
U-MINH-CHUNG
1. HỒNG
CHUNG SƠ KHẤU BẢO KỆ CAO NGÂM.
2. THƯỢNG
THÔNG THIÊN ĐÀNG HẠ TRIỆT ĐỊA PHỦ.
3. KHÁNH
CHÚC TAM-KỲ HOẰNG KHAI ĐẠI-ĐẠO.
4. CÀN KHÔN
ĐẠI THỐNG PHỔ CẬP NGŨ CHÂU.
6. TAM THẾ
TỨ SANH CHI NỘI CÁC MIỄN LUÂN-HỒI.
7. CỬU U
THẬP LOẠI CHI TRUNG TẤT LY KHỔ HẢI.
8. NGŨ PHONG
THẬP VÕ MIỄN TẠO CƠ CẨN CHI TAI.
9. NAM MẪU ĐÔNG GIAO CU
TRIÊM NGHIÊU-THUẤN CHI NHỰT.
10. CAN QUA VĨNH TỨC GIÁP
MÃ HƯU CHINH.
11. TRẬN BẠI THƯƠNG VONG
CỤ SANH TỊNH ĐỘ.
12. PHI CẦM TẨU THÚ LA
VÕNG BẤT PHÙNG.
13. LÃNG TỬ CÔ NHI TẢO HỒI
HƯƠNG LÝ.
14. VÔ BIÊN THẾ-GIỚI ĐỊA
CỬU THIÊN TRƯỜNG.
15. VIỄN CẬN ĐÀN-NA TĂNG
VIÊN PHƯỚC-THỌ.
16. THÁNH TÒA TRẤN TỊNH
ĐẠO PHÁP TRƯỜNG-HƯNG.
17. THỔ ĐỊA
LONG THẦN AN TĂNG HỘ-PHÁP.
18. PHỤ MẪU
SƯ TRƯỞNG LỤC THÂN QUYẾN THUỘC.
19. LỊCH ĐẠI
TIÊN VONG ĐỒNG ĐĂNG GIÁC NGẠN.
20. NAM-MÔ
HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG-ĐẾ NGỌC-HOÀNG ĐẠI THIÊN-TÔN.
21. NAM-MÔ
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU VÔ CỰC THIÊN-TÔN.
22. NAM-MÔ
TÂY-PHƯƠNG GIÁO-CHỦ THÍCH-CA MÂU-NI THẾ-TÔN.
23. NAM-MÔ THÁI-THƯỢNG
ĐẠO-TỔ TAM-THANH ỨNG-HÓA THIÊN-TÔN.
24. NAM-MÔ KHỔNG-THÁNH
TIÊN-SƯ HƯNG-NHO THẠNH THẾ THIÊN-TÔN.
25. NAM-MÔ THƯỜNG CƯ NAM
HẢI QUAN-ÂM NHƯ-LAI.
26. NAM-MÔ LÝ
ĐẠI-TIÊN-TRƯỞNG KIÊM GIÁO-TÔNG ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ.
27. NAM-MÔ HIỆP-THIÊN
ĐẠI-ĐẾ QUAN-THÁNH ĐẾ-QUÂN.
28. NAM-MÔ GIA-TÔ GIÁO-CHỦ
CỨU THẾ THIÊN-TÔN.
29. NAM-MÔ THÁI-CÔNG TƯỚNG
PHỤ QUẢN-PHÁP THIÊN-TÔN.
30. NAM-MÔ TAM CHÂU BÁT BỘ
HỘ-PHÁP THIÊN-TÔN.
31. NAM-MÔ THẬP PHƯƠNG CHƯ
PHẬT VẠN CHƯỞNG CHƯ TIÊN LIÊN-ĐÀI CHI HẠ.
32 .NAM MÔ SƠ HỘI LONG HOA
THANH VƯƠNG ĐẠI HỘI, NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT CHƯỞNG GIÁO THIÊN TÔN.
33. NAM MÔ NHỊ HỘI LONG
HOA HỒNG VƯƠNG ĐẠI HỘI, DI-ĐÀ CỔ PHẬT CHƯỞNG GIÁO THIÊN TÔN.
34. NAM MÔ TAM HỘI LONG
HOA BẠCH VƯƠNG ĐẠI HỘI, DI-LẠC CỔ PHẬT CHƯỞNG GIÁO THIÊN TÔN.
35. NAM MÔ LIỆT THÁNH ĐÀN
TRÀNG HÒA NAM KHỂ THỦ.
HẾT
TÒA-THÁNH, ngày 8
tháng Chạp năm Quí-Sửu
(Dl, 31/12/1973)
HIẾN-PHÁP
CHƯỞNG-QUẢN
HIỆP-THIÊN-ĐÀI
(Ấn ký)
TRƯƠNG-HỮU-ĐỨC
*
* *
SAO-Y BẢN CHÁNH
NỘI-CHÁNH, ngày 6
tháng 1 Giáp-Dần,
(Dl, 28/01/1974)
NGỌC ĐẦU-SƯ
KIÊM-NHIỆM NGỌC
CHÁNH PHỐI-SƯ
(Ấn ký)
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân
1992.
Kinh Thế Đạo
Kinh Thuyết Pháp [1]
(Giọng Nam-Xuân)
Trường phổ-tế
khó-khăn lắm nỗi,
Cậy Thánh-tâm sửa
đổi tánh phàm.
Dìu đời với sức
không kham,
Mượn quyền
thuyết-pháp đặng làm cơ-quan.
Đại-Từ-Phụ hồng ân
rưới khắp,
Trợ giúp con đặng
lập nên công.
Muốn cho thiên hạ
đại-đồng,
Lấy câu cứu khổ dụ
lòng thương sanh.
Nguyện lời nói
biến hình bác-ái,
Nguyện chí-thành
sửa máy tà gian.
Nguyện cho
khí tịnh thần an,
Nguyện xin
thính-giả hiểu đàng chơn-tu.
Nguyện các Đấng
đương chầu Bạch-Ngọc,
Giúp thông-minh
lảu thuộc văn-từ,
Cảm quang diêu
động tâm tu,
Khai cơ giải-thoát
mở tù Phong-Đô.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
(1) Vị
thuyết-pháp và đồng-nhi đọc.
*
* *
Kinh Nhập Hội
(Giọng Nam-Xuân)
Trên Bạch Ngọc
Chí-Tôn cao ngự,
Giữa Tây-Phương
nắm giữ Thiên-Điều.
Dưới Ngọc-Hư, kể
bao nhiêu,
Thiêng-Liêng các
Đấng lập triều trị dân.
Một nuôi nấng
tinh-thần tinh-khiết,
Hai dạy răn cho
biết tội tình.
Ba lo trị thế
thái-bình,
Cộng chung Pháp-Luật
Thiên-Đình chí công.
Các con vốn
trong vòng Thánh-thể,
Phép tu vi là kế tu-hành.
Mở đường tích cực oai-linh,
Cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn.
Đại-Từ-Phụ ra ơn
dìu dẫn,
Diệt trí phàm:
hờn, giận, ghét, ganh.
Để tâm dưới ánh
Chí-Linh,
Soi tường chơn-lý
chỉ rành chánh văn.
Cơ chuyển thế khó
khăn lắm nỗi,
Mượn Thánh-ân xây
đổi cơ Đời.
Thuận nhơn tâm ắt
thuận Trời,
Câu kinh Vô-Tự độ
người thiện duyên.
Nguyện Ơn Trên cho
yên trí não,
Nguyện Phật, Tiên
dạy bảo chơn linh.
Mang danh
Hội-Thánh đã đành, [1]
Nâng tay nhục thể
xây hình Chí-Tôn.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân
1992
... ... ...
[1] - Mạng danh Mang danh
Hội-Thánh đã đành,
.........
*
* *
Kinh Xuất Hội
(Giọng Nam-Xuân)
Nhờ Chí-Tôn dạy
khôn lẽ Đạo,
Phật, Thánh, Tiên
nhỏ máu nhiệt-thành.
Vạn-linh đã hiệp
Chí-linh,
Hội xong cậy sức
công-bình Thiêng-Liêng.
Đã gầy dựng nên
quyền giáo-hóa,
Phòng hiệp vầy
trọn cả nguyên-nhân.
Vẹn toàn phàm thể
thánh-thân,
Tùng theo
Chơn-pháp độ lần chúng sinh.
Các con cúi đầu
trình Sư-Phụ, (cúi đầu)
Gìn từ tâm khuyến
nhủ tăng-đồ.
Đạo hư-vô, Sư
hư-vô,
Reo chuông thoát
tục, phất cờ tuyệt-sinh.
Cứ nương dưới máy
linh cơ Tạo,
Gươm huệ đưa trị
xảo trừ tà.
Cửa Địa-Ngục,
chóng lánh xa,
Mượn hình
Thánh-thể cất nhà cõi Thiên.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
*
* *
Kinh Đi Ra Đường
(Giọng Nam-Xuân)
Thân vận-động
trong trường thế-sự,
Đạo nhơn-luân cư
xử cùng đời.
Đòi phen lúc biến
khi dời,
Thân như bèo-bọt
giữa vời linh-đinh.
Dòm thấy cuộc
kinh-dinh dưới mắt,
E trở tâm tánh bắt
đổi thay.
Con xin nương bóng
Cao-Đài,
Bước ra một bước
cảm hoài căn tu.
Gót chơn đưa rủi
như sát mạng,
Vật hữu linh phàm
nhãn khôn soi.
Xin tha họa gởi
tai rơi,
Hồn linh nhờ có ơn
Trời chứng minh.
Đại-Từ-Phụ
oai-linh bảo hộ,
Những chông gai
quét ngõ ven đường,
Đi
an-khương, về an-khương,
Cõi Thiên,
cảnh tục cũng đường chung nhau. [1]
Nam-Mô
Cao-Đài . . . (Niệm 1 lần)
Kinh Thiên Đạo và Thế
Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
[1] - Cõi Thiên, cảnh
tục cũng dường đường chung nhau.
.........
*
* *
Kinh Khi Về
(Giọng Nam-xuân)
Cảm tạ ơn trên đầu
dìu đỡ,
Từ khi đi khi trở
lộn về.
Đặng xong phận sự
mọi bề,
Tâm tu lại vững
chẳng hề lảng-xao.
Những nhớ bước
động Đào buổi trước, [1]
Những nhớ khi Hớn
rước Diêu-Trì. [2]
Găn-Ta-Ca, đỡ bước đi, [3]
Ra thành Phật-Tổ gặp kỳ ly cung.
Dẩy xe trâu Côn-Lôn trổi bánh,
Lý Lão-Quân
mong lánh phong-trần.
Núi Ô-Li-Vê
để dấu chân,
Gia-Tô
Giáo-chủ giải phần hữu sanh.
Con nguyện
xin khuôn linh giúp sức,
Bước ta-bà
giục thức huệ-quang.
Lòn thân dưới phép sầu than,
Tìm phương cứu khổ
mở đàng giải căn.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân
1992
... ... ...
[1] - Nhẫng
Những nhớ bước động Đào buổi trước,
[2] - Nhẫng
Những nhớ khi Hớn rước Diêu-Trì.
[3] - Căn-Ta-Ca
Găn-Ta-Ca, đỡ bước đi,
... ... ...
*
* *
Kinh
Khi Đi Ngủ
(Giọng Nam-Xuân)
Các vật-dục xảy ra một buổi, [1]
Cả hành-vi lầm lỗi khôn ngừa.
Sấp mình cúi lạy xin thưa, (lạy)
Ơn trên Từ-Phụ cho
chừa tội khiên.
Trong giấc mộng
nghỉ yên hồn phách,
Đấng Thiêng-Liêng
năng mách bảo giùm.
Bồng-Lai Cực-Lạc
chỉ chừng,
Đẩy đưa xác-tục
dựa gần cõi linh.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
[1] - Các vật-dục xảy qua xảy ra một buổi,
... ... ...
*
* *
Kinh Khi Thức Dậy
(Giọng Nam-Xuân)
Vừa mở mắt giựt
mình thức dậy,
Con mang ơn cúi lạy Từ-Bi. (lạy)
Tử sanh, sanh tử
là chi?
Gẫm trong giấc
mộng cũng bì như nhau.
Đây tới sáng
xôn-xao với thế,
Nhẫng đua chen
kiếm kế sanh nhai.
Có thân giữa chốn
đọa-đày,
Đếm ba vạn sáu
ngàn ngày khó-khăn.
Xin Từ-Phụ ra ân
cứu-độ,
Tăng huyền-linh
giác-ngộ chí thành.
Rõ phước đức biết
tội tình,
Nắm tâm đắp vững
mặt thành Càn-Khôn.
Trên nhờ có
CHÍ-TÔN che-chở,
Thần, Thánh, Tiên,
Phật hộ thân hèn.
Đường tu nối bước cho quen,
Xa trần tăm-tối cận đèn Thiêng-Liêng.
Nam-Mô Cao-Đài . . . (Niệm 1 lần)
*
*
*
Kinh Vào Học [1]
(Giọng
Nam-Xuân)
Đại Từ-Phụ
xin thương khai khiếu,
Giúp trẻ thơ
học hiểu văn-từ.
Gần điều
nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần
huệ đặng trừ nghiệt căn.
Dò đường Thánh khó
khăn chẳng nại,
Tùng khuôn hồng
nhỏ dại lớn khôn.
Buộc yêu thương
bạn đồng môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ
xác hồn trăm năm.
Nguyện tam-cang
gìn tâm trọn đạo,
Nguyện ngũ-thường
hiếu thảo làm khuôn.
Nguyện nên hương
hỏa tông đường,
Nguyện thương
lê-thứ trong trường công danh.
Cầu khẩn đấng
Chơn-linh nhập thể,
Đủ thông minh học
lễ học văn.
May duyên gặp hội
Long-Vân,
Thuyền thơ ngọn
gió Các Đằng xuôi đưa.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
[1] Học trò đọc khi
nhập học.
*
* *
Kinh Vào Ăn Cơm
(Giọng Nam-Xuân)
Giữa vạn vật con
người một giống,
Phải uống ăn nuôi
sống thây phàm.
Từ-bi ngũ cốc đã
ban,
Dưỡng nuôi con trẻ
châu toàn mảnh thân.
Công Thần-Nông hóa
dân buổi trước,
Dạy khôn-ngoan học
chước canh điền.
Nhớ ơn bảo mạng
Huyền-Thiên,
Con mong mượn xác
đoạt quyền vĩnh-sanh.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
*
* *
Kinh Khi Ăn Cơm Rồi
(Giọng Nam-Xuân)
Nguyện nhớ ơn
Nông-Canh nhằn-nhọc,
Nguyện ơn người
lúa thóc giã xay.
Ngậm cơm ơn ngậm
hằng ngày,
Nên người con
nguyện ra tài lợi sanh.
Con cầu xin mảnh
hình tráng kiện,
Giúp nên công xây
chuyển cơ Đời.
Trên theo
pháp-luật Đạo Trời,
Dưới thương sanh
chúng một lời đinh-ninh. [1]
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 1 lần)
[1] Mười bài kinh song thất lục bát nầy của
Đức Hộ-Pháp đặt ra, có Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn Nhơn chỉnh văn lại.
Kinh Hôn Phối
(Giọng Nam-Xuân)
Cơ sanh-hóa
Càn-Khôn đào-tạo,
Do Âm-Dương hiệp
đạo biến-thiên.
Con người nắm vững
chủ-quyền,
Thay Trời tạo thế
giữ giềng nhơn-luân.
Ở trước mắt
Hồng-Quân định phận,
Đạo vợ chồng đã
xứng nợ duyên.
Trăm năm khá nhớ
hương-nguyền,
Chồng hay trọn
nghĩa, vợ hiền trọn trinh.
Đã cùng gánh chung
tình hòa-ái,
Tua đút cơm, sửa
dải làm duyên.
Dưới trăng bóng
ngọc còn nguyên,
Ôm bình, bao tóc
sang hèn cũng cam.
Đường tổ-nghiệp nữ
nam hương lửa,
Đốt cho nồng
từ bữa ba sanh.
Giữa đền để
một tấc thành,
Đồng sanh,
đồng tịch đã đành nương nhau.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (niệm 3 lần)
NGUYỆT-TÂM
CHƠN-NHƠN
*
* *
Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà
(Giọng Nam-Ai)
Ơn tấc đất ngọn
rau nên nặng,
Đạo quân-vương chữ
dặn nơi lòng.
Thượng-hoàng sánh
đức Chí-Công,
Mặc phò lê-thứ
khỏi vòng lao-lung.
Giúp xã tắc
tôi trung ra mặt,
Dẫy xa-thơ trổi nhặt
Văn-minh.
Giúp dân hưởng chữ
thái-bình,
Văn-ban
võ-bá triều-đình đặc an.
Nay gần đặng
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế,
Tìm Chí-linh trị
thế cứu đời.
Thiên-Tào
Thánh ngự an ngôi,
Cầu cho dân
chúng khỏi hồi can qua.
Bốn ngàn năm
quốc-gia đã lập,
Cõi Nam Châu
bồi đắp giang-sơn.
Trụ tâm nâng
đỡ quốc-hồn,
Giữ bền
đảnh-nghiệp vĩnh-tồn hậu lai.
Kìa CHÍ-TÔN
CAO-ĐÀI đương ngự,
Rưới hồng ân
chặt giữ biên-cương.
Sống thì định bá
đồ vương,
Qui Thiên dựng lại
miếu đường thuở xưa.
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
*
* *
Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị
(Giọng Nam-Ai)
Đường công-danh
càng nhìn quảng-đại,
Nghĩa thầy trò
nghĩ lại khó quên.
Vái cùng Sư-Phụ
linh thiêng,
Chứng lòng đệ-tử
đáp-đền ơn xưa.
Dầu hoạn-lộ chưa
vừa sở nguyện,
Dầu cửa quyền
trọng tiếng chăn dân.
Ơn cha sanh-hóa ra thân,
Ơn Thầy giáo-huấn cũng gần như nhau. [1]
Khoa võ-môn dầu nhào qua khỏi,
Trương vi rồng học-hỏi nơi ai.
Đẹp mình với vẻ
cân-đai,
Công thầy tô-điểm
từ ngày ấu-xuân.
Cõi hư-vô nay gần
phước Thánh,
Xin châu-toàn
đường hạnh môn-sinh.
Cõi Thiên xin gởi
chút tình,
Rót chung ly hận
gật mình đưa thương.
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
[1] - Ơn Thầy huấn giáo giáo-huấn
cũng gần như nhau.
... ... ...
*
* *
Kinh
Cầu Tổ Phụ Đã Qui Liễu
(Giọng Nam-Ai)
Giọt máu mủ lưu-truyền tại thế,
Con nhẫng mong
truyền kế lửa hương.
Nguyện cùng
Thất-Tổ xin thương,
Cho bền gan tấc
noi đường thảo ngay.
Xưa chẳng đặng
phước may gặp Đạo,
Nay phò-trì con cháu tu tâm.
Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,
Chặt lìa trái-chủ
đặng tầm ngôi Thiên.
Dầu tội-chướng ở
miền địa-giái,
Dầu oan-gia ở
ngoại Càn-khôn.
Dầu mang xác tục
hay hồn,
Nhớ cầu Từ-Phụ
CHÍ-TÔN cứu nàn.
Dầu đoạt vị ở an
Thiên cảnh,
Dầu tái sanh mở
cảnh siêu phàm.
Nương thuyền
Bát-Nhã cho an,
Dìu chừng
con cháu vào đàng nghĩa-nhân.
Kìa lố bóng
hồng ân bao phủ,
Cả thế gian
đầy đủ đạo mầu.
Âm-dương đôi
nẻo như nhau,
Cửu Huyền
Thất Tổ giữ câu thọ-trì.
Chốn Tây-phương đường đi
thong thả,
Cõi Diêm-Cung
tha quả vong căn.
Tiêu-diêu
định tánh nắm phan,
Dò theo
Cực-lạc đon đàng siêu-thăng. [1]
Nhớ nỗi hiếu
khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn
ân đốt nắm tâm hương.
Tấc lòng
đòi-đoạn đau thương,
Chơn mây vái
với hương hồn hiển-linh.
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
(Tụng tiếp
Kinh Cứu-Khổ)
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm
Thân 1992
.........
[1] - Do Dò
theo Cực-lạc đon đàng siêu-thăng.
.........
*
*
*
Kinh Cứu Khổ
Nam-mô
Đại-Từ, Đại-Bi Quảng-Đại Linh Quan-Thế-Âm Bồ-Tát (đọc 3 lần).
Nam-mô cứu
khổ, cứu nạn Quan-Thế-Âm Bồ-Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công-đức
Phật. Phật cáo A-Nan ngôn, thử kinh Đại-Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng
bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ.
Nhược hữu nhơn tụng đắc
nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ
nạn.
Nam-mô Phật lực oai,
Nam-mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm linh nhơn thân đắc độ, hồi quang Bồ-Tát,
hồi thiện Bồ-Tát, A-Nậu Đại Thiên-Vương chánh điện Bồ-Tát, ma-kheo ma-kheo
thanh-tịnh tỳ-kheo, quan-sự đắc tán tụng-sự đắc hưu, chư Đại Bồ-Tát, ngũ bá
A-La-Hán, cứu hộ đệ tử ....(1).... nhứt thân ly khổ nạn, tự ngôn Quan-Thế-Âm
anh-lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biến tai-nạn tự nhiên đắc giải-thoát,
tín-thọ phụng hành tức thuyết chơn-ngôn viết: Kim-Ba Kim-Ba-Đế, Cầu-Ha
Cầu-Ha-Đế, Đa-La-Ni-Đế, Ni-Ha-La-Đế, Tì-Lê-Ni-Đế, Ma-Ha-Dà-Đế,
Chơn-Lăng-Càn-Đế, Ta-Bà-Ha.
{Tụng xong 3 lần, rồi niệm
câu chú:
Nam-Mô Cao-Đài
Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
(1) Tên họ của bệnh nhơn.
*
* *
Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu
(Giọng Nam-Ai)
Ơn cúc dục cù-lao
mang nặng,
Lỡ thân côi mưa
nắng khôn ngừa.
Âm-dương cách bóng
sớm trưa,
Thon-von phận bạc
không vừa hiếu thân.
Đầu cúi lạy . . .
(1) . . . linh-hiển,
Lễ muối dưa làm
miếng hiếu-tâm.
Ven Trời gởi chút
tình thâm,
Động lòng thương
nhớ tuôn dầm lệ sa.
Xin có tưởng ruột
rà máu mủ,
Cõi hư-linh bao
phủ ân-hồng.
Cảnh Thiên noi
bước Hóa-Công,
Nắm phan Tiếp-Dẫn
vào vòng Như-Lai.
Chốn Hư-Linh chờ
ngày hội-hiệp,
Dầu căn xưa quả
kiếp dường bao.
Thà cam vui chốn
động Đào,
Đừng vì nhớ trẻ
trở vào phàm gian.
Nuốt tiếng than
đôi hàng lã-chã,
Tưởng đến điều
nhơn quả mà đau.
Xem thân tuổi hạc
càng cao,
E ra tử biệt
Thiên-Tào định phân.
Nối hương-lửa
nhơn-luân đạo trọng,
Con gìn câu chết
sống trọn nghì.
Sấp mình cúi lạy
Từ-Bi,
Tiền khiên phụ-mẫu
Tam-Kỳ xá ân.
Xin . . . (2) . .
. định thần định tánh,
Noi khuôn linh nẻo
Thánh đưa chơn.
Thong-dong
cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức
giúp huờn ngôi xưa.
Chung ly-biệt con
đưa tay rót,
Mối thương tâm
chưa ngớt đeo sầu.
Cha ở đâu, mẹ nơi
đâu? (3)
Tâm tang kính gởi
một bầu lệ châu.
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
(1) Song thân, hoặc
phụ-thân hay mẫu-thân đã qui-liễu.
(2) Cha mẹ hay lịnh mẹ
hoặc lịnh cha đã qui-liễu.
(3) Cha mẹ mà người nào
còn sống thì đọc: cha ở đây hoặc mẹ ở đây. Nếu chết hết thì đọc nguyên văn.
*
* *
Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng
Cố Hữu Đã Qui Liễu
(Giọng Nam-Ai)
Khi dương-thế
không phân phải quấy,
Nay hư-linh đã
thấy hành-tàng.
CHÍ-TÔN xá tội
giải oan,
Thánh, Thần, Tiên,
Phật cứu nàn độ căn.
Đã tầng chịu
khó-khăn kiếp sống,
Định tâm-thần giải
mộng Nam-Kha.
Càn-khôn để bước
Ta-bà,
Đoạt cơ thoát-tục
tạo nhà cõi Thiên.
Ơn Tạo-hóa tha
tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp
rước nguyên-nhân.
Tiên phong phủi
ngọn phất-trần,
Liên-đài đỡ gót
đến gần Tây-Phương.
Cửa Cực-Lạc đon
đường thẳng tới,
Tầm không môn đặng
đợi Như-Lai.
Hào-quang chiếu
diệu Cao-Đài,
May duyên nay đã
gặp ngày siêu-sanh.
Trụ nguyên-tánh
hồn linh nhàn-lạc,
Cõi Đào-nguyên cỡi
hạc thừa long.
Lánh xa trược chất
bụi hồng,
Cung Tiên sớm tối
vui vòng thung-dung.
Nơi cung Ngọc học
thông Đạo cả,
Chốn Hư-Vô Tạo-Hóa
tìm cơ.
Trên đường
Thánh-đức lần dò,
Trường-sanh
mầu-nhiệm nơi lò Hóa-Công.
Khá từ bỏ xa dòng
bể khổ,
Diệt trần tình
Cam-Lộ tẩy nhơ.
Ngân-Kiều Bát-Nhã
qua bờ,
Đưa duyên để bước
kịp giờ siêu-thăng.
(Tụng kinh nầy rồi
tiếp tụng DI-LẶC CHƠN-KINH)
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
*
*
*
Kinh Tụng Huynh Đệ
Mãn Phần
(Giọng Nam-Ai)
Niềm thủ-túc đã
đành vĩnh-biệt,
Càng nhớ nhau càng
tiếc tình nồng.
Thân nhau từ buổi
lọt lòng,
Chén cơm miếng cá
cũng đồng chia nhau.
Câu chọc ruột còn
đau-đớn bấy,
Huống âm-dương hết
thấy mặt nhau,
Rẽ phân cốt nhục
đồng-bào,
Cảnh thiên cõi tục
lẽ nào không thương.
Thương những thuở
huyên đường ôm-ấp,
Thương những khi
co đắp chung mền.
Thương hồi thơ bé
tuổi tên,
Thương cơn khôn
lớn giữ bền nghĩa nhau.
Rủi Thiên số
Nam-Tào đã định,
Giải căn sinh xa
lánh trần ai.
Khá tua theo
bóng CAO-ĐÀI,
Nương mây thoát tục
ra ngoài Càn-Khôn.
Khối tình ái hương
hồn dầu nhớ,
Tránh oan-gia giải
nợ trầm-luân.
Viếng thăm hôm sớm
. . . . . (1)
Trọng câu thần
tỉnh ân cần cung Tiên. [1]
Gởi Tổ-Phụ ..(2)..
hiền cung-phụng,
Gởi sắp em còn
sống nơi đời.
Rót chung ly biệt
lưng vơi,
Mảnh lòng
tha-thiết đưa người bạn xưa.
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
(1) Song thân, hoặc phụ
thân hay là mẫu thân đã qui vị.
(2) Anh hay
chị mãn phần.
Kinh Thiên
Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân 1992
........
[1] - Trọn Trọng câu thần
tỉnh ân cần cung Tiên.
.........
*
* *
Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị
(Giọng Nam-Ai)
Niềm ân-ái thân hòa làm
một,
Nghĩa sơ-giao khắc cốt
ghi xương.
Nhắn mưa gởi gió đưa
thương,
Từ đây thiếp tỏ
đoạn-trường với ai?
Càng nhớ đến những ngày
hội ngộ,
Càng ngổn-ngang mối nợ
tình-chung.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng-chiếu tấm
lòng tiết-trinh.
Dầu sống sót cũng đành gọi
thác,
Vui chi còn man-mác tơ
duyên.
Thiệt-thòi cam phận
thuyền-quyên,
Chứa-chan giọt lệ cửu
tuyền cuộn trôi.
Chàng đã đặng phủi rồi nợ
thế,
Xin hiển-linh giúp kẻ góa
thân.
Chở-che khỏi kiếp
phong-trần,
Gìn gương liệt-nữ hồng
quần để soi.
Chàng dầu đặng thảnh-thơi
cảnh trí,
Hộ dâu con giữ kỹ
nhơn-luân.
Chàng dầu vinh-hiển cảnh
Thần,
Gởi trong giấc mộng đặng
gần cùng nhau.
Chàng dầu hưởng Thiên-Tào
quyền phép,
Đỡ đường trần chật hẹp
thân côi.
Chàng dầu cung Ngọc an
ngôi,
Xin thương thân thiếp nợ
đời còn mang.
Gởi hồn phách cho chàng
định số,
Gởi kiếp căn chàng mở dây
oan.
Thiếp cam bao tóc thờ
chàng,
Rót chung ly biệt đôi hàng
lụy sa!
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
*
* *
Kinh
Tụng Khi Vợ Qui Liễu
(Giọng Nam-Ai)
Tưởng tơ-tóc cùng nhau
trọn đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng
khăn.
Âm-dương đôi nẻo chia
phân,
Túy-sơn Vân-mộng mới gần
đặng nhau.
Khi để bước phòng đào lạnh
ngắt,
Mảnh tàn-y dường nhắc nghi
dung.
Thấy cơn tử-biệt não-nùng,
Hương thề tắt ngọn lạnh
lùng tơ duyên.
Càng nhớ đến lời nguyền
buổi trước,
Thẹn non sông chưa ngớt
tình nồng.
Phụ-phàng chi bấy
Hóa-công,
Lòng nào mà lại cắt lòng
không đau.
Nối Tông-Tổ biết bao nghĩa
trọng,
Cơ nghiệp còn lưu mộng
tang-du.
Mập-mờ nhắn nguyệt đêm
thu,
Kẻ còn người mất ai sầu
hơn ai?
Vói nhắn khách Dạ-đài có
tưởng,
Vậy bóng hình để tướng nơi
nao?
Hay là lạc bước nguồn đào,
Để thương cho mặt anh-hào
đeo mang.
Ngồi quạnh-quẻ đèn tàn một
bóng,
Chịu góa thân tuyết đóng
song thu.
Bước Tiên nàng đã ngao-du,
Đoái tình thương kẻ ôm cầu
khóc duyên.
Hay nàng đặng nhập miền
Cực-Lạc,
Đoái tưởng người chưa
thoát trầm-luân.
Ngước trông níu ngọn
phất-trần,
Chổi Tiên quét sạch nợ-nần
oan-gia.
Dâng mảnh tâm gọi là của
lễ,
Chén ly tình là lệ ái-ân.
Dầu chi cũng nghĩa chí
thân,
Khối tình còn có một lần
đây thôi.
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét