
Tựa
Từ khi mở Đạo, Chí-Tôn duy giáng cơ truyền cho
Phật-Giáo, Minh-Sư, Minh-Đường, Minh-Lý dạy dâng kinh cho Đại-Đao Tam-Kỳ
Phổ-Độ, song kinh Tận-Độ vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi nào tất cả.
Đức Quyền Giáo-Tông (khi còn tại thế) và Đức
Hộ-Pháp, trót mười năm trường, nghĩa là từ ngày mở Đạo, đã nhiều phen dâng sớ
cho Đại Từ-Phụ và các Đấng Thiêng-Liêng đặng xin kinh Tận-Độ, nhưng mà Chí-Tôn
cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.
Mãi đến ngày 23 tháng 7
tới mùng 4 tháng 8 năm Ất-Hợi (DL, 21 đến 31 - 8 - 1935) mới giáng cho
Tân-Kinh. Ấy là một giọt nước Cam-Lộ của Đức Từ-Bi rưới chan đặng gội-nhuần cho
các đẳng linh-hồn của toàn Thế-Giới.
Chúng ta thầm xét thì đủ
hiểu rằng: Đã trải qua mười năm Chí-Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh
duy kể từ ngày ban Tân-Kinh nầy mà thôi.
Thương thay cho những kẻ
vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân-Kinh chuyển Pháp. Ấy cũng
là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên-Thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì
duy có một phương độ-rỗi là trì tụng Di-Lặc Chơn-Kinh hầu các đẳng linh-hồn
đặng siêu-thăng Tịnh-độ.
Ấy vậy, bổn kinh nầy
nguyên của chư Phật, chư Tiên đã giáng-cơ truyền thế trong kỳ Trung-Ngươn
Ất-Hợi.
Khi tụng phải thành tâm và
phải để nơi tinh khiết.
Hội-Thánh kính cáo
*
* *
Tiểu-Dẫn
Cách Thờ-Phượng và Cúng-Kiếng
Lập vị Thượng-Đế thì phải
lựa nơi nào cho tinh-khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, lập tran thờ cho cao và
treo màn cho khuất chỗ thờ phượng.
Bông chỉ về Tinh, rượu chỉ
về Khí, trà chỉ về Thần.
Tinh, Khí, Thần, là
Tam-bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thời Tý, Ngọ cúng rượu.
Thời Mẹo, Dậu cúng nước Âm
Dương. Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương cắm hàng trong 3 cây gọi là:
Án Tam-Tài, thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là: Tượng Ngũ-Khí.
Bàn thờ Hộ-Pháp duy thờ
nơi Thánh-Thất mà thôi. Mỗi khi cúng Tứ Thời thì đốt ba cây hương.
Cách Lạy
Chấp hai tay lại như dưới
đây:
Tay trái bắt Ấn-Tý (1),
rồi nắm lại. Kế đó, bàn tay mặt áp ngoài, tuy nhiên ở phía dưới 3 cung Dần, Sửu,
Tý, rồi ngón cái (tay mặt) xỏ vô giữa ngón cái, chạm vào cung Dần của ngón trỏ bên
tay trái. ( trích Thông Tri Số5-NCPS/TT, hướng dẫn bắt Ấn-Tý, ngày
6 tháng 2 nămTân Hợi (dl 2/3/1971)
Để hai tay như vậy mà đưa
lên trán, xá sâu ba xá rồi quì xuống đưa hai tay lên trán như trước mà niệm ''Nam-mô Phật''; đưa qua bên trái niệm ''Nam-mô Pháp''; đưa qua bên mặt niệm ''Nam-mô Tăng'', rồi để ngay ngực mà
niệm:
''Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''. (gật
đầu)
''Mam-mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''.
''Nam-Mô Lý Đại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ''.
''nam-mô hiệp-thiên Đại-Đế Quan-Thánh Đế-Quân''.
''Nam-mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần''.
Mỗi lần lạy Trời thì lạy:
một lạy gật đầu bốn cái, làm như vậy cho đủ ba lạy là 12 gật (nhớ mỗi gật phải
niệm ''Nam-Mô Cao-Đài ...'')
Còn lạy Phật và Tiên thì
ba lạy, mỗi lạy gật đầu 3 cái là 9 gật.
Khi lạy thì 2 bàn tay trải
ra và hai ngón cái phải gác tréo nhau.
(1) Bắt ấn tý nghĩa là: bấm đầu ngón tay cái
vào gốc ngón tay áp út.
***
Cúng Đàn
Nơi Thánh-Thất nhằm kỳ Vía
lớn hoặc ngày Sóc Vọng mới cúng Đại-Đàn, còn kỳ dư thì thiết Tiểu-Đàn dầu cho
có làm tuần tự cũng vậy.
Mỗi kỳ Đại-Đàn thì đánh 3
hiệp Lôi-Âm-Cổ và Bạch-Ngọc-Chung, mỗi hiệp 12 hồi, mỗi hồi 12 dùi, đánh Ngọc
Hoàng Sấm, có nhạc lễ.
Tiểu-Đàn không có đánh
trống, duy có kệ chuông mà thôi.
Khi sửa soạn cúng, đánh
chuông nhất, kệ 3 câu, hễ dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn.
Lúc cúng rồi, kệ 3 câu,
dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn, kế xá bãi Đàn.
Nơi nhà Đạo-Hữu, trước khi
sửa soạn cúng Tứ-Thời thì đánh ba tiếng chuông, lúc cúng rồi cũng đánh ba tiếng
là đủ, chớ không có kệ.
Trai Kỳ
Nhập môn rồi phải tập trai
giới, ban đầu ít nữa phải giữ lục trai, lần lần tập đến thập trai, như trường
chai được lại càng tốt.
Lục trai: là ăn chay ngày 1, 8, 14, 15, 23 và
30. (như tháng thiếu thì ăn ngày 29
thế cho bữa 30).
Thập trai: là ăn chay ngày mồng 1, 8, 14, 15,
18, 23, 24, 28, 29 và 30. (tháng thiếu ăn thêm ngày 27).
Vị nào giữ được thập trai đổ lên thì sau khi
qui-liễu, được Hội-Thánh đến làm phép xác, y như lời Thầy đã tiên tri: ''
Ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên, được thọ truyền bửu-pháp.''
Cách
Thiết-Lễ Mỗi Nghi-Tiết
''Cầu-hồn
khi hấp-hối và cầu-hồn khi đã chết rồi''
Dầu nhằm giờ cúng ''Tứ Thời'' hay không cũng phải thiết-lễ cúng Thầy trước. Cúng rồi thì
tịnh tâm vái Thầy đặng tụng Kinh Cầu Hồn cho Đạo-hữu trong khi hấp hối hay vừa
qui liễu.
Rồi vị chứng đàn đến đứng
phía trước đầu bịnh nhơn, nếu có đồng nhi thì sấp hàng hai bên từ phía trên sắp
xuống.
Vị chứng đàn đứng giữa
tịnh thần nghiêm trang và kêu người bịnh hấp hối, dầu dứt hơi rồi cũng vậy mà
nói rằng:
''Tôi vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến tụng kinh cho linh hồn
Đạo-Hữu nhẹ nhàng siêu thăng tịnh độ, vậy Đạo-Hữu (1)phải tịnh thần mà nghe và
phải cầu nguyện nơi Đức Chí-Tôn ban ơn lành cho''.
Kế tụng kinh Cầu-Hồn Khi
Hấp-Hối (3 lần) mỗi khi dứt phải cúi đầu và niệm câu chú của Thầy (3 lần).
Còn như bịnh nhơn vừa tắt
hơi thì tụng kinh Khi Đã Chết Rồi (3 lần).
***
(1) Lời dặn: Cầu hồn cho
Chức-Sắc thì kêu Thánh-danh hay là Hiền-Huynh
***
Tẩn-Liệm
Cách thể nghi tiết làm
cũng như cầu hồn vậy, nghĩa là phải cúng Thầy trước, rồi đến chỗ người chết
nằm, tụng kinh Tẩn-Liểm (3 lần). Tụng rồi thì tang chủ lạy vong linh nghĩa là lạy
xác rồi mới tẩn liệm.
Cầu-Siêu
Đương lúc làm phép xác,
phải tụng kinh:
''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ A-Di-Đà Phật độ
chúng dân'' v.v...
(rồi tụng tiếp bài: "Kinh Khi Đã Chết Rồi")
''Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào Nhập trong Bát-Quái mới
vào Ngọc-Hư ...''
Tụng như vậy ba lần, mỗi
lần dứt phải cúi đầu.
Sau rốt hết phải niệm câu
chú của Thầy (3 lần). Tiếp tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.
Những nhà ở xa Thánh-Thất,
không thể đến làm phép xác được, thì sau khi tẩn-liệm, lập một bàn thờ vong
trước linh-cữu, rồi vị chứng đàn cầu nguyện Thầy (1) đặng thỉnh vong đến trước
Điện tiền (2) và cũng tụng như ở trên đây vậy.
***
(1) Lên nhang đèn tử tế,
không có đọc kinh cúng Tứ-Thời. Vị chứng đàn phải chức-sắc Thiên-phong hay là
chức-việc Chánh, Phó Trị-sự hoặc Thông-sự. Phải có 2 vị chức-sắc hay là
chức-việc nhỏ hơn vị chứng đàn, cầm hai cây đèn cầy đứng hai bên.
(2) Nơi Điện tiền, sau chỗ
vị đứng đàn phải để trống mt chỗ, nghĩa là cho vong quì cúng Thầy và nghe tụng
kinh.
- Hành lễ nơi Thánh-Thất
thượng-sớ kêu Điện-tiền, còn nơi tư-gia thì kêu Thiên-Bàn
***
Thành-Phục
Cúng Thầy trước, có thượng
sớ, rồi cúng Thành-Phục (làm theo lễ Nho).
Cúng Triêu, Tịch cũng làm
lễ Nho.
Đưa Linh-Cữu
Cúng Thầy trước, rồi làm
lễ cáo từ Tổ. Khi làm lễ cáo từ Tổ thì tụng Kinh Cầu Tổ-Phụ (3 lần) và tiếp
tụng Kinh Cứu-Khổ (3 lần), hễ dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần). Kế làm lễ
Khiển-Điện, làm lễ Nho.
Xong rồi cho Đạo-Tỳ nhập
bái quan (1). Hễ phát hành thì Đồng-nhi tụng bài Kinh Đưa Linh Cữu ra tới
huyệt.
Khi đưa linh-cữu ra ngoài
đàng thì sắp đặt như sau nầy:
1.) Hễ là Tín-Đồ tới
Lễ-sanh thì cây phướn của Thượng-Sanh đi trước, còn hàng chức-sắc từ Giáo-hữu
đổ lên thì cây phướn Thượng-Phẩm đi trước (hai cây phướn Thượng-Sanh,
Thượng-Phẩm ấy thế cho tấm triệu).
2.) Bàn thờ vong
3.) Đồng-nhi đi hai hàng
(Nam tả, Nữ hữu).
4.) Linh cữu
5.) Tang chủ đi kế sau
linh cữu
6.) Nữ phái
7.) Nam phái chót hết.
***
(1) Giảm bớt cách tập đi
lộn hàng, móc ruột, chỉ sắp hàng đôi ở ngoài đi vô cho có hàng ngũ. Khi vào bái
quan rồi, lạy bốn lạy như thường là đủ.
***
Hạ-Huyệt
Khi ra tới huyệt thì vị
chứng Đàn và đồng-nhi đứng trước đầu huyệt tụng kinh Hạ-Huyệt (3 hiệp), mỗi
hiệp cúi đầu, mãn hiệp thứ ba liền tụng ba biến Vãng-Sanh Thần-Chú. Hễ dứt thì
niệm câu chú củaThầy (3 lần).
Làm Tuần Cửu
Từ Nhứt-cửu tới Cửu-cửu,
kỳ nào cũng phải cúng Thầy trước (cúng tiểu-đàn) có dâng Tam-Bửu và thượng sớ,
song không có lễ nhạc.
Khi cúng Thầy rồi, thỉnh
linh vị đến trước Điện-tiền, tụng bài kinh khai-cửu, rồi tiếp tụng kinh nhứt
hoặc nhị-cửu (tụng như vậy cho đủ ba hiệp). Đến khi dứt thì niệm câu chú của
Thầy (3 lần và lạy 12 lạy).
Mỗi tuần cửu phải quì tụng
Di-Lặc Chơn-Kinh nơi trước Bửu-điện. Hễ dứt hiệp thì niệm danh mỗi vị Phật và
lạy một lạy.
Sau rốt hết niệm câu chú
của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.
Tụng nhiều chừng nào tốt
chừng nấy, song mỗi hiệp tụng ba người đến 6 người cho ăn rập nhau.
Tiểu-Tường
(200 ngày)
Đếm đủ 200 ngày kể từ ngày
làm tuần cửu-cửu rồi mới làm lễ Tiểu-tường.
Cách thể nghi tiết thì
cũng làm y như làm tuần cửu-cửu vậy, nghĩa là cúng Tiểu-Đàn, có dâng Tam-Bửu và
thượng sớ, rồi thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng Kinh Khai Tiểu-Tường kế
tiếp tụng Kinh Tiểu-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp). Đến khi dứt thì niệm
câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.
Tụng Di-Lặc Chơn-Kinh.
Còn sự cúng vong thì nên
cúng nơi nhà thờ tiền vãng, làm lớn hay nhỏ tùy sức tang chủ và phải thương
lượng trước với Lễ-viện.
Đại-Tường
(300 ngày)
Đếm đủ 300 ngày kể từ ngày
làm Tiểu-Tường rồi mới làm Đại-Tường.
Nghi lễ cách làm cũng y
như Tiểu-Tường vậy, nhưng trước hết phải tụng Kinh Khai Đại-Tường rồi tiếp tụng
Kinh Đại-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp) đến khi dứt thì niệm câu chú của
Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.
Tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.
Đại-tường mãn tang, lễ
Trừ- phục, cúng vong làm lễ Nho.
Cầu-Hồn và Cầu-Siêu
cho người chưa nhập môn cầu Đạo
Những người chưa nhập môn
cầu Đạo, chẳng luận giàu sang hay nghèo-hèn, già cả hay trẻ bé, cùng đã có nhập
môn rồi bị sa ngã bỏ Đạo, mà đến giờ chót của người biết hồi tâm tin tưởng Đức
Chí-Tôn, hay là người chết rồi mà thân tộc người tin tưởng Đức Chí-Tôn, đến
rước chúng ta cầu hồn cùng là cầu siêu thì chúng ta cũng nên thi ân giúp đỡ
linh hồn ấy siêu thoát. Ấy là một điều phước đức độ linh hồn con cái của Đức
Chí-Tôn y theo chơn truyền tận độ.
Song cách thể hành Đạo,
chức-sắc và chức việc phải làm y như vầy:
1.) Về việc cầu siêu, nếu
gần Thánh-Thất thì cầu-siêu nơi Thánh-Thất.
2.) Nếu ở xa Thánh-Thất
thì thiết-lễ cầu-siêu nơi nhà Chức-sắc hoặc Chức-việc gần đó.
3.) Nếu người trong thân
chịu nhập môn thì dễ hơn. Chức việc cứ đến thượng tượng cho nhập môn rồi thiết
lễ tang sự luôn.
4.) Về việc cầu hồn làm
tại nhà tang chủ.
Cầu hồn thì duy tụng bài: Kinh Cầu-Siêu
''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ, A-Di-Đà Phật độ
chúng dân'' v.v... Tối lại cả Đạo-hữu và gia quyến của người lâm chung phải thành tâm
tụng Di-Lặc Chơn-Kinh cho tới ngày di linh cữu.
Điều trọng yếu hơn hết là
trọn tang-môn phải giữ trai giới trong mấy ngày Linh-cữu còn tại tiền thì mới
làm bạt-tiến cho linh hồn giải thoát đặng.
Cách Nhập-Đàn Hành-Lễ Cúng
Phật-Mẫu
Khi nhập-Dàn cúng
Phật-Mẫu, thì cũng chấp tay bắt ƒn-Tý xá 3 xá, quì xuống để tay lên trán niệm:
- Nam-mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn (cúi đầu).
- Nam-mô Cửu-Vị Tiên-Nương (cúi đầu).
- Nam-mô Bạch-Vân-Động Chư-Thánh (cúi đầu).
(chớ không có lấy dấu
Phật, Pháp, Tăng ....)
Lúc lạy thì niệm
"Nam-mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn" (3 lạy, mỗi lạy 3 gật / 9
lạy/)
Kinh Thiên Đạo
Kinh Cúng Tứ Thời
* * *
Niệm Hương
(Giọng
Nam-Ai)
Đạo gốc bởi
lòng thành tín hiệp,
Lòng nương nhang khói
tiếp truyền ra.
Mùi hương lư ngọc
bay xa,
Kính thành cầu-nguyện Tiên-gia chứng lòng.
Xin Thần, Thánh ruổi-dong cỡi hạc,
Xuống phàm-trần
vội gác xe Tiên.
Ngày nay Đệ-tử khẩn-nguyền,
Chín tầng Trời,
Đất thông truyền chứng tri.
Lòng sở vọng gắng
ghi đảo-cáo,
Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.
Niệm: "Nam-mô
Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" (12 lạy)
*
* *
Khai Kinh
(Giọng Nam-Ai)
Biển trần khổ vơi
vơi Trời nước,
Ánh Thái-Dương
giọi trước phương đông.
Tổ-Sư Thái-Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ, dày
công giúp Đời.
Trong Tam-Giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm
phải làm lành.
Trung-Dung Khổng-Thánh chỉ rành,
Từ-Bi Phật dặn: Lòng thành lòng
nhơn.
Phép Tiên-Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba
nhánh in nhau.
Làm người rõ thấu
lý sâu,
Sửa lòng trong
sạch tụng cầu Thánh-Kinh. (gật đầu)
*
* *
Kinh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế
(Giọng Nam-Xuân)
Đại-La Thiên-Đế
Thái-Cực Thánh-Hoàng
Hóa dục quần sanh
Thống-ngự vạn-vật.
Diệu-diệu
"Huỳnh-Kim-Khuyết".
Nguy-nguy
"Bạch-Ngọc-Kinh".
Nhược thiệt, nhược
hư,
Bất ngôn nhi mặc
tuyên đại hóa.
Thị không, thị
sắc,
Vô-vi nhi dịch sử
quần-linh.
Thời thừa lục
long,
Du hành bất tức.
Khí phân Tứ Tượng,
Hoát triền vô
biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện ác
tất kiến,
Huyền phạm quảng
đại.
Nhứt toán họa
phước lập phân.
Thượng chưởng Tam
thập lục Thiên,
Tam Thiên Thế
Giái.
Hạ ốc Thất thập
nhị Địa,
Tứ Đại Bộ-Châu.
Tiên-Thiên
Hậu-Thiên.
Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
Kim ngưỡng, cổ
ngưỡng,
Phổ-Tế
Tổng-Pháp-Tông.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân,
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.
Trạm tịch chơn
Đạo,
Khôi mịch tôn
nghiêm
Biến-hóa vô cùng,
Lũ truyền Bửu-Kinh
dĩ giác thế,
Linh oai mạc trắc,
Thường thi Thần
giáo dĩ lợi sanh.
Hồng oai, Hồng từ,
Vô cực, vô thượng.
Đại-Thánh,
Đại-Nguyện, Đại-Tạo, Đại-Bi.
Huyền-Khung Cao Thượng-Đế,
Ngọc-Hoàng tích phước hựu tội,
Đại Thiên-Tôn.
Niệm: "Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát" (12 lạy)
*
* *
Thích Giáo
Nhiên-Đăng Cổ-Phật
chí tâm qui mạng lễ
(Giọng Nam-Xuân)
Hỗn-Độn Tôn-Sư,
Càn-Khôn Chủ-Tể.
Qui Thế-Giái ư
nhứt khí chi trung,
Ốc trần-huờn ư
song thủ chi nội.
Huệ đăng bất diệt,
Chiếu Tam-thập-lục
Thiên, chi quang-minh.
Đạo pháp trường
lưu,
Khai cửu-thập-nhị
Tào chi mê-muội.
Đạo cao vô-cực,
Giáo xiển hư-linh.
Thổ khí thành
hồng,
Nhi nhứt trụ xang
thiên.
Hóa kiếm thành
xích,
Nhi tam phân thác
địa,
Công tham
Thái-cực,
Phá nhứt khiếu chi
huyền quang,
Tánh hiệp vô-vi.
Thống tam-tài chi
bí chỉ,
Đa thi huệ trạch,
Vô lượng độ nhơn
Đại Bi Đại Nguyện,
Đại-Thánh Đại Từ,
Tiên-Thiên Chánh
Đạo
Nhiên-Đăng Cổ-Phật
Vô-vi Xiển-giáo Thiên-Tôn.
Niệm: "Nam-mô Nhiên-Đăng Cổ-Phật Đại-Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát " (9 lạy)
*
* *
Tiên Giáo
Thái-Thượng chí
tâm qui mạng lễ
(Giọng Nam-Xuân)
Tiên-thiên khí
hóa.
Thái-Thượng Đạo-Quân,
Thánh bất khả tri,
Công bất khả nghị.
Vô-vi cư Thái-cực
chi tiền.
Hữu thỉ siêu quần
chơn chi thượng
Đạo cao nhứt khí
Diệu hóa Tam Thanh
Đức hoán hư linh,
Pháp siêu quần
thánh
Nhị ngoạt thập ngũ
Phân tánh giáng
sanh;
Nhứt thân ức vạn,
Diệu huyền thần
biến
Tử khí đông lai,
Quảng truyền đạo
đức.
Lưu sa tây độ,
Pháp hóa tướng
tông;
Sản Tất-Viên,
Phương-Sóc chi bối.
Đơn tích duy mang.
Khai Thiên Địa
nhơn-vật chi tiên,
Đạo kinh hạo kiếp,
Càn-khôn hoát vận.
Nhựt nguyệt chi
quang.
Đạo pháp bao la,
Cửu hoàng tỉ tổ.
Đại-Thiên
Thế-Giái,
Dương tụng từ ân.
Vĩnh kiếp quần
sanh,
Đại-Thần Đại-Thánh
Chí cực chí tôn
Tiên-Thiên chánh
nhứt.
Thái-Thượng Đạo-Quân.
Chưởng-Giáo Thiên-Tôn.
Niệm: "Nam-mô Thái-Thượng Đạo-Tổ Tam-Thanh
Ứng-Hóa Thiên-Tôn" (9 lạy)
*
* *
Nho Giáo
Khổng-Thánh chí
tâm qui mạng lễ
(Giọng Nam-Xuân)
Quế hương nội
điện.
Văn-Thỉ thượng cung.
Cửu thập ngũ hồi
Chưởng thiện quả ư
thi thơ chi phố.
Bá thiên vạn hóa,
Bồi quế thọ ư
âm-chất chi điền.
Tự lôi trữ bính
linh ư phụng lãnh,
Chí như ý từ,
tường ư ngao trụ.
Khai nhơn-tâm tất
bổn ư đốc thân chi hiếu.
Thọ quốc mạch tất
tiên ư trí chúa chi trung.
Ứng mộng bảo sanh,
Thùy từ mẫn khổ,
Đại Nhơn, Đại
Hiếu, Đại Thánh, Đại Từ.
Thần văn, Thánh
võ, Hiếu đức trung nhơn.
Vương-Tân sách
phụ,
Nho-Tông khai hóa,
Văn-Tuyên Tư -Lộc,
Hoằng nhơn
Đế-quân.
Trừng chơn chánh
quang.
Bửu-Quang từ tế Thiên-Tôn.
Niệm: "Nam-mô Khổng-Thánh Tiên-Sư Hưng-Nho
Thạnh-Thế Thiên-Tôn" (9 lạy)
*
* *
Bài Dâng Hoa
(Thài theo giọng
Đảo Ngũ-Cung)
Từ-Bi giá ngự rạng môn thiền,
Đệ-tử mừng nay hữu
huệ duyên.
Năm sắc hoa tươi
xin kỉnh lễ,
Cúi mong Thượng-Đế rưới ân Thiên. (1)
(1 lạy 4 gật)
(1) Khi cúng Phật-Mẫu thì
đọc:
"Cúi mong Phật-Mẫu rưới ân Thiên." (3 lạy 9 gật)
*
* *
Bài Dâng Rượu
Thiên-ân huệ chiếu giáng thiền minh,
Thành kỉnh trường
xuân chước tửu quỳnh.
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,
Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh.
(1 lạy 4 gật)
*
* *
Bài Dâng Trà
Mai xuân nguyệt
cúc vị trà hương,
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.
Ngưỡng-vọng Từ-Bi gia-tế phước,
Khai minh Đại-Đạo hộ thanh-bường.
(1 lạy 4 gật)
*
* *
Ngũ Nguyện
(Giọng Nam-Xuân)
Khi đọc kinh cúng tứ thời
rồi, phải nhớ đọc năm câu nguyện sau này:
Nam-Mô
Nhứt-nguyện: Đại-Đạo hoằng-khai.
Nhì-nguyện: Phổ-Độ chúng sanh.
Tam-nguyện: Xá tội đệ tử.
Tứ-nguyện: Thiên-hạ thái-bình.
Ngũ-nguyện: Thánh-Thất an-ninh.
Niệm: "Nam-Mô
Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" (12 lạy)
*
* *
Phật Mẫu ChơnKinh
(Giọng
Nam-Xuân)
Tạo-Hóa Thiên Huyền-Vi Thiên-Hậu,
Chưởng
Kim-Bàn Phật-Mẫu Diêu-Trì.
Sanh quang dưỡng-dục quần-nhi,
Chơn-linh phối
nhứt thân vi Thánh hình.
Thiên-Cung xuất
Vạn-linh tùng pháp,
Hiệp âm dương hữu
hạp biến sanh.
Càn Khôn sản-xuất
hữu hình,
Bát hồn vận-chuyển
hóa thành chúng-sinh.
Cộng vật-loại
huyền-linh đồ nghiệp,
Lập tam-tài định
kiếp hòa căn.
Chuyển-luân định
phẩm cao thăng,
Hư-vô bát-quái trị
thần qui nguyên.
Diệt tục kiếp
trần-duyên oan trái,
Chưởng đào tiên
thủ giải trường-tồn.
Nghiệp hồng vận tử
hồi môn,
Chí-công định vị
vĩnh-tồn Thiên-Cung.
Chủ Âm-quang thường tùng Thiên-mạng,
Độ chơn-thần nhứt
vãng nhứt lai.
Siêu thăng phụng
liễn qui khai,
Tiên-Cung Phật xứ Cao-Đài xướng danh.
Hội nguơn hữu
Chí-Linh huấn chúng,
Đại Long-Hoa nhơn
chủng hòa Ki. (là cơ)
Tam-kỳ khai-hiệp
Thiên-thi,
Khoa-môn Tiên-vị
ngộ kỳ Phật duyên.
Trung khổ-hải độ
thuyền bát-nhã,
Phước từ-bi giải
quả trừ căn.
Huờn hồn chuyển
đọa vi thăng,
Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm.
Thập Thiên-Can bao
hàm vạn tượng,
Tùng Địa-Chi hóa
trưởng càn-khôn.
Trùng huờn phục vị
thiên-môn,
Nguơn-linh hóa
chủng quỉ hồn nhứt thăng.
Vô siêu đọa quả
căn hữu pháp,
Vô khổ hình nhơn
kiếp lưu oan.
Vô địa-ngục, vô
quỉ-quan,
Chí-Tôn đại xá nhứt trường qui-nguyên.
Chiếu nhũ-lịnh Từ-Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam,
bắc, đông, tây.
Kỳ khai tạo nhứt
Linh-Đài,
Diệt hình tà-pháp
cường khai Đại-Đồng.
Hiệp vạn-chủng
nhứt môn đồng mạch,
Qui thiên-lương
quyết sách vận-trù.
Xuân-Thu,
Phất-Chủ, Bát-Vu,
Hiệp qui Tam-Giáo
hữu cầu Chí-Chơn.
Phục nguyên-nhơn
huờn tồn Phật tánh,
Giáo-hóa hồn hữu
hạnh hữu duyên.
Trụ căn quỉ khí
cửu-tuyền,
Quảng khai thiên
thượng tạo quyền chí công.
Lịnh Mẫu-Hậu khai Tông định Đạo,
Ân dưỡng sanh
đảm-bảo hồn-hài.
Càn Khôn Tạo-Hóa
sánh tài,
Nhứt triêu nhứt
tịch kỉnh bài mộ khang.
Niệm : "Nam-mô Diêu-Trì Kim Mẫu Tạo-Hóa Huyền Thiên Cảm Bái"
"Nam-Mô
Đại-Từ-Bi Năng Hỉ-Xả Thiên-Hậu, Chí-Tôn, Đại-Bi Đại-Ái".
*
* *
Tán Tụng Công Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu
(Giọng Nam-Ai)
Kể từ hỗn-độn sơ
khai,
Chí-Tôn hạ chỉ
trước đài Linh-Tiêu.
Lưỡng-nghi phân
khí hư-vô,
Diêu-Trì Kim-Mẫu nung lò hóa sanh.
Âm-Dương biến tạo
chơn-thần,
Lo cho nhơn vật về
phần hữu-vi.
Mớm cơm vú sữa
cũng tay,
Dưỡng-sanh đùm bọc
với tài chí công.
Xét vì nhơn vật lẽ
đồng,
Chắt-chiu hằng để
trọn lòng chung thương.
Chí mong hòa-hảo
âm dương,
Thuận căn theo lối
bước đường vẹn chơn.
Mẫu-Nghi hằng giữ lòng đơn,
Mảng lo cho trẻ
đặng toàn mảnh thân.
Riêng thương Kim-Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ
lạc-lầm bấy lâu.
Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
Cũng vì tà-mị dẫn
đường con thương.
Đỉnh chung
là miếng treo gương,
Khiến nên trẻ dại
lạc đường quên ngôi.
Ngọt ngon trẻ
nhiễm mến mùi,
Trẻ nào có biết
khúc nôi đoạn-trường.
Ngồi trông con
đặng phi thường,
Mẹ đem con đến tận
đường hằng sanh.
Xưa con không thấu
cội nhành,
Vì đường Đạo bế
biệt cành hoa rơi.
Từ con cách Mẹ phương Trời,
Trầm-luân khổ-hải
chơi-vơi sóng trần.
Dầu thương nhắm
mắt đưa chơn,
Giờ nay gặp lối
nghiệt trần giảm tiêu.
Ngọc-Hư định phép
cũng nhiều,
Phái Vàng Mẹ lãnh
dắt-dìu trẻ thơ.
Trước kia trẻ vẫn
mịt-mờ,
Từ đây mới hản ơn
nhờ Mẫu-Nghi.
Đắc truyền khai
mối Tam-Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu-Trì Cửu Nương.
Chín cô đã sẵn lòng thương,
Mê tân độ chúng
buồm trương thoát vòng.
Lục-Nương phất phướn truy hồn,
Tang-thương nay
lúc bảo tồn chúng-sanh.
Bát-Nương thật đấng chí-linh,
Cùng chung giáo
hóa chung cùng lo âu. [1]
Thất-Nương khêu đuốc Đạo đầu,
Nhờ Người gọi ánh
nhiệm-mầu huyền-vi. [2]
Môn sanh thiện
niệm hằng ngày,
Cúi xin Kim-Mẫu muôn loài cứu ương.
Đê đầu khấu bái
Nương-Nương,
Nén hương đạm bạc
xin thương chứng lòng.
Niệm : "Nam-Mô Tạo-Hóa Huyền-Thiên Diêu-Trì Kim
Mẫu"
"Nam-Mô
Tạo-Hóa Huyền-Thiên Cửu Vị Nữ-Phật".
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992.
[1] - Cùng chung giáo hóa ân cần chung cùng lo âu.
Thất-Nương khêu đuốc Đạo
đầu,
[2] - Nhờ Người gợi gọi ánh nhiệm-mầu huyền-vi.
*
* *
Kinh Giải Oan
(Giọng Nam-Xuân)
Vòng xây chuyển
vong hồn tấn-hóa,
Nương xác thân
hiệp ngã Càn-khôn.
Bước đường sanh tử
đã chồn,
Oan-oan
nghiệt-nghiệt dập-dồn trái căn.
Luật nhơn quả để
răn Thánh-đức,
Cửa luân-hồi nhắc
bực cao-siêu.
Dầu chăng phải mực
Thiên-điều,
Cũng quyền tự chủ
dắt-dìu thiên-lương.
Dòng khổ-hải hễ
thường chìm đắm,
Mùi đau thương đã
thấm chơn-linh.
Dây oan xe chặt
buộc mình,
Nhớp-nhơ lục dục
thất tình nhiễm thân.
Chịu ô-trược
chơn-thần nặng trịu,
Mảnh hình hài
biếng hiểu lương-tâm.
Phong-trần quen
thú cung âm,
Cảnh thăng
ngơ-ngẩn lạc-lầm phong-đô.
Khối trái chủ
nhẫng lo vay trả,
Mới gây nên nhân
quả nợ đời. [1]
Rảnh mình đâu đặng
thảnh-thơi,
Thiên cung lỡ lối
chơi-vơi cõi trần.
May đặng gặp
hồng-ân chan rưới,
Giải trái-oan
sạch tội tiền khiên.
Đóng
địa-ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường
Cực-Lạc, dẫn miền Tây-Phương.
Nhập
Thánh-thể dò đường cựu vị,
Noi
Chơn-Truyền khử quỉ trừ ma.
Huệ-quang
chiếu thấu chánh tà,
Chèo thuyền
Bát-Nhã Ngân-hà độ sanh.
Cứ noi bóng
CHÍ-LINH soi bước, [2]
Gội mê-đồ
tắm nước MA-HA.
Liên-đài may
nở thêm hoa,
LÃO-ĐAM cũng
biết, THÍCH-GIÀ cũng quen.
Niệm 3 lần
: "Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát"
PHẠM HỘ-PHÁP
Kinh Thiên
Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân 1992
.........
[1] - Mới gầy gây nên
nhân quả nợ đời.
.........
[2] - Cứ nương noi bóng
CHÍ-LINH soi bước,
*
* *
Kinh Tắm Thánh
(Giọng
Nam-Xuân)
Những
vạn-vật Âm Dương Tạo-Hóa,
Dầu cỏ cây
hoa quả biến sanh.
Con người
đứng phẩm tối linh,
Nửa người
nửa Phật nơi mình anh nhi.
Đại Từ-Phụ
Từ-Bi tạo-hóa,
Tượng mảnh
thân giống cả Càn-Khôn.
Vẹn toàn đủ
xác đủ hồn,
Xây cơ
chuyển thế bảo-tồn vạn-linh.
Xin gìn-giữ
Thánh hình thanh-bạch,
Xin xá ân
rửa sạch tiền khiên.
Căn xưa ví
dữ cũng hiền,
Dầu ra cửa
tội đủ quyền cao-siêu.
Công nuôi dưỡng nâng-niu khổ
nhọc,
Phép thương yêu
cũng học nơi Thầy.
Sanh nơi đây, ở
nơi đây,
Trăm năm là tuổi
đủ đầy mạng căn.
Chốn hồng-trần
quen lằn gió bụi,
Cảnh phù-ba may
rủi cũng duyên.
Đã gan dốc kiếm
diệu-huyền,
Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.
Đừng thối chí ngã lòng trở gót,
Để cho đời chua xót tình thương.
Trăm năm thọ khảo
vĩnh-trường,
Thuận căn thuận
mạng đôi đường cao thăng.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
NGUYỆT-TÂM CHƠN-NHƠN
*
* *
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối
(Giọng Nam-Ai)
Rắp nhập cảnh
Thiêng-Liêng Hằng-Sống,
Chốn quê xưa giải
mộng trần-gian.
Dìu đường thoát
tục nắm phan,
Trông Kinh
Bạch-Ngọc định thần giải căn.
Diêu-Trì Cung sai
nàng Tiên-Nữ,
Phép Lục-Nương
gìn-giữ chơn-hồn.
Tây phương
Tiếp-Dẫn Đạo-Nhơn,
Phướn linh khai mở
nẻo đường Lôi-Âm.
Ớ..(tên họ kẻ qui
vị)..thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí-Tôn
linh hiển độ sanh.
Ăn-năn sám-hối tội
tình,
Xét câu minh-thệ
gởi mình cõi thăng.
Dầu nghiệt-chướng
số căn quả báo,
Đừng hãi-kinh
cầu-đảo Chí-Tôn.
Cửa địa-ngục, khá
lánh chơn,
Ngọc-Hư Cực-Lạc
đon đường ruổi dong.
Dầu trọn kiếp sống
không nên Đạo,
Dầu oan-gia
tội báo buộc ràng.
Chí-Tôn xá
tội giải oan,
Thánh, Thần,
Tiên, Phật, cứu nàn độ vong.
Kìa chiếu
diệu bóng hồng Bắc-Đẩu,
Kìa im-đìm
phúc-hậu Nam-Tào.
Cảnh thăng
trổi gót cho mau,
Xa vòng
tục-lự đặng chầu CHÍ-LINH.
Nam-Mô
Cao-Đài . . . (Niệm 3 lần)
NGUYỆT-TÂM
CHƠN-NHƠN
*
* *
Kinh Khi Đã Chết Rồi
(Giọng
Nam-Ai)
Ba mươi sáu cõi
Thiên-Tào,
Nhập trong
Bát Quái mới vào Ngọc-Hư.
Quê xưa trở cõi
đọa từ,
Đoạt cơ thoát tục
bấy chừ tuyệt luân.
Dưới chín lớp liên
thần đưa rước, [1]
Trên hồng quang
phủ phước tiêu-diêu.
Linh-Tiêu-Điện,
bảng danh nêu,
Nguyên-căn đẹp vẻ
mỹ-miều cao thăng.
Kinh Bạch-Ngọc
muôn lằn điễn chiếu,
Kêu chơn hồn vịn
níu chơn-linh.
Năng lai năng khứ
khinh khinh,
Mau như điễn chiếu
nhẹ thành bóng mây.
Cửa Tây-Phương khá
bay đến chốn,
Diệt trần tình vui
hưởng tiêu-diêu.
Tiên-phong
Phật-cốt mỹ-miều,
Vào kinh Bạch-Ngọc
lễ triều CHÍ-LINH.
Nam-Mô Cao-Đài . .
. (Niệm 3 lần)
NGUYỆT-TÂM
CHƠN-NHƠN
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
[1] - Dưới chín lớp liên
thần đưa bước rước,
...........
*
* *
Kinh Tẩn Liệm
(Giọng Nam-Ai)
Dây oan-nghiệt dứt
rời trái-chủ,
Nương huyền-linh
sạch giũ thất-tình.
Càn khôn bước
Thánh thượng trình,
Giải xong xác tục
mượn hình Chí-Tôn.
Khối vật chất vô
hồn viết tử,
Đất biến hình tự
thử qui căn.
Đừng vì thân ái
nghĩa nhân, [1]
Xôn-xao thoát khổ
xa lần bến mê.
Hồn Trời hóa trở
về Thiên cảnh,
Xác Đất sanh đến
lịnh phục hồi.
Từ từ
Cực-Lạc an vui,
Lánh nơi
trược khí hưởng mùi siêu-thăng.
Nam-Mô
Cao-Đài . . . (Niệm 3 lần)
NGUYỆT-TÂM
CHƠN-NHƠN
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
[1] - Đừng gìn vì thân ái
nghĩa nhân,
........
*
* *
Kinh Cầu Siêu
(Giọng
Nam-Ai)
Đầu vọng bái
Tây Phương Phật-Tổ,
A-Di-Đà Phật
độ chúng dân.
Quan-Thế-Âm
lân-mẫn ân-cần,
Vớt lê-thứ
khổ trần đọa lạc.
Đại-Thánh
Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát,
Bố Từ-Bi
tế-bạt vong hồn.
Cứu khổ nàn
Thái-Ất Thiên-Tôn,
Miền âm-cảnh
ngục-môn khai-giải.
Ơn Đông-Nhạc
Đế-Quân quảng-đại,
Độ kẻ lành chế cải
tai ương.
Chốn Dạ-đài
Thập-Điện Từ-Vương,
Thấy hình khổ lòng
thương thảm-thiết.
Giảm hình phạt bớt
đường ly-tiết,
Xá linh-quang
tiêu-diệt tiền-khiên,
Đặng nhẹ-nhàng
thẳng đến cung Tiên,
Nơi Phước-địa ở
yên tu-luyện.
Xin Trời Phật
chứng lòng sở-nguyện,
Hộ thương-sanh u
hiển khương-ninh. (1)
(1) Tụng tiếp bài kinh CẦU
HỒN KHI ĐÃ CHẾT RỒI "Ba mươi sáu cõi
Thiên-Tào..." vì sợ e cho vong-hồn hoặc là người không tu mà Hội-Thánh
mới độ hồn, hoặc Đạo-Hữu phạm thệ mà đi xuống cõi Phong-Đô, nên trước phải tụng
bài Kinh Cầu Siêu "Đầu vọng-bái
Tây-Phương Phật-Tổ v.v..." hầu cho vong-hồn hồi-dương đặng rồi, thì
tụng tiếp bài KINH KHI ĐÃ CHẾT RỒI "Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào..."
đặng vong-hồn hưởng phép siêu-thăng Tịnh-độ.
Phải tụng xen kẽ như vậy
cho đủ 3 lần.... Khi dứt thì niệm câu chú: NAM-MÔ CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT
MA-HA-TÁT (3 lần).
.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét