
3. Luân hồi của Chơn Linh
Thánh Ngôn năm Mậu Thìn (
1928)
" Thầy đã nói : Nơi thân phàm của các con mỗi đứa
Thầy đều có cho một Chơn Linh theo gìn giữ Chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng không
cần nói các con cũng hiểu rằng : Chơn Linh ấy vốn vô tư mà lại đặng phép giao
thông cùng cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và Các Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư
Cung, nhứt nhứt việc lành, điều dữ điều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa
phán xét, bởi vậy một mãi không sai : Dữ lành đều có trả. Lại nữa, Chơn Linh ấy
có tánh Thánh nơi mình, chẳng phải gìn giữ các con mà còn dạy dỗ các con nữa,
thường nghe đời gọi lẫn là lương tâm ".
Chơn Linh nương Chơn Thần
để dự trường thi công quả tại thế gian. Chơn Thần có phận sự chế ngự Nhục thân,
Chơn Linh lại gìn giữ Chơn Thần.
Trong kiếp hiện tại, nếu
Chơn Thần không chế ngự Nhục thân, Chơn Linh không gìn giữ Chơn Thần hành động
theo luật pháp chơn truyền, đến khi Nhục Thân chết thì Chơn Thần phải chuyển
kiếp. Còn Chơn Linh thì phải chờ mãi cho đến khi nào Chơn Thần tạo được một
Nhơn Hình có đầy đủ thiện quả thì Chơn Linh sẽ đến cùng Chơn Thần hiệp tạo Khí
Thể vô vi, như đã nói trên, tiếng thông thường gọi đó là đắc quả Thiêng Liêng.
Theo Thánh Ngôn : Kẻ hành giả phải có Khí thể ấy thì mới đặng đến trước mặt Đức
Chí Tôn.
Nói rút lại : Thế gian là
trường học của chúng sanh, là trường thi công quả của muôn loài : Đắc thì về
cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, thất thì còn ở lại trần gian, chen lấn cùng các vật
thể hữu vi, để đoạt cơ chuyển luân tấn hóa, mà then chốt là Nhơn Quả và Luân
Hồi.
Nhơn Quả và Luân Hồi
thường đắp đổi lẫn nhau, để định sự Tấn Hóa hay Thối Hóa của chúng sanh, nghĩa
là có Nhơn Quả thì có Luân Hồi, mà Hễ có Luân Hồi thì có Nhơn Quả. Ấy vậy nên
ngày nào chúng sanh không tạo Nhơn Quả thì sẽ không Luân Hồi, mà hễ không Luân
Hồi tiện thị cũng chẳng gây ra Nhơn Quả.
Không Luân Hồi, Không Nhơn
Quả tức là giải thoát kiếp sanh tử.
Tóm lại : Quan niệm Vũ trụ
nói đây là Vũ trụ tinh thần Đạo lý tạo lập Càn Khôn, sanh hóa vạn vật, mà chúng
ta phải biết, để làm khuôn thước cho sự tu tập của mình. Trong trương trước,
chúng tôi có trích chương 39 Đạo Đức Kinh rằng :
Kỳ trí chi Nhứt giả, vạn
vật vô dĩ sinh tương khủng diệt ( Đến như một cái Đạo nói đây, nếu muôn loài
chẳng đặng nó để làm cơ sở sanh tồn, thì e muôn loài phải dứt ). Thế đủ hiểu
Đạo đối với Nhơn Sanh trọng yếu là thế nào?
CHƯƠNG
THỨ HAI
NHƠN SANH QUAN
Đạo tạo dựng Trời Đất hóa
sanh muôn loài thì vô danh, như đã nói trong chương trước, nhưng có điều nên
lưu ý là Đạo ấy tác động đến đâu thì lại có tên tạm gọi khác :
Đại để như :
Khi tác động đến Vũ Trụ
thì Đạo Vô danh tạm gọi là lý Thiên Nhiên, hay lý Thái Cực.
Khi tác động đến Nhơn sanh
lại gọi Mạng Trời, Thiên Lý Tánh hay Đạo.
Cũng như sách Trung Dung
nói rằng :
" Thiên mạng chi vi Tánh,
Xuất tánh chi vi Đạo ".
Nghĩa là Mạng Trời thị gọi
Tánh, tuân hành theo Tánh gọi là Đạo.
Vậy Đạo ở nơi người là Mạng
Trời là Thiên Lý mà người ta phải tuân theo để làm người và cầu giải thoát kiếp
tử sinh.
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn
năm Bính Dần 1926) dạy rằng:
" Đạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật theo
đó mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các Nhơn Phẩm do theo mà lánh khỏi Luân Hồi,
nếu chẳng theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mất hết Ngôi phẩm. Đạo nghĩa lý
rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi sau sẽ học các nghĩa lý
huyền bí khác.
Đời cũng thế, Đạo cũng thế. Chẳng có Đạo thì chẳng nên
Đời. Chẳng có Đời thì chẳng nên Đạo. Lấy Đạo trau Đời, mượn Đời giồi Đạo; Đạo
nên, Đời rạng, giũ áo phồn hoa nương bóng khổ, trăm năm mãn cuộc, tự mình thanh
tao, mến mùi tự toại dưỡng chí thanh nhàn, thì có chi hơn ".
Vậy Đạo là Tánh, Tánh là
Đạo; khi ở nơi người Tánh là bản thể của Tâm. Tâm với Tánh tuy hai danh từ mà
sự tác động vốn một.
Có điều đáng tiếc là khi
người ta nhập Thế cuộc, Nhục thân giao tiếp với vật chất sanh lòng hiếu ố, kích
động Tâm làm cho Tánh biến sanh nhiều trạng thái khác như Vương Dương nói rằng
:
" Thân chi chủ tể tiện thị Tâm.
Tâm chi sở phát tiện thị ý.
Ý chi bản thể tiện thị Trí.
Nghĩa là chủ tể của Thân
là tâm, cái sở phát của Tâmlà Ý, bản thể của Ý là Trí; Ý ở chỗ nào thì nó là
vật.
Vậy chúng ta có thể nói
rằng : Tâm là cái thống danh gồm cả Tánh, Ý, Trí, Vật.
Muốn được rõ ràng sự biến
thiên của Tâm lý chúng tôi tạm cái thuyết "
Bát Thức " của Phật Giáo (Duy Thức Học) để giảng giải. Chúng tôi xin
tạm chia ra làm hai đoạn
1. SÁU THỨC NGOÀI
2. HAI THỨC TRONG
Mắt thấy sắc thì sanh Nhãn thức.
Tai nghe thinh thì sanh Nhĩ thức.
Mũi hưởi hương thì sanh Tĩ thức.
Lưỡi nếm vị thì sanh Thiệt thức.
Ý tiếp pháp (1) thì sanh Ý thức.
(1)Pháp là tư
tưởng, dục tình tức sự vật ở đời
a ) Sự tác động của ngũ thức : Nói riêng về
Ngũ Thức ( Nhãn thức, Nhĩ thức, Tĩ thức, Thiệt thức, Thân thức ), chúng nó lấy
Ngũ quan làm Nhơn và Ngũ trần làm Duyên; nhơn duyên giao cảm mà sanh Ngũ thức;
nhưng về mặt tinh thần, chúng nó mượn cái biết của A-Lại-Da-Thức làm gốc.
Sách Duy Thức Luận bài số
15 nói rằng :
" Ý chỉ căn bản thức,
Ngũ thức tùy duyên hiện.
Hoặc câu, hoặc bất câu.
Như ba đào y thủy ".
Nghĩa là năm Thức lấy cái
biết của A-Lai-Da-Thức làm căn cơ, rồi tùy duyên mà ứng hiện. Có khi chúng nó
hiệp nhau, có khi không hiệp.
Năm thức lấy cái biết của
A-Lại-Da-Thức làm chủ cho sự hành động cũng như sóng ba đào mượn nước để làm
chỗ vẫy vùng kia vậy.
Nên hiểu rằng khi vô sự,
Tâm chưa phát động thì Ngũ Thức là cơ quan thể hiện Chơn lý ở trong Tâm truyền
ra, nhưng khi hữu sự, Tâm động thì Ngũ thức chạy theo vật chất như đã kể trên,
rồi nó lại truyền cái hay biết của nó vào ý thức, để tư lường tính toán lợi
hại. Đó chỗ khởi đầu của Ý Thức hiệp với Trí thức, sanh ra dục tình phức tạp,
tư tưởng lãng mạn.
b) Sự tác động của ý thức : Ý thức lấy Mạt-Na-Thức
l;àm căn, cũng như năm thức ngoài dựa vào Ngũ quan làm bổn. Ý thức hiện sanh là
vì giao tiếp với Pháp trần ( Sự lý hữu vi, vô vi ở đời ) do năm Thức ngoài
truyền vào. Thức thứ sáu nầy có đủ quan năng : Suy nghĩ, phân biệt tốt xấu, hơn
kém. Lòng hiếu ố theo đó mà sanh.
Ví dụ thứ nhứt : Nếu gặp
cảnh nghịch lý thì lòng hờn ghét nổi lên và xô đuổi những sự vật không thích ý
đi cho xa thật xa.
Ví dụ thứ hai : Nếu gặp
cảnh thích ý lòng ham muốn nổi lên và xúi giục người ta lo thâu đoạt vật ấy về
với mình. Lòng ham muốn nầy, nếu được thỏa mãn thì vui mừng, rồi lại sợ hư, sợ
mất mà phải lo săn sóc, giữ gìn. Trái lại, nếu thất vọng thì đâm ra phiền não,
oán ghét, hờn giận. Nên biết rằng : Tính dục do ý thức sanh ra, vốn muôn vàn
hình trạng, không sao kể xiết; nhưng kinh Phật tóm tắt gọi là : Thất tình ( Hỉ,
Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục ) và Lục dục ( Muốn sắc, ham thính, muốn hương, muốn
vị, muốn xúc và muốn pháp ).
Thất tình và Lục dục, khi
ở trong Ý Thức thì tùy cơ duyên bên ngoài mà hành động, mãi đến lúc cơ duyên
bên ngoài hết thì nó theo Mạt-Na-Thức vào ở ẩn trong A-Lại-Da-Thức, để chờ cơ
hội khác xuất hiện hành động nữa.
Tham, Sân, Si là ba món
độc gây thành Tâm bịnh của Chúng sanh. Kể sơ lược như : Chúng ta có lòng ham
muốn ( Tham ) như đã kể trên thì nó giục thúc chúng ta phải lo thâu đoạt vật
muốn về mình. Lòng ích kỷ nếu được thỏa mãn thì vui mừng, rồi lại sợ hư, sợ mất
phải lo săn sóc, giữ gìn. Trái lại nếu thất vọng thì hờn giận, oán ghét đó là " Tham " sanh ra " Sân " mà hễ có " Sân " thì có " Si " (Vô minh), nghĩa là
không biết trong thâm tâm người ta có điểm tánh của Trời ngự trị, để chủ tể sự
hành vi của người và không biết làm dữ thì họa trả lại.
Sáu thức ngoài, tuy mỗi
thức có cái biết riêng biệt, và tùy hoàn cảnh hành động khác nhau, nhưng ý thức
làm chủ cả và Ý thức cũng gọi là đệ lục giác quan nữa.
2. HAI THỨC TRONG
a ) Sự tác động của Thức thứ bảy. ( Mạt-na-Thức)
Duy Thức Luận bài só 5 nói
rằng :
Thử vi nhi năng
biến.
Thị thức danh
Mạt-Na.
Y chỉ truyền duyên
hỉ.
Tư lường vi Tánh
tướng.
Nghĩa là : Cái lực năng
biến thứ nhì tên là Mạt-Na-Thức nó mượn A-Lại-Đa-Thức làm đối tượng để suy
nghĩ. Tư lường là tánh tướng của nó.
Giảng lý : Mạt-na-Thức có
tên riêng là Ý-căn, vì Ý-thức nương nó mà hiện sanh. Đến lượt nó, Mạt-na-Thức
lại lấy A-lại-Da-thức làm chỗ ỷ lại đặng chuyển biến. Nó còn có phận sự khác là
: Thông truyền cái biết của Chơn-trí ra sáu Thức ngoài để hành động, tức truyền
cái Chơn niệm ở trong ra ngoài, rồi nó lại thâu cái Vọng-thức ở ngoài vào
trong. Đại để như : Nó thâu thập những tư tưởng lãng mạn, những dục tình phức
tạp của sáu Thức ngoài, truyền vào A-lai-Da-Thức đặng giữ gìn, cất kín. Rồi nó
quay lại nhận những chủng tử (Hột giống) trong thức thứ tám làm đối tượng để
quan niệm, nghĩ suy, cho nên nói tư lường là tánh tướng của Mạt-na-Thức.
Tư lường là gì ?
Tư lường là ý nghĩ, quan
niệm, lo âu. Mạt-na-Thức đã chấp lấy cái thân của A-lai-Da-Thức, tức là nhục
thân hiện tại làm cái ngã Chơn thật, rồi lại chấp những sự vật ở cõi đời bên ngoài
tức là chư pháp làm quí trọng, rồi theo đó mà quan niệm, ý kiến để cũng cố
Nhục-thân hiện tại cho được sung sướng, thỏa mãn và sống lâu. Cái năng lực tư
lường nầy ngấm ngầm nghĩ suy không ngừng. Xem như khi chúng ta đang suy xét
việc hiện tại thì thoạt nhiên có tư tưởng quá khứ, hay vị lai lại xen vào, làm
cho sự suy xét của mình gián đoạn. Thậm chí, trong đêm vắng canh khuya,
Nhục-thân an nghĩ mà Mạt-na-Thức cứ vu vơ nghĩ ngợi ? Người ta sở dĩ có chiêm
bao mộng mị là lẽ ấy.
Về việc chiêm bao, có lẽ ai
cũn có kinh nghiệm rồi. Giả tỉ khi Nhục-thân nầy nằm ngủ trên giường mà ý thức
bắt chúng ta phải làm thân khác. Nếu làm thân giàu có, thì lên xe xuống ngựa.
Trái lại, nếu làm thân nghèo hèn thì y phục rách rưới lang thang, đi theo xó
chợ đầu làng. Trang Tử khi nằm mộng làm bướm. Lúc bấy giờ Ông cũng thích thú
làm bướm. Ông nói : " Không biết Trang Chu mộng bướm, hay bướm mộng Trang
Chu ".
Sở dĩ có sự kiện ấy làvì ý
thức bắt người ta mê tít đi, quên lững cái nhục thân hiện tại, mà chỉ biết sống
với cái thân trong giấc mộng. Kinh Lăng Nghiêm nói :
Thức là mơ tưởng,
Ngủ là mộng tưởng.
Kinh Phật thường nói ham
sống (Ham sống chẳng phải tự diệt mà thật phải tránh sự ham muốn vật vì ham
sống thì sanh lòng ích kỷ, gây tội tình nhơn quả.) là hột giống sanh kiếp luân
hồi. Tại sao ? Bởi vì khi sanh tiền, chúng ta bám lấy thân Ngũ-uẩn và muốn cho
nó sống mãi. Đến khi thân Ngũ-uẩn nầy tan rã thì lòng ham muốn giục thúc chúng
ta phải tạo thân Ngũ-uẩn khác nữa. Thế nên nói rằng ham sống là hạt giống tạo
kiếp sanh tử luân hồi.
Duy thức học nói rằng :
Tứ phiền não
thường câu.
Vi ngã si, ngã kiến.
Tịnh
ngã mạn, ngã ái.
Cập dữ
xúc đẳng câu.
Nghĩa là nó thường níu kéo bốn căn phiền
não là : Ngã-si, Ngã-kiến,
Ngã-mạn, Ngã-ái cùng với Tham, Sân, Si để tưởng tượng mơ màng. Tham, Sân, Si đã
có giải rồi trong khoảng Ý-thức. Bây giờ xin giải nghĩa tứ phiền não.
1.
Ngã-Si : nghĩa là mê muội,
không biết Bổn-tánh chơn thật của mình, rồi nhận cái giả làm cái Chơn mà đối với lẽ Đạo; thì không biết Vũ-tru,ï Nhơn-Sanh là gì, mà bướng bỉnh cho mình là quán thông Chơn-lý.
2.
Ngã-Kiến : Ngã-kiến nghĩa là
chấp lấy ý kiến của mình là chí thiện, rồi chẳng học hỏi chi nữa. Kinh Phật
chép bọn người mù xem voi : Người thứ nhứt rờ đuôi voi, rồi bảo rằng voi giống cây
chổi. Người thứ hai rờ chân voi, rồi bảo rằng voi giống cây cột.. Mỗi người quả
quyết cái biết của họ là đúng. Người sáng nghe thấy bọn mù thì buồn cười. Thế
mà họ hiu hiu tự đắc. Người đời, nếu căn cứ theo cái mê lầm của Mạt-Na-Thức mà
nhận định sự vật (chư pháp) thì chẳng khác nào nhóm người mù biết voi.
3. Ngã-Mạn : Ngã-mạn nghĩa là bướng
bỉnh, khoe khoan, tự cho mình là tài giỏi hơn tất cả mọi người.
4. Ngã- Ái : Ngã-ái là chỉ biết có mình là quí trọng tài cao,
đức rộng, không ai sánh bằng và muốn mình được tôn sùng và sống mãi.
Nói rút lạt, Mạt-na-thức
có tánh si mê, bướng bỉnh, nó nương vào thân của A-Lai-Da-Thức (Nhục thân mà
hiện sanh, rồi chấp lấy cái thân ấy là ngã chơn thật, song sự thiệt đó là cái
Ta giả hiệp vậy).
Đáng buồn là nó lấy giả
làm thiệt mà lại cho là hơn tất cả mọi người.
b. Sự tác động của A-Lai-Da-Thức ( Thức thứ tám )
: A-Lai-Da-Thức có hai trạng thái : Tịnh và Động. Tịnh thì nó tích lũy chơn lý,
Động thì sanh Vọng-tưởng là cái màn vô minh che khuất chơn lý.
Nguyên lúc ban đầu,
A-Lại-Da-Thức vốn tịnh thì nó thông truyền Chơn-lý ra bảy thức ngoài để thể
hiện Thiên -Đạo thành Nhơn-Đạo; nhưng khi nó bị nhục thân lôi cuốn thì nó thiên
về phàm trần mà rồi nó thu nạp những vọng niệm của 7 thức ngoài truyền vào, cho
nên nó có tên là Hàm-tàng-thức ( Cái tạng chứa các thức ). Kinh Lăng Nghiêm có
chép :
" Thí như hải lảng
Tự do mãnh phong khởi
Hồng ba cổ minh hắc
Vô hữu đoạn tuyệt thời
Tạng thức hải thường trụ
Cảnh giới phong cổ động ".
Nghĩa là : Thí như biển
tịnh mà sanh động là tại gió thổi mạnh mà sóng nổi dậy, chẳng có giờ phút nào
ngừng. Tạng-thức bổn lai thường trụ, nhưng gió làm nổi sóng, rồi lượn sóng nầy
xô đuổi lượn sống kia mà thành ra sóng vẫy vùng làm loạn cả chơn tâm. Chính
trạng thái động làm khuất trạng thái tịnh hay Nhơn-dục tế tắc Thiên-lý là vì lẽ
đó.
A-Lai-Da-Thức, ngoài cái
chức vụ làm chủ tể các thức kia, nó lại nương vào Mạt-Na-Thức mà chuyển biến,
vì trong bản thể của nó có đủ các thứ giống. để sanh hóa các Pháp; thành thử,
nó cũng có tên là " Nhứt Thiết Chủng
". Những hột giống nói đây chẳng phải vật chất như hột đậu, hột dưa,
mà thật là một sức mạnh vô hình, có nhiều năng lực khác nhau, để rồi tùy duyên
chuyển hóa các pháp : Nhập-Thế và Xuất-Thế.
Những Chủng-tử ấy kể sơ
lược như vầy : Nguyên khi Lục-căn giao tiếp với Lục-trần mà sanh ra Lục-thức.
Lục-thức sanh ra Vọng-niệm, Vọng-niệm theo cơ duyên bên ngoài mà hoạt động mãi
đến khi hết cơ duyên bên ngoài thì Vọng-niệm thu hình thành những dấu vết tinh
vi và theo Truyền-Thống-Thức vào ở ẩn trong Nhứt-thiết-Chủng, chờ có cơ hội
khác, xuất phát hành động nữa và cứ thế mãi mãi.
Mà mỗi lần xuất hiện hoạt
động thì "Nhứt-thiết-Chủng"
thâu thập thêm một sức mạnh nữa. Tích thiểu thành đa, ấy vậy nên từ bao nhiêu
kiếp quá khứ đến nay Vọng-niệm súc tích trong Nhứt-thiết-Chủng một số hạt giống
không biết bao nhiêu mà kể. Đại loại như phiền não, tư lường, Tham, Sân, Si,
vân vân . . . Chính những Vọng-thức nầy là nghiệp vô minh, che khuất đường
chánh. Nay muốn giải thoát ra ngoài vòng sanh tử người ta phải phá sạch nghiệp
vô minh. Phương pháp tu tập sẽ giảng giải trong hai chương sau Hạ-Thừa và
Thượng-Thừa.
Tóm lại : Chương I : " Vũ-Trụ-Quan " nói về Dịch-lý
của Đại-Vũ-Trụ, Thiên-Địa biến hóa vô cùng, tạo lập Càn Khôn hóa sanh vạn vật
và khi đã trót sanh thành rồi vạn vật cũng phải theo Đạo biến hóa mà thay đổi
không ngừng.
Còn Chương II : " Nhơn -Sanh-Quan " nói về Đạo
biến hóa ở trong Nhơn-thân. Như trương trước đã nói rõ rằng : " Tiều-Vũ-Trụ-Nhơn-thân " cùng
" Đại Vũ Trụ Thiên Địa "
đồng nhứt lý và cũng nhơn lẽ ấy mà sự sống động của Nhơn-thân tùy thuộc Đạo tự
nhiên. Lục-Cửu-Uyên là người Trung Hoa sanh vào khoảng 1139-1192 nói rằng :
" Vũ-trụ nội sự nãi kỷ phận nội sự.
Kỷ phận nội sự nãi Vũ-trụ chi nội sự ".
Nghĩa là việc trong Vũ-trụ
là việc trong chức phận của mình. Việc trong chức phận của mình là việc trong
Vũ-trụ.
Còn về đường tu tập,
Đổng-Trọng-Thơ sanh đời Tây Hớn bên Tàu nói rằng :
" Nhơn chi nhơn bổn ư Thiên ".
Nghĩa là Nhơn-đạo của
người gốc ở nơi Trời.
NHƠN-ĐẠO GỐC Ở NƠI TRỜI LÀ SAO ?
Tức là Mạng-Trời,
Thiên-lý, Tánh hay Đạo như đã nói trước kia. Nhưng có điều đáng tiếc là khi
Nhục-thân tiếp xúc vật chất sanh lòng hiếu ố, kích động Tâm làm cho Tánh biến
thiên nhiều trạng thái khác nhau như Chương Bát-thức đã nói trong trương trước
và Tình-dục lại gây thêm những tế tâm duyên tướng làm cho Thiên-lý lu mờ đó là
nguyên nhơn khiến Chúng-sanh trầm luân khổ hải.
Nay muốn giữ Mạng-Trời nơi
người để theo đó mà trở về với Cội-Sanh mình là Chí-Tôn thì phải phá những cái
gì che khuất Thiên-lý. Đó là yếu lý của hai pháp môn tu tập Hạ-Thừa và Thượng-Thừa
sau nầy.
PHẦN THỨ BA
THƯỢNG THỪA và HẠ THỪA
LỜI GIỚI THIỆU
Của Cụ LƯƠNG VĂN BỒI
Nguyên Phó Hội Trưởng Thông Thiên Học.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do
Đức CHÍ TÔN Cao Đài Thượng Đế lập ra bằng Huyền cơ Diệu bút từ năm 1926 đến nay
là Tôn Giáo Đại Đồng. Giáo Lý Đại Đạo gồm hai phần:
- Phần Hình Nhi Hạ Học tức
ngoại giáo công truyền và
- Phần Hình Nhi Thượng Học
tức nội giáo vô vi.
Nếu nhìn về hình thức bên
ngoài, chúng ta nhận thấy Cao Đài Đại Đạo tuy có khác một phần nào với các Tôn
Giáo và Môn Pháp triết học trên thế gian về nghi lễ, cúng kiếng, về cách thờ
phượng vân vân. Nhưng nếu xét kỹ bên trong, về phương diện nội giáo vô vi, thì
Chơn lý Đại Đạo thật là vô cùng cao siêu, thâm diệu bao gồm tất cả Chơn lý căn
cơ ẩn tàng trong các Tôn Giáo chánh đại, môn phái triết học và Đạo pháp. Sau
khi sưu tầm và chọn lựa những Thánh Giáo được Ơn Trên dạy rải rác trong các Đàn
Cơ, chúng ta nhận thấy Giáo Lý Cao Đài rất là dồi dào phong phú dạy chúng ta đủ
các khía cạnh của môn huyền bí học nào là "vũ trụ, nhơn sanh, luân hồi,
quả báo, tiến hóa, hy sinh, nào là lập công bồi đức, huynh đệ đại đồng, cùng
phương pháp tu tánh luyện mạng; phản bổn hườn nguyên, siêu phàm nhập Thánh, vân
vân ".
Quyền Giáo Lý Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ của Đạo Huynh TRƯƠNG TIẾP PHÁP mặc dầu có tánh cách đại cương, nhưng
cũng bao gồm số Thánh Giáo được chọn lựa kỹ lưỡng và xếp đặt thành năm phần rõ
rệt : Phần thứ nhất nói về Hình Nhi Hạ Học mà mỗi môn đồ Đại Đạo cần phải biết,
ba phần kế đó trình bày phương diện Hình Nhi Thượng Học của Đại Đạo. Phần cuối
cùng là phần phụ lục lược khảo về Tam Giáo : Nho, Thích, Đạo.
Tóm lại, quyển sách được
soạn rất công phu với sự trình bày thành phần chương, tiết một cách khoa học, ý
tứ dồi dào, câu văn gọn gàng và dễ hiểu. Quyền sách nầy sẽ giúp ích cho phần
đông môn đồ Cao Đài Đại Đạo và cũng sẽ giúp cho các học giả trong nước và ngoài
nước đang sưu tầm Chơn lý có một quan niệm khá đầy đủ về Giáo Lý của Đại Đạo.
Đây là một trong những
quyển sách đầu tiên có thể nói là " tiền phong " trình bày Giáo lý đủ
mọi khía cạnh.
Làm sao cơ Đạo mở mang,
Cao Đài Thống Nhứt rải tràn năm châu.
Saigon ngày 1-6
Giáp Thìn (Dl. 9/7/64)
LƯƠNG VĂN BỒI
PHẦN THỨ BA
THƯỢNG THỪA Và HẠ THỪA
Đức CHÍ TÔN Giáng cơ dạy
rằng :
" Ta vì lòng Đại từ,
Đại bi lấy Đức háo sanh dựng nên nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Tôn chỉ là:
- Vớt kẻ hữu phần vào địa
vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi;
- Và nâng đỡ kẻ có tánh
đức vào cõi an nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở cõi trần-thế nầy ".
Căn cứ theo Thánh Ngôn
nầy, Tân Luật Đại Đạo ấn định Tín Đồ Đại Đạo có hai bậc :
THƯỢNG THỪA & HẠ THỪA
THƯỢNG THỪA.- Là bậc xuất thế, nghĩa
là học giả chẳng còn bận rộn với Nhơn tình, Thế sự. Họ chỉ lo tu tập Đạo pháp
tối thượng cho đến Đắc Đạo, viên mãn rồi đem sở đắc của mình mà giúp đời, tức
thực thi câu : Tự độ, độ tha. Tân Luật Đại Đạo định rằng : Chức sắc từ Giáo Hữu
dẫn lên phải chọn lựa trong bậc Thượng Thừa.
HẠ THỪA.- Là bậc mới nhập môn, còn ở Thế, vừa giữ Đạo, vừa
lo việc Gia đình, Xã hội, mục đích chánh là hoàn thành bổn phận làm người và
nếu có thể được thì chuẩn bị vào bậc Thượng Thừa.
Chi tiết sẽ giảng giải như
sau :
CHƯƠNG THỨ NHỨT
HẠ THỪA
Chương trình gồm hai điểm chánh
LUÂN LÝ THỰC HÀNH
- PHƯƠNG CHÂM XỬ THẾ
Luân lý thực hành nói
chung cho hai Phái Nam và Nữ.
Nam phái giữ Tam cang, Ngũ
thường, Nữ phái gìn câu : Tam tùng, Tứ đức. Phương châm xử thế bán sự tu thân
cũng chung cho hai Phái Nam và Nữ.
I .
LUÂN LÝ THỰC HÀNH NAM PHÁI
a) TAM CANG :
- QUÂN THẦN CANG
PHỤ TỬ CANG
PHU THÊ CANG
QUÂN THẦN CANG (Giềng mối Vua Tôi) :
Quốc Trưởng là người đứng
đầu trong nước, khôn ngoan hơn Thần dân. Chúng ta miễn nghị luận, mà chỉ bàn về
phận sự làm Quan và làm Dân mà thôi, bởi vì trong anh em chúng ta : có người
làm Quan, mà cũng có kẻ làm Dân.
Bổn phận làm Quan : Quan là người thay mặt
Vua, thay quyền Chánh Phủ, thực thi Pháp luật, cai trị nhơn dân, bảo an xã hội.
Người có phận sự dạy dân, ăn ở hiền lành, giữ gìn sự an cư lạc nghiệp cho xã
hội.
Muốn làm tròn phận sự ấy,
người làm Quan phải giữ lòng ngay đối với chúa, gìn dạ thẳng đối với dân. Vậy
người làm Quan nên lập đức lành như : Thanh Liêm, chánh trực, cần mẫn, để làm
căn bản cho sự hành động của mình.
THANH LIÊM.- Người Thanh liêm không
tham của hối lộ mà hại dân lành. Chánh phủ tin cậy ta, giao vận mạng dân trong
tay ta, nếu chúng ta ham của bất chánh; làm việc bất công chuyện phải làm quấy,
chuyện quấy làm phải. Gian xảo có thể giấu được Vua, chớ Luật Trời đâu dể che
khuất. Ấy vậy nên người làm Quan, lúc nào cũng phải trau giồi đức thanh liêm
cho được rõ ràng minh bạch để nêu gương lành cho dân bắt chước.
CHÁNH TRỰC. - Đức lớn của người cầm
quyền là : Nhân ái và Công bình; thiếu đức ấy thì chẳng hay làm được việc chung
cho nhơn quần xã hội.
CẦN MẪN. - Cần mẫn là siêng năng, phàm làm việc gì cũng
cần có siêng năng và thi thố cho kịp thời. Việc cần làm hôm nay chẳng khá để
ngày mai, bởi vì mỗi sự kiện có thời trung của nó. Làm kịp thời thì hữu dụng,
còn lỗi thời thì vô ích.
VIẾNG NGƯỜI LÀM QUAN Tôn Thúc Ngao làm quan
Lịnh doãn nước Sở. Khi mới đến thì tất cả nhơn dân ăn mặc chỉnh tề nghinh tiếp,
duy có một ông Lão mặc áo vải đội mũ trắng đến chào.
Tôn Thúc Ngao nghiêm trang
tiếp đón và thưa rằng : "Chúng tôi
bất tài nhưng được lịnh vua đến đây trị dân chắc ông Lão có điều dạy bảo? Ông
Lão nói "Có".
Thân đã sang mà khinh người
thì dân không chuộng? Chức đã cao mà chuyên quyền thì vua sanh ghét, lộc đã hậu
mà không biết đủ thì phải gặp tai vạ. Tôn thúc Ngao vừa vái vừa nói :
- Xin kính vâng
lời và xin ông dạy thêm cho ít câu.
- Chức cao thì ý
càng phải khiêm cung.
- Quan to thì tâm càng phải tế nhị.
- Lộc hậu thì việc làm cần phải thận trọng.
Ông giữ được
ba điều ấy thì đủ trị dân
Bổn phận làm Dân : Là một phần tử trong
nước,
người Công dân phải giữ tròn bổn phận của mình. Yêu nước nhà, mến giống nòi, thuế sưu đóng đủ đừng
toan kế tà, chẳng nên vầy đoàn, hiệp lũ gây việc trộm cướp, phá xóm, phá làng.
Ở trong Quốc gia phải tuân hành luật nước, ở trong Đạo phải giữ qui điều giới
luật của Hội Thánh và phải kiêng sợ luật Trời báo ứng. Rồi cứ một lòng bảo hộ
gia đình, tương thân, tương ái với người xã hội, góp công vào việc thuần phong,
mỹ tục, an cư lạc nghiệp của giống nòi.
Thử nghĩ mỗi người công
dân không phạm luật nước, không trái Mạng Trời thì gia đình xã hội an hòa thảo
thuận biết bao ?
PHỤ TỬ CANG (Giềng mối Cha con) :
Làm Cha phải lành ( Vi nhơn
phụ chỉ ư từ ).
Làm con phải thảo (Vi nhơn
tử chỉ ư hiếu)
Chữ từ (lành) chỉ về nghĩa
vụ làm cha mẹ, phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy con cho nên người hữu
dụng.
Người cha mẹ lành cũng có
khuyên con, răn con, cũng có rầy la, đánh mắng, nghĩa là phải làm thế nào cho
con bỏ cái dở, theo cái hay, chớ chẳng phải lành là chiều theo ý con, muốn làm
gì thì làm. Tại sao người cha không để cho con được tự do hành động? Bởi vì con
còn thơ ấu, trẻ lòng, non dạ. Nói tóm là con chưa đủ sáng láng, để phân biệt
phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn, để vượt qua những giờ vật dục cám dỗ.
Ấy vậy nên người cha mẹ phải dìu dắt con trên đường đạo đức quang minh Gia đình
giáo dục là căn bản Đạo Xử Thế.
Đối với con, cha mẹ cũng
có quyền, nhờ con nuôi dưỡng lúc về già, nhờ con giúp đỡ việc nặng nề
"Dưỡng nhi đãi lão" (Nuôi con để nhờ lúc về già). Nhưng cha mẹ muốn
dùng quyền hành ấy, trước phải làm xong nghĩa vụ của mình, tức là nuôi con, dạy
con cho nên người. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tròn bổn phận mình, mà cứ sai
con, mắng con và bắt nó phục vụ cho mình như thế là bất công và là thất phận
cha mẹ.
Vi nhơn tử chỉ ư hiếu.
Thảo là Đạo làm con, chẳng những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó
là bổn phận chánh của mình nữa. Cổ nhơn nói : "Nhơn sanh bá hạnh, hiếu vi
tiên". (Người đời có trăm nết, song hiếu đứng đầu).
Tại sao người ta phải hiếu
với cha mẹ?
Ôi ! Công sanh thành dưỡng
dục, kể sao cho hết, nào là mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, ẵm bồng, nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Còn cha lại phải dày công dạy dỗ, cực nhọc,
tảo tần, dẫu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha cũng không
từ, miễn là làm ra cơm tiền để nuôi con, Công cha như núi Thái sơn. Nghĩa mẹ
công cha như thế, hỏi vậy, ở đời có người nào mà chẳng thương mến chăng? Ắt không;
như thương mến chưa đủ, nghĩa vụ làm con bắt buộc người ta phải tròn Đạo hiếu.
Thực hành Đạo hiếu, trước
nhứt là nuôi cha mẹ. Sự nuôi dưỡng ấy phải hết lòng thành kính, giàu nuôi theo
giàu, nghèo nuôi theo nghèo, ngoài miếng ăn, miếng uống, tấm ảo, manh quần, còn
phải hết lòng vui vẻ trong phận sự, làm cho cha mẹ vui lòng. Một hôm Thầy Tử Du
hỏi chữ hiếu, Đức Khổng Phu Tử đáp : "Ngày nay, người ta bảo chữ hiếu là
biết nuôi cha mẹ, nhưng xét kỹ lại thì giống chó ngựa kia cũng có người nuôi.
Nếu nuôi cha mẹ mà không kính, thì lấy gì để phân biệt với sự nuôi cầm
thú". Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quý tại lòng thành kính. Chẳng nên bắt chước
câu : "Giàu thì đặng thảo ngay, nghèo thì mất trung hiếu". Lời nói ấy
chẳng qua là nói để chữa lỗi mà thôi. Trái lại nên nhớ cậu : "Nhà nghèo
mới biết con thảo, nước loạn mới rõ trung thần". Từ xưa những gương trung
hiếu, tiết liệt, phần nhiều xuất hiện trong nhà nghèo khó.
Khi ở chung với cha mẹ,
không nên làm buồn lòng cha mẹ, nếu mình có việc buồn riêng, cũng chẵng nên tỏ
sắc giận hờn cho cha mẹ thấy. Khi cha mẹ quở trách thì phải tự xét mình mà chừa
lỗi, chớ chẳng khá buồn phiền.
Cha mẹ già phải coi chừng
đến chỗ không nói. Tại sao? Bởi vì có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn mà chẳng
tỏ ra hết lời. Sau đây là một gương thờ Mẹ của người xưa.
Một hôm, Bá Du bị mẹ đánh
đòn, ngồi khóc mãi mà không thôi. Mẹ hỏi:
- Mọi khi mẹ đánh con thì
con biết lỗi mà cam chịu, có sao, lần nầy con khóc dai như thế? Thưa mẹ : Mọi
khi, mẹ đánh, con thấy đau; ấy là con biết mẹ còn sức khoẻ. Lần nầy mẹ đánh,
con không thấy đau lắm. Thế là con biết mẹ đã yếu mà con khóc.
(Cổ Học Tinh
Hoa).
Lành thay!
Bá Du biết lo cho sức khoẻ của mẹ.
Cha mẹ lúc
sanh tiền con chẳng nên đi xa, nếu cần đi vắng thì phải cho biết chỗ, để người
nhà tìm cho dễ, khi hữu sự. Cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc,
chạy thầy, chính mình nên lo liệu mọi phương; nếu giao cho kẻ khác biết đâu người ấy vì sơ sót, làm thêm
bịnh cho cha mẹ mình. Bình nhựt cũng phải xem chừng : Nếu cha mẹ khoẻ
thì vui mừng, mệt thì lo lắng (xem gương Bá Du thờ mẹ đã nói trên).
Lòng hiếu
thảo sẵn có trong lòng người; nhưng, có một đôi kẻ xao lảng là vì mê sắc
dục, hoặc ham tiền của. Vậy ai là kẻ làm con nên thận trọng bổn phận của mình.
Đạo hiếu
không bắt buộc chúng ta phải nhắm mắt tuân lời, mà trái lại, phải kiểm điểm
việc cha mẹ đã làm : Nếu hay thì hết lòng theo, còn lầm lạc thì nên khuyên can
với một cử chỉ kính mến.
Đức KHỔNG
PHU TỬ dạy rằng :
" Sự phụ mẫu cơ gián
Kiến chi bất tùng
Hựu kỉnh bất đi
Lao nhi bất oán".
Nghĩa là
cách thờ cha mẹ : Nếu thấy cha mẹ lầm lạc thì nên khuyên can (1) với lời lẻ ôn
nhu, lễ phép. Nếu thấy cha mẹ không theo lời khuyên can thì con vẫn giữ lòng
kính mến vàkhông trái nghịch. Như cha mẹ sai làm việc khó nhọc cũng chẳng khá phiền
hà.
(1) LỜI CON CAN CHA : Điền Văn thấy cha là Điền Anh làm quan mà hay vụ
lợi riêng. Một hôm, thừa nhàn hỏi cha rằng :
- Thưa cha : "Con của đứa con gọi là gì?
- Gọi
là cháu.
- Con
của đứa cháu gọi là gì?
- Gọi
là chắt.
- Con
của đứa chắt gọi là gì?
- Ai
biết gọi là chi.
Thưa cha : Cha làm tướng nước Tề đã ba đời vua, giàu có hằng ức vạn nhưng kẻ Môn hạ
chẳng có một người gọi là Hiền-tài.
Con trộm nghe : Nhà quan
ắt có tướng giỏi, các quan văn ắt có quan văn hay. Cha mặc áo gấm mà người giỏi
trong nước vẫn rách rưới. Tôi tớ thừa ăn mà người giỏi trong nước vẫn đói khát.
Cha quên tất cả việc công ích của dân của nước, chỉ lo súc tích của cải để dành
cho những kẻ sau mà không biết gọi tên là gì. Thế thật lạ quá? Lời khuyên của
Điền Văn không thất lễ, mà người cha theo.
(Trích Cổ học Tinh hoa
quyển II)
Cha mẹ mất thì phải tận
tâm đoái hiếu. Cổ nhơn bảo: " Tang
tắc trí kỳ ai ": Việc tang chế phải hết lòng thương xót.
Tân Luật Đại Đạo định rằng
: Việc tang chế không nên xa xí; không nên quàng Linh cữu lâu ngày, không nên dùng
Âm công lòe loẹt, không nên đãi đằng rần rộ mà mất vẻ nghiêm tịnh, ai bi.
Đức KHỔNG PHU TỬ cho sự
thờ cha mẹ rất hiếu là :
" Kính kỳ sở tôn
Ái kỳ sở thân
Sự tử như sự sanh
Sự vong như sự tồn
Hiếu chi thủy dã ".
Nghĩa là : Kính người mà
cha mẹ đã trọng, yêu người mà cha mẹ đã mến, thờ cha mẹ khi chết cũng như lúc
sống, mất cũng như còn. Ấy là hiếu ban đầu vậy.
Đại ý nói rằng khi Cha mẹ
sanh tiền thì con tôn kính cử chỉ hành vi, mãi đến khi cha mẹ thác rồi, con
cũng cứ tôn kính như cha mẹ còn sống. Chuyên tâm, trì chí thực thi Đạo hiếu
thủy chung như nhứt.
Bổn phận Làm Anh Chị và Em : "Huynh tắc Đễ, Đệ tắc cung". Anh em,
chị em đồng thọ sanh nơi một cha mẹ; tục ngữ nói :
"Một cục máu xắn làm năm ba" đồng cốt nhục,
đồng bào thai, từ lúc nhỏ dại, ở chung một nhà, ăn chung một mâm, nằm chung một
chiếu, vui có nhau, buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng. Vậy tình thương yêu
ở giữa anh em, chị em không tình nào khắn khít ruột thịt bằng tình ấy.
Muốn bảo tồn cái tình máu
mủ ấy mãi mãi thì người anh chị phải biết bổn phận mình là thương yêu, đùm bọc,
che chở, kẻ làm em phải biết bổn phận mình là cung kính, thuận tùng.
Khi cha mẹ vắng mặt anh
chị phải quyền huynh thế phụ: dạy dỗ, khuyên răn, gìn giữ em trong mọi cử chỉ,
hành vi. Mà muốn dùng quyền người anh chị phải làm xong nghĩa vụ của mình là
nuôi dưỡng dạy dỗ. Cổ nhơn thường khuyên nhau rằng: Trước làm xong bổn phận rồi
sau sẽ dùng quyền lợi.
Theo lẽ thường, lúc thành
nhơn, mỗi người đều có gia tư. Mặc đầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị em lúc
nào cũng phải gìn giữ cái tình cốt nhục của mình, nghĩa là luôn luôn hoài bảo
tình thương mến, giúp đỡ, việc lớn cũng như việc nhỏ. Mà muốn giữ vẹn sự thân
mật thì không nên cố chấp những tiếng to, tiếng nhỏ của người chung quanh.
Bổn phận của mình phải
sáng suốt phân định lẽ phải quấy ở giữa em chồng, chị dâøu, em rể, anh vợ. Có
lắm khi việc nhỏ mọn mà có thể làm sứt mẻ tình ruột thịt, anh em, chị em là cái
di hài của cha mẹ, bất hòa là phá hại cái di hài ấy. Anh em, chị em như tay
chơn, bất hòa là đoạn ly thủ túc.
Người nào xử Đạo Hiếu đễ
nghiêm trang trong gia đình thì người ấy có tinh thần hòa ái. Hiếu thuận là gốc
Đạo sử thế; người trọn thảo thuận thì có lòng trung quân, ái chủng.
Bổn phận cháu đối với Ông Bà : Ông Bà là đấng
sanh thành dưỡng dục mẹ cha, lại là đấng mà cha mẹ kính trọng, thương mến. Đạo
hiếu bắt buộc kẻ làm con phải kính trọng những người mà cha mẹ đã thâm giao.
Thử nghĩ : Người bàng quan còn phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột
thịt của cha mẹ mà chúng ta không tôn kính sao?
Ấy vậy, khi ông bà sanh
tiền, chúng ta phải thay mặt cha mẹ mà trông nom, giúp đỡ những việc mà chúng
ta có thể làm được và khi ông bà quá vãng thì phải thay thế cha mẹ mà phượng
thờ cúng tế.
Luân lý cổ truyền của người
Việt Nam dạy rằng: Ngày tế lễ, cả gia tộc hợp về nhà thờ, lo việc tế lễ hai
ngày: Tiên thườûng và Chánh giỗ. Những người họ hàng sum hiệp, vui vầy. Có khi
nhắc lại sự tích Tổ tiên, có lúc thăm hỏi việc hàn huyên gia sự. Giờ cúng tế,
người người có lòng thành kính. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ, họ cúi
đầu tỏ vẻ kính trọng dường như ông bà đang ngự trên cho sở tôn. Giờ tế lễ, hoàn
cảùnh yên lặng, tôn nghiêm, người trưởng tôïc hành lễ rồi con cháu cứ theo thứ
tự vái lạy trang nghiêm.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giữ
nguyên vẹn lễ thờ cúng Tổ tiên. Vả lại, Đạo hữu đã khai mở Đạo tâm nay đem Đạo
tâm ấy mà sùng bái Tổ tiên thì có lẽ phong tục cổ truyền sẽ được tăng phần
thuần mỹ thêm hơn.
Bổn phận đối vói Cậu, Cô, Chú, Bác : Cậu, cô, chú,
bác là anh em ruột thịt của cha mẹ, kẻ làm con chẳng những phải thân yêu mà còn
phải kính trọng như cha mẹ nữa. Nếu vô phước mà mồ côi, chính cậu, cô, chú,
bác, là người thay mặt mẹ cha mà dưỡng dục con cháu. Vậy kẻ con cháu không vì
lẽ gì mà không thân yêu quý mến.
Khi thành gia thất, tất
nhiên bên chồng cũng như bên vợ, ai ai cũng có cậu cô chú bác. Kẻ làm con cháu
cũng phải quý mến các Đấng ấy.
PHU THÊ CANG (Giềng mối vợ chồng)
chồng hòa, vợ thuận.
Trai lớn lên thì có vợ.
Gái lớn lên thì có chồng. Người ở đời ai ai cũng có đôi bạn, rồi sau mới lập
được gia đình. Cái định luật ấy, từ xưa đến nay, vẫn không thay đổi. Trong Đạo
vợ chồng có điều tốt nhất là hai người ấy được thuận hòa, ăn ở với nhau từ tóc
xanh, đến đầu bạc. Mà muốn được vậy thì mỗi người phải biết bổn phận của mình
và phải hành động trong phạm vi ấy.
Chồng là rường cột của gia
đình, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, để tạo hạnh phúc cho gia đình, nghĩa
là phải làm lụng cho có cơm, tiền để nuôi dưỡng gia đình no-ấm, kế nữa, sẽ nói
đến giáo hóa.
" Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài ": Dạy vợ lúc mới
về nhà chồng, dạy con lúc còn thơ ấu. Mà muốn dạy người, trước phải sửa mình
đoan trang, ngay chánh.
Nói tỉ : Người chồng biếng
nhác, không lo sanh kế, quanh năm lêu lỏng bạc bài. Chồng như thế mà bảo vợ nên
người sao được? Hoặc giả, cha dường ấy mà bảo con hiếu thuận sao được?
Người chồng, người cha,
không phải lo làm lụng nuôi dưỡng gia đình mà còn phải làm gương Đạo đức cho vợ
con nữa. Dục tế kỳ gia, tiên tu kỳ thân, là lẽ như vậy.
Nên biết rằng vợ là bạn
trăm năm của mình. Đàn bà là người yếu đuối, nương dựa nơi mình, gởi thân cho
mình, để cùng nhau lo việc gia thất. Hơn nữa, vợ chồng là người đầu ấp, tay gối
với nhau, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu chung hưởng. Lòng
có nghĩ như thế thì mới có dạ yêu đương, dùm học.
Người chồng có quyền
khuyên lơn, dứt bẩn người vợ, nhưng trước phải làm xong nghĩa vụ của mình, như
đã nói trên, rồi sau mới dùng đến quyền. Tuy nói rằng có quyền, nhưng người
chồng lúc nào, cũng lấy tinh thần hòa ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dứt
bẩn người vợ thì cũng chi trong vòng lễ nghi kính mến; chờ chẳng khá đang tay
đánh đập, như kẻ vòng lễ nghi kính mến; chớ chẳng khá đang tay đánh đập, như kẻ
võ phu.
Người vợ phải có tinh thần
thuận tùng, nghĩa là phải biết dung hòa với chồng, để tạo hạnh phúc gia đình.
Bát trong sóng còn động, huống chi vợ chồng ăn ở với nhau cả đời, vậy làm thế
nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng ý kiến. Giả tỉ như Có trường hợp ấy xảy ra
thì vợ chồng nên nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói vợ nghe, vợ nói chồng nghe, phân
trần điều hơn, lẽ thiệt. Tương y, tương ỷ để hòa thuận trong vòng lễ nghi Đạo
đức; điều đó là tốt nhứt; chẳûng nên bắt chước phường hổn ẩu chồng một lời đi,
vợ năm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất hòa; mà chồng vợ bất hòa thì gia
đình tan nát.
Phận gái trọng nhứt là
trinh tiết; bởi vậy người phụ nữ có thân phải giữ lấy thân; mỗi ngày phải làm
tăng giá trị của mình thêm cao lên mãi. Tục ngữ nói : "Đi ngang đám dưa
không nên sửa dép : Đi ngang cây lý không nên sửa mũ". Đại ý câu nầy
khuyên nguời ta phải hành vi, ăn nói, đi đứng trang hoàng nhứt là phải tránh
những cử chỉ nào làm cho người khác ngờ vực, cũng như đi ngang đám dưa thì
không nên sửa dép, hoặc đi ngang cây lý thì không nên sửa mũ, vì làm như thế,
người ta sẽ ngờ rằng mình bẻ trộm dưa, hay hái trộm lý.
Tề gia nội trợ là phận sự
của người phụ nữ; cho nên người vợ phải chăm nom việc nhà: Thiếu đủ phải biết,
còn hết phải hay, sắp đặt an bài mọi sự, ăn cần, ở kiệm phải trọng tiền của
chồng làm ra. Ăn nhịn qua ngày, ăn vay mắc nợ. Của chồng công vợ, chồng vợ
chung lo tạo hạnh phúc gia đình (1).
Tóm lại : Đạo vợ chồng cần
nhứt là thuận hòa, chồng chẳng nên ỷ quyền hiếp đáp vợ, vợ không nên cậy thế
hổn ẩu với chồng. Đồng vợ, đồng chồng tát biển đông cũng cạn.
Tân luật Đại Đạo nói : " Hôn nhơn là việc trọng trong đời người.
Phải chọn hôn trong người đồng đạo, trừ ra, khi nào người ngoài ưng thuận nhập
môn thì mới được kết làm giai ngẫu ".
Đó là có ý ngừa sự bất
đồng tâm lý về sau.
Tân luật lại cấm người đàn
ông không đặng cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ nửa đường, mới được chấp nối
thảng như vợ lớn không con nối hậu thì được phép cưới hầu thiếp; song chính
mình chánh thê đứng cưới mới đặng. Người Đạo cũng chẳng được để bỏ nhau, trừ ra
ngoại tình, hay thất hiếu với công cô.
- (1) NGƯỜI VỢ
HIỀN MINH
Dương Tử, một hôm đi đường
gặp một lọ vàng mừng rở đem về đưa cho vợ. Người vợ nói rằng : Thiếp trộm nghe:
Người chí sĩ không uống nước suối Đạo toàn (suối ăn trộm), người Liêm khiết
không ăn của xin. Chàng nay lượm của rơi ngoài đường, đem về cầu lợi, làm ô uế
phẩm hạnh thì nghĩ có nên chăng? Dương Tử thẹn lắm, liền đem lọ vàng bỏ ngoài
đồng, rồi đi tìm thầy học. Học được một năm, Dương Tử trở về nhà, người vợï quì
xuống trước mặt hỏi:
- Chàng có việc gì
mà trở về?
- Ta đi lâu ngày
nhớ nhà mà về.
- Người vợ cầm dao
đến chỗ Khung Cửi nói rằng :
- Lụa đang dệt
đây, phải làm từ lúc nuôi tầm ươmtơ, cho đến lúc mắc lên Khung Cửi. Nếu đành
dứt một sợi và dứt nữa thì sẽ dứt đến hàng tấc, hàng thước, hàng trượng, hàng
cả tấm. Nếu bây giờ, thiếp chặt đoạn đang dệt đây thì bao nhiêu công từ trước
đều mất cả. Chàng đi học để trở thành người giỏi, nếu đang học mà bỏ về thì
khác gì tấm lụa đang dệt đây mà chặt đi.
Dương Tử cảm động lắm, bèn
đi học luôn-bảy năm, đến tốt nghiệp mới về vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn, vừa nuôi
mẹ chồng vừa nuôi chồng ăn học.
Cổ học Tinh hoa quyền II.
b) NGŨ THƯỜNG (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín)
NHÂN :
Người ta ai cũng có bẩm
thọ của Đức CHÍ TÔN một điểm Linh quang, để làm tự tánh của mình. Cổ nhân cho
Tánh ấy là Mạng Trời, hay Thiên lý. Mạng Trời thì lặng lẽ, trầm mặc ở trong cõi
lòng thanh tịnh; nhưng khi phát động trúng tiết thì đó là "NHÂN". Bởi Thiên lý phát động là "NHÂN" cho nên đức "NHÂN" gồm đủ tất cả tánh
tốt, hạnh-lành như trung, hiếu, tiết nghĩa, cung, khoan, mẫn, huệ, cương, nghị,
mộc, nột. Người nào giữ được đức "NHÂN"
và thể hiện đức "Nhân" khi
xử sự, tiếp vật thì đó là làm xong đạo làm người (Nhân giả, nhơn dã). Đức KHỔNG
PHU TỬ nói rằng : "Quân tử thể nhân
túc dĩ trưởng nhân". Nghĩa là ngừơi Quân tử lấy đức "NHÂN" làm thể thì đủ làm trưởng
thành mình.
Người có "NHÂN" lúc nào cũng an vui,
ung dung, tự tại, bình tỉnh, trầm lặng, mà luôn luôn trong lòng sẵn có một cái
khiếu "Trực giác" mẫn huệ. Việc đến, họ biết với một cách mau chóng
toàn diện. Họ làm việc cũng thích hợp Đạo lý, họ thật thà, chất phác, nhưng
giàu tình cảm tốt lành. Đối với gia đình họ hiếu đễ, đối với xã hội, họ thuận
hòa, đối với vật, họ thương yêu giúp đỡ, làm cho vạn vật tất đắc kỳ sở. Việc
lợi danh ở đời, họ không lánh hẳn, nhưng, chẳng bỏ đạo đức để cầu lợi danh. Đạo
đức với lợi danh, nếu phải bỏ một thì họ vui lòng bỏ lợi danh, cầu Đạo đức.
Trương hoành Cừ là người
Trung Hoa sanh vào khoảng (1020-1076) cho rằng : Lòng Nhân ái phải có thứ bậc;
ông nói :
- Tôn ngươi già cả là sở
dĩ tỏ lòng kính trọng kẻ tôn trưởng, yêu thương trẻ dại là sở dĩ tỏ lòng bênh
vực kẻ yếu hèn, tôn người có đức độ hợp với lẽ Trời đất là bậc Thánh và kẻ có
đức độ hơn người là bậc Hiền. Còn những người tàn tật, quan quả, cô độc, đều là
anh em với ta cả. Như thế, tuy người ta có tôn ti khác nhau, nhưng ai ai cũng phải
đem lòng thương xót để cư xử với nhau, như anh em một nhà.
(Nho giáo TRẦN TRỌNG KIM)
Đại ý câu nầy nói lên được
Đức "Nhân" là tình thương yêu có thứ bực, nhưng phải trùm cả vạn vật,
vì Đức Nhân là phản ảnh đức Hóa sanh của THƯỢNG-ĐẾ.
Thực hành đạo "Nhân"
cũng cần có học hỏi, bởi vì có Trí sáng mới có thể phân biệt được thiện ác,
phải quấy. Tử Hạ nói rằng :
" Bác học nhi đốc chi;
Thiết vấn nhi cận tư.
Nhân tại kỳ trung".
Nghĩa là : Sự học-hỏi phải
rộng rãi; chí hướng phải dày dặn, sự hỏi han cần thiết; sự suy nghĩ phải có
dính dấp với mình. Trong những việc ấy hẳn có hàm súc đức "Nhân" vậy.
Thế đủ rõ rằng đạo "Nhân" cần có Trí để phân biệt
phải quấy, để thương yêu và giúp đỡ cho phải chỗ và đúng mức. Đó là mối đầu mà
Cổ nhân nương theo để thành lập cái thuyết "Tam
Đạt Đức" (Nhân Trí Dũng).
Đức KHỔNG PHU TỬ nói:
Nhân giả nhạo sơn;
Nhân giả tịnh.
Nghĩa là người "Nhân" thích núi; người "Nhân" tịnh tâm.
Nhờ an tịnh mà người "Nhân" giữ được Thiên lý lưu
hành trong tâm để chủ tể cho đời sống của phàm thân.
Đức "Nhân" chẳng phải hàm súc đủ mọi hạnh lành, đức tốt, mà
là cái phản ảnh Đức Háo sanh của Thượng Đế nữa. Về phương diện nầy "Nhân" khởi đầu tại lòng thương
xót (Trắc ẩn chi tâm), và người ta thường dùng chữ "Ái" kèm theo chữ "Nhân"
để cắt nghĩa sự thương yêu. Xem câu:
" Đệ tử nhập tắc hiếu
Xuất tắc đễ
Cẩn nhi tín
Phiếm ái chúng
Nhi thân Nhân".
Nghĩa là kẻ đệ tử vào thì
hiếu với cha mẹ, ra thì kính người trên trước, làm việc thì cẩn mật, rộng thương
người và năng lui tới với người Nhân đức.
Chữ "Nhân" người xưa cắt nghĩa rằng : "Nhân" gồm có một chữ "Nhơn"
là người, Một chữ "Nhị" là
hai. Đại ý Nhân là tình cảm ở giữa hai người.
Nói tỉ như tình thương
thiêng liêng ở giữa người mẹ và đứa con.
Hoặc giả tình thương ỡ
giữa hai người chồng và vợ. Người chồng hi sinh tất cả cái gì của mình cho vợ.
Trái lại, người vợ cũng hi sinh như vậy cho chồng.
Nên lưu ý rằng tình thương
ở giữa hai người phải nhắm vào sự "vị
tha", nghĩa là vì người mà thương. Trái lại, nếu thương người để cầu
lợi mình thì sự thương ấy không phải là "Nhân".
" Chim khôn biết kiếm đậu cây lành
Người thiện phải ngừa đức Háo sanh
Tôn trọng người như Trời với Phật
Thương yêu tất cả chúng sanh thành". (THÁNH NGÔN)
Phương pháp thực hành: Có người hỏi phương thức
làm Nhân. Đức KHỔNG PHU TỬ nói : "Kỷ
dục lập nhi lập nhơn; kỷ dục đạti đạt nhơn. Năng cận thủ tỷ khả vị Nhân chi
phương". Nghĩa là mình muốn lập thân thế nào thì cũng giúp người cùng
lập thân như mình : Mình muốn thông đạt đến đâu thì cũng giúp người cùng thông
đạt như mình. Ai hay làm những điều đó là làm "Nhân" vậy.
Thầy TỬ TRƯƠNG hỏi
"Nhân", Đức KHỔNG PHU TỬ nói: "Hãy
là năm điều nầy trong thiên hạ là "Nhân" rằng : Cung, Khoan, Tín,
Mẫn, Huệ. Cung thì không khinh lờn, Khoan thì được lòng người, Tính thì được
người tin cậy, Mẫn thì có công, Huệ ơn thì đủ khiến được người".
Nhan Hồi hỏi Nhân, Đức
KHỔNG PHU TỬ nói rằng : "Khắc kỷ
phục lễ vi Nhân". Sửa mình theo lễ là "Nhân" tức bỏ hết lòng tư dục để hành động theo Thiên lý.
Phàn Trì hỏi
"Nhân" Đức KHỔNG PHU TỬ nói rằng: "Ái
nhơn": Thương người.
Sách Luận Ngữ chép rằng
Đức KHỔNG PHU TỬ trả lời cho mỗi người một khác; ấy là Ngài tùy chỗ thiếu của
kẻ học để bổ khuyết.
Đức "Nhân" sẳn có ở nơi người tại sao lại có người không làm
được?
Đó là tại sự ghét thắng
đức "Nhân", rồi ghét chiếm
ngôi chủ tể phàm thân mà ra nông nổi. Giả tỉ khi cha con ghét nhau thì mất từ
hiếu, chồng vợ ghét nhau thì mất thuận hòa, anh em ghét nhau thì mất kính nhường,
người trong thiên hạ ghét nhau thì mạnh hiếp yếu.
Vả lại, lòng người không
bao giờ có hai tình cảm một lượt. Hễ có ghét thì không thương; hoặc có thương
thì không ghét. Ấy vậy nên chúng ta cứ mở rộng lòng thương thì tự nhiên lòng
ghét không xen vào được, cũng như có hòa bình thì không chiến tranh vậy.
Đức Khổng Phu Tử lấy đạo "Nhân" làm căn bản cho đạo
người, rồi tùy tình cảm mà ứng và cứ ung dung theo Thiên lý mà hành động, chớ
không cố chấp điều gì. Thế nên đứng vào cảnh ngộ nào cũng an vui; chớ không làm
mất tư cách người Quân tử.
NGHĨA :
Về tâm học "Nghĩa" là phương pháp giúp
cho kẻ học thành đức. Về tâm học "Nghĩa"
là phương pháp giúp cho kẻ học thành đức. Về Luân Lý học, "Nghĩa" là lẽ phải giúp cho kẻ học hoàn thành bổn phận
làm người, hoặc nói cách khác "Nghĩa"
cụ thể hóa lòng Nhân thành Đạo đức. Ở đây, hai chữ "Nhân" và "Nghĩa"
phải đi đôøi với nhau. Trái lại nếu có Nhân mà không có "Nghĩa" thì Đạo đức thiếu hình thức; còn như có "Nghĩa" mà không có Nhân thì
Đạo đức thiếu tinh thần.
Giả tỉ : Chúng ta có lòng
thương người lâm nạn, nhưng không ra công, hoặc ra của, để cứu giúp thì lòng thương
không thể hiện. Ngược lại, nếu ra công, ra của để tế độ mà chẳng có lòng thương
thì đó là một ý khác chớ không phải Nhân.
LỄ :
Lễ trước dùng để tế tự,
sau lan rộng đến nề nếp xử sự, tiếp vật mà Nhân quần Xã hội thừa nhận. Chữ
"Lễ" lại đồng thể với chữ Lý; cho nên nó phải tùy thời mà biến đổi,
càng ngày càng tốt hơn, chớ chẳng khá cố chấp mà phải sa vào cái vạ hủ lậu.
Về phương diện tế tự, Lễ
có mục phiêu thứ nhất là làm cho đàn tế được trang nghiêm; mucï phiêu thứ nhì
là đào tạo cho con người một tâm lý Kính và Thành. Có Kinh thì mới giữ được bản
tánh của mình, có Thành mới cảm ứng được với Trời. Đó là Lễ giúp người tồn
dưỡng Tâm tánh.
Theo sách Lễ Ký : Lòng người
ta lúc nào cũng có muốn sự ăn uống, sự trai gái và sợ cái nạn tử vong, bần khổ.
Nếu người ta không nghĩ lại thì Thiên lý sẽ bị tiêu diệt. "Lễ" giúp người ta giữ vẹn Thiên lý.
Nói lễ giữ "Lễ" thì khi đi, đừng, nằm,
ngồi lúc nào cũng chẳng khá dể duôi. Ở thường thì Cung, làm việc thì Kính, giao
thiệp thì hết lòng. Ba điều ấy, dầu ở chung với kẻ mọi-rợ, cũng chẳng khá quên.
Ra khỏi cửa thì Kính, như hầu khách quý; sai khiến kẻ dưới thì Kính như thừa
hành lịnh trên; nhứt cử, nhứt động, đều có "Lễ",
đó là người lịch sự. Hành vi, lời nói và tư-tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là
người có tiết.
Trên đường giao tế, "Lễ" phải có Nghi làm hình-thức.
Giả tỉ như chúng ta gặp người trưởng thượng, thì chúng ta đem lòng Kính, đó
thuộc về Lễ. Rồi chúng ta nghiêng mũ cúi chào, tỏ lòng kính ra ngoài, đó thuộc
về Nghi. Thế nên nói : Nghi tùy "Lễ"
mà chế. Hai chữ "Lễ Nghi"
thiếu một thì không thành qui tắc. Giả tỉ như Chúng ta có Kính trong lòng, mà
không nghiêng cái mũ cúi chào, thì lòng cung kính không chỗ nương, để phát
biểu. Trái lại, trong lòng không Kính mà bên ngoài làm ra vẻ cúi chào. Nghi
không lễ thì đó chỉ là hinh thức khô khan mà thôi.
Lễ nghi dùng để phân-định
ngôi thư ù: Tôn ti, thượng hạ. Giả tỉ trong đám hội đàm; người lớn cứ sỗ sàng
ăn nói, sỗ sàng hành động, kẻ nhỏ thì hổn ẩu không kính nể người lớn. Thế thì
làm sao mà hiệp nhau cho được, cho nên nói rằng : thất "Lễ" thì loạn.
Học "Lễ" không phải khó khăn, như có người lầm tưởng. Bởi vì "Lễ" thuận lông người mà dấy :
chớ không phải cưởng bách. Cổ nhơn thường khuyên nhau : Trước học Lễ rồi sau
mới học văn, tức là học Đạo lý rồi sau sẽ học các môn khác. Luật dùng để răn
người phạm tội. Lễ để ngăn tình cảm xấu, thế mà người ta sợ Luật, hơn sợ "Lễ"; đó là tại Luật đó hậu
thuẫn hình phạt.
Hành vi, lời nói và tư
tưởng mỗi mỗi đề thích Trung, ấy là người có tiết độ. Tiết độ là mực thước của
người, cũng như nhịp trường canh là mực thước của Âm nhạc. Lễ định nên tiết độ
ấy.
Nói rút lại : "Lễ" là mực thước để đo lường
tư tưởng, lời nói và hành vi trong khi xử kỷ, tiếp vật. Đức LÃO TỬ nói rằng :
Nếu thất Đạo thì nên theo Đức, nếu thất Đức thì nên theo Nhân, nếu thất Nhân
thì nên theo Nghĩa, nếu thất Nghĩa thì nên theo Lễ. Vậy chúng ta có thể nói
rằng kẻ học nên theo Lễ để trở về với Nghĩa, nên theo Nghĩa để trở về với Nhơn,
nên theo Nhơn để trở về với Đức và nên theo Đức để trở về với Đạo.
TRÍ :
Trí là năng lực hay biết.
Người ta nhờ Trí để biết phân biệt phải quấy, lành dử. Người Trí biết Đạo Đức
và lần hồi hoán cải việc dở thành hay, điều ác thành điều thiện và mỗi ngày mỗi
làm cho mình được tăng thêm phẩm hạnh.
Muốn thành người Trí,
chúng ta phải học hành. Theo Nho giáo, kẻ học phải làm năm việc : Học, vấn, tư,
biện, và hành.
Học : Lấy sự tìm kiếm
làm cho giỏi mọi việc gọi là Học.
Vấn : Lấy sự tìm kiếm giải thích cho rõ ngờ vực gọi là
Vấn.
Tư : Lấy sự tìm kiếm làm cho thông suốt mọi lý thuyết
gọi là Tư.
Biện : Lấy sự tìm kiếm làm cho tinh tường lẽ suy xét để
rồi giảng lại cho rõ gọi là Biện.
Hành : Lấy sự tìm kiếm hiểu biết làm ra sự kiện gọi là
Hành.
Học hành phải đi đôi thì
cái biết mới được cụ thể. Nói tỉ : Chúng ta biết thờ Trời là một việc rất hữu
ích : Nhưng biết thờ Trời chưa đủ, thành thử chúng ta phải tế lễ Đức CHÍ TÔN
hằng ngày, để tập cho mình có lòng thành kính. Lòng thành kính tức là Chơn tâm,
nó sẽ giúp chúng ta trừ khử Vọng tâm và cảm thông với Thiên lý. Thờ Trời, tế
Trời là một phương pháp làm sáng đức sáng của mình.
Thầy Tuân Tử nói : Chẳng
nghe không bằng có nghe, có nghe không bằng trông thấy, trông thấy không bằng
biết rõ, biết rõ không bằng làm được. Học để biết, biết để làm. Thế là cái đức
sáng của mình càng ngày càng sáng suốt thêm lên.
Sự học có nhiều lối : Học
với kinh nghiệm và học với Trí nghĩ. Ví dụ : Chúng ta chưa biết lửa có tánh
nóng. Nay vì có một duyên cớ gì, chúng ta chạm nhằm lửa mà phải phỏng tay. Thế
là chúng ta nhờ bài học kinh nghiệm, để biết lửa có tánh nóng.
Đời người là một cuộc học.
Nếu chúng ta rủi bị phiền não vì một việc gì, thì chúng ta chẳng khá trách
Trời, chẳng khá trách người, chẳng khá trách vật; mà trái lại, phải tự xét mình
tìm cho ra cái nguyên nhân nào làm cho chúng ta phải phiền não. Phải chăng :
Tại không biết, tại trễ nải, tại tức giận? Khi đã thấy nguyên nhân tạo ra phiền
não rồi, chúng ta nên tìm phương giải quyết, để cho cách xử sự lần sau được khá
hơn.
Trí người là một trường
hành động. Khoa học ngày nay, nhờ Trí mà phát minh biết bao nhiêu cơ khí kỳ
xảo. Chúng ta nên dùng Trí của mình để tìm biết đời sống của mình : Đại để như
nhìn ra Vũ Trụ bao la, biết bao nhiêu Thế giới vận chuyển không ngừng, lại nhìn
đến vạn vật yên lặng, trang nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận người ta ở đời :
Sống như vậy rồi chết ra sao? Và còn biết bao nhiêu những việc huyền bí trong
Vũ Trụ mà chúng ta chứa biết được. Vậy chúng ta nên ghi những vấn đề ấy, để rồi
suy nghĩ khám phá sự liên lạc của người với Trời, người với người và người với
vật. Một khi chúng ta khám phá những lẽ bí mật của Tạo vật rồi, ắt chúng ta sẽ
giải quyết được đời sống của chúng ta với một cách ứng đáng. Theo lý đương
nhiên, đời sống chẳng phải tìm nơi sự lý nhỏ mọn trong vòng vật dục, mà phải vượt
ra ngoài, để rồi sống với Đạo, sống với Thượng Đế và sống với Chúng Sanh.
Mục đích của người Trí là
biết Đạo, thế nên kẻ học phải chuyên tâm trì chí. Cách học phải mở cho rộng,
hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân biệt cho rõ và hết sức làm theo để thành toàn
cái biết của mình. Mỗi ngày phải xét mình và bền lòng tự xét tự tỉnh mãi cho
đến một ngày kia, chúng ta sẽ có tâm trọn lành.
Trí đã phát khởi, thấu
hiểu Chơn lý Thiện ác và biết giới hạn của tình dục rồi. Lúc bấy giờ, chúng ta
ung dung thông cảm với Thiên lý mà sống với một thái độ thuận hòa, bình tỉnh
theo Đạo tự nhiên.
TÍN :
Tín là tin. Thủ tín là
điều quý trọng của người, nhứt là kẻ tu hành. Lời nói của mình thốt ra phải
trọng nó: Nói ra rồi phải nhìn nhận, nếu nói không chắc một lần, về sau mặc dầu
chúng ta nói thiệt, người ta cũng không tin. "Nhơn vô tín bất lập":
Người không đặng tín nhiệm thì chẳng làm nên được.
Đối với mình lại càng phải
thủ tín hơn nữa. Chúng tôi xin nhắc câu sách Đại Học nói rằng: " Sở vị
thành kỳ ý giả vô tự khi dã". Nghĩa là: Cái chổ gọi là sửa ý ra thành
thật, cốt yếu ở chỗ mình chẳng tự dối. Đại để nói rằng nếu người ta tự dối mình
thì mình không làm nên được.
Ví dụ : Chúng ta hứa với
mình "Học cho giỏi" thế mà rồi ít lâu lại quên mất, không làm được
như lời hứa. Đó là tại sao? Tại mình tự dối mình. Mà kẻ tự dối mình tức là dối
Lương tâm; mà dối Lương tâm là dối Trời. Thử hỏi : Trời có nên dối chăng?
Những kẻ bội ước, bất
trung, nói rồi chối, hoặc điên đảo xảo ngôn, là kẻ xúc phạm đến thần minh. Kẻ
ấy thế nào cũng phải chịu tội. Mất lòng tín nhiệm của người lại mất lòng tự tín
của mình, kẻ ấy thành ra một nhân vật khả ố. Nó hảm mình vào nơi hốn nạn. Kẻ
học đạo phải tự mình bó buộc mình; nói thiệt và thủ tín, vì khoản này rất khó
dung chế.
Tóm lại Ngũ thường là năm
mối hằng tâm để cho người ta noi theo mà hành động, hầu trở nên người có Đạo
hạnh. Ngũ Thường để sửa hành động của người cũng như thước qui để làm hình
tròn, thước củ để làm hình vuông. Muốn làm hình tròn, hình vuông mà không dùng
thước qui thước củ, để làm rập thì không thể được, cũng như muốn làm người Đức
hạnh mà chẳng dùng Ngũ thường thì biết theo đâu mà làm. Ngũ Thường tuy có năm
Đức, nhưng Nhân đứng đầu và gồm cả Đạo làm người. Lễ là mực thước để làm Đạo
Nhân, thực hiện trọn Đạo Nhân, tức là thể hiện Thiên lý thành Nhơn luân và cũng
là làm tròn bổn phận người.
PHẬN GÁI
Giữ câu Tam Tùng và Tứ Đức
a) TAM TÙNG :
Mặc dầu trai hay gái, đều
có bổn phận làm người; đại để như đã nói trong những trương trước, nhưng riêng
về Nữ phái, cỗ nhơn đã vạch sẵn con đường : "Tam Tùng" mà kẻ hậu tấn
noi theo để làm nên người con thảo, vợ hiền, mẹ lành.
Có người nói : Thế kỹ 20,
văn minh vật chất đã phổ truyền. Phụ nữ từ Tây sang Đông, từ thành thị đến thôn
quê, người người đều chen lấn trên đường "Canh tân" nếu đem cái
thuyết cũ kỹ "Tam Tùng" mà hô hào, thế có phải là đi ngược chiều Tấn hóa
chăng? Không. Bởi vì Luân lý cổ truyền của người Việt Nam vốn ở trong Nho giáo;
mà vì Thánh sư của Nho giáo là Đức KHỔÂNG PHU TỬ có nói rằng: "Luân lý Pháp luật phải tùy thời mà sửa
đổi cho thích-nghi với trình độ Tấn hóa của Nhơn sanh". Câu sách Trung
Dung sau đây đủ chứng minh điều ấy rằng: "Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn,
hiến chương Văn Võ, thượng luật thiên thời, hạ tập thu thổ". Nghĩa là Đức
Trọng Ni (KHỔNG PHU TỬ) thuật lại Đạo Vua Nhiêu, Vua Thuấn, bắt chước Vua Văn,
Vua Võ; trên theo thời Trời mà quyền biến; dưới tùng thủy thổ mà an vui. Vậy
chúng ta nên lược lại những qui luật Cổ truyền, như cái thuyết "Tam
tùng" chẳng hạn, rồi cham chước sửa đổi cho vừa lằn Tấn hóa; nghĩa là
chúng ta giữ những cái "Hay"
bỏ những cái "Dở" để đưa
đoàn em đi đến con đường "Mỹ tục
Thuần phong". Nghĩ thư thế, nên chúng tôi yên trí soạn lại như sau :
1.- Tại Gia Tùng Phụ : Bổn phận làm con phải thảo với cha mẹ. Đạo hiếu
không phân biệt trai hay gái, đại khái như đã nói trong chương "Phụ Tử Cang". Riêng về phần
nữ lưu, chữ "Tại gia tùng phụ" có nghĩa đặc biệt về việc lập gia
thất.
Vả, đường đời muôn nẻo,
mặc dù người con có học thức đến đâu cũng chưa đủ kinh-nghiệm thế tình, chưa
từng trải việc đời, thành thử, những việc quan trọng, con nên tuân lời cha mẹ
là hơn. Phải biết rằng trong đời không ai thương lo cho con bằng cha mẹ. Từ
xưa, chưa thấy cha mẹ nào có ý làm hại con. Cha mẹ chúng ta cũng như muôn vàn
người khác, hằng nuôi con, hằng dạy con, và hằng trông mong con trở nên người
cao quý, hạnh phúc.
Vậy người con chẳng vì lẽ
gì mà không tuân lời cha mẹ. Thảng như có điều chẳng vừa ý thì nên ôn tồn, nhỏ
nhẹ, bày tỏ chỗ thiệt hơn, chẳng khá cãi cọ mà sanh ngỗ nghịch.
Gần đây, mới xuất hiện
phong trào "Tự do kết hôn" nghĩa là trai gái tự do tác thành, chớ
không cần hỏi đến ý kiến mẹ cha. Việc nầy có thể chấp thuận về nguyên tắc; bởi
vì chồng vợ phải chung sống trọn đời : Từ tóc xanh đến đầu bạc; cho nên hai người
cần có tâm đầu, ý hợp thì mới vui vầy. Trái lại, nếu kẻ nói trâu trắng, người
nói trâu đen thì khó dung hòa để tạo ra gia đình hạnh phúc.
"Chấp thuận nguyên tắc" chúng tôi muốn
nói phận gái được phép chọn bạn trước, nhưng khi quyết định thì phải chờ lịnh
mẹ cha. bởi cha mẹ là người niên cao kỷ trưởng từng trải việc đời, dầu sao,
người cũng am hiểu thế tình hơn con. Trẻ lòng, non dạ, con chưa phân biệt lẽ
thiệt hơn. Biết đâu, mình quyết tìm hạnh phúc, nhưng chung qui lại sa vào cạm
bẩy tai hại.
Tạo lập gia đình là việc
lớn của đời người. Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, nếu bước đầu tiên rủi
lỡ lầm rồi phải khổ trọn đời. Phận gái mười hai bến nước, trong đục phải cam.
Nhưng nếu rủi rồi sao ?
Người làm cha mẹ, không
nên ỷ quyền mà ép con. Ngạn ngữ nói : "Ép
dầu, ép mỡ, ai nở ép duyên". Có người gả con mà không dám hỏi ý con,
về sau, thành ra vô tình mà hại cuộc đời con. Đương môn, đối hộ là một điều
tốt, nhưng nó đứng vào hàng thứ nhì, duy có điều : Chọn dâu, chọn rễ kia, mới
thật là trọng yếu.
Quyền cha mẹ, nghĩa làm
con, đôi bên phải dung hòa với nhau, để đào tạo hạnh phúc cho con là hơn hết.
Nếu rủi cha mẹ qua đời thì phận gái cũng nên nghe lời người nuôi dưỡng như :
Cô, Cậu, Chú, Bác v.v . .
2. - Xuất Giá Tùng Phu :
Khi có chồng rồi, phận gái phải ở với nhà chồng, cả một cuộc đời mới đó phải
thi hành; nào là bổn phận đối với cha mẹ bên chồng, anh em bên chồng, nào là xử
sự với kẻ ăn ở trong gia đình và người làng giềng, mỗi mỗi phải cư xử cho trọn
Đạo; nhứt là đối với chồng phải giữ gìn trinh tiết; bởi vì người đàn bà mất
trinh thì mất giá trị. (Xin xem bài Phu-thê-Cang)
3. - Phu Tử Tùng Tử : Rủi
chồng chết thì phải nương theo con; khi con còn thơ ấu thì lo bề dưỡng dục, đến
lúc con nên người, con thành nhơn thì một lòng sống với con cho tròn phận mẹ
hiền.
Sách Nho chép truyện bà
Thân Sanh của Mạnh Tử chọn xóm ở, để cho con ăn học; có lần Mạnh Tử biếng nhác,
Bà chặt khung cữi, làm cho con biết sợ mà lo học. Nhờ mẹ hiền mà Thầy Mạnh Tử
trở nên bậc Á THÁNH. Đoàn hậu tấn nên noi gương làm mẹ đó mà lập thân mình.
b) TỨ ĐỨC (Công, Ngôn, Dung, Hạnh).
Công.- Ngoài việc văn chương, cung kiếm như các bậc anh
thư, phận gái còn có Nữ công thường thức, cần phải am tường thuần thục, hầu làm
trọn phần nội trợ của mình. Đại khái như : May vá, nấu nướng, sắp đặt việc nhà,
cần kiệm, nuôi chồng, dạy con vân vân . . .
Nội trợ là phận gái, phẩm
giá làm người tùy đó một phần lớn. (Xem lại bài "Phu Thê Cang" và
chương Lập công trong quyển "Trên Đường Tấn Hóa").
Ngôn.- Ngôn là lời nói, người bàng quan do lời nói của
mình mà đoán ra tâm lý. Tại sao? Bởi có tư tưởng trong lòng mới tỏ ra ngoài lời
nói, thành thử, lời nói năng phải cẩn thận. Không nói lả lơi, không nói hoa
nguyệt, không nói xằng, không nói bậy; không ngồi lê, đôi mách, không nói dối.
Muốn được vậy thì phải tập cho có thói quen rằng: "Suy nghĩ trước rồi sau
sẽ nói" tức là Ngôn đoái Hạnh, Hạnh đoái Ngôn. (Xem lại bài cấm "Vọng
Ngữ" và chương "Lập Ngôn" trong quyển "Trên Đường Tấn
Hoá").
Dung.- Dung là dung nhan, diện mạo, cần phải sạch sẽ vẻ
vang, đi đứng trang hoàng, hình dung yểu điệu; nhưng lúc nào cũng phải giữ tự
nhiên, nghĩa là không phải sửa cách đi đứng, vì có ý sửa là mất tự nhiên, mà
mất tự nhiên thì không đẹp.
Hạnh.- Hạnh là nết, mà nết
lại do Tâm mà ra, cho nên muốn có Hạnh trước phải giồi mài bổn Tâm.
Kể sơ lược như thành thật,
hiền lành, tao nhã. Thành thật thì được người tín nhiệm, tin dùng; hiền lành thì
ngăn được phóng tâm; hòa nhã thì tránh được tật kiêu căng, hổn láo.
Rút lại người Phụ nữ giữ
trọn Tam Tùng Tứ Đức thì đủ làm nên người con thảo, vợ hiền, mẹ lành.
Tóm lại : Làm người, mặc
đầu Phái Nam hay Phái Nữ, đều phải lấy Đạo Tu thân làm căn bản Nhơn Đạo, nghĩa
là trước nên trau dồi Tâm Thần của mình trở nên Chơn Thiện Mỹ, rồi sau mới biết
nghĩa phương để sửa việc nhà, làm việc nước và góp công vào việc Hòa bình Thiên
hạ (Tu thân, Tề gia, Trị Quốc, Bình Thiên hạ). Cổ nhơn rất trọng Đạo Tu thân; họ
thường khuyên nhau : Từ vì Thiên Tử đến kẻ Thứ dân, hạng người nào cũng phải Tu
thân trước rồi sau sẽ làm những nghĩa vụ khác. Trái lại, nếu Thân chẳng Tu mà
muốn Tề gia, Trị Quốc, Bình Thiên hạ thì e rằng làm không nên; bởi vì gốc đã
loạn mà muốn cho ngọn trị thì không bao giờ có được.
Trước kia, chúng tôi đã có
nghị luận rằng : Phái Nam nên thực hiện Tam Cang, Ngũ thường; Phái Nữ nên giữ
câu Tam Tùng, Tứ Đức. Sau đây xin bàn thêm ba phép nữa là :
Minh Minh Đức
Thân Dân
Chỉ Ư Chí Thiện.
Âu cũng giúp thêm một phần
nào trong sự học tập.
MINH MINH ĐỨC : Tánh Trời phú cho người
cũng gọi là Thiên lý ở trong Tâm. Trong Thiên lý vốn có một Đức sáng tự nhiên
gọi là Minh Đức, Minh Minh Đức nghĩa là khai sáng cái đức sáng ấy. Về phương
pháp học tập sách Đại Học bảo rằng:
" Tri chỉ nhi hậu hữu định.
Định nhi hậu năng tịnh.
Tịnh nhị lâu năng an.
An nhi hậu năng lự.
Lự nhi hậu năng đắc."
Nghĩa là khi
chúng ta đã nhứt quyết con đường mà mình phải theo và mục đích mà mình phải đến
rồi sau Tàm định. (ví dụ : Bỏ nhơn dục theo Thiên lý). Có định rồi sau Tâm sẽ
Tịnh (yên lặng). Có Tịnh rồi sau Tâøm sẽ an (An có vẻ tự tại hơn tịnh một cấp).
Có An rồi sau sẽ Lự (tức tưởng gẫm tìm hiểu Chơn lý. Có Lự rồi sau sẽ đắc (tức
sáng suốt rõ ràng).
Nói như thế nghĩa là trước
chúng ta phải chuẩn bị cho Tâm được Thanh tịnh rồi bắt đầu tưởng gẫm để tìm Chơn
lý.
Nói về sự tưởng gẫm tìm Chơn
lý, thì phải tuần tự mà thực hành theo thứtự, bởi vì vật hữu bổn mạt, sự hữu
thủy chung. Tri sở tiên hậu tắc cận đạo hỉ. Nếu biết được chỗ trước sau, làm
cho cái biết của mình có mạch lạc hệ thống, ấy là biết Đạo vậy, tức cũng như
cái thuyết cách vật trí tri của VƯƠNG DƯƠNG MINH đã giảng giải.
Hoặc nói rõ ra là chúng ta
cứ hồi quang phản chiếu về nội giới và dịch hoá những tư tưỡng lãng mạn dục tình
phức tạp, dịch hoá và dịch hoá mãi cho đến trong Tâm chỉ có một đức sáng ở
trong cõi lòng chưa phát động; thế là khai sáng đức sáng.
Thân dân : Thiên địa chi
đại đức viết sanh. Tánh bản nhiên của chúng ta là một điểm Tánh Trời ban cho.
Vậy chúng ta phải thể hiện cái Đại đức của Trời Đất là sự sanh-hoá mà thôi; chớ
chẳng hề sát hại vật nào. Nghĩa là chúng ta nên tương thân, tương ái, tương trợ
với người và vật, tức là thực thi lòng Nhân ái với mọi người và vật để giúp vào
cái Đại đức của Trời là Sanh hoá.
Thân dân nghĩa là gần gũi
thương yêu người và vật để thể hiện lòng nhân ái.
Minh Minh Đức tức là khai
hoá Trí. Thân dân tức là thực hành đức Nhân, Nhân Trí đắp đổi mà thành tựu lẫn
nhau. Minh Minh Đức là học. Thân dân là hành. Tri hành hiệp nhứt sẽ hoàn thành
nghĩa vụ làm người.
Chỉ ư chí thiện : Minh
Minh Đức và Thân dân lấy Chí Thiện làm phương tiện và cứu cánh. Nghĩa là tu
luyện ý chí vững vàng để cho mình có đủ nghị lực mà học tập và sự học tập phải
nhắm vào Chí Thiện mà tiến bước. Chí Thiện là gì? Là cái lẻ tột lành. Trạng
thái nầy, Tâm không còn điên đảo mà chí yên lặng để cầu sự Tri và hành đức Nhân
ái được trọn vẹn.
Tóm lại, Minh Minh Đức là
luyện trí, Thân dân là thực hành lòng Nhân, Chỉ ư Chí thiện là đào luyện ý chí
(tức Dũng) để có đủ can đảm mà làm Nhân. "Trí Nhân Dũng" là ba cái
trạng thái của Tâm linh phát hiện mà học giả luôn luôn phải học tập cho đến Tâm
đắc.
Học tập cho đến Nhơn dục
tận tịnh, Thiên lý lưu hành rồi cứ ung dung theo Thiên lý mà hành động, chớ
không cố chấp điều gì. Đức KHỔNG PHU TỬ bảo rằng : "Quân tử chi ư Thiên hạ
đã, vô thích dã, vô mịch dã, nghĩa chi giữ tỉ" : Bậc Quân tử làm việc cho
đời chẳng có điều gì cố ý làm cũng chẳng có việc gì cố ý bỏ, hể hợp nghĩa thì
làm.
Đó là điều đáng ghi nhớ.
Tóm lại Đức CHÍ TÔN là Thầy
chúng ta, là Đại Từ Phụ của chúng ta : Đức Ngài sanh hóa chúng ta, ban phú cho
chúng ta một Điểm tánh, để làm tự Tánh của mình, như câu Thánh Ngôn nói rằng :
"Khi tạo lập Càn Khôn Thế Giái rồi Thầy phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật
là Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm gọi là Chúng sanh".
Chúng ta là một phần tử
trong số vạn vật, cho nên chúng ta cũng có bẩm thọ của Đức Thái Cực Thánh Hoàng
một Điểm tánh, để làm Tánh của mình. Nho Giáo gọi Tánh là Mạng Trời và tuân
theo Mạng Trời mà hành động thì gọi là Đạo (Thiên mạng chi vị Tánh, suất Tánh
chi vị Đạo (Trung Dung).
Vậy những nghĩa vụ làm người,
Nhơn Đạo, tức chúng tôi muốn nói những bài học Luân lý đã giảng diễn, mặc dầu,
hình thức có lệch lạc, mặc dầu cách lập luận không mấy châu đáo, nhưng tinh thần
của những bài học này nằm gọn trong câu "Căn cứ theo Mạng Trời để thực
hiện đạo người", để cầu được một phẩm hạnh làm người Đạo đức thuần lương
và chuẩn bị vào cửu Thiên đạo.
CHƯƠNG THỨ HAI
THƯỢNG THỪA
Thượng thừa là lớp học
hành dành riêng cho người có đại chí quyết tâm tu luyện đến mức cao siêu rộng rãi,
để độ mình và độ người. Tân Luật Đại Đạo có câu : "Chức Sắc truyền giáo từ
Phẩm Giáo hữu phải chọn trong hàng Thượng Thừa".
Đức CHÍ TÔN cũng có dạy
rằng :
" Ta vì lòng Đại Từ
Đại Bi, lấy Đức Hóa sanh dựng nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tôn chỉ là cứu vớt
kẻ hữu phần vào Địa vị cao thượng tránh khỏi số mạng Luân hồi ".
Vậy kẻ tu Thượng thừa là
người xuất thế, thể hiện một đời sống siêu việt; Vượt khỏi thế tục thường tình,
vượt khỏi những thói quen " Túy sanh mộng tử ", chứng nhận một nếp
sống sâu kín tâm linh, làm gương lành cho người đời soi sáng và, chung qui, cần
sự giải thoát kiếp sanh tử.
Về Giáo lý, Đức CHÍ TÔN
không mở riêng, mà lại qui nguyên Tam giáo, hiệp nhứt Ngũ chi thành một khoa Nhơn
sanh triết lý học đại đồng, cung ứng cho tất cả từng lớp Nhơn sanh. Ai cũng có
thể theo học được. Đại để như nhà Khoa học chỉnh lại Đức tin Thượng Đế, còn các
nhà tu hành thì gạt bỏ những điều mê tín dị đoan. Đó là Đức CHÍ TÔN có ý nhắc
cho Nhơn loại nhớ rằng : Tất cả loài người, tuy khác nhau về ngôn ngữ, sắc tộc,
màu da, nhưng tựu trung đều là con cái của Đấng Tạo hóa. Tất cả Tôn Giáo, tuy
bất đồng về lễ nghi hình thức, nhưng tựu trung Đạo nào cũng sùng bái Đấng Cao
Cả trong Càn Khôn Vũ Trụ và Tôn giáo nào cũng dạy người ta làm lành lánh dữ.
Bài Thánh Ngôn sau đây sẽ cắt nghĩa sự qui nguyên phục nhứt nói trên.
THÁNH NGÔN : "Vốn từ
trước Thầy lập Ngũ Chi Đại Đạo là tùy phong hóa của Nhơn Sanh mà gầy ra Chánh
giáo là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, Nhơn loại chỉ hành đạo
nơi tư phương mình mà thôi. Còn nay, Nhơn loại đã hiệp đồng, Càn khôn dĩ tận
thức thì lại bị nhiều Đạo mà Nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên nay Thầy nhứt định
qui nguyên phục nhứt ".
Thật vậy, ngày nào người
ta nhìn nhau là con một Cha, bạn học một Thầy thì ngày ấy không còn cái vạ kỳ
thị Chủng tộc, kỳ thị Tôn giáo nữa.
Cứu cánh của Thượng thừa
là tìm gặp lại Bổn tánh Trời phú cho người để làm chủ tể cho sự hành động của mình,
vì Bổn tánh ấy là mạng Trời là Thiên lý hay Đạo mà người phải thể hiện nơi thế
gian gọi là Nhơn Đạo (Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo) : Mạng
trờøi là Tánh, tuân theo Tánh ấy là Đạo.
Muốn giác ngộ Bổn tánh
phải làm sao?
Đây là một vấn đề mà tập
sách nầy sẽ giải đáp. Để trình bày có thứ tự, chúng tôi tạm chia làm hai thiên
là:
1. - Minh tâm kiến tánh.
2. - Độ tha.
THIÊN THỨ NHỨT
MINH TÂM KIẾN TÁNH
Nguyên điểm tánh Trời phú
cho người, hằng ngự trị trong thâm tâm và lúc bấy giờ tánh là bản thể của Tâm,
thành thử, Tánh và Tâm tuy có hai danh từ, song sự tách động vẫn một. Kẻ hành
giả nên ghi nhớ điểm nầy, hầu sau khỏi phải nhận lầm. Bổn tánh thì hư không
linh chiếu, nhưng khi người ta nhập thế cuộc, Nhục thân cảm nhiễm mùi trần,
sanh lòng ham muốn, kích động đến Tâm làm cho Tánh biến sang nhiều trạng thái
khác.
Sách Nhạc Ký chép rằng :
" Nhơn sanh nhi tịnh Thiên chi Tánh; cảm ư vật
nhi động, tánh chi dục dã. Vật chí tri tri nhiên hậu hiếu ố hình yên, hiếu ố vô
tiết ư nội, tri dụ ư ngoại bất năng phản cung. Thiên lý diệt hỉ, Phù vật chi
cảm nhơn vô cùng, nhi nhơn chi hiếu ố vô tiết tắc thị vật chí nhi nhơn hóa vật
dã, nhơn hóa vật giả dã, diệt Thiên lý nhi cùng Nhơn dục giả dã ".


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét