vào thong-thả,
Kẻ tội nhiều
đày-đọa rất minh,
Phật, Trời phép lạ
hiển-linh,
Hành cho tan xác
huờn hình như xưa. [2]
Con bất hiếu xay
cưa đốt giã,
Mổ bụng ra
phanh rã tim gan.
Chuyển thân
trở lại trần gian,
Sanh làm
trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những
gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng
đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh-tiết
chẳng gìn,
Có chồng còn
lại ngoại tình với trai.
Kẻ tham lợi
cột mai cột mối,
Chuốt trau
lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ-dành, rù
quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu
con nhà người.
Lòng lang độc vui
cười hớn-hở,
Chốn Diêm-Đình
phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp
lăng-xăng,
Hành cho đáng kiếp
tội căn đã làm.
Ngục đao kiếm cầm
giam phạm ác,
Tánh gian-dâm hành
phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn
tư bề,
Chém đâm máu chảy
tràn-trề ngục môn.
Hành đến chết huờn
hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại
thanh-lâu.
Ngày đêm đưa rước
chực-chầu,
Công-bình
Thiên-Đạo phép mầu chí linh.
Móc nhọn vắt treo
mình nhỏng-nhảnh,
Cối đạp đồng rất
mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ
lường cân,
Đo gian, đong
thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang
xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm
lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ
dại ngây,
Khinh khi Tam-giáo
đọa-đày thế ni.
Ao nước nóng sôi
thì sục sục,
Dầm cho người
rã-rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô
lương,
Đệ huynh bất mục
chẳng thương đồng-bào.
Nhiều gộp núi như
đao chơm-chởm,
Thấy dùn mình táng
đỡm rất ghê,
Thây người máu
chảy dầm-dề,
Tiếng la than khóc
tư bề rùm tai.
Phạt những kẻ sửa
ngay ra vạy,
Tớ phản Thầy, tôi
lại bất trung. [3]
Hành rồi giam lại
Âm-Cung,
Ngày đêm đánh khảo
trăng cùm xiềng gông.
Hình Bào-Lạc cột
đồng vòi-vọi,
Đốt lửa hồng ánh
giọi chói lòa.
Trói người vào đó
xát chà,
Vì chưng hung-bạo
đốt nhà bắn săn.
Có cọp dữ nhăn
răng đưa vấu,
Gặp tội-nhơn
quào-quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ
chẳng ngay,
Giết người lấy của
bị nay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa
đầy huyết phẩn,
Xô người vào, lội
lặn nhờm thay!
Tanh hôi mình mẩy
vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống
gậy cây đánh đầu.
Để hành kẻ chứa
sâu, lường của,
Trù ếm người, chửi
rủa Tổ Tông.
Đồ dơ giặt đổ rạch
sông,
Đương khi uế trược
thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc chỗ
nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng
nể Tam Quang.
Buông lời tục tĩu
dâm loàn,
Lâu mau, nặng nhẹ,
chịu mang tội nầy.
Ao rộng sâu chứa
đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi
thường bữa lẫy-lừng.
Gạo cơm hủy hoại
quen chừng,
Phạt ăn dơ-dáy mới
ưng tội hình.
Cột trói ngược quá
kinh rất lạ,
Quỉ Dạ-xoa đánh vả
kẹp cưa.
Vì chưng chửi gió
mắng mưa,
Kêu tên Thần,
Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.
Bàn chông nhọn
liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn, gian
giảo ngược-ngang.
Hành người bế
dịch, trợ hoang, [4]
Thừa năm hạn đói
mưu toan bức nghèo.
Thành Uổng-Tử
cheo-leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên
siết khóc than.
Dương-gian
ngỗ-nghịch lăng-loàn,
Liều mình tự-vận
không màng thảo ngay.
Xuống Địa-Ngục
đọa-đày hành mãi,
Đúng số rồi còn
phải luân-hồi.
Hóa-công xem xét
đền bồi,
Lành siêu dữ đọa
thêm nhồi tội căn.
Cầu Nại-Hà bắc
giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc
rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại
gập-ghình,
Nhào đầu xuống đó
cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt
mày dữ-tợn,
Ngóng cổ trông mắt
trợn dòm người.
Gắp thây nuốt sống
ăn tươi,
Vì bày thưa kiện
móc bươi xúi lời.
Trong núi lửa bay
hơi tanh khét,
Linh-hồn người đầy
nghẹt trong ngoài!
Phạt răn quến gái,
dụ trai,
Bày ra thuốc độc,
phá thai tuyệt loài.
Người ở thế mấy ai
khỏi lỗi,
Biết lạc-lầm
sám-hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh
ăn-năn,
Ba giềng nắm chặt,
năm hằng chớ lơi.
Ngặt có kẻ tưởng
Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng
thật kính thành.
Lâm nguy
miệng vái làm lành,
Tai qua rồi
lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái-quá
đừng lòng bất cập,
Phép tu hành
luyện tập nhiều ngày.
Làm lành,
xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều
ấy thiệt rày phước duyên.
Lời kệ sám di
truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận
biện thật-thà.
Chẳng dùng những
tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu
diễn ra ích gì?
Chớ buông tiếng
thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước
để cháu con.
Làm người nhơn
nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng
khuất, tiếng còn bay xa.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân
1992
... ... ...
[1] - Tuy là bóng khuất khuất bóng
xương tan tiếng còn.
... ... ...
[2] - Hành cho tan giác
tan xác huờn hình như xưa.
... ... ...
[3] - Tớ
phản Thầy, quan lại tôi lại bất trung.
... ... ..
[4] - Hành
người bế địch bế dịch, trợ hoang,
...........
*
* *
Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối
(Giọng Nam-Xuân)
Nghe lời khuyến
thiện rất may,
Nguyện lòng niệm
Phật ăn chay làm lành.
Ngày ngày tập sửa
tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu
hành ăn-năn.
Một là hối-ngộ tội căn,
Hai là cầu đặng siêu-thăng cửu-huyền.
Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong nhà già trẻ miên-miên thái-bình.
Sau dầu đến chốn Diêm-Đình,
Linh-hồn trong sạch nhẹ mình thảnh-thơi.
Luân-hồi trở lại
trên đời,
Tiền công thì cũng
Phật Trời thưởng ban.
Cầu xin trăm họ bình-an,
Nước giàu dân mạnh
thanh-nhàn muôn năm.
*
* *
Bài Xưng Tụng Công Đức
Phật, Tiên, Thánh, Thần
(Giọng Nam-Xuân)
Hào-quang chiếu
chín từng mây bạc,
Thần, Thánh, Tiên
thừa hạc cỡi rồng.
Phép linh thiệt
rất chí công,
Hóa sanh muôn vật,
ngưỡng trông phước đời.
Trên Điện-Ngọc Vua
Trời ngự giáng,
Trước đền vàng
phán đoán phân-minh.
Cõi trần
trung giái thinh-thinh,
Phàm gian
lao-khổ đao binh tai-nàn.
Lòng Trời
cảm cứu an lê-thứ,
Độ chúng
sanh muôn xứ gội ơn.
Đạo Nho
truyền dạy nghĩa nhân,
Văn-Tuyên
Khổng-Thánh khuyến dân răn đời.
Ghi các sách
ngàn lời để lại,
Chép nhiều
thơ vạn đại truyền ra.
Tây-phương
cõi Phật chói lòa,
Từ-bi
Phật-Tổ hải-hà độ dân (cúi đầu).
Lòng cảm xót
dương
trần lận đận,
Ra oai-linh
tiếp-dẫn nhơn cầm.
Phổ-Đà có Phật
Quan-Âm (cúi đầu),
Ra công cứu thế,
ân thâm đức dày.
Nhiều kiếp đã đầu
thai biết mấy,
Xuống Hồng-trần
khuyến dạy thương sanh.
Lão-Quân ứng
hóa Tam-Thanh,
Khuyên răn
nhơn vật lòng lành chớ xao.
Cơ huyền-diệu Đạo
Cao minh-chánh,
Hiển phép mầu ma
lánh quỉ kiêng.
Trừ yêu có Thánh
Tề-Thiên,
Qui-y Phật pháp ở
miền Tây-Phương.
Oai bốn hướng Thần
nhường quỉ sợ,
Đức ba giềng tế
trợ thương sanh.
Hớn-Trào
Quan-Thánh bia danh,
Trung, can, nghĩa,
khí, háo sanh giúp đời.
Tuần ba cửa, cõi
Trời đều dụng,
Xét bốn phương,
dân chúng dữ lành.
Linh-Tiêu
Thái-Bạch Trường-Canh,
Truyền tâu
Đế-Khuyết dữ lành nhơn gian.
Chí từ-huệ giúp an
lê-thứ,
Thông rõ đời nhơn
sự kiết hung.
Đại-Tiên ở chốn
Tiên-cung, [1]
Lòng lành thi phú
thung-dung độ người.
Ánh Xá-lợi sáng
ngời Cực-Lạc,
Hiện kim thân
Bồ-Tát hóa duyên.
Thiên-Cung:
Tinh Tú, Thánh, Tiên,
Địa kỳ: Thần
Tướng đàn tiền giáng-lâm.
Lòng sở vọng
lâm-dâm tụng-niệm,
Xin giải nàn
Nam-Thiệm Bộ-Châu.
Chúng sanh
cảm đức cao sâu,
Rèn lòng,
sửa nết, lo-âu làm lành.
Kinh Thiên Đạo và Thế
Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
[1] - Đại-Tiên ở chốn Thiên-cung
Tiên-cung,
... ... ...
*
* *
Giới Tâm Kinh
(Giọng
Nam-Xuân)
(1) Năng
tụng bài nầy mà sửa tánh răn lòng.
Vọng Thượng-Đế chứng lòng
thành-tín,
Chúng sanh
đồng bái kỉnh khẩn-nguyền.
Nguyền cho
trăm họ bình yên,
Nhà nhà no
ấm khỏi phiền khỏi than.
Nguyền
Khổng-Thánh bảo toàn Nho-Giáo,
Lấy nghĩa nhơn Đại-Đạo truyền
ra.
Tây-phương Phật-Tổ
Di-Đà,
Nam-Hải Phổ-Đà cứu
khổ Quan-Âm.
Lẽ báo ứng cao
thâm huyền-diệu,
Cho chúng sanh
đặng hiểu răn mình.
Đạo-Quân đức hóa
háo sinh,
Rộng quyền máy
nhiệm an-linh cứu đời.
Xin xót thương con
người ngây dại,
Phép huyền-hư
truyền dạy thế-gian.
Mong nhờ lịnh Đức
Thánh-Quan,
Ra oai tiêu-diệt
cho tàn ác ma.
Trường-Canh chói
rạng lòa Kim-Khuyết,
Xin ban ơn giải nghiệt cho
đời.
Tề-Thiên Đại-Thánh
để lời,
Thiện nam, tín nữ
nghe thời phải vưng.
Chớ tự phụ, cũng
đừng khinh ngạo, [1]
Lẽ Trời hằng quả
báo chẳng sai.
Lời khuyên già trẻ
gái trai,
Khá tua sửa nết,
ăn chay làm lành.
Đấng Tạo-Hóa hóa
sanh muôn vật,
Phú cho người tánh
rất linh thông.
Đặt ra có họ, có
dòng,
Vua, thầy, cha,
mẹ, vợ, chồng, cháu, con.
Tình huynh-đệ tày
non tợ biển,
Nghĩa hữu bằng
phải kiếng phải tin.
Cang tam, thường
ngũ phải gìn,
Chứa đức, làm
lành, làm phước, làm doan.
Gặp người đói rách
khốn nàn,
Ra tay chẩn cứu
cho toàn nghĩa nhơn.
Mựa chớ ham giọng
đờn tiếng quyển,
Thói dâm phong rù
quyến nguyệt hoa.
Có ngày hư nát cửa
nhà,
Xa gần đồn tiếng
thúi tha vô cùng.
Trường đổ bác cũng
đừng léo tới,
Phường trăng hoa
hát bội khá từ.
Những điều
nhơ-nhuốc phải chừa,
Hỗn-hào mắng
nhiếc, nói thừa nói thêm.
Nơi địa ngục gông
kềm sẵn đủ,
Để răn loài dâm
phụ gian phu.
Ai ai bền chí mà
tu,
Phước đem đổi tội
cho phu dễ gì?
Có thơ rằng :
Dễ gì lộn kiếp
đặng làm người,
May đặng làm người
chớ dể-duôi.
Lành dữ hai đường
vừa ý chọn,
Lành như tòng, dữ
tợ hoa tươi.
Hoa tươi, tòng bá,
khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém
sắc hoa.
Gặp tiết
đông-thiên sương tuyết bủa,
Chỉ còn tòng bá,
chẳng còn hoa.
Còn hoa mà lại ích
chi đâu,
Đẹp dáng tươi màu
đặng mấy lâu.
Thử sánh ngọn đèn
cùng bóng nguyệt,
Gió lay đèn tắt,
nguyệt làu-làu.
Làu-làu một tấm tợ
đài gương,
Trung, hiếu, tiết,
trinh vẹn mọi đường.
Sang cả mặc người
đừng bợ-đỡ,
Hoạnh tài trơ mắt
khỏi tai-ương.
Tai ương hoạn họa
luống ưu sầu,
Vì bởi hay bày
chước hiểm sâu.
Lập kế đồ mưu âm
hại chúng,
Kiếp sau mang lấy
lốt heo trâu.
Heo trâu thân thể
mạt hèn thay,
Mãn kiếp lại còn
bị xẻ thây.
Lộng lộng lưới
Trời tuy sếu-sáo,
Thưa mà chẳng lọt
mảy lông mày.
Mày râu đứng giữa
cõi trần-gian,
Gắng sức chống cho
vững miếu đàng.
Phận gái tam tùng
cùng tứ-đức,
Tề-gia nội trợ vẹn
là ngoan.
Ngoan-ngùy
chơn-chánh Phật Thần thương,
Chơn-chánh
liên-hòa với thiện lương.
Thần-Thánh thành,
do người chánh thiện,
Thiện-lương
chơn-chánh đức không lường.
Không lường kẻ
thiện với người hung,
Bợ đỡ giàu-sang
phụ khốn cùng.
Ngoài mặt giả
tuồng người trượng nghĩa,
Trong lòng dối kết chút
tình chung.
Tình chung
đặng cậy thế người sang,
Mượn tiếng
khua môi với xóm làng,
Lời dạy Thần
Tiên không kể đến,
Đạo mầu
chẳng cứ, cứ khoe-khoang.
Kinh Thiên Đạo và Thế
Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
[1] - Chớ tự phụ, cũng
đừng khi ngạo khinh ngạo,
.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét