Lịch Sử và Triết Lý Đạo Cao Đài - 2 / 6 (TDĐN. Gabriel Gobron)


Cũng trong Thánh giáo ngày 13-1-1927, Đức Lý Thái Bạch còn nói thêm :
" Các huynh đệ thân mến,  Chúa Jésus nhân từ đã đến với các bạn để vạch ra con đường Thánh thiện cho các bạn. Hãy cố gắng đi theo đường ấy để sau nầy có được sự bình an của tâm hồn, hãy bước tới mỗi ngày một bước mau lẹ trong tình thương yêu của Thượng Đế. Hãy đoàn kết, hãy thương yêu nhau người nầy người khác, hãy giúp đỡ lẫn nhau. Đó là Thiên điều.


" Vào lúc nầy, nơi mà mỗi người bị bắt buộc chịu đựng nỗi khổ sở, nếu người nào chỉ nghĩ đến lợi lộc cá nhân, nếu người nào tìm cách gieo đau khổ và phiền não, người đó sẽ mạo hiểm bị lôi cuốn vào trong dòng thác địa ngục, nơi đây, cái hung dữ sẽ bẻ gãy cuộc sống và làm hoen ố tâm hồn."
Sự thật, Đạo Cao Đài hay Đại Đạo là một tôn giáo giản dị nhứt hiện nay khi nói về việc hành đạo và sự thờ cúng. Tôn giáo mới nầy chỉ đòi hỏi các tín đồ mỗi ngày tụng kinh cầu nguyện Đấng Cao Đài, hoặc tại nhà của họ, hoặc trong Thánh Thất; không có phép sám hối xưng tội, không có phép thông công. (Việc cầu cơ là một việc làm tế nhị và nguy hiểm, chỉ dành riêng cho Hội Thánh.

Số lượng Giáo sĩ  giới hạn trong phạm vi cần thiết nhứt để truyền bá giáo lý, khuyến khích tín đồ thực hành Nhơn đạo, như  Đức Khổng Tử đã quan niệm. Chỉ có một Thượng Đế duy nhứt, là Đức Chí Tôn, Đạo Cao Đài khuyên bảo các tín đồ noi theo đạo đức thuần túy của Đức Chúa Jésus, đạo đức của Đức Khổng Tử, cả hai đều không có gì khác nhau.

Đạo Cao Đài cũng khuyên bảo sùng bái các Đấng chơn linh thượng đẳng, ân nhân của nhơn loại vào các thời kỳ khác nhau; Đức Chúa Jésus, cũng như Đức Phật Thích Ca, cũng như Đức Khổng Tử, cũng như các vị Thần thời cổ Trung hoa, không nên quên các Đấng ấy trong các lời cầu nguyện.

Trên nguyên tắc, các Chức sắc của Đạo Cao Đài bị cấm cầu các Đấng thiêng liêng trong khối đông đảo tín đồ, để tránh cho những đồng tử trở nên chuyên nghiệp và tránh lạm dụng tính dễ tin của quần chúng ưa chuyện thần bí.

Ngọc cơ được cất giữ trong Thánh Thất. Nhưng những đồng tử linh tính tiếp tục được các tín đồ nghe theo. Theo ý kiến của tôi (tác giả), thật là bất công khi tuyên bố quá nhanh rằng các vị sáng lập Đạo Cao Đài muốn che giấu sự thật để dành riêng cho mình độc quyền tiếp xúc các Đấng vô hình.

Người hành đạo cần vươn lên để chiếm được cái quyền đạt đến trí huệ trọn vẹn. Trong vài trường hợp, đó là thái độ của Giáo hội Công giáo đối với Thần linh học.

NGUYÊN TẮC CĂN BẢN
được xác nhận năm 1946

(Xem Chương : Các yếu tố cốt yếu của Đạo Cao Đài)
Giáo lý của Đạo Cao Đài không chỉ nhằm mục đích hoà hợp các tín ngưỡng tôn giáo, mà còn thích nghi với tất cả mức độ tiến hóa của tâm linh.

1 . Về phương diện đạo đức : Giáo lý Đạo Cao Đài nhắc nhở con người có bổn phận đối với chính mình, đối với gia đình, đối với xã hội, ấy là một gia đình mở rộng, kế đó đối với nhơn loại, gia đình thế giới;

2 . Về phương diện Triết học : Giáo lý Đạo Cao Đài truyền dạy sự khinh thường danh vọng, sự giàu có, sự xa hoa, tắt một lời là sự giải thoát khỏi những nô lệ vật chất, để tìm tòi trong tâm linh sự  yên tĩnh của tâm hồn;

3 . Về phương diện văn hóa : Giáo lý Đạo Cao Đài khuyên nhủ sùng bái Thượng Đế, Đại Từ Phụ của tất cả chúng ta, tôn thờ các Đấng chơn linh thượng đẳng vốn tạo nên hệ thống trật tự oai nghiêm trong thế giới huyền bí. Chấp nhận sự thờ cúng tổ tiên theo truyền thống dân tộc, bài trừ việc cúng bằng các thứ thịt thú vật, cũng như giấy vàng mã;

4 . Về phương diện tâm linh : Giáo lý Đạo Cao Đài xác nhận sự đồng ý với các tôn giáo khác về các hệ thống triết học tâm linh và tâm lý, sự hiện hữu của linh hồn và sự tồn sinh của nó nơi thể xác, sự tiến hóa của linh hồn  bởi sự đầu thai chuyển kiếp liên tiếp, cái kết quả sau khi chết của các hành vi của con người định bởi luật Nhân quả.

5 . Về phương diện truyền giáo : Đạo Cao Đài truyền đạo cho các tín đồ xứng đáng những giáo huấn mặc khải mà nó cho phép các tín đồ, bởi quá trình tiến hóa tâm linh, đạt đến  sự  hưởng thụ toàn phúc.

Các tín đồ
Có ba loại tín đồ :
1 . Những tu sĩ chơn tu, những Chức sắc cao cấp, những người bị bắt buộc tuân thủ một lối sống, nếu không khổ hạnh thì ít nhất cũng phải kiêng cữ  một số điều : quan hệ xác thịt nam nữ bị cấm chỉ, họ có thể có vợ nhưng vợ chỉ là bè bạn; rượu, thịt, cá đều bị cấm chỉ; họ chỉ được nuôi sống bằng thảo mộc (ăn chay). Chỉ riêng họ mới được phép giao tiếp với Đức Thượng Đế và các Đấng chơn linh thượng đẳng, nhưng chỉ được làm trong trường hợp đặc biệt mà thôi.

2 . Các đồng tử, có số lượng 12 người, họ cũng được xem là Chức sắc hay phụ tá, không phải là tu sĩ chơn tu, nhưng họ cũng bị bắt buộc tuân thủ một số luật lệ và kiêng cữ một số điều trong đời sống vật chất. Họ vẫn đi làm việc thường ngày trong các hoạt động thương mãi hay kỹ nghệ. Họ cũng bị chính thức cấm chỉ cầu cơ, khi không có hiện diện của những Chức sắc cao cấp mà không được các vị nầy mời đến  sau khi tụng kinh cầu nguyện Đức Chí Tôn.

3 . Những môn đồ bình thường,  đây là khối đông đảo tín đồ, họ không có bổn phận nào khác hơn là tuân theo đạo đức và qui tắc hành xử do các Chức sắc của Ban Trị Sự Cao Đài truyền dạy và đáng kể là phải cúng lạy đều đặn mỗi ngày trước bàn thờ Đấng Cao Đài, trong một ngôi chùa riêng biệt, hoặc trong một Thánh Thất mới tạo nên, hay nơi tư gia của họ trước một bàn thờ nhỏ được sắp đặt, trên đó đặt hình vẽ Thiên Nhãn có mây bao quanh, giữa hai chưn đèn nghi lễ có một lư hương chứa đầy tro để cắm nhang, và phẩm vật dâng cúng là hoa quả, nhiều hay ít cũng được.

Theo một tài liệu khác gần đây, tôi (tác giả) thấy những tín đồ chia làm hai bậc : Thượng thừa và Hạ thừa.

Được xếp vào bậc Thượng thừa là những tu sĩ chơn tu, họ có thể là Chức sắc hay tín đồ thường. Ở bậc Thượng thừa, họ bị bắt buộc để râu dài và tóc dài, phải ăn chay, cấm xa hoa, cấm quan hệ tình dục. Đời sống của họ thoát khỏi sự nô lệ vật chất, hoàn toàn dâng hiến để phụng sự tôn giáo.

Những tín đồ thuộc Hạ thừa gồm đông đảo tín đồ, vẫn tiếp tục theo đuổi công việc bình thường, bổn phận về tôn giáo của họ gồm việc thực hành cúng lạy hằng ngày và hành xử đúng theo Tân Luật.

Các tín đồ ở cả hai bậc đều bắt buộc tuân theo Ngũ Giới Cấm, trích ra từ  đạo đức của Phật giáo: không sát sanh, không gian tham, không tà dâm, không ăn cao lương mỹ vị, không phạm tội bằng lời nói.

Về chế độ ăn uống, đối với các tín đồ bậc nhì (Hạ thừa), qui định việc ăn chay theo từng bậc, phải kiêng cữ thịt thú vật, chỉ ăn chay một số ngày nhứt định trong một tháng âm lịch. Như thế, khởi đầu ăn chay tạm thời 2 ngày sóc vọng mỗi tháng, kế đó tiếp tục lên Lục trai, ăn chay 6 ngày trong một tháng, rồi Thập trai tức là 10 ngày trong mỗi tháng.

Đạo Cao Đài thu nhận vào lòng tất cả những người có thiện ý, không phân biệt chủng tộc, địa vị xã hội. Một người dân có thể sát cánh trong tình huynh đệ với một Đốc phủ sứ.

Sự thờ cúng trong Đạo Cao Đài
" Sự thờ cúng được cử hành mỗi ngày tại Thánh Thất, cũng như tại tư gia, vào bốn thời (Tứ thời) : lúc 6 giờ, giữa trưa (12 giờ), 18 giờ và giữa đêm (12 giờ khuya).

Quì lạy trước Thiên bàn, trong sự nhiệt thành của tâm hồn hướng về Đấng Thượng Đế, chúng ta khởi đầu tụng kinh Niệm Hương, tiếp theo tụng Khai Kinh, mà lời kinh như sau :

Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh thái dương giọi trước phương đông.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.
Trong Tam giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng, làm phải làm lành.
Trung dung Khổng Thánh chỉ rành,
Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.
Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.

Nghi thức ấy đã xong, chúng ta cất giọng tụng kinh bài Vinh Danh Thượng Đế (Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế), kế đó tụng 3 bài kinh xưng tụng ba Đấng Giáo chủ Tam giáo : Đức Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử.
Nghi thức cúng lạy hằng ngày tất cả đơn giản như thế.
Về phần hiến lễ trong Thánh Thất, vào các ngày lễ lớn, việc thực hành các nghi tiết có phần quan trọng hơn.

Làm thế nào cầu nguyện Đức Chí Tôn ?
Tôi xin quí vị, chư  Đạo huynh của tôi, cầu nguyện và ca tụng Đấng ban cho sự sống, sức mạnh, vẻ đẹp và cái có giá trị hơn nữa là : Trí khôn ngoan mà nó làm cho quí vị giống Đấng ấy. Tôn xin quí vị, những Đạo huynh của tôi, ca tụng, cầu nguyện và đặt mình vào trật tự.

Tư thế trật tự đứng bất động trong chỗ chờ đợi . . . tôi xin quí vị chờ đợi những ân huệ của Thượng Đế.
Tư thế trật tự đứng trong điệu bộ của bước đi đầu tiên đến cõi ánh sáng . . .  Tôi xin quí vị bước đến cõi ánh sáng.
Tư thế trật tự ngồi trong sự chờ đợi và sự tịnh tâm hướng nội . . . Tôi xin quí vị tịnh tâm, cầu nguyện và chờ đợi.
Tôi xin quí vị, những Đạo huynh của tôi, cầu nguyện, ca tụng trong tâm Đấng ban cho sự sống.
Sự sống của thể xác để theo đuổi việc giúp đỡ những người nào cần đến quí vị.
Sự sống của trái tim để thương yêu mọi người, mọi vật, để thương yêu tất cả sự sống, tất cả sự sống thiêng liêng, Thiên thần, con người, thú vật, thảo mộc, khoáng chất và nguyên tử.

Tôi xin quí vị thương yêu đất, nước, lửa, không khí.
Tôi xin quí vị thương yêu những cục sỏi trên đường đi và những ngôi sao trên bầu trời.
Tư thế trật tự trong trạng thái ngủ, trong trạng thái nghỉ ngơi, đều phải là một hành động tạ ơn.
Sự bất động là một trật tự, một tư thế của hành động, cầu nguyện, ca tụng Đấng ban cho sự sống, sức mạnh, vẻ đẹp và cái gì còn hơn thế nữa, trí khôn ngoan.
Các đạo huynh, các Đạo tỷ của tôi, tôi xin quí vị cầu nguyện và ca tụng Đấng ban cho sự sống.
Tôi  đem đến các thứ hoa tươi năm sắc. Tôi đem đến các thứ hoa tươi.
Hoa huệ trắng của sự chơn thật trong sạch trong cái duy nhứt của Thượng Đế.
Tất cả các màu sắc có ở trong màu trắng của đức tin  cũng như tất cả tín ngưỡng đều ở nơi đức tin.
Hoa cúc nơi đồng ruộng của niềm hy vọng thiêng liêng. Màu xanh của bầu trời làm cho nhìn lên cao.
Trong niềm hy vọng thiêng liêng, tất cả những ý tưởng của loài người.
Hoa hồng đỏ của tình thương yêu vấy máu, của tình thương yêu bị đóng đinh vào cây thập tự, hoa hồng đỏ của lòng nhân ái.
Hoa hồng mang cây Thánh giá.
Cây Thánh giá mang hoa hồng.
Hoa hồng - Thánh giá.
Hoa hướng dương màu vàng, hoa hướng dương của huỳnh kim, hoa hướng dương của lời nói im lặng.
Mặt đất quay hướng đến mặt trời, cũng như mặt trời của hoa hướng dương quay.
Huỳnh kim (vàng ròng) của trời rơi trên mặt đất.

Hoa màu bông cà, cây hoa tím của sự khiêm tốn bí mật. Màu tím làm ra tình thương yêu đỏ và hy vọng xanh, màu tím của sự sầu thảm nhưng cũng của quyền lực bí mật.
Màu hoa cà của người nào biết được chơn lý.

Lòng bác ái
Mấy từ ngữ đơn giản nầy tóm lược khuynh hướng chủ yếu của Đạo Cao Đài. Những ứng dụng thực tiễn suy ra gồm :
1 . Tình huynh đệ giữa nhơn loại.
2 . Lòng thương yêu loài vật.
Bởi vì chúng ta có bổn phận trong tình huynh đệ đối với mọi người, xem mọi người đều là anh em trong đại gia đình thế giới, chúng ta cũng có bổn phận đối xử tốt loài vật, vì chúng nó là những em út còn lạc hậu trên con đường tiến hóa. Chúng ta phải chăm sóc chúng vì chúng được tạo ra để giúp việc cho chúng ta, đối đãi với chúng một cách dịu dàng, và tránh làm cho chúng đau đớn vô ích. Đời sống thú vật của chúng cần được tôn trọng, bởi vì nếu làm tổn thương đến chúng thì chúng ta đã làm chậm trễ sự tiến hóa của nạn nhân.

Vì vậy, tất cả tín đồ Cao Đài ý thức bổn phận của mình và giữ việc ăn chay để tránh khỏi làm tòng phạm sát sanh hằng ngày, làm tổn hại những em út cấp dưới.

Ông Schopenhauer nói : Giữa lòng thương xót loài vật và lòng nhân từ có sự ràng buộc chặt chẽ, người ta có thể nói không ngần ngại rằng, khi một người hung dữ  với loài vật thì người ấy không thể là người lành.

3 . Lòng nhân từ đối với thảo mộc :
Không ai biết hết những ích lợi của thảo mộc đã đem lại cho nhơn loại. Ân nhân yên lặng của con người, nó không hề trách móc về sự bội bạc, sự tàn ác của con người. Cây cối che bóng mát cho những ai ngồi tại gốc của nó, không phân biệt khách bộ hành mệt nhọc hay người tiều phu hung bạo. Người ta nói, cây đàn hương đã xông hương lưỡi rìu chặt nó.

Thảo mộc là một kho thuốc thiên nhiên thực sự, nơi đó, chúng ta có thể tìm được những thứ thuốc trị bệnh bá chứng cho chúng ta. Bài học về lòng tốt, lòng hy sinh  không thể rút ra từ thảo mộc cho lợi ích của chúng ta hay sao ?

Những thí nghiệm khoa học gần đây của Sir Bose, một bác học Ấn Độ, đã chứng minh rằng thảo mộc sống như loài người, mà vài loại cây, đặc biệt như cây mắc cở có một hệ thần kinh nhạy cảm hơn của chúng ta về những tổn thương thân thể. Chúng ta sẽ nghĩ gì khi một người nào đó đùa giỡn bẻ gãy một cành cây hay nhổ bật rễ một cái cây ?  Nếu  vì nhu cầu cho đời sống vật chất buộc chúng ta phải dùng thảo mộc, thì đối với “các thí sinh thi lên động vật” nầy, chúng ta phải có lòng tốt là không bao giờ nên chặt bỏ hay phá hại chúng một cách vô ích.

4 . Phụng sự nhơn sanh. (bổ túc bổn phận của tình huynh đệ)
Biết bao nhiêu dịu dàng, trìu mến, thiên nhiên đã đem lại cho con người khi sống ẩn dật trong cảnh cô tịch. Lánh xa thế giới loài người, mà những cám dỗ không còn giá trị, trong cảnh tĩnh mịch của cuộc sống ẩn dật, người ta thanh lọc cuộc sống, lắng dịu những đam mê và nâng cao tư tưởng lên gần Thượng Đế. Rồi trong niềm say mê trầm tư mặc tưởng, nơi đó được khơi dậy cái tình cảm của Đấng thiêng liêng, nên cảm nhận nhiều hơn cái nguồn gốc thiêng liêng của mình.

Đó là đời sống nội tâm dẫn lối những người thượng thừa, được phú bẩm những năng lực lớn, khi sứ mạng phàm trần của họ hoàn thành, họ mong muốn được an lạc tinh thần. Nhưng, trước khi đạt đến  giai đoạn cao cấp trong con đường hành tu của nhơn loại, người khách lữ hành, vẫn tìm cách tiến lên, nhưng phải giúp đỡ những kẻ đang dò dẫm đi sau.

Như thế, tất cả tín đồ Đạo Cao Đài, lo lắng về hành động theo nguyên tắc nhân ái, trong mọi trường hợp, tự hiến mình cho việc phụng sự nhơn sanh. Được thúc đẩy bởi lòng ham muốn giúp đỡ đồng loại, họ sẵn sàng đem đến sự an ủi cho những nỗi khổ đau về tinh thần và xã hội bằng những lời nói hay việc làm của họ. Và trong niềm khao khát về lòng từ bi, họ luôn luôn đưa tay giúp đỡ tất cả những người cần đến sự giúp đỡ của họ. Chịu đựng tất cả nỗi khổ nhục bất cứ từ đâu tới, họ vẫn sống không thù hận, giữa những người thù hận

họ. Tất cả tín đồ Đại Đạo, Chức sắc hay Đạo hữu, phải nhận nhiệm vụ khó khăn là đem linh hồn đến Thượng Đế, ghi khắc vào trí não những Thánh giáo của Đấng Cao Đài, dựa trên lòng yêu mến điều thiện và sự tôn thờ chơn lý.

Nếu đã cố gắng tuyên cáo chơn lý mà vẫn không thuyết phục được những kẻ vô tín ngưỡng, thì ít ra cũng làm cho họ dao động vài phần, và lúc bấy giờ những nghi ngờ được khơi dậy trong tâm hồn những kẻ từ trước đến nay không có đức tin, sẽ làm tiếp những gì còn lại. . . .

 Chính khi hoàn thiện và cứu độ kẻ khác, người ta cũng hoàn thiện và cứu độ chính mình, vì những hành động thương yêu, từ thiện, đến lượt nó tạo nên lộ phí trong cuộc hành trình dài về Cực lạc. Bởi vì việc phụng sự nhơn sanh là một trong những điều kiện cần thiết của việc tự độ, người ta có tất cả lợi ích để thực hiện với lòng nhiệt thành hơn là cho phép họ lòng hâm mộ tôn giáo và tiến bộ đạo đức của họ.

Không dám có cao vọng tự đặt mình là nhà truyền giáo, người tín đồ phải thúc đẩy đặc biệt những đồng đạo của mình làm điều thiện và đạo đức. Nó có thể đạt được, không phải bằng bài thuyết giảng trống rỗng, mà bằng cách làm gương và thích hợp cuộc sống theo giáo lý mà mình chủ trương. Nếu thỉnh thoảng nó trốn lánh bổn phận, xa rời con đường đạo mà Đức Chí Tôn đã vạch ra, thì đấy chính là do sự yếu đuối hay khinh suất của nó, chớ không phải do những Thánh giáo mà nó có sứ mạng truyền bá, bởi chúng tôi há cần nhắc lại luôn luôn những Thánh giáo ấy, một lý tưởng hòa bình và tình yêu huynh đệ.

Giống như các tôn giáo hiện hữu, Đạo Cao Đài cũng có những kẻ giả tu (không thành tín sùng đạo) và những tín đồ còn thiếu đức tin để chống lại những cám dỗ của các Tà Thần. Đó là những phần tử bất hảo làm hoen ố tôn giáo mà họ đang theo và họ sẽ bị loại ra hoàn toàn.

Đạo Cao Đài đem đến điều gì ?
Đạo Cao Đài đến để phát hiện chơn lý và xác định mục đích của sự sáng tạo ra loài người.
Đạo Cao Đài ban cho các tín đồ ý thức về quyền lực của tín đồ khi chơn linh của họ hiệp nhứt vào Thượng Đế.

Đấng Cao Đài đến hướng tới loài người đang bị ngăn trở trong bước đường đi đến cõi ánh sáng và chứng minh rằng lý trí con người sẽ chiến thắng tất cả những chướng ngại, tất cả những thiếu hiểu biết.

Đấng Cao Đài giải phóng các xiềng xích.
Vậy Đạo Cao Đài hòa hợp hoàn toàn với con người tự do, suy nghĩ một cách tự do mà chơn linh của con người sẽ một ngày nào đó ý thức được quyền lực riêng của nó.
Nhưng Đấng Cao Đài đặt con người tự do để bảo vệ chống lại tinh thần kiêu căng, bởi vì tất cả ánh sáng bên trong đến từ ánh sáng trên cao.
Ánh sáng chỉ có thể đến từ cõi ánh sáng.
Ánh sáng dưới thấp khởi phát từ  ánh sáng ở trên cao.
Ánh sáng của loài người khởi phát từ  ánh sáng thiêng liêng.

Sự tiền định của Đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài được tiền định để trở thành, không chỉ ở Viễn Đông mà trong toàn cả vũ trụ, một sự tổng hợp các tôn giáo, một siêu thông thiên học phát ra từ chủ nghĩa thông thiên học nhân tạo. Đạo Cao Đài không yêu cầu sự duy nhứt về tính siêu việt tôn giáo, nhưng mong  muốn và hướng đến sự hòa hợp các tín ngưỡng và các triết lý. Không một nguyên tắc nào của Đạo Cao Đài có thể bị từ chối bởi một chơn linh kém tiến hóa.

Cũng như trong tất cả thời kỳ, luôn luôn có một con đường mở ra hướng đến cõi ánh sáng của Đấng Tối Cao, cũng như trong tất cả các nơi có dựng lên một đền thờ thần bí hay hữu hình để thu hút những ân huệ của Nguyên nhân của các nguyên nhân (Thượng Đế) và để toan tính nâng cao con người Tiểu vũ trụ lên cái vĩ đại là Đại vũ trụ.

Những tôn giáo của các địa phương, những tôn giáo của tất cả thời kỳ, những tôn giáo đang hoạt động hôm nay : Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, đều luôn luôn thích hợp với thời gian và địa phương đã tạo thành nó và phát triển nó. Đó là môi trường nước tạo ra hình thể của các thứ cá. Đó là sức hấp dẫn của Trời  làm cho con người bước đi thẳng đứng.

Đạo Cao Đài phát sinh tại Đông Dương được định dùng cho cả thế giới, bởi vì thông điệp mà Đạo Cao Đài đem lại đã có sẵn trong tất cả tôn giáo.

Việc có nhiều tôn giáo không là chướng ngại cho việc hòa hợp  nếu một mối dây liên lạc khéo léo nhưng thực tế gây ra một điểm tiếp xúc. Mối dây liên lạc đó khéo léo nhưng thực tế, Đạo Cao Đài đem lại cho người muốn nghe không định kiến, tất cả lòng thành thật, tất cả tình huynh đệ trong thông điệp của Đạo :

Sự sống, Lòng thương yêu, Chơn lý.
Đạo Cao Đài, Tôn giáo và Triết lý.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo có giá trị liên kết các phần tử giữa họ, liên kết những người đang sống của thời hiện tại trong tất cả các địa phương, với những người đã chết của thời quá khứ, và nó chuẩn bị cho kiếp tái sinh tương lai.

Đạo Cao Đài làm cho nó cái công thức của chủ nghĩa thực nghiệm triết học Auguste Comte : "Những người chết thống trị, một cách cần thiết và càng lúc càng thêm, những người sống."

Nhưng đối với Đạo Cao Đài, những người chết thực sự là luôn luôn sống.

Giáo lý của Đạo Cao Đài là một triết lý có giá trị, nó trình bày, chứng minh, bàn cãi và xác nhận trong thiện ý cũng như trong duy lý hay thần bí. Chủ nghĩa duy lý dĩ nhiên không là chủ nghĩa vô thần có hệ thống.

Chỉ có một Thượng Đế, tên của Ngài là gì ?
Chỉ có một Thượng Đế, Nguyên nhân của các nguyên nhân, Nguyên lý của tất cả nguyên lý. Chỉ có một Thượng Đế được tôn thờ, sùng kính, cầu nguyện dưới những tên khác nhau trên khắp hoàn cầu. Chỉ có một Thượng Đế.

Cao Đài, tên của Ngài là thế đó, mà Đấng Thượng Đế duy nhứt và hoàn toàn đã dùng để biểu thị ở Việt Nam và để chỉ cho thế giới biết một tôn giáo mới, nhờ nó con người chắc chắn tìm được Thượng Đế.

Cao Đài, đó là tên của Đấng Thượng Đế duy nhứt, và Ngài ở trong tất cả những tên trong hiện tại hay quá khứ mà con người đặt cho Thượng Đế hay dưới những tên nầy, Thượng Đế được biểu thị đối với con người.
Cao Đài, tên của Ngài là thế đó.

Cao Đài
Cao Đài là cái đài cao nhứt.  Đó    sự  biểu  lộ  của En-Soph  xứ  Kether.
Cao Đài là cái tháp không nóc mà trên mặt bằng cao nhứt của tháp, Đấng ấy tự đặt “Đấng mà người ta không thể gọi tên” bởi một tiếng nào của loài người. Những người theo chủ nghĩa thần bí gọi Đấng ấy là En-Soph, những người Do Thái gọi là Iod, He, Vau.

Chữ Cao Đài thay thế tên của Thượng Đế.  Đó là một trong rất nhiều tên của Đấng thiêng liêng duy nhứt, mà cái tên chỉ là một trong những trạng thái, Đấng ấy là vô tận.

Bởi cái dấu hiệu 3 lần, Tam vị Nhứt thể luôn luôn biểu lộ trên các đỉnh cao. Thượng Đế ở chỗ cao nhứt hơn tất cả  đỉnh cao, rộng lớn hơn tất cả không gian, bền vững hơn tất cả thời gian.

TAM = Chúng ta sùng bái 3 lần Đấng Thượng Đế duy nhứt gọi là Cao Đài.
KỲ = Thượng Đế vĩnh cửu của tất cả thời kỳ và tất cả thời gian. Lúc hiện tại luôn luôn là thời gian, thời kỳ của Thượng Đế.
Cao Đài biểu lộ vào thời kỳ thứ ba của quá khứ, của hiện tại và tương lai.

PHỔ = Sự hy sinh, sự ăn chay, sự chờ đợi, sự biểu thị trước của cái gì sẽ đến, của cái gì đang đến. Sự ăn chay, đó là sự chờ đợi của thực phẩm thiêng liêng, của Thánh ngôn. Tất cả tu sĩ, tất cả người khôn ngoan sống bằng Thánh ngôn. Cho nên, người khôn ngoan cũng như tu sĩ chờ đợi trong sự ăn chay và sự ăn chay của người ở phàm trần để nuôi sống “người” ở cõi thiêng liêng.
Trong sự ăn chay, bạn sẽ thấy Đấng Cao Đài.

ĐỘ =  Như thế sẽ đến sự giải thoát, cũng như sẽ đến sự phục sinh.

Như thế sẽ đến sự phán xét và cũng như tất cả sự xá tội. Đấng Cao Đài biểu lộ như thế để xá tội và để thương yêu.

(Tiếp theo đây là đoạn có 16 dòng ngắn, nói về Đức Quan Âm Bồ Tát, nhưng quan niệm của tác giả không đúng theo giáo lý của Đạo Cao Đài, nên chúng tôi không dịch vào đây).

Ngũ giới cấm.
1 . Không giết hại các sinh vật  (vì chúng đều có Sanh hồn do Thượng Đế ban cho);
2 . Không gian tham  (để tránh khỏi sa đọa vào vật chất vì nhu cầu sở hữu và thống trị). Chính sự  tiến bộ của xã hội hiện nay mà tất cả dường như khêu gợi lòng kiêu ngạo và thèm khát giàu có.
3 . Không dùng cao lương mỹ vị :
- Không ăn thịt thú vật (phải ăn chay).
- Không uống rượu (vì nó làm hại thể xác và chơn thần).

" Tác dụng độc hại của rượu lên chơn thần :
" Chơn thần nhập vào thể xác và bao bọc thể xác bởi khí thể của nó. Trung tâm sinh hoạt của nó ở tại óc và trung tâm linh khí của nó ở tại Nê huờn cung. (Chính tại trung tâm Nê huờn cung nầy mà Hộ Pháp đến gìn giữ chơn linh của người tu luyện cho đến khi đắc đạo).
" Nay, tác dụng kích thích của rượu lan lên tận óc, làm tụ máu trong não, gây ra những xáo trộn trong chơn thần,  thiệt hại đến đời sống người luyện đạo, phá vỡ sự hòa hiệp huyền bí (của Khí và Thần) đã được thiết lập nơi người tín đồ. Hơn nữa, trong lúc loạn thần ấy, để cửa mở trống (trung tâm linh khí) cho Tà Thần xâm nhập chiếm đoạt thể xác, thi hành quyền lực trên thể xác, xúi giục thể xác gây ra những hành động đáng trách, có thể dẫn đến sự sa đọa vào địa ngục. Cho nên, Đức Chí Tôn chính thức cấm chúng ta uống rượu.”
4 . Không tà dâm (việc nầy đưa chúng ta vào nghiệp ác).
5 . Không phạm tội bằng lời nói :  
" Sự khải thị dạy cho chúng ta biết rằng Thượng Đế đã đặt định một chơn linh hướng dẫn và gìn giữ cái mạng sống của con người. Cái chơn linh ấy rất vô tư, có sứ mạng không ngừng liên lạc với các Đấng trọn lành nơi hệ thống thượng đẳng (Ngọc Hư Cung) để trình bày trước Tòa Phán xét một bản báo cáo chi tiết về tất cả hành động tốt xấu. Đó là bản báo cáo tất cả việc làm của con người, gồm những công đức và tội lỗi, không thể tránh khỏi bị xử trí bởi luật Quả báo luân hồi. Hơn nữa, chơn linh ấy được giao phó gìn giữ chúng ta, mà còn có sứ mạng dạy bảo khuyên nhủ chúng ta. Trong ngôn ngữ nghèo nàn và thiếu thốn của con người, người ta gọi chơn linh ấy là Lương tâm. Nay, trước khi chúng ta tìm cách lừa dối kẻ khác bằng những lời nói dối, chúng ta đã lừa dối Lương tâm của chúng ta, nghĩa là lừa dối chơn linh ấy.

" Chơn linh ấy ghi chép không những tất cả việc làm mà còn tất cả lời nói của chúng ta, cả khi chưa thực hành. Bởi vì, dưới mắt của các Đấng trong Tòa Phán xét, những tội lỗi của lời nói cũng đáng bị trừng phạt như lúc hành động.

" Như vậy, chúng ta cần phải thật cẩn thận trong lời nói cũng như trong hành động."

Sự sáng tạo thế giới.
Sự sáng tạo thế giới luôn luôn là hiện hữu và chơn lý tôn giáo, truyền bá từ thế kỷ nầy qua thế kỷ khác, tùy theo thời kỳ, trong sự hòa hợp hay đối nghịch.

Sự sáng tạo chơn linh con người luôn luôn là hiện hữu  và sự nâng lên cao của nó luôn luôn diễn ra. Chơn linh nào không tiến hóa, thì thoái hóa và rơi trở vào vật chất.

Chơn linh bị vật chất hóa, giáng sanh và cư ngụ ở giữa chúng ta, nhưng nó quay trở lại Thượng Đế, kéo chúng ta theo và làm chúng ta trong sạch với Đấng ấy.

Những Thiên sứ của Thượng Đế đã đến: Krishna, Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, chỗ khác : Hermès và Pythagore, Socrate và Platon.

Tất cả Thiên sứ đều có nhiều môn đồ : những người theo phái đạo ở gần Biển chết của Do Thái, những người theo chủ nghĩa Duy trí, những đoàn viên của giáo đoàn Temple, những người của Thánh giá hồng, và nhiều người khác nữa ở Tây phương hay ở Đông phương. Ngày nay ở Viễn Đông : các tín đồ của Đạo Cao Đài.

Thánh giáo Pháp văn.
Những Thánh giáo Pháp văn thường được tiếp nhận bởi các đồng tử của Đạo Cao Đài do các Đấng ban ra như : Allan Kardec, Léon Denis, Camille Flammarion, Descartes, Jeanne d’Arc, Chateaubriand, vv ... và nhứt là Victor Hugo và gia đình Victor Hugo.

Nhiều vị lãnh đạo trong Đạo Cao Đài, là người VN hiện nay, do sự tái kiếp của nhiều người trong gia đình Hugo. Những việc kỳ lạ làm cho người ta tin tưởng điều đó. Trong một số  ít  Thánh Thất, có treo hình của Victor Hugo.

Sự đầu thai chuyển kiếp trong Đạo Cao Đài.
Liên quan với Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo, và tôitin tưởng có thể xác quyết mà không sợ bị buộc tội : với giáo lý của Kardec (Allan Kardec được xem là một vị Thần linh tôn giáo), Đạo Cao Đài tin vào thuyết Nhân Quả và Luân Hồi, hệ quả của nó. Người tín đồ Cao Đài thẳng thắn tuyên bố rằng, không mới lạ gì về điểm nầy.

Tất cả sự chấp ý (tư tưởng, lời nói hay việc làm) là một cái Nhân, sẽ mang lại cái Quả :

Cái Nhân gắn chặt với cái Quả, Quả là sự biến thái cách nào đó của Nhân, là sự giải thích cụ thể của Nhân.

Sự giải thích ấy chính xác đến nỗi chỉ cần xem xét tỉ mỉ kiếp đầu thai hiện tại của một thực thể, đủ để chỉ cho chúng ta biết cùng một lúc kiếp quá khứ và kiếp tương lai của nó. Kiếp đầu thai hiện tại của một thực thể với sự xen kẽ những nỗi vui buồn được xác định bởi những việc làm mà họ đã hoàn thành trong kiếp sống trước. Cũng vậy, những việc làm trong kiếp hiện tại xác định nguyên nhân tác thành của kiếp lai sinh.

Cái Quả có thể được tách ra khỏi Nhân trong một thời gian lâu hay mau. Nếu khoảng cách đó ngắn, cái Quả đến tức khắc và kẻ có tội thấy ngay hình phạt trước mắt. 

Nếu khoảng cách đó dài, đó là vì kẻ tội lỗi còn được hưởng một thời gian nữa cái Quả tốt của những việc làm tốt của nó trong những kiếp trước xa xưa hay kế cận còn kéo dài.

Nhưng, ngay sau khi sự miễn dịch vô hình ấy chấm dứt thì luật Nhân Quả liền thể hiện đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, sự suy sụp diễn ra nhanh đến chóng mặt, giải thích như thế về sự suy tàn của một số gia đình như đã nói ở trên. (Trích trong tạp chí La Revue Caodaiste, Tháng 3, số 33).

Tự do ý chí của con người bị giới hạn bởi cái Quả nghiệp của kiếp trước. Người tín đồ Cao Đài quả quyết rằng, chính mình tạo ra số phận của mình. Việc hành thiện giúp cho thực thể tự cổi bỏ dần dần cái nghiệp quả của nó.

Ngài Ngô Văn Chiêu, tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài mới qui vị gần đây, nói : “Để tự biết mình, người môn đệ phải tự chúc mình những nỗi khổ đau.”

Đạo Cao Đài còn tin tưởng rằng, sự xuất hiện của một sắc dân mới, cũng như  giáo sư  Pietro Ubaldi (29-4-1933) tin rằng, loài người tương lai sẽ là Thần thông nhơn, một mẫu mới của sinh vật, như những người bạn Thông thiên học của chúng ta đã nhận thấy mẫu người mới đang hình thành :

" Kinh nghiệm chứng tỏ rằng, mỗi lần giáng trần của Đấng Cứu Thế, Ngài mang tên gọi là : Lão Tử, Thích Ca hay Jésus, loài người như được đánh thức từ cơn mê. Một luồng sức mạnh huyền bí lưu thông khắp nơi, giúp con người hiểu được những điều mầu nhiệm mà đến lúc đó họ vẫn còn lờ mờ, sự khai mở đột ngột và mầu nhiệm của một vài năng khiếu như: trực giác, ký ức, trí thông minh, huệ nhãn, cho phép người tín đồ đạt tới Đạo, từ đấy mở rộng cửa đối với họ.

Tiếp nhận được linh khí của vũ trụ, chỉ đến gần trái đất sau hàng ngàn thế kỷ, người tín đồ hiểu một cách dễ dàng  những Thánh giáo và để đốt giai đoạn, một ngày nào đó, người tín đồ sẽ được đến gần và nhập vào Thượng Đế.

" Kể từ khi xuất hiện Đạo Cao Đài, mà Đức Chí Tôn là Giáo chủ, những hiện tượng thuộc loại nói trên, được loan báo chút ít khắp Nam Kỳ. Điều ngạc nhiên hơn hết là việc ăn chay trường thực hiện không khó khăn bởi những tín đồ nam nữ ở mọi lứa tuổi. Người ta thấy những đứa trẻ 4 hay 5 tuổi  không chịu nổi khi thấy dĩa cá hay thịt. Người ta thấy những đứa trẻ 13 hay 14 tuổi khước từ ăn mặn để chỉ ăn toàn rau cải và chỉ ăn một lần trong mỗi ngày, vào lúc giữa trưa (ăn ngọ). Người ta cũng thấy những người chỉ ăn toàn là trái cây. Các sự kiện nầy của một đẳng cấp mới, làm ngạc nhiên những tu sĩ Phật giáo mà chính họ thú nhận rằng, trong số họ chỉ có một số  ít  người là giữ được trường chay.

" Kế đó, đến sự phát triển bất ngờ của vài năng khiếu như : ký ức, sự thông minh, trực giác nơi những người mà họ vốn chưa bao giờ tiếp thu một kiến thức nào."

Tạp chí La Revue Caodaiste từ khi sáng lập, đã loan báo một vài sự kiện về đầu thai chuyển kiếp ở Việt Nam. Chúng ta vui mừng được thấy những huynh đệ của Đạo Cao Đài đã thừa nhận những cuộc điều tra và kiểm soát độ chính xác khoa học cần thiết ở Tây phương mà nó cần những bằng chứng cụ thể hơn là những sự làm chứng về đạo đức.

Những bằng chứng ấy đem chúng ta đến cái điểm lợi ích lớn lao : một sự kiện tái sinh được kiểm tra tỉ mỉ đã đánh đổ ngay những sự chống đối quen thuộc vốn đã nghe cả trăm lần chống đối sự tái sinh (đầu thai). Tạp chí La Revue Caodaiste đi theo con đường đó và chúng tôi khen ngợi họ.

Đạo Cao Đài nhắc lại,  mỗi người của chúng ta, trước khi đi tái sinh, phải ăn cháo lú (loại cháo làm quên hết dĩ vãng). Nếu người nào ăn nhiều cháo ấy (khi người ấy có nhiều tội lỗi và nên quên nhiều), nó không nhớ lại được tiền kiếp của nó. Nếu người nào ăn ít cháo lú (khi người ấy đến  một của những kiếp tái sinh gần đây và nó không hổ thẹn về những lỗi lầm trầm trọng), bằng phương pháp hồi quang phản chiếu, bằng trực giác, bằng sự phát huệ, nó sẽ nhớ lại những kỷ niệm về những kiếp tái sinh trước đây.

Nhưng, đó là là khả năng thiên phú của một người ưu tú về thiền hay những bậc hiền triết khiêm tốn và trầm lặng mà người đời không biết đến họ.

Sự xác nhận ấy được chứng thực, và chúng tôi dám nói rằng: Chúng tôi thích những tài liệu được thiết lập bởi phương pháp thực nghiệm.

Kết luận :
 Thời đại của chúng ta đang phá sản, hỗn độn, khao khát giàu có, hận thù, vui lòng nói đến sự xem xét lại thuế khóa, xem xét lại các hiệp ước, các đường biên giới, quan thuế, vv ...  Nhưng họ lại quên xem xét lại cái mà người ta ít nói đến là cái chìa khóa của tất cả mọi sự xét lại: Chúng ta có nên bắt đầu bằng sự xem xét lại Lương tâm không ?

Chính vì Đạo Cao Đài hiểu rõ sự cần thiết đó và trù tính xem xét lại Lương tâm mà tôn giáo nầy đã gặp phải sự chống đối của bao thế lực hắc ám tại Á châu : Tổng hợp mạnh mẽ các tôn giáo ở Á châu, làm gạch nối với Thiên Chúa giáo, tập hợp sự kiện tâm linh và Thần linh làm nền tảng cho thuyết duy tâm hiện đại của Tây phương; kêu gọi lòng thương yêu đến Vô Danh, Vô Cực, đến nền hòa bình thế giới và đại đồng huynh đệ các dân tộc, vĩnh phúc nơi Đấng Cao Đài, vĩnh phúc cho các anh, tín đồ Đạo Cao Đài, những người anh em xa xôi của nước Việt Nam, mà chúng tôi đã tiếp nhận được và hôm nay xin cảm tạ lời giáo huấn và bài học hay.

Châu Âu xưa cũ có dám chấp nhận sự đảo lộn giá trị  mà thời đại mới đòi hỏi không ?

Chúng tôi tin là có, và do đó, chúng tôi nói lời cảm tạ đối với các tín hữu Cao Đài ở Đông Dương.

ĐẠO CAO ĐÀI VÀ VICTOR HUGO

Tạp chí Religio, la Rivista di Studi Religiosi tại La Mã do Ernest Buonainti làm Giám đốc đã nêu ra một bài báo về Đạo Cao Đài. Ông G. Mingiano viết như sau (trang 478):

Victor Hugo và  Đạo Cao Đài :
Một trong những bạn thân của tôi làm một cuộc hành trình đến Viễn Đông, viết thơ cho tôi từ Sài Gòn :

" Anh biết chăng, Victor Hugo đã được phong Thánh ? Đó là một tôn giáo ở Nam Kỳ gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có một tư  tưởng lạ lùng là cấp cho một đại thi sĩ Pháp những vinh dự thiêng liêng. Anh nói thế nào ?

Đương lúc ấy, ở nước Pháp, người ta phải lập một nghị quyết, cho biết làm cách nào cho xứng đáng nhứt cuộc lễ kỷ niệm 50 năm của Victor Hugo, trong khi các buổi lễ khác được diễn ra tại Panthéon (Công Thần miếu), tại trường Đại học Sorbonne, tại đảo Guernesey, được duy trì trong sự bình thường đúng mực của những vinh dự chính thức, thì đây là một tôn giáo ở Nam Kỳ ban cấp cho nhà thơ  những vinh dự thiêng liêng và ghi danh  ông vào hàng phẩm Thần linh. Như thế, một người được vinh dự tôn thờ (hay gần như vậy) mà trong di chúc nổi tiếng của ông không nhìn nhận tất cả giá trị và nội dung tôn giáo ở những giáo hội đã được thiết lập và chỉ nhận lãnh lời cầu nguyện của những người khiêm tốn. (1)    

*  *  *

(1) Vâng, có lẽ ! nhưng đừng quên rằng V. Hugo là một nhà Thần linh học (TLH) và sự ảnh hưởng TLH đối với  ông làm cho đời sống của  ông chia làm hai phần : trước và sau khi gia nhập TLH.

“ Chúng ta hãy cho vào cử chỉ của người Cao Đài cách đối xử đúng của nó : Sự tán dương một thiên tài dĩ nhiên như là sự biểu lộ của ánh sáng thiêng liêng; sự tán dương thơ văn dĩ nhiên như là sự biểu lộ của loài người trong sự điều hòa thiêng liêng. Hình thức tôn vinh tự đóng khung một cách tự nhiên trong những quan niệm căn bản của một tôn giáo mới, mà chưa đầy 10 năm đã tập hợp được gần một triệu tín đồ.

Ở Ba lê, vào cuối năm 1931, tôi có quen biết một sinh viên Nam Vang, theo học Văn khoa tại Đại học Sorbonne. Cậu là một tín đồ Cao Đài. Cậu cho tôi biết rằng :

" Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nghĩa chính xác là Đạo Cao Đài, được thành lập vào tháng 11 năm 1925 và phô bày một sự tổng hợp ba tôn giáo lớn ở Đông phương : Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo, hợp với Thiên Chúa giáo  và Thần giáo, tượng trưng Ngũ Chi Đại Đạo mà Đấng Cao Đài (Thượng Đế) mở ra cho nhơn loại để phát triển và tiến hóa tâm linh. Như người ta thấy, Hồi giáo không có chỗ đứng trong các con đường dẫn tới Đấng Tối Cao. Trái lại, Đức Chúa Jésus Christ được tín đồ Cao Đài xem là Sứ giả của Thượng Đế, giáng trần để hướng dẫn một phần nhơn loại vào con đường tu hành, con đường tương xứng với khả năng hiểu biết những giá trị tâm linh.

" Với ý thức tôn kính sâu xa, cậu sinh viên trẻ tuổi Đông Dương ấy gọi tên Đấng Christ với sự vâng phục, cậu nói với tôi về nghi lễ của Thiên Chúa giáo mà cậu biết cái ý nghĩa huyền bí, đối với tôi, tôi thú thật, là bài học cao nhứt, hiệu quả nhứt về sự dung thứ, đồng thời là một gương mẫu của tình huynh đệ chơn thật dâng lên Đấng Tối Cao, nơi đó sự khác nhau của các danh từ mà người đời cầu nguyện không làm thay đổi gương mặt luôn luôn rực rỡ bác ái.

" Sau cùng cần gì phải biết một Đấng chơn linh thực sự hay không là chơn linh của Fénelon ?  Khi mà chơn linh chỉ nói những điều tốt đẹp và nói như chính chơn linh Fénelon, đó là một chơn linh tốt; dưới cái tên ấy, chơn linh tự làm cho biết thì không quan hệ và thường chỉ là phương tiện để ấn định ý tưởng của chúng ta."

Allan Kardec
Thuật lại bởi René Sudre.

“ Hãy biết rằng tất cả mọi người đều biết qui tắc, mục đích, đường đi của mình;
Rằng từ một ngôi sao đến một con mọt gạo, khoảng không bao la tự lắng nghe;
Rằng tất cả đều có ý thức về sự sáng tạo;
Và lỗ tai có thể thấy,

Vì các vật và con người có một cuộc đối thoại lớn.”
Bóng Tối nói như thế.
Victor Hugo, Jersey, 1855.

Victor Hugo, khi còn sống là một người thực hành Thần linh học, ông thông công bằng phương tiện là cái bàn và bởi chấp bút. Ước  muốn của ông là được giáng sanh để biểu lộ cho những huynh đệ của ông biết về sự giáng sanh khi, chính ông, là người đã thoát xác.

Do đó, những thông điệp của Hugo được nhìn nhận xác thực dễ dàng hơn những thông điệp của Fénelon (để thuật lại ví dụ của Allan Kardec) hay của tất cả chơn linh khác.

Hơn nữa, sự long trọng của thông điệp mà tôi sắp trình bày nơi đây, là do phẩm tước cao cả của vị chất vấn thỉnh cầu  để giúp cho sự xác thực.

Đây là thông điệp Thần linh học của Chơn linh Victor Hugo hay Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trong một đàn cầu cơ ngày 20-4-1930 lúc 1 giờ sáng.

HỘ PHÁP : - Xin cho tôi hiểu nguyên thỉ của Thầy chúng ta và quyền hành của người.
Chơn linh VICTOR HUGO đáp :
Hiểu cho đặng huyền vi khó nổi,  (*)
Tra khuôn hồng tỏ mối không minh.
Theo tôi nghĩ  thế giới mình,
Ngoài ra còn có lắm hình càn khôn.
Nhiều thế khác biệt phân lớn nhỏ,
Sinh tồn loài vật    y nhau.
Một ngôi nào đó nên cao,
Về thần hồn với về loài nhơn sanh.
Cũng có lúc giống mình như hệt,
Tấn hóa nâng khí phách nên hiền.
Máy trời đẹp vẻ thiên nhiên,
Vật loài đều hưởng trọn quyền Chí Linh.
Các địa quả thái bình an tịnh,
Cả chúng sanh dốt tánh can qua.
*  *  *

Chú thích : Đức Hộ Pháp hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo) bằng tiếng Pháp, Ngài trả lời bằng thi văn tiếng Pháp. Đức Hộ Pháp dịch lại bằng thi văn tiếng Việt. Bài dịch nầy trích trong “Diễn văn và Thuyết đạo Đức Hộ Pháp, 1928-1940” trang 58-66.

Tương đối dứt, tuyệt đối ra,
Chơn hồn tranh đấu về khoa tánh lành.
Sanh chi cũng ngoan minh cách trí,
Quyền linh hồn chủ quỉ phàm tâm.
Thế hèn luật cũng không cần,
Tương thân chỉ cậy nhờ phần đức tin.
Cái chết bị tâm linh đánh bại,
Sống chết dường trái phải không phân.
Thương sanh truyền phép xa gần,
Hồn và người vốn Thánh Thần hiển nhiên.
Nhiều thế giới càn khôn ta có,
Sanh hoạt nầy quả cớ nên nhiều,
Địa cầu chừng đặng cao siêu,
Các Ngài rõ giá những điều phân phô.

HỘ PHÁP : - Chừng nào trái địa cầu nầy đặng hưởng điều ấy ?
Thần linh dụng tiếng làm Ngài hiểu,
Cho tỏ tường phẩm hiệu dường bao.
Qua luyện tội Thánh cảnh vào,
Còn lâu nữa mới làm trào Phật Tiên.
Muốn biết đặng căn nguyên Từ Phụ,
Ở cùng người hoặc đủ hiểu Người.
Chẳng hồn nào quyết định lời,
Thích Ca thì cũng để lời phỏng ngôn.
Chớ coi trọng lời tôi bày tỏ,
Tôi thuật lời tưởng ngỡ như linh.
Tỷ như lúc trước Chí Linh,
Có sanh ở một cảnh hình càn khôn.
Người cũng đứng phẩm hồn hậu bổ,
Vật nên người, người trở nên Hiền.
Lần hồi lên phẩm thiêng liêng,
Khai Thiên người mới đoạt quyền Chí Linh.
Đã chịu lắm sinh sinh tử tử,
Đủ huyền linh làm chủ trí khôn.
Lại hay thâu phục chơn hồn,
Đặng làm Thần đệ vĩnh tồn triều nghi.
Đài Thiên cảnh vừa khi đặng lớn,
Dắt triều đình vào chốn không trung.

HỘ PHÁP: - Vậy chớ khi ấy Người đã có Thiên cung riêng của Người rồi hay sao ?

Phải mỗi đứa riêng trong cảnh giái,
Của chúng ta tạo tại linh hồn.
Hồn, người, do bởi giác hồn,
Tạo nên cảnh giới cộng làm chánh chung.
Trong các Đấng lòng trung vẫn ít,
Phần đông do kẻ nghịch oan khiên.
Tu chơn bỏ máy diệu huyền,
Thì ta mở lối cảnh Thiên quỉ vào.
Quỉ vương hỏi nơi nào mà đến,
Cứ tầm chơn đừng đếm giả truyền,
Chắc do trong đám triều Thiên,
Chí Linh khó sửa cho tuyền Thánh tâm.
Ta hằng bị tình thâm phản nghịch,
Đố kỵ, cùng vui thích hại ta.
Hộ Pháp, tay Ngài tê quá thay là,
Đêm mai tôi tiếp nói qua việc nầy.
Lời ác cảm ngày nay còn tiếp,
Bây giờ đây cậy pháp danh Thầy.
Đừng lo kẻ dữ làm chi,
Biết khôn đó cũng có ngày ăn năn.
Tôi tiếp chuyện khai Thiên tôi nhận,
Cũng kỉnh phương học vấn của Ngài.
Chí Tôn tới chốn dạ đài,
Bình an phẳng lặng không loài động sanh.
Trong thứ khí không danh mây nước,
Vật chất sanh ngủ ước vô chừng.
Hào quang bao phủ mấy vầng,
Vật không biến hóa, thú ngừng không sanh.

HỘ PHÁP: - Thưa phải là hình ảnh của nước trong Sám truyền đạo Thánh đã có nói đó hay không ?
Phải thứ khí kêu danh thủy khí,
Đông đặc nhiều xem kỹ đứng đầu.
Rằng Trời mặt nước ngự chầu,
Thì là phải hiểu cao sâu thế nầy.
Chơn thần người dẫy đầy ánh sáng,
Lấy dương quang ấp đảng vô năng,
Sanh lằn hỏa khí bao giăng,
Âm Dương tương khắc nổ lằn Thiên thinh.
Thái Cực nở với hình nguơn thủy,
Hai quyền năng dục khí hóa cơ.
Vật tiêu hóa khí, khí nhơ,
Tiêu thành nguơn khí bấy giờ sanh quang.
Khí sanh quang ấy toàn linh cảm,
Định linh hồn chết sống nơi tay.
Dị thường sanh hóa rất hay,
Sau nầy ta cũng thấy hoài huyền linh.
Vật chi tại tài tình Sư Phụ,
Ta không phương hiểu thấu cho cùng.
Lửa Thái Cực lớn vô chừng,
Rảy cùng thế giới muôn trùng hỏa tinh.
Phân phát quá rồi hình phải tuyệt,
Cùng càn khôn rảy riết không ngằn.
Hỏa tinh lớn hóa nhựt quang,
Nhựt tinh nguội lập cả hàng thế gian.
Nơi nào ánh linh quang chiếu diệu,
Vạn vật toàn đại tiểu đều thông.
Chí Linh tánh đức bao trùm,
Hữu sanh ai cũng do cùng Nhứt Linh.
Các nguơn khí ánh linh chiếu thấu,
Chi trược ngưng thứ xấu biến thạch hình.
Thổ, mộc, thú, nhơn, vạn linh,
Bán thanh sanh khí, thanh thành hạo nhiên.
Khối linh cảm ban tuyền vạn loại,
Tùy theo hàng phẩm thảy vừa chừng,
Hồn linh sanh hưởng hồng ân,
Còn bên thể phách về phần sanh quang.
Ngài đủ rõ hành tàng sót lại,
Tới đây tôi đành phải ngưng văn.

HỘ PHÁP: - Kiếu lỗi Ngài, nhưng quả mọi việc đều do nơi Sư Phụ thì tức nhiên nó phải tận thiện tận mỹ mới phải, cớ sao chúng tôi lại còn thấy đặng nhiều điều sai sót của cơ Tạo hóa vậy ?
- Những  điều chi sơ sót gọi rằng,
Hoặc khi tôi có cớ bằng giải khuyên.

HỘ PHÁP : - Sự hung ác và sự vô ích của cả loài người loài vật và thảo mộc. Cái tánh đức của vạn loại khó lấy trí khôn người mà định khen cho đặng.

Không vô ích dữ hiền mặt thế,
Sống phải toan kiếm kế nuôi thân.
Chí Tôn con cái đều cần,
Lòng thương kia phải dành phần lợi sanh.
Cho tấn hóa, người hành đau thảm,
Người phải cho mô phạm bảo thân.
Dưới đời mấy mặt hiền nhân,
Với ta gọi dữ họ cần ích riêng.
Sao đặng tiếng Thánh hiền các Đấng,
Sử nhơn gian nào chứng chép ghi.
Đấu tranh mạnh yếu thường khi,
Xem ra thấy mạnh cũng thì phần hơn.
Lẽ mạnh yếu thiệt hơn chiến đấu,
Nâng trí mưu cơ xảo nên hay.
Cảnh phàm tương đối là đây,
Dữ, vô dụng, ấy là lời bia danh.
Nơi hoàn võ  cá nhân có chỗ,
Các Trời kia lớp ngõ học đường.
Càn khôn thế giới là trường,
Chư hồn đến học cho thường mới hay.
Kẻ nào nhẫng bỏ bài trốn mãi,
Không  đặng lên, học lại bài xưa.
Các hồn ai cũng mến ưa,
Sách thiêng liêng đọc mấy tờ vĩnh sanh.
Ai cũng ước công thành danh toại,
Phải nhiều thời nhiều phép nhiều kinh.
Vật hèn tới phẩm tối linh,
Con đường đi biết mấy nghìn thời gian.
Chung cuộc hiểu hành tàng ta đã,
Sau mới tường căn quả Chí Linh.
Biệt phân đẳng cấp tánh linh,
Là phương dành để cho mình sánh cân.
Trong học thức Ngài cần quảng đại,
Phân tánh người tùy cái tài ba.
Đem người phàm tánh cho ra,
Ngoài vòng Thánh chất, chánh tà phân minh.
Lấy gương tốt để dành Hội Thánh,
Năng dạy khuyên các nhánh bất trung.
Đừng thèm ghét kẻ gian hùng,
Coi phần hồn trọng độ giùm là hay.
Cứ thương mãi đặng cho nhơn loại,
Chơn lý kia cạn giải đôi lời :
TỪ BI  BÁC ÁI và TRỜI.

HỘ PHÁP: - Cha và Thầy khác nhau. Tại sao Đại Từ Phụ cũng xưng là Thầy ?
Người cũng vẫn Cha Thầy luôn một,
Cả chơn linh hài cốt tay Người.
Nuôi mình dùng vật thanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tột vời Chí Linh.
Nơi Người vốn quang minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng.
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên.
Luật thương yêu, quyền là ngay chánh,
Gần thiện căn xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Thiên.

THẾ NÀO LÀ TÍN ĐỒ CAO ĐÀI ?

Trong tạp chí Religio, la Rivista di Studi Religiosi, ông Mingiano viết :

Những tín đồ Cao Đài được phân làm hai hạng :
- Bực thứ nhứt (Thượng thừa) gồm tất cả Chức sắc từ phẩm tột đỉnh  (Giáo Tông) đến hạng thấp nhứt là tín đồ mới vào tu, tất cả bị bắt buộc tuân theo chế độ ăn chay nghiêm khắc, nghèo và thanh đạm (họ tự nuôi sống duy nhứt bằng rau cải và trái cây), được xem xét gắt gao. Hội Thánh là nơi căn bản truyền thụ và gồm 7 cấp truyền thụ : cấp cao nhứt là những anh lớn, có ưu thế tuyệt đối thông công với các sứ giả của Thượng Đế, những chơn linh cao cấp của ánh sáng mà họ nhận được khí lực, những lời giáo huấn và khuyên nhủ.

- Bực thứ nhì gồm khối đông đảo tín đồ, ngoài bổn phận giữ gìn Ngũ giới cấm, họ còn phải khiêm tốn, thật thà, vâng phục quyền hành bề trên mà họ trực thuộc và vâng lời Hội Thánh.

" Sự thờ cúng không chỉ bao gồm việc tụng kinh  chung, nơi đó, các tín đồ được cầu nguyện trước một bàn thờ, trên đó đặt một quả cầu lớn trong suốt, trong đó đốt một cái đèn tượng trưng ngọn lửa thiêng. Trên quả cầu ấy vẽ một hình tam giác tượng trưng sự toàn hảo và sự tổng hợp các năng lực thiêng liêng, trong tam giác là Thiên Nhãn.

Trong tôn giáo nầy, hai trạng thái mà tôi xem là cơ bản nhứt :
"Thứ nhứt : để là một tín đồ Cao Đài, họ không cần bày tỏ một đức tin nào, không cần liên hệ bởi một lời thề nào : Tự do tín ngưỡng là tối thượng ở nơi đây. Sự giáo dục thấy được và phát triển, không có ý bắt buộc các tín đồ, nhưng họ ưng thuận một cách tự do, sự gia nhập tự nhiên và tự nguyện.
   Home                     1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét