
Nghĩa là người sanh
vốn tịnh là tánh Trời phú cho đến chừng người ta cảm nhiễm vật chất mà sanh
động là dục vọng của Tánh vậy. Vật đến thì người hay biết, hay biết thì lòng
yêu ghét bày ra. Lòng yêu ghét ấy nếu chẳng hạn chế bên trong, để cho sự hay
biết chạy rông ra ngoài mà chẳng thâu hồi về bản thân được thì Thiên lý (Thiên
tánh) sẽ mất vậy. Vả lại, vật cảm nhiễm người ta thì vô cùng còn lòng yêu ghét
của người nếu không hạn chế, không ngăn đón, thì khi vật đến người ta không còn
sức tự chủ nữa mà rồi phải hóa theo vật vậy. Mà hễ người hóa theo vật thì Thiên
lý diệt, mà hễ thiên lý diệt thì người ta nguy khốn với Nhơn dục.
Theo lẽ trên mà suy ra :
Thiên lý ở trong người thì tịnh, nhưng lòng ham muốn làm cho tánh động và biến
sanh nhiều trạng thái khác mang danh là Nhơn dục. Trường hợp nầy nếu người ta
không nghĩ lại thì Nhơn dục làm tiêu tan Thiên lý, rồi người ta phải sống theo
Nhơn dục. Mà hễ xa Thiên lý thì phải đọa vào phàm trần khổ não.
Thiên lý và Nhơn dục đây
Kính Phật gọi Tâm bất sanh diệt và Tâm năng sanh diệt. Minh tâm, tức là cảm hóa
lòng sanh diệt biến thành lòng bất sanh diệt và hàm dưỡng. Bổn tánh để làm chủ
tể của sự hành động, ấy là đem cái lý siêu nhiên vào đời sống thực tại, hoặc
nói cách khác là phải tuyệt trừ tất cả tật hư, nết xấu, mê chấp sai lầm như ngã
tướng, pháp tướng chẳng hạn. Tâm thanh tịnh thì kiến tánh.
Về phương pháp thực hành,
chúng tôi đề cập ba pháp môn là:
GIỚI
ĐỊNH
HUỆ
Trì giới để dìu dẫn Thân
Khẩu Ý vào cảnh tịnh. Thiền định để lặng lửa lòng cầu biết tâm năng sanh diệt
và bất sanh diệt. Trí huệ để chiếu phá vọng chấp mê lầm. Ấy là phương pháp sáng
lòng thấy tánh.
1. GIỚI
Theo Phật giáo, giới cấm
có nhiều đẳng cấp : ngũ giới, bát giới, thập giới, nhị bá ngũ thập giới, ngũ bá
giới cho đến tám ngàn oai nghi, bốn muôn tế hạnh. Tuy nhiều đẳng cấp nhưng tựu
trung cũng chỉ làm cho ba nghiệp Thân khẩu Ý được thanh tịnh mà thôi.
Sau đây là Thập giới :
* Ba giới cấm Thân căn
- 1.
Cấm sát sanh
- 2.
Cấm trộm cắp
- 3.
Cấm dâm dục
* Bốn giới cấm Khẩu căn
- 4.
Cấm nói dối
- 5.
Cấm nói thêu dệt
- 6.
Cấm nói hai lưỡi
- 7. Cấm nói hung
dữ
* Ba giới cấm Ý căn
- 8. Cấm tham dục
- 9. Cấm sân hận
- 10. Cấm si mê
Ở đây, chúng tôi không bàn
đủ thập giới, vì ba giới cấm về Thân và bốn giới cấm về Khẩu đã nói nhiều trong
những trang trước và trong quyển "TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA". Ấy vậy, Nên
chúng tôi chú trọng về Ý- nghiệp.
8. Cấm tham dục : Lòng Tham dục vốn thiên hình vạn trạng, nhưng tóm
tắt mà nói thì có Lục dục. Bảng thống kê sau đây sẽ trình bày phương thức tổ
hợp thành Lục dục :
Khi người ta nhập Thế
cuộc, tiếp xúc với ngoại cảnh thì Lục căn giao tiếp với Lục trần mà sanh ra Lục
thức.
Lục thức quay lại giao
tiếp với Lục trần mà sanh ra Lục dục, tức lòng ham muốn.
Nên nhớ rằng lòng ham muốn
thì kể không cùng; hễ được một thì muốn hai, được hai thì muốn bốn v.v. Ngạn ngữ
nói " Túi tham không đáy ". Chính lòng ham muốn sanh ra tật ích kỷ.
Bao nhiêu lợi lộc, danh quyền ở Thế gian đều muốn tóm thâu một mình. Vả lại, người
ta là một phần tử trong Vũ trụ. Theo Luật tự nhiên người ta phải sanh hoạt theo
Vũ trụ, Đạo lý và phải hòa mình với muôn loài vạn vật trong kiếp sống còn. Nhưng
lòng ích kỷ lại khiến người ta bảo thủ riêng tư, mãi rồi phải bị đào thải ra
ngoài cái nguồn máy Tấn hóa của Chúng sanh.
Phật cho cõi Trần là bể
khổ mênh mông, lai láng không biết đâu là bờ bến. Thật vậy, nếu chúng ta ham
muốn quá lẽ, quanh năm cứ đồi mưu định kế thâu hoạch vật muốn là một cái khổ
rồi. Khi thâu hoạch được thì lại phải lo thụ hưởng, giữ gìn sợ mất. Nếu chúng
ta theo đó mà suy rộng ra thì thấy lòng Nhơn dục gây phiền não cho người là bao
nhiêu.
Bổn tánh ở phía sau Nhơn
dục, cho nên kẻ học muốn giác ngộ Bổn tánh thì phải hồi hướng về nội giới, vượt
qua tất cả những hình danh sắc tướng như phiền não chẳng hạn, vượt qua và vượt
qua mãi đến cõi lòng chưa phát động thì mới thành chánh quả.
Nên nhớ rằng vật chất hay
làm cho sự hiểu biết của người ta sai lạc, như Đạo Đức Kinh chương 12 nói rằng
:
" Năm màu sắc khiến người ta chóa mắt,
Năm âm thanh khiến người ta điếc tai,
Năm vị ăn khiến người ta tê tái lưỡi
Dung ruỗi săn bắn khiến lòng người ta phát cuồng.
Của quý mắt giá khiến người ta hành động sai Đạo
đức".
Ấy vậy, nên kẻ học phải
dày công nội tính tích cực suy gẫm để tránh sự ham muốn sai lầm.
Đức CHÍ TÔN nói : " Tham lam vào Tâm thì Tâm hết Đạo đức,
tham lam vào nhà thì nhà hết chánh giáo, tham làm vào nước thì nước hết Chơn
trị, tham lam lộng khắp Thế giới thì Thế giới hết Thần Tiên".
Vậy muốn tránh sự tham dục
phải làm sao?
Đức KHỔNG PHU TỬ bảo rằng
: "Khắc kỷ phục lễ " tức :
" Mắt chẳng nên xem sắc vô lễ.
Tai chẳng nên nghe lời vô lễ.
Miệng chẳng nên ăn nói vô lễ.
Thân chẳng nên hành động vô lễ".
Phật dạy : Bất tùy phân
biệt, tức chẳng nên chạy theo vật chất để phân biệt chỗ tốt xấu, hơn kém của
nó.
Ngoài những lời dạy trên,
chúng ta cũng nên lập tâm về phép Tri túc và Bố thí.
Tri-túc : Tạo cho mình một nếp sống bình-thản an vui,
không làm việc phi nhân, bất nghĩa để cầu giàu sang danh lợi, không ham muốn
việc phù phiếm xa hoa. Mục đích chúng ta là cầu sự giải thoát : Trước là giải
thoát ngoài vòng tục lụy phồn hoa, sau nữa là giải thoát sự mê lầm, để rồi hòa
mình với Chơn lý. Ấy vậy nên nếp sống của chúng ta thản nhiên điềm đạm đủ ăn
no, đủ mặc ấm. Nói rút lại là chúng ta cầu sống với Đạo tự nhiên hơn là sống
với phàm trần vật chất.
Bố thí Bố thí nghĩa là
cho. Sự cho có hai cách : Thí tài và thí pháp.
Chúng ta tùy phương tiện
của mình mà cho người đói khát vật thực, cho người rách rưới áo mặc, cho người
đau ốm thuốc men và cũng tùy cơ hội giảng Đạo đức thuyết nhân nghĩa cho người
nghe để cho họ hướng thiện làm lành.
9. CẤM SÂN HẬN : Chẳng những sự thù hằn, nóng giận, oán ghét làm cho
tâm thần si mê mà các mối tình khác như : Mừng, vui, sợ cũng làm loạn tâm không
ít. Bằng cớ là khi cười quá độ thì cũng chảy nước mắt như khóc. Ấy vậy nên
chúng ta chẳng khá để cho thất tình sôi nổi quá mức trong tâm gian.
Ngạn ngữ có câu : " Giận mất khôn ". Vả lại người
ta nhờ có năng lực trí giác chỉ dẫn đường ngay lẽ phải. Nếu chúng ta để mất
khôn rồi thì sự hành động sẽ dở dang, nhơn cách cũng vì đó mà phải sứt mẻ.
Trong giới tu hành, người
ta thường bảo : " Đốn củi ba năm
thiêu một giờ ". Đó là ám chỉ vào công phu tu luyện nhiều năm lần hồi
thu lượm những căn lành, đức tốt. Nay vô ý thức để cho lửa giận bừng lên hủy
hoại tất cả công đức ấy thì oan uổng biết bao !
Sân hận do tham dục mà
sanh, cho nên muốn trừ Sân hận phải ngừa lòng ham muốn.
Xem như khi người ta muốn
vật gì thì lòng ham muốn giục thúc người ta phải hành động. Nếu thâu đoạt được
vật ấy thì vui mừng rồi lại sợ mất mà phải lo gìn giữ. Trái lại, nếu thất vọng
thì đâm ra buồn phiền, oán ghét. Từ lục dục xô đẩy đến thất tình, tâm lý biến
thiên không biết bao nhiêu trạng thái. Cái nầy vừa qua thì đã có cái khác ứng
tiếp làm cho tâm loạn động chẳng khác gì những làn sóng làm nhăn mặt biển. Trên
đường giao tế, đôi khi chúng ta thấy có người đương vui mà bỗng nhiên buồn,
đương giận mà bỗng nhiên thương, đương ghét mà bỗng nhiên sợ. Đó là tại người
ta chẳng có đủ tinh thần tự chủ, rồi thất tình tùy cơ duyên bên ngoài mà biến
hiện. Tâm thần sở dĩ loạn động lắm là vì lẽ ấy.
Theo Chánh đạo, người ta
phải tuân theo Mạng trời mà hành động để tránh khỏi nghiệp quả Luân hồi; nhưng
thất tình, Lục dục làm loạn Đạo tâm, làm mờ Chơn tánh, khiến cho đời sống bơ vơ
: Không biết bám vào đâu để tiến và lui về chỗ nào cho phải Đạo, cũng như chiếc
thuyền linh đinh trên mặt biển mà chẳng có kim Chỉ nam dẫn đường. Quanh quẩn
lắm rồi người ta phải vớ lấy Nhơn dục để làm trự cốt cho hành vi. Trường họp
nầy, người ta càng hành động bao nhiêu thì càng tạo bấy nhiêu tội lỗi.
Muốn tuyệt trừ Sân hận
phải làm sao?
Phải tập rèn hạnh Nhẫn
nhục, Nhẫn nhục không thù oán, nóng giận, Nhẫn nhục không buồn phiền sầu thảm
vân vân. . BỒ TÁT nhẫn cũng không nhẫn, nhục cũng không nhục, chỉ để tự tánh
thanh tịnh chẳng sanh lòng khởi diệt nên tâm tỏ ngộ.
" Cảnh nhục như sừng thỏ,
Nhân tâm tợ huyển bào.
Dụng công phu chớ trễ,
Điều khổ nạn bền tiến,
Chi quấy mà chi phải,
Chẳng hèn cũng chẳng cao,
Giới tham sân muốn dứt
Lấy trí huệ làm dao. "
(Trích trong sách
Phật)
Và khi rảnh rang chúng ta
cũng nên quán tưởng như vầy : Theo lẽ thường, ai ai cũng muốn cho mình giàu
sang, quyền quý lên xe xuống ngựa, hạnh phúc hoàn toàn. Thì chúng ta cũng nên
mong ước kẻ thù chúng ta được hưởng sự may mắn như chúng ta vậy. Quán tưởng nầy
khi nó nhập tâm rồi thì chúng ta sẽ thương yêu kẻ thù cũng như tự thương yêu mình.
Theo lý đương nhiên mỗi tật bịnh đều có một vị thuốc trị. Chúng ta dùng
"Thương" để trị "ghét" thì cũng như dùng thuốc nào để trị
bịnh ấy.
Người hành Đạo nên thấy
lỗi mình mà chẳng nên thấy lỗi người. Cả thảy lỗi của người không quan hệ đến mình
thì chẳng nên cố chấp mà sanh lòng oán ghét. Thấy người lầm lỗi nếu khuyên được
thì khuyên còn không thì thôi, chớ chẳng nên quan tâm cố chấp.
Mục đích chúng ta là đào
luyện một lẽ sống hòa đồng với cái hòa điệu của Vũ trụ Đạo lý. Nhưng muốn hòa đồng
với các hòa điệu của Vũ trụ, chúng ta bắt đầu điều hòa với sự vật ở gần trước
như Điều hòa thâm tâm, điều hòa tâm lý và sanh lý, điều hòa Thần khí, điều hòa
với Gia đình và Xã hội. Đó là thể hiện cái lẽ " Dữ Thiên địa đồng tham, dữ
Vạn vật đồng thể ".
10. - CẤM SI MÊ: Cấm si mê nghĩa là không
nên để cho mình dốt nát, ngu muội, tối tăm, vô minh.
Đã hiểu bản thể của tâm là
điểm Linh quang Trời phú cho người. Như vậy đáng lý tâm phải tự nhiên sáng
suốt, chớ tại so lại bị si mê?
Đành rằng thế, nhưng có điều
đáng tiếc là tâm khi bị nhục thân lôi cuốn, khuynh hướng về phàm trần, tâm phải
động mà biến sanh trạng thái khác mạng danh là ý thức, ý thức chạy rông theo
vật chất rồi sanh ra Tham và Sân là cái mầm làm tâm loạn. Tâm loạn thì che
khuất điểm Linh quang rồi, người ta trở nên vô minh, tức là không nhận định.
Thiên lý và Nhơn dục, rồi cứ theo Nhơn dục mà hành động. Tâm trạng nầy gọi là
si mê, tức là tối. Nay muốn hết si mê thì ngay bây giờ chúng ta phải dùng giác
ngộ để trị si mê. Hễ giác ngộ thêm một phần thì si mê bout một phần, giác ngộ
thêm hai phần thì si mê bớt hai phần và cứ thế mà tu tập mãi thì có ngày chuyển
mê khải ngộ, cũng như chúng ta dùng sáng để trị tối. Sáng càng lan rộng thì tối
càng thâu hẹp mãi đến khi sáng hoàn toàn thì hết tối.
Vậy phải làm cách nào đem
cái sáng về với tâm?
Lẽ tất nhiên phải học,
phải nghĩ, tìm hiểu Chơn lý và làm cho Chơn lý nhập tâm thành năng lực cố hữu
của mình. Đó là đem sáng về với tâm. Sáng càng thêm thì tối càng bớt mãi đến
sáng hoàn toàn thì hết tối.
Về phương pháp học nghĩ,
chúng tôi đề cập một vài cách như sau :
1. - Học với kinh sách : Chọn kinh cao, sách Thánh, mỗi ngày đọc một
trang và lưu tâm suy nghĩ, tìm hiểu kỳ được Chơn lý ẩn tàn trong bài sách kinh.
Đọc sách và suy gẫm phải đi đôi thì sự học mới có kết quả. "Đọc kinh cầu lý". Nói tỷ chúng ta đọc sách nhiều quá mà
không suy nghĩ thì chung qui, chẳng những không ghi nhớ Đạo lý mà có khi hiểu
lầm là khác nữa. "Đa thơ loạn
tâm". Hoặc giả, chúng ta suy gẫm nhiều quá mà không đọc sách thì tư
tưởng không siêu thoát.
Còn một lẽ nữa, chúng ta
cũng chẳng khá lãng quên là : Văn tự chỉ ghi chép được những tư tưởng thô sơ,
thiển cận mà thôi. Trên đường học vấn chúng ta dùng kinh sách để khỏi màn suy
gẫm cho mình, còn biết được Chơn lý là nhờ công phu suy gẫm.
2. - Học với thực tế : Những việc xảy ra chung quanh chúng ta hằng ngày
thì phức tạm thật; nhưng việc gì cũng có gốc ngọn, trước sau của nó. Nếu chúng
ta chịu khó quan sát nhân thức thì ắt chúng ta sẽ rút được nhiều kinh nghiệm.
Hơn nữa cách học nghĩ cần có sự tập trung tinh thần.
Thế nào là
tập trung tinh thần?
Tôi đang nói
chuyện với anh, đồng thời tôi cũng hiểu biết những điều tôi đã nói : Sự hiểu
biết nầy cũng như một người thứ ba vậy. Hoặc giả, khi anh vừa làm việc nầy, vừa suy nhớ
việc khác đồng thời lại có một bộ phận thứ ba nữa chứng kiến. Bộ phận thứ ba ấy
cũng hay biết những việc anh làm và anh nghĩ. Những tri năng lực tản mác ấy gọi
là tinh thần. Nay chúng ta thâu thập tất cả những tri năng lực tản mác ấy thành
một khối; đó gọi là tập trung tinh thần. Tinh thần tập trung nầy có một sức
mạnh phi thường, nó có thể đánh tan tất cả những ác căn, tà kiến và nếu dùng để
giải quyết vấn đề sanh sống hằng ngày thì nó đem lại một sự hiểu biết chơn
chánh rộng rãi.
Nếu người ta gom thần về
một điểm và lấy nó làm căn cứ thì nó nổi lên những luồng sóng tư tưởng thuộc về
một loại đặc biệt. Những tư tưởng nầy không bị những luồng khác cuốn đi, mà lần
lần nó chiếm một địa vị ưu thế. Những luồng khác rút đi lần lần tiêu mất. Kế đó
bao nhiêu luồng sóng tư tưởng cùng một loại gom về, trong tinh thần chỉ có một
luồng sóng tư tưởng.
Ví dụ : Người ta dùng mảnh
kiến thâu ánh sáng mặt Trời lên trên tờ giấy, trong chừng giây lát thì tờ giấy
phát hỏa cháy.
Ấy lại tại hơi nóng mặt
Trời gom thành lửa. Thì sự tập trung tinh thần cũng vậy, nếu kẻ học thâu thập
những tư tưởng lại thành một khối tinh thần của mình sẽ đủ sức mạnh đưa chúng
ta đến mức thành công.
Tinh thần là sức mạnh Tâm
linh, nếu chẳng có nó thì chúng ta chẳng làm được việc cao xa hiển hách. Chúng
ta có thể kết luận rằng cái biết của chúng ta đến bậc nào là do công phu tập
trung tinh thần mà nên vậy.
Nhờ công phu chuyển mê
khải ngộ chúng ta hiểu được thế nào Thiên lý, thế nào là Nhơn dục, khám phá
được nguồn gốc năng sanh diệt, và bất sanh diệt, lẽ nào là chơn, lẽ nào là
Vọng. Đây cũng tạm gọi là bước đầu vào pháp môn Minh tâm kiến tánh.
Nhưng còn phải tiến nữa,
còn phải thực hành phép Định huệ để thâm nhập vào nội giới tâm linh, bứng gốc,
bứng rễ những tật hư, nết xấu, ác căn, tà kiến còn ẩn núp trong chỗ sâu kín.
2. ĐỊNH
Có người không giữ được
Chơn tâm thanh tịnh, để cho Vọng tâm phóng túng theo cơ duyên bên ngoài, sanh
vật dục thấp hèn; tư tưởng lãng mạn lại đổ tội cho Tâm là một năng lực bất
chánh ? Đó là một việc lầm lộn. Sự thiệt, Tâm thì huyền diệu lắm. Nếu dùng phàm
trí mà phán xét thì chúng ta cảm biết Tâm dường như có, dường như không, thoạt
ẩn, thoạt hiện không biết đâu mà lường.
Đức Khổng Phu Tử nói rằng
:
" Tháo tắc tồn
Xả tắc vong
Xuất nhập vô thời
Mạc tri kỳ hướng ".
Nghĩa là giữ thì còn, bỏ
thì mất; ra vào không giờ khắc và cũng chẳng biết ở chỗ nào.
Lục Tượng Sơn, sau khi
quan sát nhận xét rồi ngậm ngùi than rằng :
" Các thể khác thì
mỗi mỗi đều có hình tướng, duy có Tâm thì không hình; thế mà tại sao Tâm nhiếp
được người rất mực ? ( Kỳ tha thể tận hữu hình, duy Tâm vô bình, nhiên hà cố
năng nhiếp chế nhơn như thử chi thậm) ".
Bởi Tâm năng biến,
năng-hóa như vậy, cho nên việc gì cũng biết, việc gì cũng chứa; thành ra Tâm bị
thân Ngũ uẩn lôi cuốn khuynh hướng về phàm trần phóng túng theo vật chất, mà
biến sanh tình dục như đã nói trước kia và chính đó là khởi điểm mà người ta
nhận lầm Tâm là năng lực bất chánh. Nay muốn đem Tâm trở về chỗ tự nhiên của nó
thì phải dùng phép Thiền định.
THIỀN ĐỊNH là gì?
THIỀN : Ngoài xa lìa các tướng tâm duyên, các tướng ngôn
thuyết, các tướng danh tự (Ly tâm duyên tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự
tướng) và đối với ngoại cảnh chẳng khởi vọng niệm, chẳng vướng mắc vật chất. Ấy
gọi là THIỀN.
ĐỊNH : Trong thì làm cho Tâm hư không, hư không và hư
không nữa cho đến trong Tâm chỉ có một Linh giác là cái Minh đức Trời phú cho
người ta mà thôi. Ấy gọi là ĐỊNH.
Tóm lại THIỀN ĐỊNH là một
pháp môn làm cho tâm tánh yên lặng, nhưng trong cảnh bất sanh, bất diệt, bất
điên, bất đảo ấy lại có một ánh sáng thiên nhiên cảm thông với Trời Đất vạn vật
mà quán triệt thế giới vạn hữu.
Hoặc nói : Thiền định là
một pháp môn ép buộc Thân tâm chăm giữ giáo điều nghiêm khắc, làm cho tánh mạng
thanh thuần và tiến đến một trạng thái minh thanh sáng suốt, cần cho được một
sự thông công với Đấng Toàn tri, Toàn năng Tận thiện Tận mỹ, hoặc nói rằng làm
cho Tiểu Linh hồn của mình đồng hóa với Đại Linh hồn của Vũ trụ là Thái Cực
Thánh Hoàng là nguồn hóa dục vạn vật.
Hoặc nói: Thiền định là phương
pháp giải thoát con người ra ngoài sự bó buộc của cái áp lực Nhơn quả Luân hồi,
tức đặt đời sống tinh thần ra ngoài ảnh hưởng của giác quan và trở về với tánh
bản nhiên của mình là Mạng Trời hằng ngự nơi chúng ta.
Thiền định nhắm vào mục
đích biến hóa tinh thần từ căn bản đến giá trị của chúng ta bằng cách bỏ Nhơn
dục theo Thiên lý. Nó không dùng tư tưởng để suy luận, mà chỉ dùng cái "Tịnh" trừ cái "Động" và thâm nhập cho đến
chỗ huyền nhiệm, sâu xa thâm trầm, linh động, cho nên người ta thường nói : Đạo
học là một khoa Tâm lý học uyên thâm. Mã Minh Bồ Tát nói rằng : "Ngọc Ma Ni tuy trong sáng, nhưng nó đã
bị bụi dơ che lấp; nếu người ta không biết dùng phương tiện để trau giồi thì
ngọc không bao giờ trong sáng". Đó là ám chỉ vào Tâm, tuy Tâm tự nhiên
thông sáng, nhưng nó đã bị tình dục che lấp, nó đã bị tư tưởng lãng mạn làm mờ,
cho nên chúng ta phải dùng Chánh pháp để lau chùi tắm tưới thì nó mới thông
sáng viên dung. Chính Thiền Định là một pháp môn phá vọng, tồn chơn cầu cho Tâm
trở lại trạng thái tự nhiên của nó.
Sau đây là phương pháp
thực hành :
1. - Chuẩn bị.
2. - Nhập định.
3. - Xuất thiền.
1. Chuẩn bị :
a) - ĐỀ PHÒNG LỤC GIÁC QUAN :
1 . Xa lánh tất cả Sắc trần thường làm chóa mắt.
2 . Xa lánh tất cả Thinh trần thường làm điếc tai;
3 . Xa lánh tất cả hương trần thường làm say mê khứu
quan.
4 . Xa lánh tất cả Vị trần thường làm tê tái lưỡi;
5 . Xa lánh tất cả Xúc trần thường cám dỗ thân phàm;
Thân thể tứ chi, xa lánh tất cả những vật quý báu đắc giá và sự săn bắn điền
lạp, vì nó hay làm Nhơn tâm pháp cuồng.
6 . Xa lánh tất cả ý niệm vu vơ, tư tưởng lãng mạn,
dục tình phức tạp, cầu cho ý được lặng lẽ hoàn toàn.
Chính sáu giác quan nầy
tiếp xúc vật trần, Nhục thân theo đó mà sanh lòng ghét bỏ những vật không vừa
ý, và ham muốn những vật thích ý. Ấy vậy nên trước khi vào Thiền người ta phải
đề phòng Lục giác quan nầy cho lắm.
Người đời sở dĩ siêu
thăng, hay đọa lạc chỉ vì giác quan ấy.
Nhập
định : Bốn việc phải học tập
a) - Tư thể
b) - Điều hòa Thân thể
c) - Điều hòa hô hấp
d) - Điều hòa Tâm
lý.
a) TƯ-THỂ. - Tư thể là cách ngồi Thiền. Từ xưa đến nay, người ta đã
chấp nhận phép ngồi Kiết già, Kiết tường, nhưng nếu, vì một lẽ chi mà chúng ta
không áp dụng hai phép ngồi nầy được thì cũng nên tạm ngồi xếp bằng hay nằm
cũng được; miễn là phải giữ xương sống, đầu cổ được ngay thẳng như vách tường,
để cho khí huyết lưu hành và tư tưởng không ngưng trệ.
Nên nhớ rằng : Cách ngồi
Thiền phải được tự nhiên nhi nhiên là hơn hết.
b) ĐIỀU HÒA THÂN THỂ. - Mặc dầu ngồi cách nào, hay nằm, kẻ hành giả
cũng phải giữ thân thể an tịnh; để cho khí huyết điều hòa. Tay áo phải rộng, lưng
quần nới lỏng, buông lỏng thân thể tứ chi, gân cốt, làm cho mọi vật điều quí
căn.
c) ĐIỀU HÒA HƠI THỞ. - Hít vô phải nhẹ nhàng mà dài hơi, thở ra chậm
chậm và cứ thế ra hết hơi. Vấn đề hô hấp rất quan trọng, chúng tôi sẽ bàn trong
khoản "Dưỡng Khí".
d) ĐIỀU HÒA TÂM LÝ. - Khắc phục tư tưởng, dục vọng, thâu phóng tâm về
chỗ vô vi thanh tịnh. Tâm phải yên lặng như nước hồ thu rồi giữ lấy cái Linh
giác của Tâm, để làm chủ tể thân phàm.
Tóm lại : Thân thể, Hô hấp
và Tâm hồn tuy chia ba như trên, nhưng sự tác động của ba vật như một. Nói tỉ
chạy mệt là việc thuộc về thân thể, nhưng, dao động đến Hô hấp và Tâm hồn vì
thế mà chúng ta phải điều hòa cả ba vật một lượt.
Phương pháp thực hành.-
Thể theo kinh sách Thiền Tông, Thiền định gồm có sáu phép kể đại lược sau :
1. - Sổ tức
2. - Tùy tức
3. - Chỉ
4. - Quán
5. - Hoàn
6. - Tịnh
1. - SỔ TỨC : Sổ tức nghĩa là đếm hơi thở. Khi nhập thiền thân tạm an
tịnh rồi kẻ học bắt đầu đếm hơi thở của mình. Làm như vậy là thâu phóng tâm, vì
Tâm mắc đếm hơi thở thì không chạy rong ra ngoài.
2. - TÙY TỨC : Tùy tức nghĩa là tập trung cả tinh thần và ý chí và cứ
theo sau hơi thở, đó cũng là thâu phóng tâm vậy.
3. - CHỈ : Chỉ nghĩa là ngừng tư tưởng cầu cho Tâm an tịnh. Phép "Chỉ" đây cũng như phép Tọa
vong của nhà Nho, tức là ngồi quên tất cả mọi sự mọi vật. Nhưng phải ngừa sự
hôn trầm, vì thực hành phép "Chỉ"
thường hay đưa đến sự buồn ngủ.
4. - QUÁN : Quán nghĩa là xét nét, tức suy gẫm tìm hiểu những lẽ huyền
nhiệm của Tâm linh và Vũ Trụ vạn vật. Phép Quán đây cũng như phép tỉnh sát, tức
xem xét trong nội giới, trừ bỏ phần vọng, tồn dưỡng phần chơn cầu được phản bổn
hườn nguyên tánh bản nhiên. Đây phải ngừa sự tán loạn.
5. - HOÀN : Hoàn nghĩa là về, tức làm cho mọi vật qui căn, như Lục căn
trở về căn của nó thì không giao tiếp với Lục trần, Lục thức chẳng có chỗ nương
để sanh.
6. - TỊNH : Tịnh nghĩa là lặng lẽ, tức tâm trở về thanh tịnh vô vi thì
chúng ta giữ nó.
Đạo Đức Kinh chương 16 nói
rằng :
Thực hành đến chỗ cùng tột
hư không là đã đạt được "Tịnh".
Hễ vạn vật (Thân khí trí ý) trở về cảnh tịnh, chúng ta cần giữ nó trong căn cội
của nó thì đó là Tịnh.
" Trí hư cực
Thủ tịch đốc
Vạn vật tịnh tác
Ngô dĩ quan kỳ phục
Phù vật vàn vàn
Các phục qui kỳ căn
Qui căn viết tịnh "
Đại ý nói rằng : Tâm hư
không là tịnh : Tịnh thì tạng phủ, Thân, Khí, Tri, Ý đều trở về nơi căn cội của
nó, gọi là phục mạng, tức vạn vật trở về với sự sanh hoạt tự nhiên của nó, được
như vậy thì tâm thần tiêu diêu tự tại, không điên đảo, không xao lảng. Công phu
tu học cốt làm cho sáng tâm, học giả chỉ sợ Tâm không sáng, chớ chẳng lo sự
biến đổi của sự vật. Biết dùng Tâm làm cốt chỉ cho sự học tập thì dù học bao
nhiêu cũng chẳng rối mà lúc nào cũng hiệp với cái lý Nhứt quân; cổ nhơn nói :
Đức có nguồn gốc, học có cốt yếu.
Học qui ở tâm, tâm qui ở
tịnh.
Ngừa thái quá và bất cập :
Công phu Thiền định phải ngừa sự thái quá và bất cập.
Tịnh tâm nghĩa là làm cho
tâm không, không rồi không nữa cho đến không không. Tuy nói không, nhưng chẳng
phải không như cây khô, như đá cục, vì " không như thế là hư nguy, tức
thái quá ".
Trái lại, nếu tâm còn có tư
lự thì lại thuộc về sắc tướng, tức bất cập. Nên tránh thái quá và bất cập mà
phải tìm cho được trạng thái chơn không. Nghĩa là có mà không, không mà có.
Tóm lại, trong khi tọa
thiền giữ hơi thở điều hòa, thân thể thung dung, tâm sáng suốt. Lúc nào cũng
được thảnh thơi, nội tâm thường an trụ trong cảnh định : Đi cũng định, đứng
cũng định, ngồi cũng định. Thường giữ tiết độ điều hòa, điềm đạm, trầm tỉnh. Ấy
là kẻ tu hành.
3. HUỆ
Huệ là năng lực trí giác,
trí thì biệt việc hữu vi, từ ngoài vào trong, nhờ học thức, kiến văn để mở
mang: Còn Huệ thì tự nhiên cảm thông mà biết, trí thì biết từ ngoài vào trong
Huệ thì cảm thông từ trong ra ngoài. Cả hai Trí và Huệ dung hợp thành một cái
biết quán triệt tinh thần, vật chất. Đức Lão Tử nói rằng:
" Thử lưỡng giả đồng
Xuất nhi vị danh
Đồng vị chi huyền
Huyền nhi hựu huyền
Chúng diệu chi môn".
Nghĩa là hai năng lực nầy
đồng do một góc "tâm" mà ra, nhưng khác tên : Trí và Huệ, cả hai đều
huyền nhiệm, Nhưng cái huyền nhiệm trên, tức Huệ là cửa xuất phát mọi lẽ vi
diệu.
Chữ Huệ có nhiều danh từ
khác nhau như : Thần Lương tri, Minh đức, Trực giác, hay Trí bát nhã, cái biết
nầy cao diệu lắm, nhưng lúc nào cũng nhờ cái biết của Trí làm nấc thang cho nó.
Kẻ học phải khai hóa cả Trí và Huệ thì cái biết của mình mới đầy đủ. Kinh Dịch
nói rằng:
"Thần dĩ chi lại
Trí dĩ tàng vãng".
Nghĩa là Thần (Huệ) vân
vân biết cái chưa học; Trí tích lũy cái kinh nghiệm.
Chỗ biết khác nhau thì phương
pháp mở mang cũng không giống, Đạo Đức kinh chương 48 nói rằng:
" Vi học nhựt ích
Vi Đạo nhựt tồn
Tồn chi hựu tồn
Dĩ chi ư vô vi ".
Nghĩa là về sự học vấn
(tức khai hóa Trí phận) thì càng ngày càng mở mang cho thật rộng, để cầu sự ích
lợi, còn theo Đạo thì càng ngày càng giảm bớt sự học, sự nghĩ. Giảm bớt và giảm
bớt nữa cho đến không hành động về mặt hữu vi, nhưng về mặt vô vi thì Huệ cảm
thông mọi việc.
Chúng tôi thể theo Vương
Dương Minh mà luận chữ Lương tri như sau?
Nguyên Lương tri (Huệ) là
cái linh lực Trời phú cho người, ai ai cũng có: Nơi Thánh nó không tăng; Nơi
phàm nó không bớt, nhưng Thánh phàm sở dĩ bất đồng là tại Thánh biết tồn dưỡng;
còn phàm làm nó mất đi, Vương Dương Minh nói:
" Tuy vọng niệm chi pháp
Nhi Lương tri vị thường bất tại
Đản nhơn bất tri tồn
Tắc hữu thời nhi phóng nhĩ
Tuy hôn tắc chí cực
Nhi Lương Tri vị thường bất minh.
Đản nhơn bất tri sát
Tắc hữu thời nhi hoặc tế nhĩ ".
Nghĩa là : Mặc dầu lòng có
vọng niệm, nhưng Lương tri chưa hề chẳng có ở trong tâm, chỉ vì người ta không
biết tồn dưỡng, cho nên có lúc buông lung; mặc dầu tâm có hôn-mê đến đâu nữa.
Lương tri cũng chưa hề chẳng sáng, chỉ vì người ta không nghĩ lại, cho nên có
lúc nó mất.
Sở dĩ nói như thế là vì Lương
tri (Huệ) ở tận trong cõi lòng chưa phát động, thành thử, người ta có vọng niệm,
hay có hôn mê đến đâu đi nữa thì cũng chỉ là tối tăm bên ngoài giác quan mà
thôi, chỉ như Lương tri thì chẳng hề xa người ta, nhưng nó không biểu dương ra
ngoài là vì người ta không tin tưởng và không tồn dưỡng nó. Đạo Đức kinh chương
1 nói rằng :
"Thường vô dục dĩ
quan kỳ diệu
Thường hữu dục dĩ quan kỳ
kiến".
Nghĩa là tâm thường chẳng
vọng động thì mới cảm biết được cái diệu tức Thần, còn tâm có suy nghĩ, có lo lường
thì chỉ biết được kiến chi li, rời rạc mà thôi.
Theo Trang Tử thì kẻ học
cứ quên đi (Tọa vong), quên tất cả sự vật bên ngoài; quên tất cả tình cảm, lý
tri bên trong quên tất cả cao thấp, quên tất cả cái hơn kém, quên cho đến cái
thực tại của mình, quên tất cả những thành kiến, mê lầm. Quên được như thế thì
Huệ sẽ xuất hiện làm chủ Tâm gian. Kinh Dịch bảo rằng : " Vô tư giả, vô vi
giả, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố ". Nghĩa là
không nghĩ, không làm, yên lặng, không động, cảm thông mà biết mọi lẽ trong
thiên hạ.
Đức LÃO TỬ nói rằng :
" Bất xuất hộ, tri thiên hạ
Bất khuy dũ, tri Thiên Đạo"
Nghĩa là không ra khỏi ngõ
mà biết việc thiên hạ, không trông ra cửa sổ mà biết Đạo Trời.
Cái biết nầy là cái biết
Trực giác toàn diện, không phân biệt năng tri và sở tri, không phân biệt chủ
quan và khách quan, không phân biệt vật bị biết và người được biết, và trong
lẫn ngoài hiệp thành một cái biết viên dung.
Tóm lại :
Ba Pháp môn : Giới, Định,
Huệ tuy chia ra làm ba, nhưng áp dụng thì một lượt; bởi tu thân, trừng tâm,
khai trí đều phải thực hành như nhau, chẳng phải làm việc nầy trước rồi làm
việc nọ sau. Nhứt là Định và Huệ phải song song theo nhau. Trái lại, nếu Định
nhiều mà Huệ ít thì sanh hôn trầm, còn Huệ nhiều mà Định ít thì sanh tán loạn.
Định và Huệ viên mãn công phu thì đạt được phép sáng lòng thấy tánh (Minh tâm
kiến tánh).
Thế nào là Kiến tánh? Kiến
tánh nghĩa là thấy tánh, đây không phải dùng mắt phàm trông thấy mà thật là
chứng nghiệm chơn như diệu tánh, hoặc nói cách khác là giác ngộ điểm tánh Trời
phú cho người : Tức là thông đạt nguyên lý vũ trụ ở trong nội giới và ngoại
giới của mình.
Vương Dương Minh nói : "Chủ nhứt" tức chuyên chú gìn
giữ Thiên lý. Vạn sự vạn vật đều ở trong lý ấy, nó quán thông tất cả trong
ngoài. Lý ấy là mạng Trời, là Đạo; cho nên có câu nói rằng : "Giác nhứt tức Thiên tùng, mê nhứt tức
vạn hoặc": Biết được cái Một ấy thì hiểu được muôn ngàn việc khác; mê
cái Một ấy thì dốt muôn ngàn việc khác.
Sở dĩ kiến tánh được là
khi nào sáng lòng rồi, tức là trong lòng chẳng còn một ý niệm, chẳng còn một
tác động tinh thần làm ngăn cách Đạo thể. Cái thái độ thuần túy kinh nghiệm bản
thân ấy là cái kết quả quá trình của công phu tự giác.
Kim Cang kinh nói: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng,
nhứt thiết kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai": Phàm chỗ nào có
sắc tướng đều là hư vọng, cả thảy thấy mà chẳng phải tướng đó là chứng nghiệm
tánh Như Lai.
Sách Tiêu Diêu giải rằng :
"Người kiến-tánh, trong 12 giờ gặp
cảnh thuận nghịch đều an vui tự nhiên, không dời đổi theo hoàn cảnh, tự ý người
ngạo báng, ta vẫn như không".
- Hư không bốn bể khắp bao
la
- Lý đạo lại càng quá thẳm
xa,
- Trăng gió năm hồ thường
tự toại
- Chào xuân đua nở lập lòe
hoa.
(Trích trong sách Phật)
Chu Hối Am lấy chữ Kính
làm gốc. Ông nói : "Thu thập tinh
thần vào một chữ Kính, trước sau chuyên nhứt thì mới hiểu được Đạo lý".
Kính để giữ tâm tánh, tức
có cái chủ tể nghiêm trang ở trong thì công phu hàm dưỡng mới có hiệu quả.
Người ta sở dĩ phải giữ sự Kính là vì trong lúc tính thỉnh thoảng nó tư ý đâm
ngang ra. Đó là cái thông bịnh của học giả. Vậy phải lấy Kính làm chủ để xét
cho kỹ cái mầm của tư ý thường bởi đâu mà sanh, rồi cứ chỗ hệ trọng mà răn giữ
lâu ngày thành ra thuần thục thì tự khắc kiến hiệu.
Ông còn sợ người ta chưa
hiểu cho nên nói rằng :
Kính không phải là nghĩ
hết mọi sự tư lự, mà chỉ nên tùy sự mà chuyên nhứt, cẩn thận lo sợ, không phóng
dật, chớ không phải ngồi yên : Tai không nghe, mắt không thấy, không ứng tiếp
sự vật gì.
Kính là chỉnh tề thu liễm
thân tâm không dám phóng túng. Theo ý ấy nên ông thường dùng hai chữ TĨNH TỌA
để tồn dưỡng.
Lấy Thiên lý mà xem : Có
động thì không thể chẳng tịnh; cũng như có tịnh thì không động. Tịnh thì hàm dưỡng,
động thì trinh sát. Chỉ có một động một tịnh làm căn bản lẫn nhau. Kính và
nghĩa dìu dắt nhau để khỏi cái gì gián đoạn.
Tuy dùng chữ tịnh nhưng
không phải như một vật chết. Trong lúc tịnh vẫn có mối động. Cho nên không phải
bỏ xa mọi việc, tuyệt giao với mọi vật, nhắm mắt ngồi yên mà chỉ thiên về một
mặt tịnh.
Tịnh là khi chưa có vật đã
có Kính làm chủ ở trong. Đến lúc sự vật thì cái Thiên lý đặng sáng tỏ ra xem
xét càng tinh tường minh bạch. (Nho giáo Trần trọng kim)
Kết luận : Sách Trung Dung
chương 22 nói rằng : Trong thiên hạ duy có bậc chí Thánh mới có thể biết hết
tánh của mình, biết hết bổn tánh mình thì có thể biết hết tánh của người ta.
Biết hết tánh của người thì có thể biết hết tánh của vật, như vậy thì có thể
giúp vào cuộc hóa-dục của Trời Đất. Mà giúp vào việc hóa dục của Trời Đất được
thì có thể cùng Trời Đất đứng vào hàng Tam Tài (Thiên, Địa, Nhơn).
THIÊN THỨ HAI
ĐỘ THA
Đến đây chúng ta đã hoàn
thành pháp môn Minh Tâm Kiến tánh, tức tự độ, bây giờ còn phải Độ tha nữa thì
mới tròn bổn phận kẻ tu hành.
Công phu "Minh tâm, Kiến tánh" giúp
chúng ta mở rộng Đức Từ bi Hỉ xả, Bác ái, Công bình, bây giờ chúng ta đem cái
sở đắc của mình để phụng sự Chúng sanh, tức thực hành "Độ tha" (Giác
tha).
Lòng Bác ái dạy chúng ta
thương người, mến vật cũng như thương mến thân thể chúng ta, lẽ Công bình bảo
chúng ta đối xử với muôn loài vạn vật đồng đẳng với nhau, bởi vạn vật dữ ngã
đồng thể. Vậy việc phụng sự cho Chúng sanh, chúng ta khích lệ trên nền tảng từ
bi Hỉ xả, Bác ái, Công bình, chớ không phải vì ích kỷ, tư lợi. Chư Phật đời quá
khứ có Đại nguyện "Độ tận Chúng sanh", chúng ta không được như thế thì
ít ra cũng cố gắng, tận lực mình, phổ độ Chúng sanh được bao nhiêu thì nên bấy
nhiêu.
Làm lành, lánh dữ thì rộng
rãi mênh mông, không biết đâu mà định trước, chúng ta nên lập Tâm theo Phật
ngôn rằng :
" Chư ác mạc tác
Chúng Thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo"
Nghĩa là những việc dữ
chẳng nên làm, mọi điều lành vui lòng nhận làm. Tự mình trừng ý được thanh
tịnh. Đó là lời dạy của Chư Phật.
Riêng về người Tín đồ Đại
Đạo, Đức CHÍ TÔN đã mở sẵn một con đường "Phổ Độ" tức độ mình và độ người. Hai chữ Phổ Độ ấy đã nói lên
trong danh hiệu "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ
ĐỘ".
Sự PHỔ ĐỘ có hai lối :
Công truyền và Tâm truyền.
CÔNG TRUYỀN : Về phương diện nầy
chúng ta nên dùng tất cả thinh âm, sắc tướng để thức tỉnh lòng người khuynh
hướng về Đạo đức. Đại loại như : Phô trương nghi tiết, phượng thờ tế tự, dùng
văn chương ngôn ngữ giảng Đạo đức, thuyết nhân nghĩa để cảm hóa người nghe
khuynh hướng về Chí thiện. Phật dạy rằng kẻ hành giả nên bố thí, hoặc thí tài,
hoặc thí pháp, tùy thời Phổ Độ Chúng sanh.
TÂM TRUYỀN : Ở đây, không dùng thinh
âm, sắc tướng mà kẻ truyền giáo phải thể hiện Đạo đức nơi mình rồi Đạo Đức sẽ
phát biểu ra tư tưởng, lời nói và việc làm để cho người khác trông gương mà làm
theo. Đó gọi là "Bất ngôn chi giáo". Người truyền giáo mà không được
Tâm đắc Đạo đức thì chỉ nói được cái bóng dáng của Chơn lý mà thôi, chớ không
bàn được cái thực thể Chơn lý toàn diện.
Độ tha cũng gọi là phổ độ.
Như chúng ta thấy tại Toà
Thánh, Hội Thánh cất lập TÒA THÁNH, ở địa phương, bổn Đạo chung hiệp tạo tác
Thánh Thất để sùng bái Trời Phật. Về mặt khác, Hội Thánh lo Phổ biến Giáo lý,
lại còn thuyên bổ Chức Săéc đi khắp các nơi, để giúp cho Đạo Hữu thông hiểu
Giáo Lý và thể hiện Đạo đức. Việc làm tuy phô diễn hình thức, nhưng tựu trung
đều nhắm vào hai chữ Phổ Độ.
Tại sao chúùng ta phải
phục vụ Nhơn sanh?
Đã biết rằng cả Chúng sanh
đồng học một THẦY là Đấng CHÍ LINH, cả Chúng sanh đều ở chung một Đại Gia đình
là Vũ trụ và cả Chúng sanh đồng đi với nhau một đường về với Cội sanh mình là
Đức CHÍ TÔN. Vì sự ăn chung, ở lộn với nhau như thế mà cả Chúng sanh phải nương
nhờ lẫn nhau, thành ra một cuộc vay trả, trả vay vô cùng tận.
Đại lược như : Từ buổi cấu
tạo hình hài trong thai bào, mỗi Chơn hồn đều đã có mang một mối nợ tiền khiên
(nợ các kiếp trước.) Đến lúc chào đời, lại còn nặng nợ Xã hội Nhơn quần, như
cung cấp cho thức ăn áo mặc, nhà ở vân vân… Đó là sanh nghiệp mà Nhơn loại nhờ
vã lẫn nhau. Lại còn Kinh điển lưu truyền từ đời kia, sang kiếp nọ, chỉ rõ con
đường giải khổ đặng trở về nẻo Cực Lạc, đó là chưa kể những nghiệp quả riêng
của mỗi người. Bởi nợ vay trả, trả vay ấy, cho nên mỗi người trong chúng ta
chẳng có quyền sống riêng cho mình, mà ngược lại, phải đem mảnh thân nầy phụng
sự cho Chúng sanh, hoặc bằng cách nầy, hay phương khác. Rảnh nợ nhơn quả thì
mới mong giải thoát kiếp Luân hồi.
Vậy phụng sự cho Chúng
sanh là phận sự của mỗi người, chớ chẳng phải làm ơn, làm nghĩa cho ai. Ấy vậy
nên công làm của chúng ta không cần đáp ơn; không cầu tiếng khen. Vui làm nghĩa
vụ, còn kết quả thì hiến dâng lên Đức CHÍ TÔN, sung vào cái kho vô tận Tự nhiên
là nơi muôn loài vạn vật bám lấy, để sanh tồn và Tấn hóa.
Theo tài liệu khảo cứu thì
chúng ta hiểu rằng : Chẳng có việc gì ở Thế gian mà Đức CHÍ-TÔN không hay biết,
như Kinh Thi có câu:
" Hoàng hỉ Thượng-Đế
Lâm hạ hữu hách
Giám quan tứ phương ".
Nghĩa là Đức Thượng Đế rất
rộng, rất lớn, soi sáng khắp cõi Hạ Giới, xem xét cả bốn phương.
Ấy vậy chúng ta đừng lầm
tưởng việc làm lành của chúng ta Trời không biết. Thế thì công làm lành của
chúnng ta có uổng đâu?
Còn một điều nữa, kẻ học
cũng nên lưu tâm cẩn mật là " thử thách ". Theo lý đương nhiên, mỗi
học sinh đều phải chịu khảo thi để minh chứng học lực. Thì Tu sĩ cũng vậy,
nghĩa là kẻ học đạo cũng phải chịu Thử thách để minh chứng tài đức của mình.
Cổ nhơn còn lưu truyền sự
thử thách ấy trong Kinh điển rằng : "Vô
ma khảo bất thành Đại Đạo" Nghĩa là không ma khảo thì Đại Đạo không
thành. Hoặc nói rằng: "Đạo cao nhứt
xích, Ma cao nhứt trượng. Đạo cao nhứt trượng, Ma thượng đầu nhơn"
Nghĩa là Đạo cao một thước thì Ma cao một trượng, đạo cao một trượng thì Ma lên
khỏi đầu người.
Có người than rằng : Làm
lành mà chăúng thấy phước, trái lại còn bị tai ương. Biết đâu, đó là những việc
thử thách, chúng ta chớ nên ngã lòng thối chí. Bền lòng tu tập thì có ngày sẽ
thấy quả lành.
TỔNG KẾT
Đức Thượng Đế tá danh Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Chưởng Giáo nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Thánh
danh ấy nói rằng học lý của Đại Đạo là qui nguyên Tam Giáùo, còn thực hành thì
căn cứ theo Ngũ chi Hiệp Nhứt, nghĩa là khi mới nhập môn thì thể-hiện Nhơn đạo,
rồi tiến lên Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo.
Nguyên giáo lý của Tam
Giáo và Ngũ Chi Đại Đạo đã phổ truyền khắp Năm châu tự ngàn xưa. Dân tộc nào
cũng nương đó làm nấc-thang tiến-hoá của mình. Nay thế giới thông đồng khách
Năm châu tới lui, lui tới với nhau như người một nhà. Đức Chí Tôn Qui nguyên
Phục nhứt Tam Giáo Ngũ Chi thành một nền Nhơn sanh triết lýhọc đại đồng, ai ai
cũng có thể theo học được. Nhà khoa học nên chỉnh đốn lại lòng tín ngưỡng; nhà
Đạo học nên gạt bỏ những điều mê tín dị đoan, rồi mỗi người cố gắng thực thi
cái thuyết Nhơn sanh triết lý học nói đây thì có ngày cả loài người đồng có một
tâm lý là điều kiện rất cần để thông cảm ở giữa người nầy với kẻ nọ trên đường
giao tế. Thiên hạ thái bình là lời cầu nguyện hằng ngày của người Tín đồ Đại
Đạo.
Đức CHÍ-TÔN là Đấng Thiêng
Liêng, đại diện cho nền Tân Tôn Giáo nầy, Đức Ngài lập ra một Hội Thánh gồm có
ba đài là:
- Bát Quái Đài,
- Hiệp Thiên Đài,
- Cửu Trùng Đài.
Mỗi Đài có nhiệm vụ riêng
như đã nói trong chương III, phần thứ nhứt. Còn toàn thể Hội Thánh thì có phận
sự phổ độ chúng sanh.
Người theo học chia ra hai
bậc là Hạ thừa và Thượng thừa, Hạ thừa học hành Nhơn đạo để hoàn thành bổn phận
làm người. Thượng thừa học hành Thiên đạo để tự độ và độ tha. Phương pháp tu
hành Hạ thừa khác với Thượng thừa về phần hình thức, nhưng tôn chỉ thì cả nhị
thừa đều lấy Đạo Trời làm khuôn thước để sửa Đạo người, hoặc nói cách khác là
hiện thể Chơn lý thành những bổn phận làm người tại thế gian.
Mục đích Đại Đạo là làm
cho nhơn thế biết đâu là Thiên lý đâu là Nhơn dục và lần hồi bỏ Nhơn dục để
sống với Thiên lý là Đạo tự nhiên đưa người đến chỗ thanh cao giải thoát.
Kẻ Tín đồ phải xa lánh
nhứt là sự ham muốn phàm trần cầu thỏa mãn Nhục thân mà cũng không nên ham muốn
thần thông biến hóa để lòe người phàm tục nữa. Ngược lại phải tạo cho mình một
đời sống siêu việt, vượt ngoài sự ô trược của nhục thân, vượït ra ngoài sự ích
kỷ hẹp hòi và nhứt thiết phải thật thà khiêm cung và phải có sự hoài bão xuất
thế của Lão Trang và giải thoát như Phật Giáo.
Viết xong tại TÒA
THÁNH TÂY NINH.
Tháng giêng năm Giáp
Thìn (1964)
Soạn gia û: Tiếp
pháp TRƯƠNG VĂN TRÀNG
PHỤ LỤC I & 2
HƯỜN NGUYÊN TAM BỬU
Nho-Giáo,
Đạo-Giáo, Thích-Giáo Lược-Khảo
Lời giới thiệu
Của Đạo Trưởng Huệ Lương TRẦN VĂN QUẾ
Trong việc tu hành xưa nay
phần cốt yếu là đức tin và công quả. Nhưng trong thời gian ma tâm trác tánh, tu
công bối đức nếu gặp đặng những sách vở, kinh sám thích ứng để tu học, để mở
rộng kiến văn thì người tu sẽ tự mình rút ngắn con đường của mình đi vậy. Nói
một cách khác nhờ kinh sách để học hỏi người tu tự mình biến lối tu tiệm giáo
là lối tu dần dần, lối tu đi vòng của người thường thất học ra lối tu đốn giáo
là lối tu tắt, lối tu đi theo đường ngắn của một thức giả. Điều ấy rất cần vì
lẽ sanh tử bất thường người tu lúc nào cũng phải tìm cách tranh thủ thời gian.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là
một tân Tôn Giáo ra đời đến nay chưa qua nửa thếá kỷ. Trong thời gian ấy, Đạo
Trời phải trải qua hai giai đoạn : Giai đoạn thứ nhứt gồm mấy chục năm đầu là
thời kỳ tu phước mà trong tâm là sự phổ độ chúng sanh, tạo dựng cơ sở, xây dựng
nền móng về mọi mặt. Giai đoạn thứ hai gồm mười năm trở lại đây là thời kỳ tu
huệ mà trọng tâm là sự tu tâm luyện tánh, tham thiền nhập định, luyện đơn nấu
thuốc.
Vì lẽ nói trên mà kinh
sách nói về Đạo Trời rất ít oi tuy rằng từ buổi sơ khai đến nay những Thánh
Ngôn, Thánh Huấn được Ơn Trên ban ra không phải là ít. Nhưng vì thiếu sự thống
nhứt tinh thần, cho nên các lời châu, tiếng ngọc ấy đều bị tản mát đi tứ phương
và một phần đã bị mai một sau các cơn binh lửa.
Nay, may thay trong cảnh
bối rối ấy, giới tu hành theo Đạo Trời đã tiếp nhận được quyển Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ Giáo Lý do Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng đã dày công soạn ra thì đó
hẳn là ngọn đèn rọi đường cho khách lữ hành trong đêm tối : Là cái địa bàn (la
bàn) cho ngư phủ giữa cơn dông tố mịt mù ngoài biển khơi.
Ngài Tiếp Pháp Trương văn
Tràng hẳn đã thực hiện được việc "Tiên giác hậu giác" đối với các thế
hệ người tu trong Đạo Trời. Lời ấy không phải là quá đáng, là vì với tư cách là
một trong số Thập Nhị Thời Quân còn lại, Ngài Tiếp Pháp trong quyển sách nói
trên đã cống hiến cho độc giả rất nhiều tài liệu quý giá mà người thường không
sao tìm thấy được. Các tài liệu ấy sẽ chứng minh một cách xác thực những phần
căn bản trong Giáo lý của Tam Giáo nói riêng và của Vạn Giáo nói chung. Vì lẽ
ấy mà tôi xin trân trọng có bài giới thiệu nầy.
Làm tại SAI
GON, ngày 28-6-1964
HUỆ LƯƠNG
TÂM NIỆM
Chúng tôi thành tâm đội ơn
các Đấng Trọn lành lưu truyền Giáo lý Tam Giáo và các vị Tiền bối dày công chú thích, phiên dịch Giáo lý thành
Kinh điển, chúng tôi nhờ đó để nghiên cứu, học tập và biến thành ba bài "
Tam Giáo lược khảo " nầy.
NAM MÔ TAM GIÁO
ĐẠO TỔ
Soạn giả - Tiếp
Pháp TRƯƠNG VĂN TRÀNG
Kính dâng
PHỤ LỤC 1
HƯỜN NGUYÊN TAM BỬU
Tam Bửu là Tinh, Khí,
Thần, ba món báu này nếu kẻ học có đầy đủ phước đức, gặp Chơn Sư truyền dạy và
cứ theo Chơn truyền ấy thực hành đúng mức thì sẽ Hườn nguyên Tam bửu thành một
"Đệ nhị xác thân" mang danh là Chơn thần. Trước khi nói đến phương
pháp tu học, chúng tôi xin lược bàn sự cấu tạo Nhơn hình để minh xác Tam bửu.
Chu Hối Am là một danh Nho
đời nhà Tống (Trung Hoa) sanh vào khoảng 1130-1200 nói rằng :
" Trong khoảng Trời Đất có Lý, (Phần lý của Trời
đất ở nơi người gọi là Tánh, chỗ nầy Đức Chí Tôn nói rằng "Thầy phân tánh
Thầy mà sanh ra vạn-vật". Danh từ tuy khác nhưng lựu trung vốn một.) có
Khí. Lý là Đạo thuộc Hình Nhi Thượng, là gốc sanh vạn vật. Khí là Khí cụ thuộc
Hình Nhi Hạ, là đồ để sanh vật. Bởi thế nên người với vật sanh ra ắt có bẩm cái
Lý ấy, rồi sao mới có Tánh; có bẩm Khí ấy rồi sau mới có hình". (Thiên địa chi
gian: Hữu lý, hữu khí. Lý giả dã Hình Nhi Thượng chi đạo dã, sanh vật chi bản
dã. Khí giả dã Hình Nhi Hạ chi Khí dã, sanh vật chi cụ dã. Thị dĩ nhơn vật chi
sanh tất bẩm thử Lý, nhiên hậu hữu Tánh, tất bẩm thử Khí, nhiên hậu hữu hình.
(Nho giáo Trần trọng Kim)
Theo lẽ nầy mà suy : Tánh
người là Lý của Trời Đất. Lý ấy ở trên cõi Vô cực thì không tên (Vô danh) nhưng
khi tác động đến Vũ trụ thì gọi Lý thiên nhiên, hay Lý THÁI CỰC : còn khi tác
động đến người thì gọi là Mạng Trời, Thiên Lý, Tánh bản nhiên, hay Đạo. Sách
Trung Dung nói rằng: "Thiên mạng chi
vị Tánh : Suất Tánh chi vị Đạo". Nghĩa là Mạng Trời gọi là Tánh. Tuân
theo Tánh gọi là Đạo. Vậy chúng ta nên nhớ rằng : Mạng Trời, Thiên Lý, Tánh,
hay Đạo, tuy nhiều danh từ, nhưng tựu trung có một mà thôi. Thân thể người ta
ngoài sự do hình hóa của Cha mẹ, còn một phần tinh anh nữa gọi là Khí chất của
Vũ trụ cấu thành. Ấy vậy nên châu thân gồm có ba phần chánh là: Nhục thân, Khí
phách và Thần hồn. Đạo giáo gọi đó là Tam bửu kể như vầy :
1) - Tinh là phần tinh hoa của Nhục thân (Đệ nhứt
xác thân).
2) - Khí là một thứ Hơi (Phách) lưu hành trong
Nhục thân, ( Đệ nhị xác thân ).
3) - Thần là giác tánh của Nhục thân (Đệ tam xác
thân).
Tóm lại : Thân thể người
ta gồm đủ mọi lẽ Huyền diệu của Trời Đất và mọi Khí chất của Vũ trụ (Thái Cực,
Âm Dương, Ngũ hành Khí) cấu thành cho nên sách Nho nói rằng :
"Nhơn giả kỳ Thiên địa chi đức, Âm Dương chi
giao, Quỉ thần chi hội, Ngũ hành chi tú Khí dã". Nghĩa là người ta là cái
đức của Trời Đất, chỗ giao hợp của âm dương, tụ hợp của Quỉ thần và Khí tinh
anh của Ngũ hành.
Vậy đủ rõ trong số vạn
vật, duy Nhơn loại là đứng đầu, vì lẽ ấy nên người ta có thể thành Đạo trong
một đời tu, nếu người ta thành tâm, thiện chí học tập.
Về phương pháp Hườn nguyên
Tam bửu là "Tâm học". Pháp
môn nầy phái do Đức CHÍ TÔN, hoặc mội vị Tiên Phật truyền dạy mới nên được: Vì
thế nên trước khi thực hành Tâm pháp, kẻ học phải tu Tâm, dưỡng Tánh, đến Công
viên Quả màn, nghĩa là công quả nội, công quả ngoại đầy đủ và Tánh bản nhiên có
thể cảm ứng với Thái Cực Thánh Hoàng, hay Tiên Phật, để lãnh hội Tâm pháp ấy
thì mới được. Lẽ như vậy nên lớp học nầy dành cho một số ít người Đại chí và có
đầy đủ phước đức mà thôi.
Vậy trước khi bàn đến phép
tu học chúng tôi xin nhắc lại Đức tin, vì lòng tín ngưỡng là một ngọn đèn dắt
đường cho kẻ học.
I .
ĐỨC TIN
Ở đây, kẻ học nhứt thiết
phải xa lánh những điều dị đoan, mê tín.
Có người vì muốn mau Đắc
Đạo, hay ham huyền diệu, rồi mơ màng những việc viễn vong, lại ngộ nhận là Thần
Tiên truyền giáo. Đó là điều mê tín phải xa lánh.
Có kẻ nghe những lời phỉnh
phờ, gạ gẫm, rồi tin liều, về sau, cái lầm lạc ấy sanh tư tưởng, lời nói và
hành động bất chánh. Đó là điều mê tín phải xa lánh.
Kinh Phật dạy rằng : Dùng
sắc tướng, mà tìm Như Lai là Tà đạo.
Trái lại : "Nhược kiến chư tướng, phi tướng tức
kiến Như Lai". Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, đó là thấy Như
Lai Tánh.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật
dạy rằng : "Các ngươi phải tự mình
đốt đuốc lấy mà đi, chớ đừng tin ai cả".
Lại nói rằng : Ngươi chẳng
nên tin điều gì mà ngươi chưa nhận chắc là Chơn lý. Mặc đầu lời ấy do ông nào
nói, hay biên trong Kinh Sách nào cũng vậy.
Nên hiểu rằng tinh thần
Đạo Đức là cái tối quan trọng cho kiếp người. Ấy vậy chúng ta phải học và phải
hành thế nào cho đến kinh nghiệm rồi sau sẽ tinh tưởng. Và cũng nên hiểu rằng :
Dạy đánh đờn thì phải do một vị Nhạc Sư thiện nghệ mới được, cũng như truyền
dạy pháp môn "siêu phàm nhập Thánh", tất nhiên phải do Chơn Sư là
Tiên Phật, hoặc Đức CHÍ TÔN truyền dạy mà thôi.
II. DƯỠNG TINH
Dưỡng tinh nghĩa là hàm
dưỡng tinh ba được đầy đủ trong châu thân.
Tinh là phần tinh hoa của
Nhục thân, là nhựa sống của vật thể. (Ở nơi Thảo mộc, Tinh là một sức mạnh hay
đâm chồi, mọc nhánh, trổ lá, đơm hoa. Ở nơi súc vật, Tinh là một sức mạnh năng
sanh sản. Ở nơi người, ngoài cái công năng sanh sản, Tinh còn là một chất nước
năng hóa khí (Sperme) để bồi dưỡngsức khoẻ và sáng láng tinh thần.
Muốn dưỡng Tinh phải làm
sao?
Đạo thơ có câu : "Vô lao nhữ hình, vô giao nhữ
tinh" Không nên làm hao tổn thân thể ngươi, không nên giao động Tinh
ngươi. Hoặc nói rằng : Muốn dưỡng tinh phải tuyệt dục, những phép tuyệt dục cốt
yếu là phải ngăn ngừa dâm niệm ở trong tư tưởng giới, bởi vì dâm căn không phải
ở ngoại vật bên ngoài mà thôi đâu.
Như trên đã nói : "Tinh là một chất nước, có thể hóa
khí" Đức Thích Ca Mâu Ni Phật có giáng cơ dạy như vầy :
1. - Cho hay đạo
cả chẳng nhiều lời.
2. - Một trận thần
thông thấu Đất Trời
3. - Liếc mắt xem
qua Cơ Tạo Hóa
4. - Một câu thuận
nghịch để muôn đời.
CHÚ GIẢI :
1. - Kẻ hành giả phải tịnh
khẩu, tịnh thân, tịnh ý, tức Đạo Cả chẳng nhiều lời mà phải đại định.
2. - Hễ đại định được thì
Tâm thần tương giao, hoặc nói cách khác là Thủy Hỏa Ký Tế, mà chấn động cả Âm
Dương khí (tức Đất Trời).
3. - Lúc bấy giờ phải xem
chừng cơ Tạo Hóa, để tìm hiểu thời trung, vì Tinh có phát triển đúng mức thì
Tinh mới hóa Khí được.
4. - Tinh sanh thì phải
điều-hành cho nó nghịch chuyển về Nê hườn cung để bổ não. Trái lại, nếu để Tinh
thuận hành ra ngoại thân thì Tinh biến thành một chất nước, có thể hườn đặng
Nhơn hình, cho nên nói rằng : Một câu thuận nghịch để muôn đời.
III. NUÔI KHÍ
Khí ở trong người có
thanh, có trược, có thuần, có bất thuần, cho nên kẻ học phải hàm dưỡng lọc lược
nó. Ở đây chúng tôi theo Mạnh Tử mà nghị luận hai chữ Chí và Khí Hạo Nhiên. Nên
nhớ rằng Chí và tánh vốn một, nhưng tùy sở dụng mà có tên riêng như tánh dùng
về mặt tiêu cực để hàm dưỡng, còn chí dùng về mặt tích cực để điều Khí. Ấy vậy
nên Tánh và Chí chẳng phải hai vật.
Khí là gì? Vả chăng, Khí
là cái vận dụng của nguyên lý tạo lập Trời Đất, hóa sanh muôn loài, Khí lưu
hành khắp Vũ trụ và hễ Khí ngưng tụ thì sanh hình vật. Vạn vật, đến lược nó,
trót sanh trưởng rồi, mỗi vật đều có súc tích Khí nơi mình và Khí ấy cũng luôn
luôn lưu hành trong cơ thể vạn vật. Muôn loài nhờ đó mà được sanh tồn. Nay như
hỏi Khí là gì ? Thì Mạnh Tử nói rằng : "nan
ngôn" (khó nói). Tuy vậy, nhưng ông cũng miễn cưỡng giải rằng :
"Kỳ vi Khí giả chí đại, chí cường, dĩ trực dưỡng
nhi vô hại, tắc tắc Thiên Địa chi gian". Nghĩa là cái mà gọi là
Khí đó rất lớn; rất mạnh, nếu người ta khéo di dưỡng mà đừng làm tổn hại thì
Khí có thể đầy khoảng không gian Trời Đất.
Chúng tôi xin trích trong
sách "ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO" một
bài sau đây cầu được rõ thêm ý nghĩa Khí "Hạo nhiên" (Diệu hữu).
"Diệu hữu bắt từ trong Vũ trụ vào trong thân thể
con người, lúc mới vừa lọt lòng mẹ, đã buông tiếng khóc. Lúc thai vừa tượng thì
đã có một phần Thái Cực, trí nơi Mạng môn. Đến khi con người bước chân vào Trần
thế, tuy chưa đủ cảm giác, chớ Ngũ tạng, Lục phủ đã có sẵn rồi. Hạo nhiên Khí
do Nê hườn cung chuyển lần xuống tại Tâm. Tử khiếu Huyền quan rồi từ nơi óc não
phân phát ra mấy đàng Thần kinh mà chuyển vận trong cơ thể. Từ nơi quả tim theo
mạch lạc day trở trong Ngũ tạng, vì từ nơi gốc Huyền quan để giữ tồn sanh mạng
của tạng phủ."
"Bắt đầu nơi khiếu Huyền quan vận động ra ngoài
biến thành Thần lực của người."
"Khí ấy, nó rút điễn lực mặt Nhựt vào tì và đem
ra ban hành châu lưu khắp phách vía. Ấy là Diệu hữu của Trời xuyên qua vận
chuyển lên người mà thành ra Hậu thiên."
"Hạo nhiên Khí của Trời, theo kim đơn, là pháp
thân của Chơn tánh. Khí thuộc Dương, còn điễn sanh lực của người chưa tu đều là
Khí Hậu thiên thuộc Âm."
"Diệu hữu là một thứ điện quang tinh khiết sự
rung động (vibration) vô cùng tận. Muốn thông đồng và thâu nhập được Diệu hữu
của các Đấng Thiêng Liêng Thì Đồng tử phải có một thứ máy tinh anh và phải
thuần điễn như Thần Tiên."
"Bổn tánh Diệu hữu thường là thanh tịnh, ấy là
của Thần, Thánh, Tiên, Phật: Người nếu được thuần khiết thanh tịnh thì hiệp với
Trời, thông công với Thần Tiên".
Chí và Khí cũng như Hồn và
Phách, Hồn là Dương, Phách là Âm, ở giữa làm môi-giới cho hồn và xác liên kết
thành một thể, cũng như Khí kết liên Thân và Tâm thành một thân thể, có mạng
sống. Mạnh Tử nói rằng :
"Phù Chí Khí chi suy dã, khí thể chi sung dã. Phù
chí chí yên. Khí thứ yên, Cố viết, tri kỳ chí nhi vô bạo kỳ khí". Nghĩa là Chí là Tướng
soái của Khí. Khí thể thì tràn ngập cả thân người Chí đến rồi Khí sẽ theo đó.
Bởi cớ nên bảo rằng nên giữ gìn chí mà cũng đừng làm tổn hại Khí.
Đại ý nói rằng Chí cũng
như Tướng soái, khí như ba quân, Tướng soái ở đâu thì ba quân theo đó. Phép
dưỡng Khí cũng vậy, nghĩa là giữ gìn Chí kiên cố thì khí sẽ theo về. Khí thể
tràn ngập cả cơ thể, còn chí thì phải ngừng một chỗ. Lẽ ấy nên kẻ học chẳng
những phải lập chí vững vàng cũng không nên tổn hại khí.
Tại sao? Bởi vì Chí và Khí
liên đới quan hệ nhau, bằng cớ là, Chí chuyên nhứt thì động đến Khí, Khí chuyên
nhứt thì cũng động đến Chí. Xem như khi người đi vấp té, chạy mau đó thuộc về
Khí, nhưng nó làm chấn động đến Tâm (Chí nhứt tắc động Khí. Khí nhứt tắc động
chí dã, Kim phù huệ giả, xu giả, thị Khí dã, nhi phản động kỳ Tâm).
Người Quân Tử sở dĩ hơn
người là vì khéo nuôi Khí Hạo nhiên ấy.
Nuôi Khí Hạo nhiên phải
thế nào?
Trình Hạo nói rằng :
"Chủ nhứt vô thích,
kính dĩ trực nội, tiện hữu Hạo nhiên chi khí" (Giữ lấy một mà không hai
tức Tâm tịnh, Kính để làm thẳng bên trong thì sẽ có khí Hạo nhiên vậy).
Đại ý nói rằng : Kẻ học cứ
giữ đại định thủ nhứt đến đúng mức thì Khí sẽ đến, còn Mạnh Tử thì nói rằng : " Thi tập nghĩa sở sanh, phi nghĩa tập
nhi thủ chi ". Nghĩa là cứ thong thả làm theo Đạo Pháp rồi Khí sanh,
chớ chẳng phải dùng sức mạnh để chụp lấy.
Khí có thanh, có trược lại
có thuần hay không thuần.
Thí dụ : Có người thông
minh, việc gì cũng hiểu, ấy là khí thanh, nhưng đến việc làm thì vị tất việc gì
cũng đúng lý, ấy là bởi Khí không thuần. Có người cẩn hậu, trung tín, ấy là bởi
khí thuần, nhưng đến sự biết thì vị tất việc gì cũng đạt được lý, ấy là bởi khí
không thanh. Thanh trược, thuần và bất thuần là bởi Thiên mạng định như vậy.
Nhưng chúng ta có thể lấy nhơn lực mà biến hóa Tánh khí chất, làm cho Tánh trở
nên thuần túy, Thiên lý, ấy là công phu của sự tồn dưỡng. (Nho giáo Trần Trọng
Kim)
Xem đó thì đủ hiểu Tánh
Khí luôn luôn theo nhau, cho nên dưỡng tánh, tồn tâm cũng thuộc về công phu
nuôi khí.
Kẻ học cứ ung dung thực
hành phép Chánh định đến viên mãn công phu thì đó là nuôi khí vậy. Công phu nầy
lâu lâu thì cảm thấy ấn chứng khí sanh.
Mạnh Tử nói "Tất hữu sự yên, nhi vật chánh, Tâm vật
động vật tư trưởng dã". Ắt có sự đến, tức triệu chứng khí sanh nhưng
chẳng khá dùng sức mạnh mà điều lý nó, Tâm chẳng khá động, mà cũng chẳng lưu ý
trợ trưởng nữa. Rồi Mạnh Tử còn nêu gương người nước Tống trồng lúa để cho kẻ
học hiểu rõ thêm, Ông nói; "Người
nước Tống trồng lúa, anh ta muốn cho lúa mau lớn, rồi ra đồng nhóm gốc lúa. Làm
như vậy là muốn cho lúa mau lên cao, nhưng sự thật thì anh ta hại lúa
chết". Phép dưỡng khí cũng như thuật trồng lúa. Trồng lúa thì phảûi
bón phân, nhổ cỏ, rồi lúa theo thời tiết mà cao lớn, chớ chẳng phải nhóm gốc
lúa như người nước Tống. Phép dưỡng khí cũng vậy. Kẻ học cứ lánh dữ làm lành,
ung dung tịnh dưỡng Tâm tánh rồi Khí theo đó mà sanh, chớ chẳng khá giục cho
Khi chóng mạnh.
Nói rút lại công phu "Nuôi khí" đến dây thì nó đem
lại cho kẻ học Khí thể tràn ngập cả thân tâm, cũng như Nhơn điễn và nhờ đó mà
Khí Hậu thiên của người đồng hóa với Khí Tiên thiên của Trời Đất mà người có
một Tinh thần đồng nhứt với Vũ trụ, Mạnh Tử nói rằng : Người đạt được như vậy
gọi là có Khí phách; "Phú quí bất
năng dâm, bần tiện bất năng di"; Giàu sang không dâm, nghèo hèn không
đổi.
Duy có tinh thần ấy mới tự
chủ mà thắng vật dục cám dỗ trong khi hòa quang hỗn tục để làm phận sự mình.
IV. HIỆP THẦN
Thần là nặng lực trí giác
ở trong nhơn thân, khi người ta nhập Thế cuộc. Nhục thân lôi-cuốn Thần khuynh
hướng về phàm trần, phóng túng theo vật-chất, rồi năng lực tri-giác biết phân
biệt tốt xấu, hơn kém, thiện ác, nhơn đó mà người ta sanh lòng ham muốn vật
chất, cầu thỏa mãn Nhục thân. Đó là mối đại loạn phá hại Chơn Tâm, Chơn khí.
Nay Tâm đã tịnh định, Khí đã thanh thuần và đồng hóa với đạo tự nhiên thì Tinh
Khí Thần có thể hiệp một mà thành đệ nhị xác thân, mang danh là Chơn thần, Đức
CHÍ TÔN dạy rằng : "Tính Khí Thần
hườn nguyên là cơ siêu phàm nhập Thánh".
THÁNH-NGÔN : "Từ ngày Đạo bế, luật tu hãy còn nguyên, luyện pháp không dời đổi,
song Thiên đình, mỗi phen, đánh tản Thần, không cho hiệp với Tinh Khí. Nay Thầy
đã hườn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo. Con đã hiểu Thần cư tại nhãn, con
nên bố hóa cho như Đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm
ấy". (Thánh giáo)
THÁNH-NGÔN : Năm Mậu-Thìn (1928)
CHƠN-THẦN là gì ? Thầy nói; Chơn thần thuộc về Khí chất
(sperme évaporé) bao bọc thân thể các con, trung tim của nó là óc, cửa xuất
nhập của nó là mỏ ác, chữ gọi Vi Hộ. Hộ Pháp hằng đứng gìn giữ các con khi
luyện Đạo, đặng giúp cho Tinh hiệp với Khí, và đưa Khí đến Thần, Tinh Khí Thần
hiệp một mới siêu phàm nhập Thánh".
THẦY CẮT NGHĨA : Mỗi kẻ phàm dưới Thế
nầy đều có hai Xác thân : Một phàm gọi là Corpore1 (Nhục thân) còn một Thiêng
liêng gọi là Spirituel (Thần hồn). Cái Thiêng liêng do cái phàm mà ra nên gọi
nó là bán hữu hình, vì có thể thấy được mà cũng có thể không. Cái xác-thân
vô-hình huyền-diệu ấy do Tinh Khí Thần luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn Không khí.
"Khí ở nơi xác phàm
xuất ra thì nó lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập, còn khi Đắc Đạo, nếu
có Tinh Khí mà không có Thần thì không thể nhập mà hằng sống được, còn như cò
Thần mà không có Tinh Khí thì khó hườn được "Đệ
nhị xác thân". Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.
Nó vốn là chất hiệp với
Khí Tiên thiên mà trong khí Tiên Thiên vốn có Điễn Quang, cái Chơn thần ấy buộc
phải tinh khiết, trong sạch, nhẹ nhàng hơn Không Khí thì mới vượt ra khỏi vòng
Càn Khôn đặng.
Nó phải có bổn nguyên Chí
Thánh, Chí Tiên, Chí Phật mới xuất Thánh, Tiên, Phật. Phải có một thân phàm
tinh khiết mới xuất Chơn Thần tinh khiết.
"Nếu các con còn ăn mặn mà luyện đạo, rủi có ấn
chứng thì làm sao giải tán cho đặng? Như rủi bị hườn thì đến khi đắc đạo cái
trược khí vẫn còn mà trược khí là vật chất tiếp điễn (bon conducteur d
'electricité) thì chưa ra khỏi làn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như
biết khôn ẩn núp tại Thế mà làm một bực Nhơn Tiên thì kiếp đọa trần hãy còn
chưa mãn". (Thánh Ngôn ngày 17-7-1926. /8-6 Bính Dần).
Xem Thánh Ngôn trên đây
thì chúng ta có thể hiểu rằng phép tu tập nầy chẳng những phải hoàn thành phép
Minh Tâm kiến Tánh mà còn phải trường trai tuyệt dục nữa. Trái lại nếu ăn mặn
mà luyện đạo rủi xuất Thần mà Thần còn trược khí lẫn lộn thì nguy hiểm đến tánh
mạng. Kẻ học nên nhớ điều nầy.
THÁNH-NGÔN ngày 2-1-1928
"Cái xác thân thiêng liêng nầy khi còn ở nơi xác
phàm thì khó xuất ra lắm, vì nó bị xác-phàm kéo níu, cái chơn thần ấy của
Thánh, Tiên, Phật thì huyền diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc Chơn tu, khi
còn xác phàm nếu Đắc Đạo thì có thể xuất ngoại trước buổi chết mà vân du Thiên
ngoại. Duy Chơn thần ấy mới đặng đến trước mặt Thầy".
Nói rút lại:
Theo lẽ trên đây mà suy
ra: Phép tu học nầy phải có Đức CHÍ TÔN, hay Tiên Phật truyền dạy mới được.
Phép Siêu phàm nhập Thánh là Tâm pháp, người phàm khó thông đạt để truyền thọ
cho nhau.
Giả tỉ như : dạy đánh đờn
thì người dạy phải là một vị Nhạc Sư thiện nghệ; hoặc giả như dạy lái xe hơi thì
phải là một người tài xế kinh nghiệm mới đảm đương được sự truyền thọ.
Vậy đủ hiểu rằng phép tu
hành nầy phải có Đức CHÍ TÔN dạy; mà muốn được Đức CHÍ TÔN truyền Tâm pháp thì
kẻ Đệ tử phải chí chơn, chí thiện, chí mỹ, nghĩa là Đạo đức hoàn toàn và phục
vụ cho Chúng sanh viên mãn với một tấm lòng vô tư, thì mới có thể cảm động lòng
Trời; cũng như Cổ Nhơn nói rằng : "Lòng chí hiếu cảm động lòng Trời mà
Trời ban phước cho". (Hiếu cảm động Thiên). Mà muốn đạt mục đích nầy kẻ
học phải có lòng Trí ngưỡng bất thối chuyển, tức tin nơi đức THƯỢNG-ĐẾ sẽ giáo
hóa mình và tự tin nữa, như chúng tôi đã nghị luận trong khoản Đức tin thì mới
thắng được sự thối chí, ngã lòng.
THÁNH-GIÁO đề ngày 21-4-1926 dạy
rằng :
"Trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng
ngày càng xa Thánh giáo, làm ra cuộc phàm giáo, Thầy lấy làm đau đớn mà trông
thấy Nhơn loại phải sa vào tội lỗi, mạt kiếp chốn A tỳ. Thầy nhứt định đến
chính mình Thầy mà độ rổi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm
nữa". Thể theo Thánh giáo nầy, chúng ta có thể yên tâm học tập cho đến công phu
viên mãn và đủ kiên nhẫn mà chờ lịnh Đức Đại Từ Phụ ban cho phước lành.
Đây là một điểm bất đồng ở
giữa văn chương học và Đạo đức học. Văn chương học cần trí thông minh để học
cho biết mà thôi. Trái lại đạo đức học, ngoài trí thông minh, còn phải có Đức
tin vững chắc. Vì Đức tin vừa là một ngọn Nhiên đăng soi sáng, vừa là một sức
mạnh tinh thần đôn đốc kẻ hành giả phải học, phải làm cho đến cùng lý tận tánh
và phải đem cái Tâm đắc của mình mà giúp đời làm cho người được thông sáng như
mình.
Có điều chúng tôi xin thưa
là phần "Hườn nguyên Tam bửu"
nầy, chúng tôi khảo cứu biên ra để làm tiêu chuẩn cho sự tu tập mà thôi; chớ
chúng tôi cũng chưa đạt được kinh nghiệm. Xin độc giả biết cho.
PHỤ LỤC II
THÍCH GIÁO, ĐẠO GIÁO, NHO GIÁO
LƯỢC KHẢO
TAM GIÁO THÍCH - ĐẠO - NHO
Lược khảo
Nguyên Giáo Lý Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ là qui nguyên Tam Giáo (Thích, Đạo, Nho)
Phần phụ lục "Tam
Giáo Lược Khảo" nầy để bổ khuyết những cái mà quyển Đại Đạo Giáo Lý còn
thiếu sót và cũng giúp cho độc giả hiểu sơ lược Giáo Lý của Thích, Đạo, Nho.
1.- Nho giáo Lược
Khảo.
2. - Đạo Giáo Lược Khảo.
3. - Thích Giáo Lược Khảo.
NGUỒN GỐC NHO GIÁO
Người Trung Hoa, sau khi
quần tụ đông đảo, lập thành gia thất thì cái quyền trị gia do người cha. Lần
hồi người ta theo nguyên tắc gia đình mà lập ra xã hội. Nghĩa là gia đình thì
do người cha quản trị, nước thì có ông Vua, còn khắp thiên hạ tức là nước Trung
Hoa thời ấy thì có vị Hoàng Đế thống trị. Nguyên trong thời đại tối cổ, ở xứ
Trung Hoa có năm ông Vua ra đời tiếp nhau mà dạy dân là: Phục Hi, Thần Nông,
Huỳnh Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, sách gọi đó là Ngũ Đế là năm vị Thánh Vương
đắc Đạo, có thần thông trông thấy những hiện tượng trong cõi Hư Linh. Một hôm,
Vua Phục Hi dạo chơi trên sông Hà (Huỳnh Hà) ông trông thấy một con vật : Mình
ngựa đầu rồng, trên lưng có dấu chấm, Ngài theo đó mà lập ra Bát Quái Đồ, cắt
nghĩa Đạo biến hóa của Trời Đất, để làm nguyên tắc dạy người. Thì đây Nho Giáo
thành lập một phần thì do thực tế, một phần thì do Huyền lý của Trời Đất, nghĩa
là Nho Giáo lấy Đạo Trời làm khuôn mẫu dạy người. Làm theo Đạo trời là lành,
trái với Đạo Trời là dữ. Cổ nhơn theo học Nho Giáo để giúp đời, cho nên trong
quyển Nho Giáo, cụ Trần trọng Kim cắt nghĩa chữ Nho như vầy :
Chữ Nho do hai chữ Nhơn và
Nhu ghép thành. Chữ Nhơn là người, chữ Nhu là cần dùng. Hai chữ ghép thành chữ
Nho, có nghĩa là người học hành thông suốt lẽ Trời Đất và tự họ sẵn sàng giúp
ích cho Nhơn quần Xã hội, cầu cho Xã hội biết cách cư xử thích hợp với lẽ Trời.
Lấy Đạo Trời làm căn bản cho Đạo người. Nho Giáo giúp người Tàu được trên
thuận, dưới hòa và tạo nên một nền luân lý có căn bản vững chắc.
Đến đời nhà Châu, trào Vua
Linh Vương, ước chừng 551 năm trước Tây lịch kỷ nguyên, có một vị Thánh-Nhơn,
tên Khâu tự Trọng Ni, tức là Đức Khổng Phu Tử ra đời, Ngài chỉnh đốn Nho Giáo
thành một Giáo Thuyết có mạch lạc. Nhơn đó mà người đời bấy giờ gọi Nho Giáo là
Khổng Giáo. Thiết tưởng, chúng ta nên nhắc sơ lược cái Tiểu sử của Đức Khổng
Phu Tử, âu cũng giúp sự học vấn của mình một phần nào.
Tiểu sử Đức KHỔNG PHU TỬ
Đức Khổng Phu Tử là người
nước Lỗ bên Tàu, sanh năm 551 trước Tây lịch kỷ nguyên. Cha Ngài tên Thúc Lương
Ngột, mẹ là Nhan Thị. Ngài tên KHÂU, tự Trọng Ni, lúc lên ba tuổi, thì mồ côi
cha, nhờ mẹ dưỡng dục, lên 19 tuổi, Ngài thành gia thất.
Về đường học vấn Ngài rất
chú ý đến Lễ Nhạc. Năm 20 tuổi, Ngài vào học nơi nhà Minh Đường. Nguyên ở Lạc
Ấp, ông Châu văn Công có cất một nhà Minh Đường, tích trữ Kinh Điển, Luật lệ, Hình
tượng và báu vật đời xưa, để làm tài liệu khảo cổ, Đức Khổng Phu Tử nhờ đó mà
mở rộng học lý của Ngài, sau khi ở Minh Đường về, sức học của Ngài rộng hơn
trước nhiều. Từ đó học trò theo học càng ngày càng đông.
Ngài vốn người Nho học
muốn đem Đạo của mình mà phổ biến trong dân gian để giúp đời, thành thử, Ngài
châu du từ nước nầy sang nước nọ, có ý muốn mượn việc làm quan để thực hành Đạo
lý, nhưng rốt cuộc rồi thất vọng. Đến 68 tuổi, Ngài về ở nhà dạy học và lo việc
Kinh sách để lưu truyền cho hậu thế.
Tánh tình Ngài ôn hòa
nghiêm trang, kính cẩn, những cử chỉ thường thức như : đi, đứng, nằm, ngồi mỗi
mỗi đều ung dung ngay chính và lúc nào cũng có vẻ vui tươi. Đối với Vua, Quan,
Ngài giữ Lễ trọn vẹn. Khi tế tự vào Miếu Đường, Ngài thành kính, để thông cảm
với Thần Minh. Nếu có việc quan hệ đến tánh mạng người ta thì Ngài lại dè dặt hơn
nữa.
Ngài rất ham học, hay suy
gẫm việc xưa nay, để tìm chơn lý, Ngài nói "Mặc
nhi thức chi, học nhi bất yếm hối nhơn bất quyện" Nghĩa là thầm lặng
nghĩ ngợi để biết, học khôâng chán, dạy người không mỏi. Ta chỉ có ba điều ấy
thôi. Đời Ngài, duy có sự học hành Đạo lý là trên hết. Ngài nói :
"Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất
năng tùy, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu dã". Nghĩa là đức của mình
không sửa cho tốt, học-hành của mình không giảng cho rõ, nghe điều nghĩa mà
không theo được, nghe điều dở mà không đổi được. Đó là cái lo của ta vậy.
ĐỨC KHỔNG PHU TỬ MẤT
Một bữa nọ, Ngài dậy sớm,
đi đạo trước sân, tay cầm gậy miệng hát rằng :
Núi Thái Sơn phải đổ chăng.
Cây Lương Mộc phải nát chẳng.
Người triết nhơn phải nguy chăng.
Thầy Tử Cống nghe bài hát
ấy vào hỏi thăm. Ngài thuật điềm chiêm bao và Ngài cho biết rằng: Ngài sắp lìa
trần. Đoạn rồi Ngài thọ bịnh bảy ngày mà mất. Năm ấy Ngài được 72 tuổi. Mộ Ngài
ở Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ hai dặm, thuộc tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Ngài
mất, học trò thương khóc thảm thiết, ai cũng thọ tâm tang ba năm.
Tóm lại, Đức Khổng Phu Tử
là một bậc Chí Thánh, chẳng những các dân tộc Á Đông sùng thượng Ngài là một vị
Thánh Sư, mà người Phương-Tây cũng khâm phục nữa. Chúng tôi thể theo đoạn văn
của Bác Sĩ Chavanne phê-bình Đức Khổng Phu Tử như sau, để làm bài kết luận :
Nước Tàu sở dĩ nước Tàu,
là nhờ có một Cổ Điển rất tinh vi, rất kỹ càng, làm luật pháp cho cả moị người
trong nước phải theo. Phàm chế độ chánh thể, lễ giáo, phong tục, trong nước mỗi
mỗi đều do đó mà ra cả. Cổ Điển ấy không phải nhờ Thần Quyền thưởng phạt mà từ
Thượng cổ thời đại đến bấy giờ không hề thay đổi gì cả. Hiện nay vẫn còn là nền
gốc vững chắc. Đời nọ qua đời kia, cái nghĩa lớn vẫn y nhiên; duy cách giải
thích, cách ứng dụng, có khác nhau đôi chút mà thôi. Chính Đức Khổng Phu Tử là
người đại biểu rõ rệt cho cái Cổ điển ấy, tự mình cũng không đổi mới gì cả.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét