
Xuất bản năm Canh Tuất - 1970
CẦU NGUYỆN
Nam
mô nhứt nguyện Đại Đạo Hoằng Khai
Nam
Mô nhì nguyện Phổ Độ Chúng Sanh
Nam
Mô tam nguyện Xá Tội Đệ Tử
Nam
Mô tứ nguyện Thiên Hạ Thái Bình
Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
PHỔ ĐỘ
( Tam Thập Bát Niên )
TÒA THÁNH TÂY NINH
HIỆP THIÊN ĐÀI
Văn Phòng THƯỢNG SANH
Số : 174/VP
CHỨNG
CHỈ
Quyển sách Giáo Lý ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ nầy đã có Hội Thánh kiểm duyệt về mặt Tôn Giáo, cho phép xuất bản
và ban hành trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Tòa Thành, ngày 25-8 Kỷ
Hợi
( Dl. 26 - 9
-1959)
T.M HỘI THÁNH
THƯỢNG SANH
(Ký tên và đóng
dấu)
Tựa
Của Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC
Khoa Trưởng Đại
Học Văn Khoa Sài Gòn.
Sự xuất hiện của Đại Đạo
Cao Đài ở miền Nam Việt-Nam cách đây chưa đầy nửa thế kỷ, mà sức cảm hóa lan
tràn mau lẹ; Tín Đồ Nam, Trung, Bắc lên đến hàng triệu, thực là một hiện tượng
tâm lý xã hội hết sức lạ kỳ. Đấy chẳng phải nhờ tài truyền giáo của người mà là
một năng lực huyền diệu tâm linh, như là ba động, gọi là ba động theo định luật
" Đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu " vậy.
Một Đạo sĩ danh tiếng Ấn
Độ bảo : " Nếu ai ngồi trong hang
núi hẻo lánh ngày đêm tâm tâm niệm niệm một ý niệm, ý niệm ấy sẽ tập trung hết
năng lực tinh thần trở nên một lý-tưởng-lực xuyên sơn quá hải, như một điện lực
tràn vào xã hội, tìm nhập vào tâm hồn đồng điệu như tia chớp bắt vào ngọn thu
lôi mà ảnh hưởng khắp cả ".
Đạo Cao Đài ngày nay mà
giáo lý cơ bản là tinh thần tổng hợp "
Tam Giáo Đồng nguyên " vốn đồng điệu với tâm hồn nhân dân nông nghiệp
Việt Nam. Cái điệu nhạc tinh thần ấy vốn gốc rễ sâu xa trong tinh thần truyền
thống dân tộc, cho nên một giáo sư Pháp trường Viễn Đông Bác Cổ, Mr. Durand đã
nhận xét về tâm hồn Việt Nam rằng:
" Nói rằng tâm hồn Việt Nam do một tồng hợp ảnh
hưởng của ba hệ thống " Nho, Phật, Lão, chi phối thực là một điều đã trở
nên điển hình vậy ". Maurice Durand Bulletin Etudes - Indochinoises -
Saigon 1953.
Nhưng sự thật tín đồ Cao
Đài đại đa số là nông dân mà nông dân thì không có học, cho nên họ bảo họ chịu
ảnh hưởng của ba hệ thống tư tưởng bác học chính yếu Á Đông thì cũng khó hiểu.
Xét kỷ, trước khi có ba hệ thống trên du nhập vào đất cố đô của nòi giống Việt
là đất Giao Châu ( Bắc Việt ) thì ở đấy như các nhà khảo cổ đã khia quật tại
Thanh Hóa và Bắc Ninh hai di tích văn minh là văn minh Đông Cổ và văn minh Cổ
Mộ. Đông Cổ tượng trưng cho tín ngưỡng Hồn nước linh thiêng và Cổ Mộ đại diện
cho sùng bái hang động thiêng liêng. Cả hai khuynh hướng đã sẵn chung một cơ sở
" Linh " từ Tổ Tiên cho đến
Thần Tiên. Do đấy mà nhân dân Việt Nam "
Sống trong Siêu Nhiên " ( Vit dans le surnaturel ) Croyances et
Pratiques Religieuses des Vietnamiens - E.F.E.O Paris như Linh Mục Leopold
Cadière đã kết luận hay là như Alfred Meynard đã nhận định : " Người Đông phương đã đem vô hình vào
đời sống hằng ngày của họ. " ( L'Oriental a fait entrer l'invisible dans son existence quotidienne )
Extrême - Renue Indochinoise -Mai 1928
Chính đấy là nguồn gốc sâu sa của tín ngưỡng Cao Đài hợp
Đời với Đạo vào một nguồn tâm linh :
" Đời, Đạo nên lo nối bước theo,
Đời không Đạo Đức chịu mang nghèo;
Đạo, Đời tương ứng thành an trị,
Đời, Đạo thấp cao cũng rán trèo.
Đại Thừa Chơn Giáo.
Nhưng tín ngưỡng Cao Đài
sau khi thâu hóa ba hệ thống Giáo lý căn bản Đông Phương và thống nhứt vào tín
ngưỡng Tâm linh truyền thông dân tộc, đã luôn luôn trung thành với tinh thần
Đạo học Đông phương là Giác và Tin, chẳng phải mê tín như Thầy cảnh tỉnh :
Tiếng chuông khải ngộ thức hồn mê,
Trống đổ kêu mau kíp trở về;
Giác thề hồi tâm hành hướng thiện,
Mê nơi cõi tục khổ trăm bề.
Tiếng Trống Giác Mê
Cũng vì mục đích Giác Mê
mà Cụ Tiếp Pháp Trương văn Tràng đã cố công soạn ra tập sách " Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Giáo Lý "
nầy rất công phu, có mạch lạc thứ tự, đã giản dị lại thâm thúy, hơn nữa tất cả
giá trị không ở tại công trình nghiên cứu mà còn là kinh nghiệm bản thân tu
luyện suốt một đời của tác giả, thực đáng là những bài học Đạo đức sống, linh
động cho kẻ học Đạo vậy.
Cụ đã quá yêu, có nhã ý
cho phép tôi đề tựa. Tựa thì tôi đâu dám, bất quá có vài lời phụ họa để khỏi
phụ lòng tri ngộ của một bậc lão thành vậy.
NGUYỄN ĐĂNG THỤC
Gia Định, ngày
5-9-1964.
Lời giới thiệu
Của Ông TRINH
TƯỜNG
NGUYỄN LƯƠNG HƯNG
Thời đại hiện nay biểu
dương một nền văn minh cực kỳ xảo diệu, lôi cuốn con người vào một viễn tượng
hưởng lạc có khuynh hướng về vật chất. Nền văn minh nầy phát huy được mọi khả
năng của con người định nghĩa như là một khả thể ( Possible ) hoàn toàn vượt hẳn
lên trên loài thú cầm với tính cách "
Linh ư vạn vật ". Do đó nó đã đưa con người gần tới một cuộc sống liên
hệ mãnh liệt với vật chất xa hoa.
Triết lý hiện đại định
nghĩa con người như một tinh thần nhập thể tại thế, hơn thế nữa, một chủ thể tự
do có ý thức về mình và về tha nhân, mà danh từ thông thường được gán cho nó là
" Nhân vị ".
Xét như vậy, triết lý hiện
đại được coi như một sinh hoạt tinh thần thoát thai từ cái nền văn minh khoa
học duy lý đã chấp nhận con người trong yếu tính chủ thể và tự do của nó, nghĩa
là vượt lên trên cái thể xác phàm trần của nó, con người còn là một cái gì linh
diệu thâm viễn. Điều đó phải chăng đã được mặc nhiên động cập đến tôn giáo.
Cái đà tiến bộ vật chất
văn minh ngày nay đã làm nẩy sanh nhiều chủ nghĩa, học thuyết, những chủ nghĩa
đã va chạm nhau, những học thuyết đã đụn độ nhau. Và dù va chạm, đụng độ để
tiến tới những nấc thang hoàn hảo chăng nữa, con người vẫn bị gian cầm trong
những bộ máy kinh tếkhổng lồ khó hiểu, con người vẫn cảm thấy lạc lỏng thất
vọng vi những tranh chấp quyền lợi càng cam go hơn. Con người hiện tại bị đặt
trước những bức tường phi lý ( murs abourdes ) và do đấy phản ứng hoàn cảnh của
nó trở nên nguy hiểm cho đạo lý luân thường.
Đã đành bên cạnh những
hoạt động thiên về đời sống vật chất vẫn có những hoạt động thiên về tinh thần
đạo lý. Nghĩa là đã có nhiều tôn giáo được tổ chức ngày càng hoàn bị để điều
hòa cuộc sống con người, để nhắc nhở "
quê hương đích thực " của nó. Suy xét rằng các tôn giáo đó đã đến lúc
không còn ranh giới nữa vì rằng nhân loại ngày nay dường như đã liên lạc với
nhau như người trong một nước, vì quả đất cũng chỉ còn như một đơn vị làng mạc
nhỏ bé, khiêm tốn.
Cao Đài giáo xét như một
Tôn giáo tổng hợp đã qui định những tôn giáo chính thống trên một căn bản chung
và đặt giữa chúng nó những liên hệ tương xứng như muốn xác định rằng các tôn
giáo chỉ là những lối thể hiện khác nhau của cùng một cái Đạo duy nhứt, vĩnh
tồn.
Cao Đài giáo lại còn là
một Tôn giáo thiêng liêng trong từng giờ phút của nó. Đó là tính cách huyền diệu
cơ bút, một hiện tượng kỳ diệu nói lên sự mặc khải của Đấng Thượng Đế trọn lành
vì lòng Đại Từ Bi mà giáng cơ xuống trần để cứu độ nhân sanh.
Trước đây thời kỳ huyền
khuyết đã bị đẩy lui để nhường chỗ cho thời kỳ khoa học. Nhưng ngày nay qua Cao
Đài giáo, phải chăng khoa học và huyễn khuyết hay đúng hơn Tôn Giáo với tính
cách mặc khải cụ thể của nó, đã nhìn thẳng vào nhau để xướng khải một viễn đồ
văn minh tu sĩ cho nhân loại đại đồng sau nầy.
Đã đến lúc tôn giáo phải
được xác định như một khoa học - Một khoa học siêu hình. Hay nói tắt : Tôn giáo
chính là một siêu khoa học vậy.
Về phương diện giáo lý,
Cao Đài giáo chỉ là một tổng hợp Tôn giáo đặt trên căn bản " Tam Giáo Đồng Nguyên, Phục Nhất Ngũ Chi " đặc biệt phối
hợp với Thánh Giáo ( Messages ) mà trong đó, đa số là những bài văn thơ bao hàm
những ý nghĩa thâm viễn linh diệu vượt ra ngoài khả năng lĩnh hội của con
người.
Thế nên, thực hiện một hệ
thống Cao Đài Giáo Lý quả là một công trình cực kỳ khó khăn, nhất là trong thời
kỳ nền Đạo còn đang ở trong một hoàn cảnh chưa an thịnh.
Tuy nhiên, xuyên qua tác
phẩm, Trương Ngài Tiếp Pháp đã biểu lộ một cố gắng cụ thể trong ý hướng trình
bày những nét căn bản về sự hình thành của Đại Đạo cũng như về giáo lý xác định
như một tổng hợp của ba nguồn học thuyết Đông phương truyền thống : Nho Giáo,
Đạo Giáo, Phật Giáo.
Đây quả là một công trình
khảo cứu rất hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu chơn lý. Nó lại càng bổ ích hơn
nữa cho những hành giả để suy niệm càng thực hành một tu pháp hợp với trình độ
tiến hóa của thời đại ngày nay.
Viết tại MINH HƯNG
TRUNG HỌC ĐƯỜNG
Ngày 18-8-1964
Tiết Xử Thử : 11-7
Giáp Thìn.
LỜI TỰA CỦA SOẠN GIẢ
Tái bản lần thứ tư.
Quyển Giáo Lý Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ tái bản lần thứ tư nầy, cũng như mấy lần trước, không phải sửa đổi
học lý căn bản mà chỉ bổ khuyết những chi tiết thiếu sót, cần cho quyển sách
được đầy đủ thêm hơn.
Chúng tôi quan niệm rằng :
Kẻ học đạo có liên đới quan hệ trong ba đời : Ở đời hiện tại, chúng ta phải tìm
học những kinh nghiệm của các Đấng Tiền bối, còn lưu truyền con kinh điển. Đó
là đời hiện tại học với đời quá khứ. Đến lượt chúng ta ở đời hiện tại cũng phải
làm việc lưu truyền cái gì mà chúng ta đã chứng minh kinh nghiệm cho đời vị
lai. Tiền tấn, hậu kế, phương thức ấy giúp loài người nghiên cứu liên tục, khám
phá Đạo tự nhiên, tiềm tàng trong vũ trụ, vạn vật. Hoặc nói rõ hơn là : Nhơn
loại lần hồi phát huy đường chánh Đạo đưa chúng sanh trở về với Cội sanh mình
là Thái Cực Thánh Hoàng.
Nhắc lại, gần đây thời
kỳkhoa học thực nghiệm cực thạnh lan tràn từ Tây Phương sang Đông phương. Sự
kiện ấy làm lung lay lòng tín ngưỡng của người Việt Nam. Không ít nhà Nho gần
như thối chí bút nghiên. Thiền học thì không vui, phổ truyền Phật pháp. Người
nhơn thế, như chúng tôi, chỉ còn phưởng phất tinh thần Đạo Đức truyền thống mà
thôi.
Đến năm Ất Sửu ( 1925 )
Đức Chí Tôn dùng huyền diệu cơ bút khai mở mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Phép Tiên
gia huyền nhiệm ấy đánh mạnh vào tiềm thức của chúng tôi, làm cho lòng tín
ngưỡng bừng tỉnh. Thì chúng tôi mới nhận ra rằng con đường giải thoát kiếp trầm
luân khổ hải để dành cho chúng sanh mà Tam giáo đã vạch sẵn từ ngàn xưa vẫn còn
chói sáng dằn dặc trong ký ức mọi người. Thế mà, từ trước chúng tôi không nghĩ
đến. Lần khai Đại Đạo nầy, Đức Chí Tôn không lập giáo lý riêng, mà chỉ qui nguyên
Tam Giáo, hiệp nhứt Ngũ Chi thành một học thuyết Đại Đồng. Đó là mối đầu tiên
làm cho chúng tôi hồi tưởng đời sống của người xưa, để làm gương soi sáng cho
người nay.
Là một Đồng Tử, trong số
12 vị Đồng Tử, chúng tôi nhờ kinh nghiệm cơ bút, tìm hiểu chơn lý. Đức tin nhờ
đó mà thành lập kiến cố sức mạnh tinh thần ấy soi sáng và đôn đốc chúng tôi học
hành Đạo lý.
Sự nghiên cứu Giáo lý thời
xưa và phối hợp với Thánh ngôn của các Đấng Thiêng liêng lập thành một học lý
đối với chúng tôi, lúc ban đầu không phải dễ dàng như lấy đồ trong túi, nhưng,
may thay Đức Chí Tôn hằng cận kề dạy bảo : Đức Ngài dạy phải bớt điều không
thích hạp, phải thêm những điều cần thiết, cắt nghĩa những câu văn khó hiểu,
chung qui, những bài học góp nhặt thành lập giáo lý nầy, chúng tôi đã cống hiến
cho các bạn đồng môn hồi năm 1950 và được tái bản hai lần nữa. Sau khi xuất bản
quyển " Trên Đường Tấn Hóa " chúng tôi cần thấy phải tái bản quyển
Giáo Lý nầy một lần thứ tư nữa. Âu cũng là một việc thêm thắt những chi tiết
khuyết điểm, cần cho quyển giáo lý Đại Đạo được đầy đủ thêm hơn.
QUYỂN GIÁO LÝ GỒM 3 PHẦN :
1 . Về mặt Tôn giáo.
2 . Vũ trụ và Nhơn sanh quan.
3 . Hạ thừa và Thượng thừa.
PHỤ LỤC : I
4 . Hườn nguyên Tam Giáo.
PHỤ LỤC II :
5 . Nho Giáo lược khảo.
6 . Đạo Giáo lược khảo.
7 . Phật Giáo lươc khảo.
Quyển giáo lý gồm 3 phần
như trên. Ấy là học thuyết của Đại Đạo, còn hai phần phụ lục sau là Hườn Nguyên
Tam Bữu và Tam Giáo lược thuật. Vả lại, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nền tảng là học
lý Tam Giáo Qui Nguyên; chúng tôi lược khảo Tam Giáo là có ý để cho học giả
biết qua chỗ Tam Giáo Đồng Nguyên và Hườn Nguyên Tam Bửu là cứu cánh của sự tu
học.
Có điều chúng tôi xin thưa
là : Đứng về mặt tu tỉnh, chúng tôi nhắm vào mục đích Vũ trụ và Nhơn sanh quan
để soạn thảo chớ không đề cập đến Xã hội học. Thiết tưởng chúng ta cứ tu thân
trước đi, nhiên hậu sẽ tề gia, trị quốc, và bình thiên hạ cũng như cỗ nhơn đã
quan niệm.
Nếu như tu thân rồi mà sở
hành còn có khuyết điểm chúng ta cũng có thể sửa lại được vì chúng ta biết điều
phải quấy, lẽ thiện ác rồi theo đó mà thu xếp. Dầu sự việc không được chí thiện
chớ cũng không đến nổi sai xa thiên lý. Cổ nhơn nói rằng : " Bổn lập nhi
Đạo sanh " là lẽ ấy.
Thưa Quí Vị Độc Giả :
Một giáo lý đã rộng lắm
rồi; nay Tam Giáo và Ngũ Chi qui nhứt thì thử hỏi Đạo Pháp rộng rãi đến chừng
nào ? Đứng trước cái biển pháp bao la vô biên ấy : Chúng tôi với tài đức kém
cỏi đường đột soạn quyển sách nầy, dĩ nhiên sự khuyết điểm không ít. Xin quí
Ngài lượng thứ cho. Chúng tôi rất vui lòng tiếp nhận những lời giáo hóa của quí
vị Đại Đức. để sau nầy sửa chữa thêm bớt cần cho quyển sách trở nên đầy đủ thêm
hơn hầu lưu truyền cho đoàn hậu tấn.
Soạn giả - Tiếp
Pháp TRƯƠNG VĂN TRÀNG
Cẩn chí.
Lời giới thiệu của Đức Hộ-Pháp
Khi xuất bản lần thứ I.
Quyển sách sơ lược, tuy
chưa đem lại trọn hình chơn pháp nhưng đã giảng giải đủ mọi phương tu niệm. Vậy
nó sẽ giúp ích cho độc giả sưu tầm chơn lý đặng bước vào " Bí Pháp Chơn Truyền ". Ấy là chìa khóa mở cửa hữu hình
thông qua thế giới huyền linh vô tả.
Xin đề lời cùng tín đồ và
chức sắc, nên đọc và đào luyện tinh thần hầu mai hậu hưởng phần siêu thoát.
Cho phép in và ấn tống.
Tòa Thánh Tây
Ninh, ngày 8-6-1948
Hộ Pháp
PHẠM CÔNG TẮC
( Ấn ký )
Lời giới thiệu của Đức CAO THƯỢNG SANH
( Khi tái bản lần
thứ III )
Tặng quyển "
ĐẠI ĐẠO GIÁO LÝ "
Của Ông TIẾP PHÁP
TRƯƠNG VĂN TRÀNG
" Giáo Lý " Đạo Trời thất ức niên,
Trương Quân biên soạn để lưu truyền.
Tồn tâm chỉ rõ đường mê giác,
Dưỡng tánh phân rành nẻo tục Tiên.
Vẹt ngút mây mù nâng đuốc huệ,
Gắng công học hỏi đáng tài hiền.
Neo theo chánh thuyết bền trau luyện,
Mới đạt chân tu phép diệu huyền.
Tòa Thánh ngày
14-8 Kỷ Hợi ( 26-9-1959)
Lời Giới Thiệu
Khi Tái bản lần
thứ 4
Của Ông
Bảo Thế LÊ THIỆN
PHƯỚC
Học Đạo là tìm hiểu chơn
lý và một khi thấu triệt rồi thì không còn vui thú nào ở thế gian sách kịp. Như
vậy, người hành đạo mới dám hy sinh những cái gì ràng buộc Thần trí và Tâm hồn,
ngỏ hầu giải thoát cảnh trầm luân bể khổ, đặng qui hồi nguyên bổn.
Từ xưa đến nay, đã có
nhiều tôn giáo xướng xuất nhiều phương hướng dìu dẫn nhơn sanh trong trường xử
sự, tiếp vật theo Đạo hóa sanh của Trời. Song le văn minh vật chất càng ngày
càng tiến triển như hiện giờ, khoa học gần như muốn chiếm đoạt cơ mầu nhiệm của
Tạo Đoan, thì trái lại, tinh thần Đạo Đức của nhơn sanh ngày càng lu mờ, mặc
dầu, các tôn giáo kia đã tận lực giáo nhơn qui thiện.
Đại Đạo Tam Kỳ xuất thế,
với một yếu lý qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi thành thử những tu sĩ của nền Tân Tôn
Giáo nầy không còn phân biệt giáo phái, tức là coi nhau như bạn thân, đồng theo
một khuynh hướng " Cứu nhân độ thế ". Lẽ dĩ nhiên, Đạo Cao Đài phải
có một giáo lý phù hạp với trình độ của nhơn sanh hiện tại đặng chuyển đọa vi
thăng tiêu trừ nghiệp chướng. Huynh Tiếp Pháp Trương Văn Tràng đã dày công soạn
quyển Giáo Lý nầy, cốt yếu để giúp cho các bạn tu sĩ, khỏi lầm lạc trên đường
học đạo.
Sách nầy đáng truyền bá
khắp nơi, dầu nơi gia đình đạo giáo, hay gia thất bàng quan, dều nên đọc nó,
bất luận là lúc nào, trong đời mình sẽ thấy nó là nguồn an ủi, để sửa mình khi
rủi lâm vấp tội tình, hoặc nó sẽ làm kim chỉ nam, để vạch lối cho kẻ hành giả
đem Ta giả hiệp trở về với cái chơn thật Bổn Ngã.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Kỷ Hợi ( d.l 30-9-1959)
QUYỀN ĐẦU SƯ CỬU
TRÙNG ĐÀI
Bảo Thế
Ký tên LÊ THIỆN PHƯỚC
CHƯƠNG
THỨ NHỨT
VỀ MẶT TÔN GIÁO
TIỂU SỬ ĐẠI ĐẠO
Theo lý
đương nhiên, một việc lớn đến đâu, hay nhỏ thế nào, khi phát huy thì cũng do
một duyên cớ tế nhị, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng nằm trong công lệ ấy. Chúng tôi
muốn nói nền Đại Đạo, tuy cao thâm có tinh thần cứu rỗi cả chúng sanh; nhưng
ban đầu nó chỉ do huyền diệu cơ bút, một sự kiện đã có tự ngàn xưa. Thế nên trước
khi luận Đạo, thuyết pháp chúng tôi xin bàn sơ lược Tiểu Sử Đại Đạo.
Chương nầy có hai đề mục :
1 . HUẤN
LUYỆN ĐỒNG TỬ
2 . ĐẠI
ĐẠO XUẤT THẾ
1 .
HUẤN LUYỆN ĐỒNG TỬ :
Dùng huyền diệu cơ bút để
lập Đạo, truyền giáo thì Đồng tử là một việc rất cần thiết. Thế nên, trước khi
truyền dạy Chánh Pháp, chính mình Đức Chí Tôn, hoặc ủy quyền cho các Đấng Trọn
Lành, chọn lựa và huấn luyện Đồng Tử.
Chúng tôi còn nhớ, vào
khoảng thượng tuần tháng 6 năm Ất Sửu (1925), tại Đô Thành Sài Gòn, thình lình
phát khởi một phong trào : Phò cơ, Chấp bút, Xây bàn. Nghe nói đầu nầy xây bàn,
tiếp chuyện với các vong linh để họa thi, vịnh phú; chỗ nọ phò cơ chấp bút, cầu
Tiên xin toa thuốc chữa bịnh. Tại trung tâm Sài Gòn có một nhóm công chức bắt
chước xây bàn, cầu các Đấng Thiêng Liêng học hỏi văn chương. Ban đầu họ tính
dùng lối xây bàn để tiêu khiển, nhưng về sau vì hâm mộ thi phú mà họ theo đuổi
phép " Thông Thần Lực " (Médiumnité), đến mức vi diệu. Chung cuộc, họ
trở nên những đồng tử đặc sắc giúp Chí Tôn lập Đạo, truyền giáo. Sau nữa, họ
được phong vào hàng Chức Sắc Đại Thiên Phong nơi Hiệp Thiên Đài.
NHẮC LẠI SỰ TÍCH XÂY BÀN :
Nguyên chiếc bàn nhỏ bốn
chưn : Kê hai chưn kia cao hơn chừng ba phân tây. Chiếc bàn trở nên gập ghình,
có thể dở lên đặt xuống dễ dàng. Phải có ít nữa là hai người ngồi đối diện và
để úp bàn tay trên mặt bàn. Trong chừng 10 hoặc 15 phút, chiếc bàn bắt đầu
chuyển động. Đó là triệu chứng có một Đấng Thiêng Liêng giáng điễn, chiếc bàn
bắt đầu dở lên đặt xuống.
Chiếc bàn chuyển động thế
nào mà thành chữ ?
Có một khẩu ước ở giữa
Đấng vô hình và hai vị Đồng Tử : Nhịp một lần là A, hai lần là Ă, ba lần là Â,
bốn lần là B, và cứ thế mà tiếp điễn đến 24 chữ cái. Trong khi chiếc bàn nhịp,
hễ ngừng chỗ nào thì người ngồi ngoài biên chữ ấy, chung qui, nhiều chữ góp lại
thành một danh từ, nhiều danh từ ghép thành bài thi Bát cú, tứ tuyệt, hay tản
văn.
Cách xây bàn, lúc đầu thì
khó khăn phải mất nhiều công phu mới nhận được một bài văn. Về sau, Đồng Tử quen
tay thuần điễn, sự khó lần hồi hóa dễ. Nhờ vậy nên sự tiếp chuyện với các Đấng
Thiêng Liêng càng ngày càng mau lẹ, chắc chắn và rõ ràng.
Một hôm, có lẽ là đêm 10-6
Ất Sửu (1925) có một vị đến tự xưng là Đoàn Ngọc Quế, cho một bài thi như sau :
" Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai ?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài ?
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc Các,
Nào ngờ phủi nợ xuống Tuyền đài.
Dưỡng sanh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư hoằng một gánh,
Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai ? "
Sau rõ lại, Đoàn Ngọc Quế
là biệt hiệu của Bà Thất Nương Nữ Phật Diêu Trì Cung. Từ đó về sau, Cửu Vị Nữ
Phật thường giáng đàn, dùng lối văn : vừa hay, vừa vui làm cho người nghe ham
mộ, theo học mà không chán.
Nhờ vậy nên về sau những
vị đồng tử nầy trở nên đắc dụng trong sự lập Đạo, truyền giáo.
Đến một đêm kia, thình
lình có một Đấng giáng đàn với một Thần điễn phi thường và tự xưng là A, Ă, Â,
và dùng lối văn nói trên để dạy. Về sau, chúng tôi hiểu ra thì A, Ă, Â, chính
là Đức Cao Đài Thương Đế. Đức Ngài nói rằng :
" Ta phải hạ mình là một Chơn linh thường, để cảm
hóa các con "
Thiết tưởng lúc đó, Đức
Chí Tôn tiết lộ cho chúng ta biết rằng Đức Ngài là Thượng Đế thì ắt chúng ta
không dám lân la, học hỏi.
Mãi đến ngày 30 tháng 10
Ất Sửu, nhằm ngày 15-12-1925 Dl , Đức Chí Tôn dạy
phải lập bàn Vọng Thiên cầu Đạo và dùng lối Phò Cơ để tiếp xúc với Đức Ngài.
Hình Đại Ngọc Cơ
Hai vị đồng tử cầm hai
biên miệng giỏ, trong giây phút thì có một Đấng Thiêng Liêng giáng điển huy
động và viết ra chữ.
Giỏ Ngọc Cơ đương bằng
tre, cần băng cây dương liễu hay cây Dâu, đầu chạm hình chim Loan, cây cọ bằng
cây mây, dùng viết chữ xuống mặt bàn cơ. Người đứng ngoài có thể đọc chữ được.
Đêm 24-12-1925, là ngày
Chúa Jésus Christ giáng sanh mở Đạo bên Thái Tây, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng
:
" Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát giáo Đạo Nam Phương ".
THI :
" Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên. "
Đến đây, chúng tôi mới
hiểu rằng phong trào phò cơ, chấp bút, xây bàn trước kia là tiên triệu (signes
précurseurs) cho một nền Tân Tôn Giáo xuất hiện tại xứ Việt Nam.
Sánh với các Tôn giáo xưa
thì Đạo Cao Đài phát huy với một cách phi thường, làm cho thế nhân khó nhận
thức.
Vả lại, các Tôn giáo thời
xưa đều do một Đất đại hùng đại lực xả thân cầu đạo, cho đến khi đắc thành
Chánh quả đem sở đắc của mình mà dạy đời; nhơn đó, người đời tôn Đấng ấy là
Giáo Chủ chủa mình. Vậy Đạo tự nhiên mầu nhiệm nương chỗ hữu hình của vị Giáo
Chủ mà biểu dương Chơn lý. Người thế nhơn theo cái hệ thống " Từ hữu vi
đến vô vi " ấy mà quan sát nhận thức đạo mầu thì đễ dàng hơn. Còn ngược
lại, nền Đại Đạo lại do Đấng Giáo Chủ Thiêng Liêng và dùng huyền diệu Tiên gia
để lập Đạo, truyền giáo. Vậy Đạo tự nhiên nhiệm mầu lại theo vô vi mà chuyển
biến ra hữu hình. Cái hệ thống " Siêu ý thức '' này làm cho người thế gian
khó nhận chơn. Đó là nguyên nhân ngờ vực của người đời, khi Đại Đạo mới xuất
thế.
Chúng tôi có theo học với
cơ bút từ buổi đầu, cho nên ngoài đức tin truyền thống, chúng tôi còn tin tưởng
rằng :
Khi cầu cơ thì có một Đấng
Thiêng Liêng giáng điễn, huy động Ngọc Cơ viết ra chữ. Vậy đủ chứng minh rằng :
Trong cõi Hư linh có các Đấng vô hình và như vậy thì nơi người ta cũng có Linh
hồn. Mà hễ trong cõi Hư linh có Thần linh, trong người ta, có linh hồn tức
nhiên phải có một Đấng Cao cả hơn hết sanh hóa các Chơn linh ấy. Chỗ nầy Bà-La
Môn giáo nói rằng : Một Đại Chơn Hồn sanh hóa các Tiểu chơn hồn khác, tức
Thượng Đế sanh hóa muôn loài vạn vật.
Chúng tôi sùng bái Đức
Thượng Đế, bài Thánh ngôn dưới đây cũng minh xác điều ấy.
Thánh Ngôn :
" Khi chưa có Trời Đất thì khí Hư vô sanh có một
Thầy và Ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi
sanh Tứ Tượng biến ra Bát Quái; Bát Quái biến hóa vô cùng mà tạo lập Càn Khôn
Thế Giới. Rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : Vật chất, Thảo mộc,
Côn trùng, Thú cầm gọi là Chúng sanh.
Vậy các con đủ hiểu rằng mỗi vật hữu sanh nơi thế gian
nầy đều do Chơn Linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự
sống".
Vậy Đức Thái Cực Thánh
Hoàng là một nguồn sống tràn ngập cả Vũ trụ. Muôn loài vạn vật đều bẩm thọ một
phần sống của cái nguồn vô biên bao la đó. Đạo học truyền thống của Nhơn sanh
xưng tụng Đức Ngài với nhiều danh hiệu : Brahma, Đức Chúa Trời, Thái Thượng Đạo
Tổ, A-Di-Đà- Phật và còn nhiều nữa chúng tôi không biết hết. Mặc dầu, chúng tôi
không trông thấy hình dung Đức Ngài, nhưng chúng tôi tin tưởng quả quyết rằng
Đức Ngài là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
tức là Đức Thầy của chúng ta vậy.
Những lời tiên tri kế đây
làm cho lòng tín ngưỡng chúng tôi được sáng thêm và kiên cố hơn.
1 . Sách Phật Tông Nguyên Lý chép rằng : Khi Đức
Thích Ca viên tịch, đệ tử của Ngài là A-NAN-ĐA rơi lụy mà hỏi rằng : Khi Tôn Sư
nhập Niết Bàn rồi ai dạy bảo các con ?
Đức Phật đáp: " Ta chẳng phải vị Phật đầu tiên, hay
cuối cùng, ngày giờ đến, sẽ có một Đấng khác xuất hiện cứu đời, một Đấng Chí
Thánh, một Đấng Đại giác, cực kỳ cao thượng, một Đấng dẫn đạo vô song, một Đấng
chủ tể Thánh, Thần và loài người, Đấng ấy sẽ truyền dạy các con một mối Đạo :
Vinh diệu buổi sơ khai, vinh diệu buổi thạnh hành, vinh diệu buổi kết cuộc,
Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo đức hoàn toàn thuần khiết.
2 . Đạo "
MINH SƯ " sáng lập đời nhà Thanh bên Tàu, có hai câu sấm truyền như
sau :
Cao như Bắc khuyết nhơn chiêm ngưỡng,
Đài tại Nam Phương Đạo thống truyền.
Nghĩa là cao như Bắc
khuyết, người ta trông lên mà tin tưởng, nơi phát xuất Đạo là Nam phương (chỉ
về nước Việt Nam) và Đạo liên tục truyền bá là Cao Đài giáo.
3 . Quyển Thanh Tịnh Kinh của Đạo Giáo có câu : (Sách
Cao Đài Giáo sơ giải chương 21 và 22 của Huệ Lương .)
" Thanh tịnh kim hữu vi tích . Công viên quả mãn
chỉ thọ đơn thơ, Thiên mạng phương khả truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ". Kinh Thanh Tịnh
có dấu tích truyền lại rằng: Công đầy quả đủ sẽ lãnh thọ đơn thơ, tức kinh dạy
bí truyền. Người có mạng Trời khá nên truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Sách Cao Đài Giáo sơ giải
chương 28 của Huệ Lương .
4 . Minh Thánh Kinh Linh Sơn có câu: " Mạng hữu Cao Đài Minh Nguyệt chiếu
" Tá danh Cao Đài, Đức Ngọc Đế giáng trần khai Đạo sáng tỏ như trăng
rằm.
Sách Cao Đài Giáo sơ giải
chương 28 của Huệ Lương
5 . Kinh tỉnh Thế Ngộ Chơn
có đoạn : Sách Cao Đài Giáo sơ giải chương 21 và 22 của Huệ Lương .
Mạt hậu Càn Khôn đồng nhứt đái.
Thiên môn, vạn giáo cộng qui căn.
Nghĩa là : Sau đời hạ
ngươn mạt pháp, Trời đất đồng chung một dãy, ngàn môn, muôn giáo, đều trở về
một gốc.
Còn một bằng chứng hiển
nhiên nữa là lúc bấy giờ, chúng tôi được biết Ngài Đốc Phủ Ngô Minh Chiêu đã có
thờ Đức Chí Tôn và theo học Đạo từ năm Giáp Tý (1924). Đó là người thứ nhứt
được biết Đạo Cao Đài.
2 .
ĐẠI ĐẠO XUẤT THẾ
Sự truyền giáo càng ngày
càng lan rộng, lúc bấy giờ, người cầm giềng mối Đạo muốn được dễ dàng hơn, cho
nên ngày 7-5-1926, họ Đệ lên Quan Thống Đốc Nam Kỳ ( Thời kỳ Pháp thuộc ) một
tờ khai Đạo có chữ ký tên của 28 vị cầm quyền Đạo và 247 người Đạo hữu. Mặt
khác Đức Chí Tôn dạy thiết lễ khai Đạo chính thức.
Ngày 14-10 Bính Dần, nhằm
ngày 18-11-1926, tại Từ Lâm Tự ( Tây Ninh ) thiết lễ Khai Đạo rất trọng thể
trong ba tháng. Nguyên ngôi chùa Từ Lâm nầy do một vị Hòa Thượng bên nhà thiền
đứng ra tạo tác mới vừa xong. Khi Hòa thượng nhập môn rồi bèn cho tạm ngôi chùa
làm lễ Khai Đạo.
Trong ba tháng hành lễ,
người cầu Đạo hằng vạn. Đồng thời, Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền ( Hiến
Pháp của Đạo ) phong thưởng những người có công quả, tức lập thành Hội thánh
Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Đức Ngài dạy Hội Thánh chung lập Tân Luật Đạo.
Ba thánh trôi qua, Hội Thánh đã lập thành, Pháp luật đã có thì Đạo nghiễm nhiên
thành một nền Tân Tôn Giáo, danh gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có đủ cả lễ nghi
thờ phượng, tế tự, có qui điều giới luật rõ ràng và một Hội Thánh cai quản. Sau
ba tháng hành lễ tại Từ Lâm Tự, TòaThánh được dời về Thánh Địa bây giờ, nhằm
ngày 13 tháng 2 năm Đinh Mão (1927)
Nhắc lại : Vị Giáo chủ Đại
Đạo là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, danh hiệu ấy ám chỉ rằng : Giáo
lý Đại Đạo là qui nguyên Tam Giáo, hiệp nhứt Ngũ Chi mà chúng ta lần hồi giảng
giải sau đây.
CHƯƠNG THỨ HAI
NỀN TẢNG ĐẠI ĐẠO
Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ là một nền Đạo khai lần thứ ba. Nền tảng là qui nguyên Tam Giáo, hiệp
nhứt Ngũ Chi thành một Giáo Lý Đại Đồng.
Theo lẽ
thường, phàm việc chi đã có lần thứ ba, tất nhiên trước kia đã có lần thứ
nhứt và lần thứ hai. Thì Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền Tôn Giáo khai lần thứ
ba, tất nhiên trước kia đã có Đại Đạo Nhứt Kỳ và Đại Đạo Nhị Kỳ Phộ Độ rồi. Chúng tôi xin kể sơ lượt
hai lần trước rồi sau sẽ bàn đến Đại Đạo lần thứ ba.
Đại Đạo Nhứt Kỳ Phổ Độ ( Thượng Cổ Thời Đại )
Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai Phật Giáo.
Đức Hồng Quân Lão Tổ khai Tiên Giáo
Đức Văn Tuyên Đế Quân khai Nho Giáo
Đại Đạo Nhị Kỳ Phổ Độ ( Trung Cổ
Thời Đại )
Đức Thích Ca chấn hưng Phật Giáo
Đức Lão Tử chấn hưng Đạo Giáo
Đức Khổng Phu Tử
chấn hưng Nho Giáo
Ngoài Tam Giáo ra
lại có Đức Chúa Jésus Christ lập Thánh Đạo bên Thái Tây.
Đức Khương Tử Nha chủ
trương Thần Đạo tại Trung Hoa. Thật Trung cổ thời đại, là thời kỳ văn minh đạo
đức cực thạnh, Giáo Pháp Hoằng Khai, cũng gọi đó là thời kỳ Ngũ Chi Đại Đạo phổ
biến. Thế đã rõ Đại Đạo khai hai lần trước. Bây giờ xin bàn đến Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là
một nề Đạo lớn, khai lần thứ ba, cứu rỗi chúng sanh với một cách rộng rãi, tức
là Phổ Độ tất cả nhơn sanh không phân biệt màu da, sắc tóc, không phân biệt tôn
giáo dị đồng, hoặc nói trắng ra là đứng trước Đức Thượng Đế, cả chúng sanh đều
là con một Cha, đều được. Đại Từ Phụ cứu rỗi như nhau.
DANH HIỆU GIÁO CHỦ ĐẠI ĐẠO
Ngày xưa, khai Đạo Đức Chí
Tôn hoặc phân tánh giáng phàm, hoặc phái một vị Tiên hay một vị Phật lập Đạo.
Nay Đức Ngài không mượn phàm thể, lại dùng huyền diệu cơ bút lập Đạo và truyền
giáo. Ấy vậy nên Đức Giáo Chủ Đại Đạo là Đấng Thiêng Liêng. Ngài là Đấng chủ tể
Càn Khôn Thế Giới. Nhưng Đức Ngài không xưng danh " Ngọc Hoàng Thượng Đế " mà lại mượn tên " Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
". Thánh danh ấy có ý nghĩa là qui nguyên Tam Giáo hiệp nhứt Ngũ Chi
thành một Tôn Giáo Đại Đồng, cắt nghĩa như sau :
- Cao Đài chỉ về Nho Giáo,
nghĩa là cái Đài cao rất mực (Thái Cực) ngôi của Đấng Chúa Tể Càn Khôn mà Nho
Giáo sùng bái dưới danh hiệu "
Thượng Đế ".
- Tiên Oâng chỉ về một vị
Đại Giác Kim Tiên trong Đạo Giáo.
- ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT chỉ
về một vị Phật trong Thích Giáo.
" CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT " đủ chỉ rõ sự qui
nguyên Tam Giáo thành một Giáo lý.
Vả lại, các vì Giáo Chủ
Tam Giáo thời xưa, vốn là người có thân thể tu hành đắc đạo, rồi đem sở đắc của
mình mà dạy đời, cho nên người đời tôn lên ngôi Giáo Chủ. Mà hễ có thân thể thì
tự nhiên biết một thứ tiếng bổn xứ mà thôi. Như thế, nếu đem tư tưởng mình mà
truyền thọ cho người ngoại quốc, thì trong đó có sự trở ngại về ngôn ngữ bất
đồng. Có lẽ vì lý do ấy, nên Tam Giáo ngày xưa không phổ truyền rộng lớn chăng
? Còn nay Đức Giáo Chủ Đại Đạo là Đấng vô hình, dùng huyền diệu cơ bút dạy đạo
thì dân tộc nào cũng có thể học trực tiếp với Ông Thầy Trời được, nếu họ biết
dùng phép " Thông thần lực " ( Médiumnité ). Thế sự bất đồng ngôn ngữ
chẳng còn là một vấn đề thắc mắc nữa.
Thánh Ngôn ngày 24-4-1926.
" Vốn từ trước, Thầy lập Ngũ Chi Đại Đạo là :
Nhơn
Đạo
Thần
Đạo
Thánh
Đạo
Tiên
Đạo
Phật
Đạo
Thầy tùy phong hóa của nhơn sanh mà gầy chánh giáo, vì
trước, Thế giái chưa thông đồng Nhơn sanh chỉ hành Đạo nơi tư phương mình mà
thôi, còn nay thế giới tận thức, nhơn loại hiệp đồng thì Nhơn sanh lại bị nhiều
Tôn Giáo mà sanh nghịch lẫn. Vậy Thầy nhất định Qui Nguyên phục nhứt ".
Tóm lại : Đức Chí Tôn Qui
nguyên Tam Giáo thành một học lý; còn hiệp nhứt Ngũ Chi là chỉ vào sự thực
hành. Khi mới nhập môn thì thể hiện Nhơn Đạo, rồi tiến lên Thần Đạo, Thánh Đạo,
Tiên Đạo rồi Phật Đạo.
Có người nói Tam Giáo và
Ngũ Chi, mỗi mỗi đều có qui điều giới luật, kinh điển riêng biệt, vậy làm sao
ma qui nguyên phục nhứt được.
Chúng tôi xin thuyết sau
đây, âu cũng một dịp cởi mở những điểm thắc mắc.
NÓI VỀ SỰ TÍN NGƯỠNG
Nho Giáo - Nho Giáo tin
tưởng rằng : Linh hồn người ta bất diệt. Tiến bối của chúng ta có chết là chết
phần xác nhưng phần hồn vẫn sống và luôn luôn cận kề với con cháu thân yêu để
hộ trì, giúp đở. Cái lẽ thờ phượng Tổ Tiên của người Việt Nam bắt nguồn từ đó.
Đạo Giáo - Đạo giáo tin
tưởng rằng trong Thế Giái hư linh có Thần linh, sinh động và hằng cứu độ chúng
sanh trên đường tấn hóa.
Phật Giáo -- Phật Giáo tin
tưởng vào " Pháp '' tiếng Ấn Độ gọi là Dharma. Chữ " Pháp "
nghĩa là luật pháp của Tâm linh. Kẻ tu hành theo đó thì có thể " Minh tâm
kiến tánh thành Phật ".
Tóm lại : Nho Giáo tin
tưởng linh hồn bất diệt. Đạo Giáo tin tưởng Thần Linh. Phật giáo tin tưởng Tâm
linh siêu nhiên. Danh từ tuy bất đồng, nhưng tựu trung chỉ về linh hồn là điểm
tánh của Thái Cực Thánh Hoàng ban cho người ta và linh hồn có thể trở về với
cội sanh mình là Trời, nếu người ta biết học hành theo Đạo Pháp.
NÓI VỀ LÝ HỌC
Nho Giáo -- Đức Khổng Phu
Tử mở rộng một khoa luân lý học, lấy Thiên lý là cốt yếu. Thế nên, mặc dầu trải
qua muôn đời, vạn kiếp, khoa luân lý học ấy vẫn không hề sai chạy và dân tộc
nào cũng có thể áp dụng được.
Đạo Giáo -- Đạo Giáo dạy
về Võ trụ, Thiên nhiên. Đức Lão Tử cho sự vật ở đời là ảo ảnh; kẻ học nên tìm
hiểu chơn lý bất di, bất dịch kia mà cố gắng thể hiện Chơn lý thành tâm đức của
mình, cầu một nếp sống tiêu diêu theo đạo tự nhiên. Trong sách Cung Oán Ngâm
Khúc, Ôn Như có câu :
" Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là Tiên trong đời ".
Phật Giáo -- Phật Giáo cho
rằng Tâm linh người ta rất huyền nhiệm. Kẻ tu hành cứ khai sáng nó đến cùng độ
thì sẽ giác ngộ được Phật tánh. Tự giác là pháp môn giải thoát kiếp luân hồi.
Tóm lại : Nho Giáo dạy về
Nhơn sanh, Đạo Giáo dạy về Đạo tự nhiên, Phật Giáo dạy Pháp môn giải thoát kiếp
sanh tử. Tam Giáo tuy lập luận khác nhau về danh từ, về cách học, về hình thức;
nhưng tựu trung tinh thần thì Tôn Giáo nào cũng lấy Tâm Tánh làm căn bản học
hành. Mà muốn thâm nhập vào Tâm Tánh, khám phá những lẽ huyền nhiệm của nó thì
phải dùng Vô vi pháp. Đây là điểm Tam Giáo đồng nhứt lý và có thể qui hợp thành
một học thuyết.
Xem xét Nho giáo, chúng ta
thấy Kinh Dịch bảo rằng :
" Vô tư dã, vô vi dã
tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố ". Không suy nghĩ,
không hành động, yên lặng mà chẳng động, đến khi cảm thì thông suốt cái Đại lý
của Thiên hạ. Lại nói rằng :
" Đại nhơn vô tư " : Người đại nhơn không
nghĩ quấy, mà trái lại, họ luôn luôn giữ Tâm lặng lẽ vô sự, để rồi cảm thông
với thiên lý là căn bản Nhơn Đạo mà họ phải thể hiện.
Sách Luận Ngữ chép rằng : " Tử vô tứ, vô ý, vô cố, vô ngã ".
Cũng có nhiều sách nhắc nhở câu : "
Vô vi, vô ngôn, vô dục ". Phép vô vi nầy, người nào thực hiện được thì
tâm trí thông sáng được đại lý trong thiên hạ.
Đạo Giáo giải bày vô vi
thuyết rõ ràng hơn. Chính Đức Lão Tử là người ẩn dật, để thực hiện nó. Đạo Đức
Kinh thường nhắc câu : " Vi vô vi,
sự vô sự, vị vô vị " tức là vi
chi ư vị hữu trị chi ư vị loạn ". Lại có câu : " Thánh nhơn vô công, vô kỷ, vô danh " Thánh nhơn không
cầu công ơn, không tư kỷ, không ham danh.
Phật Giáo, Đức Thích Ca
Mâu Ni bỏ ngôi Thái Tử giàu sang, bỏ nếp sống Vương giả trong hoàng cung, tách
mình ẩn dật trong rừng sâu, để tìm chơn lý tuyệt đối. Đó là thể hiện vô vi
pháp. Bát Nhã Tâm Kinh có câu : " Vô
sắc, vô không, vô ngã, vô thường, vô pháp, vô tranh, vô tướng, vô sở hành, vô
sở đắc ".
Tóm lại : Tam Giáo nương
vô vi pháp để hàm dưỡng sự tịch mịch linh thông, giải thoát được cái thân ô
trọc, hẹp hòi, để rồi hòa đồng với vũ trụ, hòa đồng với Thượng Đế. Đó là điểm
Tam Giáo đồng nhứt lý. Cho nên người xưa bảo rằng : " Đồng nhứt trong cái sai biệt ", còn Đức Khổng Phu Tử
nói rằng : " Đồng qui nhi thù đồ,
nhứt tri nhi bách lự " : Thiên hạ đồng về một chỗ, nhưng do nhiều
đường lối khác, đồng đến một điểm, nhưng do trăm ngàn ý nghĩ .
Xét riêng về Tam Giáo ở xứ
Việt Nam.
Theo địa dư học, nước Việt
Nam của chúng ta là một thành phần trong Đông Nam Á và chịu ảnh hưởng văn hoá
của hai xứ Ấn Độ và Trung Hoa. Phật Giáo thì do Ấn Độ truyền đến, Đạo Giáo và
Nho Giáo thì du nhập bởi Trung Hoa; Tam Giáo hòa hợp, đồng hóa thành một nền
nhơn văn đặc biệt của người Việt Nam.
Theo lịch sử học, đời nhà
Đinh, nhà Lý, nhà Trần dùng tinh thần Tam Giáo làm Quốc học, chúng tôi kẻ hậu tấn
mặc dầu sanh trưởng trong thời kỳ Pháp thuộc, cũng còn thấy người Việt Nam theo
Nho Giáo, phượng thờ Tổ Tiên hoặc tụng kinh Phật, sùng bái một vị Thần linh nào
đó. Về luân lý học, họ chủ trọng Tam Cang, Ngũ thường; Tam tùng Tứ đức và tin
tưởng luật Nhơn quả Luân hồi. Gần đây, Thiên Chúa Giáo lại du nhập nữa, ấy là
một cơ hội mở rộng lòng tín ngưỡng của người Việt Nam. Nhờ đó mà chúng ta có
một nền Đạo Đức truyền thống sâu xa, vững chắc.
Mãi đến năm Bính Dần
(1926) Đức Thượng Đế, tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát khai mở Đại
Đạo kỳ ba, dạy chúng ta thờ Trời, thờ các vị Giáo chủ Tam Giáo Ngũ Chi. Đó là
điểm mà Đức Chí Tôn nương theo đạo đức truyền thống của người Việt Nam, phổ hóa
một mối Chơn truyền uyên thâm, khai sáng một đường tấn hóa thiên nhiên từ Nhơn
luân đến Thiên lý. Thật quả Đức Thượng Đế ban cho dân tộc Việt Nam một nền " Nhơn sanh Triết lý học " bao
la vô biên gồm tất cả những yếu lý truyền bá khắp Đông Tây tự ngàn xưa.
CHƯƠNG THỨ BA
HÌNH THỨC ĐẠI ĐẠO
Đức Giáo Chủ Đại Đạo là
Đấng Thiêng Liêng đại diện cho nền Đại Đạo, Đức Ngài lập một Hội Thánh gồm có
ba đài là :
1 . BÁT QUÁI ĐÀI
2 . HIỆP THIÊN ĐÀI
3 . CỬU TRÙNG ĐÀI
1. BÁT QUÁI ĐÀI
Một Tòa Bửu Điện kiến trúc
theo hình Bát Quái Đài ( 8 góc ) thờ Đức Chí Tôn và Phật, Tiên, Thánh, Thần.
Nghi tiết, phượng thờ tế tự như sau :
THỜ ĐỨC CHÍ TÔN
Trên ngôi cao ngất kia thờ
Thiên Nhãn vẽ trên quả Càn Khôn, chính giữa quả Càn Khôn thường đốt một ngọn
đèn sáng. Đó là tượng trưng thờ Đức Thượng Đế ngự trên ngôi Thái Cực, Đức Ngài
là chủ tể Càn Khôn Thế Giái, thống trị vạn vật, về phương diện Giáo Chủ nền Đại
Đạo Kỳ Ba, Đức Ngài tá danh " Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát " mà chúng tôi đã giải bày trong
chương trước.
Thánh Ngôn. - Ngày 11-8
Bính Dần ( 17-9-1926 )
" Một trái Càn Khôn như trái Đất tròn quay. Bề
kính tâm ba thước, ba tất. Lớn quá song phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm
Tạo Hóa trong ấy, sơn màu xanh da trời; cung Bắc Đẩu và Tinh Tú vẽ trên quả Càn
Khôn.
Thầy kể Tam Thập Lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không
không trên không khí, tức không phải tinh tú. Còn lại Thất Thập Nhị Địa và Tam
Thiên Thế Giới thì đều là tinh tú. Tính lại : Ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao,
con biểu vẽ lên đó cho đủ. Con dở sách Thiên Văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại
ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng.
Trên sao Bắc Đẩu vẽ con mắt Thầy. Hiểu chăng ? Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai,
đúc trong một ngọn đèn thường sáng. Ấy là lời cầu nguyện quí báu cho cả nhơn
loại. Càn Khôn Thế Giới đó, nhưng làm chưa kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho
kịp đại hội.
Còn Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đã lên cốt rồi thì để
dài theo dưới ".
Hình Qủa Càn Khôn và Thiên
Nhãn
Thiên Nhãn - Nay như hỏi
tại sao thờ Thiên Nhãn lại gọi là thờ Trời, thì Thánh Ngôn nói rằng :
" Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả ngã giả ".
Nghĩa là: Mắt là chủ tâm,
hai yếng sáng trong mắt là chủ Tể : Yếng sáng là Thần, Thần là Trời, Trời là Ta
vậy.
Còn một lẽ nữa : Cơ mầu
nhiệm đắc đạo là Thần hiệp với Tinh Khí. Tam Bửu huờn nguyên hiệp nhứt thì mới
được siêu phàm nhập Thánh. Trái lại nếu có Tinh Khí mà chẳng có Thần thì không
thể nhập cảnh hằng sống. Thờ Thiên Nhãn ( thờ Thần ) cũng là một cách tiết lộ
rằng : Cơ đắc đạo phải có Thần mới huờn nguyên đệ nhị xác thân, để nhập vàocảnh
an nhàn tự tại.
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn
dạy rằng :
" Từ ngày Đạo bế, tu thì nhiều mà người đắc đạo
rất ít, vì Thần là cơ mầu nhiệm mà lại bị khiếm. Nay Thầy đến hườn nguyên Tam
Bửu cho các con đắc đạo. Các con hiểu : Thầy cư tại nhãn thì nên bố trí cho Đạo
hữu các con hiểu với. Nguồn Tiên Phật yếu nhiệm tại đó ".
Vả lại, Đại Đạo Nhứt Kỳ
Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Giáo chủ có thân thể, cho nên người ta dùng cốt tượng để
thờ. Còn nay khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn không giáng trần, lại dùng
huyền diệu cơ bút mà lập giáo. Ấy vậy sự thờ Thiên Nhãn cũng chỉ về thờ Thần,
mà Thần là Trời vậy.
THỜ TAM GIÁO VÀ NGŨ CHI
TAM GIÁO :
Kế cận quả Càn
Khôn, thờ Đức THÍCH CA.
Tả có Đức KHỔNG
PHU TỬ.
Hữu có Đức LÃO TỬ.
Đó là thờ ba vị
giáo chủ Thích, Đạo, Nho.
Đức LÝ THÁI BAÏCH
là Nhứt Trấn Oai Nghiêm
Đức QUAN ÂM là Nhị
Trấn Oai Nghiêm.
Đức QUAN THÁNH ĐẾ
QUÂN là Tam Trấn Oai Nghiêm.
Ba vị Đại diện của Tam
Giáo trong Cơ Phổ Độ Kỳ Ba.
NGŨ CHI :
Ngôi Giáo Tông,
Chưởng Pháp, Đầu Sư tượng trưng cho Nhơn Đạo.
Đức Khương Thượng
tượng trưng : Thần Đạo
Đức Jésus Christ tượng trưng : Thánh Đạo.
Đức Lý Thái Bạch tượng trưng Tiên Đạo.
Đức Thích Ca tượng trưng : Phật Đạo.
Tóm lại :
Bát Quái Đài là nơi Hội Công Đồng Tam Giáo, Ngũ Chi, Đức CHÍ TÔN vi chủ, cũng như hồn Đạo,
cả Giáo Pháp do Đài nầy truyền ra. .
Tượng Ngũ Chi Đại-Đạo
2. HIỆP THIÊN ĐÀI
Theo danh từ mà cắt nghĩa
Hiệp Thiên Đài là cái Đài hiệp với Trời, có phận sự làm trung gian, kết liên
Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài thành một Hội Thánh. Phận sự ấy làm do Hiệp Thiên
Đài có hai nhiệm vụ là :
1 ). THIÊNG LIÊNG.
2 ). PHÀM TRẦN.
1) NHIỆM VỤ THIÊNG LIÊNG
Hiệp Thiên Đài là nơi Đức
CHÍ TÔN ngự, cầm quyền Thiêng liêng mối Đạo, tiếp xúc với Cửu Trùng Đài, tức là
chỗ Đức Chí Tôn và các Đấng Trọn Lành giáng cơ truyền giáo. Điều nên lưu ý là :
Nếu chẳng có Hiệp Thiên Đài thì Cửu Trùng Đài chẳng có phương tiện thông công
cùng Bát Quái Đài, cũng như châu thân người ta nếu không có cái " Vía
" làm môi với thì phần hồn và phần xác cũng không thể hiệp nhứt được.
Thánh ngôn :
" Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền
Thiêng liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài vẫn còn. Lại nữa, Hiệp
Thiên Đài là nơi Giáo Tông đến tiếp xúc với Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế
Giới, Lục Thập Bát Địa cầu, Thập Điện Diêm Cung, mà cầu siêu cho cả nhơn loại
".
2. NHIỆM VỤ PHÀM TRẦN
Hiệp Thiên Đài có ba chi :
" PHÁP, ĐẠO, THẾ ". Đức Chí
Tôn dạy :
Thánh ngôn đề ngày 21/1
Đinh Mão ( 13/2/1927)
" Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản.
tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Thầy lại chọn Thập Nhị Thời Quân chia
làm ba chi.
Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài , kim chi Pháp dưới
có :
Bảo
Pháp
Hiến
Pháp
Khai
Pháp
Tiếp
Pháp
Chi Pháp lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai hành
động sai luật mà Hiệp Thiên Đài không biết.
Thượng Phẩm lo về phần Đạo dưới có :
Bảo
Đạo
Hiến
Đạo
Khai
Đạo
Tiếp
Đạo
Chi Đạo lo về phần Đạo nơi các Tịnh Thất và các Thánh
Thất, xem xét chư Môn Đệ Thầy, binh vực chẳng ai phạm luật, đến khổ khắc đặng.
Thượng Sanh lo về phần Thế, dưới có :
Bảo Thế
Hiến
Thế
Khai
Thế
Tiếp
Thế
Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Đạo. Thầy
cho biết trước rằng : Hễ trọng quyền thì ắt có trọng Phạt ".
Tóm lại, cả Giáo Pháp, Luật lệ của nền Đại Đạo do Bát
Quái Đài truyền ra. Nhiệm vụ phàm trần của Hiệp Thiên Đài là truyền bá và gìn
giữ Chơn truyền cho khỏi bị canh cải ra phàm giáo ".
ĐẠO PHỤC CHỨC SẮC HIỆP THIÊN ĐÀI
Đạo Phục của Hộ Pháp
ĐẠO PHỤC của HỘ PHÁP có
hai bộ :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC. Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 100 . . .
Đại Phục : Người phải mặt Giáp, đầu đội mão Kim Khôi toàn
bằng vàng. Trên Kim Khôi có Tam Sơn, giống như cái chỉa ba ngạnh, tượng trưng
Chưởng Quản Tam Thiên bên Tây Phương Cực Lạc. Chơn đi hia, trên chót mũi hia có
chữ " Pháp ". Ngoài Giáp
choàng một mảng bào ( choàng thế nào bên tả giáp bên hữu ). Tay hữu cầm Giám Ma
Xử ( Thế lấy Đời chế Đạo ). Tay tả nắm xâu chuổi " Từ Bi " ( Thế lấy Đạo chế Đời ) thành ra nửa đời nửa
Đạo.
Ngang lưng cột giây Lịnh
Sắc có ba màu ( Vàng, Xanh, Đỏ ) trượng trưng nắm trọn Thể Pháp đặng qui nhứt.
Mối giây Lịnh sắc để ngay giữa.
Tiểu Phục : Bộ Tiểu Phục nầy may bằng hàng màu vàng; đầu đội
Hỗn Nguơn Mạo, màu vàng, bề cao một tấc; ngay trước trán, chính giữa có thêu ba
Cổ Pháp Tam Giáo ( Bình Bát Vu, Cây Phất Chủ, bộ Kinh Xuân Thu ) phía trên ba
Cổ Pháp có thêu chữ " Pháp ".
Chơn đi giày Vô ưu màu trắng. Nơi chót mũi giày có thêu chữ " Pháp ". Lưng buột giây Lịnh
Sắc, như Đại Phục.
Đại Phục chỉ dùng khi ngự
trên ngai, còn khi ngồi Tòa Tam Giáo thì mặc Tiểu Phục.
Chân Dung Đức Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC
ĐẠO PHỤC CỦA THƯỢNG PHẨM
ĐẠO PHỤC của THƯỢNG PHẨM
có hai bộ :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 100 . . . .
Đại Phục : Bộ Đại Phục may bằng hàng màu trắng, ngoài mặc
áo là màu xanh, có viền chỉ kim tuyến bạc. Đầu để trần, chơn đi giày vô ưu màu
trắng, trước mũi có chữ " Đạo ",
lưng buộc giây Lịnh Sắc, cũng như Hộ Pháp, song mối thả về bên " Hữu ". Tay hữu cầm
Long-Tu-Phiến ( Cây quạt kết đủ 36 lông cò trắng ) trên đầu quạt ngay giữa có
Phất Chủ. Quạt ấy đưa các Chơn Hồn vào Tam Thập Lục Thiên. Tay tả nắm xâu chuổi
" Từ Bi ".
Tiểu Phục : Bộ Tiểu Phục cũng bằng hàng trắng, lưng cột giây
Lịnh Sắc như Đại Phục, đầu đội Hỗn Nguơn Mạo màu trắng, ngay giữa trán có thêu
Long Tu Phiến, ngay trên hình Long Tu Phiến có chữ " Đạo ".
Đại phục dùng khi ngự trên
ngai Thượng Phẩm. Khi đến Tòa Tam Giáo thì mặc Tiểu Phục.
ĐẠO PHỤC CỦA THƯỢNG SANH
ĐẠO PHỤC của THƯỢNG SANH
có hai bộ : ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC . Xem quyển Pháp Chánh Truyền , trang 100
......
Đại Phục : Đại Phục cũng y như Thượng Phẩm, đầu bịt Thanh
Cân, tức bao đảnh xanh, lưng mang dây Thần Thông, tức một đường lụa đỏ và nịt
giây Lịnh Sắc, y như Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song thả mối bên tả, nơi lưng giắt
Thư Hùng Kiếm ( Thể về tạo Thế và Chuyển Thế ) Tay hữu cầm Phất Chủ ( Thể dâng
Thế vào Hộ Pháp ). Tay tả nắm xâu chuổi " Từ Bi " ( Thể đưa Đạo cho
nhơn sanh ). Chơn đi giày Vô ưu màu trắng, trước mũi có thêu chữ " Thế
".
Tiểu Phục : Tiểu Phục của Thượng Sanh cũng giống như của
Thượng Phẩm, song ngay trước mão có thêu hình " Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ ", có chữ " Thế " phía trên. Lưng buột
giây Linh Sắc như Đại Phục.
Đại Phục chỉ dùng khi ngự
trên ngai. Tiểu Phục dùng khi đến Tòa Tam Giáo.
Chơn dung Đức
Thượng Phẩm CAO QUỲNH CƯ
Chơn dung Đức
Thượng Sanh CAO HOÀI SANG
Đạo Phục của Hộ Pháp
ĐẠO PHỤC của THẬP NHỊ THỜI
QUÂN có hai bộ là : ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem quyển Pháp Chánh Truyền , trang
101....
Đại Phục : Đại Phục may bằng hàng màu trắng, cổ trịch, viền
chỉ Kim Tuyến Bạc, đầu đội mão " Quạ
" bằng hàng trắng; lưng buộc giây Lịnh Sắc, theo chi mình mà thả mối,
chơn đi giày Vô Ưu màu trắng.
Tiểu Phục : Tiểu Phục cũng may bằng hàng trắng, lưng buộc
giây Linh Sắc như Tiểu Phục của Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh, chơn đi
giày Vô Ưu màu trắng.
Khi hành chánh Đạo thì mặc
tiểu phục, còn Đại Phục mặc khi Đại Lễ.
Tiểu phục của chức sắc
Hiệp Thiên Đài về sau, thêm một Tam Quan Mạo nữa.
Hình : Tam Quan
Mạo
Hình : Hỗn Ngươn
Mạo
3. CỬU TRÙNG ĐÀI
Bát Quái Đài tỷ như hồn
đạo, cả giáo pháp do Đài nầy truyền dạy.
Cửu Trùng Đài tỷ như thể
Đạo, cả giáo pháp nương Đài nầy mà hình dung Đạo Đức ra thế gian để đời soi
sáng.
Theo chữ mà cắt nghĩa :
Cửu Trùng Đài là cái đài thể theo Cửu Trùng Thiên mà kiến trúc, có chín nấc cao
thấp khác nhau. Cửu Phẩm Thần Tiên vâng linh Ngọc Hư Cung trị thế giới vô hình,
cũng như Cửu Trùng Đài vâng lịnh Bát Quái Đài, chưởng quản mối Đại Đạo tại thế
gian về mặt hữu vi. Vậy tất cả chơn linh trong Càn Khôn Võ Trụ, đều phải vào
Cửu Trùng Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp cao, để đạt vị Thiêng liêng của
mình.
Cửu Trùng Đài do một Hội
Thánh quản trị, mạng danh là " Hội Thánh Cửu Trùng Đài " gồm có một
phái Nam và một phái Nữ.
Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh
Truyền cho cả hai phái như sau :
1. CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI NAM PHÁI :
Giáo Tông : " Là
anh cả của các con, có quyền thay mặt Thầy mà dìu dắt các con, trong đường Đạo
và đường Đời. Có quyền về phần xác mà chẳng có quyền về phần hồn. Giáo Tông
đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Địa, cầu rỗi cho
các con."
Chưởng Pháp : " Ba vị Chưởng Pháp của Tam Giáo, tuy phân biệt, song trước mặt
Thầy coi như một, có quyền xem xét luật lệ, trước khi ban hành, hoặc nơi Giáo
Tông truyền xuống hoặc dưới Đầu Sư dâng lên. Nếu cả hai chẳng thuận, Chưởng
Pháp phải dâng lên Hộ Pháp, đến Hiệp Thiên Đài cầu Thầy sửa chữa, hay tùy ý lập
luật khác. Chưởng Pháp có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Nếu có
kinh điển nào làm tồi bại phong hóa, Chưởng Pháp có quyền trừ bỏ. Buộc cả tín
đồ phải giúp Chưởng Pháp hành sự trước luật đời. Thầy khuyên các con rán giúp
đỡ lẫn nhau. Chưởng Pháp, mỗi vị có ấn riêng. Ba ấn phải đủ trên mặt luật, mới
đặng thi hành ".
Đầu Sư - Ba vị Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và Phần
Đời của chư môn đệ. Đầu Sư có quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông
phê chuẩn. Muốn phê chuẩn luật lệ Giáo Tông phải giao cho Chưởng Pháp xem xét
trước, coi luật lệ ấy qủa có ích cho nhơn sanh chăng ? Ba vị Đầu Sư phải tuân
lịnh Giáo Tông truyền dạy. Thảng có luật lệ nào quá hà khắc tín đồ, Đầu Sư có
quyền xin ủy bỏ. Thầy khuyên các con rán giúp Đầu Sư trong khi hành sự. Thầy
lại dặn các con, nếu có đều gì cần, nên nài xin nơi Đầu Sư.
Ba chi tuy khác, song
quyền hành như một. Luật lệ nào của Giáo Tông truyền dạy mà cả ba đồng bất tuân
thì luật lệ ấy phải trả lại Giáo Tông, truyền lịnh cho Chưởng Pháp xem xét. Ba
vị Đầu Sư có ba ấn khác khau. Mỗi tờ giấy phải có đủ ba ấn mới thi hành.
Phối sư - Mỗi phái có 12 người, ba pháicộng lại thành 36
vị. Trong số 36, tuyển ra ba vị Chánh Phối Sư để thế quyền Đầu Sư mà hành sự,
ssong chẳng có quyền phá luật lệ.
Giáo Sư - Giáo Sư có 72 người, mỗi phái có 24 vị. Giáo Sư
là người dạy dỗ tín đồ trong đường Đạo và đường Đời. Buộc Giáo Sư phải lo lắng
cho tín đồ, cũng như anh lo cho em. Giáo Sư cầm sổ bộ Tín Đồ, chăm nom việc
tang hôn. Tại châu thành lớn, Giáo Sư có quyền cai quản Thánh Thất, cúng tế
Thầy, như Đầu Sư và Phối Sư. Giáo Sư có quyền dâng sớ kêu này sửa đổi, hoặc chế
giảm luật lệ nào quá hà khắc nhơn sanh. Giáo Sư thân mật với mỗi đứa môn đệ,
như anh em một nhà, cần phải giúp đỡ.
Giáo Hữu - Giáo Hữu là người phổ thông Chơn Đạo, có quyền
cầu xin chế giảm luật lệ. Ba ngàn Giáo Hữu chia đều mỗi hái một ngàn, chẳng
đặng tăng thêm, hay giảm bớt. Giáo Hữu đặng phép hành lễ khi làm chủ một ngôi
Chùa trong mấy tỉnh nhỏ.
Lễ Sanh - Lễ Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong hàng
Chư Môn Đệ để hành lễ, có quyền khai đàn cho tín đồ. Thầy dặn các con : Lễ Sanh
là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp. Vào hàng Lễ Sanh mới mong bước qua
hàng Chức Sắc, trừ ra, Thầy phong thưởng riêng mới qua khỏi luật lệ ấy.
Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự - Pháp Chánh
Truyền trên đây, thoạt tiên, dự định đến phẩm Lễ Sanh thôi. Nhưng về sau, Đại
Đạo một ngày phổ thông, người nhập môn ngày một nhiều, Hội Thánh thiếu người
chăm nom phổ hóa, Đức Lý Giáo Tông bèn đặt thêm hai phẩm chức việc nữa, là Chánh
Phó Trị Sự và Đức Hộ Pháp đặt thêm phẩm Thông Sự. Ba phẩm chức việc nầy có phận
sự săn sóc Đạo Hữu ở rãi rác khắp nơi, từ thôn quê đến thành thị và hòa giải
những tư tưởng bất đồng giữa tín đồ.
ĐẠO PHỤC CỦA CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI
NAM PHÁI
Đạo Phục Giáo Tông
ĐẠO PHỤC GIÁO TÔNG có hai
bộ :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 60
Đại Phục : Đại Phục nay bằng hàng trắng, thêu bông sen vàng
từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi bên có ba Cổ Pháp là Long Tu Phiến, Thư
Hùng Kiếm và Phất Chủ (Ấy là cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh). Đầu đội
mão vàng 5 từng, hình Bát Quái (Ấy là thể Ngũ Chi Đại Đạo), ráp tròn lại bịt
chính giữa, trên chót mão có chữ " Vạn ", giữa chữ Vạn có Thiên Nhãn,
bao quanh một vòng " Minh Khí ", nơi ngạch mão chạm ba Cổ Pháp rõ
ràng, y như hai bên cổ áo đã nói trên. Tay mặt cầm cây gậy 0m90, trên đầu cây
gậy có chữ " Vạn " bằng vàng, giữa chữ " Vạn " có Thiên
Nhãn, bao quanh một vòng " Minh khí".
Tiểu Phục : Tiểu Phục cũng hàng bằng trắng có thêu " Bát Quái " ( Thánh Ngôn ngày
22-4-1926 )
Chơn dung Đức
Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT
Đầu đội mão Hiệp Chưởng
(Mitre) cũng toàn bằng hàng trắng, bề cao ba tấc, ba phân, ba ly (0m333) may
giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp
(Ấy là Âm Dương tương hiệp) cột giây xếp hai lại, bên tay trái, có để hai dải
thòng xuống, một mí dài, một mí vắn [mí dài bề ngang ba phân (0m 03), bề dài 3
tấc (0m3) ].
Trên mão ngay trước trán
có thêu cung "Càn " Cung CÀN không có dưới áo, mà lại nằm trên mão ,
chơn đi giày Vô Ưu toàn bằng hàng trắng, trước mũi có thêu Tịch Đạo Nam Nữ (
Thanh Hương ). [ Xem bài tịch Đạo rồi tùy mỗi trào Giáo Tông mà sửa đổi ]
Đạo Phục Chưởng Pháp
ĐẠO PHỤC THÁI CHƯỞNG PHÁP
THÁI CHƯỞNG PHÁP có hai bộ
ĐẠO PHỤC là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC
Đại Phục : Đại phục may bằng hàng màu vàng, có thêu Bát
Quái giống như Tiểu Phục Giáo Tông, ngoài choàng " Bá Nạp Quang " màu đỏ, tục gọi là " Khậu ", đầu đội Mão Hiệp Chưởng của Hòa Thượng, tay cầm
Bình Bát Du, chơn đi giày Vô ưu màu vàng, trước mũi có thêu chữ " Thích ".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng may màu vàng, y như áo Đại phục,
ngoài không đắp khậu, đầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ " Nhứt ".
ĐẠO PHỤC THƯỢNG CHƯỞNG PHÁP
THƯỢNG CHƯỞNG PHÁP có hai
bộ ĐẠO PHỤC là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 60 .
Đại Phục : Đại Phục bằng hàng trắng, trước ngực và sau lưng
có thêu Thiên Nhãn, bao quanh vòng "
Minh Khí ", đầu có đội mão Hiệp Chưởng ( Mitre ) màu trắng y như kiểu
mão Tiểu Phục của Giáo Tông, tay cầm Phất Chủ, chơn đi giày Vô ưu cũng màu
trắng; trước mũi có thêu chữ " Đạo
".
Tiểu Phục : Tiểu phục màu trắng, y như Đại Phục, đầu không
đội mão mà bịt khăn màu trắng chín lớp chữ "
Nhứt ".
ĐẠO PHỤC NHO CHƯỞNG PHÁP
NHO CHƯỞNG PHÁP có hai bộ
ĐẠO PHỤC là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 61
Đại Phục : Đại Phục toàn màu hồng, trước ngực và sau lưng
có thêu Thiên Nhãn, bao quanh vòng "
Minh Khí ", đầu đội mão "
Văn Đằng " màu hồng, trên ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn, bao
quanh một vòng " Minh Khí "
và bên trên có ngôi sao " Bắc Đẩu
Tinh Quân " , tay cầm Xuân Thu Kinh, chơn đi giày Vô ưu màu hồng;
trước mũi có thêu chữ " Nho ".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng bằng hàng màu hồng, y như Đại
Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu hồng chín lớp chữ " Nhứt ".
ĐẠO PHỤC ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC THÁI ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC THÁI ĐẦU SƯ có
hai bộ là : ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem quyển Pháp Chánh Truyền , trang 61
Đại Phục : Đại Phục may bằng hàng màu vàng, trước ngực và
sau lưng có thêu sáu chữ " Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ " bao quanh ba vòng vô vi, ngay giữa có một chữ " Thái " áo có 9 dải, ngoài
choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, y như Thái Chưởng Pháp, đầu đội Bát Quái Mạo màu
vàng, có thêu Bát Quái ( Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ). Chơn đi
giày Vô ưu màu đen trước mũi có thêu chữ "
Thái ".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng may bằng hàng màu vàng, y như áo
Đại Phục. Đầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ " Nhứt "
Bát
Quái Mạo của Thái Đầu Sư
ĐẠO PHỤC THƯỢNG ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC THƯỢNG ĐẦU SƯ có
hai bộ là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 61 .
Đại Phục : Đại Phục toàn màu xanh da trời ( azur ) , trước
ngực và sau lưng có thêu chữ " Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ " bao chung
quanh ba vòng vô vi cũng như áo của Thái Đầu Sư; song ở giữa có chữ " Thượng " áo có chín dải. Đầu
đội Bát Quái Mạo y như mão Thái Đầu Sư, màu xanh da trời chơn đi giày Vô ưu màu
đen trước mũi có thêu chữ "
Thượng".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng may bằng hàng màu xanh da trời (
azur ), y như Đại Phục. Đầu không đội mão mà bịt khăn màu xanh da trời, chín
lớp chữ " Nhứt ".
ĐẠO PHỤC NGỌC ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC NGỌC ĐẦU SƯ có
hai bộ là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 62, 63 .
Đại Phục : Đại Phục toàn bằng màu hồng, trước ngực và sau
lưng có thêu 6 chữ "Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ" bao quanh ba vòng vô vi như áo của Thái Đầu Sư và Thượng Đầu
Sư, song ngay giữa có thêu chữ "Ngọc"
áo 9 dải, đầu đội Bát Quái Mạo y mhư Thái và Thượng Đầu Sư, nhưng màu hồng,
chơn đi giày Vô ưu màu đen, trước mũi có thêu chữ " Ngọc ".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng may bằng hàng màu hồng, y như áo
Đại Phục. Đầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng hồng 9 lớp chữ " Nhứt " .
ĐẠO PHỤC CHÁNH PHỐI SƯ VÀ PHỐI SƯ
ĐẠO PHỤC có hai bộ là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 62, 63 . Đại Phục - Như của Đầu Sư, song trước
ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn, bao quanh một vòng vô vi.
Chánh Phối Sư thì áo chín
dải, Phối Sư thì áo ba dải.
Chánh Phối Sư phái Thái
choàng ngoài "Bá Nạp Quang"
màu đỏ, Phối Sư phái Thái thì Tiểu "
Bá Nạp Quang " đầu đội Bát Quái Mạo, y như ba vị Đầu Đư, song tùy sắc
phái mình. Chơn đi giài Vô ưu màu đen, trước mũi không có thêu chi hết.
Tiểu phục : Tiểu phục cũng như Đại phục, đầu không đội mão,
mà bịt khăn tùy theo sắc phái mình, chín lớp chữ nhứt.
Hình
Bát Quái Mạo của Phối Sư
ĐẠO PHỤC GIÁO SƯ
GIÁO SƯ có hai bộ ĐẠO PHỤC
là
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 631 .
Đại Phục : Đại Phục bằng hàng màu tùy sắc phái mình; trước
ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn bao chung quanh một vòng Vô Vi, áo ba vải.
Đầu đội Thiên Ngươn Mạo Bát Quái. tùy sắc phái của mình mà thêu chữ Bát Quái,
chung quanh trên chót mão có : "
Minh Châu Lý " Giáo Sư không đặng đi giày.
Thiên
Ngươn Mạo của Giáo Sư Phái Thượng và Ngọc
Hiệp Chủng Mạo Giáo Sư Phái Thái
Riêng Giáo Sư Phái Thái
phải choàng ngoài một Tiểu Bá Nạp Quang gọi là " Khậu ". Đầu đội mão Hiệp Chưởng như của nhà Thiền. Hai
bên có thêu Thiên Nhãn.
Tiểu phục : Tiểu phục cũng như Đại Phục, đầu không đội mão,
phải bịt khăn, tùy sắc phái mình, bảy lớp chữ " Nhơn ".
ĐẠO PHỤC GIÁO HỮU
Đạo phục Giáo Hữu chỉ có
một bộ mà thôi, toàn bằng hàng tùy theo sắc phái của mình, không có thêu thùa
chi hết, áo có ba dải, đầu đội Ngưỡng Thiên Mạo, cũng tùy sắc phái.
Hình Ngưỡng Thiên Mạo của Giáo Hữu
Mão ấy bề cao phải có đủ
phân tấc là 0 m 150, ngay trước
trán có thêu Thiên Nhãn bao quanh ba vòng Vô vi, Giáo Hữu không đặng bịt khăn.
ĐẠO PHỤC LỄ SANH
Đạo phục Lễ Sanh y như của
Giáo Hữu, toàn bằng hàng tùy theo sắc phái. Đầu đội " Khôi Khoa Mạo " toàn bằng hàng trắng ( Phái nào cũng
vậy ). Ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn, bao quanh một vòng Minh Khí. Lễ sanh
không đặng đi giày.
Hình Khôi Khoa Mạo của Lễ Sanh
4. CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI NỮ PHÁI
Đầu Sư Nữ Phái : Nữ Phái có một vị Đầu Sư
dìu dắt Đầu Sư Nữ Phái đồng quyền với Nam Phái, tuân lịnh một Giáo Tông và ba
Chưởng Pháp. Đầu Sư nữ Phái cũng tùng chung một luật phân xử, trong đường Đạo
và đường Đời là luật công cử của Hội Thánh ban hành.
Đầu Sư Nữ Phái dùng Đạo
Phục như Đầu Sư Nam Phái, song đội mão Phương Thiên và Ni Kim Cô, như các vãi ở
chùa, trên chót có Thiên Nhãn, bào quanh một vòng " Minh Khí ", choàng một đoạn lụa màu trắng từ Ni Kim Cô
thả xuống tới gót chơn. Áo may bằng hàng trắng, chín dãi, có thêu bông sen,
chơn đi giày Vô Ưu, trên mũi có thêu chữ "
Hương ".
Chánh Phối Sư và Phối Sư : Chánh Phối Sư mặc Đạo
phục y như Đầu Sư, áo chín dải, toàn bằng hàng trắng, nơi trước ngực có thêu
Thiên Nhãn bao quanh một vòng Minh Khí, áo có thêu bông sen y như của Đầu Sư và
đầu đội Ni Kim Cô cũng như Đầu Sư, chơn đi giày Vô Ưu, có Tịch Đạo trước mũi,
song không phép đội mão Phương Thiên.
Phối Sư cũng mặc Đạo Phục
như Chánh Phối Sư, song áo có ba dải mà thôi. Chơn cũng đi giày Vô Ưu, có Chữ
Tịch Đạo trước mũi.
Giáo Sư : Giáo Sư mặc áo ba dải, đội Kim Cô bằng hàng
trắng, chơn chẳng đi giày.
Giáo Hữu : Giáo Hữu mặc Đạo Phục như Giáo Sư, đầu không đội
mão, nhưng có giắt bông sen, có thêu Thiên Nhãn.
Lễ sanh : Lễ sanh mặc áo như Giáo Hữu, choàng ngang trên
đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dày, một mí vắn, trên đầu tóc
giắt bông sen.
Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự : Hội Thánh Nữ
Phái cũng có ba phẩm Chức Việc và ba phẩm nầy có phận sự cũng như Nam Phái.
LUẬT CÔNG CỬ
CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI VÀ NỮ PHÁI
Thánh ngôn : " Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp, nhờ 3 vị Đầu Sư công cử, Phối Sư
muốn lên Đầu Sư, nhờ 36 vị Phối Sư công cử; Giáo Sư muốn lên Phối Sư, nhờ 72 vị
công cử; Giáo hữu muốn lên Giáo Sư, nhờ 3000 Giáo Hữu công cử. Lễ Sanh muốn lên
Giáo Hữu, nhờ cả Lễ Sanh công cử. Trừ raThầy giáng cơ phong thưởng riêng người
nào thì người ấy mới ra khỏi luật lệ ấy.
Giáo Tông có hai phẩm đặng phép dự cử là : Chưởng Pháp
và Đầu Sư, song phải chịu toàn Đạo công cử. Trừ ra Thầy giáng cơ phong thưởng
riêng, thì mới ra ngoài luật lệ ấy. "
Hiện nay, Chức sắc chưa đủ
số đã định. thành thử, luật công cử nầy chưa thi hành được. Hôm ngày 9 tháng 4
năm 1958 ( Nhằm ngày 21 tháng 2 năm Mậu Tuất ), Đức Lý Đại Tiên Nhứt Trấn Oai
Nghiêm cho một điều lệ, để thi hành tạm như sau :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét