Thánh Ngôn : " Về việc ban thưởng chức sắc, không phải có đủ 5 năm thâm niên sắp
lên là đủ điều kiện cầu thăng và được thăng, mà cần phải có những điều kiện cần
yếu khác nữa là :
Thứ
nhứt : Phương diện Hạnh Đức.
Thứ
nhì : Trình độ học thức.
Thứ ba :
Tinh thần phục vụ.
Thứ tư :
Khả năng giáo hóa nhơn sanh.
Là vì, hễ đến bực Giáo Hữu là thay mặt Chí Tôn
phổ thông chơn đạo, thành thử, chẳng
phải người thường tình đặng, mà
phải đáng mặc phi thường mới xứng. Kỳ nầy Lão châm chế, chớ những kỳ cầu thăng
sau, chức sắc mỗi cấp bực đủ 5 năm thâm niên, hay hơn nữa, chỉ đem vào sổ cầu thăng với tỷ lệ bốn phần
năm mà thôi.
Hội Thánh Cửu Trùng Đài phải cân phân phận sự xứng
đáng của Chức Sắc do theo điều kiện của Lão vừa chỉ và sau khi chọn lọc kỹ lưỡng
số tỷ lệ qui định, giao qua cho Hiệp Thiên Đài kiểm soát lại rồi mới dâng lên
cho Lão. Hiền Hữu Thượng Sanh và chư vị Thời Quân nên lưu tâm nghe. "
Sự cầu thăng của Nữ Phái cũng do theo nguyên tắc đó,
và Thánh Giáo nầy có hiệu lực cho đến ngày Cửu Trùng Đài thực hiện luật công cử
của Đạo ".
Tóm lại Cửu Trùng Đài gồm
cả Chức Sắc Nam và Nữ phái, có phận sự chung là ngoài sự tự tu, tự giác, còn
phải truyền bá chơn Đạo, phổ hóa chúng sanh và bảo tồn luật pháp chơn truyền,
hầu cho Giáo Lý khỏi bị qui phàm.
Đức Chí Tôn giáng cơ :
" Để biểu dương hình
thức Đại Đạo, nêu gương lành cho người đời soi sáng, Đức Ngài chọn :
Nhứt Phật tức Giáo
Tông
Tam Tiên tức
Chưởng Pháp và Đầu Sư
Tam Thập Lục Thánh
tức 36 vị Phối Sư
Thất Thập Nhị Hiền
tức 72 vị Giáo Sư
Tam Thiên Đồ Đệ
tức 3000 Giáo Hữu.
Theo Đạo học, hễ muốn độ
người, trước phải độ mình, như nhà Phật thường nói : " Tiên tự giác nhi hậu giác tha ". Đây là một điểm khác
nhau giữa nhà đạo đức và văn sĩ. Nhà đạo đức chẳng những phải học Đạo lý mà
phải thi hành thế nào cho Đạo lý biến thành Tâm đức của mình, để rồi áp dụng
vào đời sống thực tế. Người bàng quan xem vào cử chỉ của người Đạo đức mà bắt
chước. Trái lại, người văn sĩ chỉ học cho biết văn chương và nghĩa lý mà thôi.
Ấy vậy, chức sắc Cửu Trùng
Đài phải học hành, tu luyện thế nào, hầu đặng mình có đủ đức tài, nêu gương
lành cho đời soi sáng. Đó là một lẽ, còn như thể theo danh từ mà luận, Chức Sắc
Hội Thánh tức là một vị Thánh Nhơn ở trong nhiều vị Thánh Nhơn khác. Theo hai
lẽ ấy mà suy rộng ra : Một vị chức sắc, nếu chưa phải hoàn toàn là vị Thánh
Nhơn, thì ít ra cũng phải có đủ tài đức dìu dắt nhơn sanh trên đường Đạo đức.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ sau nầy : Hoặc thành, hoặc bại đều tùy cử chỉ và hành vi
của chức sắc Cửu Trùng Đài mà ra cả; vì Đài nầy là hình thề của Đại Đạo, ở đây,
người có trách nhiệm nên nghĩ kỹ, đễ rồi tự sửa mình trở nên xứng đáng nêu
gương lành cho đời soi sáng.
CHƯƠNG THỨ TƯ
LỄ NGHI VÀ LUẬT ĐẠO
Cũng như các Tôn giáo
khác, Đại Đạo có lễ nghi phượng thờ, tế tự và qui điều, giới luật. Một bên soi
sáng lòng tín ngưỡng, một bên đôn đốc, kềm giữ sự tu hành theo Chơn pháp. Chi
tiết giảng giải như sau:
1. LỄ NGHI
Lễ nghi ban đầu dùng để
phượng thờ, tế tự làm cho đàn tế được tôn nghiêm và tạo nên một bầu không khí
" Kính thành " để cảm hóa lòng người khuynh hướng về đạo đức. Về sau,
lễ nghi biến thành phép tắc xử kỷ, tiếp vật, lan rộng trong nhơn quần, xã hội,
mà người đời đã thừa nhận.
Ở đây, chúng tôi chỉ nói
Lễ nghi phượng thờ, tế tự mà thôi. Chúng tôi căn cứ theo Lễ nghi trong Bát Quái
Đài, tại Tòa Thánh Trung ương mà bàn luận; bởi vì, ở đây gồm đủ cả chi tiết.
a ) THỜ THƯỢNG ĐẾ
Chính giữa Bát Quái Đài,
trên chỗ cao nhất, có một quả Càn Khôn hình tròn như Trái đất. Trên có vẽ đủ ba
ngàn bảy mươi hai ngôi sao và Thiên Nhãn để thờ. Trong quả Càn Khôn thường đốt
một ngọn đèn sáng, mạng danh là Thái Cực đặng. Đó là tượng trưng thờ Đức Thượng
Đế ngự trên ngôi Thái Cực, mà điều khiển mối Đạo tự nhiên.
Khi tế lễ, đốt hai ngọn
đèn hai bên : Tượng trưng Âm Dương ( Thái Cực sanh Âm Dương ) và đốt năm cây
nhang, cấm trong lư hương để giữa Thiên bàn tượng trưng Ngũ Hành ( Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ ).
Lễ nghi nầy đủ cắt nghĩa
cho chúng ta hiểu rằng đạo tự nhiên vốn có Thái Cực sanh Âm Dương, Ngũ Hành và
Âm Dương . Ngũ hành thuận hành nghịch chuyển mà định vị Trời Đất, hóa sanh vạn
vật; mà Thái Cực Thánh Hoàng là chủ tể quyền năng vô đối ấy. Kẻ học, nếu biết
quan sát thì có thể học được dịch lý của Võ trụ chia ra làm hai trạng thái :
TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO
HẬU THIÊN ĐẠI ĐẠO
Tiên Thiên Đại Đạo là Đạo
có trước Trời, vua Phục Hy theo đómà phát họa Hà Đồ Tiên Thiên Bát Quái. Hậu
Thiên Đại Đạo là Đạo có sau Trời. Vua Võ nhà Hạ theo đó mà phát họa Lạc Thơ Hậu
Thiên Bát Quái. Tiên Thiên Bát Quái vẽ hai yếu tố Âm Dương. Hậu Thiên Bát Quái
định số Ngũ Hành, hai trạng thái nầy làm biểu lý nhau, tác thành cơ tạo lập Càn
Khôn, hóa sanh Vạn Vật ( Xin xem bài Võ Trụ Quan rõ hơn )
Thật Đức Chí Tôn không nói
một lời mà dạy được dịch lý của Võ Trụ, Đức Lão Tử gọi đó là " Bất Ngôn Chi Giáo ".
b ) THỜ TAM GIÁO VÀ NGŨ CHI
Tam Giáo :
Đức Thích Ca ở
giữa
Tả có Đức Khổng
Phu Tử
Hữu có Đức Lão Tử
Tam Trấn Oan Nghiêm :
Đức Lý Thái Bạch ở
giữa
Tả có Đức Quan
Thánh Đế Quân
Hữu có Đức Quan
Thế Âm Bồ Tát
Tam Trấn đại diện ba vị
Giáo Chủ trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ngũ Chi :
Phật Đạo
Tiên Đạo
Thánh Đạo
Thần Đạo
Nhơn Đạo
HIẾN LỄ TAM BỬU
Mỗi lần tế lễ, đều có hiến
Hoa, Rượu, và Trà gọi là Tam Bửu, đại khái như :
Hoa tượng trưng
cho Tinh
Rượu tượng trưng
cho Khí
Trà tượng trưng
cho Thần
Hiến lễ Tam Bữu đại ý nhắc
chúng ta nhớ rằng trong con người chúng ta có ba món báu. Kẻ Tín đồ phải tu tập
thế nào cho Tinh Khí Thần huờn nguyên hiệp nhứt, thành một thể khí vô vi thì
mới đủ điều kiện giái thoát ra ngoài vòng sanh tử, hoặc bói cách khác là luyện
Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần huờn Hư. Đến đó là chứng quả vậy.
LỄ NHẠC
Trong đàn tế lễ có dùng lễ
nhạc, sở dụng của lễ nhạc là thế nào?
Lễ : Anh Lễ sĩ áo mão
chỉnh tề, hai tay nâng cúng vật lên ngang mày, theo nhịp nhàng của âm nhạc, từ
từ điện lễ đi lên. Cái vẻ tề chỉnh, bộ đi trang nghiêm ấy khiến người bàng quan
sanh lòng kính. Cho nên nói : Tinh Thần Lễ là Kính
Nhạc : Tiếng trống,
chuông, đờn, kèn, tiêu thiều, nhiều thứ âm thinh khác nhau, đồng thời dấy lên
một lượt, đáng lẽ thì nghe hỗn loạn, nhưng sự thiệt lại khác. Tiếng lớn nhỏ,
giọng phù trầm, dường như nhường nhịn lẫn nhau, để cho mỗi nhạc khí thung dung
pho diễn sở năng của nó. Thế nên nói : Tinh thần nhạc là hòa.
Lễ nhạc, nguyên ngày xưa,
Thánh Nhơn quan sát cảnh tượng Võ Trụ, nhận thức được luật trật tự và điều hòa
của Trời Đất rồi theo đó mà chế ra lễ nhạc, cho nên nói rằng :
" Lễ giả Thiên Địa chi Tự,
Nhạc giả Thiên Địa chi hòa ".
Thánh Nhơn dụng ý chế ra
Lễ nhạc rất hay và cái sức mạnh tinh thần ấy có thể kích động lòng người đến
chỗ sâu xa. Xem khi vào chùa miểu, chúng ta trông thấy cốt tượng, trông thấy
nghi tiết thì lòng Tín ngưỡng xúc động mà hoài bảo đến sự siêu thoát tinh thần.
Hoặc khi chứng kiến đám tang hay mồ hoang mã lạnh thì lòng chúng ta bùi ngùi
thương xót.
Cũng nhờ sức mạnh tinh
thần ấy, Lễ Nhạc có thể cảm hóa lòng người về Đạo Đức, như " Kính " và "
Hòa " chẳng hạn. Nhưng có điều nên lưu ý là Lễ Nhạc phải đi đôi thì
mới có kết quả mỹ mãn. Trong đàn tế nếu có Lễ mà không có Nhạc, hoặc có Nhạc mà
không Lễ thì đàn tế mật vẽ tôn nghiêm. Thì cái ảnh hưởng của lễ nhạc là kính và
hòa trong Nhơn tâm thế sự cũng vậy, nghĩa là " Kính " và "
Hòa " cũng phải theo nhau, như bóng với hình thì mới có kết quả tốt.
Ví dụ : Kính mà không hòa :
Kẻ nhỏ sợ người lớn mà
chẳng dám gần, người lớn khinh kẻ nhỏ mà lánh xa. Thế rồi nhà ai nấy ở, ngôi
tôn giữ tôn, ngôi ti giữ ti. Tôn ti cách biệt hẵn thì làm sao mà hòa nhau được
cho nên nói rằng : Kính mà không hòa thì ly tán.
Ví dụ : Hòa mà không kính
Khi hội hợp nhiều người mà
không kính nhau. Người lớn ỷ ở ngôi tôn cứ sỗ sàng nói năng, sỗ sàng hành động,
người lớn khinh thường kẻ nhỏ. Kẻ nhỏ thì hổn ẩu, không kiêng nễ người lớn.
Trật tự đảo lộn thì chung qui phải tự giải tán. Thế thì hòa mà không kính thì
loạn lạc.
Than ôi ! Gia đình ly tán,
xã hội loạn lạc thì làm thế nào mà quần tụ, để giúp đở nhau trong đời sống còn.
Xem đó đủ hiểu lễ nhạc, ngoài sự tế tự nó còn là một pháp môn hàm dưỡng tâm
tánh. Ấy vậy, nên kẻ dùng Lễ Nhạc mà không biết kính hòa thì chẳng khác nào ăn
mía mà bỏ nước ngọt.
LẠY
Khi đứng trước Thiên Bàn
hầu lễ thì chúng ta quì gối, hai tay chấp lại, bắt Ấn Tý, mặc niệm Nam Mô Phật,
Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng là ý nghĩa làm sao ?
Bắt Ấn Tý : Hai bàn tay chấp lại, ngón cái của bàn tay trái
chỉ vào ngón áp út, đó gọi là " Bắt
Ấn Tý ", tức chỉ sự chủ tâm về kính Trời. Có câu : " Thiên sanh ư Tý ". Tay chỉ
vào ngôi Tý, tức nhắc chúng ta kỉnh Trời., Nam Mô Phật : Hai bàn tay chấp lại,
đưa ngay lên giữa trán và mặc niệm "
Nam Mô Phật ". Ấy là nhắc lòng tôn kính Chí Tôn và nhớ lại Đức Toàn Tri
Năng, tận thiện mỹ và Đức Háo sanh của Ngài vô biên bao la, hằng hóa dục vạn
vật. Bổn phận chúng ta cứ giữ một lòng sùng bái Đức Ngài và thể theo Đức Chí
Thiện hoàn toàn của Ngài để học tập.
Nam Mô Pháp : Chữ " Pháp " nói đây chỉ vào chữ
(Dharma) là pháp luật tự nhiên của Đức Chí Tôn truyền dạy mà chúng ta phải tuân
theo để tu tâm, sửa tánh của mình, hầu trở nên thuần nhiên thanh khiết. Đại để
như : Tam Cang, Ngũ Thường, Tam Tùng Tứ Đức là khuôn thước đào luyện nên hiền
lương quân tử ! Giới, Định, Huệ là phương pháp giác ngộ Tâm linh siêu nhiên và
Pháp luật tự nhiên mà chúng ta phải tuân theo để đạt Đạo.
Nam Mô Pháp nghĩa là tôn
kính những Pháp ấy và một lòng làm theo đặng thể hiện nhơn cách người tu hành
và giải kiếp trầm luân.
Nam Mô Tăng : Đồng thời với chúng ta
biết bao nhiêu người Đạo cao Đức dầy, chúng ta nên thân cận với họ, để nghe lời
luận Đạo, thuyết Pháp và bắt chước những hành vi cử chỉ của họ.
Tóm lại : "
Thầy khai Bát Quái Đài mà tác thành Càn Khôn Thế Giái, nên gọi là Pháp, Pháp có
mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có người nên gọi là Tăng .
Thầy là Phật chủ tể cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo
mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy ". (Thánh Ngôn ngày
21-10-1926 Bính Dần)
Ba câu mặc niệm trên đây
có ý nghĩa cũng như câu " Qui y Tam Bảo
" nhà Phật.
LẠY LÀ GÌ ?
Lạy là để tỏ ra bề ngoài,
lễ kính trong lòng.
Chấp tay lạy là tại sao ?
Tả là nhựt, hữu là nguyệt,
vi chí Ââm Dương, Âm Dương hiệp nhứt, phát khởi Càn Khôn, sanh sanh, hóa hóa
tức là Đạo.
Lạy kẻ sống hai lạy là tại
sao ?
Là nguồn gốc của Nhơn sanh
lưỡng hiệp Âm Dương mà ra. Ấy là Đạo.
Vong Phàm lạy bốn lạy là
tại sao ?
Hai lạy phần người, một
lạy Trời, một lạy Đất.
Lạy Thần, Thánh ba lạy là
tại sao ?
Là lạy Đấng ở vào hàng thứ
ba của Trời và cũng chỉ về Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt ấy là Đạo.
Lạy Tiên Phật chín lạy là
tại sao ?
Là lạy chín Đấng Cửu Thiên
Khai Hóa.
Còn lạy Thầy 12 lạy là tại
sao ?
Các con không hiểu đâu :
Thập Nhị Khai Thiên là Thầy. Chúa Tể Càn Khôn Thế Giái, nắm trọn Thập Nhị Thời
Thần trong tay. Số 12 là số riêng của Thầy. (THÁNH NGÔN)
CÚNG TỨ THỜI
Mỗi ngày, người tín đồ
phải hầu lễ bốn lần, gọi là cúng Tứ Thời ( Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu). Mới trông qua,
người bàng quan lầm tưởng cúng tế là do tánh ỷ lại Thần quyền; nhưng sự thật
không phải như thế mà là một phương pháp hàm dưỡng tâm tánh rất huyền nhiệm.
Theo Đạo tự nhiên, Ngươn
Khí của Trời Đất, mỗi ngày vượng bốn thời : Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Trong thời nầy,
kẻ hầu lễ giữ tinh thần, vật thể an tịnh thì Thần Khí hàm dưỡng khí thiêng Trời
Đất mà được thanh thoát. Tinh thần an nhiên tiếp xúc với Đấng Chí Linh, để lãnh
hội lời truyền thọ. Vật thể thì khí chất được thanh thuần để hòa đồng với cái
Động Lực của Vũ Trụ mà tiến bước trên đường Tấn hóa.
Lẽ thứ hai là trước khi
vào Đền Thánh chầu lễ, chúng ta đã gạt bỏ những sự ưu tư trần tục. Đến khi nhập
đàn, Lễ Nhạc phát khởi, đồng nhi đọc kinh, hoàn cảnh an tịnh nầy khiến cho lòng
chúng ta được cực tịnh và chỉ có một mặc niệm " Kính thành ". Giá như chúng ta giữ được tâm trạng " Thành Kính " mãi mãi thì
chúng ta giữ nguyên vẹn nguồn Thiên Lý ở trong người tức thực hiện được câu " Nhơn dục tận tịnh thiên lý lưu hành
".
Còn một lẽ nữa là tu tâm,
dưỡng tánh, Đức Chí Tôn dạy rằng :
" Trước khi vào lạy Thầy buổi tối, phải tự hỏi
mình coi phận sự ngày ấy xong hay chưa, và lương tâm có cắn rứt điều chi chăng
? Nếu phận sự chưa rồi, lương tâm chưa an tịnh thì phải biết cải quá, rán chuộc
lấy tội lỗi của mình. Đặng vậy thì các con lo chi không bì bực Chí Thánh. Thầy
mong cho mỗi đứa điều lưu ý đến sự sửa mình ấy. Đặng vậy thì may mắn cho Đạo và
các con cũng sẽ đặng thung dung nêu gương cho kẻ khác ".
" Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi ".
THỜ PHƯỢNG TỔ TIÊN
Ngoài việc thờ Trời, kính
Phật, nơi chùa chiền Tín đồ còn thờ phượng tổ tiên trong tư gia nữa.
Chúng ta đã tin tưởng rằng
: Linh hồn người ta bất diệt. Người chết là chết phần thể xác, còn phần Linh
hồn thì siêu thăng. Trước thuyền Bát Nhã chở quan tài đi an táng có hai câu
liễn như vầy :
" Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh huờn tại thổ,
Thiên niên tự hữu, Linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên
".
Muôn việc gọi không, Nhục
thân do đất sanh thì trả về cho đất. Muôn năm tự có, Linh Hồn Trời ban cho thì
trở về với Trời.
Câu đối nầy tả được cảnh
người chết, hồn xác chia ly, đâu về đó.
Lòng tín ngưỡng nầy khiến
cho dự thờ phượng Tổ tiên không kém phần quan trọng. Tưởng niệm Tổ tiên, một là
tỏ lòng tôn kính nguồn gốc sanh thành, dưỡng dục; hai là cầu nguyện Tổ Tiên hộ
trì, giúp đỡ con cháu. Chúng ta thấy những người đó đức tin nầy, giàu cũng như
nghèo, khi cất lập xong một ngôi nhà rồi họ chọn một chỗ trang nghiêm hơn hết,
để lập bàn thờ, hằng ngày hương khói.
Ngày tế lễ, mạng danh là
húy nhựt, cả gia tộc đều hội hợp về nhà thờ, lo việc cúng tế. Trong hai ngày :
Tiên thường và chánh giỗ, có khi họ nhắc lại sự tích Tổ tiên, có lúc bàn việc
gia đình, sanh kế.
Giờ cúng tế, người người
có lòng thành kính, khi ra vào, lúc qua lại, trước bàn thờ họ khép nép sợ sệt,
dường như Ông Bà đang ngự trên chỗ sở tôn. Họ tự chủ rằng : Tổ tiên chết thì
Linh hồn thuộc về Thần Linh, người phàm mắt thịt, trông không thấy, rờ không
đụng, nhưng Thần Linh thể hết mọi vật, đầy dẫy khắp nơi, như ở trên đầu, ở bên
tả bên hữu, khiến cho người trong thiên hạ đều trai minh thạnh phục để tế lễ.
Giờ cúng tế yên lặng tôn
nghiêm, người Trưởng Tộc hành lễ, rồi con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang
nghiêm.
Vả lại, Đạo hữu đã biết
Đạo, đã sẵn lòng tín ngưỡng, nay đem cái Đạo Tâm ấy mà thờ cúng Ông Bà thì cái
phong hóa truyền thống sẽ được thuần mỹ thêm hơn.
Tóm lại, Lễ nghi giản dị,
nhưng đem lại cho chúng ta nhiều kết quả về tinh thần đạo đức. Về cá nhân, lễ
nghi là môt pháp môn tu luyện tâm tánh, còn đối với gia đình xã hội. Lễ Nghi
tạo nên một không khí mỹ tục thuần phong.
2. LUẬT ĐẠO
Nhắc lại, khi lập Hội
Thánh rồi, Đức Chí Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật Đạo, mạng danh là " Tân Luật " gồm có ba khoản
kể như sau :
1. ĐẠO PHÁP
2. THẾ LUẬT
3. TỊNH THẤT.
1. ĐẠO PHÁP
Đạo Pháp có 8 điều ấn định
quyền hành của mỗi chức sắc cai trị Đạo và điều kiện thăng thưởng. Đây chúng
tôi không chép lại, nghĩ Chức Sắc thì tất nhiên đã thông hiểu luật đạo, không
cần nhắc lại nữa.
NGƯỜI GIỮ ĐẠO
Chương nầy gồm 7 điều ấn
định thủ tục phải làm, hầu trở nên người Tín Đồ Đại Đạo.
Khi Đức Chí Tôn còn dùng
cơ bút phổ độ, ai muốn được nhìn nhận là Tín đồ thì phải hầu đàn. Đức Chí Tôn
hoặc Tam Trấn Oan Nghiêm ( Đức Lý Thái Bạch, Quan Thế Âm Bồ Tát, Quan Thánh Đế
Quân ) cho một bài thi và có để lời thâu nhận. Còn nay cơ bút phổ độ đã ngưng,
hai muốn nhập môn thì phải có hai người Đạo đức tiến dẫn đến ra mắt người Đầu
Họ Đạo. Vị Chức Sắc làm thủ tục cầu Đạo và cấp cho Vị Tân Đạo Hữu một tờ chứng
chỉ " Nhập Môn ".
Hai vị Đạo Đức tiến dẫn có
phận sự dìu dắt người mới nhập môn biết phép tu hành : Thông hiểu lẽ Đạo, Luật
pháp tu hành, thuộc kinh, cách cúng lạy, bổn phận đối với Hội Thánh và người
đồng đạo.
Đầu-Tộc-Đạo phải đến tận
nhà vị Đạo hữu nầy làm lễ Thượng tượng Đức Chí Tôn để thờ, chỉ dạy phương pháp
tu hành, học Đạo và cách cúng Tứ Thời.
Tín đồ chia ra làm 2 bực : HẠ THỪA & THƯỢNG
THỪA
Hạ Thừa là bậc mới cầu
đạo, còn ở thê, có gia đình, phải làm tròn bổn phận làm người đối với gia đình,
xã hội, phải tập ăn chay kỳ, mỗi tháng 6 hoặc 10 ngày. Ngoài phép nước, luật
quan, họ còn phải tuân hành Thế luật của Đạo, giữ ngũ giới cấm vân vân ....
Thượng thừa là người
trường trai, giới sát, tuân hành tất cả Luật pháp Đạo, nhứt là " Tứ Đại Điều Qui ", phải để
râu, để tóc, mặc toàn bằng vải trắng, không được xa xí. Chức Sắc từ phẩm Giáo
Hữu trở lên phải lựa chọn trong hàng Thượng Thừa.
LẬP HỌ ĐẠO
Địa Phương nào có hơn 500
Tín đồ, đặng phép lập riêng một Họ Đạo, đặt riêng một Thánh Thất. Hội Thánh sẽ
phái Chức Sắc đến cai quản.
Muốn lập họ Đạo phải xin
phép Giáo Tông. Tín đồ trong Họ Đạo phải tùng quyền vị Chức Sắc Cai Quản Thánh
Thất. Chẳng ai có quyền canh cải Luật Đạo.
Mỗi tháng có hai ngày Đại
Lễ là : Sóc và Vọng. Ngày Đại Lễ cả tín đồ phải tựu về Thánh Thất hầu lễ và
nghe lời giảng đạo thuyết pháp; trừ ra, người vắng mặt có lý do chánh đáng mới
được châm chế.
Chức Sắc cai quản Thánh
Thất, mỗi ngày, phải cúng bốn thời ( Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu ). Mỗi vị Đạo Hữu ở gần
Thánh Thất nếu tiện thì nên đến Thánh Thất sở tại mà chầu lễ.
ĂN CHAY
Ăn chay nghĩa là dùng lê
hoát, ngũ cốc, chớ không ăn thịt thú vật. tại sao kẻ học Đạo phải ăn chay ?
Xin xem câu giải đáp sau
đây :
Lẽ thứ nhứt : Khoa học dùng trí thức
làm căn bản nghĩ suy, khảo cứu vật chất bên ngoài. Chung cuộc, khoa học thâu
hoạch kết quả vật chất, bồi bổ cho đời sống thực tế. Còn Đạo học thâm viễn hơn,
cầu giải thoát kiếp luân hồi. Muốn đạt mục đích nầy, học giả phải thâu thập cả
Tánh mạng, luyện thành một khối tinh thần khương cường, sáng suốt, mạng dang là
Chơn thần. Nó phải nhẹ nhàng hơn không khí thì mới vượt khỏi vòng Càn khôn. Vả
lại, trong không khí vốn có điện lực, nếu kẻ ăn mặc mà luyện đạo, khi xuất Thần
thì Chơn thần vẫn còn trược khí lẫn lộn, mà trược khí là vật năng tiếp điện
(bon conducteur d'électricite ). Khi ấy Chơn thần chưa ra khỏi lằn không khí mà
đã bị xét đánh tiêu diệt rồi.
Lẽ thứ hai : Theo luật hấp dẫn, nếu
chơn thần còn trọng trược, khi xuất ngoại, phải bị hấp lực vật chất giam hãm trong
vòng Trần tục. Ấy vậy nên kẻ cầu sự giải thoát phải ăn chay.
Lẽ thứ ba : Phép vệ sinh dạy chúng ta phải ăn ở sạch sẽ. Nên
hiểu rằng sạch sẽ nói đây là ám chỉ vào sạch sẽ bên ngoài, cũng như bên trong.
Ăn chay dễ tiêu hóa, dễ bài tiết tức giữ gìn sạch sẽ trong tạng phủ.
Lẽ thứ tư : Cả muôn loài, vạn vật đều do một Đấng Thái Cực
Thánh Hoàng sanh hạ ra thế gian, cho nên có câu nói rằng : " Vạn vật nhứt
thể ". Quan niệm ấy không cho phép chúng ta giết hại sanh vật để ăn thịt.
Vả lại, người ta có hai thức
ăn, để bồi dưỡng thân thể là :
Vật chất thực và huyền vi
thực.
Vật chất thực là lê hoát,
ngũ cốc do miệng vào tỳ vị và tiêu hóa thành khí huyết. Huyền vi thực là thanh
khí trong Trời Đất. Người ta nhờ hô hấp đem thanh khí vào thân thể, đễ tươi
nhuận khí huyết, bồi dưỡng sức khỏe.
Nói tỉ : Mỗi ngày chúng ta
phải dùng 6 cân vật thực, để bồi bổ sức khỏe : Sáu cân đồ ăn nầy chia làm hai :
Vật chất thực ba cân, Huyền vi thực ba cân. Ấy vậy nếu chúng ta cứ tăng thêm
Huyền vi thực mà bớt bên Vật chất thực. Giảm bên nầy, tăng bên nọ, chung qui
chúng ta cũng có đủ 6 cân thức ăn để bồi dưỡng thân thể. Công phu nầy tiến nữa
người ta có thể hớp Khí Thanh Không mà sống.
Lời dặn : Ở đây chúng tôi muốn nhắc lại cứu cánh sự tu
hành của người xưa, để thông cảm với Chơn Pháp mà thôi. Chí như chúng ta từ nhỏ
đã quen dùng vật chất thực để nuôi sống. Nay, thoạt nhiên đổi món ăn cấp kỳ thì
tạng phủ không quen mà sanh loạn. Lẽ như vậy, cho nên Tân luật buộc mỗi người
phải tập ăn chay, mỗi tháng 6 ngày, hoặc 10 ngày. Mãi đến khi tạng phủ quen dần
rồi sẽ tiến tới nữa.
NGŨ GIỚI CẤM
1. BẤT SÁT SANH
Năm Mậu Thìn (1.1928) Đức
Chí Tôn dạy rằng :
Thánh ngôn :
" Thầy đã nói : Khi chưa có Trời Đất, khí Hư vô
sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra lưỡng nghi
... Lưỡng nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô
cùng mà lập Càn Khôn Thế Giới. Rồi Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật
là : Vật chất, Thảo mộc, Côn Trùng, Thú cầm, gọi là " Chúng sanh ".
Chú giải : Đoạn nầy đã
giảng giải, tinh thường trong chương "
Vũ Trụ Quan " ( Xin xem lại )
Thánh ngôn : " Vậy, các con đủ hiểu mỗi vật hữu sanh
nơi thế giản nầy đều do Chơn Linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy, Thầy là cha
sự sống, vì thế nên lòng Háo sanh của Thầy vô cùng tận. "
Chú Giải : Theo lẽ nầy mà
suy ra, chúng ta hiểu rằng : Khi một Tiểu Chơn Linh ( Điểm tánh của Chí Tôn
chia ra cho mỗi người ) tánh khỏi cội sanh mình thì tùng Đạo biến hóa, lưu hành
khắp Càn Khôn Thế Giới, mà hễ đến đâu thì hấp thụ khí chất của Vũ Trụ cấu tạo
cho mình một vật thể. Như hiện giờ chúng ta có một phần hồn ( tức điểm tánh của
Đức Chí Tôn chia cho ) và một phần xác do Thái Cực Âm Dương, Ngũ Hành cấu hợp (
Khí chất của Võ Trụ ) hồn xác hỗn hóa thành một đơn vị cá nhơn có sanh mạng.
Đạo Đức Kinh chương 42 nói
rằng : " Vạn vật phụ Âm nhi bảo
Dương xung khí dĩ vi hòa ".
( Muôn loài đều có bồng
một Âm, cỏng một Dương, Âm Dương xung khắc mà lại điều hòa thành mạng sống ).
Cái mạng sống ấy do Tiểu
Chơn Linh ( Linh Hồn ) vi chủ, cho nên Đức Chí Tôn nói rằng : " Mỗi vật hữu sanh nơi thế gian này đều
do Chơn Linh Thầy mà ra, có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống ".
Sách Nho có câu : " Phụ Mẫu ái tử vô sở bất chi "
(Cha Mẹ thương con không sót chỗ nào). Đó là Cha Mẹ phàm còn như thế, huống chi
Đức Chí Tôn là " Đại Từ Phụ " Thiêng Liêng hóa dục muôn loài. Đức
Ngài sanh hóa vạn vật; tùy thời Khai Đạo và hàng năm xoay chuyển bốn mùa, tám
tiết. Năm loài ngũ cốc và các thứ thảo mộc theo thời tiết mà hóa sanh để nuôi
dưỡng cái sống còn của vạn vật. Bằng cớ ấy đủ chứng minh lòng Háo sanh vô tận
của " Thượng Đế ".
Thánh Ngôn : " Mạng sống của
chúng sanh cũng như nhành cây trong cội, phải có đủ ngày giờ Thầy định, để nở
bông, sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa thêm ra, nếu kẻ nào làm hại nửa chừng
là sát hại một kiếp sanh, không cho biến hóa. Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu
kiếp, đến thế nầy hoặc lâu hoặc mau đều có định trước, nếu ai giết một mạng
sống thì phải chịu quả báo. Mạng sống là của Thầy, mà giết Thầy không phải dễ.
Các con rán dạy Nhơn sanh điều ấy ".
Chú giải : Đức Chí Tôn,
Thái Cực Thánh Hoàng là cội sanh hóa muôn loài vạn vật. Đức Ngài là một nguồn
sống tràn ngập Vũ Trụ. Tất cả vạn vật đều mượn sanh mạng trong nguồn sống vô
biên ấy. Thế nên Đức Chí Tôn thí dụ Thái Cực Thánh Hoàng cũng như cội sanh. Mỗi
sanh vật cũng như cành hoa trong cội ấy; mỗi sanh vật phải có đủ ngày giờ nhứt
định để nó biến hóa thêm ra.
Ví dụ : Hột đậu phải có đủ
thời tiết, để nó nức mộng, lên cây, rồi mới trổ trái đậu khác được. Thế nên ai
giết một sanh vật là sát hại một kiếp sanh, không cho tiến hóa. Sự sống là
Thầy, mà giết Thầy không phải dễ.
Luật thế gian còn định tội
nặng nề cho kẻ sát nhơn, huống chi luật tự nhiên Nhơn Quả, cho nên kẻ giết mạng
sống thì phải chịu quả báo không sai.
Đức Chí Tôn cấm sát sanh
là lẽ như vậy.
Nói rút lại, chúng ta cứ
suy gẫm mấy điều đã nói trên cho nó nhập tâm rồi chúng ta biết sợ luật Trời mà
chẳng dám sát hại sanh vật. Đó là một cách trì giới đắc lực vật.
Không sát hại là một việc,
rồi còn phải tùy phương tiện mà giúp đở muôn loài là một việc khác nữa. Lợi
sanh vạn vật tức là lợi sanh cho cá nhân mình. Lòng bác ái dạy chúng ta yêu
thương muôn vật như yêu thương thân mình là lẽ như vậy.
Vả lại, muôn loài vạn vật
do một Ông Cha mà sanh thành, nên chúng ta cùng muôn loài vạn vật là anh em.
Thế nên chúng ta mở rộng lòng yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trên đường về với Đại
Từ Phụ. Lòng bác ái nên vâng theo đức háo sanh của Thái Cực Thánh Hoàng mà thể
hiện .
2. BẤT DU ĐẠO
Năm Mậu Thìn (1928) Đức
Chí Tôn dạy rằng :
Thánh Ngôn : Ôi ! Thầy
sanh các con, Thầy yêu các con. Thầy cho các con đến thế nầy với một Thánh Thể
Thiêng Liêng, y như hình ảnh của Thầy : Không ăn màsống, không mặc mà lành. Các
con không chịu, lại nghe lời cám dỗ, luyến ái hồng trần.
Ăn phải cho bị đày, dâm
phải cho bị đọa, rồi các con phải chịu dưới nạn áo cơm.
Lợi, Thầy để cho các con
chung hưởng, nhưng vì lòng tham : Đứa giựt nhiều, đứa phải chịu kém.
Quyền, Thầy ban cho các
con, y như Thầy đã ban cho Thần, Thánh, Tiên, Phật để các con có đủ phương tiện
kềm chế lẫn nhau đặng giữ vẹn Thánh Thể của Thầy. Thế mà cái quyền ấy lại thành
một món lợi khí, buộc trói các con trong tội lỗi. Ôi ! Cái thất vọng của Thấy
rất nên đau đớn.
Các con có hiểu, vì sao
Nhơn sanh có lòng tham gian chăng ? Thì cũng vì muốn có nhiều kẻ phục tùng,
không chi bằng nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỷ
quyệt thâu đoạt : lợi lộc thế quyền. Vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn tranh
đấu, giựt giành, mạnh được yếu thua, mất hẳn công bình thiên nhiên Tạo Hóa.
Ấy vậy phải biết rằng : Tham lam vào Tâm, Tâm hết Đạo đức, tham lam
vào nhà, nhà hết Chánh giáo, tham lam vào nước nước hết chơn trị, tham lam lộng
khắp Thế giái. Thế giới hết Thần Tiên. Lòng tham lam có thể giục các con lỗi
Đạo cùng Thầy. "
Chú Giải : Bài Thánh Giáo
trên đây đã rõ lắm rồi, khỏi phải chú giải nữa, duy có câu Thánh Ngôn nói rằng
: Thầy cho các con đến thế giới nầy với "
Thánh Thể Thiêng Liêng vân vân . . . . "
Thánh Thể Thiêng Liêng tức
là điểm Linh Quang của Đức Chí Tôn và một phần Tiên Thiên khí của Thái Cực. Hai
phần ấy hỗn hợp thành Thánh Thể, Thánh Thể ấy chẳng ăn mà sống, chẳng mặc mà
lành, nhưng khi nhập thế cuộc, chúng ta vì cố chấp phàm tâm ham muốn vật chất,
cầu thỏa mãn phàm thân. Đó là cái mầm khiến người ta tham lam, giành giựt lợi
quyền mà sanh ra thất Đạo, cho nên Đức Chí Tôn nói tham lam đến đâu thì tai hại
đến đó.
Phải biết rằng : Tài vật
của người, dầu ít nhiều, dầu lớn nhỏ đều do người làm nhọc nhằn mới tạo ra
được. Nay, chúng ta trộm cắp của người, để làm của mình, dầu cách nầy, hay cách
khác, cũng đều là một việc thái ư bất công. Bất công thì chẳng những phạm luật
Trời mà mích lòng người nữa. Muốn tránh sự trộm cắp, thì đừng tham lam, mà muốn
chẳng có lòng tham lam chúng ta nên biết tri túc và bố thí.
Tri túc : Là biết đủ, tức
cầu cho mình đủ ăn, đủ mặc thì thôi chớ chẳng nên vọng cầu những của phi nghĩa.
Nếu chẳng biết đủ thì lòng tham nổi lên mà xúi chúng ta vơ vét của cải về cho
mình, để rồi lại cho con cháu mình nữa. Ngạn ngữ nói : " Túi tham không
đáy, chứa bao nhiêu cũng không đầy ".
Đạo Đức Kinh chương 44 nói
rằng :
" Thậm ái tất thậm phí,
Đa tàng tất đa vong.
Tri túc bất nhục.
Tri chỉ bất đãi
Khả dĩ trường cửu. "
Tham thì thâm, chứa nhiều
ắt mất nhiều. Biết đủ không nhục, biết dừng chân ở ngoài vòng tranh đấu lợi
danh thì không hại và có thể lâu dài.
Bố thí : Chúng ta nên tùy
phương tiện của mình mà thí tài, hay thí pháp, bố thí mà không cầu người trả
ơn. Muốn cho đức ấy được tỏ rạng, phải mở lòng vị tha, nghĩa là vì người mà bố
thí chớ không phải buôn quyền bán danh.
Kẻ xả thân hành Đạo thì
hay hòa mình với Đạo, hòa sống với chúng sanh. Thử nghĩ thân còn chẳng có thân
riêng, huống chi là tài sản. Suy tưởng, ngẫm nghĩ như thế, thì lòng vị tha sẽ
khai hoát. dể thay thế cho tánh ích kỷ.
3. CẤM TÀ DÂM
Thánh Ngôn đề ngày 26-6
Bính Dần (30-6-1926)
Vì sao Tà dâm là trọng tội ?
Nguyên xác thân con người, tuy mắt phàm xem như một,
tựu trung chất chứa vàn vàn, muôn muôn sanh vật. Sanh vật ấy cấu kết nhau thành
tế bào ( Formation de cellules ). Nó có tánh linh, chất dưỡng sanh nó là rau
cỏ, bông trái, lúa gạo. Thử hỏi những lương vật nầy, nếu chẳng có chất sanh và
chẳng hàm chưa sanh lực thì thế nào nó tươi đặng. Hoặc giả, nếu nó có khô rũ
thì nó phải chết, mà các con có ăn vật khô héo bao giờ. Còn như dùng lửa nấu,
bất quá tẩy trược mà thôi; kỳ thật, sanh vật bị nấu chưa hề chết. Vật ăn vào tỳ
vị tiêu hóa ra khí, khí biến ra huyết. Nó có thể hườn thành Nhơn hình, vì vậy
mới có cơ sống chết của chúng sanh. Một giọt máu là một khối Chơn linh, nếu các
con dâm quá độ. tức là sát hại nhiều Chơn linh, khi các con thoát xác, nó đến
Nghiệt Cảnh Đài mà kiện, các con chẳng hề chối đặn.
Vậy các con phải giữ gìn giới cấm nầy cho lắm."
Theo Thánh Ngôn trên đây,
chúng ta đã hiểu sự dâm dục có hại cho kẻ hành giả là dường nào.
Vả lại, phàm thân do Nhơn
duyên cấu sanh, mà hể có sanh thì tự nhiên có tử. Và khi tử thì duyên phải tan
rã và trở về với đất nước gió lửa. Thế thì nhục thân có trường tồn đâu mà phải
cần khoái lạc nhứt thời cho nó, đề rồi gây ra tội tình, Nhơn quả cho phần hồn
phải chịu muôn năm, ngàn kiếp, nhứt là : Quyến rũ vợ con người vào đường quấy
là phá hại gia cang người, lại là một việc ác đứng đầu trong muôn việc ác khác.
Gia dĩ, dâm dục sát hại
nhiều Chơn Linh, khi thoát xác. chúng nó kiện nơi Nghiệt Cảnh Đài, chúng ta
không chôi tội được. Vậy kẻ tu hành chớ nên ham vui một thuở mà chịu khổ cả
muôn đời.
Tóm lại, thân thể người
chẳng khác thân thể động vật. Điều chính của nó là hành động mà hành động của
nó lại khuynh hướng về tư kỷ nhiều hơn, cho nên chúng ta phải cố gắng gìn giữ
giới cấm nầy, để trị thân thể và đem nó về đường Chánh Đạo.
4. BẤT ẨM TỬU ( Không nên uống rượu )
Thánh Ngôn Đức CHÍ TÔN đề
ngày 15-12 năm Bính Dần (18-1-1927) Vì sao phải giới tửu ?
Thân thể con người là một khối Chơn Linh hiệp thành.
Chơn Linh ấy hằng sống, Ngũ Tạng Lục Phủ cũng là khối sanh vật tạo nên. Phận sự
của chúng nó hoặc hiểu biết hoặc không, đều tùy lịnh Thầy phán đoán, vậy Thầy
lấy hình chất xác phàm để giảng dạy.
Hình chất con người cũng như hình chất thú, phải ăn
uống mới sống được. Rượu vào tỳ vị, chạy khắp Ngũ tạng, Lục phủ. Trái tim là
chủ động của bộ máy sanh sống, mà trái tim bị rượu thâm nhập, khiến cho nó rung
động quá mức thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch vận hành, một cách quá
mau lẹ. Sanh khí nơi phổi không có đủ ngày giờ nhuận huyết, rồi trược huyết
thối nhập trong thân thể, truyền thống những chất độc vào trong những sanh vật.
Mỗi khối sanh vật ăn rồi phải bịnh, càng ngày càng tăng thêm, rốt cuộc hết sanh
lực, cốt tủy lần lần phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẻ bị tê
liệt hết nửa thân mình cũng vì rượu.
Thầy nói sự hại của phần hồn : Thầy nói Chơn Thần là
khí chất ( Le sperme évaporé ) bao bọc thân thể các con. Trung tim nó là óc,
cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, chữ gọi Vi Hộ, Hộ Pháp hằng đứng giữ gìn các con
khi luyện Đạo, đặng phép giúp cho Tinh hiệp với Khí rồi đưa khí đến Chơn Thần.
Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt mới siêu phàm nhập Thánh. Đó là nguồn cội của sanh
khí mà óc cũng vì huyết mạch vận chuyển vô chừng, đến đỗi tán loạn. Thế rồi
Chơn Thần an tịnh thế nào đặng thân thể phải chịu ngây dại trở nên thú tánh,
thú chất. Như vậy thì mất hết Nhơn Phẩm rồi, còn mong chi đến địa vị Thần Tiên;
lại nữa, trong buổi loạn thần, cửa để trống tà mị thừa cơ xâm nhập, giục các
con làm quấy gây nên tội tình mà phải chịu luân hồi muôn kiếp.
Vậy Thầy cấm các con uống rượu ".
Vấn đề kiên rượu, cólẽ
trong hàng Anh em chúng ta người nào cũng đã có bị một lần say rượu. Vậy sự
kinh nghiệm ấy đã dạy chúng ta biết với một cách rõ ràng rằng : Say rượu chẳng
những loạn trí não mà Ngũ tạng cũng không còn giữ được chơn lực nữa. Thế thì
giới tửu là một điều cấm quan trọng vậy.
5. BẤT VỌNG NGỮ ( Chẳng nên nói dối )
Thánh Ngôn : Đức Chí Tôn
có dạy năm Mậu Dần (1928)
" Nơi thân phàm các con Thầy cho một Chơn Linh
theo gìn giữ. ChơnLinh ấy vốn vô tư, đặng phép thông công cùng Thần, Thánh,
Tiên, Phật và các Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt việc lành, việc dữ
đều có ghi. Vậy nên một mảy lành dữ đều có trả.
Lại nữa, Chơn Linh ấy có tánh Thánh nơi mình, chẳng
phải gìn giữ các con, mà còn dạy dỗ nữa. Đời thường gọi là Lương Tâm. Thánh xưa
nói rằng : Khi Nhơn tức khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên, khi Thiên đắc tội,
hoạch tội ư Thiên vô sở đảo. Như các con nói dối, điều ấy chưa dối đặng người,
mà các con đã dối lương tâm mình. Một lời nói, tuy chưa thi hành, song tội tình
cũng đồng thể, như các con đã làm. Thầy dặn các con : phải cẩn ngôn, cẩn hạnh,
thà các con làm tội mà chịu tội cho đành, chẳng hơn các con nói tội mà phải
chịu trọng hình đồng thể ".
Theo giới cấm nầy, ngườit
tu không được nói dối, dầu việc lớn hay nhỏ, trọng hay khinh cũng vậy. Cổ nhơn
nói : " Nhơn bất tín bất lập ". Đối với thế nhơn : Mình mất tín nhiệm
còn không làm nên được, huống chi đối với Trời Phật, cho nên chúng ta phải nói
chơn thật và khi nói ra rồi phải giữ lời. Người tu chẳng những không nói dối,
mà còn phải nói chơn chánh nữa. Nếu gặp sự thì phải theo sự mà nói thành thật,
để cho người nghe tin dùng; nếu gặp lý thì phải tùy lý mà nói minh bạch để cho
người nghe hết nghi.
Cấm lưỡng thiệt : Người tu
không được đem việc đầu nầy mà nói đầu kia làm cho người nầy giận kẻ nọ mà sanh
ra đôi co, cãi cọ.
Phải lánh xa những việc
nói xấu kẻ khác, tức là nói hành.
Cấm ác khẩu : Người tu
không được nói lời hung dữ, như chửi rủa chẳng hạn. Trái lại, phải dùng lời nói
hiền lành, bàn việc hữu ích, phải dùng lời dịu ngọt, an ủi người khốn khó. Nếu
gặp người nói hung dữ như : mắng lộn, chửu lộn, thì phải dùng lời êm thắm mà
khuyên dứt đôi đường. Nếu gặp người làm việc gì mà thối chí, ngã lòng, thì nên
dùng lời nghĩa lý mà khuyên nhủ cho bạn khởi lòng tinh tấn.
Cấm ỷ ngữ : Người tu không
được dùng lời khôn khéo, để khêu gợi nguyệt hoa, không được dùng lời bóng bẩy,
dể xuyên tạc kẻ khác. Trái lại phải nói ít và thiệt thà.
Bốn giới cấm để kềm dẫn
khẩu căn vào cõi thanh tịnh. Người tu chẳng ai mà không biết, nhưng, biết thì
dễ mà thực hành thì khó, mà nếu không thực hành được thì cũng như không biết.
Đó là chỗ nói rằng : " Học mà không hành thì cũng như không học ".
Vậy chúng ta khuyên nhau gắng gượng tiến lên đường đạo đức thực hành.
Ban đầu chúng ta tập ít
nói, để có ngày giờ suy nghĩ, trước khi thốt ra lời. Về sau, quen rồi thì việc
khó hóa dễ.
TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI
Tứ Đại điều qui là bốn
điều luật răn cấm :
1. Phải tuân lời dạy của
bề Trên. Chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ lầm lỗi
phải ăn năn chịu thiệt.
2. Chớ khoe tài, đừng cao
ngạo, quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo, đừng nhớ cừu riêng;
chớ che lấp người hiền.
3. Bạc tiền xuất nhập phân
minh, đừng mượn vay không trả. Đối người trên, dười đừng lờn dể; trên dạy dưới
lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
4. Trước mặt, sau lưng,
cũng đồng một bực, đừng kính trước rồi sau khi.
Tóm lại, xử sự tiết vật,
nên lấy hạnh khiêm cung làm đầu. Tinh thần của lễ là kính. Phàm kính người thì
luôn luôn hết dạ kính tin, dầu có mặt, hay không cũng vậy. Đừng thấy giàu mà
trọng, chẳng nên thấy khó mà khinh. Thường lấy lời nhỏ nhẹ mà khuyên bạn làm
lành. Phép nước Luật Đạo hết lòng kính giữ. Đó là phương pháp sửa mình lập đức
vậy.
GIÁO HUẤN
Đại Đạo có mở trường dạy
văn chương và dạy đạo lý trong trường học, có thể lệ riêng.
Người muốn dự cử vào hàng
Chức Sắc phải có cấp bằng của Trường Đạo mới được.
Đạo tràng - Trường Đạo có hai lớp :
Một lớp dạy Giáo Hữu và Lễ
Sanh thì do một vị Giáo Sư đảm nhiệm
Một lớp dạy chức việc do
Giáo Hữu đảm nhiệm. Sự giáo huấn dưới quyền Hiệp Thiên Đài kiểm soát, vì giáo
huấn thuộc quyền Hiệp Thiên Đài.
Vị nào theo học mãn khóa,
mà không được cấp bằng thì phải tái học nữa để thi đậu.
Trường học văn chương : Đại Đạo có mở trường
dạy văn chương.
Con nít từ 6 tuổi dẫn lên
phải đến trường học.
RĂN PHẠT
Có luật dĩ nhiên phải có
răn phạt : Nhưng cách răn phạt của Tôn Giáo chẳng giống luật Đời, mà thật cốt
yếu là răn dạy. Đại khái như :
Kẻ nào phạm giới luật, nếu
có bạn khuyên can thì phải vui lóng nghe theo mà cải quá. Nếu kẻ phạm có một
hai lần được khuyên can rồi, mà còn tái phạm nữa, thì chúng bạn được đem việc
ấy đến trình bày với vị chức sắc cai quản Thánh Thất sở tại. Nếu Vị Đầu Họ Đạo
đã dứt bẫn rồi mà kẻ ấy còn phạm tội nữa thì việc lầm lỗi ấy, có thể đem đến
Hội Thánh xem xét. Kẻ phạm luật đạo, có thể trục xuất, nếu tội lỗi không thể
tha thứ được.
BAN HÀNH LUẬT ĐẠO
Sáu tháng sau ngày ban
hành Tân Luật, chư Tín Đồ phải y tuân điều lệ .
Ngoại trừ :
a. Người hành nghề
nào có phạm đến giới cấm thì phải giải nghệ, hạn định một năm.
b. Chức Sắc chưa
trường chay được, kỳ hạn hai năm phải tập theo cho kịp.
2. THẾ LUẬT
Cùng theo học một Thầy,
tức thị anh em bạn đồng môn, mà hễ anh em thì phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau
trên đường Đạo và đường Đời. Tình đồng đạo, nếu ngày trước có hờn giận nhau,
ngày nay nên hỉ xả. Quên lỗi củ đặng cùng nhau tạo một nền hạnh phúc chung.
Phải tránh việc cải cọ hiện tiền, lấy đức nhẫn nhục đối đãi nhau. Trên dưới
thương nhau trên đường Đạo và đường Đời. Ấy là hiến lễ trân trọng lên Đại Từ
Phụ vậy.
Nhơn Đạo vốn có Tam Cang,
Ngũ Thường, Tam Tùng, Tứ Đức là trọng. Kẻ học Đạo lấy đó làm nền tảng cho cuộc
đời mình. Gốc đã thành lập thì tự nhiên ngọn nương theo mà sanh.
Người tín đồ Đại Đạo không
nên có hầu thiếp, trừ ra, khi đã bị chích lẽ giữa đường, cần chấp nối. Hoặc giả
vợ chánh không con nối hậu, thì đặng phép cưới thiếp, song phải có vợ chánh ưng
thuận mới đặng. Vợ chồng chẳng đặng để bỏ, trừ ra tội nặng như ngoại tình, thất
hiếu v.v....
Con nít phảicó cha đỡ đầu,
phòng khi rủi bị thân côi. Con nít lên bảy tuổi phải cho học đạo, học chữ. Việc
Quan Hôn Tang, Tế anh em chung lo với nhau như anh em ruột một nhà. Tang lễ
không nên xa xí, không nên quàn Linh cữu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc,
không nên yến ẩm. Việc cúng tế nên dùng đồ chay. Nhạc lễ theo Tân Luật, tang
phục y như xưa.
Quân tử chi Đạo tạo đoan
hồ phu phụ, Đạo làm người khởi đầu tại việc lập vợ chồng; gốc nếu rủi lầm lỗi
thì sau ắt khó sửa chữa. Vậy nên người Tín Đồ phải kết hôn với người đồng đạo;
trừ ra khi người ngoại đạo ưng thuận nhập môn trước rồi sau kết thành vợ chồng.
Trước lễ thành hôn 8 ngày,
chủ hôn trai phải dán bố cáo tại Thánh Thất sở tại, gọi là Bát Nhựt. Ấy là ngừa
sự trắc trở về sau. Lễ hôn phối cần cầu chứng nơi Thánh Thất sở tại.
Về việc sanh nhai, người
Tín Đồ phải chọn một nghề nào không có tánh cách sát hại sanh vật, không có bại
tục, tồi phong.
3. TỊNH THẤT
Tịnh thất là một giáo
đường thâm nghiêm. Tín đồ vào đó đặng an thần, dưỡng trí, tu luyện đến công
viên quả mãn. Nơi đây, mỗi người đặng thọ bí quyết của Đức Chí Tôn truyền dạy
và được dìu dắt cho đến siêu thoát ra ngoài vòng Càn Khôn.
Hạng tín đồ nầy là bực tối
thượng thừa, xong xuôi tất cả bổn phận làm người; nghĩa là chẳng còn dính dấp
với gia đình xã hội nữa, mới đặng nhập Tịnh Thất. Hội Thánh sẽ xem xét kỹ càng,
trước khi thu nhận.
Tịnh thất có kỷ luật
riêng, ngày giờ công phu, hoặc ăn nghĩ, mỗi mỗi đều nhứt định. Cấm người trong
tịnh thất giao tiếp với kẻ ngoài, hoặc thơ tín, hay bàn chuyện cũng vậy.
Trong tinh thất có luật
riêng, kẻ ở tịnh thất nhứt nhứt phải tuân theo kỷ luật ấy. Đó gọi là Luật Xuất
Thế.
Tóm lại : Lễ nghi và Luật
Đạo tuy hình thức khác nhau, nhưng đồng đem lại một kết quả. Nghi lễ để trau
giồi tâm lý, Đạo luật để cầm vững hành vi. Cả hai đều giúp cho người vững bước
trên đường tu tỉnh.
Ấy vậy kẻ học phải biết
quan sát, phải biết áp dụng, hầu cho mình có một tinh thần kỷ luật.
Phần Thứ Hai
VŨ TRỤ và NHƠN SANH QUAN
CHƯƠNG THỨ NHỨT
VŨ TRỤ QUAN
Vũ Trụ là gì ?
Lục Cửu Uyên người Trung
Hoa sanh vào khoảng năm 1139-1192 nói rằng :
" Thượng Hạ tứ phương viết Vũ
Cổ vãng kim lai viết Trụ ".
( Bốn phương trên dưới gọi
là Vũ, xưa qua nay lại không cùng gọi là Trụ ). Ở đây, chúng tôi muốn nói : Đạo
biến hóa tạo Thiên, lập Địa, sanh hóa muôn loài. Tức là dịch lý của Vũ Trụ có
liên đới quan hệ với đời sống của chúng ta. Đạo Dịch ấy trải qua 2 thời kỳ :
TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO
- HẬU THIÊN ĐẠI ĐẠO.
TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO
Đạo có trước Trời là vô
danh, vô hình mà Đức Chí Tôn vi chủ, như câu Thánh Ngôn nói rằng :
" Khi chưa có Trời
Đất thì Khí Hư Vô sanh có một Thầy và Ngôi của Thầy là Thái Cực, Thầy phân Thái
Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Biến Quái, Bát
Quái biến hóa vô cùng mà tạo lập Càn Khôn Thế Giái. "
Theo bài Thánh Ngôn nầy mà
suy, chúng ta hiểu như vầy : Thoạt kỳ thủy, thì Khí Hư Vô sanh có một Đức Chí
Tôn và Thái Cực.
Kế đó, Đức Ngài ngự trên
ngôi Thái Cực mà điều khiển Thái Cực sanh ra Âm Dương. Từ đó về sau, Lưỡng Nghi
cứ biến hóa mà tạo Thiên lập Địa. Hoặc nói cách khác là số 1 biến ra số 2, số 2
biến ra số 4, số 4 biến ra số 8, số 8 biến hóa vô cùng mà tạo lập Trời Đất.
Sự tích Tiên Thiên Bát Quái Đồ
Vua Phục Hy sanh về đời
tối cổ bên xứ Trung Hoa. Thời đại ấy, Thần linh học phát triển đến tột độ cao
siêu. Ngài là một Ông Vua Minh Quân Thánh trị tài cao, đức rộng tinh thần minh
mẫn, hàm dưỡng được trọn vẹn trí huệ của Trời ban cho. Huệ nhãn của Ngài xem
suốt cõi vô hình.
Khi dạo trên bờ sông Hà (
Ngày nay gọi là Huỳnh Hà ), Ngài trông thấy một con thú mình ngựa đầu rồng,
mạng danh là Long Mã, trên lưng có năm mươi lăm chấm. Vua Phục Hy do đó mà chế
ra bản đồ " Tiên Thiên Bát Quái ", người đời thường gọi là Phục Hy
Bát Quái.
Sự tích Long Mã
Theo sách Nho, Long Mã bề
cao 8 thước, năm tấc ( Thước Tàu ), xương cổ dài, chưn ngựa đầu rồng, trên mình
có vảy như rồng.
Kinh Dịch chép rằng : Long
Mã là vật linh : Kết hợp bởi 8 tinh túy của Thái Dương Hệ biến hiện dưới tầm
mắt của Vua Phục Hy là một vị chí Thánh, xem được các vật trong cõi vô hình,
thấy rõ Linh Vật của Trời Đất, mang chở những cái tinh anh của Thái Dương Hệ,
Rồng là một linh vật trong
số Tứ Linh : " Long, Lân, Qui, Phụng
", có đủ nơi mình tinh túy của Vũ Trụ. Ngựa là vật chở người và đồ vật
đi mau lẹ.
Tóm lại, Long Mã tượng
trưng Âm Dương tương hiệp, tức thời gian trôi qua mau lẹ và mang theo những
tinh túy của Trời Đất để chan rưới sự sống cho muôn loài vạn vật.
Vua Phục Hy sanh đời tối
cổ bên Tàu 4449 trước Tây Lịch, căn cứ theo đó mà phác học bản đồ " Tiên Thiên Bát Quái ".
Xuyên qua Tam Giáo chúng
tôi thấy sau :
a) Đạo Giáo : Đạo Đức Kinh chương một
nói rằng : " Vô danh Thiên Địa chi thủy ". Không tên là cái có trước
Trời Đất. Nay như hỏi cái " Vô danh " ra sao ? Đạo Đức Kinh chương 25
nói rằng : " Có cái tự nó hỗn luân
mà sanh thành lấy nó. Cái ấy sanh trước Trời Đất, yên lặng trống không, đứng
một mình mà chẳng nghiêng chẳng lệch, lưu hành khắp nơi mà chẳng mòn mỏi. Cái
ấy khá gọi là nguồn sanh hóa Thiên hạ, Ta không biết tên gì, song mượn chữ gọi
là Đạo ".
" Hữu vật hỗn thành,
Tiên Thiên địa sanh,
Tịch hề, liêu hề,
Độc lập nhi bất cải,
Châu hành nhi bất đãi;
Khả dĩ vi Thiên Hạ mẫu,
Ngô bất tri kỳ danh,
Tự chi vi Đạo.
b ) Nho Giáo: Chu Liêm Khê là người
Trung Hoa, sanh vào khoảng năm 1017-1073 nói rằng:
" VÔ CỰC nhi Thái Cực ".
Sở dĩ nói rằng : " Vô
Cực " mà Thái Cực là vì Thái Cực ở trong Vô Cực mà ra. ( Hữu sanh ư vô ).
Hoặc nói rõ là: Vô Cực là
cái bản thể vô vi tự tại, lặng lẽ bất biến, người ta dùng ngôn ngữ để mô tả thì
không nói rõ được, dùng trí phàm để ngẫm nghĩ, thì không ngẫm nghĩ nổi, nhưng
đứng về phương diện Dịch Lý thì gọi Vô Cực là Thái Cực là đầu mối sanh Âm
Dương.
c ) Phật Giáo : Phật Giáo gọi Đạo là
Chơn Như. Có câu nói rằng: " Chơn
Như giả Vũ Trụ chi bản thể, nải bất sanh, bất diệt, vô thủy, vô chung, bất
tăng, bất giảm ". Nghĩa là Chơn Như là bản thể của Vũ Trụ, chẳng sanh,
chẳng diệt, không trước, không sau, chẳng thêm, chẳng bớt. Tịnh thì gọi là Chơn
Như, Động thì hóa dục vạn vật ( Chư Pháp ).
Tóm lại : Khí Hư Vô, cái
Vô danh, Vô Cực, Chơn Như, danh từ tuy khác, nhưng tựu trung đều chỉ về một bản
thể " Không ".
Có điều nên lưu ý là: Tuy
nói Đạo là vô danh, vô hình, vô sắc, tức cái bản thể " Không ", nhưng cái bản thể " Không " ấy chẳng phải trống rổng mà nó lại là " Có " tức là cái " diệu hữu " là cái năng lực
sanh hóa, Đạo Đức Kinh chương 14 nói rằng :
Đạo có 3 trạng thái là :
Di, Hi, Vi.
" DI : Xem mà chẳng thấy nên gọi là Di
HI : Lóng mà chẳng nghe, nên gọi là Hi,
VI : Bắt mà chẳng nắm được, nên gọi là Vi ".
Di, Hi,Vi ba trạng thái
hỗn hợp, thành một bản thể. Cái bản thể ấy phía trên không phản chiếu ánh sáng,
phía dưới không ẩn khuất bóng tối,vằng vặc mà chẳng có tên, rồi lại trở về chỗ
không vật. Thật Đạo là hình trạng của cái vô hình, là tượng của cái vô vật.
( Thị chi bất biến
danh viết DI,
Thính chi bất văn
danh viết HI,
Bác chi bất đắc
danh viết VI,
Thử tam giả bất
khả tri cật,
Cố hỗn chi vi
nhứt,
Kỳ thượng bất
kiếu,
Kỳ hạ bất muội,
Thằng thằng bất
khả danh,
Phục qui ư vô vật,
Thị vị trạng chi
vô trạng ).
Tóm lại, nay như nói Đạo
là " Không " thì chẳng phải, còn như nói Đạo là " Có " thì
lại lầm, cho nên nói Đạo dường như có, dường như không, tức trong cái "
Không " có cái " Diệu hữu " là năng lực hay hóa sanh, sanh hóa.
Thái Cực, khi tỏ lên rồi,
Thái Cực cứ Tịnh và Động mà sanh Lượng Nghi. Nghĩa là Thái Cực khi Tịnh thì sanh
Khí Âm, tịnh hết sức rồi lại động, động thì sanh khí Dương. Thái Cực luân
chuyển một động, một tịnh mà sanh nhị khí Âm Dương.
Âm Dương có tánh tương
khắc mà lại tương hòa. Bởi tương khắc cho nên Âm Dương gặp nhau thì hỗn độn,
đến tột độ rồi lại điều hòa. Chính sự hỗn độn điều hòa của Âm Dương nhị khí là
Cơ định vị Trời Đất.
Theo sách Nho : Trong
lúcÂm Dương hỗn độn điều hòa, khí nhẹ thì bay lên cao thành Trời, khí nặng thì
chìm xuống thấp thành Đất. Cao thấp đã phân, tức Trời Đất đã định vị, rồi từ đó
về sau, Đạo lại biến hóa nữa mà hóa sanh muôn loài. Thời kỳ nầy gọi Hậu Thiên
Đại Đạo ( Đạo có sau Trời ) sẽ kể như sau :
HẬU THIÊN ĐẠI ĐẠO
Nhắc lại : Khi Trời Đất
phân ngôi cao thấp rồi, trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất. Khí Âm Dương
lại hỗn độn điều hòa nữa mà hóa sanh vạn vật. Đức Chí Tôn dạy rằng :
Thánh Ngôn : " Khi
tạo lập Càn Khôn Thế Giái rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : Vật
chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm gọi là chúng sanh. Vậy các con đủ hiểu rằng
: Mỗi vật hữu sanh nơi Thế gian nầy đều do Chơn Linh Thầy mà ra. Có sống ắt có
Thầy. Thầy là Cha sự sống, vì vậy nên lòng Háo sanh của Thầy là vô tận ".
Ở đây, Đạo Đức Kinh chương
1 nói rằng :
" Hữu danh vạn vật chi mẫu "
Chữ " Hữu danh " ám chỉ Trời Đất, có hình danh là nguồn hóa
vạn vật.
Kinh Dịch lại nói rằng :
" Thiên Địa nhơn luân,
Vạn vật hóa thuần, Nam Nữ cấu tinh,
Vạn vật hóa sanh ".
Nghĩa là Trời Đất ngui
ngút hóa thuần muôn vật. Vạn loại đến lượt nó, khi trưởng thành rồi, giống đực
và giống cái giao cấu mà sản xuất vạn vật.
Cơ hóa sanh vạn vật như
thế, cho nên không bao giờ cùng tận.
Chu Liêm Khê là người
Trung Hoa sanh vào khoảng năm 1017-1073 nói rằng :
Dương động thì biến hóa,
Âm tịnh thì tập hợp. Bởi sự biến hóa và sự tập hợp của Âm Dương nhị khí mà sanh
ra Ngũ hành (Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ). Cái Chơn của Vô Cực là Lý, cái Tánh của
Âm Dương Ngũ Hành là Khí. Lý và Khí diệu hợp mà quẻ Kiền sanh con trai, quẻ
Khôn sanh con gái.
Sự tích Hậu Thiên Bát Quái
Lạc Thơ là sách do sông
Lạc mà lập thành, nguyên Vua Võ, sanh lối 2206 trước Tây Lịch. Thỉ Tổ nhà Hạ,
khi nước lụt, người ta trấn nước ở bực sông Lạc, khi nước cạn, có một con Linh
Qui đội cầu, trên lưng có 9 số, Vua Võ theo đó mà sắp đặt thành họa đồ Hậu
Thiên Bát Quái.
Máy Huyền vi tức Đạo :
Nguyên Vạn vật do Đạo mà sanh nên gọi là xuất sanh. Vạn vật tử ở thế gian thì
về với Đạo, cho nên gọi nhập tử. Trong sách "
Cung Oán Ngâm Khúc " Ông Ôn Như Hầu nói rằng : " Máy Huyền vi mở đóng không lường " tức Đạo.
Âm Dương giao cảm ( Khí
hòa ) mà hóa sanh vạn vật. Nam Nữ giao cấu ( hình hòa ) mà sản xuất muôn loài.
(Thể theo Nho Giáo Trần
Trọng Kim )
Đây là đầu mối mà Vua Võ,
đời nhà Hạ bên Tàu sanh lối 2206 trước Tây Lịch, căn cứ để lập thành bản đồ Hậu
Thiên Bát Quái. ( Xem hình trang 88 )
Tóm lại : Tiên Thiên Bát
Quái vẽ tượng Âm Dương, như chúng ta thấy Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi
sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Bát Quái, nghĩa là số 1 biến ra số 2, số 2 biến
ra số 4 v.v . . . .
Hậu Thiên Bát Quái định số
Ngũ Hành, tức như nói rằng : Dương động thì biến hóa, Âm tịnh thì tập hợp; bởi
sự biến hóa và tập hợp của Âm Dương mà sanh Ngũ Hành ( Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ
).
Hai Bát Quái Tiên Thiên và
Hậu Thiên làm biểu lý nhau mà thành Dịch Lý của Vũ Trụ.
Dịch lý gồm có hai trạng
thái : Một trạng thái thì bàng bạc trên Hư không, một trạng thái nữa thì trường
lưu trong vạn vật. Một đàng phân tán, một đàng thu liễm, thành một đóng một mở
máy huyền vi ( 1 ) là nơi xuất sanh, nhập tử muôn loài, vạn vật. Kinh Dịch nói
rằng :
" Nhứt hạp, nhứt tịch vi chi biến hóa,
Vãng lai bất cùng vị chi Đạo ".
Nghĩa là một đóng, một mở
gọi là biến hóa; qua lại, lại qua không cùng gọi là Đạo.
Đạo biến hóa vận hành như
thế, cho nên có một hôm Đức Khổng Phu Tử đứng trên bờ sông ngắm nước chảy mà
than rằng :
" Thệ giả như tư phù,
bất xá trú dạ ".
Nghĩa là ngày đêm cuồn
cuộn chảy như thế nầy ư ! ?
Đại ý nói rằng : Dịch lý
luôn luôn chuyển vận không ngừng, cũng như nước sông chảy đi kia vậy. Thời tiết
theo đó mà vần xoay; hết Xuân Hạ thì tới Thu Đông, vạn vật theo đó mà sanh
thành trưởng dưỡng, già chết rồi tái sanh nữa.
Giả sử : Nước chịu hơi
nóng Thái Dương, nước thoát lên không gian làm mây; mây tan rã xuống trần gian
thành nước. Còn như những vật hóa sanh như : Lá cây biến thành sâu, củ cỏ biến
thành dế, chuột biến thành dơi, lươn biến thành chồn v.v . . . .Biết đâu những
vật nầy còn biến hóa thế nào nữa, nhưng chúng tôi không biết được.
Chúng ta thử tạm dùng hột
lúa là vật có hình chất, để minh chứng sự thay đổi của vạn vật.
Thoạt kỳ Thủy, Âm Dương
vận hành, một đơn cử xuất phát, lưu hành trong Vũ Trụ mà nương theo Luật "
Đồng khí tương cầu " cấu sanh hình thể hột lúa thế nào thì chúng ta không
biết, nhưng khi hột lúa có đủ thể chất rồi. nó cũng vẫn còn thay đổi nữa.
Đại để như : Hột lúa được
gieo xuống đất thì nó nương theo Tứ Đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) mà biến thành
cây mạ. Cây mạ khi được cấy xuống ruộng thì cây mạ biến thành cây lúa, đến lượt
cây lúa đơm bông trổ hột lúa khác. Nếu hột lúa mới nầy được gieo nữa thì nó
cũng thay đổi như hột lúa trước. Có điều lạ là : Khi hình thể nầy biến ra hình
thể khác thì cái nguyên thể của nó không còn nữa. Như hoa thành trái thì hoa
tàn, trái thành cây thành thì trái hoại. Đó là bởi vật nầy ăn sâu vào vật nọ,
thành thử, chúng nó sanh ở đây thì tử ở kia.
Vạn vật theo cơ tuần hoàn
của Trời Đất mà diễn tiến rất mau lẹ. Giác quan chập chạp của chúng ta chưa kịp
nhận định trạng thái nầy thì nó đã biến sang trạng thái khác. Nhưng lúc nào vạn
vật cũng phải theo Đạo mà sanh tồn thì mới sống và tấn hóa, cho nên Đạo Đức
Kinh chương 39 nói rằng :
" Thiên đắc nhứt dĩ thanh,
Địa đắc nhứt dĩ ninh,
Thần đắc nhứt dĩ linh,
Vạn vật đắc nhứt dĩ sinh,
Kỳ tri nhi nhứt giả,
Thiên vô dĩ vi thanh, tương khủng liệt,
Địa vô dĩ vi ninh, tương khủng phế,
Thần vô dĩ vi linh, tương khủng liệt,
Vạn vật vô dĩ vi sinh, tương khủng diệt ".
Nghĩa là : Trời đặng Một
(Đạo) thì trong sáng, Đất đặng Một thì yên lặng, Thần đặng Một thì Linh Thiêng,
muôn loài đặng Một thì sanh tồn. Đến như số Một (Đạo) nói đây, nếu : Trời chẳng
đặng nó để làm cơ sở trong sáng thì e Trời phải vỡ, Đất chẳng đặng nó để làm cơ
sở yên lặng thì e Đất phải lở, Thần chẳng đặng nó để làm cơ sở linh thì e Thần
phải tản, muôn loài chẳng đặng nó để làm cơ sở sanh tồn thì e muôn loài phải
dứt.
Thế đủ hiểu rằng người ta
phải theo Đạo mà sanh sống và Tấn hóa đến chỗ Chơn Thiên Mỹ. Trái lại thì người
ta phải dứt.
Hai chương " Thượng Thừa, Hạ Thừa " sau
đây giảng giải phương pháp thông đạt Đạo, nhưng, chúng tôi xin nghị luận Thiên
Triều, Luật Nhơn Quả và Luân Hồi trước, rồi sau sẽ bàn đến pháp môn tu tập.
QUAN NIỆM THIÊN TRIỀU
Chúng ta trông thấy Vũ Trụ
bao la : Trên có Trời che, dưới có Đất chở, ở giữa có sơn xuyên, thảo mộc, cầm
thú và người ta. Mỗi mỗi đều an bày một cách trang nghiêm huyền nhiệm. Nếu suy
diễn nữa, chúng ta tin tưởng rằng phía sau Thế Giới vạn hữu còn có một Thế Giới
huyền linh nữa. Thống trị Thế giới huyền linh là Đức Thái Cực Thánh Hoàng và
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ trì. Triều của Thượng Đế, chúng ta tạm gọi là
Thiên Triều :
Thánh Ngôn của Bà Bát
Nương :
" Trong Vũ Trụ bao la, không gian ở trên là
Thượng tầng Bí Pháp của quyền năng Thiêng Liêng Đức Chí Tôn vi chủ; Thần,
Thánh, Tiên, Phậ hộ trì, Thời Gian ở dưới có đủ khí chất để tạo dựng Thế giới
hữu vi và vật chất hữu hình. Phép mầu nhiệm ấy do quyền năng tuyệt đối của Đức
Chí Tôn vận chuyển, khiến cho Không Gian phối hợp với Thời Gian thành cơ huyền
nhiệm tạo lập Càn Khôn, hóa sanh vạn vật và Đức Chí Tôn còn hiệp lập Thiên Thơ
định thành Thiên Điều là Pháp Luật Thống Trị Càn Khôn Vạn Vật ".:
THIÊN CUNG
1. Tân tả Bạch Ngọc Kinh
Một tòa Thiên Các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Thiên Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề sao.
( Thánh Ngôn )
2. Ngọc Hư Cung : Ngọc Hư Cung sẵn có
Thiên Điều là luật thưởng phạt Bát Hồn (Bát hồn là : Vật chất Hồn, Thảo Mộc
Hồn, Thú Cầm Hồn, Nhơn Hồn, Thần Hồn, Thánh Hồn, Tiên Hồn, Phật Hồn) , Ngôi
hành pháp là Linh Tiêu Điện, có đủ oai linh của Thái Cực Thánh Hoàng ban bố, để
giữ vững máy hành tàng Đạo vô vi
Luật tấn hóa của Bát Hồn
do quyền năng vô đối của Chí Tôn phán định. Chơn Pháp ấy vận hành từ vô vi ra
hữu tướng, từ hữu tướng trở lại vô vi, mỗi đều căn cứ vào :
Hư vô là chuẩn đích.
Vận chuyển là hành tàng.
Điều hòa là phương pháp.
Chơn chánh là phương định.
ĐỨC THƯỢNG ĐẾ
Theo lẽ thường, trông thấy
một tòa nhà nguy nga, đồ sộ, chúng ta liên tưởng đến vị Kiến Trúc Sư phát họa,
tao tác nó. Trông thấy đứa bé ngộ nghĩnh, chúng ta nghĩ đến cha mẹ nó. Cũng như
trông thấy Vũ Trụ bao la: Trên có Trời, dưới có Đất, giữa có sơn xuyên cẩm tú,
thảo mộc muôn màu, ngắm đến vạn vật có thiên hình, vạn trạng khác nhau, nhưng
mỗi mỗi đều an bày với một cách vô cùng tuyệt xảo; trông thấy Vũ Trụ vạn vật
như thế, ắt chúng ta nghĩ đến Đấng Tạo Hóa, mà Nho Giáo sùng bái với danh hiệu
Thượng Đế. Mời quý Ngài cùng chúng tôi tham cứu như sau :
Tham khảo kinh điển :
Bà-La môn giáo giảng cái thuyết Tam Vị nhứt thể :
Brahma : Hóa công.
Vishmou : Thành
tựu.
Shiva : Hủy diệt.
Đạo Giáo giảng cái thuyết
Ứng hóa Tam Thanh :
Thái Thanh.
Thượng Thanh.
Ngọc Thanh.
Đó là chỉ vào một Đức
Thượng Đế Ứng Hóa Ba Ngôi.
Tham khảo lễ nghi : Tôn giáo nào cũng có
sùng bái một Đấng Cao cả hơn hết, nhưng mỗi Tôn Giáo, tùy cách lập giáo, và tùy
ngôn ngữ của Dân tộc mà xưng tụng một danh hiệu riêng như : Phật giáo Đại Thừa
thờ Đức A-Di-Đà-Phật, tức đức Phật sanh trước muôn vàn Đức Phật khác.
Đạo Giáo thờ Đức Thái
Thượng Đạo Tổ, tức Đấng tối cao vô thượng.
Nho giáo thờ Đức Thượng
Đế.
Vốn có một Đức Chí Tôn,
nhưng sùng bái với nhiều danh hiệu. Nay khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn
tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, tức là danh hiệu qui nguyên Tam
Giáo, như chúng tôi đã giải trong mấy chương trước.
Tham cứu thực tế : Người thế gian chưa mấy
ai nghe Trời nói, chưa mấy ai trông thấy Thiên Thể của Đức Chí Tôn. Nhưng, mỗi
khi lâm tai nạn thì ai cũng kêu Trời cầu cứu. Vậy lòng tín ngưỡng đã có từ ngàn
xưa.
Rất may cho nhơn loại,
ngày nay Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Tiên gia khai mở mối Đạo Trời, mà Đức Ngài
cầm quyền Thiêng Liêng Chưởng Giáo, nhờ sự linh ứng của phép phò cơ, chấp bút
mà chúng ta suy diễn đến Đấng Tối cao vô thượng với một cách rõ ràng hơn ngày
trước. ( Xem lại chương tiểu sử Đại Đạo )
Chúng tôi xin trích trong
sách Phật một chuyện cha con của người kia học hỏi chơn lý như sau, âu cũng
giúp thêm một tia ánh sáng :
Người con xin cha
dạy chơn lý.
Người cha nói :
Con lấy một nắm muối bỏ vào chậu nước, hôm sau con trở lại xem.
Người con làm theo
lời cha.
Hôm sau người cha
bảo :
Muối mà bỏ vào
nước hôm qua, con hãy mang lại đây cha xem.
Bây giờ, người con
vớt mãi mà không thấy muối, vì muối đã tan và hòa trong nước rồi.
Người cha bảo : Con hãy
nếm nước trong chậu, nếm nước trên mặt, nếm nước ở giữa, xem như thế nào ?
Thưa cha mặn và
vẫn mặn.
Con nếm cho thật
kỷ rồi lại đây cha bảo.
Người con nếm đi
nếm lại rồi thưa :
Thưa cha, vẫn mặn.
Người cha trịnh trọng nói
: Thế đó con ạ! Con không phân biệt được cái Thực thể tinh vi tạo dựng Vũ Trụ,
sanh hóa muôn loài, vì nó đã hòa hợp với thế giới vạn hữu, cũng như muối hòa
hợp với nước kia vậy.
Cây chuyện nầy đại ý cũng
như Thánh Ngôn Đức Chí Tôn nói rằng : "
Các con đủ hiểu : Mỗi vật hữu sanh nơi thế gian nầy đều do Chơn linh Thầy mà
ra. Có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha sự sống."
Kinh Upanishads nói rằng :
Tất cả cái gì ở thế gian đều có Thượng Đế bao bọc. Cái Thực thể ấy là nguồn
sống tràn ngập cả Vũ Trụ : Từ các vì Tinh Tú, các Quả Địa cầu hình thành trong
vòng trật tự cho đến các loài động vật, mỗi mỗi đều nương nhờ nguồn sống ấy mà
sanh tồn và tấn hóa.
Vậy mỗi người trong chúng
ta, ai ai cũng đều có sự sống ở trong mình, mà sự sống thì trông không thấy,
lóng không nghe, rờ không đụng. Như thế thì chúng ta chẳng lẽ chúng ta phủ nhận
sự sống của mình sao ? Sự hiện hữu của Đức Thượng Đế cũng vậy. Nghĩa là : Chẳng
lẽ vì trông không thấy, lóng không nghe, rờ không đụng, mà chúng ta cho là
không có Thượng Đế sao ?
Có điều khó cho Thế nhơn
là Đức Chí Tôn ngự trị trên cõi siêu nhiên, cảm quan của người ta không đến được,
làm cho người đời bánn tín bán nghi. Trái lại, các nhà chơn tu nhờ lòng tín
ngưỡng dẫn họ đến trước Thượng Đế, với một cách rõ ràng.
LUẬT NHƠN QUẢ
Nhơn chỉ về hạt giống, Quả
chỉ về trái mới sanh. Tóm lại, Nhơn Quả có nghĩa đen là gieo giống nào thì hái
trái ấy. Đây Nhơn Quả có nghĩa bóng là làm lành thi phước trả lại, làm dữ thì
họa đến không sai. Sự báo ứng lành dữ y như gieo giống nào thì hái gặt trái ấy
kia vậy. Kinh Phật thường lấy việc trồng dưa, trồng đậu làm tỷ dụ với Luật báo
ứng, cho nên có câu : " Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu ".
Chúng tôi xin phân tách
việc trồng đậu như sau, để nương đó mà nhận thức Luật Nhơn Quả đối với kiếp
người.
Hột đậu gieo xuống đất là Nhơn.
Đất, Nước, Gió và
Hơi nóng mặt trời là Duyên.
Trái đậu mới sanh
là Quả.
Nhơn, Duyên, Quả
là ba yếu tố sanh hóa vạn loại.
Nay chúng ta nương theo
cách trồng đậu, để nhận xét Luật Nhơn Quả đối với kiếp người thì chúng ta hiểu
rằng : Tư tưởng , lời nói, cách hành vi của người, sau khi tác động rồi còn lưu
lại một diển ảnh trong không gian đó là Nhơn.
Tinh thần của Vũ
Trụ là Duyên.
Phước họa trả lại
cho người là Quả.
Vậy những điều phước họa,
bây giờ là cái kết quả của sự hành vi trước, còn về hành động bây giờ sẽ làm
Nhơn cho ngày sau, hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc trong kiếp vị lai. Theo lẽ
nầy mà suy ra : Kiếp hiện tại vừa trả Quả cho kiếp quá khứ vừa tạo Nhơn cho
kiếp vị lai và như thế rồi Nhơn kia Quả nọ, Quả nọ Nhơn kia, nối liền nhau
thành một sợi dây duyên nghiệp ràng buộc chúng sanh trong bánh xe Luân Hồi
không lối ra, nếu người ta không giác ngộ.
LUẬT LUÂN HỒI
Luân hồi nghĩa là xoay
chuyển mãi, cũng như bánh xe lăn qua rồi lăn qua nữa không lúc lào ngừng.Về Đạo
pháp, chữ Luân hồi chỉ về mặt chuyển kiếp của chúng sanh, như kiếp nầy làm
người, kiếp tới làm Tiên Phật hay Ngạ quỉ, hay xúc sanh. Tấn hóa hay thối hóa
đều do sở hành của người mà ra.
Đức Chí Tôn dạy : " Các con sanh trưởng nơi Thế gian nầy,
khi tử hậu các con đi đâu ? Chẳng có một đứa hiểu cơ mầu nhiệm ấy. Thầy nói :
Cả kiếp Luân Hồi của chúng sanh, thay đổi từ vật chất ra thảo mộc, từ Thảo Mộc
ra Côn Trùng, từ Côn Trùng ra Thú Cầm, loài người phải chuyển kiếp ngàn ngàn
muôn muôn lần mới đến địa vị Nhơn Phẩm.
Nhơn Phẩm chia ra làm nhiều hạng, bậc Đế Vương nơi Địa
Cầu nầy chưa bằng bực chót Nhơn phẩm Địa Cầu 67, số Địa Cầu càng tăng lên; Nhơn
Phẩm càng cao trọng. Mãi đến Đệ Nhứt Địa Cầu, Tam Thiên Thế Giới, rồi mới đến
Tứ Đại Bộ Châu, rồi mới vào Tam Thập Lục Thiên; qua Tam Thập Lục Thiên rồi còn
phải chuuyển kiếp tu nửa mới vào Bạch Ngọc Kinh, Phật gọi Niết Bàn.
Một kẻ kia, tuy chưa có chơn trong Tôn Giáo, song đã
làm tròn Nhơn Đạo, tức làm xong bổn phận làm người, thì buổi chung qui cứ theo
nấc trên mà tiến lần. Trên đường về Thầy, các con thử nghĩ ngày nào mới đến ?
Vì vậy, nên Thầy ban cho nhơn loại một quyền hành rất rộng. Nếu các con sớm
tỉnh ngộ thì một đời tu cũng có thể trở về cùng Thầy. Nhưng tiếc thay ! Thầy
chưa từng thấy kẻ ấy ".
Riêng về kiếp luân hồi của
cá nhơn, chúng tôi xin nghị luận như sau : Vả lại, mỗi người trong chúng ta đều
có ba xác thân :
1. Đệ nhứt xác
thân, tức Phàm Thể.
2. Đệ nhị xác
thân, tức Chơn Thần.
3. Đệ tam xác
thân, tức Chơn Linh.
1. Luân hồi của phàm thể : Cả Cơ chuyển sanh, biến
kiếp đều do khí Âm Dương, Ngũ Hành diệu hợp mà nên thể chất và trưởng thành, nghĩa
là từ buổi thành hình trong bào thai đến khi ra đời và nên vai nên vóc, lúc nào
cũng nhờ khí Âm Dương, Ngũ Hành sanh dục, trưởng dưỡng đến mãn kỳ sanh thọ thì
thể xác tiêu tan. Lúc bấy giờ, Tứ Đại ( Địa, Thủy, Hỏa, Phong ) hườn nguyên về
bản chất tự nhiên của nó, để rồi chuyển hóa hình hài khác nữa.
Vậy Nhơn thân vốn tạm khí
chất của Vũ trụ cấu sanh, cho nên người ta phải vay nợ của Âm Dương, Ngũ hành
gọi là nợ tiền khiên. Luật Nhơn quả đã định cơ vay trả ấy, dầu người nào muốn
phủ nhận cũng không chối được. Nhơn quả là nguyên nhân sanh kiếp Luân hồi. Ấy
vậy, nên hễ muốn giải thoát kiếp sanh tử thì phải thanh toán mối nợ tiền khiên
ấy.
2. Luân Hồi của Chơn Thần
Thánh Ngôn năm Mậu Thìn (
1928 )
" Thầy nói : Chơn Thần là Đệ Nhị xác thân của các
con, là khí chất ( Sperme évaporé ) bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy.
Trung tim nó là Óc, cửa ra vào là mỏ ác chữ gọi Vi Hộ; nơi ấy, Hộ Pháp hằng
đứng gìn giữ Chơn Linh các con khi luyện Đạo, đặng giúp cho Tinh hiệp với Khí
và đưa Khí đến Thần. Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt thì mới siêu phàm nhập Thánh
".
Phận sự của Đệ Nhị xác
thân là dìu dẫn nhục thân hành động theo Thiên Lý. Trong kiếp hiện tại, nếu
Chơn thần làm chủ Nhục thân khiến cho phàm thể hành động theo Chơn pháp thì
chung qui Chơn thần sẽ được hiệp với Chơn linh, tạo thành một khí thể Vô Vi,
chẵng những khi tử hậu được siêu thoát cõi trần mà lúc sanh tiền cũng có thể
xuất ngoại. vân du trong cõi Ta bà nữa, người tu đến đây gọi là Đắc Đạo.
Trái lại, nếu trong kiếp
hiện tại, Chơn thần không làm chủ Nhục thân để cho Đệ Nhứt xác thân buônglung
theo phàm trần, phóng túng theo vật chất gây nên tội tình ác nghiệt thì khi
nhục thân tiêu tan dưới mồ, Chơn thần phải thọ lãnh tội nghiệp ấy mà chuyển
sanh kiếp khác, để rồi tạo dựng một nhục thân thô kịck thấp hèn hơn; đó gọi
thối hóa. Vậy chúng sanh sở dĩ siêu hay đọa là tại Chơn thần một phần lớn.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét