
Ngày
20-03-1935 (âl. 16-02-Ất Hợi): Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn dạy về phẩm vị
Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài.
Tòa Thánh, ngày 16 tháng
02 năm Ất Hợi (20-03-1935).
CHƯỞNG
ÐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
QU. VICTOR HUGO
Cười.... Khi nãy có Thượng
Phẩm và Qu. Giáo Tông nơi đây, song hai vị mới hộ tiếng Nữ phái.... Cười....
Quí hóa dữ ha! Thưa Hộ Pháp, Bần Ðạo để lời chia vui cùng Ngài. Khi hôm qua nhờ
có Thánh chỉ Chí Tôn, nên mới đặng rộng đường xuất Thánh.... Bần Ðạo có để lời
trân trọng cầu thưởng cho học tu nên mới đặng cao phong phẩm giá.
Cười.... Phẩm trật rắc rối
khó nói rõ, nhưng chia ba: Pháp, Ðạo, Thế. Thì theo sự hiểu biết của Bần Ðạo như
vầy:
Sĩ Tải là Secrétaire
archiviste.
Lên phẩm Truyền Trạng là
Greffier.
Rồi lên phẩm Thừa Sử là
Commissaire de la Justice.
Phẩm Giám Ðạo là Inspecteur.
Lên phẩm Cải Trạng là Avocat.
Lên phẩm Chưởng Ấn là Chancelier.
Lên phẩm ấy rồi tùy phái
lên đại vị Hiệp Thiên Ðài, nhưng phải biết rằng: Chưởng Ấn phải lên đại vị Tiếp
Dẫn Ðạo Nhơn mà đắc phong phổ thông đặng một nước nào rồi mới vào chánh vị.
Lợi và mấy vị kia là Sĩ
Tải của Hiệp Thiên Ðài mà thôi.
Thăng.
Châu Tri số 1 của Qu. Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt (1933).
ÐẠI ÐẠO TAM
KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Bát Niên)
Qu. Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
CHÂU TRI (Số 1)
Cho chư Thiên Phong,
Chư vị Ðầu Họ Ðạo,
Chư vị chủ Thánh Thất,
Và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái.
Chư Hiền Hữu, chư Hiền Tỷ,
chư Hiền Muội,
Chiếu theo Thánh giáo của Ðức
Chí Tôn ngày 4-2-1933.
Chiếu theo Thánh giáo của
Ðức Lý Giáo Tông ngày 1-1-1933 và ngày 10-3-1933.
Chiếu theo những điều của
Thượng Hội quyết định ngày 25-12-1932.
Việc chánh trị của nền Ðạo
đã được sắp đặt lại từ 12-3-1933 (17-2-Quý Dậu) như sau nầy:
ÐIỀU THỨ NHỨT: Thượng Ðầu
Sư Thượng Trung Nhựt còn cầm quyền Giáo Tông mà thôi.
ÐIỀU THỨ NHÌ: Trong lúc Chưởng
Pháp chưa có chánh vị thì quyền hành Chưởng Pháp giao cho Hiệp Thiên Ðài cầm.
Ba vị Thời Quân cầm quyền Chưởng Pháp là: vị Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, vị Bảo
Thế Lê Thiện Phước, và vị Hiến Ðạo Phạm Văn Tươi.
ÐIỀU THỨ BA: Ba vị Chánh
Phối Sư: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, và Ngọc Trang Thanh còn cầm quyền
Quyền Ðầu Sư mà thôi.
ÐIỀU THỨ TƯ: Trong lúc
Chánh Phối Sư chưa có chánh vị thì quyền hành giao cho Hiệp Thiên Ðài cầm. Ba
vị Thời Quân cầm quyền Chánh Phối Sư là: Vị Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, vị Khai Ðạo
Phạm Tấn Ðãi, và vị Khai Thế Thái Văn Thâu.
Vị Khai Pháp cầm quyền
Ngọc Chánh Phối Sư.
Vị Khai Ðạo cầm quyền Thái
Chánh Phối Sư.
Vị Khai Thế cầm quyền
Thượng Chánh Phối Sư.
ÐIỀU THỨ NĂM: Ba vị Chánh
Phối Sư tân được quyền lập Nội Chánh để cầm quyền Cửu Viện tại Tòa Thánh.
Tòa Nội Chánh được chia ra
như vầy:
PHÁI THÁI:
Lương Viện:
Quản Lý: Phối Sư Thượng
Tông Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu
Thượng Hộ Thanh.
Hộ Viện:
Quản Lý: Giáo Hữu Thái Như
Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thái
Bộ Thanh, Lễ Sanh Thượng Chất Thanh.
Công Viện:
Quản Lý: Giáo Hữu Thái Gấm
Thanh,
Phó Quản Lý: Lễ Sanh
Thượng Ngươn Thanh.
PHÁI THƯỢNG:
Nội Viện:
Quản Lý: Giáo Sư Thượng
Thành Thanh, Giáo Sư Thượng Latapie Thanh.
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng
Trí Thanh, Giáo Hữu Ngọc Non Thanh.
Học Viện:
Quản Lý: Giáo Sư Thượng
Thành Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng
Sáng Thanh.
Nông Viện:
Quản Lý: Giáo Hữu Ngọc Bổn
Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng
Ðứa Thanh.
PHÁI NGỌC:
Lại Viện:
Quản Lý: Giáo Sư Thượng
Bảy Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng
Tuy Thanh, Giáo Hữu Thượng Thiện Thanh, Giáo Hữu Thượng Áo Thanh.
Lễ Viện:
Quản Lý: Giáo Sư Ngọc
Trọng Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng
Mía Thanh, Giáo Hữu Thượng Lai Thanh.
Hòa Viện:
Quản Lý: Giáo Sư Thượng
Liêng Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng
Tại Thanh, Lễ Sanh Thượng Tài Thanh ...
Lễ Ðăng Ðiện và ban quyền
cho Quyền Giáo Tông, Quyền Ðầu Sư, Chánh Phối Sư và Nội Chánh đã thiết hành
ngày 12-3-1933 tại Tòa Thánh Tây Ninh, nhằm ngày 17-2-Quý Dậu.
Ba vị Chánh Phối Sư và Nội
Chánh đã bắt đầu hành chánh kể từ ngày 26-3-1933, nhằm ngày 1-3-Quý Dậu là ngày
ba vị cựu Chánh Phối Sư thăng lên Quyền Ðầu Sư, đã giao trách nhậm cho ba Chánh
Phối Sư tân là: Ba vị Khai Ðạo, Khai Pháp, và Khai Thế.
Chiếu y Ðạo Nghị Ðịnh thứ
nhì, thứ ba và thứ tư của Ðức Lý Giáo Tông thì mỗi việc chi thuộc quyền chánh
trị đều giao cho Chánh Phối Sư như là quyền thay mặt cho toàn Ðạo mà giao thông
cùng Chánh Phủ và cả Tín đồ, quyền giáo dục nhơn sanh, quyền xem xét các nơi,
chăm nom Ðạo Hữu, quyền trị Chức Sắc phần Ðạo và phần Ðời, buộc Chức Sắc làm y
phận sự, quyền tạp tụng, quyền điều đình sự phổ độ, tài liệu của Ðạo, quyền chủ
trương Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh...v...v...
Vậy chúng tôi xin khuyên
chư Thiên Phong phải hết lòng vì Ðạo, giúp cho ba vị và Hội Thánh có đủ sức thi
hành cả chương trình hành Ðạo. Chương trình nầy có in theo sau đây cho chư Chức
Sắc và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái biết.
Từ đây các việc truyền bá
trong Ðạo phải có tờ của ba vị Chánh Phối Sư tân ký hay là Ban Nội Chánh thay
mặt cho ba vị ký. Ai không được lịnh của ba vị ký mà tự chuyên đi giao thông
với chư Chức Sắc và chư Ðạo Hữu là người muốn sanh việc rối loạn làm hư nền Ðạo.
Hiện thời, Hội Thánh rất
cần việc hiến công quả, chư Ðạo Hữu có tài nghề chi cũng nên thừa lúc nầy đem
ra hiến cho Ðạo nhờ, vì một năm nay phải lo khởi cất Bát Quái Ðài.
Năm rồi Thái và Ngọc Chánh
Phối Sư có ra Châu Tri số 39 đề ngày 6-1-1932, xin chư vị Chức Sắc, Ðầu Họ Ðạo,
chủ Thánh Thất cho trong Ðạo Hữu hay, ai có lòng bác ái hộ vật thực đến Tòa
Thánh hỉ cúng đặng đủ nuôi Ðạo Hữu hiến thân làm công quả cho nền Ðạo.
Năm nay Tòa Thánh phải tạo
tác nhiều việc lớn lao, nên cũng xin chư Ðạo Hữu hết lòng lo việc hộ vật thực
như: lúa, gạo, nếp, bắp, khoai, muối,...v...v....
Các vật thực và vật dụng
hộ về Tòa Thánh đều có Chức Sắc Thiên Phong thâu nạp và chứng kiến công ơn của
chư Ðạo Hữu hỉ cúng cho Ðạo.
Ngoài năm nay Hội Thánh
còn phải lo việc phổ độ ngoại quốc (việc hiệp nhứt trong năm Quý Dậu, vì cả Thế
Giới trông mong hai chữ Hòa Bình). Năm nay là năm lập thành đại công quả xin
chư Chức Sắc và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái phải tận tâm chung lo chấn hưng nền Ðạo
cho hoàn tất, y theo Thánh giáo của Ðức Chí Tôn hồi năm Bính Dần.
Tòa Thánh, ngày 1
tháng 4 năm 1933 (Âm lịch, 7-3-Quý Dậu).
Hộ Pháp Qu. Giáo Tông
PHẠM CÔNG TẮC THƯỢNG TRUNG NHỰT
Chương Trình Hành Ðạo (01-04-1933).
Lời phụ:
Sau khi giao quyền hành
Chánh Phối Sư cho Hiệp Thiên Ðài, Qu. Giáo Tông có mời ba vị Chánh Phối Sư và
Nội Chánh hiệp về Tòa Thánh đặng lập chương trình hành Ðạo.
Trong lúc hội đặng lập
chương trình, Qu. Giáo Tông và Hộ Pháp có đến dự thính. Qu. Giáo Tông cũng có
mời ba vị Qu. Ðầu Sư hoặc đến dự kiến hoặc chỉ vẽ điều chi giúp cho nên việc
(Thơ số 34 đề ngày 4-3-1933), Qu. Ðầu Sư Thượng Tương Thanh có đến dự hội một
lần.
Chương trình hành Ðạo đã
lập thành, lẽ là phải đem ra cho Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phê
chuẩn, nhưng vì các khoản Nghị Ðịnh trong chương trình đều không trái với Pháp
Chánh Truyền, Tân Luật và Ðạo Nghị Ðịnh và nhứt là cần phải thi hành lập tức,
cho nên chúng tôi nhứt định dụng Quyền Chí Tôn giúp cho ba vị Chánh Phối Sư đủ
quyền thi hành chương trình hành Ðạo ấy, khỏi đem ra ba Hội phê chuẩn.
Quyền Chí Tôn của Giáo
Tông và Hộ Pháp do nơi Thánh giáo của Ðức Chí Tôn ngày 23-12-1931 (có in theo
đây mà có).
Tòa Thánh, ngày 1
tháng 4 năm 1933 (Âm lịch, 7-3-Quý Dậu).
Hộ Pháp Qu. Giáo Tông
PHẠM CÔNG TẮC
THƯỢNG TRUNG NHỰT
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Bát Niên)
Kính cáo cùng chư Huynh Trưởng và chư Ðạo Tỷ Thiên Phong, chư Chức Sắc và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái.
Chư Hiền Huynh, chư Hiền
Tỷ,
Bổn "Chương Trình Hành Ðạo" in theo sau đây là của chúng tôi
hiệp với Nội Chánh Cửu Trùng Ðài đặng lập thành và đã có Ðức Qu. Giáo Tông và
Hộ Pháp phê chuẩn.
Trong lúc chúng tôi và Nội
Chánh bắt đầu hành chánh thì mỗi việc chi trong Ðạo đều phải quan sát lại kỹ
lưỡng hầu tìm phương nâng cao phẩm giá nền Chánh Giáo của Ðức Từ Bi và giúp cho
nhơn sanh dễ bề tu niệm.
Vậy chúng tôi có mấy lời
tâm huyết xin chư Huynh Trưởng, chư Ðạo Tỷ và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái biết và
xin hết lòng Ðạo giúp cho chúng tôi được đủ thế sắp đặt các việc. Chúng tôi
tưởng ai ai cũng bằng lòng và cầu cho các điều kể trong chương trình của chúng
tôi hiến dâng cho thành tựu.
Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 7
tháng 3 năm Quý Dậu. (DL 1-4-1933)
Thái Chánh Phối
PHẠM TẤN ÐÃI Thượng Chánh Phối Sư
THÁI VĂN THÂU Ngọc Chánh Phối Sư
TRẦN DUY NGHĨA
NỘI CHÁNH
Phối Sư: Thượng Tông Thanh
Giáo Sư: Thượng Bảy Thanh
Giáo Sư: Thượng Thành
Thanh
Giáo Sư: Thượng Latapie
Thanh
Giáo Sư: Thượng Liêng
Thanh
Giáo Sư: Ngọc Trọng Thanh
Giáo Hữu: Thái Gấm Thanh
Giáo Hữu: Thái Như Thanh
Giáo Hữu: Thái Bộ Thanh
Giáo Hữu: Thượng Thiện
Thanh
Giáo Hữu: Thượng Tại Thanh
Giáo Hữu: Thượng Hộ Thanh
Giáo Hữu: Thượng Sáng
Thanh
Giáo Hữu: Thượng Trí Thanh
Giáo Hữu: Thượng Tuy Thanh
Giáo Hữu: Thượng Ðức Thanh
Giáo Hữu: Thượng Mía Thanh
Giáo Hữu: Thượng Lai Thanh
Giáo Hữu: Thượng Áo Thanh
Giáo Hữu: Ngọc Bổn Thanh
Giáo Hữu: Ngọc Non Thanh
Lễ Sanh: Thượng Tài Thanh
Lễ Sanh: Thượng Quơn Thanh
Lễ Sanh: Thượng Chất Thanh
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐẠO
PHÁI THÁI:
1. Lập Nội Luật Hội Thánh:
Chú Giải: Quyền Hành Chánh
tuy giao cho ba vị Chánh Phối Sư, chớ mọi việc chi thi hành đều phải do theo
chương trình Ðạo của Thượng Hội, Hội Thánh, và Hội Nhơn Sanh đã phê chuẩn.
Quyền của ba Hội là Quyền
Vạn Linh. Việc nào đã có Quyền Vạn Linh định đoạt thì Quyền Chí Tôn là quyền
của Giáo Tông và Hộ Pháp phải y theo. Quyền Chí Tôn lại quyết đoán khi nào có
sự phản khắc trong Quyền Vạn Linh, nghĩa là ba Hội không đồng ý kiến.
Chiếu theo Ðạo Nghị Ðịnh
thứ tư, điều thứ ba thì Hội Thánh phải dưới quyền Chủ Trưởng của Thái Chánh
Phối Sư và trách nhậm là lo về phổ độ, việc hành Ðạo tha phương, về tài liệu
của Ðạo, lương hướng cho Chức Sắc Thiên Phong, về tài chánh và cả nền chánh trị
của Ðạo.
Hội Thánh phải tìm phương
hay đặng tu bổ, và nâng nền lý tài của Ðạo, phải tìm phương sanh lợi cho Ðạo
nhờ. Tóm lại, phải lo cho sự sanh hoạt của toàn Ðạo đặng vững chắc về mặt tài
chánh tức là lo sự sanh hoạt của toàn Ðạo về mặt phổ độ cũng đặng mạnh mẽ.
Hội Thánh đã có phương
sanh lợi, nghĩa là: Có bên thâu, thì bên xuất cũng phải liệu phương giúp ích
cho Ðạo, phải chăm nom quan sát không cho xa xí của Ðạo và phải giúp ích cho
toàn Ðạo hưởng đặng các cơ tạo của Ðạo về phần hữu hình.
2. Thâu nạp các của cải
tài chánh làm bổn nguyên về của cả thảy:
Chú giải: Của cải tài
chánh của Ðạo như: Ðất, ruộng, nhà, ghe, xe, trâu, bò, ngựa,...v...v... đều
phải đem vô bộ sổ rành rẽ thâu Bàn Ủy Viên thường vụ. Bàn Cai Quản nầy phải
kiếm phương dụng các của ấy tức là sanh lợi của chúng sanh nhờ, chớ không nên
thâu mà làm tiêu lụn của Ðạo, phải nạp Tờ Phúc mỗi tháng, ba tháng và mỗi năm.
3. Chỉnh đốn tu bổ các nhà
cửa trong Thánh Ðịa, cất Tòa Thánh, lo cho Tiểu Thánh Thất ở các nơi phải y một
kiểu.
4. Nền lý tài lập tư bổn
phát lương hướng cho các Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ.
Chú giải: Mỗi việc chi có
thâu xuất thì phải cử một Ban Ủy Viên lo lắng và quan sát sổ sách và nạp Tờ
Phúc mỗi tháng, ba tháng và mỗi năm.
5. Liệu thế giúp sức cho
Hội Thánh Ngoại Giáo truyền bá Chơn Ðạo ra ngoại quốc.
Chú Giải: Việc phổ độ tha
phương chẳng phải kể nội vùng Ðông Pháp nầy mà đủ, mà là cả toàn cầu, đâu đâu
Hội Thánh cũng phải đến gieo truyền mối Ðạo Trời. Chủ nghĩa tối cao của Ðại Ðạo
chẳng những là hiệp Ngũ Chi qui Tam Giáo mà thôi, mà phải làm thế nào cho dầu
các bực Ðế Vương ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng Ðạo, phải đồ theo cả
cơ thể của Ðạo; phải nhờ Ðạo mới mong trị an thiên hạ đặng. Vậy mới gọi là hiệp
nhứt. Vậy mới kêu là Ðại Ðạo.
Thánh ngôn của Ðức Lý Giáo
Tông ngày 29-12-1932 lại nói rõ như vầy: "Thiên lý đã định vậy, bất kỳ nơi
nào hễ có dấu chơn người Việt Nam đến thì Ðạo mới thành được".
Trong buổi Hội Thánh đang
lo sắp đặt nội dung của Ðạo, thì Hội Thánh Ngoại Giáo đã khởi lập hầu phổ hóa
các sắc dân khác. Trên nhờ các Ðấng Thiêng Liêng chỉ giáo, với Ðức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn, Ðức Tôn Sơn Chơn Nhơn, và Bát Nương, Lục Nương Diêu Trì Cung, dưới
nhờ các Chức Sắc Ngoại Giáo hết lòng tuân y mạng lịnh cho nên khắp toàn cầu đều
nghe danh thế Ðại Ðạo Tam Kỳ. Hiện nay ở kinh đô nước Pháp là thành Paris đã có
người Pháp thọ Thiên sắc đặng lo phổ độ người Pháp và lập thành Thánh Thất. Rồi
đây Hội Thánh Ngoại Giáo phải liệu phương phổ độ lần qua nước khác nữa.
6 . Cất trường học.
7 . Sắp đặt việc ăn ở và hành Ðạo nơi Thánh Thất,
việc ăn uống của phái Nam và phái Nữ.
8 . Không cho ở trong Thánh Ðịa mà không có phận sự
và không có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay mặt cho Ngài.
9 . Không cho ở trong làng Ðạo mà không có giấy phép
của Giáo Tông hay là người thay mặt cho Ngài.
10 . Không cho cất nhà cửa hay là lập cái chi mà không
có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay mặt cho Ngài.
11 . Rào ranh Thánh Ðịa.
12 . Cất giếng nước, sắp đặt ở trục trược.
13 . Công quả về việc moi sạn.
14 . Lò gạch.
15 . Cất nhà cho Thiên Phong Chức Sắc.
PHÁI THƯỢNG:
1. Xem xét Thánh ngôn,
những điều cần ích của Ðại Từ Phụ và Ðức Lý Giáo Tông đã dạy từ thử mà chưa thi
hành. Nếu như có những điều trọng hệ cần ích phải thi thố lập tức thì Hiệp
Thiên Ðài phải làm Tờ Phúc đem ra ba Hội đặng lập Luật ban hành liền.
Chú Giải: Phải cử một Ban
Kiểm Dượt Thánh ngôn, Ban Kiểm Dượt nầy sẽ dưới quyền Chủ Trưởng của một vị
Chưởng Pháp.
Còn về thể lệ chấp cơ và
ban hành Thánh ngôn thì sẽ thi hành y theo Châu Tri số 42 ngày 01-02-1932 của
ông Cựu Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh nói về chương trình hành Ðạo của Hiệp
Thiên Ðài.
2. Bỏ bớt các Thánh Thất
không hữu dụng và không có phép của Chánh Phủ để làm nơi Phước Thiện hay là nơi
Tiểu Tổ giúp lương.
3. Lo cho Tiểu Thánh Thất
các nơi cúng kiến y một kiểu về Luật lệ cũng vậy.
Chú Giải: Lễ Nghi đã có
phái Ngọc lập cho thì cứ do theo Luật lệ ấy mà buộc các nơi hành lễ một kiểu.
4. Ðịnh trách nhậm đặc
biệt của Tòa Thánh, các Thánh Thất và Hội Thánh Ngoại Giáo về việc tùng quyền
hành Ðạo.
Chú Giải: Tòa Thánh thì có
Nội Luật riêng, còn các Thánh Thất thì phải tức cấp lập Nội Luật phân quyền cho
rành, nhứt là quyền đặc biệt của Bàn Cai Quản, chủ Thánh Thất và Ðầu Họ Ðạo. Trước
khi cho cất Thánh Thất phải quan sát buộc phải làm giấy tờ cho rành rẽ, phải
làm thế nào có tiền cất, cất rồi ai ở, Chức Sắc nào chịu ở, bề sanh hoạt thế
nào....
Ðạo Nghị Ðịnh thứ tư, điều
thứ bảy, có định để y Cửu Viện, vậy phải phân quyền hành mỗi Viện mà thi hành y
như trước.
5. Lập Báo Chương đặng
truyền bá tư tưởng Ðạo, lập Tàng Thư Viện.
Lập Bàn Kiểm Dượt kinh
sách Ðạo không có Chưởng Pháp phê chuẩn.
Cử Bàn Ủy Viên cai quản
nhà in.
6 . Liệu phương giao thiệp
cùng các Tôn Giáo và các Chi Phái nghịch Ðạo, điều hòa cho khỏi chinh nghiêng
nền Ðạo.
7 . Giao thông cùng Chánh
Phủ, minh tỏ những điều chơn thật của Ðạo.
8 . Lập trách nhiệm cho Ty
Giáo Huấn, dầu Ðạo giáo hay Thế giáo cũng vậy.
9 . Nuôi dưỡng học sanh.
10 . Lập các Sở Vệ Sinh.
11 . Lập Nội Luật Hội Nhơn Sanh.
Chiếu theo Ðạo Nghị Ðịnh
thứ tư, điều thứ tư thì Hội Nhơn Sanh dưới quyền Chủ Trưởng của Thượng Chánh
Phối Sư và trách nhậm là lo về phần giáo dục nhơn sanh, tức là Ðời, có Ðời mới
có Ðạo, mà có Ðạo mới nên Ðời thì phải liệu phương điều đình cho Ðời phải tùng
Ðạo; dìu dắt cho Ðời thấy cả cơ thể tối cao tối trọng của Ðạo và biết giá trị
của mình và cầm quyền hành Vạn Linh cho chặt; phải nâng đỡ trí thức tinh thần
của nhơn sanh lên cao đặng hiểu cho toàn chơn lý hầu đủ phương kiềm chế hành
động của Hội Thánh.
Lập thế điều độ chúng sanh
vào cửa Ðạo và liệu phương kiềm chế cho Tín Ðồ để bước trên đường Ðạo và tuân y
được các Luật Ðạo.
Lại nữa, Ðời đã có chính
trị của Ðời, thì cũng phải xây chuyển cơ Ðời cho hiệp cùng chơn tướng của Ðạo.
12 . Khai phá Thánh Ðịa.
PHÁI NGỌC:
1. Xin Quyền Giáo Tông
giao các việc hành chánh từ thử đặng quan sát lại; nhứt là Luật lịnh của Ngài
ra mà chưa thi hành.
2. Chiếu theo các Ðạo Nghị
Ðịnh mời Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phế đời hành Ðạo.
Chú Giải: Vì Chức Sắc hiến
thân trọn vẹn cho Ðạo sẽ được lương hướng y theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ tư của Ðức
Lý Giáo Tông, cho nên phải xem xét cho kỹ, vị nào hữu dụng cho Ðạo mời về; nhưng
nếu đã được lịnh mời về thì buộc phải lo phế đời hành Ðạo, bằng không lo lần
thì không kể vào Hội Thánh, không được dự vào chánh trị của Ðạo y theo Ðạo Nghị
Ðịnh thứ năm của Ðức Lý Giáo Tông. Mà hễ phế đời hành Ðạo rồi thì Hội Thánh
phải châu cấp thê nhi.
Số tiền châu cấp phải tùy
theo bực phẩm và nhứt là phải tùy theo số vợ con.
3. Trừ bỏ những Chức Sắc
tạm phong của Cửu Trùng Ðài đã thuyên bổ hành chánh các nơi.
Chú Giải: Theo Tân Luật
điều thứ ba thì phải chịu công cử, như Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư phải nhờ 3.000
vị xúm nhau công cử. Nhưng hiện thời số Chức Sắc chưa đủ thì phải cầu phong
cách nầy:
Dầu trong hàng Chức Sắc
hay trong hàng Tín Ðồ cũng phải xem xét lại công cán và hạnh đức, đem vào Sổ Bộ
Cầu Phong. Sổ ấy phải trình cho ba Hội lựa và định bực phẩm. Có ba Hội chịu rồi
thì Giáo Tông và Hộ Pháp mới ra Ðạo Nghị Ðịnh phong chức.
Ngoài ra, theo Luật Ðạo
thì Chức Sắc Thiên Phong phải lựa theo đẳng cấp mới được; Lễ Sanh thì phải lựa
trong hàng Chánh Trị Sự.
4. Bổ các Bàn Tri Sự thế
quyền Chức Sắc Thiên Phong đặng cầm quyền Ðạo các nơi.
5. Ðịnh mỗi năm cả Chức
Sắc Thiên Phong phải về Tòa Thánh mấy lần cho bớt việc tổn phí.
Chú Giải: Mỗi năm Chức Sắc
Thiên Phong phải về Tòa Thánh hai lần là ngày Ðại Lễ Ðức Chí Tôn và ngày Khai
Ðạo là ngày Rằm tháng 10. Muốn cho bớt việc tổn phí cho nên sẽ định lại ngày
Ðại Hội của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh cho trùng với hai ngày trên đây.
6. Trừ bỏ những điều Chức
Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài đã thật hành ra mặt thế mà sái
Luật Pháp.
7. Canh cải những hành
động của Cửu Trùng Ðài không phù hạp với Pháp Chánh Truyền và Tân Luật.
8. Ðịnh trách nhậm đặc
biệt của Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài.
9. Ðịnh trách nhậm đặc
biệt của mỗi Chức Sắc Cửu Trùng Ðài Nam và Nữ.
Chú Giải: Việc hành chánh
của Chức Sắc các nơi cũng phải lập thành mặt Luật. Trách nhậm của các Hội Thánh
Ngoại Giáo cũng vậy.
Luôn đây xin giải bốn chữ
Hội Thánh Ngoại Giáo:
Phải đọc Hội Thánh Ngoại
Giáo chớ không phải là Ngoại Giao. Hội Thánh Ngoại Giáo là một cái Hội của chư
Thánh để giáo Ðạo ở ngoại quốc. Bậc phẩm và trách nhậm tuy phải tuân theo Luật
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, hành chánh tuy hiện thời phải tùng quyền của Thái Ðầu Sư
nhưng cũng có phần đặc biệt là phải tùy theo tánh cách của người bổn xứ, tài
liệu và vật liệu...v...v...
10 . Chỉnh đốn các thức lệ
cúng kiến:
Chú Giải: Ngoài các thức
lệ chỉnh đàn hành lễ phải cho y một kiểu vở, phải định thêm lễ nghi về quan,
hôn, tang, tế,... buộc các nơi phải tùng theo một luật lệ, phép Giải Oan, phép
Tắm Thánh.... cũng vậy.
Về nhạc cũng phải chỉnh
đốn, nhứt là giọng đọc kinh của Ðồng Nhi, phải phân biệt ba giọng: Ai, Xuân và
Ðảo Ngũ Cung. Hơi đọc kinh có ảnh hưởng nhiều về sự hòa bình êm tịnh và phát
thạnh của Thánh Thất sở tại, cứ tụng một hơi ai oán thì không khác nào cầu sự
khổ não cho Thánh Thất mình.
Ðạo phục cũng phải y theo Pháp Chánh Truyền.
Ðáng lẽ Tòa Thánh hay là các Thánh Thất phải may Ðạo phục mà ban cho các Chức
Sắc khi thiết lễ ban quyền. Hàng Tín Ðồ không có Ðạo phục đặc biệt thì không
được mặc áo rộng tới Ðàn cúng.
Khi hành lễ phải theo đẳng cấp mà quì, người trước, người
sau y theo Pháp Chánh Truyền.
11 . Thảo Xá Hiền Cung:
Chú Giải: Thảo Xá trước đã
có lịnh dạy làm Trường Qui Thiện cho Nữ phái, thì nay cũng sắp đặt đặng có chỗ
cho các Ðạo Cô ở mà tu hành. Việc nầy sẽ bàn tính với Bà Chánh Phối Sư Nữ phái
và phải lập Bàn Cai Quản Nữ phái dưới quyền kiểm soát của Tòa Thánh.
12 . Lập Nội Luật Tòa
Thánh và Thánh Ðịa:
Chú Giải: Chẳng phải nội
Ðền Thờ Ðức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mà kêu là Tòa Thánh. Cả
khuôn viên của Tòa Thánh là gồm hết Thánh Ðịa, gồm cả Thành Ðạo mà người làm
chủ là Giáo Tông hay là người thay mặt cho Ngài.
Nội Luật của Tòa Thánh
phải cần có đặng thi hành lập tức.
13 . Kiểm soát các người giúp việc riêng cho các Chức
Sắc tại Tòa Thánh. Thuyên bổ người tuần phòng Thánh Ðịa Tòa Thánh và người giúp
việc tại tư gia của Chức Sắc trong Thánh Ðịa.
14 . Kiểm soát các án tiết
của Tòa Tam Giáo đặng xin ân xá.
15 . Hội cả ba Hội đặng cầu phong thêm Chức Sắc và
thăng thưởng các Chức Sắc có công lao. Cầu phong cho Ðầu Sư Nữ Phái.
Bài Diễn Văn của Ðức Quyền
Giáo Tông, ngày 20-05-1934 (08-04-Giáp Tuất): Vía Ðức Phật Thích Ca Về Phương
Diện Chánh Thể Ðạo.
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ
ÐỘ
(Ðệ Cửu Niên)
Bài Diễn Văn của Ðức Quyền
Giáo Tông đọc tại Tòa Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934).
Vía Ðức Phật Thích Ca Về
Phương Diện Chánh Thể Ðạo
Chư Ðạo Hữu cùng chư Ðạo
Muội,
Buổi chênh nghiêng Ðạo đã
hầu qua. Tâm lý toàn con cái của Ðức Ðại Từ Phụ dường như đặng chuẩn thằng, an
tịnh đủ để trọn trí thức tinh thần suy gẫm, nên Tệ Huynh ngày nay toại chí lượm
lặt những lời châu ngọc của Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng thuyết giáo
đặng chỉ rõ Thánh ý nơi nào để cho Ðạo phải chịu khảo đảo dường ấy. Cái hữu ích
của sự khảo đảo sẽ tỏ tường nơi Bài Thuyết Pháp này, nhưng xin chư Hiền Hữu,
chư Hiền Muội cố tâm tìm hiểu.
Các Tôn Giáo đã lập thành
tại mặt thế nầy đã đoạt đặng một cái quyền hành hữu vi kiên cố, thì trước kia
cũng phải chịu khổ hạnh nương lấy một quyền hành bạc nhược, yếu ớt của tâm lý
mà thôi.
Ôi, quyền hành tâm lý buổi
nào thì cũng gặp sẵn một tay thù địch mạnh mẽ, cường thạnh, oai nghiêm, là
quyền Ðời hiện hữu. Sự xung đột của quyền Ðời và quyền Ðạo tự cổ chí kim tự
nhiên đều có. Chúng ta đã choán biết rằng những quyền lực mà hành thế đều nương
theo tinh thần mà sản xuất. Trứng tinh thần ấy nở sanh quyền lực, vì cớ cho nên
các quyền hành đã có đủ thế lực mạnh mẽ, nắm thế trị vào tay, hễ vừa thấy trí
thức tinh thần của nhơn sanh ướm mòi sản xuất một cái trứng quyền hành chi khác
nữa thì đã sợ lưu hại mình nên toan phương đạp đổ.
Cuộc kết quả sự phản kháng
ấy hoặc thành, hoặc bại, có ảnh hưởng của tương lai sanh hoạt quyền lực đương
nhiên của họ vì cớ mà sự xung đột hằng xem dữ dội.
Ấy là phương khảo thí tài
lực của trí thức tinh thần, hầu làm cho trí thức tinh thần sanh điều hay, bày
điều dở; hay thì chánh dở thì tà; chánh thì còn tà thì dứt. Ấy vậy, dầu cho sự
xung đột của quyền Ðạo với quyền Ðời thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của
những trang chấp chánh Ðạo quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ vời cho
lịch xinh mặt Ðạo. Phận sự bảo trọng lấy mình là dễ; còn phận sự bảo Ðạo vốn
khó vô cùng. Ðáng lẽ những kẻ khuyến khích cho Tệ Huynh bảo trọng lấy mình nên
gọi là người ơn; còn những người khuyên lơn, bảo tồn nền Ðạo nên cho là kẻ
nghịch mới phải. Tệ Huynh tưởng khi chẳng cần nói thì chư Hiền Hữu, chư Hiền
Muội cũng đã choán biết rằng: Chẳng lẽ Chí Tôn chọn lựa Tệ Huynh giao cầm quyền
mối Ðạo đặng bảo trọng lấy Tệ Huynh mà thôi. Trái ngược thì lại nhủ rằng: Phải
hủy mình đặng bảo tồn sanh chúng. Chẳng lẽ chúng ta đành cho rằng trọng mình
hơn trọng Ðạo là chơn lý.
Ôi! Biết bao phen, đêm
khuya thanh vắng, Tệ Huynh nằm gát tay lên trán thầm hỏi lấy mình:
Một mảnh thân phàm nầy, cô
thân bạc nhược nầy, yếu ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Ðại Từ Phụ lại tin
giao một cái giang san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác.
Càng nghĩ càng lo, lo rồi
lại sợ; sợ không kham trách nhậm mạng Trời. Càng suy càng tủi, tủi rồi lại
khóc; khóc sợ không phương nâng đỡ nổi chơn truyền.
Ðại Từ Phụ lại quy tụ con
cái của Ngài gần trên một triệu sanh linh, biểu bảo hộ, nâng niu dạy dỗ?
Anh thì nghèo, em thì khó,
gia nghiệp không mà quyền thế cũng không, bị cường bức ép đè mang khổ hạnh.
Ðã chín năm Tệ Huynh thấy
ngờ ngờ trước mắt nhiều thảm trạng khó khăn; tinh những tiếng khóc than chẳng
dứt. Kẻ thì đói, người thì đau; Chức Sắc thì hèn, Tín Ðồ thì dở, mối thương tâm
chất chứa đầy lòng, giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt.
An đâu đặng mà tịnh, vui
đâu đặng mà nhàn. Chúng sanh thì khóc, Hội Thánh thì than mà chẳng thấy một ai
lo trọn Ðạo. Tệ Huynh xem lại những trang yếu trọng chấp chánh Ðạo quyền, thay
vì chia đau sớt thảm, lo giải khổ cho chúng sanh, lại cố ý giựt giành quyền
thế. Nhiều vị lại muốn cho Tệ Huynh ngồi đó điềm nhiên những thảm khổ ngơ tai
bịt mắt; lại buộc Tệ Huynh phải an tịnh đặng đắc Ðạo thành Tiên, dầu mối Ðạo
chinh nghiêng đừng ngó đến.
Cái sở vọng của các người
ấy, Tệ Huynh để cho chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội kiếm hiểu coi họ để tại nơi nào
không cần cạn tỏ.
Vì Tệ Huynh biết đặng cái
bí mật huyền vi ấy, nên không khứng nghe lời mới nảy sanh ra trường ác cảm.
Nào là lường gạt nhơn
sanh, nào là tranh giành quyền tước, gieo nhục nhã khắp nơi, lấy quyền Ðời chế
Ðạo. Một trường ngôn luận xảo quyệt, dối gian truyền cùng làng khắp xóm, nhưng
sự kết cuộc cũng không hại chi cho danh thể của Tệ Huynh, duy làm cho thiên hạ
chê khinh Chánh Giáo. Chẳng biết lương tâm của những kẻ phá Ðạo ngày nay nó
phải thế nào, lẽ tà chánh trọng khinh sao chẳng rõ.
Tệ Huynh ngồi nhớ lại đã
cách mười năm, nghĩa là hạ tuần năm Sửu, Tệ Huynh còn làm Thượng Nghị vào lầu ra
các; trong thì bạn ngoài thì quan, nẻo hoạn lộ hèn sang đã chán, lẽ nhục vinh
đã ngán với tuồng đời, mùi cay đắng đã từng quen với mặt thế, nào là mày trung
nào là mặt nịnh đã trông nom mỏi mắt mòn hơi, nên mới biết chê đời mến Ðạo.
Nay lục tuần hầu đến, lẽ
nên hư quyền biến cũng đã thừa; có chi hay phòng mến phòng ưa; có chi trọng
phòng yêu phòng chuộng. Tệ Huynh hằng hỏi lấy mình, cái ngày của Ðại Từ Phụ sai
Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội tình nầy phải dâng
trọn xác hồn cho Ngài làm lợi khí mở chơn truyền, nên gọi là ngày hữu duyên hay
là ngày trả nợ? Nếu phải trả nợ thì Thầy lại nào đành giao một cái gia nghiệp
vĩ đại của nhơn sanh cho một kẻ tham gian ngược, còn như gọi rằng duyên thì
chắc đủ lực quyền cầm vững Ðạo.
Ðã chín năm xông lướt trên
con đường đi than lửa, bước chông gai mà cũng có thể bảo thủ chơn truyền của
Thầy vững vàng toàn hảo, thì không phải là một tay giả mạo hay là một đứa tội
nhơn, mà làm cho Thánh chất đặng thắng hơn phàm tánh.
Bởi biết mình, biết Thầy,
biết người, biết Ðạo, mới yên trí Ðạo tâm, giữ gìn Ðạo mạch.
Tệ Huynh duy có một sở
vọng là ngày nào Ðạo đắc thành, đời đặng thái bình thì thối bước lui chơn liền
đặng thích chí du sơn ngoạn thủy; cái vui cùng tận của Tệ Huynh ở tại nơi đó mà
thôi, chớ chẳng phải tại mến đời ngồi chịu khổ.
Ngày nay là ngày vía Ðức
Thích Ca Mâu Ni mà Tệ Huynh không giải tích Ðức Thích Ca, vì chư Hiền Hữu Lưỡng
Phái cũng hiểu rõ tích của Ngài, và chư Hiền Hữu cũng thông suốt Phật Ðạo chút
ít rồi.
Tệ Huynh chỉ để thì giờ quí
báu đặng nhắc cho chư Hiền Hữu Lưỡng Phái nhớ một hai Tôn chỉ quí trọng của Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đương thời, nhứt là về phương diện thể của Ðạo.
Tuy Tệ Huynh không giảng
Phật Ðạo, chớ Ðại Ðạo ngày nay cũng là Phật Ðạo, vì gồm hết Tam Giáo (Nho,
Thích, Ðạo) và Thích Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích Ca.
Tệ Huynh hằng nhắc chư
Hiền Hữu, chư Hiền Muội rằng: Ðạo vẫn một, mà mỗi thời kỳ khai Ðạo thì phương
diện khác nhau vì Ðạo khai phải phù hạp với dân trí đương thời khai Ðạo.
Khi Ðức Thích Ca mở Ðạo
Phật thì nhơn sanh buổi ấy còn Thánh Ðức nhiều; cá nhơn đều ngán sự khổ não
truân chuyên ở thế nên Thiên Ðình phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt Tứ Khổ
(Sanh, Lão, Bịnh, Tử) mà độ chúng.
Ngài cũng bị lắm điều
truân chuyên khổ não, lao thân tiêu tứ với đời, mà chừng thành Ðạo cũng bị quỉ
phá một hồi dữ dội, rồi mới thành Ðạo.
Ðức Lão Tử khai Ðạo Tiên
thì dùng huyền diệu pháp làm tôn chỉ cao thượng, vì đương buổi ấy thì nhơn sanh
ưa huyền diệu phép tắc.
Ngài cũng bị nhơn sanh cho
là Lão già mê hoặc chúng. Ðệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài cho đến đổi khi
Ngài đi qua Hàm Cốc Quan vô Nha môn của Doãn Hỉ đặng độ ông nầy là chơn linh
Ngươn Thỉ thì Từ Giáp là học trò hầu cận Ngài vì mê sắc mà sa ngã rồi cũng xa
Ngài. Mà Ðạo Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ phương vậy.
Khổng Phu Tử thọ lịnh
Thiên Ðình xuống khai Ðạo Nho đặng sửa nhơn luân trong buổi Châu mạt. Vì trong
buổi ấy cang thường, luân lý suy đồi, nên nhơn sanh thấy cái Ðạo nhơn luân của
Ngài hay sửa đời đặng thì khâm phục.
Ngài cũng lắm công nhọc
nhằn với đời, qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt
người buộc, ăn vạc nằm sương nhọc nhằn biết mấy. Ðến đổi nhà Tần tàn bạo không
xiết kể, phần thi khanh Nho (đốt sách, chôn học trò) mà Ðạo Nho cũng loan
truyền khắp hoàn cầu.
551 năm sau Khổng Phu Tử
mới có khai Ðạo bên Thái Tây, nên Thầy cho Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh
khai Ðạo Thánh cho phù hạp với dân trí Âu Châu.
Ðức Chúa Jésus cũng bị
cường quyền Israel áp bức cho đến đổi, hồi ban sơ thì có 12 vị Thánh Tông Ðồ
theo Ngài, mà sau còn có một Thánh Pierre mà thôi.... Nhưng Người cũng phải
chối Chúa ba phen đặng tránh cường quyền bắt buộc.
Chừng Ðạo thành thì có Du
Già bắt Ngài mà nạp cho Chánh Phủ hành hình, đóng đinh trên cây Thánh Giá; hành
xác Ngài gớm ghiếc như thế đặng cho nhơn sanh kinh khủng mà bỏ Ðạo, mà Ðạo
Thánh cũng gieo truyền khắp cả hoàn cầu.
Lúc Ðạo Gia Tô truyền qua
Ðông Pháp thì vua An Nam cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo Ðạo Gia Tô quá Thập
Tự, ai không bước ngang qua thì bị tử hình.
Hình phạt gớm ghê như thế
mà cũng có người chí Thánh, thọ tử mà thôi chớ không chịu chối Ðạo.
Xét kỹ lại, thiệt người
xưa là Thánh Ðức, ít ai bì kịp, cứ giữ chánh tâm làm trọng, thủy chung như nhứt
mà thôi.
Ngảnh lại đời nay mà ngán
cho đời!! Ôi, trong tám năm dư chuông Thánh truy hồn, Ðạo Trời đem tin cứu thế
mà hễ có nghe phưởng phất lời đồn huyễn hoặc chi của người toan phá Ðạo thì mau
mau cuốn Thánh Tượng, dẹp Thiên Bàn lòng toan chối Ðạo....
Biết bao nhiêu người nịnh
quyền hiếp thế, xu phụ theo nịnh tà mong toan phá Ðạo, rước rắn rừng vô cắn gà
nhà, nạp chí Thánh vô đề lao cho phỉ lòng oán hận.
Con một cha, gà một ổ, mà
làm cho đổ lụy rơi châu, gieo thảm sầu cho lắm người tâm thành trí vẹn phải
dừng chơn thối bước! Quạ nuôi tu hú cũng còn biết thương, người đi một đường
sao nỡ hại nhau như thế?
Ai toan bứng gốc phá chồi
của nền Ðạo, thì để Thiêng Liêng quyết đoán, mình cứ nắm giữ luật lệ của Thầy
và Ðức Lý Giáo Tông đã thành lập từ buổi ban sơ thì thành Ðạo, vì luật lệ của
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thể Thiên hành hóa là món binh khí diệt Tà quyền.
Ðời có thạnh có suy,
Ðạo động tịnh chuyển xây,
Lửa thử vàng, gian nan thử Ðạo.
Trong 8 năm
qua rồi, biết bao phen vẹt mây ngút thấy Trời xanh mà cũng lắm lúc xem đất bằng
sóng dậy.
Thầy đã nói
tiên tri rằng: "Chi chi qua Quí Dậu
cũng phải cho thành Ðạo, mà trước khi Ðạo thành thì Tam Thập Lục Ðộng quỉ về phá Tòa
Thánh dữ dội lắm, mà trừ an nội loạn rồi mới thành Thiên cơ".
Ngày nay bảo tố dữ dội đã
qua rồi, Tệ Huynh nhìn thấy mấy em đã bị bao phen khảo đảo, thảm khổ vô cùng,
mà mấy em cũng ngồi vững trong thuyền Bác Nhã của Thầy độ rước thì Tệ Huynh hết
sức vui mừng nên nguyện rằng sẽ đem hết dạ yêu thương mà dìu dắt mấy em về cùng
Thầy cho đến chốn.
Các Ðấng Thiêng Liêng cũng
có nói trước: "Rồi đây Nguyên Nhân
sẽ đến rần rần, có lắm anh hào thành tâm giúp Ðạo".
Cơ Trời mầu nhiệm, cao
sâu, người đâu thấy đặng!
Từ ngày ác khí nổi lên
xông đột, bên bạo tàn trương nanh múa vút, thì bên Thánh Ðức hiền lương có lắm
anh hào đem hết trí thức tinh thần ra công giúp Ðạo.
Tạo Hóa vần xây chuyển thế,
Âm Dương thiệt khéo đầu cơ.
Khiến cho Tệ Huynh nhớ lời
tiên tri của Bát Nương Diêu Trì Cung hồi ban sơ có dạy rằng:
"Hễ gặp người an bang tế thế,
Nên quì mà nghênh lấy lễ trọng người.
Cổi thân ra mảnh áo tơi,
Che mưa đở nắng cho đời nguy nan".
Tôn chỉ cao thượng của Ðại
Ðạo Tam Kỳ là lập công quả cùng Thầy lo độ rỗi Nguyên Nhân, truyền bá chơn Ðạo
cho đời biết chữ nhàn là quí, đức là trọng, đặng hết tranh tranh đấu đấu, lập
quyền lấn thế nhau, báng sán nhau, hại sanh chúng nguy nan đời đời kiếp kiếp.
Từ hai mươi năm nay, xem
trong hoàn cầu thiệt đâu đâu cũng là một cảnh sầu không tỏa ra cho cùng tận
được. Biết bao người bị lượn sóng vô tình vật chất chụp đè trên biển khổ, ham
lo sung sướng cho mảnh thi hài, bo bo vừa lòng tình dục. Ít ai ngó xuống thương
đồng loại cực khổ biết bao! Kể không xiết số người thất nghiệp truân chuyên,
cơm tẻ ngày hai không có, mảnh tơi che cật chẳng lành. Tôi phản Chúa, người phá
Ðạo, trò nghịch Thầy, cha lìa con, vợ xa chồng, huynh đệ bất hòa, bằng hữu
tranh nhau cũng vì mối nhơn luân suy bại, chẳng còn thấy Chúa Thánh tôi hiền,
phụ từ tử hiếu, trông chi gặp tháng Thuấn ngày Nghiêu, nhà nhà lạc nghiệp thái
bình âu ca.
Ðấng Hóa Công là Ðại Từ
Phụ chung của cả nhơn sanh trông thấy hoàn cảnh như vầy cũng đổ lụy rơi châu
với bầy con dại, biết bao thương xót lũ con hoang ra đường gây tội lỗi, trong
mấy muôn năm phải bị luân hồi, trả vay mãi mãi như chóng vần xây. Từ việc rất
lớn lao tới việc tế vi mảy mún, thạnh suy bỉ thới cũng phải chuyển vần y như
luật Trời đã định.
Ðạo Trời đem tin cứu thế,
thức tỉnh nhơn sanh phải tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho khỏi nạn luân
hồi vay trả; hằng ngày phải nhớ câu: "Oan gia nghi giải bất nghi
kiết".
Người phải thương nhau như
con một cha. Cả hoàn cầu là đại chánh chung cả nhơn loại, không hại lẫn nhau,
lấy lễ phép mà giao thiệp cùng nhau, lấy công bình mà đối đãi cùng nhau.
Lo cho Ðạo hữu trong nền
Ðạo có cơ sở làm ăn, biết làm lành là quí.
Que l'humanité soit une,
une comme race, une comme religion, une comme penseé.
Ấy là cuộc sửa đời lập Tân
Thế Giái (Ere nouvelle) của Ðại Từ Phụ đã tuyên ngôn từ buổi khai Ðạo.
Theo lý chánh, thật hành
chỉ rõ trên đây thì nhiều người trong Ðạo lại chê, còn theo việc mị mộng ăn
ngọ, ăn chuối, tuyệt cốc, tịnh luyện thì ưa, còn nguyên nhân lỡ bước ai lo?
Trong 8 năm qua rồi, Tệ
Huynh đây và Hiền Ðệ Phạm Công Tắc là Hộ Pháp của ÐÐTKPÐ, hiệp cùng nhiều Thiên
Phong đã để hết tâm thành trí vẹn đặng thi hành cho hoàn tất mấy điều của Thầy
và Ðức Lý Giáo Tông đã dạy bảo.
Ôi, biết bao phen bị đánh
đổ, lắm người trong Ðạo không hiểu tôn chỉ Ðại Ðạo, lại còn biếm nhẻ nói Tệ
Huynh lo việc hữu hình chớ không lo vô vi tịnh luyện.
Bởi vậy mới rồi đây, Tệ
Huynh có đắc lịnh dạy bảo phải chỉ rõ phương diện chánh thể của Ðạo, xin giải:
Trước đây, Tệ Huynh có nói
Thầy lập Ðạo kỳ nầy phù hạp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi Ngươn Tấn
Hóa đến địa vị tối cao, cho nên chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo hiện thời
không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhơn loại.
Theo chánh thể của ÐÐTKPÐ,
thì có ba Hội, đã định quyền hành đặc biệt:
a).
Thứ nhứt là Hội Nhơn Sanh:
Trong Hội Nhơn Sanh thì
Chánh Phối Sư phái Thượng là Chủ Trưởng.
Hội Viên thì từ Lễ Sanh đổ
xuống Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự và người Phái Viên thay mặt cho nhơn
sanh.
Trong Nội Luật Hội Nhơn
Sanh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ luật lệ. Ấy vậy từ hàng Tín Ðồ cùng
đồng nhi đều có người thay mặt đặng xem xét việc Ðạo rồi đệ lên Hội Thánh phán
đoán.
Vạn vật cũng có ảnh hưởng
trong Hội Nhơn Sanh vì người là Chúa của Vạn vật. Xét kỹ thì Thầy công bình
không xiết kể và lo việc hóa sanh không ngằn không tận.
b). Thứ nhì là Hội Thánh:
Trong Hội Thánh thì có
Thái Chánh Phối Sư làm Chủ Trưởng. Hội Viên thì từ Giáo Hữu, Giáo Sư và Phối Sư
thiệt thọ có trách nhậm hành chánh đặc biệt.
Trong Nội Luật Hội Thánh
của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ thức lệ. Hội Thánh có quyền xem xét các
việc của Hội Nhơn Sanh dâng lên và các việc hành chánh trong Ðạo, rồi đệ lên
Thượng Hội.
c). Thứ ba là Thượng Hội:
Thượng Hội thì cũng có Nội
Luật chỉ rõ thức lệ. Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Chủ Trưởng, Hộ Pháp làm
Phó Chủ Trưởng. Hội Viên thì có:
Thượng Phẩm
Thượng Sanh
Ba vị Chưởng Pháp
Ba vị Ðầu Sư
Và Ðầu Sư Nữ Phái
Không cần nhắc thì chư
Hiền Hữu Lưỡng Phái cũng hiểu rằng mấy Ðại Thiên Phong kể trên đây có hành
chánh phận sự lớn lao của mình thì mới đặng vào Thượng Hội.
Thượng Hội để giúp Giáo
Tông và Hộ Pháp điều đình cả nền Ðạo lớn lao của Thầy.
Thượng Hội có quyền xem
xét các điều nghị luận của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh rồi hoặc đệ lên cho Giáo
Tông và Hộ Pháp phê chuẩn hay là trả lại cho Hội Thánh định đoạt lại.
Ba Hội (Thượng Hội, Hội
Thánh, và Hội Nhơn Sanh) toàn nhập lại theo thức lệ rành rẽ thì gọi là Quyền
Vạn Linh, chớ không phải ai muốn lập Hội Vạn Linh, tổ chức gì theo ý riêng của
mình rồi muốn đem ai lên làm Chủ Trưởng tổ chức gì cũng được.
Như vậy thì có Luật lệ gì
đâu? Mà không Luật lệ thì là không phải Ðạo.
Trên ba Hội, thì có Giáo
Tông và Hộ Pháp.
Giáo Tông làm chủ Cửu
Trùng Ðài thì lo việc Chánh Trị của Ðạo, có Chưởng Pháp và Ðầu Sư ở trung gian
giúp sức điều đình các Luật lệ truyền xuống cho ba Chánh Phối Sư nắm trọn quyền
hành chánh. Giáo Tông có quyền định đoạt trong việc Chánh Trị của Ðạo.
Hộ Pháp thì lo giữ Luật lệ
của Ðạo cho khỏi sái Thiên Ðiều vì Luật lệ của ÐÐTKPÐ ngày nay thì thế cho
Thiên Ðiều.
Hộ Pháp có quyền đặc biệt
về ân xá cũng như Giáo Tông có quyền Chánh trị vậy.
Hộ Pháp chưởng quản Hiệp
Thiên Ðài, có Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân giúp sức.
Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp
một là Quyền Chí Tôn.
Tệ Huynh có thọ lịnh chỉ
rõ phương diện Chánh thể của ÐÐTKPÐ của Thầy khai trong buổi Hạ Ngươn chuyển
thế đây y trên đó. Xin chư Hiền Hữu Lưỡng Phái rán nhớ và lo phận sự, đừng sai
luật Ðạo mà bị tội, và mình tuân trọn Luật Ðạo của Thầy thì là món binh khí
diệt Tà quyền giả mị đó.
Tệ Huynh xin nhắc lời
Tuyên ngôn của Ðại Từ Phụ hồi buổi ban sơ, Thầy có nói: "Thầy lập Ðại Ðạo
Tam Kỳ nầy là lập một cái trường công quả, nếu các con đi ngoài trường công quả
ấy thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng".
Trường công quả của Thầy
có đôi bên: Một bên vô hình là các Ðấng Thiêng Liêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần)
cũng lập công quả trong buổi chuyển thế nầy. Các Ðấng Thiêng Liêng thường theo
một bên chúng ta đặng ám trợ chúng ta về phần vô vi.
Còn các việc hữu hình tại
thế là các việc phải có thi hành như chúng ta bây giờ đây mới làm đặng thì về
phần chúng ta phải lo làm rồi có các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ.
Thí dụ như đi độ rỗi nhơn
sanh phải nói Ðạo cho người nghe, như phải lập mấy cuộc để giúp thế đang nguy
nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc học, nhà thương, nhà dưỡng lão cùng các nghề
nghiệp cho đạo hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần che thân
ấm cật.... thì chúng ta phải lo hết rồi các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ cho thành
tựu.
Nếu chúng ta làm biếng
không làm công quả chi cho Ðạo bên hữu hình thì các Ðấng Thiêng Liêng theo mình
không lập công quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.
Từ hồi tạo Thiên lập Ðịa
tới ngày nay trong mỗi kỳ khai Ðạo không có thời kỳ nào mà chính mình Thầy là
Chủ Tể Càn Khôn Thế Giới xuống mà lập ra, không có một Tôn Giáo nào đặng một vị
Ðại Tiên là Ðức Lý Thái Bạch lãnh làm Giáo Tông như ngày nay vậy.
Tệ Huynh đây là lãnh về
phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu hình tại thế cho Ngài, rồi
ở trong có Người ám trợ.
Tệ Huynh xin chỉ rõ quyền
hành lớn lao của Ðức Lý Ðại Tiên Thái Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ:
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng dâng thửa Thiên Triều,
Càn Khôn Thế Giái dắt dìu Tinh Quân.
Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Ðường
Triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,
Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
Ðộng Ðình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Ðảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các Nguyên Nhân.
Ngài nói rằng: "Hễ Ðạo trọng thì chư Hiền Hữu trọng,
vậy thì chư Hiền Hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.
Từ đây Lão hằng gìn giữ cho chư Hiền Hữu hơn nữa. Nếu
thoảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh, là cố ý muốn giá trị chư
Hiền Hữu thêm cao trọng hơn nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe."
Xin chư Hiền Hữu Lưỡng
Phái ghi nhớ mấy lời châu ngọc ấy đặng sửa mình. Hết lòng cảm tạ mấy em và chư
Tôn có công mệt mỏi ngồi nghe mấy lời tôi cạn tỏ rồi đó.
Hết dạ khẩn cầu cho nền
Ðạo chóng hoằng khai.
* * *
Phụ ghi:
* Ðoạn 18: ...một kẻ tham gian
ngược,... chúng tôi nghĩ có thể là: ...một kẻ tham gian bạo ngược,...
* Ðoạn 23: ...Tôn chỉ quí trọng
của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đương thời, nhứt là về phương diện thể của Ðạo...
chúng tôi nghĩ có thể là: ...Tôn chỉ quí trọng của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đương
thời, nhứt là về phương diện chánh thể của Ðạo....
* Bài Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo
Tông đọc tại Tòa Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934) so sánh nơi
quyển Tiểu Sử ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT do Ban Ðạo Sử ấn hành lần
thứ nhứt năm Quý Sửu (1973) có một vài điểm khác biệt. Chúng tôi xin giử y
nguyên bản tài liệu gốc của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu.
Ðức Quyền Giáo Tông giải nghĩa
về: Ðức Chí Thành & Lòng Bác Ái & Người trong Ðạo phải đối đãi với nhau
như thế nào? (1935).
Ðức Quyền Giáo Tông
giải nghĩa về "Ðức
Chí Thành"
ÐỨC CHÍ THÀNH
Ðức chí thành là tánh chất
thành thật chơn chánh mà mọi người cần phải có hầu để đối đãi nhau cho ngay
thẳng, thật thà trong đường Ðời hay là đường Ðạo. Ðức chí thành là gốc năm
thường, là nguồn trăm nết. Có chí thành thì đạo hạnh con người mới đặng rõ ràng
sáng tỏ. Không chí thành thì đạo hạnh phải bị tà khuất tối tăm. Cho nên con
người ở đời mà không un đúc đặng một khối chí thành là gốc rễ thì trông chi đến
việc trau giồi đức hạnh là nhành lá vậy.
Ðức chí thành tỉ như một
khối vàng, dùng nó mà chế tạo ra lắm đồ trang sức tốt xinh cao giá. Chí khối
vàng ấy phải pha phải trộn thì mất nguyên chất tự nhiên, rồi bảo sao những đồ
trang sức làm ra không phải xấu hèn thấp giá.
Người xưa tuy quê hèn,
song giữ đặng hai chữ chí thành, đối với nhau chẳng hề dối giả, gạt gẫm là gì.
Một tiếng ừ với nhau cầm đáng ngàn vàng, một lời hứa với nhau khư khư giữ chặt.
Người nay tuy gọi văn minh
tấn bộ; song cái ánh sáng văn minh chóa ra làm cho con người dường như bị nắng
quáng đèn lòa mà xem không rõ cái tướng của đức chí thành đặng vậy. Cũng bởi
không chí thành cho nên ở đời mới có người nầy xảo trá, kẻ kia gian tham, sanh
lòng nghi kỵ lẫn nhau đến đổi trong một việc làm nhỏ mọn mà có nhiều kẻ chung
lo thì cũng hóa ra hư hỏng. Theo đường đời mà đức chí thành còn quan trọng là
thế, huống chi đường Ðạo là chỗ cần phải treo lên một tấm gương thanh bạch hầu
để soi chung thiên hạ.
Người hành đạo cần phải có
đức chí thành, tôn chỉ Ðạo mới đặng quang minh chánh đại, rồi nhơn đó mới đặng
lòng tín nhiệm của chúng sanh. Khi tụng kinh cầu nguyện, khẩn vái với Trời
Phật, nếu đặng chí thành mới có cảm. Có cảm mới có ứng. Có ứng mới có nghiệm;
cho nên có câu: "Hữu thành tất hữu Thần" là vậy đó.
Người làm Ðạo mà chí thành
thì chẳng hề để ý chi riêng về việc công quả mà cầu danh, chẳng hề tính lập
công quả mà cầu danh. Chẳng hề ỷ mình lập nhiều công quả mà tự kiêu, tự đắc rồi
tác oai tác phước, lập thế chuyên quyền, gây ra lắm điều trái Ðạo, ai nói cũng
nghe, ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung.
Người làm Ðạo mà chí thành
thì chỉ lo cho chúng sanh, chớ không kể đến thân mình, tự buộc mình vào nơi khổ
hạnh, đem cả hình hài trí thức làm món hy sinh cho tôn chỉ Ðạo, thân còn chẳng
kể huống lựa lợi và danh.
Nói tắt lại một điều là
làm Ðạo mà còn chút ý riêng về lợi và danh thì chưa có thiệt là chí thành vậy.
Người theo Ðạo mà không
chí thành thì bất quá là: Cầu vui tu bắt chước hoặc là tu "cầu mị"
theo ông nọ bà kia đặng có dễ bề thân cận mà chác chuộng mua yêu cùng trông ỷ
lại nơi người vậy thôi.
Người theo Ðạo mà không
chí thành thì bất quá là mượn danh Ðạo để vụ tất đồng tiền, hoặc bị lợi dụng
đức tin của hàng Tín Ðồ thấp thỏi để mưu điều trái Ðạo.
Người giữ Ðạo mà không chí
thành, dầu cho bác lãm quần thơ, rõ thông đạo lý đến đâu đi nữa tưởng cũng
không trông thành Ðạo.
Ấy vậy, nếu rủi trong Ðạo
mà có đại đa số người không chí thành dầu cho tôn chỉ Ðạo cao thượng đến đâu đi
nữa, nền Ðạo bất quá cũng để một trò cười cho thiên hạ.
Thánh ngôn Ðức Chí Tôn dạy
rằng: " ..... ...... Các con phải
biết Ðạo gốc bởi lòng bác ái và chí thành. Bác ái là lòng đại từ bi thương xót
sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà
coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất.
Còn chí thành là mỗi việc đều lấy lòng thành thật mà
đối đãi trong Ðời và trong Ðạo. Dầu kẻ phú quí bực nào đi nữa mà không có lòng
bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc.
Vậy nên Thầy khuyên các con trước hết phải ở sao cho
ra vẻ đạo đức, đừng để ý gì việc công quả mà nêu danh nơi cõi tạm nầy.
Các con phải mở rộng tâm chí ra mà hành Ðạo mới nên
cho, chớ đừng mờ hồ rằng Ðạo thành thì mình được làm một vị xứng đáng và đại
ích trong Ðạo".
Tóm lại, đức chí thành là
gốc của nền Ðạo, tức là tánh mạng của Ðạo vậy, cho nên trong bài Kinh Niệm
Hương mở đầu có câu: "Ðạo gốc bởi
lòng thành tín hiệp".
Ðức chí thành không cần
tập luyện mới có chỉ tại nơi tâm muốn cùng không muốn mà thôi.
LÒNG BÁC ÁI
Trên mặt địa cầu nầy, nhơn
loại phần nhiều cũng bởi cái lòng vị kỷ mà gây ra lắm điều bạo ngược. Kẻ tham
trộm là bởi quí trọng của mình mà không quí trọng của thiên hạ, vì vậy nên tính
lấy của người đặng bổ thêm của mình. Yếu sức thì gạt lường trộm cắp, mạnh thế
lại ép đè cướp giựt, có khi còn hại đến mạng người. Ăn thịt một con sanh vật là
lấy huyết nhục nó để bồi bổ cho huyết nhục mình tức là quí trọng sanh mạng mình
mà không quí trọng sanh mạng nó vậy.
Như hai đàng chiến đấu,
bên nào cũng đem hết sức lực để tiêu diệt bên kia, thì đàng nào cũng quí trọng mạng
mình mà không quí trọng sanh mạng bên nghịch.
Cái lòng vị kỷ gia hại cho
nhơn quần xã hội là thế.
Nay muốn tảo trừ cái điều
hại ấy, cần nhứt phải làm thế nào cho thiên hạ ai ai cũng có cái lòng bác ái.
Bác ái là gì?
Bác là rộng, ái là thương. Lòng bác ái tức là
lòng thương rộng ra. Ta chẳng những thương ông bà, cha mẹ, vợ con cùng là thân
tộc họ hàng, mà ta còn phải thương rộng ra cho đến cả nhơn loại chẳng luận nước
nào.
Ta chẳng những thương cả
nhơn loại, mà ta còn phải thương rộng ra cho tới cả loài sanh vật khác nữa.
Tiếp theo bài Ðức Chí
Thành (1935)
NGƯỜI TRONG ÐẠO PHẢI ÐỐI ÐÃI VỚI NHAU NHƯ THẾ NÀO?
Ở đời người ta cần phải
giao tiếp với nhau. Ðối với chư Ðạo Hữu sự giao tiếp ta lại có cái tình kiên
lạc chí thành, cái nghĩa tương thân chí thiết. Giao tiếp mà chi? Là để dìu dắt
nhau, nâng đỡ nhau trong đường Ðạo và đường Ðời. Anh lớn chỉ biểu cho em nhỏ,
người rõ Ðạo bày vẽ cho kẻ chưa thông. Người nầy lầm lỗi kẻ kia chỉ dùm, dưới
vui tuân lời trên dạy, trên không hổ cho dưới bày, lấy lễ hòa nhau, trên khuyên
dưới kỉnh vui vẻ chung nhau, buồn thảm sớt nhau, giao lưng đâu cật mà bồi đắp
mối Ðạo Trời cho rõ là con một cha, chung thờ một chủ nghĩa.
Ðấng Chí Tôn có giáng cơ
dạy như vầy:
"Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một Ðạo tức một cha.
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa".
Trong đường giao thiệp ta
cần phải lấy hết tấm lòng bác ái, đem hết dạ chí thành mà đối đãi nhau thì Ðạo
tâm ta mới biểu lộ ra tới gương chơn chánh.
Ðồng Ðạo mà chẳng biết
thương nhau, chẳng vảng lai thù tạc với nhau, cứ nhà ai nấy ở, ai khôn dại mặc
ai, ai hoạn nạn thây ai, bo bo cứ giữ câu "Ðộc thiện kỳ thân" thì
trái hẳn với chủ nghĩa Ðại Ðồng của Ðạo Trời lắm đó.
1 .
Tín Ðồ:
Ðứng vào hàng Tín Ðồ cần
phải kính tuân chư Chức Sắc Thiên Phong, vì chư Thiên Phong là người đã thọ
lãnh nơi Thượng Ðế một cái Thiên chức đặc biệt để thông truyền Chánh Giáo.
Người vẫn có cái quyền sai khiến chư Tín Ðồ về việc phải trong Ðạo. Dầu bậc
Thiên Phong mà tài sơ tuổi nhỏ hơn mình đi nữa, hàng Tín Ðồ cũng chẳng nên hổ
mình tùng sự, hoặc là vượt bực khinh khi ganh gổ tức là buộc vào mình một cái
tội vi lịnh cùng Thượng Ðế vậy.
Vả lại, Chức Sắc Thiên
Phong chỉ có cái giới hạn trong khi hành sự mà thôi, ngoài ra toàn là người
đồng Ðạo với nhau, tức là Ðạo Hữu với nhau vậy.
2 .
Chức Sắc:
Ðối với hàng Tín Ðồ, chư
Chức Sắc Thiên Phong cần phải có cái hạnh khiêm cung từ nhượng, phải dùng lời
dịu ngọt mà dạy dỗ kẻ dưới quyền mình, phải lấy nét ôn hòa mà điều độ nhau.
Phải chỗ khiến thì khiến, không phải chỗ sai chớ nên sai. Ðừng làm điều chi quá
phận sự mà ra lẽ chuyên quyền. Chẳng nên tự cao, tự phụ mình may nhờ tiền căn
cựu phẩm, hoặc là công cả quả dày, nên mới được chức Thiên Phong, biết đâu
trong hàng Tín Ðồ lại không có lắm người tài cao đức trọng hơn mình.
Chư Chức Sắc và chư Tín Ðồ
mà đối đãi nhau cho có thái độ ôn hòa, thỏa thuận, thì trên không chinh, dưới
không mích, ấy là một lễ hiến cho Ðấng Chí Tôn rất long trọng đó vậy.
THƯỢNG TRUNG
NHỰT
Phụ ghi:
Ðoạn 6: ...ai nói cũng nghe,
ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung... chúng tôi nghĩ là: ...ai
nói cũng không nghe, ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung.
Ðoạn NGƯỜI TRONG ÐẠO PHẢI ÐỐI ÐÃI VỚI NHAU NHƯ THẾ NÀO? Ðược trích từ quyển
PHƯƠNG CHÂM HÀNH ÐẠO của Ðức Quyền Giáo Tông biên soạn năm Mậu Thìn (1928).
CHUNG


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét